TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN ÔN TẬP TNTH TÁC GIA TỐ HỮU 1.Về tiểu sử: - Tố Hữu sinh trưởng trong một gia đình nghèo nhưng có truyền thống văn hóa. - Quê hương xứ Huế để lại dấu ấn khá đậm nét trong phong cách thơ Tố Hữu. - Sớm giác ngộ lý tưởng cộng sản, nhiệt tình tham gia phong trào cách mạng và làm thơ phục vụ cách mạng. 2. Quá trình sáng tác: Con đường thơ của Tố Hữu gắn liền với con đường giác ngộ và hoạt động cách mạng. - Từ ấy (1937- 1946) là tập thơ đầu tay, tiếng reo vui của tâm hồn một anh thanh niên khao khát lẽ sống, bắt gặp lý tưởng của Đảng và hăng hái quyết tâm phấn đấu, hăng hái hy sinh để thực hiện lý tưởng cao đẹp ấy với tinh thần lạc quan. - Việt Bắc(1947- 1954) phản ánh chân thực cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp. Tập thơ viết nhiều về nhân dân, về bộ đội, về quê hương Việt Bắc. Tác phẩm được ghi nhận như một trong nhưng thành tựu xuất sắc của văn học thời kháng chiến chống Pháp . - Gió lộng(1955 - 1964) là tập thơ sáng tác trong thời kỳ Miền Bắc được giải phóng, tiến lên xây dựng cuộc sống mới. Miền Nam vẫn còn bị chia cắt. Nhân dân ta vẫn phải tiếp tục đấu tranh để giải phóng hoàn toàn đất nước. Tập thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, phơi phới lạc quan và thắm thiết ân tình. - Ra trận (1972) và Máu và hoa (1977) là những tập thơ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cổ vũ cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền Nam- Bắc. 3. Phong cách nghệ thuật: - Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị. - Thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. - Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết. - Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc. * * *
1
TÂY TIẾN QUANG DŨNG
1.Cảm hứng chủ đạo, xuyên suốt bài thơ: Nỗi nhớ da diết bao trùm lên cả không gian và thời gian. a. Đoạn đầu (14 câu) : hồi tưởng lại những kỉ niệm của một thời chinh chiến, những cuộc hành quân gian khổ với thiên nhiên, vừa khắc nghiệt lại vừa hùng vĩ thơ mộng. - Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người, niềm thương nỗi nhớ như nén chặt bỗng trào dâng: “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Điệp từ “nhớ” và phép láy vần “ơi” như vẽ ra trạng thái của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ. Nỗi nhớ không rõ hình, không rõ dạng, nhưng lơ lửng, đầy ắp, lớn lao. Qua nỗi nhớ hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và hiểm trở, hoang vu và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng : + Những địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch... gợi lên cái thâm u của những miền đất lạ. + Từ ngữ bạo, khỏe có sức diễn tả mạnh mẽ: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” vừa thể hiện rất đạt sự hiểm trở, dữ dội, hoang vu của núi rừng Tây Bắc vừa đặc tả những gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu. + Hình ảnh: “súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và táo bạo , thể hiện chất lính trẻ trung, yêu đời. Câu thơ : “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Với cách phối âm độc đáo, câu thơ nhiều thanh trắc, gân guốc, dữ dội, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Kết hợp với câu thơ được dệt bằng những thanh bằng làm hiện lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây Bắc. Cái vẻ hoang dại dữ dội chứa đầy nguy hiểm của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác qua những âm thanh ghê rợn của núi rừng: “ Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” Đoạn thơ kết thúc bằng những câu thơ ấm áp, dịu ngọt, mở ra cảnh tượng thơ mộng, thấm đẫm tình quân dân trên những chặng đường hành quân gian khổ.
2
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” b. Đoạn 2 (8 câu tiếp): nhớ những kỉ niệm trên chặng đường hành quân. Một đêm liên hoan văn nghệ được gợi lên với những chi tiết rất thực và rất mộng. Đuốc lửa bập bùng với sự góp vui của những cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, vừa tình tứ, trong vũ điệu đậm màu sắc xứ sở lạ làm ngất ngây những chàng trai Tây Tiến. “ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ” Một buổi chiều sương cao nguyên : “ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Con người và cảnh vật Tây Bắc hiện lên tươi đẹp và thơ mộng. Kỉ niệm vẫn sống mãi . Trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện cho thấy tính thẩm mỹ độc đáo của Quang Dũng đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách họ vẫn lạc quan, yêu đời, hồn nhiên và thơ mộng. c. Đoạn 3 (8 câu tiếp) : nhớ về đồng đội – Quang Dũng đã dựng nên một bức tượng đài hùng vĩ , bi tráng về binh đoàn Tây Tiến: - Hiện thực khốc liệt của chiến tranh: + Cuộc sống thiếu thốn gian khổ: “ Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm” + Với những mất mát hi sinh: “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ” “ Áo bào thay chiếu anh về đất” - Tâm hồn lạc quan yêu đời: “ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm” - Lí tưởng chiến đấu cao đẹp: quên mình vì Tổ quốc “ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”: “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” Ở đoạn này cảm hứng bi tráng đã được bộc lộ một cách tập trung. Cái đau, cái khổ ,nhà thơ nhìn thấy cái oai hùng dữ dội, cái chết của người chiến sĩ Tây Tiến được miêu tả thật sang trọng và lẫm liệt. Cái chết ấy được thiên nhiên hùng vĩ trân trọng tiễn đưa bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng: “ Sông Mã gầm lên khúc độc hành” d. 4 câu kết: lời thề của các chiến sĩ – ý chí quyết tâm của cả một thế hệ
