Chua Lam Nguoi De Nguoi Lam Chua

  • Uploaded by: VSL Regional Vicariate
  • 0
  • 0
  • June 2020
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Chua Lam Nguoi De Nguoi Lam Chua as PDF for free.

More details

  • Words: 9,248
  • Pages: 12
CHÚA LÀM NGƯỜI ĐỂ NGƯỜI LÀM CHÚA - NHƯ CHÚA ĐÃ LÀM NGƯỜI Thiện Cẩm OP.

Thánh Irénée đã nói về Đức Kitô rằng : "Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người". Đó không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong Con Thiên Chúa nhập thể sao? Về sau, Clément (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) đã làm biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết : "Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa". Trong bài giảng về người anh mình là Césare, Grégoire đã nói : "Tôi phải được chôn cùng với Đức Kitô, tôi phải trở thành con Thiên Chúa, tôi phải trở thành Thiên Chúa" (Oratio 7,23). Một vài tác giả tu đức đã nối gót theo khi bảo rằng người tín hữu nào sống đạo đều phải "đánh mất bản thân mình trong Chúa như giọt nước tan trong biển". Nhà thần học Karl Rahner, trong bộ sách thần học của ông, "Mysterium Salutis", đã viết : "Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa", để con người trở thành con Thiên Chúa – với món quà tuyệt vời: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa..." ( 2 Pt 1, 4). CHÚA LÀM NGƯỜI Lời đã làm người, và trong suốt ba mươi năm trước khi công khai loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã chỉ làm người, giống như mọi người trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, và sống như mọi người. Trong khi người Do thái chờ đợi một Đấng Kitô, mà họ nghĩ rằng phải là Đấng bí mật, khác người, “chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7,27), thì Đức Kitô lại đến như một người bình thường, ai cũng biết cả khi họ chỉ thấy một “bác thợ, con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê, Gioxê, Giuđa và Simon” (Mc 6,3). Vì thế Máccô nói : “Và họ vấp ngã vì Người” (id). Vấp ngã theo nghĩa là họ lấy làm chướng, không thể chấp nhận một con người tầm thường như thế mà lại có thể là Đấng Kitô. Phản ứng của người Do thái xưa kể cũng dễ hiểu. Thiên hạ không tự nhiên tìm đến và hoan hô, và càng không thể tin tưởng vào một người mà mình thấy quá tầm thương, lý lịch chẳng có gì vượt trội : không học hành gì (Ga 7,15), chẳng tiếng tăm, tài giỏi, cũng chẳng có địa vị hay giàu sang. Người ta kể lại rằng lần đầu tiên Thánh Gandhi được mời sang Anh Quốc, với tư cách là nhà lãnh đạo tinh thần vĩ đại của An độ, Mahâtma, ông đã bị nhiều người dân Anh lấy làm chướng tai gai mắt, khi thấy ông chỉ mang vỏn vẹn một cái khố quấn ngang hông ! Một người tiếng tăm lừng lẫy như thế mà còn bị coi khinh, chỉ vì không chịu ăn mặc sang trọng, phương chi là bác thợ Giêsu ở Nadarét ! Xưa nay trong lịch sử các tôn giáo, người ta luôn luôn muốn cho các thần linh phải thật uy nghi sáng láng, cao sang vĩ đại, nên mặc cho các tượng thần những áo mão dát vàng, đính kim cương, và đặt ngự trên những ngai vàng, những toà cao, bệ thờ, với đèn hoa sáng rực… Còn các vua chúa và những người lãnh đạo các dân các nước thì phải ăn mặc sang trọng hơn người. Thậm chí đến các tộc trưởng hay tù trưởng của những bộ lạc bán khai, cũng trang điểm cho mình những chiếc lông chim quí hiếm trên mũ đội đầu, để chứng tỏ quyền uy của mình. Nhưng Đức Giêsu thì chỉ làm người như mọi người, không tìm cách sống khác ai. Chính Người đã nói về mình: “Ong Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo : „Ong ta bị quỉ ám‟. Con người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo : „Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phương tội lỗi.” (Lc 7,33-34). Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn là một người thích đi hết làng này đến làng khác, thành này đến thành nọ (x.Lc 4,43; 8,1), lang thang không có chỗ tựa đầu (x.Lc 9,58) ĐỂ NGƯỜI LÀM CHÚA.

Chúa làm người để người làm Chúa. Đây không phải là chuyện phạm thượng hay chuyện kiêu ngạo nhưng chuyện thật của những người đã một lần hoán cải biến đổi làm đảo lộn cuộc sống để có thể nói được “Không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Đây là chuyện của những con người bị chiếm đoạt, bị nắm bắt (Pl 3,12) ; chuyện của những con người có lòng tin sâu xa, của các nhà thần bí, của những con người chiêm niệm thật sự. Đặc biệt khi ta rước Mình và Máu Đức Kitô thì Mình Máu Người tan chảy và luân lưu trong máu thịt của ta. Đến nỗi có ta thể nói được là Chúa trở nên ta, ta trở nên Chúa (hai trong một), Nhưng còn ta có sống như Chúa đã làm người không ? Đấy mới là vấn đề. NHƯ CHÚA ĐÃ LÀM NGƯỜI “Anh em gọi Thầy là „Thầy‟, là „Chúa‟, điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa. là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.” (Ga 13,13-14). Đó là những lời rõ ràng và đầy đủ nhất cho thấy lập trường và thái độ của Đức Giêsu : Người ý thức rõ rệt mình là Chúa, là Thầy, những không xử sự như một vị Chúa hay một bậc thầy, mà lại như một người tôi tớ. Nếu Đức Giêsu làm người, nhưng vẫn đóng vai trò Chúa và Thầy, bắt mọi người phải tôn kính, hầu hạ và vâng phục tuyệt đối, thì đó là chuyện bình thường, và sẽ chẳng có ai thắc mắc hay lên tiếng phản đối. Bởi vì như chúng ta vừa trích dẫn trên đây, Đức Giêsu nhận xét : “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân.” (Lc 22,25). Ngày nay chúng ta thường xử dụng động từ “phục vụ” thay thế cho động từ “hầu hạ” : vua quan, nhà lãnh đạo “phục vụ” nhân dân, và nhân dân “phục vụ” nhà nước, phục vụ các nhà lãnh đạo. Nghe thì có vẻ dân chủ thật đấy, nhưng thực tế thì “con vua thì lại làm vua, con sãi chùa thì quét lá đa” : người đầy tớ “phục vụ” theo cung cách hầu hạ, còn người làm vua quan, làm nhà lãnh đạo thì “phục vụ” theo cung cách “chỉ tay năm ngón” ! Người đầy tớ thì nấu nướng, quét nhà, giặt ủi quần áo cho chủ ; còn chủ thì khá lắm có thể đôi khi tự nấu nướng, quét nhà, giặt ủi quần áo cho mình, nhưng không bao giờ làm những công việc ấy cho người đầy tớ ! Khi Đức Giêsu quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Người đã thực sự làm công việc của người đầy tớ đối với chủ. Vậy nếu như Người đã nói với các môn đệ : “Vậy, nếu Thầy là là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”“vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7) thánh Phaolô đã khẳng định gần 2000 năm rồi, không cần phải nhấn mạnh thêm. (Ga 13,14-15), nếu như vậy, thì không những chúng ta phải nói rằng, ngày nay, người Kitô hữu nói chung, và các người có chức vụ trong Giáo hội nói riêng phải “làm chúa” như Chúa đã làm tôi, nghĩa là hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28). Chuyện Đức Giêsu Kitô Ngày nay, trong thời đại dân chủ, có lẽ Chúa cũng chẳng đòi hỏi chúng ta phải làm nô lệ để hầu hạ ai, nhưng điều chắc chắn, là Người không thể chấp nhận thái độ quan liêu phong kiến, cung cách thống trị như vua chúa của những người trong Giáo hội. Nói thế không có nghĩa là Người muốn dẹp bỏ quyền bính, và muốn cho Giáo hội của Người thành một nhóm người sống vô tổ chức. Trái lại, chính Người đã lập ra Hội Thánh, và trao quyền lãnh đạo Hội Thánh của Người cho ông Phêrô (x.Mt 16.18-19), chỉ khác có một điều, là Người xác định rõ cách thức mà các môn đệ phải thi hành quyền bính, đó là phải hầu hạ mọi người : kẻ làm đầu phải hầu thiên hạ (x. Mc 9, 235; Lc 22,25-27). Đức Giêsu không thay đổi những mối tương quan gia đình, xã hội; Người cũng không chủ trương xoá bỏ mọi trật tự thiên nhiên và bình thường trong xã hội, cho nên cha mẹ vẫn là cha mẹ, con cái vẫn là con cái; vua vẫn là vua, người lãnh đạo vẫn là người lãnh đạo, và người dân vẫn là dân, không có chuyện thay ngôi đổi chủ, chỉ khác một

