1 Sau 33 Năm Quốc Hận
VC Kêu Gọi “Xoá Đói Giảm Nghèo”, Nhưng VC Vẫn Duy Trì Quỷ Kế ‘Bần Cùng Hóa’ Miền Tây * Trần Quốc Kháng
Ngày 30-4-1975, lịch sử sang trang. VN Cộng Hoà xụp đổ. Quân Lực VNCH tan rã. Dân chúng VN chạy tán loạn. Từ đó đến nay, hai miền Nam Bắc VN sa vào ách độ Mác-Lênin. Muôn vàn thảm trạng liên tiếp xẩy, không thể nào kể hết. Do đó, chúng tôi muốn đặt trọng tâm bài viết vào vấn đề: Tại sao miền Tây Nam Phần, xưa kia trù phú, nay trở thành nơi NGHÈO KHỔ KHẮC NGHIỆT NHẤT NƯỚC, khiến muôn vàn thiếu nữ và trẻ em sa vào thảm cảnh đoạn trường? Phải chăng, VC vẫn duy trì qủy kế ‘Bần Cùng Hóa’ miền Tây để triệt hạ ý chí đấu tranh của khối đồng bào Hoà Hảo và Cao Đài trong vùng này? ‘Ngàn Thu Mây Bay’, Vẹm Vẫn Là Vẹm Ai cũng thấy, VC thường xuyên ‘nói như VẸM’. Nào là “chống tham nhũng”. Nào là “xoá đói giảm nghèo”. Nào là “bài trừ tệ đoan mãi dâm” v.v. Thế nhưng, hàng chục năm đã trôi qua: • “Diệt tham nhũng” thì THAM NHŨNG vẫn ‘trơ như đá vững như đồng’. • “Xoá đói giảm nghèo” thì ĐÓI không thể xoá, NGHÈO không giảm. Mà ngược lại, cả hai đều gia tăng. • “Bài trừ tệ đoan mãi dâm” thì tệ đoan ấy, vẫn “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc theo định hướng XHCN”. Có nghĩa là trong thời VC, từ Bắc vào Nam rồi lan tràn sang nhiều nơi trên thế giới: Bên Cao Miên, bên Đài Loan, ở Singapore, ở Đại Hàn, hoặc Tàu Cộng, tổng cộng hiện thời có hàng trăm ngàn, hay cả triệu thiếu nữ và trẻ em VN, sa vào tệ đoan mãi dâm, hay nô lệ tình dục. Nói khái quát thì phía đại khối dân chúng, nhất là đồng bào ở vùng thôn quê, càng ngày càng lún sâu vào thảm cảnh lầm than nghèo khổ, “làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm”, nhưng cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Trong khi ấy thì phía đảng viên VC, nhất là bọn cán bộ cao cấp thì ‘tiền rừng bạc biển’, càng ngày càng giầu thêm. Liên tiếp hàng chục năm đã trôi qua, đại khối dân chúng đều là chứng nhân và nạn nhân: Cán bộ VC từ trung ương đến địa phương, lớn tham nhũng lớn, nhỏ tham nhũng nhỏ. Nhiều nguồn tin khả tín cho hay, hiện thời có khoảng 300 đảng viên VC cao cấp là triệu phú, hay tỷ phú Đô-La Mỹ --- gởi tiền ở ngân hàng
2 ngoại quốc. Chẳng hạn như Lê Đức Anh có trên 2 tỷ Đô-La Mỹ và 7 tấn vàng; Đỗ Mười có khoảng 2 tỷ Đô-La Mỹ; Trần Đức Lương có trên 2 tỷ Đô-La Mỹ; Phạm Văn Trà 2 tỷ Đô-La Mỹ và 3 tấn vàng và Phan Văn Khải có khoảng 2 tỷ Đô-La Mỹ. Hiện thời, Khải bỏ vốn cho đồng loã xây cất khu du lịch Đại Nam ở tỉnh Bình Dương --- với ngân khoảng dự trù là 3 ngàn tỷ đồng VC. Nhìn lại quá khứ thì đại đa số đảng viên VC đều xuất thân từ thành phần vô sản, nếu không ăn cắp công quỹ, nếu không ăn cướp của dân, nếu không hối mại quyền thế, nếu không bán rẻ tài nguyên của đất nước thì lấy tiền ở đâu ra mà chúng trở thành tỷ phú Đô-La? Vì không thể nào che đậy được quốc nạn ‘sâu dân mọt nước’, xã hội bất công, phi lý, muôn vàn thảm trạng liên tục xẩy ra, ngày 12-4-2008 vừa qua, cựu thủ tướng giặc Cộng là Võ Văn Kiệt đành phải tung ra lá ‘thư ngỏ’. Bên ngoài, gã phê phán nặng nề chính sách phát triển kinh tế của ‘Nhà Nước’ hiện nay --- khiến cho đồng bào lầm, nghèo khổ. Nhưng bên trong, gã có chủ ý giúp đồng đảng VC, xoa dịu nỗi phẫn uất của dân chúng. Dù sao, chúng tôi không muốn ‘đôi co’ với VẸM là Võ Văn Kiệt. Mà chủ đề của bài viết, như đã nêu lên, chúng tôi sẽ lần lượt tiến sâu vào chi tiết qua 3 tiểu mục: Miền Tây Nam Phần Xưa Và Nay; Tại Sao Kinh Tế Miền Tây Suy Thoái; và Quỷ Kế “Bần Cùng Hoá’ Miền Tây.