3
của cả một thời đại : “Tây Tiến người đi không hẹn ước” “ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. * * *
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG HOÀNG CẦM
1.Tác giả: Hoàng cầm sinh ra và lớn lên ở quê hương Kinh Bắc, được tắm mình trong dân ca quan họ Bắc Ninh, truyền thống văn hóa dân gian nổi tiếng với tranh Đông Hồ. Chính quê hương là nguồn nuôi dưỡng hồn thơ tác giả và Hoàng Cầm có nhiều bài thơ hay viết về Kinh Bắc. 2.Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Một đêm giữa tháng 4- 1948 đang công tác ở Việt Bắc, nghe tin giặc Pháp tràn về xâm chiếm, tàn phá quê hương, ông xúc động mạnh và ngay đêm ấy bài thơ “Bên kia sông Đuống” ra đời. 3.Nội dung bài thơ: Bài thơ mở đầu và khép lại bằng hình ảnh cô gái Kinh Bắc. Nhà thơ cần có một đối tượng để tâm sự, giải bày, từ đó bộc lộ tình cảm với quê hương một cách tự nhiên, tha thiết và tạo được sự đồng cảm với người đọc. a.Lòng tự hào về quê hương Kinh Bắc giàu đẹp, thanh bình, yên vui trong quá khứ. - Quê hương có dòng sông Đuống nên thơ hiền hòa, lấp lánh, mượt mà màu xanh tràn trề sức sống (các từ láy “lấp lánh”, “xanh xanh”, “biêng biếc” gợi tả sắc màu của sự sống) với dáng “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” sông Đuống như một sinh thể có hồn, có tâm trạng, cùng suy tư, trăn trở trước vận mệnh của dân tộc. - Quê hương no đủ, đầm ấm, hạnh phúc với “lúa nếp thơm nồng”, và đời sống tinh thần lành mạnh “Tranh đông Hồ gà lợn nét tươi trong, màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Tất cả là đặc trưng của Kinh Bắc mà cũng đậm đà bản sắc dân tộc. - Quê hương còn gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám, sinh hoạt chợ búa đông vui, tưng bừng, nhộn nhịp trong cảnh thanh bình “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên”. - Quê hương còn gắn với những con người hiền hòa, nhân hậu, đáng yêu “những cụ già phơ phơ tóc trắng, những em sột soạt quần nâu”. Đặc biệt là những cô gái Kinh Bắc xinh đẹp,tình tứ, duyên dáng: “Những nàng môi cắn chỉ quết trầu”... “Những cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu
4
tỏa nắng”. b. Nỗi thương tiếc, xót xa, căm giận khi quê hương bị giặc tàn phá. - Từ ngày giặc chiếm đóng, tất cả đều tan tác, chia lìa. “Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu?”. Những giá trị tinh thần bị tàn phá, những kiếp người trở nên lạc loài, bơ vơ. Điệp khúc “Đi đâu, về đâu, tan tác về dâu” đã nói lên cảm xúc đau xót uất ngẹn những dấu ấn của một thời bình yên bây giờ không còn nữa. Đặc biệt hình ảnh người mẹ già được miêu tả với nỗi xúc động .Khi cuộc sống chia lìa thì cuộc đời mẹ cũng còm cõi, cơ cực đắng cay: “Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong Bước cao thấp bên bờ tre hun hút”. ........... “Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ” - Và hình ảnh cảm động, tội nghiệp của những con thơ “ú ớ cơn mê, thon thót giật mình” vì bom đạn giặc. - Nỗi đau xót dâng lên đỉnh điểm: “Đứng bên này sông sao mà tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay”. Sự so sánh độc đáo: nỗi đau về tinh thần đã biến thành nỗi đau về thể xác có thể cảm nhận được một cách đầy đủ như bị cắt mất đi một phần cơ thể. Khép lại đoạn thơ là tiếng thét căm hờn, với lòng căm thù giặc sâu sắc được nhà thơ diễn tả bằng một cách nói độc đáo, mạnh mẽ: “Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết nguôi hờn” * * *
ĐẤT NƯỚC NGUYỄN ĐÌNH THI
Đất nước là một bài thơ ngắn được Nguyễn Đình Thi sáng tác trong khoảng thời gian dài (1948- 1955). Bài thơ là sự đúc kết những cảm xúc và suy ngẫm của Nguyễn Đình Thi về đất nước trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp. * Khơi nguồn cảm hứng về đất nước là mùa thu đất nước ở chiến khu
5