điều là cha mẹ không nên lấy quyền, mà thống trị con cái, nhưng là lấy tình thương mà phục vụ chúng. Lời thánh Phêrô nhắn nhủ các bậc kỳ mục có thể áp dụng cho tất cả những ai làm cha làm mẹ, hay người lãnh đạo : “Đừng lấy quyến mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.” (1 Pr 5,3). Thánh Phaolô còn lấy tinh thần của Chúa Kitô mà biến đổi cả bản chất của mối tương quan giữa ông chủ và người nô lệ, khi gửi trả lại Onêximô cho Philêmôn, với những lời dặn dò : “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.” (Plm 15-17). Đáng lẽ Phaolô phải nói : “Xin anh đón nhận anh ấy như đón nhận chính Chúa Kitô” ! Điều tuyệt vời trong cái nhìn Kitô giáo là ở chỗ ấy : trong Chúa Kitô, không còn có Do thái hay Hy lạp, chủ, tớ, kẻ thống trị với người bị trị, mà chỉ còn là những người anh em (x.Gl 3,28), và mọi người đón nhận và yêu thương nhau như đón nhận và yêu thương chính Chúa Kitô. NHƯNG CON NGƯỜI LẠI BẮT CHÚA PHẢI GIỐNG NHƯ MÌNH. Kể từ khi con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x.St 1,27), thì sau đó, qua mọi thời và mọi nơi, qua mọi tôn giáo, con người không ngừng nắn đúc, tạc, đẽo hay vẽ Thiên Chúa giống hình ảnh của chính mình ! Trong Cựu ước, ngay trong những câu chuyện như Cain và Abel (St 4,1 tt), người ta đã tả Thiên Chúa y như một con người với đầy đủ thất tình lục dục: Thihên Chúa là một Đấng bất công, vì thích thịt mỡ nên đoái nhận của lễ Abel dâng tiến, mà chê không nhận của lễ Cain dâng, là hoa màu ruộng đất ! Cain làm ruộng thì chỉ có thể dâng những gì do tay mình làm ra, anh ta có làm điều gì mất lòng Chúa đâu ! Trong truyện hồng thủy (St 6-8), chúng ta đọc thấy Thiên Chúa hối hận vì đã dựng nên con người, trong khi mà trong chương 1, câu 31 nói : Thiên Chúa thấy mọi sự người đã dựng nên là rất tốt đẹp, và đặc biệt là Người đã chúc phúc cho con người (x.St 1,28). Vậy mà rồi Thiên Chúa đã giận dữ tiêu diệt cả loài người, nhưng sau đó, chỉ vì ngửi thấy mùi thơm ngon của thịt mỡ ông Nôê dâng lên, lại hứa không bao giờ làm lại điều vừa mới làm, là tiêu diệt mọi sinh vật (St 8,21). Hoá ra Thiên Chúa chẳng phải đã trở nên bất nhất, hơi tí thì giận dỗi, nhưng cũng rất thay lòng đổi dạ chỉ vì chút thịt mỡ dâng lên ? Mà thử hỏi Thiên Chúa sao lại có thể ăn hay ngửi được mùi thịt mỡ ? Chẳng qua là con người đã “suy bụng ta ra bụng Chúa” đó thôi. Thay vì cố gắng làm sao phản ánh được hình ảnh Thiên Chúa, con người lại không ngừng bắt Thiên Chúa phải giống như mình, nghĩa là có những đặc tính xấu xa, như giận dỗi, thiên vị, độc ác, tham ăn vv, ! Trên lý thuyết, thì đa số người Công giáo chúng ta đều biết rằng Cựu ước chỉ là hình bóng của Tân ước, do đó hình ảnh Thiên Chúa được tả trong đó không đương nhiên trung thực so với Thiên Chúa là Cha, mà Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta. Tuy nhiên, có khi vì lười biếng không chịu suy nghĩ, hay vì thói quen, chúng ta thường đồng hoá dễ dàng mọi hình ảnh Thiên Chúa của Cựu ước với Thiên Chúa Cha của Đức Giêsu. Vì thế chúng ta có thể “vô tư” cầu nguyện với những câu Thánh vịnh như : “Lạy Chúa, xin nhớ lại ngày Giêrusalem thất thủ, để trừng phạt con cái Ê-đom.