Miền Tây Nam Phần Xưa Và Nay Hầu như ai cũng biết, miền Tây Nam phần, tức là vùng đồng bằng sông Cửu Long, gồm có nhiều như tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trang, An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Kiên Giang, Tiền Giang v.v... là nơi trù phú. Nhờ ruộng đất phì nhiêu, sông ngòi chằng chịt, nên quanh năm lúa gạo, hoa quả và tôm cá dưa thừa, đời sống của dân cư an nhàn, hầu như không có ai phải bận tâm về vấn đề sinh kế. Thế nhưng, từ khi đất nước sa vào ách đô hộ Mác-Lênin thì miền Tây trở thành nơi nghèo khổ, lầm than nhất nước. Tiến Sĩ Trần Ngọc Thêm, giáo sư trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn thành phố Sài Gòn, cũng có cùng nhận định qua lời phát biểu khi phóng viên Phương Anh của đài RFA phỏng vấn hôm 30-1-2008: “Cùng là đồng bằng cả, mà miền Tây, trước thì giầu có như thế mà nay lại tụt lùi thì không chấp nhận được. Trước mắt là phải làm thay đổi cơ bản về kinh tế để cho miền Tây Nam Bộ không quá thua kém các vùng miền đồng bằng khác trong cả nước”. Sau khi thăm hỏi các ‘cô dâu VN’ để kiểm chứng với những nguồn tin khả tín --- trên mạng lưới điện toán – thì ai cũng thấy, đại đa số thiếu nữ đi lấy chồng ngoại quốc đều xuất phát từ miền Tây Nam phần. Lý do chính yếu là cuộc sống quá nghèo khổ đến độ khắc nghiệt.
3 Vì vậy, giấc mơ thông thường của đa số thiếu nữ miền Tây khi xưa là được lên xe hoa cùng với ý chung nhân ở địa phương không còn nữa. Ngược lại, trong thời giặc Cộng thì đa số thiếu nữ chỉ dám mơ ước, được trở thành là ‘vợ non, bồ nhí’, hay ‘nàng hầu’ của ‘ông gìa dê’ nào đó để có tiền giúp gia đình. Thứ đến là được ‘trúng tuyển’ qua kỳ thi ‘khám xét cơ thể’ để được ‘giải phóng’ --- thoát khỏi cảnh nghèo khổ lần than trong thời VC --- ra nước ngoài, dù ‘người chồng’ bất xứng thế nào chăng nữa. Em tôi đi lấy chồng ĐÀI LOAN đi khắp xóm ai ai cũng mừng Chị tôi phải lấy chồng TRUNG HOA tàn nhị héo mịt mùng phương xa Còn tôi lấy được chồng HOA KỲ như con chó nhẩy qua hàng rào Đó là mấy câu ‘ca dao’, xuất phát ở miền Tây Nam Phần, được phổ biến qua làn sóng phát thanh AM 1430 ở Bắc California. Khi vừa mới nghe, thể nào cũng người mỉm cười, cho đó là chuyện ‘vui mừng’ của mấy nàng dâu ‘đi lấy chồng nước ngoài’. Nhưng khi tìm hiểu kỹ càng thì ai cũng thấy, đó là thảm cảnh đoạn trường của hàng chục ngàn thiếu nữ hiện nay. Vì thành phần cô dâu đạt được hạnh phúc với người ngoại quốc, chỉ là thành phần hiếm hoi. Ngược lại, đại đa số sa vào thảm trạng nô lệ tình dục, hoặc bị ‘bán qua bán lại’ cho các ổ mãi dâm. Chỉ vì quá nghèo khổ, nên các ‘nạn