Việt Bắc vùng tự do giải phóng trong kháng chiến. 1.Hình ảnh mùa thu đất nước: a.Mùa thu Hà Nội năm xưa: - Đứng giữa đất trời chiến khu, với những đặc trưng của mùa thu: buổi sáng “mát trong”, với mùi “hương cốm mới” nhà thơ nhớ về “những mùa thu đã xa” . - Cảnh vật mùa thu Hà Nội đẹp nhưng buồn, hiu hắt, vắng lặng với cái “chớm lạnh” đầu mùa, cơn gió mùa thu “xao xác heo may” và hình ảnh “lá vàng rơi đầy thềm nắng”. - Con người Hà Nội ra đi với thái độ cương quyết dứt khoát vì trách nhiệm công dân, nhưng lòng đầy lưu luyến, vấn vương: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”. b. Mùa thu nay ở chiến khu Việt Bắc: - Từ hoài niệm về “mùa thu đã xa” nhà thơ trở lại “ mùa thu nay”, mùa thu của cách mạng, mùa thu của độc lập với niềm vui sướng phấn khởi, tự hào. - Không còn xao xác, hiu hắt buồn mà trong trẻo, vui tươi, rộn ràng với những âm thanh, hình ảnh đầy sức sống: “Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phất phới Trời thu thay áo mới Trong biếc, nói cười thiết tha” Tâm trạng reo vui, náo nức, phấn khởi của một con người vừa thoát khỏi cái Tôi cá nhân hòa nhập vào đất nước. Trong cái nhìn say mê của nhà thơ, đất nước ta trong không khí độc lập tự do, nơi nào cũng tươi đẹp, dài rộng bát ngát, màu mỡ phì nhiêu: “Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm ngát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa”. Điệp từ “đây”, điệp ngữ “của chúng ta” có tính chất khẳng định, thể hiện quyền làm chủ non sông chính đáng của con người. - Từ niềm vui, niềm tự hào về những cái “hữu hình” của đất nước trong hiện tại, nhà thơ suy ngẫm, lắng nghe, tự hào về truyền thống bất khuất của dân tộc. - Giọng thơ sâu lắng khi nói về những cái “vô hình” thiêng liêng của đất: “Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất
6
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Hình ảnh đất nước trong chiến tranh: c.Đất nước đau thương: - Hình ảnh nhân hóa, cường điệu có sức khái quát lớn: “Ôi những đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều” - Con người sống nô lệ, tủi nhục với hai thế lực áp bức thực dân, phong kiến: “Bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta Thằng giặc Tây, thằng chúa đất Đứa đè cổ, đứa lột da”. d.Đất nước từ trong đau thương, căm hờn đã đứng lên chiến đấu và chiến thắng: - Những con người bình dị, hồn hậu đã vùng lên với một lòng căm thù giặc sâu sắc và tình yêu nước mãnh liệt: “Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Đã bật lên những tiếng căm hờn” .......... “Ôm đất nước những người áo vải Đã đứng lên thành những anh hùng” - Kết thúc bài thơ là những hình ảnh đẹp tượng trưng cho đất nước từ trong máu lửa chiến tranh, từ trong đau thương căm phẫn đứng dậy, hào hùng – Bức tượng đài Đất nước sừng sững chói ngời tỏa sáng: “Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. * * *
VIỆT BẮC (Trích) Tố HỮU
I.Kết cấu Tác giả chọn thể thơ lục bát truyền thống và lối hát đối đáp giao duyên trong ca dao dân ca với cặp từ xưng hô thân mật “mình – ta” để diễn đạt tình cảm cách mạng.
7
Bằng nghệ thuật đậm đà tính dân tộc, với âm điệu ngọt ngào Việt Bắc là khúc hát ân tình của những người kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa. 1.Tấm lòng Việt Bắc đối với cách mạng được thể hiện qua một loạt câu hỏi. Nhưng hỏi người ra về là để tự khẳng định tình nghĩa thủy chung trước sau như một của Việt Bắc đối với cách mạng. Việt Bắc luôn ghi nhớ 15 năm gian khổ nhưng biết bao mặn nồng “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” 2. Đáp lại tấm lòng sắc son của Việt Bắc, người cán bộ cách mạng về xuôi, khẳng định nghĩa tình thủy chung, không bao giờ quên ơn Việt Bắc: “Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” Bao trùm tâm trạng kẻ ở, người đi là nỗi nhớ da diết, mênh mang với nhiều sắc thái khác nhau: a.Nhớ cảnh, nhớ người: - Cảnh tiêu biểu, đầy thi vị nên thơ: “trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, “Nhớ từng bản khói cùng sương”, nhớ bếp lửa nhà sàn thân thiết, ấm áp “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. - Con người Việt Bắc cần lao, lam lũ, thiếu thốn: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” “Nhớ cô em gái hái măng một mình”, “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. - Nghèo khổ, cơ cực nhưng Việt Bắc dạt dào tình nghĩa: “Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” - Đặc sắc đoạn thơ: “Ta về mình có nhớ ta .......... Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Đoạn thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên “tứ bình” nên thơ giàu sức sống. Nổi bật hình ảnh con người cần cù lao động, giàu tình nghĩa thủy chung, son sắc. b.Những kỉ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng: - Sinh hoạt kháng chiến nhiều vất vả mà lạc quan. “Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi rừng” - Khí thế chiến đấu hào hùng mãnh liệt” “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung
8
Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” - Chiến thắng vang dội: “Tin vui thắng trận trăm miền Hòa bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về”. II. Tổng kết: - Bài thơ thể hiện đạo lý truyền thống dân tộc, đạo lý cách mạng “Uống nước nhớ nguồn”. - Bài thơ đậm đà màu sắc dân tộc. - Nội dung: Thể hiện sự gắn bó sâu nặng với nhân dân, với quê hương đất nước niềm tự hào dân tộc thể hiện qua việc phác họa bức tranh thiên nhiên, con người Việt Bắc thật tươi đẹp và những chiến công oai hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp. - Hình thức: Vận dụng thành công khả năng diễn tả của thơ thơ lục bát và khai thác sáng tạo lối hát giao duyên. * * *
