Nhanh chóng chuyển đổi và đa dạng hóa thị trường Nếu Việt Nam thuyết phục được EU kéo dài thời gian áp thuế thì các doanh nghiệp da giày Việt Nam có thể thay đổi được thị trường xuất khẩu, tránh phụ thuộc quá nhiều vào EU. Thống kê cho thấy, sau khi EU khởi kiện, kim ngạch xuất khẩu da giày của Việt Nam vào EU có giảm sút, trong khi thị trường Mỹ đã bắt đầu tăng lên và khả năng Mỹ sẽ là thị trường nhập khẩu da giày của Việt Nam thay thế EU. Hết quý I năm 2006 cho thấy: xuất khẩu da giày Việt Nam vào EU giảm từ 60% xuống còn 57% so với cùng kỳ 2005 và tốc độ tăng chỉ còn 12%. Trái lại, xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng đến 75% và vươn lên chiếm 21% về tỷ trọng. Hiện nay, thị trường Mỹ đã chiếm khoảng trên 20% cơ cấu xuất khẩu của ngành giày dép. Tuy nhiên, các doanh nghiệp mới tiếp cận thị trường này, nên còn nhiều cơ hội để mở rộng thị trường. Dự báo trong hai năm tới, ngành da giày sẽ vẫn gặp khó khăn, bởi không thể chuyển đổi thị trường nhanh chóng được. Ước tính, kim ngạch xuất khẩu da giày hằng năm vào Mỹ dao động khoảng 3 tỷ USD. Nếu như các doanh nghiệp chuyển đổi tốt thì con số này còn quá nhỏ bé và khiêm tốn so với thị trường Mỹ. Bên cạnh chuyển đổi thì đa dạng hóa thị trường cũng hết sức cần thiết. Các chuyên gia về thị trường cho rằng, sở dĩ Việt Nam bị nhiều vụ kiện, trước hết bởi tốc độ tăng trưởng quá nóng của một số mặt hàng xuất khẩu chỉ tập trung vào một thị trường, gây ra cảm giác lo ngại cho các nhà sản xuất ở thị trường sở tại. Ngoài thị trường Mỹ thì Nhật Bản cũng được xem là một thị trường tiềm năng. Tuy nhiên việc xuất khẩu giày dép Việt Nam sang Nhật Bản hiện nay chỉ tăng 13% và con số hầu như không thay đổi. Chọn một phân khúc thị trường hợp lý Cái khó của các doanh nghiệp giày Việt Nam là ở chỗ: Nếu tham gia thị trường giày dép với sản phẩm chất lượng cao cấp thì không cạnh tranh được với sản phẩm của các quốc gia như Italy, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Ðức. Còn nếu chọn sản phẩm cấp thấp, có chất lượng trung bình thì lại không cạnh tranh được với sản phẩm sản xuất hàng loạt của Trung Quốc. Cái khó này buộc các doanh nghiệp giày Việt Nam thời gian qua phải chọn hướng đi là làm gia công cho các đối tác từ EU mà chưa có nhiều sản phẩm giày trực tiếp vào thị trường này. Vì vậy, bên cạnh xuất khẩu trực tiếp để tăng kim ngạch xuất khẩu giày da Việt Nam sang Mỹ trong năm 2006, các doanh nghiệp cũng cần phải biết chọn cho mình một phân khúc thị trường hợp lý. Việc chọn phân khúc thị trường là để tránh đối đầu với những hàng sản xuất ồ ạt của Trung Quốc, tránh cạnh tranh với những sản phẩm có chất lượng cao của các nước châu Âu. Phân khúc thị trường Việt Nam được xem là hiệu quả nhất và tránh được các đối thủ kể trên là những sản phẩm có chất lượng tốt nhưng phải mang tính độc đáo, có phong cách và kiểu dáng riêng biệt. Cụ thể đó là những sản phẩm công nghệ cao kết hợp với những chi tiết phức tạp nhờ vào trình độ thủ công. Ngoài ra khâu mở rộng hệ thống phân phối sản phẩm cũng hết sức quan trọng, các doanh nghiệp nên lưu ý đến hệ thống phân phối và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm da của các bạn hàng mới, đặc biệt là Mỹ và Nhật. Cuối cùng để tăng kim ngạch xuất khẩu giày vào các thị trường ngoài EU thì khâu tìm hiểu và thăm dò thị trường là không thể thiếu. Cách tốt nhất là các doanh nghiệp tham dự các hội chợ giày dép, qua đó để thị trường biết được sản phẩm của mình và mình cũng có thể nhận biết thị hiếu chung của từng nước cụ thể, qua đó cải tiến chất lượng, mẫu mã, công nghệ. Trong một hội chợ triển lãm có hàng trăm ngàn đôi giày, chỉ cần vài đôi có kiểu dáng độc đáo là có thể thu hút sự chú ý của các nhà thu mua hàng của các hãng nhập khẩu lớn.
Theo WWW.nhandan.org.vn Phản hồi In tin
Phản hồi
CÁC TIN ĐÃ ĐƯA
Gửi tin
Đầu trang
CƠ HỘI ĐẦU TƯ VÀO NGÀNH DA GIẤY TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH I. Phân tích môi trường bên trong:giai doan 1998-2005 1. Thực trạng về năng lực sản xuất: 1.1. Năng lực sản xuất giày và đồ da: Tổng năng lực toàn ngành là 362,724 triệu đôi giày dép trong đó: - Quốc doanh TW và địa phương chiếm 34,1% - Ngoài quốc doanh (chưa kể các hộ cá thể) chiếm 19,5% - Liên doanh và 100% vốn nước ngoài chiếm 45,8% 1.1.1. Năng lực sản xuất phân theo chủng loại sản phẩm : Giày vải: Năng lực sản xuất là 57,274 triệu đôi, chiếm 15,8% tổng năng lực sản xuất giày dép toàn ngành. Năng lực giày vải tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp quốc doanh (chiếm tới 68,6%). Giày thể thao: Năng lực sản xuất là 204,390 triệu đôi, chiếm 56,3% tổng năng lực. Mặt hàng này phát triển mạnh ở khu vực đầu tư nước ngoài nhưng cho đến nay theo tiến độ thực hiện vốn đầu tư mới đạt 63% công suất so với giấy phép đầu tư). Giày nữ : Ðến năm 1998, toàn ngành có năng lực sản xuất là 44,45 triệu đôi, chiếm 12,3% tổng năng lực, tập trung phần lớn ở các doanh nghiệp quốc doanh (73,9%). riêng khu vực liên doanh và 100% vốn nước ngoài không có dự án giày nữ nào. Dép các loại: Năng lực sản xuất các loại dép của toàn ngành là 56,61 triệu đôi, chiếm 15,6% tổng năng lực. Dép các loại chủ yếu do khu vực ngoài quốc doanh và khu vực đầu tư nước ngoài sản xuất. Ðồ da: Năng lực sản xuất toàn ngành là 26,57 triệu chiếc cặp, túi xuất khẩu (không kể hàng ngàn hộ sản xuất và tiêu thụ nội địa. 1.1.2. Năng lực sản xuất phân theo địa phương và vùng lãnh thổ : Do đặc điểm của ngành sử dụng nhiều lao động, đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm, mẫu mã và thời hạn giao hàng, cần được tổ chức sản xuất tại những nơi có điều kiện giao thông thuận lợi, tại các thành phố lớn và các khu công nghiệp lớn nên thời gian qua sự phát triển và mở rộng sản xuất giày dép các loại tập trung chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Hải Phòng, Hà nội, Bình Dương, Ðà Nẵng, ...Tuy nhiên, sự phân bố còn mang tính tự phát chưa có quy tụ tập trung về một mối thống nhất, rất khó khăn trong theo dõi quy hoạch và phát triển . 1.2. Năng lực sản xuất nguyên vật liệu, phụ liệu 1.2.1. Tổng quan Việc nguyên phụ liệu cần phải nhập nhiều chưa có một thị trường nguy6en liệu tại chỗ phong phú và đa dạng có chất lượng để cung cấp đồng bộ, ổn định theo yêu cầu của nhà sản xuất đã tạo nhiều bất lợi cho các nhà thiết kế mẫu trong việc thiết kế mẫu mốt thời trang hoặc triển khai mẫu tiếp nhận được từ bên ngoài. Việc tăng mức sử dụng nguyên vật liệu trong nước
