Nhung Van De Nhan Van Nam Bo

  • June 2020
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Nhung Van De Nhan Van Nam Bo as PDF for free.

More details

  • Words: 24,210
  • Pages: 46
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI - NHÂN VĂN KHU VỰC NAM BỘ GIAI ĐOẠN 2005-2010 (Đề án nghiên cứu khoa học trọng điểm của Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh trong lĩnh vực khxh-nv 2005-2010)

Chủ nhiệm đề tài: GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

TP. HỒ CHÍ MINH, tháng 3-2005

Ban soạn thảo: GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM (trưởng ban)

GS.TS. NGÔ VĂN LỆ PGS.TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG PGS.TS. NGUYỄN MINH HÒA TS. LÊ KHẮC CƯỜNG (thư ký)

2

MỤC LỤC Mục lục

3

Lời nói đầu

5

I- KHXH&NV: HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI 1.1. Đặc điểm của KHXH&NV và KHXH&NV ở Việt Nam

6

1.2. KHXH&NV trong thế giới hiện đại

9

1.3. Tiềm lực KHXH&NV của ĐHQG TP.HCM

12

1.4. Giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu KHXH&NV của ĐHQG TP.HCM

15

II- KHU VỰC NAM BỘ VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU KHXH&NV NAM BỘ 2.1. Nam Bộ nhìn trong không gian

16

2.2. Nam Bộ nhìn trong thời gian. Vấn đề tên gọi

17

2.3. Nam Bộ nhìn từ con người

21

2.4. Nam Bộ: tình hình nghiên cứu

25

III- MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN 3.1. Mục tiêu thực tiễn

27

3.2. Mục tiêu khoa học

28

3.3. Mục tiêu giáo dục và đào tạo

28

IV- NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN 4.1. Những lĩnh vực KHXH&NV khu vực Nam Bộ mà đề án quan tâm

29

4.2. Lĩnh vực Đô thị: Chương trình Những vấn đề xã hội - nhân văn trong phát triển đô thị ở khu vực Nam Bộ

29

4.3. Lĩnh vực Văn hoá: Chương trình Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập ở khu vực Nam Bộ

33

4.4. Lĩnh vực Dân tộc và Tôn giáo: Chương trình Những vấn đề dân tộc tôn giáo ở khu vực Nam Bộ

36

3

V- NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN VÀ KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI 5.1. Phối hợp giữa 15 hướng đề tài thuộc 3 chương trình

38

5.2. Phối hợp giữa các đơn vị trong trường

39

5.3. Phối hợp giữa các nhà nghiên cứu trong và ngoài ĐHQG

40

5.4. Phối hợp giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng

40

5.5. Phối hợp giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo

40

5.6. Kế hoạch triển khai

41

VI- NGUỒN TÀI CHÍNH PHỤC VỤ ĐỀ ÁN 6.1. Dự trù kinh phí cho đề án

42

6.2. Tận dụng các nguồn tài chính ngoài Đại học Quốc gia

42

VII- PHÁT HUY KẾT QUẢ CỦA ĐỀ ÁN. ĐỀ ÁN VÀ NHỮNG ĐỀ TÀI NGOÀI ĐỀ ÁN 7.1. Dự kiến sử dụng kết quả của đề án

43

7.2. Dự kiến phát triển đề án

43

7.3. Đề án và những đề tài ngoài đề án

43

Tài liệu trich dẫn

44

4

Lời nói đầu Đề án này là một trong 8 chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 5 năm 2005-20101. Định hướng giới hạn đối tượng nghiên cứu vào khu vực Nam Bộ được xác định trong dự thảo ban đầu của đề án này do cố PGS.TS. Nguyễn Văn Tài, nguyên phó Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH-NV phụ trách về NCKH & QHQT, chủ trì soạn thảo năm 2002 và đưa ra thảo luận trong cuộc toạ đàm ngày 23-2-2004. Với những ý kiến góp ý của các nhà khoa học tại buổi toạ đàm này, nhiều vấn đề trong dự thảo cần được sửa chữa lại. Song sự ra đi đột ngột của PGS.TS. Nguyễn Văn Tài đã khiến cho việc sửa chữa dự thảo trở nên không thực hiện được. Trước tình hình đó, cuối năm 2004, Ban KH-CN Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh đã làm việc với lãnh đạo Trường Đại học KHXH-NV về việc xây dựng lại đề án này. Và ngày 24-12-2004 lãnh đạo ĐHQG đã ký Quyết định thành lập Ban soạn thảo đề án mới gồm 5 thành viên để “tiếp tục triển khai xây dựng đề án” trong thời hạn 3 tháng. Cơ sở xuất phát của Ban soạn thảo là bản dự thảo Đề án do PGS.TS. Nguyễn Văn Tài chủ trì biên soạn, Báo cáo về kết quả cuộc toạ đàm ngày 23-2-2004 của Ban KHCN & QHQT, 14 bản góp ý của các nhà khoa học tại toạ đàm. Đề án này chỉ là một phần trong định hướng nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn 2005-2010. Bên cạnh những vấn đề khoa học xã hội và nhân văn khu vực Nam Bộ, các ngành khoa học xã hội và nhân văn của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh còn có trách nhiệm dành một phần quan trọng trí tuệ và kinh phí cho việc tiếp tục thực hiện những nghiên cứu cơ bản phục vụ cho nhiệm vụ đào tạo đại học và sau đại học, và nghiên cứu các khu vực khác. Bản dự thảo mới của Đề án đã được nhóm biên soạn hoàn thành vào giữa tháng 42005. Chiều ngày 7-5-2005 một cuộc toạ đàm đã được tổ chức với sự có mặt của 23 nhà khoa học trong và ngoài Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh (x. danh sách tại Phụ lục VIII). Các thành viên tham gia toạ đàm đã đóng góp nhiều ý kiến bổ ích. Trong phạm vi có thể, tất cả những ý kiến đó đã được nghiêm túc tiếp thu và phản ánh trong bản thảo cuối cùng này. Ban soạn thảo xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học đã tham gia góp ý, cảm ơn lãnh đạo ĐHQG và lãnh đạo Trường ĐH KHXH-NV đã chỉ đạo trong quá trình thực hiện. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 8-5-2005 BAN SOẠN THẢO ĐỀ ÁN

1

Bảy chương trình còn lại là: Cơ khí và tự động hoá, Vật liệu mới và công nghệ nano, Công nghệ sinh học, Công nghệ thông tin, Bảo vệ môi trường và tài nguyên, Nghiên cứu góp phần phát triển kinh tế - xã hội đồng bằng sông Cửu Long, Nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực KHTN có định hướng.

5

I- KHXH&NV: HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI 1.1. Đặc điểm của KHXH&NV và KHXH&NV ở Việt Nam 1.1.0. Để xây dựng một đề án nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn thì việc trước tiên là phải hiểu rõ được những đặc điểm riêng của khoa học xã hội và nhân văn với tư cách là đối tượng nghiên cứu. Đối với khoa học xã hội và nhân văn việc làm này lại càng cần thiết, bởi chúng có những điểm đặc thù riêng khiến chúng khác rất xa các khoa học anh em là khoa học tự nhiên và công nghệ. Vậy mà việc này thường rất ít được chú ý và hay bị bỏ qua. Quan sát cho thấy rằng không chỉ những người làm trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ hiểu sai về khoa học xã hội và nhân văn mà nhiều nhà quản lý và ngay cả chính một số người làm việc trong các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn cũng không hiểu đúng và hiểu hết về những nét đặc thù của nhóm ngành này. 1.1.1. Đặc điểm thứ nhất của khoa học xã hội và nhân văn, theo chúng tôi, là tính phổ biến. Khoa học tự nhiên và công nghệ cũng mang tính phổ biến, nhưng tính phổ biến của khoa học xã hội và nhân văn thì cao hơn rất nhiều, bởi lẽ khoa học xã hội và nhân văn là khoa học về con người và cộng đồng người. Trong đời sống, không phải lúc nào ta cũng dùng đến những tri thức về lượng giác, về hoá học, v.v., nhưng xưa nay, phàm làm bất kỳ việc gì thì cũng phải động chạm đến những hiểu biết về con người và cộng đồng người, cho nên kiến thức khoa học xã hội và nhân văn hiện hữu ở khắp mọi nơi và cần đến ở khắp mọi nơi. Trong phạm vi một quốc gia, một công trình nghiên cứu khoa học tự nhiên và công nghệ giỏi lắm chỉ có vài trăm người đọc (in được vài trăm bản) thì một công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn thường có tới vài nghìn, thậm chí vài vạn người đọc. Tất nhiên, nói đến tính phổ biến của khoa học xã hội và nhân văn đây là nhìn trên tổng thể, không phải mọi ngành khoa học xã hội và nhân văn đều có tính phổ biến như nhau (chẳng hạn, khảo cổ học, ngôn ngữ học, Hán-Nôm có tính chuyên sâu khá cao). Trong mỗi ngành thì lại tuỳ theo phân môn, theo đề tài mà tính phổ biến sẽ khác nhau. Mặc dù thế, cũng không thể dựa vào tính chuyên sâu của một số ngành hoặc phân môn để phủ nhận tính phổ biến của các ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung. Đặc điểm này dẫn đến một số hệ quả và nghịch lý. Hệ quả thứ nhất là do tính phổ biến mà ở khoa học xã hội và nhân văn có hiện tượng ai cũng đọc được (khác với khoa học tự nhiên và công nghệ nhìn thấy công thức là không thể đọc tiếp được rồi!). Mà đã đọc được thì sẽ nghĩ là mình hiểu được, và do vậy mà ai cũng có thể phê phán được. Một số báo chí do không hiểu hết đặc thù của khoa học xã hội và nhân văn nên đã cho đăng tải tuỳ tiện và thiếu khách quan (chẳng hạn như đăng bài nói đi mà không cho đăng bài nói lại), gây nên tình trạng nhiễu thông tin. Hệ quả thứ hai là do có độ phổ biến lớn như vậy nên khoa học xã hội và nhân văn xưa nay rất hay bị coi nhẹ (xa thương gần thường), bị coi nhẹ tới mức bất công so với các khoa học tự nhiên và công nghệ. 6

Đây đồng thời cũng là một nghịch lý: phổ biến thì quan trọng, nhưng phổ biến quá (đến mức không thể thiếu) thì lại bị coi thường. Nghịch lý này chẳng khác gì việc con người không thể sống thiếu không khí một phút một giây, song cũng vì thế mà người ta thường nhớ đến việc ăn, việc ngủ hơn là việc thở. Có lúc, trong suốt hàng chục năm, khoa học xã hội và nhân văn không được cử đi đào tạo ở nước ngoài, vì có những người có trách nhiệm đã quan niệm một cách đơn giản rằng “Việt Nam đã đánh Mỹ được thì khoa học xã hội của Việt Nam là giỏi nhất, thế giới phải đến mà học Việt Nam chứ Việt Nam không phải đi học ai!”. Ngay hiện nay, trong một bộ, một sở khoa học và công nghệ, công việc khoa học xã hội và nhân văn nhiều lắm cũng chỉ chiếm một vụ, một phòng, trong khi có vô số vụ, vô số phòng lo các vấn đề khoa học tự nhiên và công nghệ. Ở tất cả các cấp, từ trung ương đến địa phương, chi phí nghiên cứu cho một đề tài khoa học tự nhiên và công nghệ có thể tới hàng tỷ đồng là chuyện bình thường, trong khi chi phí cho các đề tài khoa học xã hội và nhân văn thì cực kỳ ít ỏi: Một đề tài khoa học xã hội và nhân văn trọng điểm với vài trăm triệu đồng đã phải xét lên xét xuống rất khó khăn. Cứ thử xem ngay trong phạm vi Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, ta thấy trong tổng kinh phí cấp cho các đề tài trọng điểm cấp Bộ của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh năm 2004 là 3.443 triệu đồng thì các đề tài khoa học xã hội và nhân văn (bao gồm cả Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Khoa Kinh tế) chỉ chiếm có 560 triệu (1/6); trong tổng kinh phí cấp cho các đề tài không trọng điểm cấp Bộ là 1.794 triệu đồng thì các đề tài khoa học xã hội và nhân văn chỉ chiếm có 260 triệu (1/7)2. Có người đã tính ra rằng tổng số chi phí dành cho khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam trong suốt lịch sử không bằng tiền chi cho một lỗ khoan thăm dò dầu khí bỏ đi. 1.1.2. Đặc điểm thứ hai của khoa học xã hội và nhân văn là tính đặc thù. Trong khi khoa học tự nhiên và công nghệ mang tính phổ quát, chung cho toàn nhân loại thì khoa học xã hội và nhân văn mang tính đặc thù, riêng của từng dân tộc. Tuy rằng trong khoa học xã hội và nhân văn cũng có phần lý luận đại cương nhưng đối với nhiều ngành, những lý luận đại cương được rút ra từ thực tiễn phương Tây hầu như không áp dụng được với thực tiễn phương Đông. Tính đặc thù và tính phổ biến của khoa học xã hội và nhân văn không hề mâu thuẫn với nhau: phổ biến là xét về phạm vi sử dụng (có mặt ở khắp mọi nơi), còn đặc thù là xét về nội dung (thể hiện ở mỗi dân tộc mỗi khác). Khoa học xã hội và nhân văn phổ biến trong phạm vi một dân tộc, quốc gia nhưng kém phổ quát trên phạm vi thế giới; còn khoa học tự nhiên và công nghệ thì ngược lại, phổ quát trên phạm vi thế giới nhưng kém phổ biến trong phạm vi dân tộc, quốc gia. Đối tượng với tên gọi “Việt Nam học” mà ngày nay đang được thế giới hết sức quan tâm chủ yếu bao gồm những thành tựu nghiên cứu về Việt Nam của các ngành khoa học xã hội và nhân văn chứ không phải khoa học tự nhiên và công nghệ. Đặc điểm “tính đặc thù” này dẫn đến hệ quả là thành tựu khoa học xã hội và nhân văn giữa các quốc gia nhìn chung chỉ có thể tham khảo, trong khi đó thì khoa học tự nhiên và công nghệ do mang tính phổ quát nên có thể dễ dàng liên thông giữa các quốc gia, thành tựu của chúng có thể được dạy, được học, được chuyển giao. Như vậy, về 2 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2003-2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2004-2005 của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. ix.

7

mặt này, việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn gặp khó khăn hơn rất nhiều so với khoa học tự nhiên và công nghệ. Nếu một giáo trình về khoa học tự nhiên và công nghệ chủ yếu chỉ mang tính chất biên soạn thì một giáo trình về khoa học xã hội và nhân văn lại là một công trình khoa học, và trong nhiều trường hợp, còn là công trình khoa học lớn. Nhà ngôn ngữ học Thuỵ Sĩ đầu tk. XX F. de Saussure, nhà ngôn ngữ học Xô-viết A.A.Reformatski trở nên nổi tiếng đều là nhờ các giáo trình ngôn ngữ học đại cương và dẫn luận ngôn ngữ học của mình. Công trình làm cho Học giả Việt Nam Đào Duy Anh trở nên nổi tiếng cũng chính là giáo trình “Việt Nam văn hoá sử cương”. 1.1.3. Đặc điểm thứ ba của khoa học xã hội và nhân văn là tính tổng hợp. Trong khi khoa học đòi hỏi tư duy phân tích, mọi thứ phải được phân lập rạch ròi thì tri thức về bất kỳ một ngành khoa học xã hội và nhân văn nào cũng đều đồng thời liên quan đến nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Văn hoá phương Đông chủ yếu là văn hoá nông nghiệp nên tư duy mang tính tổng hợp, và do vậy phương Đông có truyền thống mạnh về những tri thức liên quan đến con người. Vì mang tính tổng hợp cho nên những tri thức này có đặc điểm “văn sử triết bất phân”; vì bất phân nên tuy những tri thức này chính là tri thức khoa học xã hội và nhân văn, nhưng trong lịch sử chúng không tách được ra thành từng khoa học. Đặc điểm tính tổng hợp này dẫn đến hệ quả là khoa học xã hội và nhân văn có một lợi thế lớn mà các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ không có được – đó là bản thân đối tượng đã tiềm ẩn khả năng hợp tác đào tạo và nghiên cứu liên ngành rất cao. 1.1.4. Đặc điểm thứ tư của khoa học xã hội và nhân văn là đối tượng của nó mang tính phiếm định. Khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu về con người và xã hội, nhưng con người đây không phải là con người vật chất, con người sinh học, mà là khía cạnh tinh thần của con người và những mối quan hệ, những hoạt động, những ứng xử của con người – tất cả đều là những đối tượng khó xác định rõ ràng. Không chỉ đối tượng nghiên cứu không rõ ràng, mà ngay cả hiệu quả của việc nghiên cứu cũng không rõ ràng dễ thấy, không hiển hiện tức thời. Cái đúng/sai và giá trị của nhiều công trình nghiên cứu KHXH&NV nhiều khi phải đợi 5-10 năm, thậm chí mấy chục năm sau mới ngã ngũ. Đặc điểm này dẫn tới hệ quả thứ nhất là tri thức khoa học xã hội và nhân văn nếu không được trình bày thật chặt chẽ thì dễ có nguy cơ trở nên mơ hồ, thiếu rõ ràng. Cũng do vô hình và nhiều khi mơ hồ, thiếu rõ ràng nên có hệ quả thứ hai hiện tượng bất đồng ý kiến trong khoa học xã hội và nhân văn cao hơn rất nhiều so với khoa học tự nhiên và công nghệ. Và cũng bởi vậy mà có hệ quả thứ ba là các nhà khoa học xã hội và nhân văn thực tế khó cộng tác với nhau hơn so với các nhà khoa học tự nhiên và công nghệ. Hệ quả này đã triệt tiêu nhu cầu hợp tác đào tạo và nghiên cứu liên ngành rất cao tiềm ẩn trong bản thân đối tượng đã nói đến ở trên. Lại cũng chính do đặc điểm này nên mới có chuyện là ở một số nước và cả ở Việt Nam, một số ngành khoa học xã hội và nhân văn có lúc đã rơi vào tình trạng minh hoạ (hệ quả thứ tư). Một khi việc nghiên cứu khoa học không được tiến hành một cách nghiêm túc theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt của khoa học mà được viết ra với 8

những kết quả định trước theo đơn đặt hàng thì sẽ không còn tính khách quan, điều đó đồng nghĩa với việc khoa học không còn là khoa học nữa, nó tạo ra một môi trường tồn tại cho những “công trình” mang tính “nguỵ khoa học”, khiến vàng thau lẫn lộn, khiến nhà quản lý và xã hội không đánh giá đúng và đánh giá hết được giá trị của các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.