CÁC VỊ LA HÁN CHÙA TÂY PHƯƠNG HUY CẬN
1.Tác giả: Tên thật Cù Huy Cận, sinh năm 1919. Nhà thơ nổi tiếng từ trước cách mạng Tháng Tám. Nổi tiếng : gửi gắm cảm xúc cuộc đời, quá khứ thông qua vũ trụ và tạo vật. 2. Hoàn cảnh ra đời bài thơ: ra đời vào năm 1960 trong dịp Huy Cận đi thực tế chùa Tây Phương. Bài thơ không chỉ là sự cảm thông với nỗi đau của quá khứ mà quan trọng hơn là tìm cách trả lời câu hỏi lớn dưới ánh sáng của thời gian. 3. Tám khổ thơ đầu(phần trọng tâm): Nhà thơ đã đặc tả từng gương mặt, hình hài, dáng dấp của các vị chùa La Hán bằng ngôn từ giàu chất tạo hình. - Khổ đầu: nói những vấn vương, ám ảnh, gợi ấn tượng chung của tác giả, sau khi thăm các pho tượng chùa Tây Phương. “Các vị La Hán chùa Tây Phương Tôi đến thăm về lòng vấn vương Há chẳng phải đây là xứ phật Mà sao ai nấy mặt đau thương?” - Ở pho tượng thứ nhất, bằng những nét đặc tả sự gầy guộc khô héo của
9
thân hình (xương trần chân với tay, tấm thân gầy, sâu vòm mắt), cùng tư thế bất động (Tự bấy ngồi y cho đến nay) trong dáng trầm ngâm đâu khổ đã biểu hiện được cuộc sống khổ hạnh về vật chất, nỗi đau về thể xác. - Pho tượng thư hai ,tác giả sử dụng động từ, tính từ (mắt giương, mày nhíu xệch, trán như nổi sóng, môi cong chua chát, tâm hồn khô héo, gân vặn bàn tay, mạch máu sôi) diễn tả những vận động sôi sục , suy tư của thế giới nội tâm, căng thẳng nỗi đau về tinh thần. - Pho tượng thứ ba, trong tư thế lạ lùng “Chân tay co xếp lại, tròn xoe tựa thể chiếc thai non”, dường như hoàn toàn cách biệt với cuộc sống bên ngoài tác giả lại đặc tả đôi tai dài rộng khác thường đón nhận những tiếng gọi mọi nỗi đau khổ của chúng sinh (đôi tai dài rộng ngang gối, cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn) - Sau khi đặc tả ba pho tượng, tác giả tả chung cả quần thể tượng. Đây là “cuộc họp lạ lùng trăm vật vã”, là hội tụ của những khổ đau, trăn trở, quằn quại “bấy nhiêu quằn quại run lần chót.”. Từ các pho tượng cháy lên những khát vọng giải thoát, truy tìm nhức nhối lời giải đáp, càng suy tư, càng bế tắc: “Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau Quay theo tám hướng hỏi trời sâu Một câu hỏi lớn không lời đáp Cho tới bây giờ mặt vẫn chau” Và bất lực: Nung nấu tâm can vò võ trán Đau đời nhưng cứu được đời đâu”. Bằng cảm hứng mãnh liệt, óc quan sát sắc xảo và trí tưởng tượng phong phú, với nghệ thuật điêu khắc bằng ngôn từ Huy Cận đã biến những pho tượng bất động thành những sinh thể có hành động quyết liệt, có tâm trạng sôi sục căng thẳng, mỗi người một vẻ, hợp thành thế giới khổ đau. Đó chính là nỗi đau khổ quằn quại, bế tắc của cha ông dưới thời phong kiến. Qua đó nhà thơ thể hiện sự cảm thông trân trọng bằng nỗi đồng cảm xót xa với người xưa trong những khổ đau và bế tắc của sự tìm đường. 4. Phần sau của bài thơ: mang yếu tố chính luận. Nhà thơ muốn gửi gắm vào đấy những triết lý về nhân sinh và vũ trụ, muốn khẳng định, chỉ có thời đại mới, với bản chất nhân đạo và bằng thực tế đấu tranh của những thế hệ hậu sinh mới có thể làm tươi lại cuộc đời đã bị khô héo cũ, mới có thể tìm được lời giải đáp cho những câu hỏi đau đời. * * *
TIẾNG HÁT CON TÀU
10
CHẾ LAN VIÊN
1.Tiếng hát con tàu : được viết trong cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc (1958 – 1960). Nhưng bài thơ không phải là một sự minh họa đơn giản, phục vụ kịp thời cho chủ trương cho chính sách. Đối với Chế Lan Viên, sự kiện thời sự ấy chỉ là điểm xuất phát, gợi ý cho tác giả khơi dậy những ấn tượng, cảm xúc, suy ngẫm về nhân dân đất nước và thơ Bài thơ là niềm hân hoan và lời giục giã của một tâm hồn đã thức tỉnh một chân lý lớn, lẽ sống lớn của đời người và đời thơ: đó là Nhân dân, được cảm nhận như là ngọn nguồn của đời sống, của thơ ca. 2. Ý nghĩa biểu tượng: a. Hình ảnh con tàu: Trong thực tế chưa có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Con tàu là biểu tượng cho khát vọng lên đường đến những miền đất xa xôi, đến với nhân dân, đồng thời cũng là đến với những ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật. b. Tây Bắc: Ngoài ý nghĩa cụ thể chỉ địa danh của một vùng đất, còn là một biểu tượng chung cho những miền đất xa xôi của Tổ quốc, nơi nhân dân đang sống trong gian khổ, nơi đã trải qua những năm tháng kháng chiến cùng với những ân sâu nghĩa nặng của nhân dân, nơi đang vẫy gọi mọi người đi tới. Tiếng hát con tàu là lời giục giã, mời gọi, thể hiện khát vọng đến với những vùng đất xa xôi, đến với nhân dân, đồng thời đó cũng là lời tự nhủ hãy trở về với chính tâm hồn mình. * Bài thơ có bố cục theo diễn biến tâm trạng: - Lời mời gọi lên đường (2 khổ đầu) - Thể hiện khát vọng về với nhân dân, gợi lại những kỉ niệm kháng chiến (9 khổ giữa là phần trọng tâm) - Khúc hát lên đường (4 khổ cuối) * Nội dung 9 khổ giữa: - Kháng chiến đã lùi vào kỉ niệm nhưng đó là những năm tháng không thể nào quên. Chế Lan Viên nói về kháng chiến với lòng biết ơn sâu nặng: “Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường” - Về với Tây Bắc là về với nhân dân. Tiếng hát con tàu bộc lộ niềm khao khát mãnh liệt và hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi trở về với nhân dân: “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