có trên 50% hàm lượng giá trị nguyên liệu có xuất xứ trong nước tạo khả năng cạnh tranh lớn hơn trên thị trường EU và Bắc Mỹ. 1.2.2. Thực trạng sản xuất cung ứng nguyên phụ liệu cho ngành da giày hiện nay Thực trạng cung ứng nguyên vật liệu cho ngành da giày và đồ da hiện nay đang bị lệ thuộc quá nhiều về nguyện liệu đầu vào, các phôi thai, các vật liệu, hoá chất, máy móc phụ tùng, thậm chí cả một số chi tiết định hình từ nước ngoài. Khách đặt hàng đồng thời là người cung ứng nguyên vật liệu. Do đó làm mất đi rất nhiều lợi thế sẵn có về nhân công rẻ, về sự ưu đãi do thị trường các khu vực phát triển đưa lại, về đa dạng hoá phẩm cấp mặt hàng… Nhằm tranh thủ ưu đãi giá sản phẩm của thị trường EU, mấy năm qua ngành giày dép VN chỉ mới chú ý phát triển sản xuất, chế biến các chi tiết đế giày từ các nguyên liệu thô và từ vật liệu có sẵn trong nước hoặc nhập từ bên ngoài như từ cao su thiên nhiên, cao su tổng hợp, từ các loại nhựa nhiệt dẻo và từ nhiều loại hoá chất chuyên dùng khác. Còn các loại vật liệu cho mũ giày liên quan đến nguyên liệu khác như các loại vải dệt chuyên dùng từ sợi tổng hợp, các loại giả da chuyên dùng cho giày, ngay cả các loại da thuộc từ các da súc vật có sừng cũng đều chưa được quan tâm đúng mức; chưa tạo ra môi trường đủ tin cậy để khuyến khích nước ngoài vào đầu tử ở lĩnh vực này. Hơn nữa với chính sách thuế và thủ tục hoàn thuế còn quá nhiều nhiêu khê, đang khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu làm hơn xuất khẩu hơn là đầu tư sản xuất chúng trong nước. Nếu tiếp tục để chậm việc nội địa hoá ở trên mức 35% trong số nguyên liệu cần sử dụng cho từng chủng loại giày, nhất là đối với giày thể thao và giày nữ thì trong vài năm tới khó hội các điều kiện để thụ hưởng chế độ ưu đãi chung về thuế quan của một vài loại thị trường giày giàu tiềm năng khác ngoài EU. Ðiểm yếu đó cũng làm cho các nhà sản xuất và xuất khẩu giày Việt Nam không tăng cao được hàm lượng chế biến sâu cho từng giai đoạn sản phẩm của mình, đánh mất lợi thế cạnh tranh với giày dép của Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan… Năm 2000, ngành da giày đã sản xuất 290 triệu đôi giày dép các loại, kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 1,5 tỷ USD nhưng lượng giá trị thực tạo ra đóng góp cho nhà nước chỉ khoảng 20%. Hiệu quả kinh tế như vậy có th6ẻ coi là thấp do ngành da giày Việt Nam chủ yếu vẫn hoạt động theo phương thức gia công. Tốc độ tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng tăng trưởng lại rất thấp. Các doanh nghiệp xuất khẩu của ta do chỉ làm gia công còn phụ thuộc rất nhiều vào đối tác. Hướng đi chỉ dựa vào các lợi thế có sẵn như vị trí địa lý, tài nguyên và đặc biệt là lao động , hướng đi thụ động và rất dễ bị mất ưu thế khi có sự cạnh tranh gay gắt của những nước láng giềng cùng điều kiện. Khó khăn lớn nhất hiện nay của ngành là khâu đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu với chất lượng chấp nhận được. Các nguyên liệu cần thiết cho ngành da giày có thể được chia thành 8 nhóm chủ yếu gồm da, vải, giả da, đế giày, cao su, phụ liệu. Nguyên liệu của ngành là da, trong khi đó ngành da của ta gặp khó khăn trong khâu thu mua nguyên liệu, chất lượng nguyên liệu không đảm bảo. Ðây là khâu yếu nhất trong quá trình sản xuất của ngành. 1.2.3. Da Ở Việt Nam, ngành thuộc da và sản xuất giày da đang vô cùng yếu kém, mức tiêu thụ đang hết sức nhỏ nhoi, chưa th6ẻ so sánh với các nông sản đầu vị. Năm 1997, ta đã xuất khẩu trên 6 triệu USD da sống và da thô sơ thuộc, sản xuất khoảng 9,7 triệu Spft da thuộc (trong đó gia công cho nước ngoài hơn 2 tr), quy về cho 3 triệu đôi giày da tiêu thụ nội địa thì tổng doanh thu chưa vượt 500 tỷ đồng (tương đương 40 triệu USD). Theo bộ Công nghiệp, mỗi năm nước ta vẫn phải nhập 6 triệu feet vuông da thuộc. Nhà máy thuộc da chưa đáp ứng được 10% nhu cầu và hiện chỉ hoạt động được 25% công suất do thiếu nguyên liệu.
Hàng năm, Việt Nam chỉ có thể cung cấp 5000 tấn da bò và 100 tấn da trâu nhưng nguồn nguyên liệu nội địa không được tận dụng và giá trị xuất khẩu thấp. 60% nguồn da này được xuất sang Trung Quốc và Thái Lan, phần còn lại thì không đủ tiêu chuẩn để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Về mặt trình độ trang thiết bị ngành thuộc da Việt Nam thuộc loại thế hệ mới phần lớn được trang bị sau năm 1990-1991 không thua kém gì trang thiết bị các nước trong vùng, có khả năng sản xuất được hầu hết các mặt hàng da chất lượng tốt. Tóm lại, về năng lực và thiết bị ngành thuộc da Việt Nam đủ sức đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu của ngành giày Việt Nam. Nhưng hiện chất lượng da thuộc ở Việt Nam chưa đạt yêu cầu làm giày xuất khẩu sang các xứ lạnh. Con lấy da nhỏ, bề mặt xấu do khâu chăn nuôi, giết mổ, lột da và bảo quản da sống chưa đúng kỹ thuật. Vì thế các công ty giày không thể nhận hợp đồng giày da với hình thức mua đứt bán đoạn. hiện nay, ở Việt Nam chỉ có 2 nơi sản xuất da thuộc đạt yêu cầu xuất khẩu là da Meko ở Cần Thơ và da Sài Gòn. 1.2.4. Vải Ngành dệt Việt Nam hiện nay vẫn chưa đủ khả năng cung cấp nguyên liệu đầu vào cho ngành giày., mặc dù năng lực của ngành dệt trong nước là rất lớn (450 triệu mét vải thoi, không kể khoảng 350 triệu mét do công ty nước ngoài sản xuất, 15.000 tấn sản phẩm dệt kim). Việt Nam có thể sản xuất các loại vải bạc 100% cotton, vải colico làm phần trên đôi giày vải, giày thể thao thấp cấp, vải lót,… Tuy nhiên chưa dệt được các loại vải giày đặc trưng, chưa đa dạng về chủng loại. Vì vậy, nếu sản xuất giày cao cấp hơn một chút vẫn phải nhập vải ở nước ngoài. 1.2.5. Giả da Tất cả simili có bán trên t vật tư giày da phần lớn là nhập từ Ðài Loan. Simili làm ở Việt Nam thường cứng và ít chịu nhiệt nên không dùng cho công nghệ lưu hoá. Việt Nam cũng sản xuất được simili mỏng, mềm có thể dùng may lót vòng cổ hay trang trí giày thể thao nhưng lượng sử dụng ít, thay đổi mẫu mã liên tục nên các nhà máy giày thường nhập theo đơn hàng. 1.2.6. Ðế giày Ðang phải nhập gần như toàn bộ nguyên liệu đầu, vật liệu thô hoặc phôi để tạo ra đế giữa, đế ngoài, đế mặt, lót gót và đệm mũi cho mũ giày. Nhiều chi tiết định hình để lắp ghép vào giày thể thao và giày nữ cũng đang phải nhập. Các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài từ 7 triệu USD trơ83 lên để sản xuất giày thể thao đều có các dây chuyền sản xuất các loại đế ngoài, đế giữa, đế mặt… từ các nguyên liệu thuần cao su, TPR, EVA và các loại cao su biến tính khác. Nói chung họ đã tự túc được các loại đế cần thiết cả cho giày cao cấp. Các doanh nghiệp trong nước chỉ tự cung cấp được các loại đế thuần cao su, thuần TPR, một phần tấm EVA nở xốp cho giày thể thao, một phần phôi nhựa nhiệt dẻo (chủ yếu là PVC) cho gót, đế ngoài, đế giữa giày nữ. Còn hầu hết các loại đế từ TPU, thuần da, đế ép phun từ EVA và từ cao su EVA, các tăng cường gót, các loại đệm không khí, các chi tiết trang trí … đang phải nhập hoặc đang né tránh sản xuất các loại giày có sử dụng đến các chi tiết định hình này. Nói chung, đế cao su, đế mouse xốp cao su hay EVA để làm đế hài, mouse xốp làm bằng latex, gót đế giày bằng nhựa … đều có thể làm tại Việt Nam nhưng trong đó chỉ có cao su tự nhiên và CaCO3 là nguyên liệu trong nước còn toàn bộ phải nhập . Hầu như đế ngoài của giày nữ (gót sau, đế trước, đế liến) đều sản xuất tại Việt Nam. Thường bằng PVC, TPR, ABS, PS, PUR, PU. Các nguyên liệu này thường nhập dưới hình thức gia công, tuy nhiên cũng có các công ty thương mại nhập bán tại Việt Nam.