1.2. KHXH&NV trong thế giới hiện đại 1.2.1. Sự đan cài của nhiều đặc điểm và tình trạng coi thường việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nói đến ở trên đã dẫn đến tình trạng phát triển không đồng đều của các khối ngành khoa học trong mấy thế kỷ qua. Trong mấy thế kỷ qua, đặc biệt là tk. XX, trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ, nhân loại đã phát triển với tốc độ phi thường tạo nên biết bao sự kiện chấn động: nào là việc con người đã và đang chiếm lĩnh khoảng không vũ trụ một cách đầy tự tin, nào là cú đột phá ngoạn mục của công nghệ sinh học với sự thành công của sinh sản vô tính, nào là sự tiến bộ như vũ bão của công nghệ tin học với sự xâm nhập của máy vi tính vào khắp mọi ngõ ngách và nối mạng tất cả hành tinh... Thế nhưng, trong khi khoa học tự nhiên và công nghệ bay với tốc độ tên lửa thì khoa học xã hội và nhân văn – mặc dù cũng đạt được khá nhiều thành tựu – nhưng so với khoa học tự nhiên và công nghệ thì vẫn là đi với tốc độ của cỗ xe bò. 1.2.2. Hệ quả đập vào mắt của tình trạng coi thường việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn và sự chậm trễ của nó là tri thức về khoa học xã hội và nhân văn ở thanh thiếu niên và học sinh sinh viên nói chung hiện nay đáng báo động đỏ. Do đầu tư ít và do do tính đặc thù mà chất lượng của sách giáo khoa các môn khoa học xã hội và nhân văn trong nhà trường phổ thông chưa cao. Do nội dung đôi khi mơ hồ, thiếu chặt chẽ, còn giáo viên phổ thông thì sợ sai nên giảng dạy thiếu tính sáng tạo và sức hấp dẫn. Kết quả là ở Pháp, 30% thanh niên không biết Victor Hugo là ai, trên 50% không biết Hitler là ai3. Ở Mỹ có những thanh niên cho rằng cư dân châu Mỹ La-tinh nói tiếng La-tinh, còn Toronto (một thành phố Nam Canada – láng giềng nước Mỹ) thì nằm ở Ý [Hirsh 1987]. Theo một cuộc điều tra mới đây ở Nhật Bản thì 25% học sinh sinh viên không biết nước láng giềng CHDCND Triều Tiên nằm ở đâu, gần 60% không biết Iraq (nước được nhắc đến hầu như hàng ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng mấy năm qua) nằm ở đâu4. Ở Việt Nam, theo kết quả của một cuộc điều tra5 ở Tp. Hồ Chí Minh năm 1994, 39% thanh niên không biết Hùng Vương là ai, 49% không biết Trần Quốc Toản, 64,6% không biết Trương Công Định. Học sinh phổ thông quay lưng lại với khoa học xã hội và nhân văn đến nỗi khi lớp 12 tiến hành phân ban thì chỉ những em nào kém nhất mới chịu vào ban C. 1.2.3. Tình trạng coi thường việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn và sự chậm trễ của nó còn để lại nhiều lỗ hổng lớn.

3

Theo tin trên báo Sài Gòn giải phóng số 128, ngày 26-6-1993. Theo tin của hãng Reuteurs đăng trên báo Tuổi trẻ, số ra ngày 24-2-2005. 5 Cuộc điều tra trong 1.800 thanh niên Tp.HCM thực hiện vào năm 1994 [Nguyễn Minh Hòa 1995: 22]. 4

9

Lỗ hổng lớn nhất là nhân loại chưa thực sự hiểu hết về bản thân mình. Không hiểu hết về mình thì cũng không hiểu hết về những gì mình làm được. Bản chất của khoa học - đặc biệt là khoa học tự nhiên - là tư duy phân tích cho nên khi mà khoa học tự nhiên phát triển quá mạnh sẽ dẫn đến hậu quả là Con Người thường thiếu toàn diện và rất dễ sinh ra chủ quan, làm được một số việc rồi thì cứ tưởng là mình tài giỏi lắm. Và mọi tai hoạ bắt đầu từ đó, để rồi lúc ân hận thì đã muộn. Những người lập trình cho máy tính những năm 50 đâu có nghĩ rằng sáng kiến viết tắt tên năm bằng hai số cuối để tiết kiệm bộ nhớ đã khiến cho thế kỷ 21 được khởi đầu bằng một đại dịch Y2K gây tốn kém khổng lồ về vật chất và bao lo lắng về tinh thần. Các nhà hóa học phát minh ra biết bao nhiêu thứ thuốc đâu có ngờ rằng vì chúng mà biết bao loài động vật trên cạn và dưới nước đã và đang tuyệt chủng. Những cha đẻ của công nghiệp và đô thị đâu nghĩ rằng sự phát triển của chúng chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những biến động khôn lường về thời tiết và khí hậu, gây hạn hán và lụt lội trầm trọng trên khắp hành tinh (trong đó có miền Trung Việt Nam). Khoa học hiện đại không phải không nghiên cứu được sóng thần, các chính phủ và quốc gia không phải không đủ tiền của để xây dựng các hệ thống cảnh báo sóng thần, song vấn đề là ở chỗ thế giới hiện đại đã không ngờ rằng thảm hoạ sóng thần có thể đạt đến quy mô lớn tới mức trong giây phút, có thể cướp đi sinh mạng hàng chục vạn người, san bằng nhiều thành phố của nhiều quốc gia. Những cha đẻ của ngành du hành vũ trụ cũng đâu có ngờ rằng vũ trụ mênh mông đang có nguy cơ biến thành một bãi rác, một bãi tha ma… Lỗ hổng nghiêm trọng thứ hai là khi mà khoa học tự nhiên phát triển quá mạnh, còn khoa học xã hội và nhân văn bị coi thường thì phạm trù đạo đức cũng ít được chú ý, điều đó sẽ trở thành đại hoạ nếu nó xảy ra ở những người nắm giữ quyền lực. Nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ 20 Albert Einstein khi phát minh ra năng lượng nguyên tử đâu có ngờ rằng, rơi vào tay những người đứng đầu Nhà Trắng, nó đã gây nên thảm họa nguyên tử khủng khiếp chưa từng có ở Hirosima và Nagasaki. Các nhà hoá học, sinh học đâu có ngờ rằng những phát minh của họ đã tạo nên những vũ khí sinh học, vũ khí hoá học (điển hình là chất độc màu da cam) có sức huỷ diệt cực lớn và để lại hậu quả hết sức nặng nề cho nhiều thế hệ. Nước Mỹ siêu cường đầy tự tin đâu có thể ngờ rằng chiến tranh huỷ diệt quy mô lớn có thể xảy ra ngay trong lòng nước Mỹ một cách dễ dàng đến không ngờ bằng máy bay Mỹ và những phi công do chính Mỹ đào tạo. Không phải ngẫu nhiên mà khi thí nghiệm về con cừu Đôly thành công, hàng loạt nguyên thủ quốc gia đã phải hốt hoảng ra lệnh cấm tiệt việc tiến hành thực hiện sinh sản vô tính đối với con người. Lỗ hổng thứ ba là khi mà nhiều lĩnh vực của khoa học xã hội và nhân văn không được đầu tư nghiên cứu một cách nghiêm túc thì đó chính là mảnh đất màu mỡ cho các “tôn giáo - tín ngưỡng hiện đại” lan tràn. Một nghịch lý của thế giới hiện đại là ở những nước càng phát triển như Mỹ, Nhật thì càng có nhiều những “tôn giáo” quái dị xuất hiện mà trong số những tín đồ mù quáng của họ đáng tiếc là có cả những người trí thức và nhà khoa học (điển hình là vụ giáo phái Aum ở Nhật Bản những năm 90). 1.2.4. Hiển nhiên, các phát minh không có lỗi. Có lỗi chăng chính là ở những con người sử dụng chúng. Toàn bộ vấn đề là ở chỗ nhân loại chưa được chuẩn bị đầy đủ để đón nhận và sử dụng các phát minh của mình.

10

Nghịch lý lớn nhất là trong khi mỗi chúng ta đang phát triển về mặt này thì cũng chính mình lại đang tụt lùi thảm hại về mặt khác. Cho nên, mỗi bước tiến đến văn minh, là một bước thụt lùi về năng lực: Có giày dép, con người mất khả năng đi chân đất. Có xe máy, con người mất khả năng đi bộ. Có máy tính, con người mất khả năng tính nhẩm. Có nhiều thuốc, con người mất khả năng đề kháng. Có tivi, phim ảnh, con người lười đọc sách. Có máy vi tính, con người lười viết tay. Có điện thoại, con người lười đến thăm nhau… 1.2.5. Cho nên, dự báo về sự phát triển của khoa học trong thế giới hiện đại của thế kỷ XXI đã có sẵn trong lòng thế kỷ XX. Một khi trong thế kỷ XX, khoa học tự nhiên đã phát triển vượt bậc và chi phối mọi mặt của đời sống con người thì trong tương lai, khoa học xã hội và nhân văn sẽ phải phát triển vượt bậc trong mọi lĩnh vực. Không những thế, một xã hội LOÀI NGƯỜI phải là xã hội có khoa học xã hội và nhân văn phát triển đến mức chi phối mọi mặt của đời sống con người. Tính nhân bản phải chiến thắng sự sa sút đạo đức, chiến thắng những dục vọng điên rồ sùng bái đồng tiền và quyền lực. Sự lên ngôi của khoa học xã hội và nhân văn là một điều chắc chắn vì chỉ có thế mới lập lại được thế cân bằng trong đại vũ trụ nói chung, và trong mỗi con người, trong tiểu vũ trụ nói riêng. Thực ra, sự lên ngôi của khoa học xã hội và nhân văn trong thế giới hiện đại mà chúng ta đang bước vào đã được chuẩn bị sẵn từ trong thế kỷ XX. Đó là việc hiện đại hóa, chính xác hóa (toán học hóa, tin học hóa) các khoa học xã hội và nhân văn, khởi đầu từ ngôn ngữ học vào đầu tk. XX (bởi vậy mà ngành này được coi là “khoa học hoa tiêu” - pilot science – của khoa học xã hội). Đó là sự hình thành và phát triển của những ngành khoa học xã hội và nhân văn mới có tầm quan trọng rất lớn như xã hội học (sociology6), nhân học (anthropology), và văn hóa học (culturology). Sự lên ngôi của khoa học xã hội và nhân văn là một thực tế đã và đang diễn ra, khi mà càng ngày càng có nhiều người nhận ra rằng nguồn gốc của những yếu kém hiện nay nằm ở con người chứ không phải ở máy móc, kỹ thuật. Các chính khách và các nhà khoa học quân sự Mỹ cay đắng nhận ra rằng Mỹ thua Việt Nam là do chưa hiểu hết văn hoá Việt Nam. Liên Xô và phe XHCN sụp đổ là do bệnh chủ quan và duy ý chí trong việc sử dụng con người. Ở Việt Nam những năm gần đây, sự kiện Thái Bình, sự kiện Tây Nguyên cũng như những vướng mắc tồn đọng trong việc tổ chức và quản lý đô thị đều nằm ở nhân tố con người. Các hoạt động từ thiện, an sinh xã hội, các tổ chức nhân đạo càng ngày càng phát triển. Càng ngày càng có nhiều lời kêu gọi coi trọng việc giảng dạy sử học, văn hoá học, đạo đức học. Những ngành đào tạo đang thu hút đông thí sinh nhất hiện nay phần lớn đều là những ngành khoa học xã hội và nhân văn như luật học, báo chí, kinh tế, ngoại ngữ, ngoại thương, Đông phương học...

1.3. Tiềm lực KHXH&NV của ĐHQG TP.HCM Để xây dựng được định hướng trong việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh cần đánh giá đúng tiềm lực nghiên cứu của mình. Đội ngũ CBGD và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh thời gian qua nhìn chung có thể nói là đã phát triển vượt bậc. Tại 6

Trước những năm 90, ngành xã hội học đã không được Liên Xô và các nước XHCN thừa nhận.

11

thời điểm tháng 4-1975, Đại học Văn khoa có 11 ban, đào tạo 11 ngành hệ cử nhân, với khoảng 110 giáo viên. Mười một ban và ngành đào tạo đó là: ban Việt văn, ban Hán văn, ban Triết học Đông phương, ban Triết học Tây phương, ban Sử học, ban Địa lý, ban Tâm lý học, ban Xã hội học, ban Nhân văn, ban Anh văn, và ban Pháp văn7. Trong thời kỳ Đại học

Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh), vào thời điểm năm 1996 (trước khi tách trường) có 198 CBGD với 9 khoa (số khoa giảm xuống so với số ban trước 1975), đào tạo 19 ngành. Sau khi gia nhập Đại học Quốc gia và tách trường, các ngành đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đã phát triển nhanh chóng: hiện nay (2004), Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có 386 CBGD với 14 khoa, 5 bộ môn trực thuộc và 5 trung tâm, đào tạo 32 ngành hệ cử nhân (x. Bảng 1).

Stt

TIÊU CHÍ

4-1975 (ĐHVK)

1996 (ĐHTH)

2004 (ĐHQG)

1.

Số đơn vị ĐT & NC KHXH-NV

11 ban

9 khoa

14 khoa, 5 BMTT, 5 TTNC

2.

Số ngành ĐT CN

11

19

32

3.

Số CBGD (người)

≈ 110

198

386

Bảng 1: Sự phát triển của đội ngũ KHXH&NV Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu của thực tế và trong mối tương quan với các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ thì lực lượng này của khoa học xã hội và nhân văn vẫn là rất mỏng. Tỷ lệ SV/CBGD của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là 33,8 SV/CBGD [ĐHQG Tp.HCM 2004: ii]. So với các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ thì tương quan lực lượng như sau [ĐHQG Tp.HCM 2002; Lê Trọng Ân 2004] (x. Bảng 2 và hình 2):

Stt

Số lượng

ĐH KHXH&NV 2002 2004

ĐH KHTN (2002)

ĐH KHCN (2002)

1.

GS, PGS

6

19

32

34

2.

TS, TSKH

63

63

96

172

3.

ThS

89

125

118

229

4.

Tổng CBGD

264

386

427

824

Bảng 2: So sánh đội ngũ CB đào tạo và nghiên cứu KHXH&NV với KHTN&CN

7 Theo số liệu trong [Lê Trọng Ân 2004] thì chỉ có 2 ban (ban văn-sử-triết và ban ngoại ngữ) với 7 ngành đào tạo hệ cử nhân.

12

1000 KHCN

500

KHTN

0 GS&PGS

KHXH-NV TS&TSKH

ThS

KHXH-NV KHTN KHCN

CBGD

Hình 1: Biểu đồ so sánh đội ngũ CB đào tạo và nghiên cứu KHXH&NV với KHTN&CN Đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn phân bố theo các khoa và bộ môn trực thuộc (không kể BM Giáo dục Thể chất) tính đến tháng 12-2004 như sau (x. Bảng 3, số liệu của Lê Trọng Ân [2004], có điều chỉnh một đôi chỗ): stt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18

Khoa, bộ môn TT Ngữ văn – Báo chí Lịch sử Triết học Địa lý Thư viện – Thông tin Đông phương học Xã hội học Giáo dục học Việt Nam học Ngữ văn Anh Ngữ văn Pháp Ngữ văn Nga Ngữ văn Trung Quốc Ngữ văn Đức Văn hoá học Nhân học Quan hệ quốc tế Tin học

GS 1 1 1 -

PGS TS,TSKH 3 15 3 9 4 11 2 2 1 7 1 4 1 1 1 1 1 8 (1) 2 4 2 4 1 2 -

Th.S 7 5 6 16 3 5 2 6 9 24 7 6 1 2 2 4 2 2

CN 28 32 9 13 7 14 9 1 5 28 5 12 19 9 2 6 6 6

Bảng 3: Đội ngũ CBGD thuộc Trường KHXH&NV (2004)

8

Không thuộc biên chế Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

13

Trong 18 khoa & bộ môn trực thuộc của Trường ĐH KHXH&NV nêu trên, có 7 đơn vị không có một GS/PGS nào, 4 đơn vị không có một TS nào. Số đơn vị có ít nhất từ 1 GS/PGS và 3 TS trở lên chỉ có 7 đơn vị là: 1) Khoa Ngữ văn - Báo chí 2) Khoa Lịch sử 3) Khoa Triết học 4) Khoa Đông phương học 5) Khoa Xã hội học 6) Bộ môn Văn hoá học 7) Bộ môn Nhân học. Đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn như vậy nhìn chung so với các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ là quá mỏng. Với một lực lượng mỏng như vậy và gánh nặng đào tạo như vậy, yêu cầu đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn là một việc sẽ rất khó khăn.