11
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”. - Hình ảnh so sánh bình dị gần gũi nhấn mạnh niềm hạnh phúc tột độ và ý nghĩa sâu xa của việc trở về vơi nhân dân. Đối với nhà thơ về với nhân dân là về với ngọn nguồn bất tận của sự sống, về với những gì thân thiết sâu nặng của lòng mình. - Hình ảnh nhân dân đối với nhà thơ là những con người cụ thể, gần gũi. Đó là “anh con, người anh du kích”, với “chiếc áo nâu suốt một đời vá rách, đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”, là “em con, thằng em liên lạc. Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ”, là bà mế già “lửa hồng soi tóc bạc, năm con đau mế thức một mùa dài”. - Cách xưng hô ruột thịt “Con nhớ anh con”, “Con nhớ em con”, “ Con nhớ mế” bộc lộ tình cảm gắn bó sâu nặng đối với những con người đã từng đùm bọc chở che mình trong những năm kháng chiến. - Từ những kỉ niệm ân tình, những hoài niệm về nhân dân và kháng chiến, tác giả đã nâng lên thành những suy ngẫm, những chiêm nghiệm giàu sức khái quát: “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nào qua lòng ta chẳng yêu thương? Khi ta ơ, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. 3. Đặc sắc nghệ thuật: Tác giả xây dựng được một loạt hình ảnh mới có giá trị thẩm mỹ và thể hiện một cách nói thông minh, sắc sảo, tài hoa. * * *
KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU TỐ HỮU
1.Hoàn cảnh sáng tác: bài thơ được viết vào năm 1965 vào dịp kỷ niệm 200 năm , năm sinh NGUYỄN DU , khi TỐ HỮU đi công tác ngang qua huyện NGHI XUÂN ,quê hương tác giả truyện Kiều . 2.Nội dung chính cần khai thác: - Hai câu mở đầu khơi gợi cảm xúc cho nhà thơ “Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều “ - Sáu câu thơ tiếp : TỐ HỮU khái quát cảnh ngộ , thân phận và những phẩm chất tiêu biểu nhất của nàng Kiều : “Hỡi lòng tê tái thương yêu Giữa dòng trong đục cánh bèo lênh đênh
12
Ngổn ngang bên nghĩa bên tình Trời đêm đâu biết gởi mình nơi nao Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào Đành như thân gái sóng sao Tiền Đường” + Trong tâm hồn đầy thương xót của Tố Hữu , Thúy Kiều là người con gái giàu lòng thương yêu , hiếu tình trọn vẹn ,vậy mà than phận lại lênh đênh như cánh bèo trôi nổi giữa dòng đời trong đục . + Những từ láy “ tê tái , lênh đênh , ngẩn ngơ , ngổn ngang “ làm nổi bật tâm trạng ngổn ngang đâu đớn ,cảnh ngộ bơ vơ ,bế tắc và số phận đầy bi kịch của nàng Kiều . + Từ Kiều liên tưởng đến NGUYỄN DU : hiểu và cảm thông sâu sắc cuộc đời của NGUYỄN DU cũng là cánh bèo lênh đênh , giữa dòng trong đục , cũng ngổn ngang bên nghĩa bên tình và cũng có lúc mất phương hướng , bế tắc không tìm lối thoát đành phó thác cuộc đời mình cho số phận “đành như thân gái sóng sao Tiền Đường “. - Hai đoạn tiếp theo ( mỗi đoạn gồm 6 câu ) : TỐ HỮU nói tới tấm lòng nhân đạo và tâm sự của Nguyễn Du + Lối tập Kiều ( dùng lời thơ của NGUYỄN DU để nói lên chính tâm sự sâu kín của ông ): “ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng “ “Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như “ “Mai sau dù có bao giờ .... Câu thơ thuở trước đâu ngờ hôm nay “ +Điều mà Tố Hữu trân trọng nhất ở Nguyễn Du trước hết là “ tình đời “ “tình người “- tấm lòng nhân đạo mênh mông của Nguyễn Du .Tấm lòng nhân ái ấy càng qua nhiều đau khổ , càng trở nên sâu nặng thiết tha . “Trải bao gió dập sóng dồi Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha “ +Nhân danh những con người thời đại hôm nay .Tố Hữu rất mực trân trọng và đánh giá rất cao tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du gửi gắm trong truyện Kiều . “Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời nghìn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày “ Tiếng thơ của Nguyễn Du là tinh hoa của dân tộc ,là lời non nước từ ngàn xưa vọng về .Tiếng thơ ấy có sức mạnh lớn lao ,lay độngcả đất trời vì đã chạm tới những vấn đề sâu sắc nhất của con người và cuộc đời .Tiếng thơ ấy như tiếng mẹ ru những ngày, mãi mãi nuôi dưỡng tâm hồn
13
dân tộc qua các thế hệ .Có thể nói từ xưa đến nay chưa có sự đánh giá Nguyễn Du cao hơn thế “ Tố Hữu đã đề cao thơ Nguyễn Du đến mức xưa nay chưa từng có “ - Hai câu kết : đã tạo ra được không khí vừa cổ kính vừa hiện đại. Sông Lam nước chảy bên đồi Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân * Nghệ thuật - Sử dụng thể thơ lục bát truyền thống - Lối tạp Kiều – tạo không khí thơ phù hợp . - Nghệ thuật sử dụng từ ngữ và hình ảnh cổ . Bài thơ có âm hưởng vừa trang trọng cổ kính ,vừa gần gũi quen thuộc ,rất phù hợp cho việc biểu đạt nội dung :trân trọng và biết ơn những gì tốt đẹp cha ông đã để lại và phát huy chúng trong thời đại mới . * * *
ĐẤT NƯỚC ( TRÍCH MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG – NGUYỄN KHOA ĐIỀM )