Ðế giày thể thao đều sản xuất tại Việt Nam (trừ một số đế đặc biệt, số lượng ít chủ hàng phải nhập) thường bằng cao su, TPR, EVA. Riêng khách hàng Adidas nhập đế nhiều hơn các khách hàng khác do đó không được hưởng GSP. Năng lực sản xuất đế: Loại đế sản xuất Các loại đế (triệu đôi/năm) Ðế ép cao su Ðế nhựa EVA
Tổng số 212.060
Quốc doanh TW 32.100
71.260 119.600 21.200
12.100 20.000 0
Trong đó Quốc doanh Ngoài quốc địa phương doanh 30.900 64.660 22.900 8.000 0
18.660 26.000 20.000
DN có vốn đầu tư nước ngoài 84.400 17.600 65.600 1.200
1.2.7. Cao su Cao su là loại nguyên liệu được dùng trong ngành giày để sản xuất các chi tiết đế giày, keo dán,… Cao su tự nhiên được sản xuất từ mủ cây cao su, cao su tổng hợp được sản xuất từ các chế phẩm của dầu mỏ qua các quá trình trùng hợp. Trong quá trình chế biến các chi tiết giày, cao su được phối trộn với các phụ gia khác như chất xúc tác, trợ xúc tiến, chất hoạt hoá, chất lưu hoá, chất làm mềm , ch6át trợ thao tác, màu và chất trộn) để được các tính năng mong muốn. Việt Nam là một trong những nước sản xuất nhiều cao su tự nhiên ở khu vực Ðông Nam á nên tất cả các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đều tận dụng nguồn cao su tự nhiên của Việt Nam. Cao su tổng hợp thường dùng SBR, BR, Neopren (dùng trong keo dán)… và các latex tổng hợp, keo PVAc dùng để cán đúp vải Việt Nam phải nhập hoàn toàn. 1.2.8. Phụ liệu Chưa có công ty quốc doanh chuyên cung ứng tổng hợp nguyên phụ liệu cho ngành giày. Hiện nay chủ yếu do một số doanh nghiệp tư nhân sản xuất cung ứng các phụ liệu có vốn đầu tư nhỏ như in mark, dây giay, khoen tán,… Còn các nguyên phụ liệu có vốn đầu tư lớn thường do những công ty có vốn nước ngoài cung ứng, chất lượng ổn định, số lượng nhiều, giá cao, họ thường cung ứng cho các công ty liên doanh hay các công ty 100% vốn nước ngoài sản xuất giày nhưng năng suất chưa đủ đáp ứng hết. Các tư nhân Việt Nam cũng có thể làm được nhưng năng suất chất lượng không cao và không ổn định, điều này gây trở ngại rất nhiều trong sản xuất hoặc phải tốn quá nhiều thì giờ và chi phí kiểm tra. 2. Thực trạng về trình độ máy móc thiết bị, công nghệ 2.1. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị trong lĩnh vực sản xuất giày, đồ da Do những hạn chế về trình độ quản lý, về khả năng tài chính và trình độ tay nghề của lực lượng lao động, hầu hết các dây chuyền và máy móc để sản xuất hiện nay nhập từ Hàn Quốc và Ðài Loan theo công nghệ băng tải dài, tốc độ chậm và ít kết hợp được nhiều nhân công trên một đầu máy 2.1.1. Các thiết bị trong công đoạn pha cắt nguyên liệu: Hiện nay tình trạng máy chặt các loại của ngành như sau: - Số máy đã sử dụng trên 10 năm : 5%
- Số máy đã sử dụng dưới 10 năm: 95% - Số máy đã sử dụng từ 7 năm trở lại đây : 85% Các thiết bị dùng để pha cắt có trình độ cơ khí hoá cao, chưa được tự động hoá nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng xuất khẩu và hàng nội địa mặc dù năng suấtt chưa cao như máy cắt có điều khiển tự động theo chương trình thế hệ mới. 2.1.2. Thiết bị trong công đoạn may ráp: Giống như thiết bị pha cắt, các loại máy may, máy dẫy ép, máy gấp mép, máy chẽ hậu, máy đính ôdê… Ðều chủ yếu của Ðài Loan và Hàn Quốc chế tạo từ 5-10 năm trở lại đây, có tuổi thọ thấp. Một số công ty có sử dụng máy may của Nhật (trong đó có những máy may chuyên dùng điều khiển bán tự động ở các công đoạn cần thiết) . Hệ thống máy may công nghiệp và các máy chuyên dùng khác ở phân xưởng may mũi có: - Số máy đã sử dụng trên 10 năm: 15% - Số máy đã sử dụng dưới 10 năm : 85% 2.1.3. Thiết bị trong công đoạn gò ráp: Các máy gò, máy ép, máy mài, máy phun đúc … chủ yếu của Ðài Loan và Hàn quốc. Một vài thiết bị đơn giản đã bắt đầu được chế tạo trong nước như băng tải, thùng sấy, máy bôi keo, máy mài nhám, nồi hấp giày. ở công đoạn này, - Số máy đã sử dụng trên 10 năm : hầu như không có - Số máy đã sửng dụng dưới 10 năm ~ 100% 2.1.4. Công đoạn hoàn thiện: được thực hiện hoàn toàn bằng thủ công 2.1.5. Các thiết bị cán luyện cao su, ép đế: đều là thiết bị của Ðài Loan và Hàn quốc, là những thiết bị cỡ lớn, đắt tiền. Việc sử dụng các thiết bị này chưa hiệu quả vì sản xuất phân tán 2.1.6. Các thiết bị kiểm tra: Còn thiếu về số lượng, sơ sài và lạc hậu về chủ loại (trừ một số doanh nghiệp lớn và liên doanh có trang thiết bị kiểm tra) nên sản phẩm làm ra chỉ được kiểm tra bằng phương pháp cảm quan. 2.2. Trình độ công nghệ, thiết bị máy móc trong lĩnh vực thuộc da Hầu hết các máy móc thiết bị dùng trong công nghiệp thuộc da đều nhập ngoại, đắt tiền, thuộc thế hệ mới, không thua kém gì các trang thiết bị của các nước trong vùng và có khả năng sản xuất các mặt hàng da có chất lượng tốt. Trong nước chỉ mới sản xuất được thùng quay, thiết bị sinh hơi, thiết bị đo. Nói chung, các cơ sở cơ khí chế tạo trong nước còn bỏ ngỏ lĩnh vực chế tạo thiết bị và phụ tùng thay thế cho ngành thuộc da. Trình độ công nghệ thuộc da của Việt Nam được đánh giá vào loại trung bình tiên tiến trong khu vực . 2.3. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị trong sản xuất cặp túi xách Máy móc thiết bị sản xuất cặp túi xách mới được quan tâm đầu tư trong những năm gần đây cùng với sự chuyển đổi cơ chế. Hầu hết máy móc thiết bị được nhập từ Ðài Loan, Hàn Quốc
(chủ yếu là máy may công nghiệp các loại), riêng khâu pha cắt còn nhiều doanh nghiệp không sử dụng máy chặt hoặc chỉ dùng các loại máy cắt đơn giản (máy cắt vải vòng, dao cắt,…). Phần công nghệ may các loại túi xách không có gì phức tạp, chỉ có tay nghề thợ bậc 2,3 thì có thể tiếp thu, nắm bắt và thực hiện tốt các công đoạn trong dây chuyền sản xuất. 2.4. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị trong sản xuất nguyên liệu chuyên ngành Hiện tại, ngoài da thuộc và vải, nguyên phụ liệu ngành giày được sản xuất tại Việt Nam chủ yếu là các loại đế giày, đế một (mặt 1), các máy bồi tráng keo. Ðể sản xuất các loại này, phức tạp nhất là máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất các loại đế giày. Hầu hết máy móc thiết bị nhập khẩu từ Ðài Loan, hàn Quốc ở dạng trung bình tiên tiến. Riêng công nghệ sản xuất từng loại đế giày khác nhau đòi hỏi các doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ tay nghề mới tiếp thu được. Hiện tại, khâu này đang do phía đối tác hướng dẫn, quản lý và chịu trách nhiệm. Riêng máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất đế một thì đơn giản, chủ yếu dùng thiết bị cơ học. Phần bồi vải cần được quan tâm chính khâu pha chế keo để lớp bồi không bị bong. 3. Thực trạng về lao động và năng suất lao động 3.1. Thực trạng về lao động 3.1.1. Thực trạng lao động trong ngành thuộc da: Tổng số lao động trong ngành thuộc da là 1.295 người , trong đó cán bộ có trình độ đại học là 96 người, công nhân kỹ thuật là 271 người. Cán bộ quản lý trong khu vực quốc doanh có trình độ chuyên môn cao và được đào tạo có hệ thống, ở khu vực tư nhân trình độ cán bộ còn hạn chế về nhiều mặt. Tuy nhiên họ đã biết khai thác kiến thức của cán bộ ở khu vực quốc doanh nên phần nào họ đã đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. 3.1.2. Thực trạng lao động trong ngành giày, đồ da: Ngành công nghiệp giày, đồ da là ngành sử dụng nhiều lao động, được đào tạo dưới nhiều hình thức kèm cặp là chủ yếu. Một lượng nhỏ được đào tạo qua các trường công nhân kỹ thuật của Bộ Công nghiệp hoặc trường May (thuộc Tổng Công ty Dệt –May), ngành chưa có trường chuyên . Trong thời gian qua với sự hợp tác cùng các đối tác nước ngoài dưới hình thức gia công, hợp tác sản xuất, liên doanh và 100% vốn nước ngoài phần lớn lực lượng lao động ở các doanh nghiệp trực tiếp được các chuyên gia đào tạo ngay trên dây chuyền sản xuất, tiếp thu kiến thức và thực hành trên từng công việc được giao. 3.2. Thực trạng về năng suất lao động Do đặc điểm sử dụng lao động như trên, cộng với ý thức tổ chức kỷ luật lao động kém nên hầu hết ở các doanh nghiệp mức tăng năng suất lao động chưa đạt yêu cầu, còn quá thấp so với các nước trong khu vực. Ngành giày là ngành mà người lao động tạo ra được giá trị giá tăng thấp thứ hai ở mức 18 triệu đồng/năm, chỉ hơn ngành may với trị giá tạo mới là 10 triệu đồng/năm. Năng suất thấp là vì những lý do như trình độ văn hoá thấp, không được đào tạo kỹ lưỡng, khâu tổ chức điều phối sản xuất, phối hàng kén, nguyên vật liệu thường không được cung ứng đồng bộ và đơn hàng nhỏ lẻ, thiết bị không đầy đủ. : :
