ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Số:
/QĐ-UBND
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NHĨA VIÊT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Huế, ngày
tháng
năm 2008
QUYẾT ĐỊNH V/v giải quyết đơn khiếu nại của bà Lê Thị Kim Hồng trú tại nhà số 329 (số cũ 233) đường Huỳnh Thúc Kháng, phường Phú Hòa, thành phố Huế. CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân ngày 21 tháng 6 năm 2003; - Căn cứ Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 15 tháng 6 năm 2004 và ngày 29 tháng 11 năm 2005; Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo”; - Căn cứ Quyết định 111CP ngày 14 tháng 4 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ về việc “Ban hành chính sách quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị và các tỉnh phía Nam”; - Căn cứ Nghị định số 127/CT ngày 10 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ về việc Hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội và Nghị quyết số 755/NQ-UBTVQH11 ngày 02 tháng 4 năm 2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991. - Căn cứ Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH ngày 02 tháng 4 năm 2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà, đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN trước ngày 01 tháng 7 năm 1991; - Xét đơn khiếu nại của bà Lê Thị Kim Hồng trú tại nhà số 329 (số cũ 233) đường Huỳnh Thúc Kháng, phường Phú Hòa, thành phố Huế, xin lại khu nhà đất số 329 (số cũ 233) đường Huỳnh Thúc Kháng, phường Phú Hòa, thành phố Huế ; Sau khi nghiên cứu Báo cáo số 1108/BC-SXD ngày 18 tháng 9 năm 2008 của Sở Xây dựng và kết quả thẩm tra và đề xuất hướng giải quyết khu nhà đất số 329 (số cũ 233) đường Huỳnh Thúc Kháng, phường Phú Hòa, thành phố Huế, nhận thấy: 1
1. Nguồn gốc nhà đất số 329 (số cũ 233) đường Huỳnh Thúc Kháng, phường Phú Hòa, thành phố Huế: Khu nhà, đất mà bà Lê Thị Kim Hồng xin hợp thức hóa có diện tích đất là 388 m2 nằm chung trong khu nhà, đất số 329 (số cũ 233) đường Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Huế có diện tích là 1.362 m 2 đất. Toàn bộ khuôn viên nhà, đất này vợ chồng ông Hoàng Đồng Tịnh và bà Trương Thị Hoài đã mua lại của ông Hoàng Viếng vào năm 1952 - Văn tự đoạn mãi được lập vào ngày 10 tháng 8 năm 1952, đã trước bạ tại Huế. Toàn bộ khuôn viên có 2 khu nhà: Khu nhà ở 2 tầng dùng để ở và tiếp khách; khu nhà thứ 2 dùng để sản xuất, có kiến trúc theo kiểu nhà xưởng. Ông Hoàng Đồng Tịnh và bà Trương Thị Hoài đã sử dụng khu nhà, đất này để kinh doanh dịch vụ vận tải và làm gara sửa chữa xe ô tô đến ngày giải phóng Huế. 2. Quá trình quản lý và sử dụng nhà đất số 329 (số cũ 233) đường Huỳnh Thúc Kháng, phường Phú Hòa, thành phố Huế: Vào tháng 10 năm 1976 hưởng ứng chủ trương của Phường Phú Hòa về việc đóng góp để thành lập Xí nghiệp hợp tác thủy tinh Tiền Phong & để tạo công ăn việc làm cho gia đình, nên bà Trương Thị Hoài đã giao một phần nhà, đất rộng 388 m2 nằm trong tổng diện tích 1362m2 đất để làm phân xưởng, coi như là đóng góp cổ phần và là thành viên sáng lập để giải quyết việc làm cho các con (phần nhà, đất này lúc đầu được định giá là 30 ngàn đồng, sau đó nhà nước định giá lại còn 15 ngàn đồng tương đương với 3 cổ phần theo quy ước của Xí nghiệp hợp tác). Đến ngày 10 tháng 01 năm 1979, thực hiện chính sách cải tạo XHCN đối với nhà đất cho thuê ở các đô thị của các tỉnh phía nam, UBND tỉnh Bình Trị Thiên đã ban hành Quyết định số 1 QĐ/UB quản lý phần nhà, đất với diện tích 388m2 nói trên và tiếp tục giao cho Xí nghiệp hợp tác thủy tinh Tiền Phong quản lý, sử dụng sản xuất kinh doanh. Đến năm 1985, con bão số 8 đã làm hư hỏng thiệt hại nặng đến nhà xưởng và sau đó đã được Sở Xây dựng đồng ý cho Xí nghiệp thủy tinh Tiền Phong bỏ kinh phí đầu tư sửa chữa và không lấy tiền thuê mặt bằng của nhà nước. Trong những năm 1989, 1990 Xí nghiệp làm ăn thua lỗ, vỡ nợ, ngừng hoạt động kinh doanh, công nhân phân tán, tài sản thanh lý để giải quyết công nợ, tuy nhiên sau đó Xí nghiệp vẫn không có khả năng thanh toán được nợ và làm thủ tục xin giải thể. Để giải quyết tình hình trên, ngày 11 tháng 01 năm 1991 Xí nghiệp tổ hợp tác thủy tinh Tiền Phong, gồm: Chủ nhiệm Xí nghiệp hợp tác, Trưởng ban kiểm soát Xí nghiệp, có mời đại diện UBND phường Phú Hòa cùng với bà Lê Thị Kim Hồng (con dâu bà Hoài) đã lập văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng phần kiến trúc do Xí nghiệp đã xây dựng trên phần đất mà bà Hoài đã chuyển nhượng đền bù hoa màu trước đây. Nội dung cam kết thỏa thuận các điều khoản như sau: “Điều 1: Văn phòng và nhà kho của XN hợp tác thủy tinh Tiền Phong với thành quả 2