1.4. Giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu KHXH&NV của ĐHQG TP.HCM 1.4.1. Như vậy, chúng ta đang đứng trước vô vàn nghịch lý nhỏ và một nghịch lý lớn liên quan đến khoa học xã hội và nhân văn. Nhỏ, chẳng hạn như nghịch lý chọn nghề: trong khi ở trường phổ thông chỉ những em dốt nhất mới chịu vào ban C thì đến khi thi đại học lại rất đông người đâm đơn vào các ngành khoa học xã hội. Lớn, chẳng hạn như nghịch lý cung-cầu: trong khi nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng đang nhận thức ra rằng phần lớn nguyên nhân của những vướng mắc và yếu kém là nằm ở nhân tố con người, và trong khi khoa học xã hội và nhân văn đang ngày càng có giá và lên ngôi, thì do sự coi nhẹ và thiếu đầu tư đúng mức lâu nay mà khoa học xã hội và nhân văn hiện nay chưa đủ khả năng đáp ứng ở mức độ cao những yêu cầu của xã hội. Tình trạng này không thể tiếp tục kéo dài. 1.4.2. Căn cứ vào những đặc điểm của khoa học xã hội và nhân văn, triển vọng của khoa học xã hội và nhân văn cùng thực trạng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đã trình bày trên, có thể thấy có ít nhất là 4 biện pháp cấp bách giúp nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn như sau: Thứ nhất, bản thân các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn phải tự đổi mới mình để sao cho các tri thức phải được phát hiện và trình bày theo những tiêu chuẩn chặt chẽ của phương pháp luận khoa học, hạn chế tối đa những ý tưởng mơ hồ, những trình bày không rõ luận điểm, những lập luận thiếu chứng minh, v.v. nhằm nâng cao tính thuyết phục và tính khoa học của công trình. Thứ hai, các nhà quản lý cần phải đổi mới nhận thức về khoa học xã hội và nhân văn trên cơ sở hiểu rõ những đặc thù của nó, từ đó có sự đầu tư kinh phí đúng mức để tạo điều kiện cho nó phát triển. Thứ ba, trong sự đầu tư đó, cần đặc biệt chú trọng đến việc tăng cường đội ngũ cán bộ đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn về số lượng và nâng cao

14

hơn nữa về chất lượng. Đồng thời, cần tính đến việc bổ sung những ngành khoa học xã hội và nhân văn quan trọng còn thiếu (như nghệ thuật học, du lịch học, luật học, ngoại thương). Đặc biệt, cần tính đến việc thành lập một đơn vị nghiên cứu KHXH&NV cấp ĐHQG (kiểu như Viện Nghiên cứu KHXH&NV). Trong khi các khối ngành khoa học tự nhiên và công nghệ đều đã có nhiều viện nghiên cứu cấp ĐHQG, còn khối ngành KHXH&NV hoàn toàn chưa có một viện nào, thì đây là một giải pháp mang tính tổ chức - hành chính rất thích hợp cho phép tăng cường biên chế nghiên cứu (là điều mà hiện nay hoàn toàn chưa có) để trực tiếp thúc đẩy công việc nghiên cứu KHXH&NV. Thứ tư, trong điều kiện lực lượng nghiên cứu mỏng như hiện nay, định hướng nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh trong 5-10 năm tới cần giới hạn địa bàn, tập trung mũi nhọn vào một khu vực. Khu vực này thoả đáng nhất là nửa phía Nam của đất nước, từ Huế-Đà Nẵng trở vào. Song trong thời gian 5 năm thì địa bàn này có thể vẫn là quá rộng. Theo xác định trong dự thảo ban đầu của đề án này do cố PGS.TS. Nguyễn Văn Tài, nguyên phó hiệu trưởng phụ trách về NCKH & QHQT của Trường ĐH KHXH-NV, thì giới hạn hợp lý hơn cả là khu vực Nam Bộ. Trên cơ sở bối cảnh chung về việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn vừa trình bày, đề án này tập trung vào những đề tài cấp thiết trong phạm vi khu vực Nam Bộ phù hợp với tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

15

II- KHU VỰC NAM BỘ VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU KHXH&NV NAM BỘ 2.1. Nam Bộ nhìn trong không gian Không gian khu vực Nam Bộ phân chia rõ rệt thành hai tiểu vùng là miền Đông và miền Tây. 2.1.1. Miền Đông Nam Bộ bao gồm 6 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương là Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, với diện tích 23.545 km2, chiếm hơn 7,15% diện tích cả nước. Đông Nam Bộ nằm trên vùng bình nguyên và đồng bằng, là nơi chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long, phía nam (nơi thấp nhất) có độ cao trung bình 20-200m. Tài nguyên khoáng sản quan trọng nhất là dầu khí với trữ lượng lớn. Trên đất liền có các loại đá ốp-lát, sét gạch ngói, cát thuỷ tinh, cao lanh, titan, puzlan. Địa hình này rất thuận lợi cho việc xây dựng cơ bản và phát triển công nghiệp. Phần lớn đất có chất lượng tốt (đó là đất nâu đỏ và nâu vàng trên nền bazan và đất xám trên nền phù sa cổ). Thuộc vùng khí hậu tương đối điều hoà, ít thay đổi, ít có thiên tai; lượng mưa dồi dào, trung bình khoảng 1.500-2.000 mm/năm. Đất này rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp. Với sông Đồng Nai là hệ thống sông lớn thứ ba ở Việt Nam có trữ lượng nước đủ cung cấp nước sinh hoạt và công nghiệp cho cả vùng; trữ lượng thuỷ điện có khả năng cung cấp hàng năm gần 10 tỷ KWh. Với đường bờ biển dài gần 100m với nhiều ngư trường lớn và bãi biển đẹp, vùng Đông Nam Bộ có tiềm năng thuỷ sản và tiềm năng du lịch rất phong phú [Lê Thông (Cb) 2004: 507-512]. 2.1.2. Miền Tây Nam Bộ gồm 13 tỉnh, thành phố: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ, Sóc Trăng, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, và Kiên Giang. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 39.717,3 km2, chiếm 12% diện tích cả nước. Tây Nam Bộ là vùng đồng bằng châu thổ do sông Cửu Long (Mê-kông) tạo nên, với độ cao trung bình so với mực nước biển chỉ là 3-5m, độ dốc trung bình là 1 cm/km. Đây là một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu của Đông Nam Á và thế giới (trong đó đất phù sa chiếm 29,7% diện tích toàn vùng, đất phèn chiếm 40%, đất mặn chiếm 16,7%, đất xám và các loại đất khác chiếm 13.6%), là vùng cây ăn trái nhiệt đới, vùng sản xuất lương thực lớn nhất nước. Miền Tây Nam Bộ có khí hậu nhiệt đới ẩm, nhiệt độ trung bình hàng năm là 24270C; lượng mưa trung bình từ 1.700-2.000 mm/năm. Ở đây có hệ thống kênh rạch dày đặc, tổng lượng nước trong năm của hệ thống sông Cửu Long là 500 tỷ m3, rất thuận tiện cho giao thông đường thuỷ và cho nuôi trồng thuỷ sản. Cùng bờ biển dài trên 736 km2 với nhiều đảo và quần đảo, Tây Nam Bộ trở thành vùng thuỷ sản lớn nhất nước, có hệ sinh thái rừng ngập mặn điển hình nhất nước. Đây là vùng tận cùng phía tây nam của Việt Nam, tiếp giáp với biển của các nước Đông Nam Á (Singapor, Thái Lan, Malaisia, Philipine, Indonesia), nằm trong khu vực có nhiều đường giao thông 16

hàng hải quốc tế quan trọng, nối Nam Á với Đông Á, châu Úc và các quần đảo trong Thái Bình Dương [Lê Thông (cb) 2004: 533-539]. 2.1.3. Tóm lại, nhìn trong không gian thì Nam Bộ có những đặc điểm liên quan đến các vấn đề khoa học xã hội và nhân văn như sau: BÌNH DIỆN

ĐÔNG NAM BỘ

TÂY NAM BỘ

Địa hình & tài nguyên

Cao & dầu khí: phù hợp cho xây dựng cơ bản và phát triển công nghiệp

Thấp & đồng bằng châu thổ: phù hợp cho phát triển nông nghiệp

Đất đai & khí hậu

Đất nâu, khí hậu điều hoà: thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp

Đất phù sa, mưa nhiều: thuận lợi cho trồng cây ăn trái và sản xuất lương thực

Thiên nhiên & bờ biển

Có nhiều ngư trường lớn và bãi biển đẹp: tiềm năng thuỷ sản và du lịch biển

Kênh rạch, vùng ngập mặn, biển: Tiềm năng thuỷ sản và du lịch sinh thái

2.2. Nam Bộ nhìn trong thời gian. Vấn đề tên gọi 2.2.1. Nói về Nam Bộ, người ta thường nghĩ ngay rằng đây là một vùng đất mới với lịch sử 300 năm. Song tầm nhìn khoa học xã hội và nhân văn không thể dừng ở cái mốc lịch sử 300 năm này mà phải vượt qua nó, bao quát cả toàn bộ lịch sử của vùng đất. Cách ngày nay 4-5.000 năm, ở vùng đất cao là miền Đông Nam Bộ đã có con người cư trú, tạo nên nền văn hoá Đồng Nai. Cuộc khai quật ở Cầu Sắt (Xuân Lộc, Đồng Nai) năm 1976 cho thấy từng có một nền văn hoá đá mới, gốm tồn tại ở đây cách nay khoảng 5.000 năm. Một nền văn hoá đồng cách nay khoảng 4.000-3.000 năm được tìm thấy ở di chỉ núi Gốm, ở Hàng Gòn (Xuân Lộc, Đồng Nai) và Dốc Chùa (Tân Uyên, Sông Bé). Ở miền Đông Nam Bộ số lượng các di tích có thể tính được trên 150 địa điểm, trong đó ở lưu vực sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông có mật độ các di tích cư trú dày đặc [TTNC KCH 1997; Viện BTLS 1998]. Muộn hơn một chút, vùng đất thấp hơn ở miền Tây Nam Bộ cũng đã được chinh phục. Từ thế kỷ II đến thế kỷ VII sau công nguyên, một nền văn hoá Óc Eo (lấy theo tên di chỉ Óc Eo ở chân núi Ba Thê, An Giang) đã phát triển rực rỡ ở đây, trải dài trên một địa bàn rộng lớn từ miền Tây đến miền Đông và vùng duyên hải. Ở đây từng có hoạt động nông nghiệp và giao thông đường thuỷ rất phát triển: di tích hệ thống trên 30 sông đào tỏa khắp miền tây sông Hậu, sông dài nhất tới 80km, di tích Đá Nổi (Kiên Giang) là điểm tụ của 11 sông đào tạo thành một hệ thống hình nan hoa. Sau khi nền văn hoá Óc Eo lụi tàn và vương quốc Phù Nam suy vong vào cuối tk. VII, khu vực Nam Bộ bước vào thời kỳ suy thoái: Từ tk 6 Phù Nam bị Chân Lạp (vốn là một thuộc quốc của Phù Nam, ở phía nam Lào hiện nay) thôn tính. Và cho đến tk XV, khu vực Nam Bộ trở thành vùng đệm của những cuộc tranh chấp liên miên: 17

Cuối tk. VII - đầu VIII, tranh chấp Thuỷ Chân Lạp - Lục Chân Lạp: các cộng đồng dòng dõi Phù Nam do các quý tộc Phù Nam đứng đầu tại vùng Nam Bộ đã liên minh lại tạo thành Thuỷ Chân Lạp để đối lập với Lục Chân Lạp. Như vậy, Thuỷ Chân Lạp là Phù Nam bị Chân Lạp đô hộ. Tk. VIII-IX, tranh chấp Java - Chân Lạp: triều đại Salendra (Vua Núi - truyền thống Phù Nam) thuộc vương quốc Srivijaya ở Java (hình thành từ cuối tk. VII sau khi Phù Nam tan rã) đánh vào Chân Lạp, Chămpa, Giao Châu; Chân Lạp gần như trở thành thuộc quốc của Srivijaya. Đầu tk IX (năm 802), lợi dụng sự suy thoái của triều đại Salendra, hoàng tử Chân Lạp Jajavarman II thuộc dòng dõi Phù Nam, sống lưu vong tại Java, trở về giải phóng và thống nhất Thuỷ và Lục Chân Lạp, lập nên vương triều Ăng Co. Tk. XII-XIII, tranh chấp Ăng Co với Champa & Chân Lạp. Từ 1145-1149, Ăng Co chiếm đóng một phần Champa. Ăng Co đạt đỉnh cao vào tk XII (xây dựng Ăng Co Vat) rồi suy thoái. Năm 1177, Champa tiến vào chiếm đóng Ăng Co. Đầu tk. XIII, Chân Lạp lại phục hồi, tái chiếm Champa đến 1220 mới rút. Tk. XIV, tranh chấp Thái - Chân Lạp. Giữa tk XIII, khi bị Mông Cổ tấn công, nước Nam Chiếu của người Thái ở thượng nguồn sông Mê Công bị tan rã, người Thái chạy xuống sống ở lưu vực sông Mê Nam. Cuối tk XIII dần dần hình thành một loạt quốc gia Thái trên địa bàn này: Vương quốc Lan Na ở miền Bắc (1296); vương quốc Sukhothay ở miền Trung. Cuối tk XIII, Sukhothay trở thành một trong những lực lượng mạnh nhất khu vực, thống trị Miến Điện, tk. XIV xâm lăng Chân Lạp; đất đai Chân Lạp bị thu hẹp một cách đáng kể. Những cuộc tranh chấp liên miên đã khiến cho khu vực Nam Bộ, với tư cách là vùng đệm, trở thành kiệt quệ. Là vùng đệm, bởi vậy trong những giai đoạn hưng thịnh ngắn ngủi, nó do xa trung tâm nên không được hưởng. Nhưng là vùng đệm, nó vẫn phải hứng chịu gánh nặng của chiến tranh, cướp bóc, và đóng góp, cung tiến người vật cho trung tâm (Ăng Co, Chân Lạp). Kết quả là dân cư dòng dõi Phù Nam gốc đã phiêu bạt di tản tới những vùng yên ổn hơn, khiến cho vùng này dần dần trở thành hoang vắng. Đó là tình trạng mà vào tk 13, khi sứ thần nhà Nguyên là Châu Đạt Quan trên đường tới kinh đô Angkor đã thấy: “Nhìn lên bờ chúng tôi thấy toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng, thoáng qua không dễ gì biết được lối vào”. Đó cũng là tình trạng mà lưu dân người Việt đã thấy khi tới đây: Đồng Nai xứ sở lạ lùng, Dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um. Tk. 15-16 phương Tây bắt đầu nhòm ngó Đông Nam Á. Từ cuối tk 16, người Việt đã đến khai phá lập nghiệp, lập nên những thôn ấp người Việt từ Bà Rịa tới Đồng Nai, Sài Gòn, tới tận Phnôm-pênh. Tk.17, tại vùng Sài Gòn nay có 2 thị trấn nhỏ Prei Nokor (= Sài Gòn = Chợ Lớn nay) và Kas Krobey (= Bến Nghé = Sài Gòn nay) thuộc Chân Lạp [Trần Văn Giàu và nnk (cb) 1987: 119, 135]. Năm 1623, chúa Sãi viết thư cho vua Chân Lạp mượn hai thị trấn này để đặt các thương điếm và được vua Chân Lạp, sau khi hỏi ý kiến các đại thần, gửi quốc thư thông báo chấp thuận [Trần Văn Giàu và nnk (cb) 1987: 118-19, 146-47]. Từ đó, lưu dân Việt đến vùng này ngày càng đông hơn, mở đầu cho một giai đoạn mới.