Ngày ấy chúng reo hò ; Phá nó đi, cho bình địa.” Gái Babylon hỡi, đồ trời tru đất diệt ! Phúc thay người xử với mi Như mi đã xử với ta ! Phúc thay người bắt những con thơ của mi Mà đem đập đầu vào đá.” (Tv 136,7-9) Những câu Thánh vịnh tương tự như vậy vẫn còn được đọc trong Phụng vụ mãi cho đến Công đồng Vaticanô II, sau đó mới bị cắt bỏ. Hồi còn là chủng sinh, tôi thắc mắc hỏi các đấng rằng : Chúa dạy chúng ta phải yêu thương tha thứ cho kẻ thù, thế tại sao Giáo hội lại nguyền rủa quân thù một cách độc ác như vậy ? Có đấng giải thích cho tôi rằng đó không phải là lời của Giáo hội, nhưng là Đức Giêsu nguyền rủa quân thù ! Lời giải thích càng làm cho tôi thắc mắc thêm, vì Đức Giêsu có coi ai là thù địch bao giờ ? Còn như ngay cả hiện tại, sau khi đã cắt bỏ những câu Kinh Thánh có tính phản Kitô giáo, chúng ta vẫn còn đọc được trong Phụng vụ những câu rơi rớt còn sót lại, mà nếu đặt vào trong bối cảnh của Tin Mừng, thì khó có thể chấp nhận, chẳng hạn như chúng ta đọc trong Thánh vịnh 135,10: “Người sát hại các con đầu lòng của Ai cập. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” Quả thật, nếu là dân Do thái, thì lời cầu nguyện đó rất “hợp tình hợp lý”, rất chính thống vì phù hợp với quan niệm về Thiên Chúa của họ, bởi vì Thiên Chúa của Cựu ước vốn là một Thiên Chúa thiên vị, chỉ chọn có một mình dân Do thái, phù trì, bênh đỡ một mình họ, mà ghét bỏ, loại trừ các dân khác. Thiên Chúa của người Do thái Cựu ước là Thiên Chúa phụcthù báo oán, nên họ mới cầu xin Chúa : “Lạy Chúa, kẻ láng giềng chúng con đã lăng nhục Chúa, xin trả báo cho bản thân chúng đến bảy lần.” (Tv 78,12), không những thế, họ còn cầu xin Chúa khai trừ khỏi dương gian hết mọi thù địch của họ (Tv 16,14), phanh thây chúng làm mồi cho muông sói (Tv 62,11)… Nhưng Thiên Chúa của Đức Giêsu không giống như Thiên Chúa thời Cựu Ước. Người là Cha nhân từ (x.Lc 6,36), vì thế Người yêu thương tất cả mọi người, và “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 6,45). Khi so sánh đoạn sách ngôn sứ Isaia (61,1-2) mà Đức Giêsu trích dẫn, trong Tin Mừng của Luca (4.18-19), chúng ta để ý thấy Đức Giêsu ngừng ở câu : “công bố một năm hồng ân của Đức Chúa”, trong khi đó, nguyên văn Is 61, 2 còn thêm câu: “một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta.” Cái nhìn phổ cập, nếu có, của một ngôn sứ như Isaia, thì cũng vẫn còn là về một thế giới được qui tụ về đền thờ trên núi thánh Giêrusalem, bởi vì chính “từ Xion, thánh luật ban xuống, từ Giêrusalem, lời Chúa phán truyền.” (Is 2,3), chính tại Giêrusalem mà Thiên Chúa sẽ “đứng làm trọng tại giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc.” (2,4). Còn đối với Đức Giêsu, thì Thiên Chúa không còn là Đấng bị đóng khung trong đền thờ hay trên núi Xion : Người là Thiên Chúa của mọi dân mọi nước, chứ không còn của riêng một dân tộc nào, cho dù là Israel. Vì thế, người ta không còn phải đến Garizim hay Giêrusalem để thờ phượng Người, mà là thờ phượng Người “trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21-23), và bàn tiệc cánh chung sẽ được mở ra để thết đãi mọi người, không phải trên núi Xion, mà cho cả những kẻ lang thang ở ngã ba ngã tư đường phố, bất cứ nơi nào, thậm chí “bất luận tốt xấu”, miễn là họ biết ứng xử hợp thời, là khoác trên mình bộ áo cưới (x. Mt 22,1 tt).

Thiên Chúa của Đức Giêsu cũng không phải là Thiên Chúa đành hanh, độc đoán “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên”, “bắt phải nghèo và cho giầu có”, “hạ xuống thấp” rồi cũng “nhấc lên cao” (1Sm 2,6-7), mà chính Người đã sai Con của Người đến “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8) để nâng mọi kẻ sa ngã lên, và lôi kéo mọi người đến với mình (Ga 12,32). Thiên Chúa của Đức Giêsu chỉ có thể là Thiên Chúa Cứu Độ, “bởi, Chúa luôn từ ái một niềm ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa” (Tv 129,7), và Danh Người cho đến muôn đời vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu (x. 1 Ga 4,8.16) : một tình yêu đi tới tận cùng (x.Ga 13,1) là hy sinh tính mạng vì bạn hữu (Ga 15,13), và hy sinh để họ “được sống dồi dào” (x.Ga 10,10). Theo tôi nghĩ, có lẽ vì ảnh hưởng những câu kinh của Cựu ước còn sót lại khá nhiều trong Phụng vụ, đại loại như vừa trích dẫn trên đây, mà thực chất có tính “phản Kitô giáo”, nghĩa là trái ngược hẳn với tinh thần Chúa Kitô, nên nhiều người Kitô hữu vẫn đồng hoá một cách đơn thuần Thiên Chúa Cha mà Đức Giêsu mặc khải, với Thiên Chúa của người Do thái, và do đó, coi Thiên Chúa là Thiên Chúa riêng của mình, Thiên Chúa mà người Kitô hữu độc quyền chiếm hữu, và cậy vào Người để tự cao tự đại, tìm mọi cách, nếu không phải là tiêu diệt, thì ít ra cũng loại trừ các “dân ngoại”, và tìm cách khuất phục để thống trị họ. Gioan Tẩy Giả vẫn còn hù dọa : Rìu đã kề gốc cây, gạo thóc nằm trên nia sàng sẩy, cá đã nằm trên thớt... có mà chạy đàng trời ! Các ông tông đồ đã xin lửa thiêu đốt dân làng không chịu đón tiếp ; các ông muốn được ngồi bên tả bên hữu để cai trị, và tranh dành vị trí thấp cao. Trước khi Đức Giêsu về trời, đến lúc này mà các ông còn hỏi : Thầy khôi phục nước Itraen ? Nhưng Đức Giêsu thì lại tuyên bố rõ ràng là : “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28), và trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Người còn căn dặn các ông : “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.” (Lc 22,25-26). Cung cách sống và xử sự của Giáo hội phương Tây ở thời Trung cổ, và thái độ của khá nhiều người Kitô hữu, đặc biệt là của hàng giáo sĩ ở nhiều nơi trên thế giới ngày nay, nhất là tại những nước nghèo, cho thấy dấu vết quan liêu phong kiến vẫn chưa phải là đã bị loại trừ. Hình như vẫn không thiếu những người Kitô hữu đơn sơ cho rằng Giáo hội chỉ có thể diễn tả mầu nhiệm vinh quang Thiên Chúa và quyền năng của Người, bằng chính chính vinh quang, mà cụ thể là sự giàu sang của Giáo hội, và bày tỏ quyền năng Thiên Chúa bằng uy quyền của Giáo hội, mà cụ thể là quyền bính của hàng giáo sĩ ! Điều đó chứng tỏ rằng nhiều người Kitô hữu, nhất là những người có chức quyền, vẫn thích “làm chúa” theo nghĩa thế gian, chứ không theo gương, và theo đòi hỏi của Đức Giêsu, nghĩa làm “làm chúa” như Chúa đã làm người. KẾT LUẬN Khi làm người, Chúa trở nên đồng hàng với nhân loại, và như vậy là cho con người được nên ngang hàng với mình. Nói cách khác, Chúa làm người để người làm chúa. Làm chúa có nghĩa là làm chủ chính bản thân mình, không phải làm nô lệ cho bất cứ ai, cho dù là nô lệ của Thiên Chúa, bởi vì Đức Giêsu đến trần gian chính là để giải phóng và đem lại tự do cho con người (x.Ga 8,32-36). Vì thế con người, trong cái nhìn Kitô giáo, không phải là kẻ vong thân, đánh mất chính mình, hoàn toàn nô lệ cho thần thánh, cho Thượng Đế. Con người Kitô hữu trước hêt là một con người tự do, bởi vì được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng dạng đồng hình với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người.