* Đất nước trích trong chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” Nguyễn Khoa Điềm thể hiện cốt lõi của nhận thức về đất nước : Đất nước là của nhân dân ,đất nước gắn bó gần gũi ,thân thiết với đời sống mỗi con người ,đất nước cảm nhận theo chiều dài lịch sử và theo chiều sâu của đời sống tinh thần và văn hóa dân tộc 1.Nội dung cần khai thác: Phần 1: Có thể xem như định nghĩa về đất nước ( theo cách cảm nhận riêng của nhà thơ ) - Đất nước là những gì rất cụ thể , gần gũi quen thuộc trong cuộc sống bình dị của mỗi con người ,đất nước hiện hình qua lời kể chuyện của mẹ “ ngày xửa ngày xưa “ với “miếng trầu bây giờ bà ăn “, với tình nghĩa sâu nặng “ cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn “ .Đất nước lớn lên bằng sự nghiệp chiến đấu hy sinh bảo vệ bờ cõi “ khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc “ và sự lao động cần cù ,lam lũ của con người “ hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã giần sàng” - Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay máu trong thịt của anh và em : “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần đất nước ”
14
- Trách nhiệm ,bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với bản thân mình : “Em ơi em Đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất nước muôn đời” - Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống ,lịch sử văn hóa ,phong tục ngàn đời của dân tộc .Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất và Nước tạo nên vẻ đẹp riêng độc đáo .Ở đây đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất các phương diện truyền thống , văn hóa ,phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống mỗi con người . Phần 2 : tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng :Đất nước của nhân dân ,chính nhân dân là người sáng tạo ra đất nước. - Đất nước được qui tụ bằng một loạt các hình ảnh ,hiện tượng , địa danh , những danh nhân ....mà bất cứ người việt nam nào cũng nhận ra :núi VỌNG PHU ,hòn TRỐNG MÁI ,voi HÙNG VƯƠNG , ngựa THÁNH GIÓNG ,núi BÚT non NGHIÊN ,vịnh HẠ LONG và những địa phương mang tên những ÔNG ĐỐC ,ÔNG TRANG , BÀ ĐEN , BÀ ĐIỂM ...như vậy núi sông này ,cuộc đời của dân tộc này là một . “Ôi đất nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta - Đất nước gắn liền với những con người vô danh bình dị, sinh ra lớn lên, lao động và đánh giặc, các thế hệ nối tiếp nhau. “Có biết bao người con gái con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Nhưng họ đã làm ra Đất Nước... - Điểm hội tụ và đỉnh cao của cảm xúc trữ tình là tư tưởng Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân. Đó chính là cách nhìn, ý niệm sâu sắc độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. 2. Đặc sắc nghệ thuật: - Thơ trữ tình – chính luận vừa dồi dào cảm xúc, vừa sâu lắng suy tư. - Tạo ra được một giọng điệu, không khí, không gian nghệ thuật riêng có tác dụng đưa người đọc vào thế giới bay bổng của văn học dân gian nhưng lại mới mẻ và hiện đại tạo nên sự thống nhất tư – tưởng, nghệ thuật. * * *
15
SÓNG XUÂN QUỲNH
1.Tác giả: Nguyễn Thị Xuân Quỳnh (1942- 1988). - Nhà thơ của tình yêu - nữ thi sĩ xuất sắc của nền thơ Việt Nam hiện đại. - Thơ Xuân Quỳnh dung dị, hồn nhiên,trong sáng, chân thật. 2.Bài thơ: “Sóng” là một bài thơ hay nhất về tình yêu, tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh. Cả bài thơ là những cơn sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện trạng thái của lòng mình. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu. a.Sóng và khát vọng trong tình yêu (hai khổ thơ đầu): - Từ hình tượng của con sóng biển với hai trạng thái đối cực dữ dội, ồn ào >
16
c.Khát vọng về một tình yêu lớn cao đẹp (2 khổ cuối): * Tình yêu gắn với niềm tin : con sóng dù gặp muôn vàn khó khăn , nhưng cuối cùng cũng đến bờ , thì tình yêu cũng thế , trải bao gian lao sẽ đến bến bờ hạnh phúc “ Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở “ * Khát vọng sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu – vĩnh viễn hóa tình yêu để nó sống mãi với thời gian: “Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ” 3. Đặc sắc nghệ thuật: - Ẩn dụ, liên tưởng độc đáo, diễn đạt những hình ảnh sóng đôi. - Thể thơ 5 chữ, giọng điệu như sóng thể hiện cho nỗi lòng tự hát. * * *
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ NGUYỄN TUÂN
1.Chủ đề: qua hình tượng con Sông Đà và người lái đò Sông Đà, tác giả ca ngợi con người “thứ vàng mười đã được thử lửa – chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc”. Từ đó khẳng định sức mạnh của con người vào niêm tin, vào tương lai tươi sáng của Tổ quốc. 2. Nội dung chính: a. Hình ảnh con Sông Đà: với hai nét tính cách đối lập nhau . - Hung bạo, hiểm trở, dữ dội, nguy hiểm “kẻ thù số một” đối với con người. +Những đoạn bờ sông dựng vách thành cao vút, vách đá chẹt lòng sông như cái yết hầu, mùa hè đi qua đó cũng cảm thấy lạnh. +Những thác nước hung dữ, nước xô đá,đá xô sóng, sóng xô gió,cuồn cuộn gầm gừ sẵn sàng quật ngửa bụng những con thuyền đi qua. +Những hút nước sâu như lòng giếng, nước xoáy tít ằng ặc như dầu sôi có thể lôi tuột xuống tận đáy những bè gỗ lớn và đánh cho tan tác... - Trữ tình: những quãng sông yên tĩnh và thơ mộng, sông Đà như môt “cố nhân”. +Cách liên tưởng bất ngờ và lối so sánh độc đáo con Sông Đà như