18

2.2.2. Năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định. Đó là tên gọi đầu tiên chỉ chung cả khu vực Nam Bộ. Từ đó đến nay, vùng đất Nam Bộ trong lịch sử đã từng có rất nhiều tên gọi, tên gọi chung cho toàn khu vực và tên gọi riêng cho từng địa phương trong đó. Năm 1802, vua Gia Long đổi phủ thành trấn. Đến năm 1808, chia nước làm ba khu vực hành chánh lớn: khu vực phía ngoài là Bắc thành, khu vực giữa (miền Trung) là kinh đô Huế, khu vực phía trong là Gia Định thành. Gia Định thành gồm năm trấn là Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên. Đứng đầu là tổng trấn Lê Văn Duyệt. Năm 1832, Lê Văn Duyệt tạ thế; vua Minh Mạng bỏ chức tổng trấn, xóa tên “Gia Định thành”, đổi trấn thành tỉnh, 5 trấn được chia lại thành 6 tỉnh là Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Năm 1834, Minh Mạng đổi tên gọi ba khu vực của đất nước thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam Kỳ. Nam Kỳ có sáu tỉnh nên tên gọi “Nam Kỳ Lục tỉnh” hình thành từ đây đã trở thành một tên gọi đầy ấn tượng hằn sâu trong lòng mọi người. Năm 1835, tỉnh Phiên An đổi tên thành tỉnh Gia Định. Năm 1867, thực dân Pháp chiếm trọn Nam Kỳ, giữ lại tên gọi chung này, nhưng xoá bỏ cách phân chia hành chính của triều Nguyễn, tách sáu tỉnh thành nhiều tỉnh nhỏ. Trải qua rất nhiều thay đổi, đến năm 1899 Nam Kỳ bao gồm 21 tỉnh (province) với sự phân chia như sau: Gia Định chia thành 5 tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Tây Ninh, Gò Công. Biên Hoà chia thành 4 tỉnh Biên Hoà, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Định Tường đổi thành Mỹ Tho. Vĩnh Long chia thành 3 tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh. An Giang chia thành 5 tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Sóc Trăng, Cần Thơ. Hà Tiên chia thành 3 tỉnh Hà Tiên, Rạch Giá, Bạc Liêu. Sau khi phát xít Nhật lật đổ thực dân Pháp (9-3-1945), tháng 5-1945 báo chí Việt Nam đã dùng tên gọi Nam Bộ thay cho Nam Kỳ để nhấn mạnh rằng Nam Bộ là một phần của đất nước ở phía Nam (bộ = một phần của toàn thể). Khi thực dân Pháp trở lại Nam Bộ, do muốn tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, nên họ đã sử dụng lại tên gọi Nam Kỳ và “đẻ” ra “Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ Tự trị” với ba đời “thủ tướng”: Nguyễn Văn Thinh (1.6.1946 – 9.11.1946); Lê Văn Hoạch (15.11.1946 – 29.9.1947) và Nguyễn Văn Xuân (1.10.1947 – 19.5.1948). Thông qua “Chính phủ” do Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng và Bảo Đại làm “quốc trưởng”, từ 1948 thực dân Pháp chia Việt Nam làm Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần. Đến 1949 thì đổi thành Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Từ sau hiệp định Genève (1954), từ vĩ tuyến 17 trở ra là miền Bắc; từ vĩ tuyến 17 trở vào là miền Nam, bao gồm Nam Bộ và một phần phía nam của Trung Bộ trước kia. Đó là khái niệm “miền Nam” và “miền Bắc” theo nghĩa rộng; bên cạnh đó, vẫn song hành khái niệm “miền Nam” và “miền Bắc” theo nghĩa hẹp: khi nói “ba miền BắcTrung-Nam” thì miền Nam là Nam Bộ; miền Trung là Trung Bộ và miền Bắc là Bắc Bộ. Trong khi đó thì từ năm 1956, với sắc lệnh 144a/TTP, chính quyền Sài Gòn đổi các tên gọi Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt (1949) trở lại thành Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần như thời Nguyễn Văn Xuân (1948) [Lê Anh Dũng 1996: 26-31]. 19

Tuy nhiên do thói quen nên trong thực tế trên các sách báo xuất bản ở Sài Gòn trước năm 1975, ta vẫn có thể gặp tên gọi “Nam Việt” với hai nghĩa: thứ nhất là “Nam Việt” = “miền Nam” theo nghĩa rộng, thứ hai là “Nam Việt” = Nam Bộ. Sau giải phóng 30-4-1975, trên các phương tiện thông tin đại chúng, tên gọi “miền Nam” ít dùng dần: “Miền Nam” theo nghĩa rộng được đổi thành “các tỉnh phía Nam”, còn “miền Nam” theo nghĩa hẹp thì được gọi là Nam Bộ. Như vậy, khi sử dụng tài liệu nghiên cứu thuộc các giai đoạn khác nhau, cần chú ý để tránh lẫn lộn trong việc đồng nhất giữa tên gọi và khái niệm. 2.2.3. Tóm lại, nhìn trong thời gian thì Nam Bộ có những vấn đề khoa học xã hội và nhân văn chủ yếu cần tiếp tục làm sáng tỏ như sau: GIAI ĐOẠN

ĐG N.BỘ

Cổ trung đại

Văn hoá Đồng Nai

Cận đại

Ảnh hưởng của văn hoá Pháp & phương Tây và sự tiếp biến của văn hoá - xã hội Nam Bộ.

Hiện đại

Ảnh hưởng của văn hoá Mỹ & phương Tây. Những vấn đề KHXH-NV Nam Bộ trước và sau 1975.

TÂY NAM BỘ Văn hoá Óc Eo - Phù Nam. Thuỷ Chân Lạp và quan hệ của nó với Lục CLạp.

2.3. Nam Bộ nhìn từ con người 2.3.1. Chủ nhân nền văn hóa Óc Eo là cư dân Phù Nam, chủ yếu là người Indonesien. Theo sách Tấn thư thì những người này “đen và xấu xí, tóc quăn, ở trần, đi đất, tính tình mộc mạc, thẳng thắn, không trộm cắp”. Ngoài ra còn có người Môn, Mã lai, Ấn Độ, Trung Á [Nguyễn Công Bình và nnk 1990: 171, 174]. Người Phù Nam vẫn tiếp tục sống ở vùng đất này dưới thời Chân Lạp: họ chính là người Thuỷ Chân Lạp, đối lập với người Lục Chân Lạp. Từ cuối tk XVI, người Việt từ khắp mọi miền đất nước, xuất thân từ đủ mọi ngành nghề đã đến Nam Bộ khai phá lập nghiệp. Họ cùng với người Khmer, người Hoa và các dân tộc anh em khác trở thành chủ nhân của vùng đất này. Các dân tộc ở xen lẫn nhau mà vẫn thừa nhận và tôn trọng phong tục tập quán của nhau. Lưu dân người Hoa thì phần lớn cũng đều là những tầng lớp dưới của xã hội (mang văn hóa bình dân), lại gốc chủ yếu từ các tỉnh ven biển phía nam Trung Hoa nên dễ hòa nhập với văn hóa truyền thống Việt. Những người bỏ quê hương ra đi là đã chấp nhận cuộc sống đầy biến động, từ bỏ cuộc sống khép kín trong các luỹ tre làng, họ ở trong những làng xóm mở (không có luỹ tre, cánh cổng), không tụ lại mà tản ra dọc theo những con kênh, con lộ để tiện làm ăn, tạo nên một tính cách văn hóa đặc biệt Nam Bộ. 2.3.2. Hiện nay dân số vùng Đông Nam Bộ là 10,9 triệu người. Vùng này có mức tăng dân số cơ học cao (bình quân 2-2,4%/năm). Mật độ dân số trung bình ở Đông Nam Bộ là 465 người/km2, tập trung cao ở các đô thị và các khu công nghiệp (riêng Tp. Hồ Chí Minh là 2.615 người/km2).

20

Hệ thống đô thị của vùng gồm 3 thành phố là Tp. Hồ Chí Minh, Biên Hoà, Vũng Tàu, và 4 thị xã là Đồng Xoài, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Bà Rịa cùng 40 thị trấn. Tỷ lệ dân số đô thị miền Đông Nam Bộ là 25% (ở các vùng khác trong cả nước, tỷ lệ này dao động trong khoảng trên dưới 20%, chẳng hạn ở đồng bằng sông Hồng là 21%). Riêng ở 7 tỉnh thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tỷ lệ dân số đô thị đạt tới 51% với tốc độ gia tăng là 4-6%/năm. Dân số nữ nhiều hơn nam. Tỷ lệ nữ ở Đông Nam Bộ là 51,1%, ở Tp. Hồ Chí Minh tỷ lệ này là 51,9% (trong khi toàn quốc là 50,8%). Tỷ lệ dân số biết chữ ở độ tuổi từ 15 trở lên là 98%. Đông Nam Bộ là địa bàn của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với 7 tỉnh, thành phố là Tp. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Tây Ninh, Bình Phước với hạt nhân là tam giác “Tp. Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu”. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Đông Nam Bộ trong những năm 90 khoảng 11-12% (cả nước là 8,2%). Tỷ trọng GDP của vùng so với cả nước vào năm 2002 là 36,6%. Cơ cấu kinh tế của vùng đang tiếp tục dịch chuyển theo hướng giảm tỷ trọng các ngành nông, lâm, thuỷ sản và tăng tỷ trọng công nghiệp (tỷ trọng công nghiệp tăng từ 37,5% năm 1990 lên 59,2% vào năm 2002). Đến tháng 11-2003 trên toàn vùng đã có 43 khu công nghiệp có quyết định thành lập [Lê Thông (cb) 2004: 512-530]. 2.3.3. Vùng Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long) vào năm 2002 có dân số khoảng 16,7 triệu người, chiếm 21% dân số cả nước, với mật độ trung bình 421 người/km2 (mật độ trung bình cả nước là 242 người/km2), tỷ suất gia tăng dân số tự nhiên là 2,3%. Tây Nam Bộ có cơ cấu dân số rất trẻ: 53% dưới 20 tuổi, 24,3% từ 2034 tuổi, chỉ có 22,7% từ 35 tuổi trở lên. Phụ nữ ở đây chiếm tỷ lệ còn cao hơn cả miền Đông (52,6%). Về thành phần dân tộc, chủ yếu là người Việt (Kinh), người Khmer chiếm 6,1%, người Hoa chiếm 1,7%, các dân tộc còn lại chiếm 0,2%. Đây là vùng có truyền thống tôn giáo rất phong phú và đa dạng. Vùng Tây Nam Bộ có mức đô thị hoá thấp. Cả vùng có 4 thành phố (Cần Thơ, Long Xuyên, Mỹ Tho, Cà Mau), 13 thị xã và 109 thị trấn. Trung bình cứ 414 km2 mới có một điểm đô thị. Đô thị gọi là lớn ở vùng này chỉ bằng hoặc thậm chí nhỏ hơn đô thị loại hai ở miền Đông (như Biên Hoà). Cần Thơ chỉ có 34 vạn dân; Long Xuyên 26,2 vạn; Mỹ Tho và Cà Mau khoảng 17-18 vạn. Tỷ lệ dân số nội thị là 16%, cao nhất là Cần Thơ cũng chỉ có 41% [Lê Thông (cb) 2004: 541-543]. 2.3.4. Dưới đây là bảng xếp hạng các tỉnh thành Nam Bộ theo chỉ số phát triển con người HDI (số liệu năm 1999; trích từ [Báo cáo 2001: 118, 134]): Tỷ lệ Số người có Tỷ lệ Xếp Chỉ số GDP bình Chỉ số nhập học biết chữ trình độ đại HDI quân đầu GDP hạng học trở lên của (phát người (tổng sản Tuổi của các HDI thọ cấp giáo người (trên 10 vạn phẩm toàn triển con (PPP9, dân) quốc người) USD) quốc nội) (năm) dục (%) lớn (%)

Stt

Tỉnh / thành phố

1

Bà Rịa - VT

1

0,749

14470

0,58

74,3

70,5

92,6

1310

2

Tp. HCM

3

0,796

5209

0,66

75,7

77,1

94,0

3531

3

Bình Dương

6

0,726

2589

0,54

71,8

71,6

92,4

1174

9 PPP (Propotional Purching Power) - sức mua tương đương dựa trên giả định rằng 1 USD có sức mua ở VN tương đương như ở Mỹ.

21

4

Đồng Nai

7

0,714

2180

0,51

71,5

71,1

92,5

961

5

Vĩnh Long

13

0,695

1506

0,45

73,3

68,3

90,1

556

6

Long An

16

0,686

1589

0,46

72,2

61,4

90,9

488

7

Tiền Giang

18

0,684

1461

0,45

72,5

62,4

90,8

439

8

Cà Mau

20

0,680

1619

0,46

71,1

56,4

92,2

386

9

Kiên Giang

21

0,678

1660

0,47

72,1

57,6

88,4

391

10

Cần Thơ

24

0,670

1577

0,46

70,8

60,2

87,9

884

11

Bến Tre

27

0,668

1410

0,44

70,0

64,2

89,7

449

12

Tây Ninh

28

0,666

1376

0,44

70,3

61,9

90,1

728

13

Trà Vinh

36

0,656

1500

0,45

70,0

64,6

82,5

322

14

Sóc Trăng

37

0,654

1443

0,45

69,6

58,6

86,7

205

15

An Giang

38

0,653

1602

0,46

69,8

54,3

85,4

552

16

Bạc Liêu

39

0,649

1325

0,43

69,7

59,0

86,0

456

17

Đồng Tháp

40

0,648

1161

0,41

71,7

55,3

85,7

363

18

Bình Phước

47

0,632

861

0,36

69,7

61,6

88,2

332

Trên cơ sở những thông tin này, Phụ lục I cung cấp Bảng xếp hạng các tỉnh thành Nam Bộ theo GDP bình quân đầu người (tính theo sức mua tương đương PPP bằng USD) và Bảng xếp hạng các tỉnh thành Nam Bộ theo số người có trình độ đại học trở lên (trên 10 vạn dân). 2.3.5. Còn dưới đây là số liệu tổng hợp của hai vùng Đông và Tây Nam Bộ so sánh với 8 vùng trong toàn quốc lấy từ [Báo cáo 2001: 119, 135]) được chúng tôi xếp hạng theo Chỉ số phát triển con người (HDI):

Stt

Vùng

Chỉ số HDI (phát triển con người)

GDP bình Tỷ lệ nhập Tỷ lệ biết Tuổi quân đầu học của các chữ của thọ người (PPP, cấp giáo người lớn (năm) (%) dục (%) USD)

Số người có trình độ đại học trở lên (trên 10 vạn dân)

1

Đông Nam Bộ

0,751

72,9

3809

69,5

92,1

1910

2

ĐB sông Hồng

0,723

73,7

1616

79,3

94,5

2430

3

D.hải nam T.Bộ

0,676

70,7

1238

72,8

90,6

1045

4

Bắc Trung Bộ

0,662

70,2

939

75,2

91,3

830

5

Tây Nam Bộ

0,669

71,1

1496

59,6

88,1

477

6

Đông Bắc

0,641

68,2

941

70,2

89,3

951

7

Tây Nguyên

0,604

63,5

1102

65,2

83,0

627

8

Tây Bắc

0,564

65,9

695

59,9

73,3

563

TB toàn quốc

0,696

70,9

1,860

69,8

90,3

1265

Trên cơ sở những thông tin này, Phụ lục II cung cấp các bảng xếp hạng theo tuổi thọ, theo theo GDP (tổng sản phẩm quốc nội) bình quân đầu người, theo Tỷ lệ nhập học của các cấp giáo dục, theo Tỷ lệ biết chữ của người lớn, và theo Số người có trình độ đại học trở lên. 22

2.3.6. Tổng hợp lại, thứ hạng của hai vùng Đông và Tây Nam Bộ trong so sánh với 8 vùng của cả nước trên 6 phương diện là như sau (tính toán của chúng tôi - TNT): Chỉ số Tỷ lệ GDP bình HDI biết chữ quân đầu Tuổi thọ (phát của người (năm) triển con người (PPP, USD) người) lớn (%)

Số người Tỷ lệ nhập Thứ có trình độ học của hạng ĐH trở lên các cấp trung giáo dục (trên 10 bình (%) vạn dân)

Stt

Vùng

1

ĐB sông Hồng

2

1

2

1

1

1

1,3

2

Đông Nam Bộ

1

2

1

2

2

5

2,2

3

D.hải nam T.Bộ

4

4

3

4

3

3

3,5

4

Bắc Trung Bộ

7

5

4

3

5

2

4,3

5

Đông Bắc

6

6

6

5

4

4

5,2

6

Tây Nam Bộ

3

3

5

6

8

8

5,5

7

Tây Nguyên

5

8

7

7

6

6

6,5

8

Tây Bắc

8

7

8

8

7

7

7,5

Như vậy, vùng Đông Nam Bộ dẫn đầu cả nước về kinh tế (xét theo GDP bình quân đầu người), bỏ xa vùng đứng thứ hai là đồng bằng sông Hồng (3809 USD/người/năm so với 1616 USD/người/năm), một phần là nhờ thu nhập về dầu khí được tính vào cho Bà Rịa - Vũng Tàu. Và chính điều này này góp phần làm cho Đông Nam Bộ cũng dẫn đầu cả nước luôn về chỉ số phát triển con người (HDI)10, tuy rằng xét về Tuổi thọ, Tỷ lệ biết chữ của người lớn và Số người có trình độ đại học trở lên thì Đông Nam Bộ đều đứng thứ 2, sau đồng bằng sông Hồng; còn xét về Tỷ lệ nhập học của các cấp, Đông Nam Bộ còn tụt xuống tận hàng thứ 5. Do vậy, xét trung bình theo cả 6 bình diện xã hội - nhân văn này thì Đông Nam Bộ đứng hàng thứ 2, sau đồng bằng sông Hồng. Còn vùng Tây Nam Bộ xét về kinh tế và sức khoẻ thì có chỉ số khá tốt, đứng hàng thứ ba, chỉ sau Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng (cần lưu ý là đồng bằng sông Hồng bao gồm cả Hà Nội). Nhưng khi xét về Tỷ lệ biết chữ của người lớn thì Tây Nam Bộ tụt xuống thứ 6. Xét về Tỷ lệ nhập học của các cấp và Số người có trình độ đại học trở lên thì Tây Nam Bộ tụt tiếp xuống vị trí cuối cùng (thứ 8). Như vậy, tình hình giáo dục của Tây Nam Bộ là ở mức báo động đỏ. Do vậy, chỉ số phát triển con người (HDI) của Tây Nam Bộ nói chung đứng hàng thứ 5. Xét trung bình theo cả 6 bình diện xã hội - nhân văn thì Đông Nam Bộ đứng hàng thứ 6, chỉ trước có Tây Nguyên và Tây Bắc. 2.3.7. Trên cơ sở những phân tích trên, có thể thấy rằng xét về phương diện con người thì Nam Bộ có những vấn đề khoa học xã hội và nhân văn cần tiếp tục làm sáng tỏ như sau: a) Các vấn đề phát triển kinh tế ở cả hai miền Đông và Tây Nam Bộ. b) Vấn đề đô thị hoá ở Nam Bộ nói chung và Đông Nam Bộ nói riêng. 10 Chỉ số phát triển con người (HDI) được tính dựa trên ba thông số chính là sức khoẻ (thể chất), tri thức (trí tuệ) và thu nhập (kinh tế).