Với tư cách Con Thiên Chúa làm người, Đức Giêsu đã sống kết hiệp với Chúa Cha: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình”. (Ga 14:10) Đến nỗi Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10:30) Cũng với tư cách Con Thiên Chúa làm người, Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta tới cùng và phục vụ chúng ta như một người đầy tớ. Thế thì chúng ta muốn là “người làm Chúa” thì chỉ còn cách sống như Đức Giêsu đã sống: Kết hiệp nên một với Chúa và yêu thương phục vụ anh em như Đức Giêsu, anh Cả của một đàn em đông đúc. CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN Chúng ta đang sống trong một thời kỳ ở giữa hai ngày Đức Kitô đến. Ngày Người đến lần đầu tiên cách đây hơn 2000 năm tại Bêlem. Chúng ta tin tưởng rằng Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang vào thời sau hết. Trong khi chờ đợi, chúng ta có thể tìm thấy Đức Kitô ở đâu? Lần kia, có một sinh viên người Do Thái rất đứng đắn, anh có một ao ước cháy bỏng được nhìn thấy ngôn sứ Êlia, thế là anh khẩn khoản xin cha anh chỉ cho thấy ngài. Người cha trả lời: “Nếu con không ngừng hết lòng nghiên cứu kinh Tôra, cha hứa với con rằng con sẽ xứng đáng được nhìn thấy ngôn sứ Êlia”. Trong vài tuần, người con trai nhiệt thành chuyên chú vào việc học hỏi của mình, bằng cách miệt mài vào những cuốn sách thánh cả ngày lẫn đêm. Thế rồi anh đến gặp cha và nói: “Con đã làm điều mà cha dặn bảo, nhưng ngôn sứ Êlia vẫn không tự bộc lộ bản thân ngài cho con”. Người cha trả lời: “Con đừng nản lòng như vậy. Nếu con xứng đáng, thì chắc chắn ngài sẽ tự bộc lộ về chính ngài cho con”. Một đêm kia, con trai ông đang ngồi tại bàn của mình, thì một người nghèo khổ đi tới. Người này lấm đầy bụi đường và quần áo rách tả tơi. Với gương mặt thô nhám, trên chiếc lưng còng mang một cái túi nặng nề, người đó sắp sửa đặt cái túi xuống, thì anh ta tức giận nói với ông “Đừng làm như vậy. Thế ông nghĩ chỗ này là một cái quán trọ à?”. Người khách vãng lai khẩn khoản “Tôi quá mệt. Xin cho tôi nghỉ ở đây một lát, rồi tôi sẽ đi tìm chỗ trọ”. “Không. Ông không thể ở lại đây được. Cha tôi không cho phép những kẻ lang thang được đến và ở lại đây, với cái túi lấm đầy bụi bặm của họ”. Thế là kẻ xa lạ thở dài, đỡ cái túi lên vai của mình và ra đi. Khoảng một giờ sau, người cha đến. Ông hỏi “Vậy con đã nhìn thấy ngôn sứ Êlia chưa?”. Anh con trai đáp “Dạ chưa, con chưa hề nhìn thấy ngài”. Người cha hỏi “Thế hôm nay không có người nào đến đây à!” Anh con trai đáp: “Dạ không ạ. Vừa mới đây, có một kẻ lang thang mang một cái túi nặng đi tới đây”. “Vậy con có tiếp đón họ không?” “Dạ không ạ!”

“Tại sao con không chịu đón tiếp người này? Con không biết rằng đó chính là ngôn sứ Êlia sao? Cha e rằng quá muộn mất rồi”. Kể từ ngày hôm đó, anh con trai tự bắt buộc mình phải đón tiếp kẻ xa lạ, bất kể người đó trông như thế nào, hoặc tình trạng cuộc sống của họ ra sao. Và khi làm như vậy, anh tin tưởng rằng mình đang thực sự đón tiếp ngôn sứ Êlia. ------------------o0o-----------------Chúng ta có thể tìm thấy Đức Kitô và phục vụ Người trong người đồng loại của chúng ta, đặc biệt nơi những người nghèo khổ và thiếu thốn. Nhưng chúng ta còn có một công việc khác nữa, nghĩa là làm cho Đức Kitô trở nên “hữu hình” đối với những kẻ đang hoài nghi và không có niềm tin. Chúng ta là những chứng nhân của Đức Kitô trên thế giới. Cách làm chứng lôi cuốn nhất đối với thế giới chính là sự quan tâm đến mọi người, và sống bác ái đối với người nghèo khổ, yếu đuối và đau khổ. Lòng quảng đại bên dưới thái độ này, và những hành động này chứng tỏ sự tương phản đối với thói ích kỷ. Chắc chắn điều đó đưa đến những câu hỏi dẫn đến Thiên Chúa và Tin Mừng. Lời cam kết đem lại hòa bình, công chính và quyền lợi cho con người chính là một cách làm chứng cho Tin Mừng. Trong khi mỗi người đều có một phần đóng góp, thì điều quan trọng nhất chính là chứng tá của cộng đồng Kitô hữu. Với tư cách là một thân thể, các Kitô hữu phải làm chứng cho thế giới về Đức Kitô, qua tình yêu của họ đối với nhau, qua niềm hy vọng và niềm vui mà họ phản ánh ra.