nhân’ đành phải ‘bán thân gởi phận’ ở nơi ‘đất khách quê người’, ngõ hầu kiếm được ‘chút tiền còm’ --- khoảng một vài ngàn ĐôLa là tối đa --- để giúp cha mẹ. Trước đây, trong bài viết ‘Bần Cùng Sinh Đạo Tặc, Hay Đạo Tặc Sinh Bần Cùng’, chúng tôi đã viết về thảm trạng của thiếu nữ VN: Điển hình là vụ ‘193 Cô Dâu VN Bị Ép Buộc Phải Cởi Truồng’ đứng xếp hàng trong khách sạn, chờ các ‘chàng rể’ người Đại Hàn ‘xem xét cơ thể’, để được họ tuyển lựa, mua về nước ‘làm vợ’. Nhưng sự thực là làm nô lệ tình dục và nô lệ lao công hay đầy tớ trong nhà. Điển hình là bên Hàn Quốc, tờ Chosun đăng bài ‘Các Trinh Nữ VN Đến Hàn Quốc’ với hậu ý quảng cáo ‘sản phẩm, thiếu nữõ made in VN’ của bọn buôn bán nô lệ tình dục --- trá hình là dịch dụ ‘mai mối hôn nhân’: “Trên màn hình lần lượt xuất hiện 150 cô gái VN đeo số báo danh trên ngực. Ống kính quay từ gương mặt rồi đến toàn thân và cứ lặp lại nhiều lần”. Điển hình là các cơ quan truyền thông bên Đài Bắc, rầm rộ quảng cáo chuyện mua bán ‘trinh nữ VN’ -- còn tồi tệ hơn chuyện bán nô lệ thời xa xưa. Trong bản tin của tờ Việt Báo ngày 15-3-06, có đoạn đã viết:
4 “Chỉ cần 200 nghìn [tiền đài Loan], lấy về trong vòng 3 tháng. Bảm bảo 4 điều: Còn trinh nguyên; lấy [vốn] về trong vòng 3 tháng; không tăng giá; trong 1 năm, nếu bỏ trốn sẽ đền 1 người (1 cô gái khác). “Cũng có những kẻ lấy vợ để vừa thỏa mãn sinh lý vừa có thêm 1 người ở đợ phục vụ cho cả gia đình. Truyền hình Đài Loan đã có lần đưa ra trường hợp: cả làng hơn 30 người đàn ông lấy 1 cô. Đây là 1 dịch vụ đang được khai thác bởi những gia đình trung lưu có người thân bị tật nguyền: tại Đài Loan, mướn 1 người đến chăm sóc kẻ bị tật nguyền tốn khoảng 2000 đô 1 tháng. Chỉ cần bỏ ra 6000, họ có thể huề vốn trong 3 tháng và sau đó vừa có người hầu hạ suốt đời vừa có người thỏa mãn nhu cầu sinh lý.” Thật ra, đó chỉ là phần rất nhỏ bé như hạt cát bên bờ ‘bể khổ’ của đồng bào VN sau năm 1975 --- đảng giặc VC gọi là ‘sau giải phóng’. Đồng ý, dưới ách độ hộ Mác-Lênin thì đại khối dân chúng cả nước, nhất là các vùng đồng quê, đều nghèo khổ lầm than. Thế nhưng, tại sao miền Tây Nam Phần, xưa kia trù phú, nay trở thành là nơi nghèo khổ đến độ khắc nghiệt nhất nước? Trong cuộc phỏng vấn nêu trên, GS Thêm nêu lên ba lý do thúc đẩy các thiếu nữ miền Tây phải lấy chồng nước ngoài là: Nghèo Khổ; Dân Trí thấp kém [ít học hay thất học] và Văn Hoá [ở miền Tây khác biệt]. “Vì quá nghèo khổ, cộng thêm với văn hoá miền [Tây], nên các gia đình dễ dàng cho con gái lấy chồng ngoại quốc, nhất là Hàn Quốc và Đài Loan, bất chấp những khuyến cáo từ bên ngoài”.