23

c) Vấn đề di dân và tổ chức đời sống nhân dân vùng đô thị mới. d) Những vấn đề dân tộc và tôn giáo. e) Những vấn đề về đời sống văn hoá, tri thức và giáo dục ở Nam Bộ nói chung và Tây Nam Bộ nói riêng. f) Vấn đề tính cách, triết lý sống và quan niệm về hệ giá trị của người Nam Bộ. Ảnh hưởng của chúng đối với các vấn đề xã hội - nhân văn. *** Với một không gian không đồng nhất giữa hai miền Đông-Tây, với một diễn biến thời gian cực kỳ phức tạp, và với một cộng đồng cư dân đa dạng và đầy biến động của khu vực Nam Bộ như vừa nêu – tất cả những điều ấy nếu không được nghiên cứu kỹ lưỡng về mọi phương diện thì khó mà có thể hiểu được những diễn biến đã, đang và sẽ xảy ra ở khu vực này. Nhất là trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn khu vực Nam Bộ là vô cùng cần thiết, nó là cơ sở cho việc hoạch định những chính sách phát triển vùng này. Vậy thì tình hình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn khu vực Nam Bộ đã đạt được những thành tựu gì?

2.4. Nam Bộ: tình hình nghiên cứu 2.4.1. Về những thời kỳ xa xôi của văn hoá Đồng Nai và văn hoá Óc Eo, chủ yếu chỉ có khoa khảo cổ học mới có thể cung cấp thông tin cho chúng ta. Bắt đầu từ những phát hiện khảo cổ học của L.Malleret vào năm 1942, ngành khảo cổ học Việt Nam đã có nhiều khám phá. Gần đây, những kết quả này được công bố trong các cuốn: Văn hoá Óc Eo: những khám phá mới của Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải (Hà Nội, NXB KHXH, 1995: 472 tr.); Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam của Trung tâm nghiên cứu khảo cổ học thuộc Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh, nay là Viện nghiên cứu KHXH vùng Nam Bộ (Hà Nội, NXB KHXH, 1997: 601 tr.); Khảo cổ học tiền sử và sơ sử Tp. Hồ Chí Minh của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam & Bảo tàng Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh (Tp.HCM, NXB Trẻ, 1998: 678 tr.). Vùng đất Thuỷ Chân Lạp (Nam Bộ) đã được miêu tả trong cuốn Chân Lạp phong thổ ký của sứ thần nhà Nguyên Châu Đạt Quan, người mà vào năm 1296 đã đặt chân đến kinh đô Angkor. Thế kỷ XVIII, cuộc sống của cư dân người Việt ở Nam Bộ được ghi lại trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn. Năm 1820 Trịnh Hoài Đức, một trong ba nhân vật của nhóm Gia Định tam gia, đã viết cuốn Gia Định thành thông chí, cho ta biết rất nhiều về đất và người nơi đây. Trong thời kỳ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, đã có khá nhiều công trình của các nhà khoa học xã hội và nhân văn phương Tây nghiên cứu về Nam Bộ. Trong số đó, đóng góp nhiều nhất là các học giả người Pháp, sau đó là Mỹ. Bên cạnh các học giả nước ngoài, các nhà nghiên cứu người Việt cũng có nhiều đóng góp quan trọng, nổi bật có thể kể đến những tên tuổi như Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, Bình Nguyên Lộc, Toan Ánh, Thái Văn Kiểm, Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Lê Hương, 24

Nguyễn Văn Hầu, v.v. Các công trình nghiên cứu đề cập đến Nam Bộ, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long, dưới nhiều góc độ như địa lý, kinh tế, xã hội, tổ chức hành chính, văn hoá, phong tục tập quán, lịch sử, khảo cổ, v.v. Từ sau ngày đất nước thống nhất đến nay việc nghiên cứu về Nam Bộ nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều công trình nghiên cứu quan trọng tiếp tục ra đời. Một số chương trình và đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp nhà nước về những vấn đề của Nam Bộ hoặc trong đó có những phần liên quan đến khu vực Nam Bộ cũng được thực hiện. Nhiều đề tài cấp sở về các vấn đề khoa học xã hội và nhân văn khu vực Nam Bộ trong phạm vi từng địa phương đã được thực hiện ở Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh trên địa bàn Nam Bộ. 2.4.2. Lẽ ra, cần phải có một khảo sát toàn diện nhằm lập một danh mục đầy đủ các công trình nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn khu vực Nam Bộ trên phạm vi toàn quốc được thực hiện ở cả các trung tâm nghiên cứu lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh lẫn các thành phố khác và các tỉnh (đặc biệt là các tỉnh khu vực Nam Bộ) và công bố dưới mọi hình thức (kể cả các sách của các NXB và các cơ quan không phải NXB; các bài báo khoa học ở các tạp chí và các kỷ yếu hội nghị, các luận văn, luận án; các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp còn lưu trữ ở các cơ quan quản lý). Song đây là một công việc lớn mà, với những giới hạn về tài chính và thời gian, đáng tiếc là Ban soạn thảo đề án chưa làm được (việc này ít nhất phải được xem như một đề tài nằm trong khuôn khổ của đề án). Và ở đây, chúng tôi đành phải bằng lòng với những thông tin chưa đầy đủ. Năm 1981, Viện Khoa học Xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh, nay là Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, đã xuất bản (lưu hành nội bộ) một thư mục khá đầy đủ về đồng bằng sông Cửu Long dày 556 trang [Viện KHXH tại Tp.HCM 1981], tập hợp 1.960 tên sách, luận văn khoa học và bài trong các tạp chí; cùng 803 tên bài báo đăng trên các báo tuần, báo ngày; 1.128 các tư liệu đã công bố và tài liệu văn khố, tổng cộng tất cả là 3.891 tên gọi. Để có khái niệm về tài liệu này, trong phụ lục I của đề án này chúng tôi giới thiệu trang bìa, hướng dẫn sử dụng, phần thư mục chung về những vấn đề khoa học xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long và mục lục. Trong nhiều năm, Tạp chí khoa học xã hội của Viện Khoa học Xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh (nay là Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ) cũng đăng tải rất nhiều bài viết có giá trị nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn khu vực Nam Bộ. Phụ lục V cung cấp thêm Danh mục một số tài liệu tham khảo về KHXH-NV Nam Bộ do PGS.TS. Nguyễn Văn Tài và một số cán bộ sưu tầm. Ngoài ra, ở phụ lục II, ta thấy trong số 79 đề tài khoa học xã hội cấp nhà nước (KX) thực hiện trong giai đoạn 2001-2005, có 3 đề tài liên quan đến các vấn đề KHXH & NV khu vực Nam Bộ. Ở phụ lục III, ta thấy trong số 42 đề tài độc lập cấp nhà nước giai đoạn 2002-2005, có 1 đề tài ĐTĐL-2003/16 về KHXH & NV khu vực Nam Bộ “Nghiên cứu quan hệ giữa đặc điểm tâm lý người Việt ở Nam Bộ và tôn giáo bản địa” do TS. Phạm Bích Hợp chủ trì. Phụ lục IV giới thiệu 54 đề tài khoa học xã hội & nhân văn do Sở KH-CN-MT Tp. Hồ Chí Minh quản lý giai đoạn 1999-2004 đã nghiệm thu, bao gồm không chỉ tên đề tài và tên người chủ trì, mà còn có cả nội dung vắn tắt va2 kết quả nghiệm thu, qua đó ta có thể hình dung được phần nào về việc nghiên cứu KHXH-NV ở Tp. Hồ Chí Minh, trung tâm của khu vực Nam Bộ.

25

2.4.3. Trên cơ sở khảo sát sơ bộ các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn khu vực Nam Bộ, có thể rút ra một số nhận xét như sau: 1) Trong số các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn Nam Bộ hiện có, về không gian thì phần đông các nghiên cứu tập trung vào vùng đồng bằng sông Cửu Long (miền Tây Nam Bộ), miền Đông Nam Bộ chưa được chú ý nghiên cứu đúng mức. Mà ở miền Đông thì, đô thị hoá và những vấn đề có liên quan đang trở thành nóng bỏng, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập hiện nay, chính nó đang làm cho khoảng cách giữa miền Đông và miền Tây ngày càng gia tăng. 2) Về bình diện nghiên cứu thì lâu nay, các vấn đề kinh tế được quan tâm nhiều hơn là văn hoá - xã hội. Việc quan tâm nghiên cứu nhiều đến kinh tế là hoàn toàn đúng - “có thực mới vực được đạo”. Song nếu nhớ rằng nhiều vấn đề kinh tế có nguyên nhân từ khía cạnh văn hoá - xã hội thì sẽ thấy việc đẩy mạnh nghiên cứu những khía cạnh này là cần thiết, nhất là trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, khi mà nhiệm vụ bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu. 3) Nam Bộ là một mảnh đất rất phong phú về các tôn giáo, cũng là nơi có nhiều dân tộc cư trú. Trong đó có nhiều vấn đề tôn giáo và dân tộc rất phức tạp. Lĩnh vực này nhìn chung đã được quan tâm, nhưng chưa làm được bao nhiêu, còn rất nhiều vấn đề quan trọng hãy còn để ngỏ.

26

III- MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN 3.1. Mục tiêu thực tiễn Với giới hạn thời gian là 5 năm, đề án buộc phải tập trung vào một số lĩnh vực, quy hoạch thành những chương trình cùng những nhóm đề tài có ý nghĩa thiết thực nhất, tránh sa vào tình trạng lý thuyết suông, sau khi nghiệm thu bỏ vào ngăn kéo, không ai đọc đến, và không bao giờ áp dụng vào đời sống, không đem lại ích lợi gì cho xã hội. Giá trị thực tiễn của các đề tài thuộc đề án nghiên cứu các vấn đề khoa học xã hội và nhân văn khu vực Nam Bộ nằm ở khả năng giải quyết ít nhất một vấn đề cụ thể, đáp ứng những nhu cầu mà con người và xã hội Nam Bộ trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá này đã và đang trực tiếp đặt ra. Giá trị thực tiễn của các đề tài còn nằm ở khả năng cung cấp các thông tin, nhận định mang tính tư vấn, phản biện, cảnh báo đối với việc hoạch định chính sách khoa học - công nghệ và chính sách kinh tế - văn hoá - xã hội ở các cấp từ trung ương đến địa phương. Đối với khoa học xã hội và nhân văn, do tính phiếm định đã nói ở trên (x. §1.1) mà việc xác định giá trị thực tiễn của một công trình không phải là dễ dàng. Song, điều này vẫn có thể thực hiện được bằng việc yêu cầu các công trình thuộc phạm vi của đề án sau khi nghiệm thu nhất thiết phải có khả năng được công bố thành sách. Đối với khoa học tự nhiên và công nghệ, việc công bố thành sách có thể gặp khó khăn vì ít người đọc, nhưng đối với khoa học xã hội và nhân văn thì yêu cầu này là hoàn toàn hiện thực, vì tính phổ biến là một trong bốn đặc trưng của nhóm ngành này (§1.1). Yêu cầu công bố thành sách chính là cách xã hội hoá các kết quả nghiên cứu, để cho xã hội sử dụng và cùng đánh giá. Với yêu cầu này, buộc các tác giả phải làm việc nghiêm túc hơn, sau khi nghiệm thu rồi vẫn phải tiếp tục tự giác làm việc, sửa chữa (để đưa in). Không những thế, yêu cầu này cũng buộc các thành viên hội đồng nghiệm thu đánh giá nghiêm túc, khách quan, tránh tình trạng vì nể nang mà đề cao quá đáng hoặc cho qua dễ dàng.

3.2. Mục tiêu khoa học Mặt khác, phải tránh khuynh hướng sa vào những vấn đề thực tiễn giản đơn, tuy có thể có những ích lợi nhất định nào đó trước mắt, song không có tác dụng đóng góp về mặt khoa học. Mọi đề tài thuộc phạm vi của đề án phải được thực hiện trên một nền tảng lý luận; sau khi hoàn thành, với những lý luận đã tổng kết hoặc đề xuất và những tư liệu thực tiễn của khu vực Nam Bộ, nó phải góp phần nâng tầm hiểu biết và trình độ lý luận trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đang xét lên một bước mới. Yêu cầu công bố thành sách đồng thời cũng chính là một tiêu chuẩn đánh giá giá trị khoa học của đề tài. Nếu một công trình nghiên cứu không có giá trị khoa học thì nó sẽ khó có thể công bố thành sách được. 27

3.3. Mục tiêu giáo dục và đào tạo Mặt khác, với tư cách là một trong hai trung tâm giáo dục và đào tạo đại học và sau đại học lớn nhất nước, các công trình nghiên cứu trong khuôn khổ đề án nghiên cứu của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh không thể chỉ bằng lòng với việc có giá trị khoa học và thực tiễn. Chúng phải có tác dụng góp phần trực tiếp vào công việc giáo dục và đào tạo đại học và sau đại học trong nhà trường. Mục tiêu này sẽ được thực hiện bằng hai cách: Thứ nhất là những kết quả nghiên cứu phải có khả năng được sử dụng để biên soạn các các giáo trình giảng dạy đại cương và chuyên ngành ở đại học và sau đại học theo hướng hiện đại, phù hợp với nhu cầu xã hội hiện nay và hội nhập với khoa học thế giới. Thứ hai là trong quá trình thực hiện đề tài phải có sự tham gia phối hợp của nhiều thế hệ: từ các cán bộ đầu đàn như giáo sư, phó giáo sư, lực lượng nghiên cứu nòng cốt như tiến sĩ, đến các lực lượng tập sự nghiên cứu như nghiên cứu sinh, thạc sĩ, học viên cao học, và có thể có cả sinh viên. Sự phối hợp này là một cách mở rộng quá trình đào tạo, tạo điều kiện cho lớp trẻ thông qua công việc mà sớm trưởng thành, góp phần gắn liền nhà trường với xã hội nói chung và địa bàn Nam Bộ nói riêng. Về mặt định lượng, có thể dự kiến rằng sau 5 năm, ở mỗi một trong 3 chương trình sẽ có ít nhất 2 luận án tiến sĩ và 5 luận án cao học (tổng cộng là 6 luận án tiến sĩ và 15 luận án cao học) được hoàn thành.