17
“áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bùng nở hoa ban, hoa gạo”. +Tác giả nhìn Sông Đà qua làn mây “mùa xuân dòng xanh ngọc bích” “mùa thu nước Sông Đà lừ chín đỏ như da mặt một người bầm lên vì rượu bữa”. +Cảnh ven sông lặng tờ. Bờ sông “hoang dại như một bờ bờ tiền sử , bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Hai nét tính cách trái ngược hợp lại dựng nên toàn cảnh sông Đà độc đáo, ấn tượng . b. Hình ảnh người lài đò sông Đà: - Ngoại hình: cường tráng khỏe mạnh “thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun”, tay “lêu nghêu như cây sào”, chân “lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại... kẹp lấy một cái cuốn lái tưởng tượng”, giọng nói “ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông”. - Tư thế: hiên ngang, ung dung, tự tin. - Tính cách: gan dạ, linh hoạt, thông minh. - Gắn bó máu thịt với sông nước, hiểu biết sâu sắc đối tượng nắm chắc từng luồn lách, từng ngọn thác, những qui luật biến đổi “tính tình” phức tạp của sông Đà. - Cuộc chiến đấu với sông nước sông Đà: ở trùng vi thạch trận. Cách dùng ngôn ngữ giàu chất tạo hình, huy động những tri thức về quân sự ,về võ thuật, tác giả đã khắc họa được những hình ảnh oai hùng, đầy trí dũng của ông lái đò. - Ông lái đò “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá” nên đã chiến thắng được nó. Ông lão nắm chắc lấy bờm sóng , cưỡi lên bườm thác hung dữ đang tế mạnh, lao vút qua lớp lớp những cửa đá đầy hiểm ác như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước... - Người lái đò vừa có tư thế của một anh hùng, vừa như một nghệ sĩ. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, cho đó là cả một nghệ thuật cao cường, tài hoa. 3. Đặc sắc nghệ thuật: - Sự uyên bác của một trí tuệ và tầm hiểu biết. - Sự phong phú của một tâm hồn, lòng yêu tha thiết những giá trị vật chất và tinh thần của đất nước và dân tộc . - Trí tưởng tượng phong phú ,lựa chọn hình ảnh ,câu văn giàu chất thơ chất nhạc ...thể hiện chất tài hoa tài tử , uyên bác . * Tóm lại qua tác phẩm , Tây Bắc và sông đà hiện lên như một công trình thiên tạo .tác giả thể hiện tình cảm thiết tha gắn bó sâu nặng với sông đà và những con người lao động cần lao .
18
RỪNG XÀ NU NGUYỄN TRUNG THÀNH
I.Tác giả: Tên thật Nguyễn Văn Báu sinh năm1932, quê ở Quảng Nam. - Bút danh: Nguyên Ngọc- Nguyễn Trung Thành. - Nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, gắn bó với chiến trường Tây Nguyên, hiểu biết sâu sắc về cuộc sống, sinh hoạt và những phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên.Viết thành công về đất nước và con người Tây nguyên. II. Tác phẩm: Viết khoảng giữa năm 1965. Gồm hai truyện đan cài với nhau: Truyện về cuộc đời Tnú và cuộc “đồng khởi” của dân làng Tây nguyên. 1.Hình ảnh rừng xà nu: hình ảnh này không chỉ là khung cảnh thiên nhiên làm nền cho câu chuyện mà còn mang ý nghĩa biểu tượng rộng lớn. - Nhà văn đã lựa chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quí, có sức sống mãng liệt, dẻo dai gần gũi với đời sống con người. Mở đầu và kết thúc truyện đều là những hình ảnh cánh rừng xà nu “Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Hình ảnh rừng xà nu được nhắc lại như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, đồi xà nu, lửa xà nu, khói xà nu, dầu xà nu... Hình tượng cây xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống, số phận và phẩm chất của con người, của dân làng Xô man, của nhân dân Tây nguyên. - Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”, cũng như Tnú, như dân làng Xô man yêu tự do . - Rừng xà nu cũng như dân làng Xô man chịu nhiều đau thương bởi sự tàn phá hằng ngày của giặc “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Anh Xút bị treo cổ trên cây vả đầu làng, bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng.Tấm lưng Tnú khi còn là một cậu béngang dọc vết dao đâm chém, máu chảy ra rồi đặc quện lai, tím như nhựa xà nu. Rồi Mai gục xuống trước sự đánh đập tàn bạo của kẻ thù như cây xà nu bị đại bác chặt đứt làm đôi. - Nhưng xà nu có sức chịu đựng và sức sống mãnh liệt dẻo dai không gì tàn phá nổi “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn như mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xô man lớp này tiếp lớp khác đứng lên tiếp tục cuộc chiến đấu. Anh Quyết hy sinh thì có Tnú, Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống cũng như cây Xà nu bị chặt đứt ngay giữa thân mình thì có Dít lơn nhanh đến không ngờ trở thành chị bí thư chi bộ chính trị viên xã đội, rồi những bé Heng thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang lớn lên tiếp bước các thế hệ cha anh.