Ngành da giày Việt Nam: Chuẩn bị vượt rào cản mới Các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu giày da VN cần phải có sự chuẩn bị ngay từ bây giờ vì khả
năng xảy ra một cuộc điều tra chống bán phá giá (CBPG) mới của Ủy ban châu Âu (EC) đối với các loại giày da của Việt Nam xuất khẩu vào Liên minh châu Âu (EU) là rất cao”. Đây là khuyến cáo của luật sư Fabrizio Di Gianni (Công ty Luật Van Bael và Bellis) tại buổi làm việc giữa Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công thương), Hiệp hội Da giày VN và các DN da giày phía Nam, diễn ra tại TPHCM vào ngày 25-6. Khó khăn dồn dập Việc EU công bố, từ ngày 1-1-2009 chính thức loại giày da VN ra khỏi danh sách các nước được hưởng GSP (thuế quan ưu đãi dành cho những quốc gia nghèo), đã đặt các DN da giày VN vào tình thế khó khăn. Ngoài ra, ngành da giày VN cũng sẽ không tránh khỏi một cuộc điều tra CBPG mới, khi thời hạn áp thuế CBPG đối với giày mũ da VN (năm 2006) sẽ hết hạn vào tháng 10 tới. Theo nhận định của Cục Quản lý Cạnh tranh, 3 khả năng có thể xảy ra. Thứ nhất, các nhà sản xuất EU sẽ không yêu cầu rà soát để gia hạn thuế CBPG đối với các loại giày da nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam. Thứ hai, có yêu cầu rà soát từ các nhà sản xuất EU nhưng không được EC chấp nhận. Thứ ba, có yêu cầu rà soát và được EC chấp nhận. Trong trường hợp này sẽ có 2 tình huống xảy ra: EC sẽ kéo dài việc áp thuế CBPG với các loại giày đã bị áp thuế; kéo dài việc áp thuế và thay đổi mức thuế (có thể tăng hoặc giảm so với mức áp thuế hiện nay). Tuy nhiên, luật sư Fabrizio Di Gianni (Công ty Luật Van Bael và Bellis - đơn vị đồng hành cùng ngành da giày VN trong việc vận động hành lang, hỗ trợ các vấn đề pháp lý liên quan đến xuất khẩu của da giày VN vào thị trường EU) cho biết, hiện nay, các nhà sản xuất ở EU đang thu thập tài liệu để “phản công” ngành da giày của VN, Trung Quốc. Hiệp hội các nhà sản xuất giày của Ý (ANCI) không chỉ muốn kéo dài thời gian áp Thuế CBPG, mà còn muốn tăng tỷ lệ áp thuế CBPG lên cao hơn so với trước đây (hiện áp Thuế CBPG của VN là 10%, Trung Quốc là 16,5%). Hiện ANCI đã có đề nghị yêu cầu rà soát lên EC. Và như vậy, sẽ rất khó cho VN vận động EC từ chối điều tra, khi đã có kiến nghị từ nhà sản xuất. Chính vì vậy, các DN giày da VN cần phải có sự chuẩn bị hồ sơ, sổ sách kiểm toán ngay từ bây giờ, vì nếu đợi đến tháng 10-2008 mới bắt đầu thì sẽ trở tay không kịp. Khi EC đã có công bố rà soát, các DN VN phải cung cấp toàn bộ các thông số yêu cầu từ tháng 10-2007 đến 9-2008. Và trong suốt 12-15 tháng tiến hành rà soát để xem liệu có xảy ra bán phá giá hay không (sau thời hạn bị áp thuế 10-2008), các DN VN vẫn bị áp thuế 10%. Những việc cần làm Tại buổi làm việc, luật sư Fabrizio Di Gianni lưu ý với các DN VN về 5 tiêu chí sử dụng để đánh giá DN có được hưởng qui chế kinh tế thị trường (MET) hay không. Trong đó, đặc biệt lưu ý các tiêu chuẩn 1,2,3 về sự can thiệp của Nhà nước, sổ sách kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, chi phí sản xuất và tình hình tài chính phải minh bạch. Đây là những rào cản chính để EC xét cấp DN đủ điều kiện được hưởng MET. Trong cuộc rà soát điều tra, EC sẽ gởi bảng câu hỏi để cho khoảng 80-90 DN trả lời. Qua bảng trả lời này, EC sẽ chọn lại 5-10 công ty để điều tra mẫu và các quan chức của EC sẽ đi kiểm tra thực tế những công ty này. EC thường lựa chọn các DN có kim ngạch xuất khẩu lớn để kiểm tra. Nếu chứng minh được việc đủ điều kiện đạt MET, DN có thể yêu cầu giảm mức thuế, có thể giảm xuống còn 0%. Để chứng minh được điều này rất khó, vì trên thực tế, sổ sách kế toán của các DN VN tuân theo tiêu chuẩn kiểm toán quốc tế, nhưng lại bị áp theo tiêu
chuẩn của EU. Vấn đề lựa chọn quốc gia tham chiếu được nhiều DN quan tâm và đây cũng là một khó khăn đối với ngành da giày VN. Trong cuộc điều tra CBPG trước đây, EC đã chọn Brasil để tham chiếu. Thực tế, khi đem so sánh ngành công nghiệp da giày của VN với Brasil thì rõ ràng có sự khập khiễng, vì Brasil phát triển hơn VN. Để yêu cầu thay đổi nước tham chiếu bằng các nước Ấn Độ, Sri Lanka, Bangladesh… VN phải có chứng cứ thuyết phục với EC. Việc áp thuế CBPG đang gây ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích chính đáng của người tiêu dùng ở 27 nước thành viên EU. Nếu không làm tốt, các DN VN vẫn có nguy cơ đối mặt với cuộc điều tra CBPG mới từ EC. - Ngày 7-10-2008: hết hạn 2 năm áp thuế CBPG đối với giày mũ da. - Ngày 7-7-2008: thời hạn yêu cầu rà soát của các nhà sản xuất EU. (trước 3 tháng của thời hạn áp thuế CBPG). - Giai đoạn được rà soát, có thể từ tháng 10-2007 đến 9-2008. (Theo NLĐ) Số lần đọc: 64
Tin tức cập nhật
CHUYÊN MỤC Ô tô - Xe máy Hướng nghiệp Việc làm
Trang chủ > Thế giới 24 giờ > Hội nhập quốc tế EU BÃI BỎ ƯU ĐÃI THUẾ QUAN VỚI NGÀNH GIÀY, DÉP VIỆT NAM:
1 triệu lao động... gặp khó Quốc Anh
03:18' PM - Thứ ba, 17/06/2008
Siêu thị trực Việc phái đoàn UB Châu Âu EU tại Việt Nam công bố việc sẽ bãi bỏ ưu đãi thuế quan đặc biệt (GSP) với ngành giày dép Việt Nam xuất khẩu vào thị tuyến Thế giới Mobile Sao vàng Đất Việt Cuộc thi "Sinh viên Khởi nghiệp" Thị trường chứng khoán Xây dựng Bất động sản
trường này từ 1/1/2009 sẽ khiến cho cánh cửa xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam vào EU hẹp đi rất nhiều. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp giày dép sẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt với hơn 1 triệu lao động trong ngành này. Năng lực XK của ngành da
giày Việt Nam trên thị Hiện nay, ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết trường XK thế giới còn yếu năm 2007, toàn ngành đã thu hút 600.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất trong lĩnh vực nguyên phụ liệu và các làng nghề có thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực lượng lao động công nghiệp. Do vậy, việc xuất khẩu sang EU gặp khó khăn sẽ tác động không nhỏ tới lực lượng lao động này.
Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam - ông Nguyễn Đức Thuấn cho rằng việc bãi bỏ GSP sẽ làm suy giảm lợi thế cạnh tranh của mặt hàng giày da Việt Nam so với các nước khác trong khu vực, do bình quân mỗi đôi giày của Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường EU sẽ phải tăng giá do chịu thuế từ 3,5 - 5% trong khi các quốc gia xuất khẩu giày khác không phải chịu loại thuế này.