28

IV- NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN 4.1. Những lĩnh vực KHXH&NV khu vực Nam Bộ mà đề án quan tâm Với giới hạn thời gian là 5 năm, có thể thấy rằng đề án không thể bao hết các vấn đề đã nêu trên cơ sở phân tích tình hình và những thành tựu nghiên cứu KHXH&NV khu vực Nam Bộ hiện có ở §§2.1.3, 2.2.3, 2.3.7. Theo quy hoạch của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, nhóm các vấn đề kinh tế và các vấn đề về môi trường được đưa ra khỏi phạm vi của đề án này. Chúng thuộc những đề án và chương trình riêng. Căn cứ vào nhu cầu thực tiễn của xã hội cùng những mục tiêu đã nêu trên và thực trạng tiềm lực đội ngũ cán bộ KHXH&NV của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, hợp lý hơn cả là tập trung mũi nhọn của định hướng nghiên cứu KHXH&NV khu vực Nam Bộ giai đoạn 2005-2010 vào ba lĩnh vực chính là lĩnh vực đô thị, lĩnh vực văn hoá, và lĩnh vực dân tộc và tôn giáo. Với ba lĩnh vực như vậy, có thể vừa tạo được các điểm đột phá, vừa tích hợp được những thế mạnh của Đại học KHXH&NV với lực lượng nghiên cứu chủ yếu về các vấn đề văn học và sử học, ngôn ngữ học và triết học, tâm lý học và giáo dục học, xã hội học và nhân học; địa lý học, Đông phương học và quan hệ quốc tế, v.v. Ở mỗi một trong ba lĩnh vực có thể đề xuất một chương trình với năm hướng đề tài. Một “hướng đề tài” có thể gồm một số đề tài nhưng cũng có thể chỉ gồm một đề tài (tức là hướng đề tài có thể rộng hơn và cũng có thể trùng với đề tài). Ba chương trình với tổng cộng 15 hướng đề tài cụ thể như sau:

4.2. Lĩnh vực Đô thị: Chương trình Những vấn đề xã hội - nhân văn trong phát triển đô thị ở khu vực Nam Bộ 1) Những nhân tố khoa học xã hội và nhân văn trong việc quản lý đô thị ở Nam Bộ Những phức tạp nảy sinh ngày càng gay gắt trong đời sống đô thị Việt Nam cho thấy nguyên nhân không phải ở kinh tế mà chính là ở vai trò của các nhân tố khoa học xã hội và nhân văn trong việc quản lý đô thị Việt Nam nói chung và đô thị Nam Bộ nói riêng. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế và phát sinh các hiện tượng tiêu cực trong thời gian qua ở Tp. Hồ Chí Minh và các đô thị khác của Việt Nam là các cấp quản lý coi việc quản lý đô thị chỉ như một quá trình cơ học mà coi nhẹ những đặc tính xã hội và nhân văn của nó. Đây chính là một trong những tiêu điểm mà Đảng và Chính phủ Việt Nam coi là điểm yếu nhất về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn quản lý đô thị. Việc nghiên cứu sâu về những nhân tố khoa học xã hội và nhân văn trong quá trình quản lý đô thị ở Tp. HCM và các đô thị Đông Nam Bộ có thể tập trung vào các vấn đề sau: - Vấn đề tự quản cộng đồng của người dân đô thị, đặc biệt là trong một đô thị rất đa dạng về văn hóa. Trong thời gian qua, một số dự án chỉnh trang đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, duy trì vệ sinh môi trường, an ninh trật tự xã hội thành công là do 29

tự quản của công đồng, nhưng rất tiếc đấy mới chỉ là những hoạt động đơn lẻ chưa được đúc kết thành kinh nghiệm. - Vai trò của các tổ chức xã hội (hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội nông dân...) và nhân dân trong hệ thống quản lý đô thị. Việc đề ra các chính sách lâu nay còn nặng về hành chính và dội từ trên xuống, do vậy việc nghiên cứu các thiết chế để phát huy dân chủ cơ sở trong phát triển đô thị là điều hết sức cần thiết. - Đặc tính văn hóa và đa dạng xã hội cần được tập trung nghiên cứu nhiều hơn để từ đó đưa ra các chính sách quản lý đô thị phù hợp với từng đối tượng. Trong những năm qua, các chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội chủ yếu là hướng đến những nhóm người có dân số áp đảo mà ít chú ý đến những nhóm nhỏ, do vậy, việc đa dạng hoá chính sách và đa dạng hoá các cách tiếp cận để giải quyết vấn đề là hết sức cần thiết. 2) Đặc điểm quá trình hình thành đô thị ở Nam Bộ và chuyển hoá từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp Quá trình hình thành đô thị ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt đáng kể so với đô thị phương Tây. Đô thị Nam Bộ so với các đô thị Việt Nam nói chung lại càng có nhiều điểm khác biệt. Cần nghiên cứu kỹ về quá trình này, về những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt của đô thị miền Đông và đô thị miền Tây. Trong đó đặc biệt chú ý đi sâu vào tìm hiểu về quá trình chuyển hoá từ văn hoá làng xã đến văn hoá đô thị, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp ở Nam Bộ và những hệ quả của nó. Từ đó dự báo về xu hướng, động thái phát triển của Nam Bộ trong bối cảnh toàn cầu hoá, công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Vậy mà có một thực tế là cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống tiến trình đô thị hóa của toàn bộ vùng Nam Bộ nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng. Trên cơ sở việc nghiên cứu này, chúng ta có thể đúc kết được những vấn đề có tính qui luật của sự ra đời đô thị trên một vùng đất mới, để từ đó phát huy được những điểm mạnh và hạn chế được những điểm yếu. Trên phương diện này, có thể tập trung nghiên cứu những nội dung sau đây: - Tiến trình di dân để hình thành nên nhóm thị dân đa dạng có những đặc điểm nhân khẩu học và xã hội học khác nhau. Trong đó lưu ý cả đến yếu tố nội sinh và các yếu tố ngoại sinh từ bên ngoài thâm nhập vào. - Tiến trình tiếp biến văn hóa đô thị từ bên ngoài vào khu vực Nam Bộ và Sài Gòn - Tp.HCM từ đầu tk. XVIII đến nay để hình thành nên văn hóa và lối sống rất riêng của người dân Sài Gòn- Tp. Hồ Chí Minh. - Cần nghiên cứu sâu hơn những đặc điểm riêng của quá trình hình thành đô thị Sài Gòn - Tp.HCM do đô thị này có nhiều ưu thế hơn so với các đô thị Việt Nam khác, chẳng hạn như Sài Gòn - Tp.HCM là nơi tiếp xúc với văn minh phương Tây sớm và mạnh nhất, nơi hình thành hệ thống công nghiệp đồng bộ sớm nhất, nơi làm quen với kinh tế thị trường sớm nhất... - Trên cơ sở những đặc điểm của quá trình hình thành đô thị ở Nam Bộ và chuyển hoá từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp, cũng cần phải nghiên cứu về việc xây dựng một mô hình nông thôn mới cho các huyện ngoại thành Tp.HCM.

30

Vấn đề tương tự ở Hàn Quốc và Trung Quốc đã định hình từ những năm 60-70, trong khi đó ở ta thì cho đến nay, các xã ngoại thành vẫn phát triển khá tuỳ tiện. 3) Vấn đề cơ cấu dân cư và nguồn nhân lực ở các đô thị Nam Bộ Sự hình thành và phát triển của các đô thị Nam Bộ cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm thay đổi khá nhanh cơ cấu dân cư, kèm theo những quá trình di dân và những xáo trộn, biến đổi trong cơ cấu nguồn nhân lực của các đô thị Nam Bộ. Mỗi giai đoạn phát triển là một sự thay đổi cơ cấu kinh tế, và mỗi giai đoạn có những nhu cầu khác nhau về nhân lực. Cần tìm hiểu những hiện tượng và những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu dân cư và những quy luật tái phân bố và tổ chức nguồn nhân lực ở các đô thị Nam Bộ, cụ thể là cần tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: - Cơ cấu giai cấp xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh trong từng giai đoạn và hiện nay. Vai trò và cấu trúc của các giai cấp cơ bản như giai cấp công nhân và giai cấp nông dân mới trong tiến trình đô thị hóa và công nghiệp hóa hiện nay. Những đóng góp và sự biến đổi của các giai cấp này trong giai đoạn mới. - Các nhân tố nước ngoài cũng được coi là một thành tố quan trọng của nguồn nhân lực. Sự đóng góp của họ về kinh tế, văn hóa vào tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hóa (kể cả mặt tích cực và tiêu cực) cũng là một trong số các tiêu điểm cần được nghiên cứu. - Qui luật di chuyển các luồng nhân lực trong tiến trình đô thị hóa ở Tp. HCM. Mục tiêu là phát hiện ra qui luật của các luồng dịch cư từng nhóm xã hội (trí thức, công nhân, lao động tự do) bên trong nội thành (quận-quận; quận-huyện) và chuyển cư bên ngoài đến (tỉnh-thành); các yếu tố kinh tế - văn hoá - xã hội chi phối nó. - Việc giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực Nam Bộ và Tp. Hồ Chí Minh, đặc biệt là việc đào tạo nghề nhằm cung ứng cho Tp. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2010-2025 hướng đến một cơ cấu kinh tế dịch vụ - thương mại - công nghiệp chất lượng cao. 4) Vấn đề lối sống của dân cư đô thị Nam Bộ nói chung và của các khu công nghiệp tập trung ở Đông Nam Bộ nói riêng Cho đến cuối năm 2003, ở miền Đông Nam Bộ đã có 43 khu công nghiệp được thành lập với tổng số lao động là 138.251 người [Lê Thông (cb) 2004: 528-530]. Lực lượng lao động tại chỗ không đáp ứng được cả về lượng cũng như về chất những nhu cầu phát triển. Do vậy, đã có sự di chuyển lao động trong nội vùng cũng như từ các nơi khác đến trên một quy mô lớn. Việc di dân quá nhanh vào các đô thị Đông Nam Bộ hiện nay (như Tp. Hồ Chí Minh, Biên Hoà, Vũng Tàu) đã làm quá tải khả năng đáp ứng các điều kiện về cơ sở hạ tầng của đô thị (như nhà ở, điện nước, giao thông, y tế), và càng thiếu thốn là các nhu cầu về đời sống văn hoá - giáo dục. Bởi vậy, một vấn đề cực kỳ quan trọng về mặt lý luận cần phải nghiên cứu là lối sống của người dân thành phố, nhất là của thanh niên sẽ như thế nào trong những năm tới khi mà thành phố hoàn thành về cơ bản giai đoạn “quá độ đô thị”. Nhà nghiên cứu cần phải chỉ ra cho được những chuyển biến nào là tất yếu, những gì bất biến trong 31

văn hóa - lối sống, những gì sẽ mất đi và những gì sẽ biến dạng. Chỉ khi đưa ra được những dự báo xác đáng thì mới có thể xây dựng chính sách phát triển đồng bộ và phù hợp. Một số vấn đề nên tập trung nghiên cứu trong thời gian trước mắt là: - Những biến đổi về văn hóa và lối sống trong quá trình chuyển từ một xã hội tiền công nghiệp sang xã hội công nghiệp - đô thị. - Những nhân tố kinh tế - văn hóa - xã hội tác động đến lối sống đô thị. - Đời sống văn hóa tinh thần của công nhân các khu công nghiệp tập trung: thực trạng và những giải pháp11. 5) Vấn đề đa dạng hoá đô thị Nam Bộ Ở Tp.HCM và các khu đô thị Nam Bộ, vấn đề đa dạng hoá văn hoá nội địa đã được nghiên cứu, còn đa dạng hoá văn hoá quốc tế thì chưa. Vấn đề này có thể đi sâu vào các khía cạnh sau: - Tiến trình tiếp biến văn hoá từ bên ngoài vào khu vực Nam Bộ và Sài Gòn Tp.HCM từ đầu tk. XVIII đến nay. - Các cộng đồng người nước ngoài xuất hiện ở Sài Gòn - Tp.HCM và những dấu ấn văn hoá của họ qua các thời kỳ. - Các cộng đồng người nước ngoài đang hiện diện ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay và những đóng góp của họ cho tiến trình đổi mới về kinh tế - văn hóa - xã hội. - Các tổ chức phi chính phủ quốc tế đang hoạt động tại Tp. Hồ Chí Minh.

4.3. Lĩnh vực Văn hoá: Chương trình Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập ở khu vực Nam Bộ 1) Sưu tầm, bảo tồn và nghiên cứu các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các dân tộc Nam Bộ Trong mảng nghiên cứu văn hoá Nam Bộ, đến nay đã có một số công trình như Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long của Nguyễn Công Bình và nnk [1990], Văn hoá dân gian người Việt ở Nam Bộ của Thạch Phương và nnk [1992], Văn hoá dân gian Nam Bộ: những phác thảo của Nguyễn Phương Thảo [1994]. Một số tập bài như Mấy đặc điểm văn hoá đồng bằng sông Cửu Long [Lê Anh Trà (cb) 1984], Văn hoá nghệ thuật Nam Bộ [Tạp chí VH-NT 1997], Văn hoá Nam Bộ trong không gian xã hội Đông Nam Á [TTNC VN-ĐNA 2000], Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hoá văn nghệ dân gian Nam Bộ [Hội văn nghệ 2004]. Về từng lĩnh vực cụ thể cũng có một số công trình như Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long của Phan Thị Yến Tuyết [1993], Đình Nam Bộ: tín ngưỡng và nghi lễ của Huỳnh Ngọc Trảng & nnk [1993], Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ (2 tập) của Nguyễn Có một đề tài gần với hướng này đang được thực hiện tại tỉnh Bình Dương nhan đề “Xây dựng mô hình thiết chế văn hoá phục vụ cư dân các khu công nghiệp tập trung trong quá trình công nghiệp hoá tại tỉnh Bình Dương” do PGS.TS. Nguyễn Tri Nguyên (Viện văn hoá - nghệ thuật, Hà Nội) và ThS. Đỗ Khắc Điệp (Sở VHTT Bình Dương) làm chủ nhiệm. Đề tài dự kiến thực hiện trong 2 năm 2003-2005, do Sở KH-CN-MT Bình Dương quản lý. 11

32

Văn Hầu [2002], Lễ hội dân gian ở Nam Bộ (khía cạnh giao tiếp văn hoá dân tộc) của Huỳnh Quốc Thắng [2003], v.v. Tuy nhiên, về mặt sưu tầm bản thân các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các dân tộc Nam Bộ thì lại chưa làm được bao nhiêu. Những sưu tập như Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long do khoa ngữ văn của Trường Đại học Cần Thơ thực hiện [Khoa ngữ văn 1997], Nam Kỳ cố sự (chuyện kể Nam Bộ) do Nguyễn Hữu Hiếu [1997] sưu tầm đều chưa đầy đủ và chưa đáp ứng những tiêu chuẩn khoa học của công việc này. Còn hoàn toàn để trống là những lĩnh vực như nghệ thuật dân gian, lễ hội dân gian, trò chơi dân gian, tri thức dân gian, v.v. Riêng số lượng các nơi thờ tự của các tôn giáo như đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo đã có hàng ngàn mà chưa có công trình nào thống kê (x. bài của PGS.TS. Phạm Đức Mạnh trong [Khoa lịch sử 2005: 1-13]). Về không gian thì miền Tây Nam Bộ được chú ý hơn miền Đông Nam Bộ. Mà miền Đông thì hiện đang đô thị hoá rất nhanh, điều này đồng nghĩa với nguy cơ mất mát các giá trị văn hoá. Cần có những công trình sưu tầm văn hoá dân gian Nam Bộ (cả miền Tây và miền Đông) một cách bài bản. Cần xây dựng danh mục và miêu tả các di sản văn hóa tiêu biểu ở Nam Bộ (các di tích khảo cổ học, di tích lịch sử - văn hóa, các thắng cảnh…), biên soạn tiểu sử và lập thư mục về các nhân vật tiêu biểu của Nam Bộ, trong đó không chỉ chú ý đến các nhân vật văn hóa (nhà nho, nhà văn, nhà hoạt động chính trị và quân sự, v.v.) mà cần chú ý cả đến các thương nhân thành đạt trong quá trình phát triển 300 năm hình thành quan hệ thị trường ở Nam Bộ. Cần sưu tầm, nghiên cứu các di sản văn hoá Hán-Nôm ở Nam Bộ. Đây là một mảng hầu như còn để trống, trong khi nó sẽ góp phần làm sáng tỏ nhiều điều về lịch sử văn hoá Nam Bộ giai đoạn khai phá và có đóng góp quan trọng trong di sản văn hoá Hán-Nôm của Việt Nam nói chung. Nam Bộ là nơi đi đầu cả nước trong quá trình giao lưu tiếp xúc với văn hoá phương Tây, Nam Bộ cũng là nơi đầu tiên xuất hiện các tác phẩm văn học chữ quốc ngữ. Song do không được sưu tầm, nghiên cứu và phổ biến nên giới nghiên cứu thường cho rằng khởi đầu của văn học chữ quốc ngữ là vùng Bắc Bộ. Đề tài sưu tầm và bảo tồn các tác phẩm văn học chữ quốc ngữ Nam Bộ do TS. Đoàn Lê Giang chủ trì nhằm bổ khuyết chỗ trống này. Địa danh Nam Bộ cũng là một lĩnh vực tri thức rất cần thiết để hiểu về một nền văn hoá. Trong lĩnh vực này tuy đã có một số công trình sưu tầm và khảo cứu bước đầu [Lê Trung Hoa 1991, 2002; Bùi Đức Tịnh 1999; Nguyễn Hữu Hiếu 2004], song còn rất thiếu những công trình sưu tầm toàn diện và khảo cứu tổng hợp. Các công việc trên có tác dụng quan trọng và phục vụ trực tiếp cho công tác bảo tồn và giáo dục truyền thống, đồng thời cũng có hiệu quả trực tiếp về phương diện kinh tế, phục vụ cho công tác phát triển du lịch đi vào chiều sâu. Cho đến nay, Nam Bộ chủ yếu được biết đến như một vùng du lịch sinh thái, khía cạnh du lịch văn hoá còn chưa được phát huy một cách thích đáng. Nếu tính rằng các công việc trên cần thực hiện không chỉ với văn hoá của người Việt, mà còn với các nền văn hoá của tất cả các tộc người ở đây thì đây là một hướng đề tài cần đến sự hợp tác của nhiều chuyên ngành: văn học, ngôn ngữ học, sử học,