19
- Cây xà nu gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân làng Xô Man +Trong sinh hoạt :Tnú cầm đuốc soi cho Dít giần gạo , lũ trẻ mặt lem luốc khói xà nu ,Tnú và Mai đốt khói xà nu xông bảng nứa để học chữ . +Trong sự kiện trọng đại : giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng dẻ tẩm xà nu , lửa xà nu soi rõ xác những tên lính giặc . 2.Dân làng Xô Man : là những hình tượng nhân vật đẹp , nổi lên trong bối cảnh hùng vĩ và trang nghiêm của truyện .Mỗi hình tượng đều có vẻ đẹp riêng và mang ý nghĩa tư tưởng sâu sắc a.Cụ Mết : - Ngoại hình : râu dài , mắt sáng, mày xếch ngược , ngực căng như một cây xà nu mới lớn ... - Tính cách :chín chắn dày dạn . - Là chỗ dựa tinh thần cho cả làng . - Lời cụ Mết phát ra như một mệnh lệnh , đơn giản và chắc nịch “ chúng nó đã cầm súng , thì mình cũng phải cầm giáo ”, là lời của cội nguồn ,lời phán quyết thiêng liêng của lịch sử . b.Thế hệ thanh niên : khỏe khoắn , mạnh mẽ ,kiên cường ,là sức sống, sức chiến đấu mãnh liệt . - Tnú : nhân vật anh hùng , người con vinh quang của làng Xô Man được nhà văn khắc họa bằng những nét tính cách độc đáo , giàu chất sử thi ,tiêu biểu cho số phận và con đường đi lên của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước . +Gan góc và táo bạo , dũng cảm và trung thực ,gắn bó và trung thành với cách mạng : Khi còn là một cậu bé : vào rừng cùng Mai tiếp tế cho anh Quyết , học chữ không bằng Mai nó “ cầm lấy hòn đá bự đập vào đầu “, làm liên lạc : rất thông minh ,mưu trí ,biết phán đoán tình hình , bị địch phát hiện nuốt luôn lá thư vào bụng ,bị giặc bắt tra khảo vẫn không khai báo ,lấy tay chỉ vào bụng “ cộng sản ở đây này “ . Khi nhìn thấy cảnh vợ con bị tra tấn dã man , Tnú đứng núp sau cây vả , cố kìm lòng “ bứt hàng chục trái vả mà không hay “. Nhưng trước cảnh tượng “ cây sắt thứ hai đập trước ngực Mai , chị lật đứa bé ra sau lưng .Nó lại đánh sau lưng , chị lật thằng bé ra trước ngực .Trận mưa cây sắt mỗi lúc mỗi dồn dập .Không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa .Chỉ nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng rồi im bặt ”, lòng căm thù bốc cao đã biến “ hai con mắt của anh bây giờ là hai cục lửa lớn “, và anh đã xông vào bọn chúng với sức mạnh hùm thiêng .Nhưng anh không cứu được vợ con , anh cũng không cứu được đời mình .Anh bị giặc bắt .Chúng nó dùng nhựa xà nu đốt cháy 10 ngón tay . Khi bị giặc đốt cháy 10 ngón tay .Tnú chịu đựng ngọn lửa “ răng anh đã
20
cắn nát môi anh rồi .Anh không kêu lên .Anh Quyết nói : người cộng sản không thèm kêu van ...Tnú không thèm , không thèm kêu van “. Cuối cùng anh đã thét lên một tiếng thét , tiếng thét căm thù vang lên như một mệnh lệnh đã huy động toàn bộ dân làng cầm vũ khí vùng lên tiêu diệt bọn lính . Đôi bàn tay cháy cụt , mỗi ngón chỉ còn hai đốt vẫn tiếp tục cầm súng chiến đấu .Hình ảnh “ đôi bàn tay Tnú đã gây ấn tượng sâu sắc đậm nét , bộc lộ rõ số phận và tính cách nhân vật ( lúc nhỏ là đôi bàn tay trung thực cầm phấn viết bảng , cầm đá chọi vào đầu – khi bị bắt 10 ngón tay trở thành 10 ngọn đuốc – hai bàn tay bị đốt vẫn cầm súng bóp cò ). + Giàu lòng yêu thương quê hương xóm làng , yêu thương vợ con ( sau ba năm đi bộ đội được cấp trên cho phép về làng , khi bước vào con đường vào làng qua con dốc ngày xưa sau thời gian ở tù về Mai đã nắm tay anh và họ trở thành vợ chồng – kỷ niệm đó cắt vào lòng anh một vết dao nứa – vào làng anh nhớ tất cả mọi người . + Có tính kỷ luật cao : tuy nhớ nhà nhớ quê hương nhưng phải được cấp trên cho phép về thì mới được về và cũng trở về đúng một đêm như qui định . - Mai : người phụ nữ dịu dàng , giàu lòng yêu thương chịu đựng , can trường . - Dít : nối tiếp thế hệ thanh niên từ thiếu niên . Tình cảm trong sáng , sâu sắc nhưng lặng lẽ kín đáo ( thể hiện qua đôi mắt ) Tính nguyên tắc có phần cứng nhắc của một cán bộ chính trị ở tuổi mới lớn . c.Thế hệ thiếu nhi : ( bé HENG) tượng trưng cho một cây xà nu mới lớn , còn mang trong mình bao sinh lực và nhựa sống , hứa hẹn sẽ trở thành một cây xà nu mạnh mẽ và bất tử – tiếp nối cha anh đi trước . Tây Nguyên hiện ra trong một khuôn mặt chung mà mỗi thế hệ là một sự tái sinh hiện ra một cách trọn vẹn , nguyên vẹn . Tây nguyên là khối đoàn kết chặt chẽ , kà xứ sở của tinh thần bất khuất kiên cường . III. Kết luận - Rừng xà nu thực sự là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân các dân tộc tây nguyên trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước . - Tác phẩm dạt dào cảm hứng sử thi : những nhân vật đại diện cho cộng đồng , sống chết với cộng đồng , gắn bó với số phận lịch sử của cộng đồng ,được ngợi ca bằng những hình ảnh chói lọi và một giọng văn say mê , trang trọng tạo nên một chất thơ hùng tráng. * * *
21
22