Tìm kiếm Tất cả
Mục này
Tìm kiếm nâng cao
Nếu so với kim ngạch xuất khẩu da giày năm 2007 khoảng 2,2 tỷ USD thì lợi thế cạnh tranh của ngành da giày Việt Nam sẽ bị thiệt hại khoảng 100 triệu USD. Việc áp mức thuế này sẽ làm cho một số đối tác nước ngoài đưa đơn hàng đến những quốc gia khác, gây thiệt hại cho ngành cũng như ảnh hưởng đến việc làm của 1 triệu lao động ngành da giày. Thế nhưng, thời gian qua, kể từ khi bị kiện chống bán phá giá, ngành giày da Việt Nam chưa khi nào hết khó khăn. Nguyên nhân là do những tác động bất lợi từ vụ kiện chống bán phá giá và những khó khăn từ việc giá cả leo thang. Các chuyên gia kinh tế cũng khẳng định rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản
Ngành da giày Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế Tin đưa ngày: 28/05/2008
Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt mức 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong tháng 4/2008 ước đạt 330 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm 2008 ước đạt 1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD. Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư thuận lợi, chính trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu của Chính phủ, Việt Nam sẽ trở thành một địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà sản xuất da giày. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức lao động là chính. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ngành da giày: gia tăng các luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy giao lưu văn hoá, trí tuệ, củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển văn minh vật chất và tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường quốc tế. Song, hội nhập cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Các doanh nghiệp sản xuất giày da Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh gay gắt từ các thế lực kinh tế mạnh trong khu vực và quốc tế như Brazil, Trung Quốc và một số nước ASEAN. Những cơ hội và thách thức mà ngành da giày Việt Nam đang phải đối mặt trước thềm hội nhập phải kể đến như sau: Cơ hội: Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành da giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu khắt khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo điều kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu đãi về thuế quan tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu vực. Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết năm 2007, toàn ngành đã thu hút 600.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất trong lĩnh vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và các làng nghề có thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực lượng lao động công nghiệp. Đây có thể được coi là lợi thế so sánh với mức chi phí nhân công thấp. Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử. Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường nội địa. Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giày phát triển theo hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà. Chế độ xã hội ổn định và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế. Về năng lực sản xuất. Đến hết năm 2007, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt:
Giày dép các loại: 680 triệu đôi Cặp túi xách các loại: 88 triệu chiếc Da thuộc thành phẩm: 150 triệu sqft. Năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có mức tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng trung bình đạt 10%/năm trên 2 loại sản phẩm chính là giày dép và túi cặp các loại. Riêng sản phẩm da thuộc đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn tập trung chủ yếu vào giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản phẩm giày dép của ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu. Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày càng được mở rộng và ổn định cụ thể: Thị trường EU: Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2007, EU vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,6 tỉ USD, tăng 33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam. Thị trường Mỹ: Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2007, xuất khẩu vào Mỹ đạt 995 triệu USD, tăng 30% so với năm 2006. Tháng 1/2008, xuất khẩu giày dép vào Mỹ tăng 25% so với năm 2007, đạt 93,8 triệu USD, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn ngành. Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ. Thị trường các nước Đông Á: Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm 2006, xuất khẩu vào Nhật Bản đạt 113 triệu USD, tăng 21% so với năm 2005. Thách thức: Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc, một đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây Trung Quốc là có thêm lợi thế với việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mặt hàng giày dép xuất khẩu của Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình độ công nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng hơn. Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định nhưng Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số nước như Brazil, Indonesia... đặc biệt từ ngày 6 tháng 10 năm 2006, EU áp thuế chống bán phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10%. Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng thị phần của Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với 83,5% của Trung Quốc. Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên bang Nga, các nước Đông Âu, Trung Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và chất lượng nhưng hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị trường các nước này. Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo LEFASO, nhu cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của
cả nước, 80% còn lại phải nhập khẩu. Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại “bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em. Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và quốc tế. Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia. Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc. Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế...Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế. Xuất khẩu da giày vào EU: Bí quyết để thành công Tin đưa ngày: 19/05/2008 Doanh nghiệp của bạn đã xuất khẩu da giày sang EU và hiện nay muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này. Hoặc nếu chưa xuất hàng sang EU, doanh nghiệp của bạn có nên xâm nhập vào thị trường này hay không? Đâu là các thị trường mục tiêu mới bạn cần hướng tới và sản phẩm chính nào bạn nên lựa chọn? Đây chính là những câu hỏi được đặt ra đối với các nhà xuất khẩu da giày ở các nước đang phát triển khi muốn mở rộng xuất khẩu sang thị trường EU hoặc đối với những công ty đang cân nhắc bắt đầu xuất khẩu da giày EU song chưa chắc chắn liệu đã phải là thời điểm thích hợp để xâm nhập thị trường tiềm năng này. Những chỉ dẫn và những gợi ý thiết thực được dưới đây sẽ giải đáp phần nào những vấn đề nêu trên với hy vọng sẽ là những bí quyết giúp bạn đưa ra được quyết định đúng đắn của mình để đi đến thành công. 1. Xác định mức độ sẵn sàng xuất khẩu của doanh nghiệp Trước tiên, bạn cần xác định công ty của mình đã sẵn sàng xuất khẩu hay chưa. Nếu đã sẵn sàng, đã đến lúc bạn cần dành sự quan tâm chú ý đặc biệt vào thị trường này. Bởi, EU là thị trường da giày hứa hẹn đem lại nhiều vận hội cho các doanh nghiệp nỗ lực tiếp cận thị trường này. Trong những năm gần đây, hoạt động sản xuất trong ngành da giày đã có sự dịch chuyển lớn sang các nước có thu nhập thấp. Đây là một sự lựa chọn hợp lý về mặt kinh tế vì giá nhân công chiếm một phần lớn trong chi phí sản xuất da giày, trong khi sản lượng da giày tăng cao theo năm dù giá sản phẩm giảm. Tuy nhiên, trước khi xem xét nghiêm túc đến vấn đề xuất khẩu, các nhà xuất khẩu da giày ở các nước đang phát triển cần phải thực hiện được có một số yêu cầu quan trọng mà thị trường EU đòi hỏi. Đó là: a) Tuân thủ với những yêu cầu tiếp cận thị trường châu Âu Dưới đây là một số yêu cầu quan trọng trong hoạt động xuất khẩu da giày sang EU: • Dán nhãn hàng da giày. Nếu doanh nghiệp bạn sản xuất, nhập khẩu hoặc bán da giày, bạn cần phải đảm bảo rằng các sản phẩm của mình được dán nhãn ghi rõ thành phần nguyên vật liệu cấu thành sản phẩm, như mũi giày, lót và đế giày. Các vật liệu cần phải được dán nhãn theo một trong bốn cách sau: da, da thuộc, vật liệu dệt hoặc các nguyên liệu khác. • Những vấn đề môi trường trong hoạt động sản xuất da giày. Hướng dẫn (2002/61/EC) của EU hạn chế sử dụng các chất và chế phẩm nguy hiểm (thuốc nhuộm azo) dùng trong các sản phẩm da hoặc vải dệt, gồm có da giày. • Công ước CITES về kinh doanh các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng (CITES), trong đó bao gồm những quy định (EC 338/97) về các sản phẩm da có chứa nguyên liệu lấy từ các loài vật có nguy cơ tuyệt chủng. • Đóng gói. Toàn bộ quy trình đóng gói hàng nhập khẩu cần phải tuân thủ các tiêu chuẩn châu Âu (có thể sử dụng lại, tái chế, có thể phục hồi về năng lượng hoặc có thể làm thành phân trộn; có khối lượng hoặc trọng lượng tối thiểu để duy trì các mức an toàn, vệ sinh cần thiết và được người tiêu dùng