Mùa Vọng Đã Về : Hướng Đến Ngày Chúa Đến Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, hôm nay, phụng vụ Giáo hội bước vào tuần thứ I Mùa vọng, cũng là bắt đầu một năm phụng vụ mới, năm “Sống đạo hôm nay”. Mùa vọng là thời gian tưởng niệm biến cố Chúa đến lần thứ I, nhập thể làm người để cứu chuộc nhân loại. Đồng thời, tâm tình Mùa vọng mời gọi chúng con chuẩn bị tâm hồn để chờ đón Chúa đến lần thứ II, trong ngày cánh chung. Ngày Chúa đến với mỗi người thật bất ngờ : “Anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25, 13). Người ta chẳng những không biết được mình sẽ chết ngày nào giờ nào, mà ngay cả chết cách nào cũng không ai chắc chắn được. Người chết trên giường bệnh, kẻ chết ngoài đường vì tai nạn xe cộ, kẻ chết trong lo sợ vì không biết số phận đời mình sau khi chết ra sao…. Và cũng chẳng ai biết được ngày Chúa đến phán xét toàn nhân loại sẽ xảy ra như thế nào, rất có thể khác hẳn với những gì người ta nghĩ. Lạy Chúa, phải chăng Chúa muốn đến bất ngờ và muốn chúng con sẵn sàng đón Chúa đến nên Ngài khuyên chúng con “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21, 36) ? - Tỉnh thức là thái độ luôn giữ tâm hồn trong sạch, biết vâng theo thánh ý Chúa để luôn được sống trong ân nghĩa Người. - Tỉnh thức để chúng con khỏi sa trước cám dỗ, khỏi bị ràng buộc bởi những đam mê xác thịt, danh vọng, tiền tài, tình cảm.

- Tỉnh thức để tránh khỏi những lo âu trong cuộc sống, những ưu tư về cơm áo, gạo, tiền lôi kéo chúng con xa Chúa. - Tỉnh thức để nhận ra cuộc đời này chúng con còn có Chúa luôn yêu thương che chở, dẫn dắt trên từng bước đường đời. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con cảm nghiệm được những hạnh phúc và bình an tận sâu thẳm trong tâm hồn khi chúng con biết sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng chờ mong Chúa đến. Tuy nhiên, con người xác thịt yếu đuối nơi chúng con vẫn làm chúng con nặng lòng với việc tìm kiếm của cải trần gian. Chúng con biết, yêu mến cuộc sống và lo lắng cho cuộc đời hiện tại là cần thiết và là bổn phận của mỗi người, nhưng đó không phải là cùng đích của đời chúng con. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn sống tỉnh thức để biết Chúa yêu chúng con, luôn sẵn sàng đón chờ Chúa đến trong tâm hồn chúng con. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21, 36). Cùng với thái độ tỉnh thức là biết sống cầu nguyện. Cầu nguyện luôn không chỉ mời gọi chúng con đến nhà thờ quỳ gối, chắp tay, để ca ngợi tung hô, thờ phượng Chúa, mà còn là biết cầu nguyện ở mọi lúc mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Nghĩa là luôn biết sống kết hiệp với Chúa trong mọi việc to nhỏ, tầm thường chúng con làm hàng ngày, với chủ đích làm vì lòng yêu mến Chúa. Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Đây là hai bài học đi đôi, không thể tách rời nhau. Tỉnh thức phải đi liền với cầu nguyện bởi vì con người thường yếu đuối dễ dàng chiều theo sở thích của bản thân, chỉ có sức mạnh của Chúa qua lời cầu nguyện mới có khả năng nuôi dưỡng tâm hồn chúng con giúp chúng con có thể tỉnh thức, với lòng tin tưởng mong chờ Chúa đến. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Mùa vọng chính là thời gian quý báu để chúng con chuẩn bị tâm hồn đón Chúa trở lại trong vinh quang. Xin cho mỗi người chúng con biết sử dụng thời gian này để nhìn lại và nhận ra được những yếu đuối của bản thân, để chúng con biết sửa lỗi và phó thác hoàn toàn vào Chúa trong mọi hoàn cảnh sống. Xin Chúa giúp chúng con biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn để thoát khỏi những đam mê lôi cuốn của trần gian hầu chúng con có thể đứng vững trước mặt Chúa trong ngày Chúa đến lần hai với mỗi người chúng con. Amen. Vinh Sơn Ngô Đức Duy, op

Phán Xét (Lc 21,25-28.34-36) Chúng ta bắt đầu một năm phụng vụ mới, và mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa hy vọng, mùa trông mong, mùa chờ đợi, và trong suốt thời gian Mùa Vọng chúng ta được nghe các lời tiên báo : Chúa Giê-su giáng sinh, thời gian cứu độ, Chúa trở lại trong vinh quang. Nhưng đối với chúng ta, ba viễn tượng đó phải được gói ghém lại thành một niềm tin và một hy vọng duy nhất. Vì thế, ngay ngày Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc những lời Chúa Giê-su nói về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày tận thế, ngày cánh chung với lời khuyên phải luôn tỉnh thức. Ngày Chúa quang lâm có nghĩa là ngày Chúa trở lại phán xét toàn thể nhân loại. Trong Cựu Ước, ý niệm về sự phán xét của Thiên Chúa chúng ta thấy rất nhiều : ngay từ vườn địa đàng, ông bà nguyên tổ đã bị xét xử; hình ảnh hủy diệt hai thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra, vụ lụt đại hồng thủy hay cuộc thiêu hủy dân Ca-na-an… đều nói lên ý nghĩa của sự phán xét. Dầu sao đó cũng chỉ là những dấu hiệu nhắc nhở mọi người phải cẩn thận và chuẩn bị sẵn sàng. Sách Khôn Ngoan còn cho biết cụ thể hơn : vào ngày cuối cùng, Thiên Chúa sẽ phán xét kẻ lành người dữ. Như vậy, chắc chắn sẽ có phán xét và cuộc phán xét này xảy ra như một biến cố cuối cùng của lịch sử nhân loại. Đến thời Tân Ước, tức là vào thời Chúa Giê-su, người Do Thái vẫn luôn tin tưởng sẽ có ngày phán xét chung, và chính Chúa Giê-su cũng đã củng cố đức tin cho họ về ngày đó, nhưng Ngài đổi mới một số điều, đó là chính Ngài là quan án, là thẩm phán, và tiêu chuẩn xét xử là thái độ của mỗi người đối với chính Ngài. Đọc Tin Mừng, chúng