Tại Sao Kinh Tế Miền Tây Suy Thoái? Mặc dù, ông Thêm không nêu lên, đâu là nguyên nhân sâu xa, làm cho kinh tế miền Tây suy thoái --- khiến đời sống của dân cư trong vùng, càng ngày càng nghèo khổ hơn trước. Nhưng khi ông nêu lên phương pháp giải quyết thảm trạng nêu trên thì ai cũng có thể, nhìn thấy ‘bóng ma VC’ trong cơn đen tối ở miền Tây Nam Phần: “Phải giải quyết về hệ thống giao thông, vì muốn phát triển công nghiệp thì phải có giao thông, giao thông đường bộ phải làm một cách bài bản hơn, phải có đường sắt, phải có nhiều sân bay vào đây. Trong khi từ miền Trung trở ra Bắc thì hầu như mọi tỉnh đều có sân bay, còn ở đây thì cả một vùng miền Tây Nam Bộ mà bây giờ chỉ đang chuẩn bị một sân bay Cần Thơ thôi, không có giao thông nào hết & Thứ hai, là phải đưa công nghiệp vào. Hiện nay hầu như không có công nghiệp nào đáng kể cả.” Nói cách khác là sau 33 năm ‘kiến thiết đất nước”, cả vùng miền Tây rộng lớn nhưng không hề có sân bay [dân sự], xa lộ, đường sắt hay công nghiệp nào. Điều này chứng tỏ, đảng giặc VC, có ý đồ thâm độc, cố tình làm cho nền kinh tế vùng này suy thoái.
5 Đúng là như vậy. Có bốn yếu tố quan trọng giúp cho kinh tế phát triển, đó là: Giao Thông [xa lộ, máy bay v.v]; Đầu Tư [chủ nhân bỏ vốn, mở xí nghiệp, mở cơ sở thương mại v.v.]; Tài Nguyên [ruộng đất phì nhiêu, thuỷ sản hay các mỏ khoáng sản v.v ] và Nhân Lực [chuyên nghiệp và lao công]. Chẳng lẽ, trong thời giặc Cộng, các Tiến Sĩ Kinh Tế hay các chuyên viên Thiết Kế, không biết mấy điều sơ đẳng như vậy hay sao? Mặc dù, nền giáo dục thời VC tồi tệ quá mức, nhưng chúng tôi vẫn KHÔNG nghĩ, tất cả các “Tiến Sĩ” đều là ‘Tiến Sĩ giấy ĐEN’, hay “Tiến Sĩ Giấy ĐỎ’ --- khả năng yếu kém, nhưng nhờ thế lực đảng giặc Cờ ĐỎ, hay nhờ ‘xã hội ĐEN’, ‘dâng tiền dâng tình’, để có bằng cấp. Vậy thì rõ ràng như ban ngày, trong khi các tỉnh ở vùng đồng bằng khác thì có sân bay rộng lớn, có hệ thống xa lộ tốt, có nhiều công nghiệp dựng lên. Duy nhất, chỉ có vùng miền Tây Nam Phần là không! “Còn ai trồng khoai đất này’ ngoài thủ đoạn thâm độc của đảng giặc VC.
Quỷ Kế “Bần Cùng Hoá’ Miền Tây Đảng giặc VC rất lo ngại, đa số dân cư ở niềm Tây Nam Phần --theo đạo Hoà Hảo và đạo Cao Đài --- có tinh thần chống Cộng quyết liệt. Nên chúng sử dụng nhiều thủ đoạn gian manh để triệt hạ ý chí đấu tranh của đồng bào trong vùng này. Nhiều độc giả cao niên còn nhớ, qua phần mở đầu của bài “Quyết Rứt Cà Sa”, Đức Huỳnh Phú Sổ --- người sáng lập và lãnh đạo khối Phật Giáo Hoà Hảo --- đã biểu lộ rõ ràng tinh thần đấu tranh cao độ, hoàn toàn vì dân vì nước của Ngài: Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau Quyết rứt cà sa khoác chiến bào Đuổi bọn xâm lăng, gìn đất nước Ngọn cờ độc lập phất phơ cao Vì vậy, Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho đồng đảng, thủ tiêu Đức Huỳnh Phú Sổ năm 1947. Mặc dù Ngài đã khuất, nhưng ý chí đấu tranh của Ngài, vẫn còn tiềm ẩn trong tâm trí của khối tín đồ Hoà Hảo. Do đó, khi thi hành quỷ kế ‘Bần Cùng Hoá’ miền Tây Nam Phần, VC tin rằng chúng sẽ đạt được 3 mục tiêu chính yếu: 1- Ngày cũng như đêm, ai cũng phải bận tâm vì sinh kế, thời giờ đâu mà lo chuyện tranh đấu. 2- Vì sinh kế, dân cư trong vùng đành chấp nhận cuộc sống ly hương --- đa số là thanh niên và thiếu nữ --- phải đi nơi khác kiếm việc làm. Tất nhiên, ‘lực lượng Hoà Hảo và Cao Đài’ bị phân tán mỏng, hay tan rã. 3- ‘Cho đói thì nói mới nghe’. Đó là chính sách ‘cai trị bằng bao tử’. Khi thi hành quỷ kế này thì thể nào cũng có một thiểu số ‘đạo hữu’ cũ, ‘trờ cờ đón gió’ hoạt động cho “đảng ta”. Do đó, chuyện gây phân gây hoá, hay chia để trị, rất dễ dàng xẩy ra.