33

nhân học, văn hoá học, địa lý... và phải thực hiện trong một khoảng thời gian dài, đồng thời cần tới một nguồn kinh phí rất lớn. Bởi vậy, tuỳ theo khả năng về kinh phí nghiên cứu mà trong 5 năm 2005-2010, có thể tập trung vào một hoặc một số nhiệm vụ sau: - Sưu tầm văn hoá dân gian Nam Bộ (miền Tây và miền Đông) một cách bài bản, đặc biệt là những lĩnh vực còn để trống như nghệ thuật dân gian, lễ hội dân gian, trò chơi dân gian, tri thức dân gian, v.v.. - Sưu tầm, nghiên cứu các di sản văn hoá chữ quốc ngữ và di sản văn hoá HánNôm ở Nam Bộ. - Xây dựng danh mục và miêu tả các di sản văn hóa tiêu biểu ở Nam Bộ (các di tích khảo cổ học, di tích lịch sử - văn hóa, các nơi thờ tự, các thắng cảnh…). - Biên soạn tiểu sử và lập thư mục về các nhân vật tiêu biểu của Nam Bộ (cần chú ý đến không chỉ các nhân vật văn hóa mà cả các thương nhân thành đạt). 2) Nghiên cứu bản sắc văn hoá, lối sống, tâm lý, tính cách, quan niệm thẩm mỹ, triết lý của người Việt ở Nam Bộ Đây là một hướng đề tài quan trọng và rất cấp thiết. Đã đến lúc không thể nhìn nhận một cách giản đơn nhiều hiện tượng của đời sống xã hội, văn hoá, kinh tế, v.v. của khu vực Nam Bộ nếu không đi tìm lời giải đáp trong chiều sâu của bản sắc văn hoá, lối sống, tâm lý, tính cách, quan niệm thẩm mỹ, triết lý của con người ở đây. Chỉ khi xác định đúng được nguồn gốc, nguyên nhân thì mới có thể xác định được những ưu điểm và nhược điểm, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hội nhập văn hoá và toàn cầu hoá. Tức là mới có thể đề xuất được những biện pháp, chính sách hợp lý cho sự phát triển của khu vực này nhằm phát huy vai trò của nhân tố con người, của giáo dục trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong khi đó mảng đề tài này hầu như hoàn toàn chưa được nghiên cứu ngoài một số nhận xét tuy tinh tế, nhưng phần nhiều dựa trên cảm tính của nhà văn Sơn Nam trong các cuốn “Cá tính miền Nam” [Sơn Nam 1974/1997] và “Văn minh miệt vườn” [Sơn Nam 1992]; cùng một số bài nghiên cứu in trong cuốn “Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ” [TTNC Tâm lý DT 2000]. Một phần của mảng đề tài này hiện đang được thực hiện dưới dạng đề tài độc lập cấp nhà nước nhan đề “Nghiên cứu quan hệ giữa đặc điểm tâm lý người Việt ở Nam Bộ và tôn giáo bản địa” (ĐTĐL-2003/16, thực hiện từ 1/2003 đến 9/2005) do TS. Phạm Bích Hợp chủ trì (chủ quản là Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQG Tp.HCM). 3) Những vấn đề lịch sử Nam Bộ trong tiến trình lịch sử Việt Nam và khu vực Lịch sử Nam Bộ tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng cũng hãy còn rất nhiều vấn đề phải tiếp tục làm sáng tỏ và đi sâu như các vấn đề: văn hoá Óc-eo và văn hoá Phù Nam; văn hoá Đồng Nai; ảnh hưởng của chúng đến các giai đoạn văn hoá tiếp theo; Thuỷ Chân Lạp và văn hoá Thuỷ Chân Lạp; giai đoạn xung đột và thoái hoá (có thực sự là hoàn toàn hoang vắng như Châu Đạt Quan mô tả hay không?); Nam Bộ giai đoạn đầu khai phá của người Việt,... Ba mươi năm đã trôi qua kể từ ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Chúng ta đã làm được rất nhiều việc trong việc nghiên cứu các khía cạnh lịch sử và quân sự của 34

cuộc chiến, cũng như việc nâng cao đời sống của nhân dân Nam Bộ sau 1975. Song chúng ta vẫn chưa làm được gì nhiều trong việc nghiên cứu khía cạnh văn hoá - lịch sử của giai đoạn này. Trước mắt, cần thiết phải khảo sát và có sự đánh giá khoa học và khách quan các thành tựu văn hóa - văn nghệ ở Nam Bộ, mà chủ yếu là ở Sài Gòn và các đô thị khu vực này trong giai đoạn 1954-1975. Đồng thời nghiên cứu về những biến đổi cũng như những thành tựu và hạn chế trong việc thụ hưởng văn hóa của người dân Nam Bộ nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng trong khoảng thời gian 30 năm sau ngày đất nước thống nhất. 4) Những ảnh hưởng và tác động của quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đối với khu vực Nam Bộ Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang tác động mạnh mẽ đến khắp mọi nơi. Đối với Nam Bộ là vùng đất có quá trình giao lưu hội nhập nhanh nhất và hiện có tốc độ tăng trưởng cao nhất nước, chắc chắn việc nghiên cứu những ảnh hưởng của quá trình hội nhập và toàn cầu hoá ở đây sẽ có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với bản thân khu vực Nam Bộ, mà còn đối với cả nước. Điều đáng lưu ý là trong cùng một khu vực Nam Bộ, trong khi vùng Đông Nam Bộ có tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng trưởng cao nhất nước thì vùng Tây Nam Bộ từ chỗ là một vùng đất cực kỳ trù phú và giàu có, một vựa lúa của cả nước, đã trở thành một trong những vùng nghèo khó và là nơi có tỷ lệ giáo dục thấp nhất nước. Tất cả những hiện tượng đó đòi hỏi phải được nghiên cứu nghiêm túc, công phu để xác định cụ thể những ảnh hưởng và tác động của quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đối với khu vực Nam Bộ nói chung và từng vùng nói riêng là gì và quy luật của những ảnh hưởng đó là gì, nhằm giải đáp cho những câu hỏi kiểu như tại sao giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng ở đồng bằng Nam Bộ lại sa sút như hiện nay (x. ở trên, §2.3.5-2.3.6) và tìm câu trả lời cho những giải pháp phát triển. Trong bối cảnh của quá trình hội nhập và toàn cầu hoá, du lịch ngày càng trở thành một hoạt động và một ngành kinh tế quan trọng, mà lâu nay thì du lịch Nam Bộ chủ yếu mới chỉ được khai thác ở khía cạnh du lịch sinh thái và hãy còn rất xa mới đạt đến những tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy cũng rất cần nghiên cứu đề tài du lịch văn hoá và sinh thái ở khu vực Nam Bộ. 5) Văn hoá Nam Bộ trong truyền thống văn hoá Việt Nam và vấn đề đại chúng hoá các giá trị văn hoá Nam Bộ Văn hoá Nam Bộ cần được xem xét như một tổng thể, trong mối quan hệ với văn hoá Việt Nam trên phương diện không gian (như một trong sáu vùng văn hoá và là một trong ba khu vực của cả nước) và thời gian (lịch sử văn hoá), từ đó làm rõ hệ giá trị của văn hoá Nam Bộ. Trên cơ sở đó, nghiên cứu vấn đề đại chúng hoá các giá trị văn hoá Nam Bộ như việc giảng dạy văn hoá dân gian Nam Bộ, đưa các tác phẩm văn học viết về vùng đất và con người Nam Bộ trong nhà trường phổ thông và các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn (trong một số khoa, ngành ở cấp đại học, cao đẳng cần đưa vào giảng dạy môn “Nam Bộ học”). Tăng cường hình ảnh vùng đất và con người

35

Nam Bộ trong phim ảnh, nghệ thuật; trong du lịch, trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

4.4. Lĩnh vực Dân tộc và Tôn giáo: Chương trình Những vấn đề dân tộc - tôn giáo ở khu vực Nam Bộ 1) Văn hoá ứng xử với môi trường xã hội của cư dân các dân tộc ít người ở Nam Bộ Các dân tộc ít người ở Nam Bộ gồm Hoa, Chăm, Khmer, Xtiêng, Êđê, Chơro, Mạ, Mnông giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của khu vực này. Những nghiên cứu hiện có về các dân tộc này là không đồng đều: chúng mới tập trung chủ yếu vào một vài dân tộc như Khmer, Hoa, Chăm, và một số phương diện như ngôn ngữ, dân tộc... (chẳng hạn, về người Khmer có các công trình của Huỳnh Ngọc Trảng & nnk [1987], Nguyễn Khắc Cảnh [1998], Nguyễn Mạnh Cường [2002]). Cần tiến hành những công trình nghiên cứu về những mối quan hệ và quá trình giao lưu văn hoá của các dân tộc ít người với các cộng đồng dân cư xung quanh cũng như cách ứng xử của các dân tộc này với những người và văn hoá đến từ phương xa (như Pháp, Mỹ). Tìm hiểu những tác động của quá trình giao lưu văn hoá này đến văn hoá, cuộc sống, con người, thiên nhiên của vùng đồng bào các dân tộc. Việc nghiên cứu này sẽ giúp cho việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau và xây dựng những chủ trương chính sách hợp lý nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc; giúp cho việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá của các dân tộc ít người. 2) Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của cư dân các dân tộc ít người ở Nam Bộ Các dân tộc ít người có một quá trình chung sống rất mật thiết và gắn bó với thiên nhiên, lâu nay chúng ta chủ yếu chỉ thấy ở mối quan hệ này một tinh thần tín ngưỡng, sùng bái, tôn thờ tự nhiên như thần thánh. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà thế giới công nghiệp và đô thị đã tàn phá và huỷ hoại môi trường ở mức độ trầm trọng, thì việc tìm hiểu, nghiên cứu những kinh nghiệm bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ, v.v. của cư dân các dân tộc ít người dưới nhiều hình thức khác nhau, kể cả dưới hình thức tôn giáo tín ngưỡng (ma thuật, bùa chú, phù phép...), đi tìm những cơ sở khoa học của chúng, là những đề tài rất cần thiết và hữu ích. 3) Những vấn đề tôn giáo - tín ngưỡng của người Việt và các dân tộc ít người Nam Bộ Trong vùng người Việt cư trú, Nam Bộ là vùng đất mà tôn giáo tín ngưỡng nảy nở phong phú và đa dạng nhất. Nghiên cứu chung về văn hoá tâm linh Nam Bộ có một số công trình của Nguyễn Đăng Duy [1997], Đỗ Quang Hưng [2001], Nguyễn Hữu Hiếu [2004]. Đây là nơi duy nhất đã hình thành những tôn giáo địa phương như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Hoà Hảo. Về các tôn giáo này đã có một số công trình nghiên cứu như của Đồng Tân [1967, 1972], Đặng Nghiêm Vạn (cb) [1995], Lê Anh Dũng [1996] nghiên cứu về Cao Đài; Nguyễn Văn Hầu [1968] nghiên cứu về Hoà Hảo; Đinh Văn Hạnh [1999] nghiên cứu về Tứ Ân Hiếu Nghĩa… Song đây là những

36

tôn giáo có ảnh hưởng lớn ở Nam Bộ trong lịch sử và một số tôn giáo như Cao Đài, Hoà Hảo tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của môt bộ phận không nhỏ cư dân Nam Bộ hiện nay. Vì vậy cần tiếp tục đi sâu hơn và cần có những công trình có sức khái quát hơn về các tôn giáo này. Nam Bộ cũng là nơi từng nảy nở đủ thứ đạo như đạo Dừa, đạo Trần, đạo Đứng, đạo Ngồi, đạo Nằm, v.v. Do vậy, cần có những công trình nghiên cứu về tôn giáo tín ngưỡng của người Việt ở Nam Bộ nói chung để tìm hiểu sâu hơn những quy luật hình thành và phát triển của chúng. Tình hình và những vấn đề tôn giáo - tín ngưỡng trong vùng đồng bào các dân tộc ít người là một vấn đề khoa học xã hội và nhân văn rất quan trọng. Do chưa có sự chú ý đúng mức nên thời gian qua ở một số vùng (điển hình là Tây Nguyên) đã nảy sinh những vấn đề phức tạp, bị những phần tử phản động lợi dụng tuyên truyền kích động gây rối. Do vậy, cần đầu tư nghiên cứu về tình hình và những vấn đề tôn giáo - tín ngưỡng trong vùng đồng bào các dân tộc ít người ở Nam Bộ. 4) Vấn đề giáo dục và giáo dục song ngữ trong vùng đồng bào các dân tộc ít người Nam Bộ Như đã trình bày (§2.3.5-2.3.6), tình hình giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long là ở mức báo động đỏ. Trong toàn khu vực Nam Bộ thì tình hình giáo dục ở các vùng dân tộc ít người cũng rất đáng lo ngại. Ở đây, việc giáo dục song ngữ (tiếng Việt và tiếng dân tộc) còn làm cho tình hình trở nên phức tạp hơn. Năm 2004 đã có đề tài của PGS.TS. Đinh Lê Thư về giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ. Công việc này cần được tiếp tục đối với các dân tộc khác; và ngay cả vấn đề giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc Khmer cũng còn nhiều việc đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. 5) Những vấn đề dân tộc và tôn giáo Nam Bộ trong mối quan hệ với Đông Nam Á Việt Nam nói chung và đặc biệt là Nam Bộ nói riêng là một bộ phận khăng khít của Đông Nam Á trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình. Bởi vậy, những vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Nam Bộ luôn nằm trong mối quan hệ mật thiết với những vấn đề cùng loại ở các nước láng giềng trong khu vực. Bởi vậy, những vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Nam Bộ chỉ có thể được giải quyết khi ta xem xét nghiên cứu nó trong bối cảnh quan hệ với những vấn đề cùng loại ở các nước Đông Nam Á. Đó chính là lý do vì sao cần tách các vấn đề này thành một hướng đề tài riêng trong chương trình dân tộc và tôn giáo.

37

V- NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN VÀ KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI Chúng tôi cho rằng tính hiệu quả của việc thực hiện đề án sẽ tăng lên rất nhiều nếu tuân thủ nguyên tắc “5 phối hợp” như sau:

5.1. Phối hợp giữa 15 hướng đề tài thuộc 3 chương trình Do một trong những đặc điểm của tri thức khoa học xã hội và nhân văn là tính tổng hợp, cho nên ba chương trình và 15 hướng đề tài (A1-5, B1-5, C1-5) đều có mối liên hệ mật thiết với nhau. Ba chương trình với các vấn đề văn hoá, dân tộc và tôn giáo, và đô thị là những vấn đề đan xen nhau; các vấn đề truyền thống và hiện tại, vùng miền - quốc gia - quốc tế bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Bởi vậy, sự phối hợp trong việc chỉ đạo và điều hành cũng như trong việc thực hiện chúng là rất quan trọng và cần thiết. Stt

A- Chương trình Đô thị

B- Chương trình Văn hoá

C- Chương trình Dân tộc & Tôn giáo

1.

A1. Những nhân tố khoa học xã hội và nhân văn trong việc quản lý đô thị ở Nam Bộ

B1. Sưu tầm, bảo tồn và nghiên cứu các giá trị văn hoá của các dân tộc Nam Bộ

C1. Văn hoá ứng xử với môi trường xã hội của cư dân các dân tộc ít người ở Nam Bộ

2.

A2. Quá trình hình thành các đô thị ở Nam Bộ và chuyển hoá từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp

B2. Nghiên cứu bản sắc văn hoá, lối sống, tâm lý, tính cách, quan niệm thẩm mỹ, triết lý của người Việt Nam Bộ

C2. Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của cư dân các dân tộc ít người ở Nam Bộ

3.

A3. Vấn đề cơ cấu dân cư và nguồn nhân lực ở các đô thị Nam Bộ

B3. Những vấn đề lịch sử Nam Bộ trong tiến trình lịch sử Việt Nam và khu vực

C3. Những vấn đề tôn giáo - tín ngưỡng của người Việt và các dân tộc ít người Nam Bộ

4.

A4. Vấn đề lối sống của dân cư đô thị Nam Bộ nói chung và của các khu công nghiệp tập trung ở Đông Nam Bộ nói riêng

B4. Những ảnh hưởng và tác động của quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đối với Nam Bộ

C4. Vấn đề giáo dục và giáo dục song ngữ trong vùng các dân tộc ít người Nam Bộ

5.

A5. Vấn đề đa dạng hoá đô thị Nam Bộ

B5. Văn hoá Nam Bộ trong truyền thống VHVN và vấn đề đại chúng hoá các giá trị văn hoá Nam Bộ

C5. Những vấn đề dân tộc và tôn giáo Nam Bộ trong mối quan hệ với Đông Nam Á

38

5.2. Phối hợp giữa các đơn vị trong trường Do tính tổng hợp nên mỗi hướng đề tài đều cần có sự tham gia của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều chuyên môn khác nhau như văn hoá học, nhân học, xã hội học, sử học, văn học, ngôn ngữ, triết học, địa lý học, Đông phương học, giáo dục học, đô thị và phát triển cộng đồng, Đông phương học, Quan hệ quốc tế... Sự tham gia của các khoa, ngành vào các chương trình có thể hình dung như sau: Ngành, đơn vị Chương trình

Triết học

Văn học

Ngữ học

Sử học

Địa lý

Xã hội học

Văn hoá học

Nhân học

Giáo dục học

NCPT đô thị

ĐPH, QHQT

1. CT Văn hoá

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

2. CT Dân tộc

+

+

+

+

+

+

+

+

+

3. CT Đô thị

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+ +

+

5.3. Phối hợp giữa các nhà nghiên cứu trong và ngoài ĐHQG Dựa vào sức mình là chính, phát huy tối đa nội lực của cán bộ giảng dạy của trường tham gia NCKH. Thu hút chất xám, đẩy mạnh công tác liên kết phối hợp NCKH với các đơn vị trong Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, các trường đại học và cơ quan nghiên cứu KHXH&NV phía Nam, với ĐHQG Hà Nội. Phát huy tối đa vai trò của việc hợp tác nghiên cứu trong khu vực và quốc tế, nhất là với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Trong ba chương trình thì chương trình dân tộc và tôn giáo có nhu cầu lớn nhất về việc hợp tác quốc tế với các nước Đông Nam Á; bởi vậy, khi triển khai ra các đề tài cụ thể, không loại trừ khả năng cần tách ra một số đề tài riêng theo hướng này. Cách thức phối hợp không nhất thiết là trực tiếp tham gia đề tài, mà còn có thể là chia sẻ thông tin, kinh nghiệm dưới hình thức toạ đàm để công bố và thảo luận các thông tin và kết luận mới; các buổi thông tin tổng thuật những kết quả nghiên cứu mới của nước ngoài trên phương diện lý luận hoặc kinh nghiệm của các nước trong vấn đề tương tự, cũng như những kết quả nghiên cứu mới của họ về Việt Nam và Nam Bộ.

