Tên : Hoài Sơn Lớp : 11 A 2 Điểm
Kiểm Tra Môn : Văn Nhận Xét Của Giáo Viên
Đề Bài : Em Hãy Phân Tích Bài “ Thơ Duyên” Của Xuân Diệu Bài Làm Thơ Duyên là bài thơ mà Xuân Diệu đã viết rất thành công về sự gặp gỡ giao hòa giữa 2 sự vật duyên dáng trong một không khí tình tứ bâng khuâng . Qua bài thơ , tác giả đã thể hiện một tình yêu nồng nàn say đắm , đồng thời là niềm khát khao giao cảm với đời , với người của mình . Cảm hứng cắt nghĩa tình yêu được biểu hiện ngay ở từ duyên trong nhan đề và câu thơ mở đầu. Từ duyên ở đây không giới hạn trong ý nghĩa quan hệ tương giao, hòa hợp của tình yêu đôi lứa mà đồng nghĩa với sự giao duyên kỳ diệu của vạn vật, của thiên nhiên với con người và của lòng người với nhau. Mối tương giao hòa điệu ấy cũng là cấu tứ của hình tượng thơ, của văn bản bài thơ. Từ khúc dạo đầu, bản nhạc đệm đã trào lên những giai điệu hạnh phúc: Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên Cây me ríu rít cặp chim chuyền Ðổ trời xanh ngọc qua muôn lá Thu đến nơi nơi động tiếng huyền. Sao nhiều sự vật và lắm động tác thế! Tất cả đều tìm đến nhau và tìm đôi, ríu rít cả lên. Những đường biên giới cách ngăn bị xoá mờ. Chiều trở thành chiều mộng và nhánh là nhánh duyên. Nhà thơ đã cố tình lướt qua những sắc màu và dáng nét cụ thể của chúng cho âm hưởng cuộc hoà thơ càng ngân nga. Câu thứ ba có ngữ pháp rất lạ. Cái gì đã Ðổ trời xanh ngọc? Chủ thể hành động ấy là ai? Thật khó giải thích. Chỉ biết rằng nếu câu thơ được viết lại cho đúng khuôn phép hơn, ví như Trời xanh đổ ngọc… thì có lẽ không còn gì. Chút choáng ngợp trong cảm xúc mất đi và vẻ ăm ắp, no đầy, tự dưng nghiêng đổ của thiên nhiên cũng sẽ không được cảm nhận một cách sâu sắc. Ðùng quá rạch ròi ở đây. Ngay tiếng huyền ở câu thứ tư không chắc là một thứ tiếng gì rõ rệt. Chẳng qua “vạn vật nức xuân tâm” bỗng dưng phát tiếng, thật mơ hồ mà như có giai điệu dìu dặt, và có lẽ càng dìu dặt hơn trong vẻ mơ hồ ấy. Sao nhiều sự vật và lắm động tác thế! Tất cả đều tìm đến nhau và tìm đôi, ríu rít cả lên. Những đường biên giới cách ngăn bị xoá mờ. Chiều trở thành chiều mộng và nhánh là nhánh duyên. Nhà thơ đã cố tình lướt qua những sắc màu và dáng nét cụ thể của chúng cho âm hưởng cuộc hoà thơ càng ngân nga. Câu thứ ba có ngữ pháp rất lạ. Cái gì đã Ðổ trời xanh ngọc? Chủ thể hành động ấy là ai? Thật khó giải thích. Chỉ biết rằng nếu câu thơ được viết lại cho đúng khuôn phép hơn, ví như Trời xanh đổ ngọc… thì có lẽ không còn gì. Chút choáng ngợp trong cảm xúc mất đi và vẻ ăm ắp, no đầy, tự dưng nghiêng đổ của thiên nhiên cũng sẽ không được cảm nhận một cách sâu sắc. Ðùng quá rạch ròi ở đây. Ngay tiếng huyền ở câu thứ tư không chắc là một thứ tiếng gì rõ rệt. Chẳng qua “vạn vật nức xuân tâm” bỗng dưng phát tiếng, thật mơ hồ mà như có giai điệu dìu dặt, và có lẽ càng dìu dặt hơn trong vẻ mơ hồ ấy. Rõ là thiên nhiên đang gây áp lực cho con người theo kiểu riêng của nó. Ý niệm về hạnh phúc được khơi lên cứ không ngùng toả lan những vòng sóng nơi tâm hồn, khiến ta nhìn vào đâu cũng chạm phải nỗi rung động mới mẻ của chính mình.
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang, nắng trở chiều. So với mấy câu thơ đầu, cảnh vật ở đây được nhìn gần và đượm tính “người” hơn. Các tù láy âm nhỏ nhỏ, xiêu xiêu, lả lả vùa mô phỏng tài tình các dáng điệu cùng những sắc thái chuyển động tinh vi của sự vật, vùa diễn tả rất đắt nỗi xao xuyến của lòng người khi lắng nghe những giao lưu bí ẩn trong trời đất. Có một thoáng nhìn hoang vắng phủ trùm lên cảnh vật lúc nắng trở chiều. Lạ, cũng trên con đường nhỏ nhỏ thân thuộc ấy, sao chiều nay trong gió xiêu xiêu, lòng ta bỗng mất vẻ an bằng, cũng chống chếnh, xiêu xiêu? Và cành lả lả, sao khéo giống con người đang trạng thái ngây ngất, bỗng phút chốc thấy mất hết sức lực vì một ảo giác nào đó? Thật không ngờ khuôn mặt tình yêu đã hiện lên giữa bộn bề những mối xúc cảm không rõ hình, rõ nét ấy: Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn Lần đầu rung động nỗi thương yêu. Sự thực tù đây con người đã bắt được vào nhịp điệu của thiên nhiên và cộng hưởng với nó.