ta thấy Chúa Giê-su đã giảng dạy nhiều lần nhiều điều ám chỉ về phán xét, chẳng hạn Chúa nói các thành thị không chịu nghe lời Chúa sẽ bị xét xử, mỗi người sẽ bị xét xử về tất cả những gì họ đã làm cho tha nhân. Chúa dùng nhiều dụ ngôn như cỏ lùng, lưới cá, người quản lý, nén bạc...để nói về phán xét, và Chúa còn nói rõ vào ngày đó Chúa sẽ phân loại mọi người như ông chủ phân loại chiên và dê. Như vậy, Kinh Thánh đã cho chúng ta biết có phán xét, chắc chắn sẽ có, nhưng chúng ta không biết được khi nào sẽ xảy đến, không ai biết trước, vì thế, phải tỉnh thức, phải chuẩn bị sẵn sàng. Nghĩa là ngày đó sẽ xảy đến bất thần, đột ngột, sẽ chụp xuống bất ngờ như cái lưới chụp xuống bầy chim sẻ đang ăn hay chụp xuống đàn cá đang nhởn nhơ dưới nước thế nào thì biến cố tận thế cũng sẽ chụp xuống mọi người trên mặt đất như vậy. Không ai biết được ngày đó là ngày nào, chỉ một Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại lần thứ hai, và chỉ khi nào ngày đó xảy ra thì người ta mới biết được, chứ không ai biết trước. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su chỉ nói đến những dấu hiệu báo trước biến cố tận thế, Chúa không nói rõ khi nào, cho nên bất cứ ai quả quyết năm này năm nọ sẽ tận thế là hoàn toàn không đúng, đó chỉ là phỏng đoán mà thôi. Tuy nhiên, Chúa khẳng định Chúa sẽ đến trong vinh quang, nghĩa là chắc chắn sẽ có tận thế, vì vậy, Chúa bảo chúng ta phải sống thế nào : hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Chúng ta phải tỉnh thức, nghĩa là đừng để cho những cái tạm thời, trần tục chi phối, làm lu mờ tâm trí, làm quên chủ đích chính của cuộc đời, trái lại, phải sử dụng những cái đời tạm này để chiếm được đời sống vĩnh cửu. Rồi chúng ta phải cầu nguyện, nghĩa là chu toàn mọi bổn phận tôn giáo đối với Thiên Chúa, để sống thân mật với Chúa và xin Chúa những ơn trợ giúp cần thiết, vì không có ơn Chúa chúng ta không thể làm gì được : “Không thầy đố mày làm nên”, không có Chúa chúng ta chẳng làm nên chuyện gì cả. Tóm lại, ngày Chúa Ki-tô quang lâm, ngày Chúa trở lại lần thứ hai, cũng là ngày cánh chung, ngày tận thế ... là ngày Thiên Chúa biểu dương uy quyền và vinh quang của Ngài, đồng thời cũng là ngày phân xử công minh cuộc đời mỗi người về những năm tháng sống ở trần gian. Cho nên, điều quan trọng là mỗi người phải chuẩn bị cho mình một sự nghiệp xứng đáng ngay ở đời này. Chúng ta vẫn nghe nói : “trâu chết để da, người ta chết để tiếng”, “cha mẹ hiền lành để đức cho con”, “không công danh thời nát với cỏ cây”. Đúng thế, chúng ta chết nhưng không thể bị xóa bỏ như cỏ cây hoa lá hay như dụng cụ hư hỏng bị vứt bỏ, chúng ta phải để lại dấu vết gì cho trần gian; dấu vết đó không cần phải lớn lao vĩ đại, nhưng là dấu vết của tình yêu, hy vọng, lòng tin và công chính. Những gì chúng ta làm ở đời này ngoài những đặc tính đó, không những sẽ trở thành vô ích mà còn là án phạt nữa, cho nên, bao lâu sống ở trần gian, chúng ta phải hết sức cẩn thận để xây dựng sự nghiệp cho đời này và cả đời sau nữa. Một nhà kinh doanh giỏi là một người biết đầu tư vốn liếng và biết lợi dụng hoàn cảnh để đem lại lợi lộc và thành công. Sống ở trần gian, mỗi người cũng là một nhà kinh doanh được Thiên Chúa trao vốn liếng, thời giờ và hoàn cảnh, chúng ta phải biết đầu tư cho hợp tình hợp lý để đem lại lợi lộc và thành công cho hôm nay và mai sau. Chúng ta đang đầu tư thế nào ? lợi hay hại ? lời hay lỗ ? lợi xác nhưng thiệt hồn chăng ? được đời này mà không được đời sau chăng ? giả sử Chúa gọi chúng ta ra khỏi đời này ngay bây giờ chúng ta sẽ được thưởng hay bị phạt ? Chúng ta trả lời thế nào những câu hỏi đó ? Giacôbê Phạm Văn Phượng, op