chấp nhận; chứa hàm lượng kim loại nặng và chất độc hại khác không vượt quá mức tối thiểu. EU cũng quy định về khối lượng tối đa đối với hàng đóng gói và đưa ra những quy định cụ thể về đóng gói hàng bằng bao bì gỗ. • Chống phá giá. Đây đã và đang là vấn đề nổi cộm trong ngành da giày giữa EU và các nước xuất khẩu trong những năm gần đây. EU đã tăng cường các biện pháp hạn chế nhập khẩu da giày từ một số nước nhằm bảo vệ ngành da của mình và ngăn chặn hoạt động bán phá giá sản phẩm quy mô lớn có thể gây ảnh hưởng bóp méo sự vận hành thông thường của thị trường khối này. b) Đáp ứng những yêu cầu đặc thù của ngành da giày Những yêu cầu về chất lượng Người tiêu dùng EU đang tìm kiếm các nhà cung cấp tin cậy có khả năng cung ứng thường xuyên với chất lượng sản phẩm ổn định. Các thị trường khác nhau có những yêu cầu khác nhau về chất lượng, nguyên vật liệu, kích cỡ giày, màu sắc…Căn cứ vào đó, những yêu cầu về chất lượng tối thiểu đã được đặt ra. Nhiều công đoạn kiểm tra được thực hiện để đảm bảo rằng vật liệu (da, vải dệt…) đáp ứng được tiêu chuẩn mà người tiêu dùng đặt ra như độ vững chắc. Các phương pháp kiểm tra kỹ thuật được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn châu Âu, các chuẩn mực quốc gia hoặc tiêu chuẩn ISO. Một yêu cầu khác cũng được đưa ra, đó là khả năng truy xuất nguồn gốc. Sản phẩm hoàn chỉnh cần phải có thể truy xuất được nguồn gốc thông qua chuỗi cung cấp. Điều này đòi hỏi phải có sự ghi chép chi tiết và các thủ tục kiểm tra nghiêm ngặt đối với các chu trình
sản xuất có liên quan. Độ tin cậy Thị trường da giày EU có những đòi hỏi cao về hoạt động hậu cần. Tổng thời gian bình quân để hoàn thành đơn hàng ngày càng được rút ngắn và độ tin cậy về giao hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Các nhà cung cấp cần phải rất linh hoạt, mềm dẻo và thời gian đáp ứng (từ khi nhận được đề nghị báo giá đến khi nhận đơn mua hàng) cần phải là tối thiểu và có thể kiểm soát. Do vậy, việc giao hàng theo đúng thời hạn đã định là rất quan trọng. Cần phải giữ vững chấp hành về tiêu chuẩn chất lượng. Trên thực tế, điều này sẽ thường đồng nghĩa với việc đầu tư mua thiết bị mới và đầu tư giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực. Chữ tín có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nhà xuất khẩu da giày từ các nước đang phát triển. Xâm nhập vào thị trường EU là một việc làm khó khăn và nếu bạn không giữ lời hứa, bạn sẽ mau chóng bị gạt ra khỏi cuộc chơi. Giá cạnh tranh Các nhà bán lẻ hoặc các nhà phân phối thường đưa ra được các mức giá có tính cạnh tranh khi mua hàng hàng từ một nước đang phát triển. Mặc dù giá cả là một yếu tố rất quan trọng, song điều cũng quan trọng không kém là bạn không nên để bị coi thuần tuý là nguồn cung cấp sản phẩm giá thấp. Kỹ năng giao tiếp chuyên nghiệp Các khách hàng tiêu dùng EU luôn nghĩ rằng các nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển nắm vững các kỹ năng giao tiếp. Do vậy, bạn cần phải cởi mở và rõ ràng khi trình bày, đúng hẹn và nhanh chóng giải đáp các câu hỏi, thắc mắc và các vấn đề một cách thoả đáng. c) Chuẩn bị sẵn sàng cho hoạt động xuất khẩu d) Tiến hành phân tích tài chính Xuất khẩu bao hàm cả việc chấp nhận rủi ro. Do đó, bạn cần tiến hành phân tích tài chính để có thể đưa ra quyết định có xuất khẩu hay không. Nếu dự tính về mức lợi nhuận và thua lỗ của kế hoạch xuất khẩu không khả quan, bạn vẫn có thể quyết định không xuất khẩu vì rủi ro tài chính quá cao. Trong trường hợp công ty của bạn không thể đáp ứng những yêu cầu tối thiểu được đề cập trên, hay chưa sẵn sàng xuất khẩu và/hoặc không thể đáp ứng được những điều kiện này trong thời hạn ngắn, thì doanh nghiệp của bạn không nên xuất khẩu sang EU. Mặt khác, nếu bạn cảm thấy không có gì phải lo ngại về những vấn đề này, bạn có thể cân nhắc việc xâm nhập thị trường EU và để xúc tiến xuất khẩu thành công, những bước tiếp theo bạn phải làm là: 2. Lựa chọn sản phẩm và thị trường Khi bạn cảm thấy công ty của bạn đã sẵn sàng với việc xuất khẩu, đã đến lúc lựa chọn sản phẩm và nước EU là thị trường mục tiêu. Lựa chọn sản phẩm Bạn nên chú trọng vào một sản phẩm da giày cụ thể. Việc dồn công sức để phân tích toàn bộ thị trường da giày châu Âu sẽ không có giá trị nếu doanh nghiệp của bạn chỉ chuyên sản xuất một loại sản phẩm như xăng đan. Ví dụ, mặt hàng ưu tiên của bạn có thể là sản phẩm đem lại nhiều lợi nhuận nhất hoặc là sản phẩm đòi hỏi ít tiền đầu tư ban đầu nhất. Có nhiều điểm bạn nên lưu ý ở đây. Chẳng hạn, bạn có thể sản xuất các loại xăng đan có dán nhãn cho từng đối tượng khách hàng hoặc các sản phẩm của bạn có độc đáo đối với chính doanh nghiệp của bạn hoặc trên thị trường nội địa (như làm bằng dây thừng/vật liệu dệt với các hình in đặc biệt) hay không. Lựa chọn nước nhập khẩu EU EU không phải là một thị trường đồng đều. Hiện nay EU có 27 nước thành viên và mặc dù giữa một số các nước thành viên có những nét tương đồng, song trong một số trường hợp những khác biệt sẽ vượt trội những điểm tương đồng. Do đó, điều quan trọng ban đầu là chỉ nên chú trọng vào một nước. Thậm chí, bạn cần phải nắm rõ những điểm khác biệt quan trọng giữa các nước. Ví dụ, miền Bắc Italia rất khác biệt so với miền Nam, và ở Đức vẫn có sự khác biệt giữa Đông Đức và Tây Đức. Khí hậu miền Bắc và miền Nam EU hoàn toàn trái ngược. Yếu tố này có tác động quan trọng đến các kiểu mẫu giày dép mà bạn dự định sẽ xuất sang các thị trường này. Hãy cố gắng giới hạn sự tìm kiếm ban đầu của bạn gói gọn ở hai hoặc ba thị trường. Sau đó bạn cần triển khai điều tra nghiên cứu sâu đối với từng thị trường đã được xác định. Bạn có thể sử dụng các tiêu chí sau đây để lựa chọn thị trường xuất khẩu: a) Tình hình nhập khẩu da giày vào EU Tối thiểu bạn cần phải tiến hành phân tích: • Tình hình nhập khẩu da giày EU phân theo sản phẩm (các mặt hàng da giày nào được nhập nhiều nhất?); • Tình hình nhập khẩu da giày EU phân theo nước (Nước nào nhập nhiều nhất?); • Tỉ trọng của các nước đang phát triển trong cán cân nhập khẩu này (thị phần của các nước đang phát triển càng cao thì khả năng nước đang phát triển được chấp nhận là nguồn cung cấp càng lớn); Tình hình tăng trưởng nhập khẩu? Hãy lưu ý đến tầm quan trọng của tỉ trọng mặt hàng da giày trong các số liệu này. Thông tin này có thể cho thấy phạm vi hợp tác giữa các nước hoặc các đầu mối nhập khẩu được lựa chọn để giải quyết thiếu hụt trên thị trường da giày thành phẩm. b) Tiêu thụ Ít nhất bạn phải trả lời được các câu hỏi sau: • Nhu cầu về các sản phẩm da giày ở từng nước EU như thế nào? • Tình hình cầu trên thị trường da giày EU. Các nước EU nào có mức cầu tăng cao nhất? • Các xu hướng quan trọng nhất và làm thế nào để điều chỉnh sản phẩm của bạn cho phù hợp Khi phân tích các tiêu chí này, cần lưu ý rằng nước nhập nhập khẩu lớn nhất của EU không phải lúc nào cũng là thị trường đáng quan tâm nhất đối với bạn. Ví dụ, mặc dù Đức là nước nhập khẩu da giày lớn nhất trong khối EU về kim ngạch và khối lượng, song trên thực tế căn cứ vào tỉ lệ tăng trưởng và/hoặc mối quan quan tâm của thị trường này về sản phẩm của doanh nghiệp bạn, thì thị trường nước khác lại có thể hấp dẫn hơn nhiều. Một vấn đề khác đáng chú ý là quy mô sản xuất nội địa của một nước. Liệu hoạt động sản xuất đó có mạnh hay dễ bị tổn thương bởi sự cạnh tranh từ bên ngoài hay không?
c) Nghiên cứu cơ bản Ngoài công việc nghiên cứu qua Internet, bạn nên tiến hành nghiên cứu cơ bản cho riêng mình. Công việc này đòi hỏi bạn cần phải đàm luận với các chuyên gia nghiên cứu về thị trường da giày EU. Họ có thể cung cấp cho bạn thông tin trực tiếp và cực kỳ có giá trị để giúp bạn đưa ra được quyết định đúng đắn. Hãy cố gắng phỏng vấn các nhà nhập khẩu, các chuyên gia trong ngành cũng như các chuyên gia khác. Nhìn chung, cách tốt nhất để có những thông tin này là nói chuyện với mọi người (tại hội chợ hoặc gọi điện thoại). d) Phân tích đối thủ cạnh tranh Hãy nghiên cứu đối thủ cạnh tranh của bạn và học hỏi họ. Bạn có thể tìm hiểu thấy đâu là điểm mạnh, các yếu tố dẫn đến thành công, mức giá, nguyên vật liệu, mức độ hoàn thiện của các sản phẩm và/hoặc giá trị gia tăng của các sản phẩm này. Đừng quên rằng đối thủ cạnh tranh có thể là ở chính nước mình, ở các nước đang phát triển khác và ở EU. e) Lý lẽ thông thường Đừng bao giờ đánh giá thấp tầm quan trọng của lý lẽ thông thường và suy đoán để có thể đưa ra quyết định đúng đắn. Ưu tiên Các xu hướng tiêu dùng đóng vai trò rất quan trọng trên thị trường da giày. Đối với các sản phẩm tiêu dùng, xu hướng trong tương lai có ý nghĩa quan trọng như là các số liệu thống kê về những gì đã diễn ra trong quá khứ. Mặc dù những số liệu này sẽ giúp bạn thấy được tính chất của mặt cung luôn vận động thay đổi. Ý kiến của các chuyên gia trong ngành cũng có ý nghĩa quan trọng. Họ cung cấp thông tin trực tiếp giúp bạn lựa chọn các nước và các sản phẩm mục tiêu của mình. 3. Xâm nhập thị trường Sau khi bạn đã lựa chọn được sản phẩm ưu tiên và thị trường mục tiêu trong khối EU, bạn cần chú trọng đến kênh phân phối phù hợp. Các kênh phân phối có thể trên thị trường EU là các nhà nhập khẩu, các đại lý, các nhà phân phối và/hoặc cung ứng trực tiếp. Cung ứng trực tiếp (Direct sourcing) Những