5.4. Phối hợp giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng Với tư cách là một cơ sở đào tạo đại học và sau đại học và nghiên cứu khoa học, các đề tài nghiên cứu trong đề án phải vừa đáp ứng những nhu cầu cấp bách của đời sống thực tiễn khu vực Nam Bộ, vừa góp phần hoàn thiện và nâng cao lý luận, phục vụ nhiệm vụ giảng dạy và đào tạo. Để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu cơ bản, trong mỗi đề tài, đều phải có phần nghiên cứu lý luận, tổng thuật ở đầu để làm cơ sở cho công trình nghiên cứu; vừa có phần tổng kết tri thức, kết quả, nâng cao trình độ lý luận. 39

Để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu ứng dụng, cần phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo các địa phương, đặc biệt là các sở ban ngành có liên quan (như Sở KH-CN-MT, Sở Giáo dục, Sở Văn hoá, ...).

5.5. Phối hợp giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo Mỗi đề tài nghiên cứu trong đề án phải tâp hợp được một đội ngũ gồm nhiều thế hệ: có các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đầu ngành, có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu; có các nghiên cứu sinh, thạc sĩ, học viên cao học, thậm chí cả sinh viên, để vừa tiến hành nghiên cứu, vừa góp phần đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện đề tài, cần chú ý thông qua việc sử dụng để nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, cung cấp thông tin khoa học, rèn luyện các kỹ năng nghiên cứu; tạo điều kiện cho các thành viên của đề tài được đào tạo, tham dự các hội thảo, hội nghị khoa học ở trong và ngoài nước.

5.6. Kế hoạch triển khai Để triển khai thực hiện đề án, cần thành lập một Ban chủ nhiệm Đề án (khoảng 5 người) như một tổ chức đầu mối tập hợp, điều hoà, phối hợp lực lượng nghiên cứu cũng như lo việc xã hội hoá các kết quả nghiên cứu. Ban này có trách nhiệm cử ra các ban chủ nhiệm từng chương trình (khoảng 3 người cho mỗi chương trình), có thể gồm một thành viên ban chủ nhiệm đề án và 2 thành viên còn lại là cán bộ của ĐHQG Tp.HCM (cụ thể là của Trường ĐH KHXH&NV) hoặc 1 của Trường và 1 mời từ các đơn vị khác trong thành phố. Từng năm, mỗi ban chủ nhiệm chương trình có trách nhiệm cụ thể hoá các hướng đề tài thành (những) đề tài cụ thể sao cho tạo thành một hệ thống có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuỳ theo tình hình cụ thể (kinh phí, nhân lực,...) mà một hướng đề tài có thể tách thành một số đề tài theo những gợi ý đã nêu hoặc một hướng đề tài có thể chỉ gồm một đề tài. Các đề tài cụ thể này có hai loại: Loại thứ nhất là những đề tài do các ban chủ nhiệm chương trình hoạch định trên cơ sở định hướng này rồi tìm các nhà nghiên cứu thích hợp trong hoặc ngoài ĐHQG Tp.HCM (Trường ĐH KHXH&NV) để mời tham gia thực hiện, hoặc tổ chức cho đấu thầu. Loại thứ hai là những đề tài do các cán bộ trong Trường ĐH KHXH&NV tự đề xuất hàng năm, chúng sẽ được phòng QLKH & HTQT của Trường phối hợp với Ban chủ nhiệm Đề án xem xét, nếu thấy thích hợp với nội dung của một hướng đề tài cụ thể thuộc một chương trình nào thì sẽ giới thiệu về cho ban chủ nhiệm chương trình đó xem xét, rồi trên cơ sở mục tiêu của đề án, trao đổi với tác giả để có những điều chỉnh cần thiết trước khi đưa vào khuôn khổ của chương trình. Trong ba chương trình thì tuỳ theo tình hình kinh phí cụ thể mà có thể dành ưu tiên số một cho Chương trình Những vấn đề xã hội - nhân văn trong phát triển đô thị ở khu vực Nam Bộ, ưu tiên số hai cho Chương trình Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập ở khu vực Nam Bộ. Ban chủ nhiệm Đề án cần xây dựng các chuẩn mực chọn đề tài, chọn người thực hiện đề tài, phối hợp nghiên cứu, đánh giá kết quả dưới dạng một bảng kiểm (check list) để đảm bảo tính đồng bộ, khách quan. 40

Lực lượng cán bộ tham gia nghiên cứu cần chú ý huy động các nhà nghiên cứu có uy tín và kinh nghiệm cả trong và ngoài Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh để bổ sung, đổi mới trí tuệ và năng lực tư duy, đồng thời tạo điều kiện để học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Tuy nhiên, nếu giữa những người có cùng trình độ và năng lực trong cùng một lĩnh vực chuyên môn thì ưu tiên lựa chọn theo thứ tự như sau: a) các nhà nghiên cứu trong ĐHQG; b) các nhà nghiên cứu trên địa bàn thành phố HCM; c) các nhà nghiên cứu trong khu vực Nam Bộ; d) các nhà nghiên cứu ở các khu vực còn lại trong nước; e) các nhà nghiên cứu nước ngoài. Các cán bộ trẻ, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên tham gia với mục đích để được đào tạo thì chỉ huy động lực lượng của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh (cụ thể là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn).

41

VI- NGUỒN TÀI CHÍNH PHỤC VỤ ĐỀ ÁN 6.1. Dự trù kinh phí cho đề án Đề án dự kiến thực hiện trong 5 năm 2005-2010 gồm 3 chương trình, với tổng số 15 hướng đề tài, một hướng đề tài có thể gồm một hoặc một số đề tài (tính trung bình là 3 đề tài). Như vậy tổng cộng tất cả dự án sẽ có khoảng 45 đề tài. Kinh phí cho mỗi đề tài ít nhất phải khoảng 300 triệu. Riêng hai hướng đề tài B1 (sưu tầm và bảo tồn văn hoá) và C5 (những vấn đề dân tộc và tôn giáo Nam Bộ trong mối quan hệ với Đông Nam Á) là rất tốn kém, mỗi hướng này ít nhất phải cần từ 1-2 tỷ. Như vậy tổng cộng kinh phí để thực hiện đề án này ít nhất phải có khoảng 15 tỷ VNĐ.

6.2. Tận dụng các nguồn tài chính ngoài Đại học Quốc gia Bên cạnh nguồn vốn ngân sách, Ban chủ nhiệm Đề án và các Ban chủ nhiệm chương trình sẽ phải tích cực phát huy tính chủ động để tìm kiếm và huy động tối đa các nguồn vốn khác của trung ương, các địa phương, trường và vốn tài trợ của nước ngoài để bổ sung thêm nguồn vốn thực hiện đề án.

42

VII- PHÁT HUY KẾT QUẢ CỦA ĐỀ ÁN. ĐỀ ÁN VÀ NHỮNG ĐỀ TÀI NGOÀI ĐỀ ÁN 7.1. Dự kiến sử dụng kết quả của đề án Các kết quả của các hướng đề tài, các chương trình trong khuôn khổ đề án nếu có địa chỉ nghiên cứu cụ thể phải được các sở, ban, ngành, hoặc thành phố, quận huyện trên địa bàn Nam Bộ sử dụng. Chúng phải in được thành sách hoặc bộ sách có giá trị phổ biến rộng rãi trong xã hội và trên quốc tế. Một phần của những kết quả này phải được dùng làm cơ sở cho việc biên soạn các giáo trình giảng dạy ở các cấp đại học và sau đại học.

7.2. Dự kiến phát triển đề án Một số hướng đề tài có nội dung phong phú và phạm vi nghiên cứu rộng có thể được tiếp tục phát triển trong kế hoạch nghiên cứu của 5-10 năm tiếp theo.

7.3. Đề án và những đề tài ngoài đề án Đề án này chỉ là một phần – mặc dù là phần chủ yếu – trong toàn bộ kế hoạch nghiên cứu KHXH&NV của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh giai đoạn 2005-2010. Bên cạnh đề án này, Đại học Quốc gia vẫn dành một phần không nhỏ kinh phí cho các đề tài trọng điểm và không trọng điểm khác nghiên cứu các vấn đề nằm ngoài khu vực Nam Bộ hoặc các vấn đề khoa học cơ bản phục vụ nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu.

43

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Báo cáo 2001: Trung tâm KHXH & NVQG. Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001: Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người. – H.: NXB CTQG, 155 tr. 2. Bùi Đức Tịnh 1999: Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ. – NXB Văn nghệ Tp. HCM, 106 tr. 3. Đặng Nghiêm Vạn (cb) 1995: Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài. – H.: NXB KHXH, 276 tr. 4. ĐHQG Tp.HCM 2002: Đề án xây dựng đội ngũ giai đoạn 2002-2007. - Tp. Hồ Chí Minh, tháng 8-2002, 23 tr. + 15 bảng. 5. ĐHQG Tp.HCM 2004: Báo cáo tổng kết năm học 2003-2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm học 2004-2005. - Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10-2004, 18 tr. + x tr. phụ lục. 6. Đinh Văn Hạnh 1999: Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867-1975). – Tp.HCM, NXB Trẻ, 357 tr. 7. Đỗ Minh Cương 1998: Những vấn đề cơ bản về quản lý khoa học và công nghệ. – H.: NXB CTQG. 8. Đỗ Quang Hưng (cb) 2001: Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ. – H.: NXB KHXH, 431 tr. 9. Đồng Tân 1967, 1972: Lịch sử Cao Đài đại đạo tam kỳ phổ độ. SG: Cao Hiên xb, quyển 1: 1967; quyển 2: 1972. 10. Hồ Bá Thâm 2003: Văn hoá Nam Bộ: vấn đề và phát triển. – H.: NXB VH-TT, 237 tr. 11. Hội văn nghệ 2004: Hội văn nghệ dân gian Việt Nam & Trường ĐH Cần Thơ. Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hoá văn nghệ dân gian Nam Bộ. – H.: NXB KHXH, 531 tr. 12. Huỳnh Lứa 2000: Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX. – NXB KHXH, 428 tr. 13. Huỳnh Ngọc Trảng & nnk 1987: Huỳnh Ngọc Trảng, Văn Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Hảo, Phan Thị Yến Tuyết. Người Khơ-me tỉnh Cửu Long. – Sở VHTT tỉnh Cửu Long xb, 271 tr. 14. Huỳnh Ngọc Trảng & nnk 1993: Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Hồ Tường. Đình Nam Bộ: tín ngưỡng và nghi lễ. – NXB Tp.HCM, 307 tr. 15. Huỳnh Quốc Thắng 2003: Lễ hội dân gian ở Nam Bộ (khía cạnh giao tiếp văn hoá dân tộc). – H.: Viện văn hoá & NXB VH-TT, 385 tr. 16. Khoa lịch sử 2005: Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tác động của những nhân tố văn hoá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (bản vi tính). – Tp.HCM, tháng 1-2005, 245 tr. 17. Khoa ngữ văn 1997: Khoa ngữ văn ĐH Cần Thơ. Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long. – NXB Giáo dục, 492 tr. 18. Lê Anh Dũng 1996: Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926. – Huế: NXB Thuận Hoá, 215 tr.

44

19. Lê Anh Trà (cb) 1984: Mấy đặc điểm văn hoá đồng bằng sông Cửu Long. – H.: Viện văn hoá, 277 tr. 20. Lê Thông (Cb) 2004: Lê Thông (cb), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ. Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam. – H.: NXB Đại học Sư phạm, 592 tr. 21. Lê Trọng Ân 2004: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (đề tài khoa học cấp trường). - Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12-2004, 46 tr. 22. Lê Trung Hoa 1991: Địa danh ở Tp. Hồ Chí Minh. – H.: NXB KHXH, 189 tr. 23. Lê Trung Hoa 2002: Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn học. – NXB KHXH, 194 tr. 24. Lê Xuân Diệm & ngk 1995: Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải. Văn hoá Óc Eo: những khám phá mới. – H.: NXB KHXH, 472 tr. 25. Ngô Văn Lệ (cb). Khoa học Xã hội và Nhân văn trong bối cảnh hội nhập quốc tế. TP. HCM: NXB Tp. Hồ Chí Minh, 2003. 26. Nguyễn Công Bình & ngk 1990: Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường. Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long. - H.: NXB KHXH, 452 tr. 27. Nguyễn Đăng Duy 1997: Văn hoá tâm linh Nam Bộ. – NXB Hà Nội, 334 tr. 28. Nguyễn Hữu Hiếu 1997: Nam Kỳ cố sự (chuyện kể Nam Bộ). – NXB Đồng Tháp, 359 tr. 29. Nguyễn Hữu Hiếu 2004a: Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ qua chuyện tích và giả thuyết. – H.: NXB KHXH, 282 tr. 30. Nguyễn Hữu Hiếu 2004b: Tìm hiểu văn hoá tâm linh Nam Bộ. – NXB Trẻ, 167 tr. 31. Nguyễn Khắc Cảnh 1998: Phum sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. – H.: NXB Giáo dục, 222 tr. 32. Nguyễn Mạnh Cường 2002: Vài nét về người Khmer Nam Bộ. – H.: NXB KHXH, 451 tr. 33. Nguyễn Minh Hòa 1995: Bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa ở Tp. Hồ Chí Minh. – T/c Thông tin lý luận, số 10, tr. 20-24. 34. Nguyễn Phương Thảo 1994: Văn hoá dân gian Nam Bộ: những phác thảo. – NXB Giáo dục, 277 tr. 35. Nguyễn Văn Hầu 1968: Nhận thức Phật giáo Hoà Hảo. – SG: Hương Sen xb, 310 tr. 36. Nguyễn Văn Hầu 2002: Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, 2 tập. – Tp. HCM: NXB Trẻ, 361+429 tr. 37. Nguyễn Văn Tài 2003: Đề án chiến lược phát triển khoa học công nghệ “Những vấn đề xã hội – nhân văn khu vực Nam Bộ (bản vi tính). – Tp. HCM: 2003, 35 tr. 38. Phan Quang 1985: Đồng bằng sông Cửu Long. – NXB Cửu Long & NXB Mũi Cà Mau, 395 tr. 39. Phan Thị Yến Tuyết 1993: Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. – H.: NXB KHXH, 371 tr.

45

40. Sơn Nam 1974/1997: Cá tính miền Nam, in lần 2. – Tp.HCM: NXB Trẻ, 128 tr. (xuất bản lần đầu: SG, Đông Phố, 1974). 41. Sơn Nam 1992: Văn minh miệt vườn. – H.: NXB Văn hoá, 221 tr. 42. Tạp chí VH-NT 1997: Văn hoá nghệ thuật Nam Bộ. – H.: Tạp chí VH-NT & NXB VH-TT, 491 tr. 43. Tạp chí khoa học xã hội của Viện Khoa học Xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh (nay là Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ). 44. Tôn Nữ Quỳnh Trân (cb) 1999: Văn hoá làng xã trước sự thách thức của đô thị hoá tại Tp. Hồ Chí Minh. – Tp.HCM: NXB Trẻ, 272 tr. 45. TTNC ĐNA 1996: Đô thị hoá tại Việt Nam và Đông Nam Á. – NXB Tp.HCM, 297 tr. 46. TTNC KCH 1997: Trung tâm nghiên cứu khảo cổ học. Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam. – H.: NXB KHXH, 601 tr. 47. TTNC Tâm lý DT 2000: Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ. - NXB Tp.HCM, 281 tr. 48. TTNC VN-ĐNA 2000: Văn hoá Nam Bộ trong không gian xã hội Đông Nam Á. – NXB ĐHQG Tp.HCM, 316 tr. 49. Thạch Phương và nnk 1992: Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh. Văn hoá dân gian người Việt ở Nam Bộ. – H.: NXB KHXH, 271 tr. 50. Trần Văn Giàu và nnk (cb) 1987: Địa chí văn hoá Tp. Hồ Chí Minh, tập I (lịch sử). – NXB Tp.HCM, 453 tr. 51. Viện BTLS 1998: Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam & Bảo tàng Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh. Khảo cổ học tiền sử và sơ sử Tp. Hồ Chí Minh. – Tp.HCM, NXB Trẻ, 678 tr. 52. Viện KHXH tại Tp.HCM 1981: Thư mục đồng bằng sông Cửu Long (lưu hành nội bộ). – Thư viện KHXH Tp.HCM, 556 tr. 53. Vùng kinh tế 2004: Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: những vấn đề kinh tế - văn hoá - xã hội. – Trường ĐH KHXH&NV và NXB TH Tp.HCM, 404 tr.

46

Related Documents

Tu Van Cho Nhan
June 2020 5
Ngu Van 11tron Bo
November 2019 12
Van Hoc Viet Nam
June 2020 1
Van
June 2020 20
Van
June 2020 14