Linh Mục : Quà Tặng & Gánh Nặng

WGPSG -- Không ai muốn trở thành gánh nặng, vì gánh nặng luôn đồng nghĩa với vất vả, mệt mỏi và cả những thao thức băn khoăn. Hai người dù yêu nhau tha thiết, ngay cả khi đã là vợ chồng, thì lúc này hoặc nơi nọ họ vẫn có thể trở thánh gánh nặng cho nhau. Đó là lẽ thường tình, đó cũng là quy luật đời sống. Ai cũng muốn nhận được quà tặng, nhưng đôi khi, lại tự biến thành gánh nặng của chính mình rồi chất cái gánh ấy lên vai kẻ khác mà không tự biết. Trong một gia đình, con cái thường là những quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho các bậc cha mẹ, và cha mẹ luôn là các ân phúc quý báu dành cho những người con. Tuy nhiên, vẫn không hiếm những trường hợp các thành viên trong một nhà đã trở thành gánh nặng của nhau, và vì vẫn là những con người, nên gia đình Giáo Hội của Chúa cũng không có biệt lệ. Những điều này, các đấng bậc trách nhiệm của Giáo Hội đã nhiều lần chỉ rõ. Những con cừu Panurge Công đồng Vatican II đã mang lại nhiều sức sống mới cho Giáo hội, rất tích cực và sinh động, cách riêng về phía người giáo dân. Trong giáo xứ, người giáo dân cộng tác với cha xứ trong hầu hết mọi sinh hoạt. Từ tổ chức điều hành đến huấn luyện giáo dục và phụng vụ, họ có mặt trong Hội đồng giáo xứ, Ban hành giáo, Giáo lý viên, Ca đoàn... Trong các hội đoàn như Legio, giới Hiền mẫu, giới Gia trưởng... người giáo dân đã giúp đỡ nhau, nâng cao trình độ cho nhau, cùng nhau làm nhiều việc mục vụ trong xứ: thăm viếng an ủi người cô đơn đau ốm, gặp gỡ người ngoại, nâng đỡ kẻ khô khan rối rắm, giúp đỡ người nhập cư... Họ là những cánh tay nối dài đích thực của các linh mục. Một số giáo dân khác còn tham gia những công việc, mà trước đây chỉ có hàng giáo sĩ mới có khả năng như: chú giải Thánh Kinh, dạy Triết và Thần học, nghiên cứu tôn giáo, cộng tác vào việc đào tạo chủng sinh, tu sĩ... Sau Công đồng chung Vatican II, ai cũng thấy đã có nhiều nỗ lực và những đổi thay rất đáng kể trong đại gia đình Giáo hội, tuy nhiên, so với những đòi hỏi và kêu gọi của Công đồng Vatican II thì vẫn còn đó một khoảng cách không nhỏ, khoảng cách ấy đã biến người giáo dân và giáo sĩ thành những gánh nặng. Gánh nặng của chính mình và gánh nặng cho người khác. Thực thế, ngay ở những trang đầu của bộ Thánh Kinh, Thánh Giêrênimô đã khẳng định hết sức mạnh mẽ: “Không biết Thánh kinh, là không biết Chúa Giêsu”. Nhưng thực tế đã chỉ ra một điều rất đáng buồn rằng, tín hữu Công giáo là những người ít đọc Thánh kinh nhất so với các hệ phái cùng tôn thờ Chúa Giêsu. Ít đọc đến mức, thậm chí có nhiều giáo dân đã không biết cách mở Thánh Kinh để tìm đúng địa chỉ các câu Lời Chúa. Họ chỉ quen cầu nguyện bằng cách đọc kinh, dù rất nhiều khi những bài kinh ấy chẳng phù hợp chút nào với tâm tình riêng, vì thế, các sinh hoat đạo đức kia chỉ mang tính hình thức, rất chiếu lệ và thiếu hẳn tính sinh động. Họ thuộc rất nhiều kinh, nhưng lại biết thật ít về Chúa. Họ sợ Thánh Kinh, vì cuốn sách quá dày. Họ chán, họ ngại Thánh Kinh, vì cuốn sách rất khô khan với nhiều chuyện mâu thuẫn khó hiểu. Với họ, Thánh Kinh là một cuốn sách chỉ nên “ kính nhi viễn chi ” vì đó chỉ là gánh nặng. Họ dồn gánh nặng của những cái sợ, cái ngại, cái chán ấy lên vai các linh mục, tu sĩ, mà họ coi là thành phần “phải” học Thánh Kinh, thay cho họ. Niềm tin của họ chỉ là những giáo điều công thức đã soạn sẵn và được học thuộc lòng. Họ rất thích nghe kể về những phép lạ của Chúa và các Thánh rồi suy nghĩ và ước ao. Họ không ngại tốn kém và rất nhiệt tình tham dự các buổi hành hương ở mọi nơi có thể đến, để (may ra) có thể được mục kích phép lạ, hoặc ít ra, cũng tận mắt được cảm nếm những phép lạ qua khung cảnh, đất đai và con người tại chỗ nơi phép lạ đã xảy ra. Họ rất hài lòng và luôn hãnh diện về những việc “đạo đức” kiểu như thế. Phần lớn các giáo dân cảm thấy không có nhu cầu cần phải đọc Thánh kinh, đa số đều tự hài lòng và lấy làm an tâm thoả mãn vì đã có những câu lời Chúa, đang khi các câu lời Chúa ấy chỉ là những mảnh vụn và luôn thật rời rạc so với toàn bộ vô cùng phong phú và hấp dẫn của Kinh thánh. Những hiểu biết vụn vặt và thật rời rạc về Đấng mà mình tôn thờ như thế, quả thật, không có gì đáng để tự hào. Và cũng chính vì thế, nhận thức và đời sống tín lý của số đông này rất hời hợt của những cái khung đã được đúc sẵn. Các kiến thức của họ về đạo chủ yếu

được nuôi dưỡng bằng các bài giảng của linh mục ngày Chủ nhật, mà mức tiếp thu thường vốn rất hạn chế, chưa kể có nhiều trường hợp vị linh mục bận rộn đến mức, không đủ thời gian để soạn bài giảng cho súc tích và gần gũi với thực tế cuộc sống. Vì đời sống đức tin hoàn toàn phụ thuộc vào vị linh mục như thế, nên người giáo dân mất dần khả năng suy tư độc lập và từ đó, ý thức sống đạo mỗi ngày một bị bào mòn để trở thành các con cừu Panurge, những gánh nặng của chính mình. Họ không còn là những cộng tác viên Nước Trời như Chúa muốn và Công đồng mời gọi, nhưng đã tự biến mình thành những gia nhân của Cha xứ, chỉ có nhiệm vụ: đóng tiền, cầu nguyện và vâng lời tối mặt, đang khi trong cộng đồng Dân Chúa, mọi giáo dân đều có chung chiều kích là tư tế, vương giả và ngôn sứ của một dân riêng được tuyển chọn, và nguời giáo dân cũng là các linh mục phổ quát như Công đồng đã khẳng định. Tuy nhiên, tư tế, ngôn sứ và vương đế hoặc linh mục phổ quát sẽ chỉ là các thuật ngữ vừa mơ hồ, vừa vô ích, và khô cứng trên mặt giấy, như chẳng có liên quan gì đến đời sống đức tin của tôi, nếu tôi thiếu nhu cầu và cảm thấy rằng không cần học biết, vì tôi thấy mình đã quá đủ. Không biết Thánh kinh, là không biết Chúa Giêsu. Những lời mạnh mẽ ấy của Thánh Giêrônimô thời nào cũng đúng, vì thế, xác quyết của Ngài phải là thao thức của tất cả những ai muốn được kết hợp thực sự với Đấng cứu độ của mình. Linh mục: quà tặng & gánh nặng Mỗi Linh mục là một quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho phần rỗi mọi người. Lý tưởng dâng hiến và phục vụ của đời tu, tự nó, đã đủ cao đẹp để ai cũng phải ngưỡng mộ và biết ơn. Tuy nhiên, người linh mục dù được trao chức thánh, nhưng các ngài vẫn chưa phải là thánh ngay khi ấy. Như bất cứ ai, các ngài luôn bị hạn chế về nhiều mặt và vẫn có đủ các Tham Sân Si và mỏng dòn của phận người, vì thế, khi lý tưởng đẹp đẽ ban đầu nhạt dần theo màu áo thời gian, người linh mục dễ biến thành các công chức cao cấp, những ông quan linh mục, rồi trở thành gánh nặng của chính mình hồi nào không hay. Họ tự biến mình thành một giai cấp trí thức mới, ngày càng xa cách với chính cái giới mà họ có nhiệm vụ phải gần gũi, gắn bó và chăn dắt. Những gánh nặng mà ngay từ lúc ban đầu, chính họ không thể hình dung và chẳng bao giờ mong muốn. Có thứ gánh nặng dễ biết, có nhiều thứ gánh nặng rất khó nhận ra. - Sẽ trở thành gánh nặng, khi nghĩ rằng, đến được với chức linh mục là đã tới được bến rồi, để từ đó, bên cạnh những bổng lộc và đặc quyền, các linh mục xem nhẹ hoặc bỏ quên nhu cầu đào tạo, tự đào tạo, giáo dục và tự giáo dục. Trong các tài liệu thường huấn và tĩnh tâm hàng năm của các linh mục, Đức Giám mục Bùi Tuần luôn đề cao và nhắc nhở nhu cầu tự giáo dục luôn là đòi hỏi hàng đầu, và phải được xếp vào ưu tiên trước hết. - Sẽ là gánh nặng, khi giữa chủ chăn với giáo dân có nhiều khoảng cách, và khoảng cách ấy mỗi ngày càng một xa hơn. - Sẽ là gánh nặng, khi người chủ chăn tự biến mình thành người chủ ngân hàng với toàn quyền xử dụng, và mọi thu chi tài chánh trong giáo xứ luôn là một bí mật của riêng mình và không ai được phép biết đến. - Sẽ là gánh nặng, khi sử dụng quyền bính để đặt nặng chuyện xây dựng các cơ sở vật chất, mà coi nhẹ chuyện xây dựng đền thờ sống động là những con người. - Sẽ là gánh nặng, khi “trọng phú khinh bần”. - Đặc biệt, khi không còn giữ được đức khiết tịnh, các Ngài sẽ trở thành gánh nặng đau khổ không thể nói hết bằng lời cho người giáo dân. Vì lời nào cũng là thừa, nhưng nói lời nào cũng vẫn là sẽ thiếu, nên tốt nhất là im lặng không nói, kẻo lại bị vạ miệng hoặc bị kết án là xét đoán thì sẽ bị đoán xét.