6 Hồi “Tháng Tư Đen” năm 2007, trong bài “Vietnam has become the land of "jungle law", sau khi tác giả Charles Tran nêu lên thảm trạng buôn người ở miền Tây và dân chúng trong vùng bị VC đè nén, có đoạn đã viết nguyên văn: “Reports indicate that government expenditures for education, public heath, highway construction, economic development etc. for provinces in the Mekong Delta are very inadequate and disproportionately less than those for the Central and Northern provinces. Moreover, residents in Mekong Delta are subject to higher tax and local administration fees.” Lược dịch: “Nhiều nguồn tin cho thấy, ngân khoản của Nhà Nước VC dành cho vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong các lãnh vực Y Tế, Giáo Dục, Xây Cất xa lộ và Phát Triển Kinh Tế v.v. quá ư là thiếu hụt và thua xa các tỉnh ở miền Trung và miền Bắc. Không những thế, dân cư trong vùng còn bị đánh thuế cao hơn và chịu quá nhiều lệ phí cho ‘quan quyền VC’ ở địa phương.” Đồng thời, đồng bào miền Tây còn cho biết, ruộng đất ở địa phương hiện thời đều nằm trong tay bọn ‘cường hào ác bá ĐỎ’ cai quản. Chúng thu tô quá nặng, khiến đời sống nông dân cơ cực, hầu như gia đình nào cũng sa vào cảnh nghèo khổ khắc nghiệt. Hệ quả trực tiếp là trẻ em miền Tây bỏ học --- nhiều nhất nước. Thiếu nữ miền Tây phải ‘bán thân gởi phận’ ở các nơi ‘xứ lạ quê người’ --- đứng hàng đầu. Thậm chí, nhiều nạn nhân quá nghèo thì bị bọn con buôn bất chính dụ dỗ sang Tàu Cộng, bán thận, hay các cơ phận khác cho nhà thương! Hôm 24-4-2008 vừa rồi, toà đại sứ Hoa Kỳ kết thúc bản báo cáo dài 9 trang, cảnh giác thảm trạng buôn bán em bé VN lan tràn khắp nơi. Bọn con buôn đi lùng kiếm mua các em bé trong vùng thôn quê nghèo khổ, hay các bệnh viện bán hài nhi để cung cấp cho các cơ quan ‘từ thiện’ ở VN --- do cán bộ VC điều khiển. Nơi đây, người ngoại quốc có nhân từ, đến nhận trẻ thơ về nước làm con nuôi. Nhờ vậy, bọn buôn bán trẻ em ‘phát tài’. Nhờ vậy, cán bộ và công an VC ở địa phương nhận được tiền hối mại quyền thế. Nhờ vậy, Nhà Nước VC nhận được nhiều tiền viện trợ nhân đạo để bỏ vào ‘túi tham không đáy’. Hệ quả là con số trẻ thơ miền Tây Nam phần --- vùng nghèo khổ khắc nghiệt nhất nước --- ắt hẳn phải đứng đầu trong bản thống kế của thảm trạng nêu trên. Thiết tưởng, từng ấy chứng cớ cũng đủ, giúp cho vấn đề miền Tây được sáng tỏ. Làm sao đảng giặc VC có thể chối cãi trước thủ đoạn thâm độc ‘cai trị bằng bao tử’ để triệt hạ ý chí đấu tranh của khối đồng bào Hoà Hảo và Cao Đài ở miền Tây? Nói cách khác là VC vẫn duy trì quỷ kế ‘Bần Cùng Hoá’ dân chúng miền Tây. Thế mà chúng vẫn ‘già mồm’ nói như VẸM, kêu gọi gia tăng nỗ lực, ‘Xoá Đói Giảm Nghèo’!
7 Trần Quốc Kháng Tháng Tư Đen 2008