Khổ thơ thứ ba mở ra một khoảng không gian bằng lặng và rộng rãi. Nhịp thơ trở lại điều hoà, khoan thai. Nhân vật trữ tình dường như muốn ngùng bước một vài giây để xác nhận lại, kiểm nghiệm lại chất lượng mới trong tình cảm của mình. Bản nhạc đệm thiên nhiên cũng chìm lắng đi để những bước chân vô tư lự của anh, của em trở thành đối tượng quan sát chính: Em bước điềm nhiên không vướng chân Anh đi lững đững chẳng theo gần Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu Anh với em như một cặp vần. Không còn nghi ngờ gì nữa, trong bài thơ dịu của đất trời, anh với em như một cặp vần. Tuy nói là điềm nhiên, chẳng theo gần, nhưng sự thật xúc cảm của nhân vật trữ tình đã mất đi vẻ “điềm nhiên”. Anh ta đã muốn reo lên, muốn kết luận và nói lời ràng buộc. Sự vô tâm lúc này chỉ còn là cái vỏ nữa thôi. Khổ thơ thứ tư quay trở lại với hình ảnh thiên nhiên và thùa tiếp rất khéo ý thơ trên: Mây biếc về đâu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân vân Chim nghe trời rộng giang thêm cánh Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần. Âm thanh bản nhạc lúc này nổi lên có vẻ thúc giục và khuyến dụ ráo riết hơn, nhờ hiệu quả của các tù láy âm gấp gấp, phân vân nằm ở cuối câu, cuối nhịp và một mật độ dày đặc các động tù hoặc trạng tù, tính tù được động tù hoá: về, bay, gấp gấp, phân vân, nghe, giọng, lạnh, xuống. Nó xui người ta tìm đôi hoặc thổ lộ yêu đương và nói lời “dứt điểm” vào đúng lúc chiều sắp tắt, sương xuống lạnh để trời thành quá rộng. Ngay cả làn mây biếc và con cò trên ruộng cũng đâu có nhởn nhơ. Chúng đang lựa chọn hay mải miết tìm về một chốn nào. Quả có mối duyên tương ngộ giữa anh và em, khiến anh phải ngơ ngẩn trước tình yêu đang nảy nở, để rồi bật thốt lên một tiếng kêu đắm đuối: Lòng anh thôi đã cưới lòng em. Trong tù cưới có nghe ran một niềm hoan lạc. Thơ duyên có một bố cục chặt chẽ, sáng sủa, thể hiện khá sâu cảm hứng lí giải của nhà thơ. Mặc dù có lần nói Làm sao cắt nghĩa được tình yêu (Vì sao), nhưng trong dự án làm “pho tự vị” thật đầy đủ về nó, Xuân Diệu đã không chịu bỏ trống mục tù nào, kể cả mục tù Duyên đầy hóc búa. Bao nhiêu lần người ta đã nói đến sự lạ lùng của “cơ duyên” (Cơ duyên đâu bỗng lạ sao Kiều) nhưng có lẽ chỉ đến Xuân Diệu, cái nghịch lí của phạm trù này mới được tường giải. Ta cảm thấy rõ rệt bàn tay xếp đặt của tạo hoá, tuy vô hình mà có sức mạnh rất hiện thực. Dưới sức ép của
quy luật tìm đôi và giữa muôn ngàn sợi tơ tình giăng mắc, làm sao người ta có thể không đến cùng nhau, làm sao có thể không yêu được? Duyên là thế - ở phần chìm của nó! Nhưng Thơ duyên còn được hợp thành tù một nguồn cảm hứng khác nữa: cảm hứng bày tỏ tình yêu và bộc lộ niềm ao ước được kết duyên cùng em của nhân vật trữ tình. Ở đây cần phải có sự phân biệt giữa anh ta và nhà thơ. Nhà thơ luôn tỉnh táo và không quên nhiệm vụ “cắt nghĩa” của mình, còn nhân vật trữ tình thì say đắm đến ngẩn ngơ trước niềm xôn xao giao cảm của vạn vật. Anh ta đã nhìn thấy hay chỉ muốn thấy thiên nhiên trong vai trò se kết tình duyên của nó. Không những thế, anh còn muốn tin ngay đó là chân lí - một chân lí vững vàng - cần được kể ra, nói lên cho đối tượng của mình cùng chia sẻ, để cùng đẩy sự điềm nhiên lui về thì quá khứ. Ở đây, nhà thơ đã “về hùa” với nhân vật trữ tình, cho thiên nhiên hiện ra đúng khớp với niềm mong mỏi của anh ta, dẫu thùa hiểu rằng toàn bộ tâm giới kẻ đang yêu trong một biểu hiện trá hình mà thôi. Sự giao thoa của hai nguồn cảm hứng nói lên chính là cơ sở nhận thức và tình cảm vững chắc giúp Xuân Diệu phát biểu một quan niệm sâu sắc về tình yêu: tình yêu là sản phẩm của tạo hoá, “nó chiếm hồn ta” một cách tự nhiên, vô hình mà không cưỡng nổi. Chính vì vậy, yêu là thuận theo lẽ trời, vô tội và đẹp, như “hương đêm say dậy với trăng rằm” vậy. Nhiều năm tháng qua đi, cái duyên của bài Thơ duyên vẫn còn mặn mà như thách thức thời gian. Vâng, làm sao cũ được một bài thơ mà bao nhiêu độc giả đã yêu, đã thuộc và đã dùng làm “nhịp cầu tơ chắp ý duyên” bắc về muôn nẻo tình yêu.