Thực ra, chuyện chỉ trích phê bình các đấng bậc là chuyện quá dễ, đặc biệt với hàng ngũ các linh mục. Quá dễ, vì các ngài chính là người dâu của trăm họ, được lòng một người sẽ mất lòng cả trăm người khác dù trong cùng một Giáo xứ. Ngay cả Chúa Trời cũng không thể làm vừa lòng tất cả mọi người, vì vậy, xin hãy tự hỏi lòng mình: Tôi đã làm được gì cho các Linh mục? thay vì thường đòi hỏi: Người Linh mục đã làm gì cho tôi? Khi đủ dũng cảm để tự hỏi lòng mình như thế, là đã chứng tỏ một đời sống tâm linh thực sự trưởng thành. *** Dù không có dịp đi nơi này nơi khác, nhưng ai cũng có thể thấy rõ những thực trạng trên của cộng đoàn Dân Chúa. Dĩ nhiên các thực trạng kia không phải là tất cả, vì vẫn còn đó, rất nhiều những vị chủ chăn tốt lành thánh thiện luôn tận tuỵ và hết lòng với đoàn chiên của mình, các vị ấy vẫn đang ngày đêm âm thầm phục vụ và hiến dâng trong thinh lặng chẳng mong được ai hay biết. Cũng đang có rất nhiều các giáo dân, họ ý thức rất rõ chiều kích cộng tác viên Nước trời của họ, họ đang tích cực hoạt động trong những điểm nóng mà nhiều người e ngại, những vết thương và ung nhọt của xã hội như HIV & Ma tuý, giúp ngăn ngừa phá thai, mãi dâm... Gần đây việc thu góp và chôn cất các hài nhi bị bỏ rơi rồi quy tập thành những nghĩa trang ở nhiều vùng miền trên cả nước, những việc ấy đã đánh động lương tâm xã hội rất lớn… Và cũng đang có nhiều doanh nhân Công giáo cùng nhau thành lập công ty kinh doanh, họ đã trích ra một phần lợi nhuận lo giúp đỡ người nghèo một cách thiết thực. Những đóng góp của các thành phần giáo dân ấy, có thể là rất nhỏ bé và thật khiêm tốn so với nhiều công trình bác ái vĩ đại lẫy lừng khác. Nhưng thật ra, có việc nào là nhỏ bé hoặc là vĩ đại trước Đấng Sáng Tạo đâu, vì Ngài luôn thấu suốt cõi lòng mỗi người để lượng giá và Ngài cần tấm lòng ấy trên tất cả. Hai đồng xu nhỏ bé của bà goá không lớn hơn tất cả mọi đồng bạc dâng cúng của nhiều người giàu có đó sao? Những việc ấy đích thực là những món quà tặng vô cùng quý giá. Những quà tặng này của cả chủ chiên lẫn con chiên vẫn đang hiện diện đó đây, nhiều lắm. Rất cần phải nói về gánh nặng để tôn vinh quà tặng, vì nhờ thế gánh nặng sẽ vơi đi ít nhiều. Ánh sáng của một que diêm cũng giúp lui đi phần nào bóng tối, thay vì cứ ngồi đó mà thở than nguyền rủa hoặc kết án. *** Lạy Chúa! Con bất toàn, giáo xứ của con bất toàn, Giáo hội và cả thế giới mà con đang sống cũng đẩy rãy bất toàn, vì chỉ duy nhất có Chúa là Đấng toàn năng toàn hảo. Xin luôn nhắc nhở để con ý thức sâu sắc về điều ấy, để từ đó, con sẽ trông cậy thiết tha hơn vào Đấng toàn thiện, là Thiên Chúa và cũng là Cha của con. Nhờ thế, con sẽ tỉnh thức hơn, để nhìn rõ vị trí của mình mà Chúa đã đặt để con vào, và từ đây, con sẽ hoàn thành tốt những bổn phận mà Chúa đã trao cho con. Từ xa xưa, con vốn đã là quà tặng, nhưng khi này khi khác nhiều lần, con đã trở thành gánh nặng cho không ít những người xung quanh. Xin cho con một tia sáng từ trời cao rọi xuống, dù nhỏ thôi, nhưng cũng đủ giúp con kịp thời nhận ra và tự điều chỉnh chính mình, vì khi con thay đổi, cuộc đời xung quanh con cũng sẽ đổi thay. Amen. Trần Điền Thăng

Related Documents

Nguoi Bao Chua 1
April 2020 34
Nguoi Bao Chua
April 2020 27
Nguoi Lam Cong Ky La
April 2020 7
Lam
June 2020 17

More Documents from ""