nỗ lực nhập cuộc vào thị trường EU trực tiếp bằng cách chú trọng đến người tiêu dùng về lý thuyết là một phương án lựa chọn song rẩt rủi ro. Mặc dù người tiêu dùng mua sản phẩm trực tuyến, song họ có xu hướng sử dụng một nguồn hàng đáng tin cậy. Nguồn cung cấp này có nhiều khả năng là từ trang thông tin điện tử của một hãng bán lẻ nổi tiếng hoặc của một công ty sản xuất. Hình thức bán hàng trực tiếp phổ biến hơn là tiếp cận một trong các hãng bán lẻ lớn. Một số các hãng bán lẻ lớn chủ động thuê nhân công ở các nước sản xuất để tìm kiếm các nguồn cung cấp mới và đáng tin cậy. Họ trở thành một lực lượng chiếm ưu thế trong hoạt động kinh doanh da giày. Mỗi một nhà bán lẻ có chính sách mua của riêng mình. Các nhà nhập khẩu/bán buôn Hầu hết các nhà nhập khẩu có phạm vi khách hàng rất lớn với nhiều ứng dụng rất đa dạng. Nếu các sản phẩm của bạn có thể tham gia nhiều thị trường hoặc các kênh bán hàng, thì tìm một nhà nhập khẩu có thể là sự lựa chọn đúng đắn. Nhà nhập này cần có kiến thức sâu rộng về thị trường. Sự đòi hỏi về mức vốn hạn chế vì nhà nhập khẩu hoặc bán buôn nắm giữ cổ phần của mình, nên sẽ có ít rủi ro tài chính xảy ra nếu bạn thất bại do không có sự liên lạc trực tiếp với những người mua chính (đó là các nhà bán lẻ). Các đại lý Quyết định có nên sử dụng đại lý hay không có ý nghĩa quan trọng. Đại lý được lựa chọn phải là người trung gian độc lập giữa nhà sản xuất (ở nước ngoài) và nhà bán lẻ. Đại lý này được hưởng hoa hồng do nhà sản xuất trả. Đại lý này thường phụ trách một khu vực địa lý nhất định. Vai trò của các đại lý đang dần suy giảm và hạn chế trong phạm vi ngành nghề chính hoặc ngành nghề độc lập. Đôi khi, các đại lý tự lo việc khởi sự và bán hàng trong kho và trong trường hợp này họ đóng vai trò giống như một nhà bán buôn. Bạn luôn phải cân nhắc kỹ càng về những điểm bất cập khi làm việc với các nhà nhập khẩu và các đại lý. Theo luật pháp EU, các đại lý (ngược lại với các nhà nhập khẩu) được bảo vệ rất chặt chẽ. Khi đã giao kết với họ, sẽ rất khó qua mặt họ để giao dịch trực tiếp với các khách hàng mà họ đã thiết lập được mối quan hệ. Các nhà phân phối Các nhà phân phối có nguồn cung chính là một số nhà sản xuất/cung cấp có trách nhiệm đảm bảo đủ mức dự trữ cho nhà phân phối. Đôi khi nhà nhập khẩu cũng có thể đóng vai trò là nhà phân phối, mặc dù điều này không phải lúc nào cũng đúng. Một nhà phân phối có khuynh hướng làm đại diện cho một nhà chế tạo hoặc một nhóm các nhà chế tạo/cung cấp và chịu trách nhiệm bán các mặt hàng da giày cụ thể cho các kênh bán hàng khác nhau. Các nhóm mua hàng Các nhóm mua hàng đóng vai trò quan trọng trên thị trường da giày. Họ có thể là các nhà kinh doanh đơn lẻ hoặc các nhà bán lẻ hợp sức và cộng tác như là một lực lượng mua và tiếp thị chung. Kênh này có thể thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà sản xuất cho rằng sản phẩm của họ phù hợp nhất với ngành nghề độc lập hơn là với các đại lý bán lẻ lớn. Ngoài ra cũng có những mặt hạn chế. Ví dụ, cung cấp cho một nhóm mua cụ thể có thể ngăn cản bạn tiếp cận đến các kênh thị trường khác. 4. Các công cụ tiếp thị xuất khẩu Bước tiếp theo trong kế hoạch xuất khẩu của bạn là lựa chọn các công cụ tiếp thị đối với sản phẩm xuất khẩu, tính chi phí, định giá và xúc tiến xuất khẩu. Sản phẩm xuất khẩu Trước tiên, bạn cần thiết kế các sản phẩm của mình phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng và yêu cầu của thị trường EU. Tiêu chuẩn chất lượng đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề này vì chúng sẽ tạo ra sự tin tưởng cho các khách hàng tiềm năng. Các nhà xuất khẩu mới tham gia thị trường EU cần tập trung vào một hoặc hai sản phẩm và chuyên môn hoá sản xuất các mặt hàng này để có thể cung cấp cho khách hàng của mình sản phẩm nổi bật. Khi nhu cầu của người tiêu dùng được thoả mãn, phạm vi sản phẩm có thể được
mở rộng. Ví dụ, bảng dưới đây có thể giúp các nhà xuất khẩu xác định rõ tình hình cung cấp của mình, đông thời đưa ra những điều kiện tiên quyết cơ bản theo từng loại sản phẩm khi giao dịch với EU: Bảng. Ví dụ về những yêu cầu đối với sản phẩm xuất khẩu
Sản phẩm
Chủng loại
Nhãn hàng
Các yêu cầu cơ
Giày đế mềm
Sản xuất đại
- Sản phẩm
bản về sản phẩm - Bền và chống
chức - Nhân viên bán hàng và
trà
tiêu chuẩn
trơn trượt
tiếp thị
- Nhãn hiệu
- Hợp thời trang
- Đáp ứng theo yêu cầu
của mình
- Những yếu tố về
của người tiêu dùng
hoặc
môi trường
- Nhanh và đáng tin cậy
- Gia công
- Giá cả và nguyên
theo giấy Giày gót thấp
Sản xuất theo đơn đặt hàng
Những yêu cầu về tổ
vật liệu
phép - Sản phẩm
- Dùng thông
- Nhân viên bán hàng và
độc đáo
thương
tiếp thị
- Nhãn hiệu
- Giày lười
- Liên hệ chặt chẽ với thị
của mình
- Thử vừa vặn
trường
hoặc
- Các yếu tố môi
- Phòng phát triển sản
- Gia công
trường
phẩm mới
theo giấy
- Giá cả và nguyên
phép
vật liệu
Tính chi phí và định giá Hầu hết các nhà xuất khẩu báo giá bằng đồng euro cho các khách hàng châu Âu. Giá và lợi nhuận chịu sự chi phối bởi một vài yếu tố tuỳ thuộc vào bạn đang ở khâu bán hàng nào trong dây chuyền phân phối. Các nhà bán buôn và các nhà nhập khẩu khác tính chi phí dựa vào giá CIF và áp dụng các biên lề. Chi phí mua hàng được đưa lên bờ (landed cost) đối với nhà nhập khẩu là giá FOB cộng với phí giao hàng, bảo hiểm và thuế nếu được áp dụng. Nếu các nhà xuất khẩu thấy biên lợi nhuận của mình quá thấp, họ sẽ cố gắng giảm thiểu các chi phí hoặc điều chỉnh các biên lề. Nếu điều này là không thể, không nên tiến hành hoạt động xuất khẩu. Các biên lề rất khác nhau, tuỳ vào chủng loại sản phẩm và kênh bán lẻ. Các nhà bán lẻ giày dép tăng giá giá từ 100% trở lên. Các nhà cung cấp có thể thường sửng sốt với mức giá tăng mà một số nhà bán lẻ đưa ra, dù chi phí sản xuất hạ, chi phí khác trong chuỗi phân phối tăng và các chi phí này ngày càng chiếm một phần lớn hơn trong giá bán so với chi phí sản xuất được tính vào. Theo quan điểm của các nhà xuất khẩu, trong cơ cấu chi phí sản xuất giày da, nguyên vật liệu chiếm 70%, giá nhân công: 15% và 15% còn lại là chi phí và lợi nhuận. Khi định giá xuất khẩu, cần lưu ý một số điểm sau: • Đặt mục tiêu đưa ra mức giá mà thị trường có thể chấp nhận được. Đừng vượt “các mức giá” hiện hành trên thị trường đối với các sản phẩm tương tự. Mức giá đưa ra cần tương ứng với giá của các đối thủ cạnh tranh; • Mức giá đưa ra cần phải phản ánh được mức độ chất lượng sản phẩm, việc giao hàng và xúc tiến bán hàng của công ty bạn; • Ghi nhớ rằng không dễ gì có thể tăng giá khi bạn đã nhất trí giao hàng với mức giá đã định; • Định giá là sự kết hợp kiến thức hiểu biết về các chi phí nội địa và cách tính các chi phí phát sinh khi xúc tiến các hoạt động của doanh nghiệp bạn trên thị trường; • Giá thương thảo tuỳ thuộc vào các thuật ngữ trong thương mại quốc tế, phương thức thanh toán, các điều khoản tín dụng và rủi ro tiền tệ, khối lượng và phương tiện vận chuyển. Tỉ giá hối đoái thường biến động và hầu hết người mua đều tiên liệu trước được điều này. Xúc tiến bán hàng Trong ngành da giày, có một số kỹ thuật xúc tiến bán hàng quan trọng mà bạn nên vận dụng trong các hoạt động tiếp thị của mình. Đây không phải là một danh sách hoàn chỉnh song những yếu tố chính vẫn là: Catalogue hoặc sách giới thiệu Điều cân thiết là bạn có thể giới thiệu các bức ảnh sắc nét về từng sản phẩm của mình cùng với thông tin về các đặc điểm kỹ thuật chính và những lợi ích thiết thực có liên quan đến mỗi sản phẩm. Bạn sẽ sử dụng hình ảnh này gửi cho khách hàng (có thể trong chiến dịch gửi thư) hoặc giới thiệu trong một buổi trình bày. Ngoài ra, bạn cần tìm hiểu đối thủ cạnh tranh của mình giới thiệu catalogue của mình. Bạn sẽ biết được nhiều loại sách giới thiệu khác nhau tại các cuộc hội chợ. Website Lập trang thông tin điện tử là một hình thức phổ biến trong ngành gia dày. Đặc biệt khi chữ tín và lòng tin đang được xem là những thử thách lớn đối với các nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển, thì trang web của doanh nghiệp bản có thể giúp giải quyết phần nào
vấn đề này. Một trang web giới thiệu được các sản phẩm được xác định rõ, các lợi thế cạnh tranh (như tính năng USP, chất lượng, giảm chi phí và độ tin cậy khi giao hàng) và một danh sách những người tiêu dùng khác cùng góp phần tạo ra một môi trường đáng tin cậy. Quảng cáo Chi phí quảng cáo có thể đắt đỏ, song việc lựa chọn kỹ càng tạp chí da giày phù hợp nhất có thể là một phương pháp hiệu quả để đến được với những khách hàng tiêu dùng tiềm năng mới. Hãy chú ý rằng chi phí thực hiện quảng cáo không nên vượt quá chí thuê chỗ đặt quảng cáo. Một cách khác là có thể sử dụng báo chí để được quảng cáo miễn phí bằng cách cung cấp cho báo giới một thông cáo báo chí. Tuy nhiên, không phải lúc nào bạn cũng được bảo đảm được giữ chỗ. Tham gia hội chợ thương mại Đây là biện pháp có hiệu quả cao để tiếp cận các khách hàng tiêu dùng tiềm năng. Vì cách làm này có thể rất tốn kém, nên cần phải lên kế hoạch một cách hợp lý để đạt được hiệu quả tối đa khi tham gia hội chợ. Cụ thể là, bạn cần lập một danh sách các khách hàng tiềm năng có thể tham dự hội chợ. Bạn cần liên hệ với họ trước và cố gắng hẹn gặp để họ có thể ghé thăm gian hàng của bạn. Ngoài ra, bạn cần thảo luận với các chuyên gia về cách bài trí gian hàng và cần ghi lại tất cả các cuộc găp mặt để có thể tiếp tục duy trì liên lạc sau hội chợ. Hàng năm, có nhiều hội chợ về da giày được tổ chức tại EU, trong đó phải kể đến các hội chợ lớn sau đây: • Hội chợ Giày quốc tế GDS được tổ chức vào tháng 3 vào tháng 9 hàng năm tại Düsseldorf, Đức (http://www.gds-online.com ) • Hội chợ MIDEC tổ chức vào tháng 2 và tháng 9 hàng năm tại thủ đô Paris, Pháp (http://www.midec.com ) • Hội chợ MICAM tổ chức vào tháng 3 và 9 hàng năm tại thành phố Milan, Italia (http://www.micamonline.com ) 5. Tài chính Hiển nhiên bạn muốn biết liệu hoạt động xuất khẩu có đem lại lợi nhuận hay không. Trên thực tế, bạn chỉ cần làm một phép tính đơn giản: doanh thu - chi phí = chỉ tiêu lợi nhuận. Hãy cố gắng tính đến mức độ ảnh hưởng của các hoạt động đến doanh thu và khả năng sinh lợi nhuận. Điều cuối cùng là bạn nên đưa ra dự báo về doanh số bán xuất khẩu trong khoảng thời gian từ một đến ba năm. CBI