trên đất trong phạm vi diện tích 294m2 là của Xí nghiệp nay chuyển nhượng cho bà Lê Thị Kim Hồng hiện trú tại 233 Huỳnh Thúc Kháng; Điều 2: Hai bên đã thỏa thuận với giá cả chuyển nhượng là 10 triệu đồng, số tiền trên bà Hồng đã trao đủ và Xí nghiệp hợp tác thủy tinh Tiền Phong đã nhận đủ; Điều 3: Xí nghiệp hợp tác thủy tinh Tiền Phong đã trao tất cả giấy hồ sơ giấy tờ có liên quan đến mặt bằng nói trên cho bà Lê Thị Kim Hồng; Điều 4: Hai bên thỏa thuận chuyển nhượng và trao nhận tiền đủ có xác nhận của cán bộ UBND phường. Kể từ ngày 11/1/1991 quyền sở hữu về dãy nhà trên là của bà Lê Thị Kim Hồng.” Văn bản chuyển nhượng này đã được chủ tịch UBND phường Phú Hòa ký xác nhận vào ngày 12 tháng 01 năm 1991. Sau khi nhận chuyển nhượng, bà Hồng đã quản lý, sử dụng liên tục khu nhà, đất này và ở ổn định từ đó đến nay không có tranh chấp. Hiện nay thửa đất này đã nhập lại với thửa đất của bà Hồng đang sử dụng thành thửa đất chung có số hiệu là 95, tờ bản đồ số 02, diện tích là 1362m2. 3. Cơ sở pháp lý để giải quyết: Trong quá trình thành lập Xí nghiệp tổ hợp tác Xí nghiệp hợp tác thủy tinh Tiền phong bà Trương Thị Hoài đã giao một phần nhà, đất rộng 388 m2 nằm trong khuôn viên nhà, đất của mình (phần nhà, đất này lúc đầu được định giá là 30 ngàn đồng, sau đó nhà nước định giá lại còn 15 ngàn đồng tương đương với 3 cổ phần đóng góp theo quy ước của Xí nghiệp hợp tác). Phần nhà, đất này dùng để đóng cổ phần vào Xí nghiệp hợp tác thủy tinh Tiền phong và là thành viên sáng lập để giải quyết việc làm cho các con, chứ không phải là cho Xí nghiệp hợp tác thủy tinh Tiền Phong thuê mặt bằng để sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên sau đó thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh nên nhà nước đã ra quyết định quản lý và tiếp tục giao cho Xí nghiệp tổ hợp tác thủy tinh Tiền Phong quản lý và sử dụng. Qua quá trình sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp hợp tác thủy tinh Tiền Phong đã làm ăn thua lỗ, vỡ nợ, ngừng hoạt động kinh doanh và đến năm 1991 thì giải thể và đến ngày 11 tháng 01 năm 1991 thì lập văn bản chuyển nhượng lại toàn bộ tài sản nhà xưởng trên phần đất mà bà Hoài đã đóng góp cổ phần trước đây. Văn bản chuyển nhượng này đã được UBND phường xác nhận cùng với các điều khoản thỏa thuận như đã nói trên. Sau khi nhận chuyển nhượng, bà Lê thị Kim Hồng (con dâu bà Hoài) đã quản lý, sử dụng liên tục khu nhà, đất này và ở ổn định từ đó đến nay không có tranh chấp. Như vậy, căn cứ Điểm c, Khoản 1, Điều 5, Nghị quyết 755/2005/NQUBTVQH11 ngày 2 tháng 4 năm 2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định: “ Trường hợp nhà đất mà người đang trực tiếp sử dụng có các giấy tờ chứng minh thuộc một trong các đối tượng dưới đấy và người đang trực tiếp sử dụng được thực hiện các quyền & nghĩa vụ theo quy định của pháp luật: a, Người là chủ sở hữu nhà đất tại thời điểm Nhà nước có văn bản quản lý; c, Người mua, nhận tặng cho, chuyển đổi nhà, đất ngay tình; 3
d, Người thừa kế hợp pháp của một trong những người quy định tại các điểm a, b và c khoản này;” Căn cứ khoản 3, điều 5 của Nghị định số 127/2005/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ về việc hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 23 của Quốc hội và Nghị quyết số 755 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định: “ Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà, đất có giấy tờ chứng minh việc mua bán, chuyển đổi ngay tình và hiện nhà, đất không có tranh chấp về quyền sở hữu thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Từ những căn cứ trên: QUYẾT ĐỊNH Điều 1: Công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất với diện tích 388m nhà, đất cho bà Lê Thị Kim Hồng trú tại nhà số 329 (số cũ 233) đường Huỳnh Thúc Kháng, phường Phú Hòa, thành phố Huế (có bản vẽ kèm theo). 2
Điều 2: Đây là quyết định giải quyết lần đầu, trường hợp không đồng ý với Quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế thì trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận được Quyết định này, các ông bà liên quan có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Điều 3: Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở: Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Chánh thanh tra tỉnh, Chủ tịch UBND thành phố Huế, Chủ tịch UBND phường Phú Hòa, Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Thừa Thiên Huế, Thủ trưởng các cơ quan liên quan và bà Lê Thị Kim Hồng chịu trách nhiệm thi hành quyết định này. Nơi nhận:
CHỦ TỊCH
- Như điều 3; - Bộ Xây dựng; - TV TU, TTHĐND tỉnh; - CT & PCT UBND tỉnh; - VP: LĐ và các CV: NC NĐ; - Lưu VT.
4