NĂM 2010: TỔNG KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH DA GIÀY VIỆT NAM ĐẠT 6,5 TỶ USD
Ngày 28/9/2007. Cập nhật lúc 8h 42' (ĐCSVN) - Mục tiêu tới năm 2010 của ngành da giày Việt Nam là sản xuất 720 triệu đôi giày dép các loại; 80,7 triệu chiếc cặp túi xách và 80 triệu m2 da thuộc thành phẩm, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành lên tới 6,5 tỷ USD. Ngành công nghiệp da giày Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp có lợi thế xuất khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam là nước đứng thứ thứ 4 thế giới về xuất khẩu da giày sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy. Năm 1992, ngành da giày đã xuất khẩu được 5 triệu USD và liên tục tăng trưởng. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu da giày sau 10 năm đã tăng 369,2 lần, đạt tốc độ tăng trửơng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác. Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu da giày đứng thứ 4 thế giới sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy. Năm 2006, trước tình hình sản xuất kinh doanh có nhiều biến động do ảnh hưởng của các vụ kiện bán phá giá các loại giày mũ da xuất khẩu vào thị trường các nước châu Âu (EU) nhưng ngành da giày vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao, mở rộng được thị trường… Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu da giày cả nước đạt khoảng 3,56 tỷ USD, tăng 16,9% so với năm 2005, đã vượt 6,1% so với kế hoạch (3,35 tỷ USD). Trong số các thị trường xuất khẩu thì EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành da giày Việt Nam bởi khối lượng tiêu dùng cao và đây là vùng khí có khí hậu hàn đới, thời tiết quanh năm lạnh nên nhu cầu về da giày rất lớn. Hàng năm, 90% sản phẩm do ngành sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế, trong đó EU chiếm 70% thị phần, Mỹ 20% thị phần, Nhật Bản 3% thị phần, Việt Nam là nước đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Inđônêxia về xuất khẩu giày dép vào EU. Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của ngành da giày Việt Nam, chỉ tính riêng năm 2006, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang Mỹ đạt 802 triệu USD, tăng 31% so với 2005, chiếm 22% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Inđônêxia vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004 giảm 13,5% so với năm 2003 và 32,2% so với năm 2002; kim ngạch xuất khẩu giày dép cuả Thái Lan
vào thị trường Mỹ chỉ đạt 292 triệu USD, giảm so với 315 triệu USD năm 2001. Với thực tế trên, đây sẽ là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép của Việt Nam phát triển mạnh trong thời gian tới. Tuy là một ngành có tốc độ tăng trưởng cao, đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng hiện tại, ngành da giày cũng đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Đặc biệt là mức thuế bán phá giá 10% mà EU đánh vào giày dép Việt Nam đã khiến các doanh nghiệp da giày bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, các doanh nghiệp da giày Việt Nam cần rút kinh nghiệm sâu sắc từ vụ kiện bán phá giá, nâng cao hơn nữa tinh thần đoàn kết và tăng cường học hỏi. Ngoài ra, các doanh nghiệp luôn phải trang bị cho mình kiến thức để hiểu biết luật lệ, hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán theo thông lệ quốc tế, không để phía nước ngoài tạo cớ ép giá, ảnh hưởng đến giá trị của các sản phẩm xuất khẩu. Việt Nam đã tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ngành da giày cũng cần đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đổi mới thiết bị và công nghệ để thu hút khách hàng. Đây sẽ là điểm tựa vững chắc và quan trọng để đứng vững trên trường quốc tế. Một trong những điểm yếu tồn tại từ rất lâu của ngành là bị động về nguồn nguyên liệu. Nguyên phụ liệu phần lớn đều phải nhập khẩu từ nước ngoài với giá thành cao nên ảnh hưởng đến giá trị gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu của ngành. Tuy kim ngạch xuất khẩu của ngành rất cao nhưng hiệu quả kinh tế thấp, giá trị gia tăng chỉ đạt 25%. Bên cạnh những nỗ lực của ngành nhằm giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu thay vì phải nhập khẩu như hiện nay; Các dự án xây dựng các khu “chợ” vật tư, nguyên liệu cho ngành giày ở các vùng có nhiều nhà máy tập trung cần nhanh chóng được triển khai, đưa vào hoạt động. Đối với hệ thống phân phối sản phẩm, 60% các sản phẩm da giày Việt Nam là gia công cho phiá đối tác nước ngoài dưới hình thức theo đơn đặt hàng, với giá nhân
công rẻ nên các doanh nghiệp chỉ giao hàng đến các nhà buôn mà không trực tiếp xuất khẩu đến các nhà phân phối. Do phải phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống phân phối kinh doanh nước ngoài nên ngành da giày Việt Nam bị lệ thuộc vào nước ngoài trong quá trình sản xuất. Để tránh tình trạng trên, Chính phủ cần tiếp tục đàm phán với những thị trường xuất khẩu da giày lớn của nước ta là Mỹ và EU để họ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới phát huy được thế mạnh của mình và không gặp khó khăn lúng túng khi thị trường xuất khẩu có những biến động bất thường do những tranh chấp thương mại. Để thúc đẩy hoạt động của ngành da giày, bên cạnh việc giải quyết vấn đề về nguồn nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại và xây dựng chiến lược đào tạo đội ngũ công nhân chất lượng cao cũng được lãnh đạo các cấp bộ, ngành quan tâm. Từ năm 2003, được sự hỗ trợ của Chính phủ thông qua chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, đến nay, Hiệp hội đã tổ chức gần 30 đoàn tham gia trưng bày sản phẩm và khảo sát thị trường tại Đức, Pháp, Mỹ, Ý, Trung Quốc với sự tham gia của trên 300 lượt doanh nghiệp trong cả nước. Các hoạt động trên đã giúp các doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp với các khách hàng tiềm năng, giới thiệu, quảng bá các sản phẩm và nâng cao hình ảnh doanh nghiệp, nắm bắt sâu hơn nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng ở từng khu vực khác nhau trên trường quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp đã chú trọng tới việc chuẩn bị mẫu mã, các bộ sưu tập mới để trưng bày tại các gian hàng tham gia, có tính toán kỹ về gía cả, chi phí thực hiện các
đơn hàng để ký kết hợp đồng ngay tại hội chợ. Sự hiện diện của các doanh nghiệp, gian hàng chung cuả Hiệp hội đã tạo dựng một hình ảnh ngành da giày Việt Nam trên trường quốc tế… Ngoài ra, Hiệp hội còn tổ chức nhiều khoá đào tạo về thiết kế và phát triển sản phẩm, marketing, kinh doanh, xuất nhập khẩu và các khoá dành cho các doanh nghiệp hướng tới vượt qua các rào cản thương mại, đảm bảo các yêu cầu về môi trường, an toàn sức khoẻ… của các nhà nhập khẩu. Hiệp hội tập trung công tác đào tạo vào hai đối tượng chính là đội ngũ cán bộ thiết kế và phát triển sản phẩm; đội ngũ maketing, xuất nhập khẩu. Hai lực lượng này là nhân tố quyết định giúp cho việc đáp ứng mẫu mã và thời hạn giao mẫu chào hàng. Song hành với các hoạt động trên, công tác tuyên truyền, quảng bá sản phẩm và giới thiệu hình ảnh doanh nghiệp cũng đã được ý thức và quan tâm. Theo lộ trình hội nhập, xu hướng thuế nhập khẩu giày dép sẽ giảm xuống, các doanh nghiệp trong nước sẽ khó cạnh tranh với giày dép nhập khẩu từ Trung Quốc vốn có lợi thế về giá rẻ với mẫu mã đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nếu cố gắng, ngành da giày Việt Nam sẽ phấn đấu vượt qua và duy trì tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tăng 12-15% so với năm 2006 để đạt mức 3,9 – 4 tỷ USD trong năm 2007. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2010, sản xuất giày dép các loại của Việt Nam đạt 720 triệu đôi trong đó xuất khẩu 655 triệu đôi; Cặp túi xách các loại đạt 80,7 triệu chiếc trong đó xuất khẩu 78,47 triệu chiếc; Da thuộc thành phẩm 80 triệu m2, trong đó xuất khẩu 65 triệu m2 đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành có thể đạt khoảng 6,5 tỷ USD, toàn ngành sẽ phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm, gia tăng nhanh số lượng và kim ngạch xuất khẩu thông qua việc tranh thủ các lợi thế, đáp ứng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước, tạo thêm việc làm cho người lao động, đồng thời nâng cao hiệu quả, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế.