Chuong 11

  • November 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Chuong 11 as PDF for free.

More details

  • Words: 16,252
  • Pages: 22
CHƯƠNG 11: CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA: GIAO TIẾP ĐỐI TƯỢNG ĐẶC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP _ Dựa vào phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp, thiết kế nghiên cứu chia thành 2 loại:  Quan sát: điều kiện, hành vi, sự kiện, cá nhân, con người, quy trình  Giao tiếp: giao tiếp với người tham dự về các đề tài khác nhau, bao gồm thái độ, động cơ, dự định, mong đợi của họ _ Phương pháp thu thập thông tin với quy mô lớn bằng cách xác định:  Thông tin cần (thông tin phải trả lời)  Thông tin mong muốn (định danh, số thứ tự, số chênh lệch, tỷ lệ) _ Đặc điểm của mẫu (ý nghĩ, kinh nghiệm, suy nghĩ của người tham dự) cũng có vai trò quyết định _ Lựa chọn phương pháp giao tiếp tác động đến những điều sau:  Sáng tạo và chọn lựa các câu hỏi đo lường  Các vấn đề chọn mẫu, quy trình tiếp xúc và liên lạc lại  Thiết kế công cụ, kết hợp nỗ lực giảm sai sót với tạo quy trình sàng lọc đối đượng  Quá trình thu thập dữ liệu, chương trình theo dõi và huấn luyện người phỏng vấn _ Phương pháp giao tiếp: khảo sát 1 nhóm người, ghi nhận lại sự phản hồi của họ để phân tích, mang tính chất linh hoạt, đa dạng Ưu điểm Khuyết điểm  Không yêu cầu người nghiên cứu  Số lượng, chất lượng thông tin phụ có quan điểm khách quan về thông thuộc rất lớn vào năng lực, thái độ tin hợp tác của người tham dự. Thông thường, người tham dự từ chối trả  Có thể thu thập thông tin trừu tượng lời câu hỏi qua máy tính, internet bằng cách đặt câu hỏi => không nhận thấy giá trị của việc  Cho biết ý kiển, thái độ của người hợp tác; nghi ngờ, e ngại về cuộc tham dự => cần khi muốn tìm hiểu phỏng vấn; nhìn nhận vấn đề quá vể dự định, mong muốn nhạy cảm làm cuộc phỏng vấn trở  Có thể điều tra các sự kiện trong thành rắc rối; những cuộc chạm trán quá khứ thông qua những người còn với người phỏng vấn lừa đảo trước nhớ về nó đó  Ngay cả khi có sự hợp tác của người tham dự, người nghiên cứu cũng chưa chắc có được thông tin cần thiết. Người nghiên cứu cần đánh giá thông tin cẩn thận khi hỏi người tham dự về các vấn đề họ chưa có kinh nghiệm. Chấp nhận câu trả lời khi mục đích muốn biết người tham dự hiểu gì về vấn đề. Nhưng nếu mục đích muốn khảo sát thực sự thì nên tìm thông tin trực tiếp , chí thực hiện phỏng vấn khi không tìm được thông tin trực tiếp  Đôi khi người tham gia không có ý kiến về vấn đề được hỏi. Câu trả lời thường là “không biết”, “không có ý kiến”. Người nghiên cứu khó biết được sự thật và độ tin cậy của câu trả lời khi người tham dự bị buộc phải trả lời khi họ không có ý kiến

về vấn đề được hỏi.  Người tham gia có thể hiểu các câu hỏi, khái niệm khác với ý đồ của người nghiên cứu: 1 cá nhân trả lời câu hỏi khác với 1 người khác, đưa ra thông tin sai lệch _ Phương pháp giao tiếp hiệu quả và kinh tế hơn phương pháp quan sát. Sử dụng 1 vài câu hỏi tốt để khảo sát có thể cung cấp thông tin mà phương pháp quan sát phải mất rất nhiều thời gian và nỗ lực mới có được. Khảo sát sử dụng điện thoại, mail, internet có thể thực hiện ở khắp mọi nơi, chỉ chiếm 1 phần nhỏ chi phí và thời gian so với phương pháp quan sát. _ Ứng dụng của phương pháp giao tiếp: Khi các đối tượng điều tra có năng lực đồng nhất với mục đích khảo sát (tuổi tác, thu nhập, hoàn cảnh gia đình) _ Có thể sử dụng câu hỏi đề khảo sát về thái độ, mong muốn, quan điểm, dự định của người tham dự => dùng câu hỏi trực tiếp hay gián tiếp để thu thập được dữ liệu có ý nghĩa nhất? _ Những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ tham gia khảo sát của người tham dự: Làm giảm Làm tăng  Sức ép từ các hoạt động cạnh tranh  Danh tiếng của người tài trợ hay tổ chức nghiên cứu  Lúng túng khi không hiểu biết về chủ đề phỏng vấn  Hiểu được tầm quan trọng của chủ đề  Không thích nội dung hay chủ đề phỏng vấn  Ưa thích, thương hại người phỏng vấn  E ngại hậu quả của việc tham gia phỏng vấn  Tự ý thức về trách nhiệm công dân  Sự cô đơn  Khẳng định sự quan trọng của bản thân _ Lấy thông tin qua phỏng vấn cá nhân, phỏng vấn qua điện thoại, mail, máy tính hay kết hợp Phỏng vấn cá nhân Phỏng vấn qua điện Khảo sát tự quản lý thoại Mô tả Người phỏng vấn (đã qua Người phỏng vấn (đã Bảng câu hỏi được gửi huấn luyện) phỏng vấn qua huấn luyện) phỏng qua: thư, fax, mạng nội trực tiếp những người vấn qua điện thoại bộ, internet, dịch vụ được chọn những người được chọn online; nghiên cứu qua giấy, công cụ được máy tính hóa tại vị trí tập trung, không cần người phỏng vấn Ưu điểm  Sự hợp tác tốt từ người  Chi phí thấp hơn  Cho phép tiếp cận với tham dự phỏng vấn cá nhân những người không thể gặp được  Người phỏng vấn có  Mở rộng địa bàn thể làm sáng tỏ câu hỏi phỏng vấn nhưng  Có thể sử dụng khảo sát bằng các câu không tăng nhiều chi khuyến mãi để tăng tỷ hỏi bổ sung, quan sát phí lệ tham gia trả lời thu thập thêm thông  Cần ít phỏng vấn  Mở rộng địa bàn khảo tin viên, nhưng cần kỹ sát nhưng không tăng  Có thể sử dụng các năng cao hơn chi phí thiết bị đặc biệt để  Giảm độ lệch trong  Cần rất ít nhân viên để quan sát, ghi nhận phỏng vấn thực hiện  Chấp nhận người tham  Thời gian hoàn  Người tham dự có thể dự mù chữ, thất học thành nhanh hơn nặc danh  Người phỏng vấn có  Dễ dàng tiếp xúc  Người tham dự có thời thể quyết định người được người khó tiếp gian suy nghĩ trả lời tham dự phù hợp hay cận bằng cách gọi lại  Có thể sử dụng các không nhiều lần thiết bị phức tạp

Khuyết điểm

 CAPI: các câu trả lời  CAPI: câu trả lời  Người biết sử dụng có thể được ghi vào được ghi trực tiếp máy tính truy cập máy tính xách tay => vào dữ liêu máy tính nhanh giảm sai sót, chi phí => giảm sai sót, chi  Thu thập thông tin cực phí nhanh  Người không thể thực hiện phỏng vấn qua điện thoại có thể tham gia  Có thể sử dụng mô tả  Đưa vào danh sách những địa điểm có thể thực hiện được  Chi phí cao  Tỷ lệ người tham dự  Tỷ lệ người trả lời thấp hơn phỏng vấn thấp với 1 vài phương  Cần người phỏng vấn cá nhân thức đã được huấn luyện tốt  Thời gian thu thập dữ  Chi phí cao hơn nếu  Không có sự tham gia mẫu bị phân tán về của người phỏng vấn liệu dài mặt địa lý để giải thích làm sáng  Có thể có sự phân tán tỏ vấn đề  Thời gian phỏng vấn rộng về mặt địa lý hạn chế  Nội dung hỏi không  Đòi hỏi nhiều nhân lực được dài, phức tạp  Không phải tất cả  Nhiều số điện thoại không đưa vào danh  Cần danh sách thư tín người tham dự có thể sách, số không hoạt chính xác tìm được, dùng được động => giảm độ tin  Cần hướng dẫn để  Một vài người tham dự cậy của danh bạ thực hiện không sẵn sàng trò  Một số vấn đề không  Bảo vệ máy tính chuyện với người lạ thể liên lạc qua điện  Cần thiết lập môi  Có thể gặp khó khăn thoại trường tập trung, tránh khi đến nhà của 1 vài  Câu trả lời có thể sao lãng để hoàn người hàng xóm không hoàn chỉnh thành khảo sát  Các câu hỏi có thể bị  Người nghiên cứu thay đổi, người tham không thể sử dụng dự có thể bị huấn minh hoạ luyện trả lời theo ý người phỏng vấn

PHỎNG VẤN CÁ NHÂN _ Là cuộc trò chuyện hai chiều được người phỏng vấn khởi xướng để lấy thông tin từ người tham dự. Họ là những người lạ, người phỏng vấn thông thường điều khiển chủ đề và mô hình thảo luận. Kết quả, mức độ quan trọng của cuộc phỏng vấn thường không quan trọng. Người tham dự được hỏi để cung cấp thông tin, ít có hy vọng nhận được lợi ích từ sự hợp tác. Giá trị của phỏng vấn cá nhân  Nằm ở chiều sâu thông tin, chi tiết được bảo đảm vượt trội hơn hẳn thông tin khảo sát qua điện thoại, khảo sát tự quản lý, khảo sát qua thư, qua máy tính  Người phỏng vấn có thể ghi chú các điều kiện phỏng vấn, thăm dò bằng cách hỏi thêm câu hỏi, tập hợp thông tin bổ sung có được từ quan sát. Người phỏng vấn cần quan sát và ghi nhận lại thái độ của người tham dự => hy vọng người phỏng vấn sẽ phản ánh mọi thứ chính xác.  Người phỏng vấn có khả năng kiểm soát tốt hơn: biết chắc chắn đối tượng nghiên cứu đang tham dự trả lời, bắt đầu và kiểm soát các điều kiện phỏng vấn, dùng phương tiện ghi điểm, phương tiện theo dõi (CAPI), quyết định hay điều chỉnh ngôn ngữ dùng trong phỏng vấn Khuyết điểm

 Hao tốn lớn về tiền bạc, thời gian khi: người được phỏng vấn là người khó tiếp cận, nghiên cứu trên 1 vùng địa lý rộng lớn, đòi hỏi yêu cầu nghiêm ngặt về mẫu => Phỏng vấn giới hạn nhắm vào người tham dự ở những địa điểm tập trung (VD: người bán hàng trong khu phố bán lẻ) => giảm chi phí (sản phẩm, dịch vụ có thể được phân nhóm), chỉ cần 1 vài người phỏng vấn, giảm công tác huấn luyện, giảm đi lại, chọn mẫu đại diện là vấn đề chủ yếu đối với kết luận rút ra từ nghiên cứu  Ngày nay, nhiều người tham dự bất đắc dĩ mói nói chuyện, cho phép người lạ vào nhà  Người phỏng vấn miễn cưỡng 1 mình đến nhà người không quen thuộc, nhất là vào buổi tối  Kết quả phỏng vấn cá nhân có thể bị “làm màu” do: người phỏng vấn thay đổi câu hỏi, làm lệch kết quả Những yêu cầu để thành công  Người tham dự phải chủ động nắm bắt thông tin chính thông qua những câu hỏi khảo sát  Người tham dự hiểu được vai trò là người cung cấp thông tin chính xác trong cuộc phỏng vấn  Người tham dự phải hợp tác tốt với người phỏng vấn Người phỏng vấn có thể tìm hiểu về mức độ thông tin của người tham dự Thiết kế nghiên cứu sao cho người phỏng vấn hiểu rõ các vấn đề còn nghi ngờ trong câu trả lời của người tham dự Mẹo thiết kế khảo sát chặn _ Các câu hỏi phải tác biệt khi đưa ra nhiều nghiên cứu cùng lúc:  Sử dụng giấy màu  Sử dụng giấy có màu sắc phân biệt, giấy có cạnh viền hoa văn _ Hồ sơ khảo sát thuận lợi cho người tham dự:  Không in câu hỏi trên cả hai mặt của một tờ giấy  Kiểu chữ, cỡ chữ rõ ràng, dễ đọc  Giới hạn bảng câu hỏi không vượt quá 4 trang giấy _ Trình bày trả lời những câu hỏi thăm dò ý kiến người tham dự: Vấn đề nghiên cứu là gì? Nếu tham gia cuộc phỏng vấn sẽ có lợi gì? Phỏng vấn bao lâu? _ Giới hạn số lượng câu hỏi để tránh người tham gia phỏng vấn dừng lại:  Thể hiện câu hỏi tập trung vào tiêu điểm, chỉ hỏi với những dữ liệu chính, chủ yếu  Xây dựng các câu hỏi mang tính chất thực tế, các vấn đề đã được chấp nhận, chứng minh hoặc mang tính chất cụ thể, chi tiết  Không đề cập đến giới tính, tình trạng hôn nhân, tuổi tác _ Tránh làm mỏi mắt người tham dự:  Chọn kiểu chữ thường, không tô đậm, chữ hoa  Dùng dấu ngoặc và các cách biệt khác _ Đừng lạm dụng hình nền: hình nền càng phức tạp càng khó đảm bảo sự thống nhất và hiệu quả _ Không buộc người phỏng vấn nhớ lại nội dung trả lời của những phần trước để trả lời những câu hỏi ở phần hiện tại _ Ghi chú vị trí kết thúc Gia tăng việc tham dự phỏng vấn _ Giải thích cách trả lời câu hỏi, có thể thực hiện hướng dẫn khi đang phỏng vấn dù có thể làm chệch hướng _ Người tham dự có thể bị lôi cuốn vào các cuộc phỏng vấn mang tính chất cá nhân hay riêng tư, hay có thể thích thú với nội dung phỏng vấn _ Trong khảo sát tự quản lý, người phỏng vấn có vai trò động viên người tham dự hoàn thành cuộc phỏng vấn Gia tăng mức độ tiếp nhận thông tin của người tham dự _ Người nghiên cứu có thể làm cho cuộc nghiên cứu thành công hay thất bại thông qua lời nói, hành động

_ Người tham dự thường có phản ứng cảm xúc với người phỏng vấn nhiều hơn nội dung câu hỏi. _ Người nghiên cứu nên: hỏi những câu hỏi thích hợp, ghi âm lại câu trả lời chính xác, đúng đắn, đặt câu hỏi thăm dò 1 cách có ý nghĩa => đào tạo người phỏng vấn để có thể tạo ra mối quan hệ tốt trong quá trình phỏng vấn _ Mục tiêu đầu tiên trong cuộc phỏng vấn là tạo ra mối quan hệ thân thiện với người tham dự:  Người tham dự phải tin tưởng việc phỏng vấn làm họ hài lòng và thú vị: Cuộc phỏng vấn có thoải mái, hài lòng hay không phụ thuộc nhiều vào người phỏng vấn. Người tham dự sẽ hợp tác với người phỏng vấn đủ tự tin, giúp họ thấy thoải mái khi đề cập đến các vấn đề riêng tư, thiết lập được sự tín nhiệm từ người tham dự bằng cách thích nghi với từng nhu cầu của họ.  Người tham dự phải tin tưởng những câu trả lời của mình cho phỏng vấn là quan trọng, có giá trị khi mất thời gian làm việc đó: người phỏng vấn cần phát hiện ra các vấn đề gì cần được giải thích, trình bày rõ về mục đích nghiên cứu, thông tin phỏng vấn sẽ được sử dụng như thế nào, dự đoán ý kiến của người tham dự  Người tham dự phỏng vấn phải gạt bỏ suy nghĩ e dè có thể có trong cuộc phỏng vấn: Người tham dự có thể nghi ngờ người bán hàng giả làm người phỏng vấn hoặc người phỏng vấn có ý đồ không hợp pháp, cảm thấy không thích hợp hoặc sợ sệt những câu hỏi sẽ làm cho họ bối rối => hạn chế những vấn đề riêng tư. Giới thiệu _ Người phỏng vấn nên giới thiệu tên, tổ chức hoạt động, xuất trình giấy giới thiệu thực hiện nhiệm vụ phỏng vấn => thể hiện sự quan tâm thân thiện và đề cập khơi dậy hứng thú của người tham dự _ Việc giới thiệu không nên quá dài => có thể làm lệch mục tiêu giới thiệu. Tuy nhiên, người tham dự có thể yêu cầu người phỏng vấn giải thích nội dung vấn đề nghiên cứu, nền tảng cơ sở nghiên cứu, lựa chọn người tham dự thế nào, những vấn đề mang tính chất riêng tư (nếu có) trong phỏng vấn, lợi ích của nghiên cứu. _ Phỏng vấn tại nhà gồm 2 giai đoạn:  Người phỏng vấn đến tại vị trí cửa nhà giới thiệu lý do, nội dung phỏng vấn với người tham dự  Cố gắng vào nhà => đề nghị xin phép người tham dự => thay vì nói “xin phép cho tôi được vào trong nhà” hãy nói “xin phép vui lòng cho tôi vào nhà và được trao đổi với bạn về vấn đề…” Nếu người tham gia phỏng vấn đang bận việc hoặc không có ở nhà: Nếu người tham gia phỏng vấn đang thực sự bận việc, thì đó là cơ hội tốt để người phỏng vấn giới thiệu tổng quát lý do và nội dung của cuộc phỏng vấn và cố gắng tạo sự quan tâm hứng thú của người tham gia phỏng vấn bằng việc sắp xếp cuộc phỏng vấn vào dịp khác. Nếu người tham gia phỏng vấn đã được lựa chọn trước không có mặt ở nhà, thì người phỏng vấn nên giải thích tóm tắt với người tiếp xúc về lý do, mục đích của việc đến nhà. Người phỏng vấn tạo mối quan hệ tốt với người tiếp xúc thì có thể họ sẽ giúp liên lạc với người tham gia phỏng vấn. Những người phỏng vấn đi đến từng nhà tiếp xúc với người tham gia phỏng vấn thường gửi lại số điện thoại hoặc danh thiếp để họ có thể sắp xếp lại lịch trình cho cuộc phỏng vấn với những người tham gia phỏng vấn mà chưa thực hiện được. Tạo mối quan hệ tốt: Cuộc phỏng vấn được thành công là dựa trên giao tiếp – có ý nghĩa là quan hệ cá nhân riêng tư và thấu hiểu giữa người phỏng vấn và người tham gia phỏng vấn. Những tình huống phỏng vấn thường là mới đối với người tham gia phỏng vấn và họ cần sự giúp đỡ về vấn đề hạn chế từ ngữ trong vai trò của họ. Người phỏng vấn giúp đỡ họ thông qua việc chuyển tải qua cuộc phỏng vấn các vấn đề mang tính chất riêng tư (nếu có) và quan trọng và người tham gia phỏng vấn có thể thảo luận tự do thoải mái các vấn đề phê bình, ép buộc, áp lực. Với các tình huống này thì người tham gia phỏng vấn có thể cảm nhận được nhiều sự thỏa mãn, cởi mở mà không bị áp lực.

Thu thập dữ liệu: Trong nội dung này, hình thức giao tiếp của quy trình phỏng vấn là sự bắt buộc. Để hoàn thành phần giới thiệu và tạo ra quan hệ giao tiếp ban đầu, người phỏng vấn phải quay về công việc kỹ thuật để thu thập thông tin. Trọng tâm của cuộc phỏng vấn dựa trên sự sắp xếp trước của các câu hỏi tình huống. Công việc kỹ thuật được xác định rõ ràng trong những vấn đề nghiên cứu với một cấu trúc trình tự khảo sát (đối chiếu để thăm dò tình huống phỏng vấn). Người phỏng vấn nên dùng câu từ để diễn đạt chính xác cho câu hỏi, yêu cầu họ có mặt, hỏi những câu hỏi câu đã được xác định rõ ràng. Khi người tham gia phỏng không hiểu hoặc hiểu sai thì người phỏng vấn nên lặp lại câu hỏi. Một công việc khó khăn trong quá trình phỏng vấn là đạt được nội dung trọng tâm của phần trả lời phù hợp và thỏa mãn với nội dung của câu hỏi. Để làm điều này, người phỏng vấn phải cần phải học thuộc những nội dung của mỗi câu hỏi nghiên cứu của tài liệu khảo sát hoặc tham khảo ý kiến của người phụ trách dự án nghiên cứu. Điều quan trọng cần phải có thông tin này bởi vì nhiều câu trả lời đầu tiên không phù hợp ngay cả đối với những nghiên cứu có hoạch định tốt. Kỹ thuật để khuyến khích người tham gia phỏng vấn trả lời đầy đủ và hợp lý hơn là giới hạn phạm vi tìm hiểu thăm dò. ….. , một cuộc điều tra phỏng vấn nên tập trung và thực hiện giống như một phần tự nhiên của cuộc đàm thọai. Một cuộc điều tra thăm dò thích hợp nên được người thiết kế xác định rõ công cụ thu thập dữ liệu. Có một vài hình thứcđiều tra thăm dò khác nhau: •

Tóm tắt việc khẳng định của vấn đề được quan tâm và hiểu biết: với những lời bình luận như là: “tôi hiểu” hoặc “vâng” hoặc “ừ - à”, người phỏng vấn thể hiện họ đang lắng nghe và quan tâm hơn nữa. • Ngắt giọng, dừng lại trong khi nói: một cách đơn giản nhất để tiên đoán các ý nghĩ của người tham gia phỏng vấn sắp nói ra là người phỏng vấn dừng câu hỏi và quan sát hoặc gật đầu. Cách diễn đạt này phải thận trọng khi thực hiện phỏng vấn. Một vài người tham gia phỏng vấn không phát biểu thêm nữa, và số lần dừng lại trong khi nói sẽ tại ra sự im lặng gây bối rối và làm cho họ không được thoải mái khi tham gia phỏng vấn, làm giảm đi tinh thần sẳn sàng tham gia của họ. • Lặp lại câu hỏi: đây là một cách đặc biệt hữu hiệu khi người tham gia phỏng vấn gặp phải tình huống không hiểu câu hỏi hoặc bị lạc chủ đề cần phỏng vấn. • Lặp lại nội dung trả lời của người tham gia phỏng vấn: người phỏng vấn có thể lặp lại nội dung trả lời của người tham gia phỏng vấn trong khi đang ghi chép lại nội dung này. Việc lặp lại này sẽ làm cho kết quả cuộc nghiên cứu thăm dò tốt. Lắng nghe sự lặp lại của ý kiến người tham gia phỏng vấn thường làm cho kết quả nhận xét đánh giá tốt hơn. • Một câu hỏi mang nội dung trung lập hoặc một lời nhận xét: những lời nhận xét sẽ giúp việc thu thập được nhiều thông tin hơn nữa. Ví dụ: “ý bạn như thế nào?” “bạn có thể phát biểu thêm ý kiến về vấn đề này?” “tại sao bạn nghĩ như vậy?” “còn ý kiến nào khác không?” • Làm rõ nội dung câu hỏi: khi nội dung trả lời không được rõ ràng hoặc có mâu thuẫn, thì người phỏng vấn có thể hiểu rằng người tham gia phỏng vấn chưa hiểu nội dung câu hỏi một cách rõ ràng. Ví dụ như: “tôi chưa hiểu ý của bạn là gì, bạn có thể nói thêm cho tôi rõ được không?” hoặc “xin lỗi, tôi vẫn chưa hiểu. bạn đã nói rằng…..?”. Điều quan trọng là …………………… Hình thức đặc trưng của trả lời thăm dò kiên trì là câu trả lời “tôi không biết”. Đây là một câu trả lời hợp lý và thỏa đáng nếu người tham gia phỏng vấn thực sự không biết vấn đề đuợc hỏi. Nếu người tham gia sử dụng quá nhiều câu trả lời “tôi không biết” thì có nghĩa là họ vẫn chưa hiểu, muốn có thời gian để suy nghĩ, hoặc đang cố tình lãng tránh câu hỏi. Người phỏng vấn có thể thăm dò tốt nhất hình thức trả lời này bằng cách sử dụng kỹ năng ngắt giọng, dùng lại trong khi hỏi để

tạo sự yên tâm cho người tham gia phỏng vấn như là: “chúng tôi cảm thấy hứng thú với ý tưởng của bạn trong vấn đề này.” Thu thập lại nội dung phỏng vấn: Trong khi các phương pháp sử dụng để ghi âm sẽ có thay đổi thì người phỏng vấn thường viết ra giấy những nội dung trả lời của người tham gia phỏng vấn. Một vài nguyên tắc có thể giúp công việc này hiệu quả hơn. Trước tiên, ghi âm những nội dung trả lời ngay khi họ bắt đầu. Nếu bạn không thực hiện việc này bạn sẽ bị mất nhiều thông tin cần thu thập. Nếu thời gian phỏng vấn bị hạn chế, người phỏng vấn nên sử dụng một vài kỹ năng viết tốc ký để ghi chép lại các nội dung trả lời chính của nguời tham gia phỏng vấn. Để làm tốt việc này thì chỉ sử dụng các từ viết tắt, tiêu đề, những từ chính yếu. Một kỹ thuật khác là người phỏng vấn lặp lại nội dung trả lời của người tham gia phỏng vấn trong khi đang ghi chép lại. Việc này giúp ảnh hưởng tốt đến hứng thú cho người tham gia phỏng vấn khi người phỏng vấn đang ghi chép và kiểm tra lại những nội dung đã phát biểu của người tham gia phỏng vấn. Thường thì người phỏngvấn bắt đầu nghi chép khi người tham gia phỏng vấn bắt đầu trả lời. Người phỏng vấn cũng nên thu thập tất cả các nội dung trả lời thăm dò ý kiến và các nhận xét khác tại các vị trí giữa các câu hỏi trong các bảng câu hỏi. Đôi khi người thiết kế nghiên cứu cũng tạo ra công cụ phỏng vấn đặc biệt để thu thập nội dung trả lời phỏng vấn. Điều này có thể được kết hợp lòng vào nội dung của câu hỏi phỏng vấn hoặc được tách riêng ra nội dung khác. Ví dụ nhửng câu trả lời phù hợp thì được đoán trước, cho phép người phỏng vấn kiểm tra lại nội dung trả lời của người tham gia phỏng vấn hoặc ghi âm lại theo trình tự, có phân lọai. Tuy nhiên, tất cả những công cụ phỏng vấn phải tạo ra những câu trả lời bất ngờ. Lựa chọn và huấn luyện: những yêu cầu công việc của người phỏng vấn bao gồm kiến thức kinh nghiệm ở trường đại học, những kỹ năng giao tiếp tốt, chương trình linh họat, chấp nhận công việc không liên tục, và thường xuyên thay đổi. Chính vì yêu cầu này mà hầu hết các người phỏng vấn là những phụ nữ da trắng, đã TN đại học và ít vướng bận chuyện gia đình. Chứng minh của nghiên cứu nhỏ đưa ra những giã thuyết là những lý lịch trích ngang khác sẽ làm tăng hoặc giảm những sai lệch trong nghiên cứu ở những câu hỏi với nội dung mang tính sắc tộc, tôn giáo, hoặc những người phỏng vấn tình nguyện. Những người nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng đấu tranh vì dân tộc, vì tôn giáo nên được quan tâm, và sau đó cảnh báo việc sử dụng người phỏng vấn tình nguyện vì có thể làm phiền đến nguời tham gia phỏng vấn, thu thập dữ liệu sai, và cá vấn đề liên quan đến huấn luyện. Phạm vi, lĩnh vực của người phỏng vấn thay đổi theo mức độ được huấn luyện, từ những bài viết tóm tắc đến những bài luận dài. Các công ty nghiên cứu về thương mại thường có mức độ huấn luyện thấp hơn các tổ chức tương tự khác nghiên cứu các vấn đề có liên quan về chính quyền hoặc giáo dục. Bằng chứng chứng minh giá trị của huấn luyện. Trong một nghiên cứu trích dẫn, việc huấn luyện chuyên sâu sẽ tạo ra sự tiến bộ quan trọng trong công việc của người phỏng vấn. Ảnhbhưởng của việc huấn luyện rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người phỏng vấn các cuộc điều tra mang tính chất cá nhân, riêng tư……………… ….. Những tài liệu nên được cung cấp trong tất cả các nghiên cứu. Tài liệu nên bao gồm ít nhất là nội dung chính của vấn đề nghiên cứu và đề cập đến vài vấn đề đã phát hiện trong quá tình nghiên cứu và cá cách giải quyết vấn đề đó. Ngòai ra, hầu hết các câu hỏi được thảo luận riêng, để nguời phỏng vấn hiểu thấu đáo mục tiêu của câu hỏi, ví dụ những câu trả lời thích hợp và không thích hợp, và những đề

xuất khác như là làm cách nào để thăm dò thu thập thêm thông tin. Việc xác định rõ những khái niệm hoặc cấu trúc sẽ giúp người phỏng vấn có thể giải thích và làm sáng tỏ vấn đề theo phong tục truyền thống. Một vài đề xuất một chương trình huấn luyện phỏng vấn nên thực hiện như sau: • Cung cấp cho những nguời phỏng vấn mới các nguyên tắc đo lường: giao cho họ có quyền về chức năng và cơ sở của việc thu thập dữ liệu để đánh giá hành vi phỏng vấn. • Cung cấp tài cần thiết liệu thực việc giới thiệu trước khi phỏngvấn. • Huấn luyện các kỹ thuật phỏng vấn. • hướng dẫn cách diễn đạt và bỏ qua những vấn đề không cần thiết….. • Hướng dẫn cách thăm dò ý kiến. • Đưa ra những vấn đề đã xảy ra trong việc thu thập nội dung trả lời trong các tình huống và mức độ khác nhau. • Tạo cơ hội cho thực tập và đánh giá theo điều kiện tiêu chuẩn đạo đức phỏng vấn. • Đề nghị đánh giá cẩn thận của việc phỏng vấn, đặc biệt là lúc bắt đầu thu thập dữ liệu thực tế. Việc đánh giá nên bao gồm vấn đề xem xét lại bản thảo của cuộc phỏng vấn. Những vấn đề phỏng vấn: Đối với những cuộc phỏng vấn mang tính chất riêng tư, cá nhân thì người phỏng vấn phải giải quyết vấn đề nghiên cứu bị chêch hướng và chi phí. Các vấn đề này có liên quan với nhau nhưng phải được thảo luận, xem xét riêng. Kết quả việc nghiên cứu chêch hướng là do ba hình thức mắc lỗi sau: lỗi lấy mẫu, lỗi không trả lời và lỗi trả lời. Lỗi không trả lời: Trong nghiên cứu giao tiếp, lỗi không trả lời xuất hiện khi nội dung trả lời của người tham gia phỏng vấn khác với một vài cách có hệ thống của những người không tham gia phỏng vấn. Điều này xảy ra khi người nghiên cứu không thể xác định một người nào đó (đối tượng được lấy làm mẫu nghiên cứu) để nghiên cứu hoặc không động viên, khuyến khích người nào đó tham gia vào cuộc phỏng vấn. Đây là vấn đề khó khăn đặc biệt khi bạn sử dụng nội dung của mẫu thử xác suất. Nếu người nghiên cứu phải phỏng vấn người được chọn trước, thì công việc chỉ là đi tìm gặp họ. Không thực hiện được việc xá định người tham gia phỏng vấn đã được chọn trước thì có thể khó tiếp xúc với người tham gia phỏng vấn. Ở những thành phố lớn, việc đi vào nhà để gặp người tham gia phỏng vấn là một vấn đề, vấn đề này có thể làm ảnh hưởng việc đảm bảo an tòan về an ninh của căn hộ vào ban đêm và gây phiền phức cho những người khác đang sống cùng căn hộ. Ở những khu vực ngọai thành, thì những khu vực có cổng rào cấm không được đi vào. Một nghiên cứu về vấn đề không trả lời lại thấy rằng chỉ có 31% (và 20% ở khu vực thành phố lớn) trong tổng số các cuộc gọi điện thọai là thực hiện được. Các giải pháp để giảm những lỗi do không trả lời gồm: • Thiết lập và thực hiện các cuộc gọi lại. • Tạo ra một mẫu không trả lời và đánh giá kết quả từ mẫu này. • Thay thế người tham gia phỏng vấn khác. Gọi lại: hầu hết giải pháp khả thi để giải quyết vấn đề không trả lời là thực hiện lại các cuộc gọi lại. Nếu thực hiện việc gọi điện lại thường thì có thể liên lạc hầu hết với những người tham gia phỏng vấn chính, tuy nhiên cũng không giới cho với những người còn lại. Với lần gọi điện đầu tiên và 3 lần gọi lại sẽ đảm bảo bạn liên lạc đượcvới khỏang 85% số người tham gia phỏng vấn chính. Một nghiên cứu, có tới 36% người dân ở thành phố lớn vẫn không chịu trả lời điện thọai sau 3 lần callbacbs. Để cải thiện hiệu quả của việc gọi lại là thay đổi thời

điểm gọi trong ngày và vào các ngày khác nhau trong tuần. Đôi khi người hàng xóm của người tham gia phỏng vấn cũng có chể cho bạn biết thời điểm tốt nhất bạn nên gọi. Đánh giá mẫu nghiên cứu: một giải pháp khác được sử dụng khá thành công là xem xét tất cả các người không tham gia phỏng vấn như là những người mới sau khi đã gọi lại vài lần. Mẫu nghiên cứu ngẫu nhiên là việc chọn ra những người từ nhóm này, và rất hiệu quả thực hiện mẫu ngẫu nhiên với tỷ lệ trả lời là 100% Cuối cùng từ mẫu những người không tham gia phỏng vấn có thể được tính vào tổng số người ước tính. những khảo sát mà dân số của thành phố lớn không được thống kê đầy đủ, chúng ta có thể thêm số lượng người để có được kết quả khảo sát. Hạn chế của giải pháp này là việc lặp lại bổ sung thường khác nhau và sẽ được đảm bảo nếu thực hiện thành công các cuộc gọi lại. Như vây, một ẩn số chưa biết nhưng thật sự có thể bị chệch hướng lại được đưa vào nghiên cứu. Việc bổ sung cho vấn đề không trả lời chỉ sau một lần cố gắng liên lạc sẽ có thể không bị chệch hướng, nhưng đặc trưng của người tham gia phỏng vấn phụ thuộc số lượng tổng thể của họ sau hai đến ba lần gọi lại. Sự thay thế: Cách thứ ba là phân bổ vấn đề không trả lời là thay thế một người nào khác cho người tham gia phỏng vấn vắng mặt, nhưng việc này thì nguy hiểm. Theo cách này thì những người tham phỏng vấn là “ở nhà” thì dường như khác với những người tham gia phỏng vấn là “không ở nhà”. Một kết quả nngjhiên cứu đã nhận định rằng những người “không ở nhà” thì trẻ hơn, học vấn tốt hơn, sống ờ thành thị nhiều hơn, và có thu nhập cao hơn mức trung bình. Nếu trường hợp phải thay thế một người khác cho cuộc phỏng vấn, thì tốt hơn nên hỏi những người khác sống cùng căn hộ về những thông tin của người tham gia phỏng vấn đã được chọn. Giải pgáp này là tốt khi “khi nội dung câu hỏi đáng quan tâm, khi người cung cấp thông tin phải có khả năng quan sát tốt và quan tâm nhiều đến người tham gia phỏng vấn, khi những người tương đương nhau, khi thực hiệncuộc phỏng vấn không bỏ hết động cơ làm méo mó nội dung trả lời theo hướng này hoặc hướng khác. Sai sót từ trả lời: xảy ra khi dữ liệu báo cáo khác với dữ liệu thực tế. Sai sót này có thể xảy ra trong suốt buổi phỏng vấn (do người phỏng vấn hoặc do người trả lời), hoặc trong quá trình chuẩn bị dữ liệu phân tích. - Sai sót xuất phát từ người trả lời: xảy ra khi người được phỏng vấn trả lời không đầy đủ và chính xác, do chủ ý của bản thân hoặc do không hiểu biết đầy đủ. Một cuộc nghiên cứu cho thấy, những người tham gia phỏng vấn thường đánh giá thấp tiền mặt và các loại tài sản lưu động lên đến khoảng 25-30%. Các dữ liệu khác, như thu nhập và việc mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền, thì cho kết quả chính xác hơn. Những người trả lời phỏng vấn cũng gặp khó khăn trong việc trình bày các vấn đề nhạy cảm hoặc liên quan đến lòng tự trọng của họ. Hiện khó khăn này vẫn chưa được giải quyết, cách tốt nhất là đào tạo kiến thức về vấn đề này những người phỏng vấn. - Sai sót do người phỏng vấn: và cũng là sai sót lớn trong việc trả lời. Từ lúc giới thiệu cho đến khi kết luận vấn đề, có nhiều điểm mà việc kiểm soát quy trình của người PV có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng dữ liệu thu thập được. Những người thiết kế cuộc nghiên cứu nên phấn đấu loại bỏ một số sai sót kĩ thuật xuất phát từ người pv, cụ thể như: • Ko đảm bảo đầy đủ sự hợp tác giữa những người tham gia PV: Mẫu điều tra thiếu tin cậy và có khả năng bị thiên lệch nếu người PV ko làm tốt vai trò kết nối giữa những người tham gia. Chắc chắn có 1 câu hỏi được đặt ra về chất lượng dữ liệu thu thập được từ Edna trong quá trình nghiên cứu phòng khám ở Albani. Cho đến khi kết thúc buổi PV, vẫn còn 1 số nghi vấn về tính nghiêm túc của những câu hỏi đã được trả lời. Nhấn mạnh tầm quan trọng của của thông tin đối với ca phẫu thuật sắp tới và đào tạo 1 nhân viên tiếp tân trở thành 1 người điều tra/phiên dịch câu hỏi có thể giúp giảm thiểu loại sai sót này. • Ko thực hiện nhất quán các thủ tục PV: Mức độ chính xác trong việc đánh giá cuộc điều tra sẽ giảm xuống và sẽ có nhiều sai sót hơn xung quanh việc đánh giá đến mức











mà sự thiếu nhất quán đó có thể làm ảnh hưởng đến dữ liệu thu thập được. Trong cuộc nghiên cứu fòng khám A, việc đưa ra các khái niệm và cách định nghĩa khác nhau đối với bệnh nhân cũng đã dẫn đến sự thiên lệch này. Ko xây dựng được môi trường PV thích hợp: các câu trả lời có thể ko chính xác hoặc sai sót về mặt hệ thống khi người PV ko biết cách huấn luyện và động viên những người tham gia, hoặc ko tạo ra mối liên hệ giữa các cá nhân 1 cách thích hợp. Do cuộc nghiên cứu fòng khám A yêu cầu về sự thật nhiều hơn là các dữ liệu về quan điểm nên sai sót này đã được hạn chế. Nếu phòng khám cũng đòi hỏi nhân viên tiếp nhận điều tra về mức độ thỏa mãn của bệnh nhân, thì kết quả của cuộc nghiên cứu sau đó đã có thể bị ảnh hưởng bởi sự thiên lệch của nhà PV. Bóp méo câu trả lời của 1 cá nhân hay toàn bộ cuộc fv: có lẽ đây là sai sót nghiêm trọng nhất xuất fát từ người pv. Nghiên cứu là 1 công việc khó, thường do các nhân viên bán thời gian làm, nhưng họ ít được đào tạo bài bản và thiếu sự giám sát trực tiếp. Đôi khi, việc bóp méo 1 câu trả lời bị bỏ sót được xem như 1 giải pháp nhanh chóng để đối phó lại với các dữ liệu chưa hoàn thành. Bước đầu tiên dễ dàng và tưởng chừng như vô hại này, có thể kéo theo nhiều sự giả mạo khác lớn hơn. Ko biết đã có bao nhiêu sai lầm kiểu này, nhưng nó thường liên quan đến những người điều hành cuộc nghiên cứu, vì họ là chính người phát triển những bản thiết kế thu thập dữ liệu của chính mình, và liên quan đến những tổ chức cùng tham gia vào dự án nghiên cứu. Phong cách pv ko thích hợp: rõ ràng là người pv có thể làm bóp méo kết quả của bất kì cuộc nghiên cứu nào bằng những đề nghị ko thích hợp, sự nhấn mạnh từ ngữ, giọng nói, cử chỉ, việc lập lại câu hỏi theo 1 cách khác…Những hành động này, dù có chủ ý trước hoặc do bất cẩn, cũng đều xảy ra khá phổ biến. Vấn đề này đã được điều tra bằng việc sử dụng 1 bảng câu hỏi có cấu trúc đơn giản và những người tham gia pv sau đó sẽ báo cáo lại cho người pv. Kết quả là tần suất sai lệch so với các hành vi được hướng dẫn đã cao đến mức đáng báo động. Ko ghi chép chính xác các câu trả lời: sai lầm này có thể xuất fát từ thủ tục ghi chép trong 1 cuộc fv, khi mà người pv phải tóm tắt hay dịch lại câu trả lời của những người tham gia, hoặc ko có đủ chỗ trống để ghi chép lại câu trả lời của những người được pv. Thiên lệch do hình thức bên ngoài: Người pv có thể tác động đến những người tham gia ở hình thức bên ngoài mà ko hề hay biết. Trong mắt những người tham gia trẻ tuổi thì 1 ng pv lớn tuổi có vẻ bề ngoài quyền uy, chính vì vậy họ thường phải đáp lại sao cho phù hợp. 1 số cuộc nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng cách xã hội có thể nhận biết được giữa ng pv và ng tham gia pv có tác động ko tốt, mặc dù các cuộc nghiên cứu này ko hoàn toàn thống nhất trong việc xác định mối quan hệ này là gì.

Chi phí: Trong khi mức lương của những ng pv chuyên nghiệp ko cao, thì chi phí cho việc pv lại khá tốn kém, và những CP này ko ngừng gia tăng. Phần lớn CP là do người pv phải tốn nhiều thời gian cho việc quản lí và đi lại. Những người tham gia pv thường ở cách xa về mặt địa lí và điều này làm tăng thêm CP. Các cuộc gặp được lặp lại nhiều lần (nên từ 6-9 lần 1 HGD) thì rất tốn kém. Trong những năm gần đây, 1 số TC nghiên cứu chuyên nghiệp đang nỗ lực kiểm soát các CP có xu hướng ngày càng tăng này. Người pv thường được trả lương theo giờ, nhưng cách trả này đã thưởng công luôn cho cả những ng pv ít hiệu quả, và nó thường gây vượt trội về ngân sách. Vụ điều tra dân số Mỹ đã thử nghiệm các tiêu chuẩn sản xuất và hệ thống trả lương theo công thức tạo ra động lực cho những ng pv hiệu quả. Cách tiếp cận này đã giúp cắt giảm 10% CP và cải thiện độ chính xác trong việc dự toán CP của cuộc nghiên cứu. Cách tiếp cận thứ 2 để cắt giảm CP là sắp xếp trước các cuộc pv cá nhân. Gọi điện để hẹn pv giúp giảm 25% số lượng các cuộc gọi cá nhân mà ko làm giảm tỉ lệ hợp tác. Điện thoại hiện hình ảnh cũng có giá trị trong trường hợp cuộc nghiên cứu diễn ra ở khu vực ít dân cư. Trong 1 trường hợp như thế, nơi những người mù được tìm thấy, người ta nhận thấy CP cho việc sử dụng điện thoại hiện hình ảnh của HGĐ chỉ = 1/3 so với CP của việc pv “mặt đối mặt”.

Cách thứ 3 để giảm CP là sử dụng bảng câu hỏi tự trả lời. Trg 1 cuộc nghiên cứu, ng ta thực hiện cuộc pv cá nhân tại 1 HGĐ và để lại bản câu hỏi cho 1 hoặc các thành viên khác trong gia đình trả lời. Trg cuộc nghiên cuu này, CP cho mỗi bản câu hỏi hoàn thành giảm 1 nửa so với CP thực hiện pv cá nhân trực tiếp.

PV qua điện thoại (đt): Ưu điểm lớn nhất của phỏng vấn qua đt là chi phí vừa phải. 1 cuộc nghiên cứu cho thấy các chi phí của việc chọn mẫu và thu thập dữ liệu trong 1 cuộc điều tra bằng điện thoại thấp hơn từ 45-64% so với các cuộc PV cá nhân trực tiếp, nhờ tiết kiệm chi phí đi lại, phí đào tạo và giám sát. Khi cuộc gọi đến từ 1 vị trí riêng lẻ thì nhà nghiên cứu ko cần sử dụng nhiều người phỏng vấn có kinh nghiệm. PV = điện thoại đặc biệt tiết kiệm khi liên quan đến các cuộc gọi lại để duy trì việc chọn mẫu và những người tham gia cuộc PV được phân bổ rộng khắp. Người ta có thể sử dụng phưong pháp này để thực hiện PV trên phạm vi tòan quốc với mức chi phí vừa phải. Với việc sử dụng rộng rãi máy vi tính, PV qua đt có thể kết hợp với cổng vào trực tiếp file dữ liệu thông qua thiết bị đầu cuối, máy tính cá nhân và cổng vào dữ liệu bằng giọng nói. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Phỏng vấn qua đt với sự hỗ trợ của máy tính (CATI) được sử dụng trong các tổ chức nghiên cứu trên toàn TG, nó bao gồm các phòng cách âm được tổ chức quanh các trạm giám sát. Người PV ở mỗi phòng có 1 máy tính cá nhân hoặc thiết bị đầu cuối kết nối với hệ thống đt và đơn vị xử lí dữ liệu trung tâm. 1 CT fần mềm gợi ý cho những người PV lời giới thiệu, các câu hỏi đánh giá và ?. Các tài liệu này xuất hiện trên màn hình của ng PV. CATI họat động với 1 hệ thống quản lí số đt để chọn lọc số, quay số theo mẫu và tiến hành trả lời. 1 phương thức khác để đảm bảo dữ liệu được phản hồi nhanh chóng là điều tra qua đt tiến hành trên máy tính (CATS). Ko giống như CATI, CATS không có người PV. Chỉ có 1 máy tính gọi số đt, thực hiện cuộc PV, đặt dữ liệu vào 1 tập tin sau đó trình bày thành bảng và kết thúc cuộc gọi. Các câu hỏi được kết hợp giọng nói, và câu trả lời của những người tham gia và tiếp tục bấm thời gian máy tính hoặc hủy bỏ kết nối (?). PP này thường kết hợp với bản câu hỏi tự trả lời và có ưu điểm là đảm bảo sự riêng tư cho những ng tham gia. Một nghiên cứu chỉ ra rằng tỉ lệ mất liên lạc trong phương thức điều tra điện tử này tương tự như các cuộc pv đt khác khi sử dụng danh sách số đt ngẫu nhiên. Người ta cũng nhận thấy là việc loại bỏ phương thức thu thập dữ liệu này cũng ảnh hưởng đến tỉ lệ từ chối phản hồi (và vì thế ảnh hưởng đến cả xu hướng ko phản hồi), vì người ta có thể từ chối trên máy vi tính dễ dàng hơn là đối với con người. Tỉ lệ mất liên lạc là tỉ lệ của những cuộc gọi ko liên lạc được (do ko trả lời, máy bận, sử dụng máy trả lời hoặc ko kết nối được, chứ ko fải do từ chối phản hồi) trên tất cả các khách hàng tiềm năng. Tỉ lệ từ chối là tỉ lệ người tham gia từ chối cuộc pv trên tất cả các khách hàng tiềm năng. So với pv qua mail hay pv cá nhân thì pv qua đt giúp hoàn thành cuộc nghiên cứu nhanh chóng hơn, có khi chỉ mất một ngày hoặc cỡ đó. So với pv cá nhân thì pv qua đt có thể làm giảm được sai sót của người pv (nhất là những sai sót do hình thức bên ngoài, cử chỉ, hành động) Gần 94% HGĐ Mỹ sử dụng dịch vụ điện thoại. Tiếp cận với đối tượng điều tra qua những phương thức hiệu quả, chi phí thấp đã giúp cho pv = đt trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà nghiên cứu. Cuối cùng, các chuẩn mực hành vi cũng là 1 ưu điểm của pv qua đt. Khi chuông đt reng, người có mặt ở đó sẽ bắt máy, và người gọi đến có thể quyết định được mục đích, độ dài và thời điểm kết thúc cuộc gọi. Công nghệ mới, đặc biệt là hệ thống định vị người gọi đến, nơi mà người nhận có thể quyết định là người nghe có trả lời hay ko, dựa trên việc nhận dạng người gọi đến, được cho là sẽ làm tăng tỉ lệ mất liên lạc kết hợp trong các cuộc điều tra qua đt. Thật là bất lợi khi sử dụng việc nghiên cứu bằng điện thọai. Một nhà nghiên cứu có kỹ năng sẽ ước lượng việc sữ dụng khảo sát bằng điện thọai để giảm tối thiểu những việc bất lợi từ việc khảo sát bằng điện thọai: • khó thu thập thông tin từ hộ gia đình • những số điện thọai không chính xác họac không sử dụng được nữa • giới hạn thời gian phỏng vấn • giới hạn khi sử dụng câu hỏi có hình ảnh họac trừu tượng • Sự dễ dàng chấm dứt cuộc PV qua điện thoại

• •

Ít lôi kéo được người tham gia Bị xao lãng bởi môi trường xung quanh

-

Khó thu thập thông tin từ hộ gia đình: thậm chí khi luật viễn thông được thông qua vào năm 1996, để bảo đảm tất cả người mỹ sẽ được sử dụng dịch vụ điện thọai, 18,4% hộ gia đình có thu nhập thấp thuộc tầng lớp nghèo vẫn còn chưa sử dụng dịch vụ điện thọai. tỷ lệ sử dụng không cao tập trung ở những hộ gia đình có nhiều người chưa lập gia đình, ít học, dân tộc thiểu số nghèo, cá nhân làm việc không chuyên và không làm công việc quản lý. Thêm vào đó 20% số hộ gia đình sống ở mỹ chuyển đi nơi khác mỗi năm tạo ra nhiều số điện thọai không còn phù hợp được nũa và những hộ gia đình mới sử dụng dịch vụ chưa được công bố. ước tính có khỏang 22% số điện thọai cố định không được liệt kê. Cùng lúc đó số lượng cá nhân khó lấy được thông tin tiếp tục gia tăng do số lượng nguời sử dụng điện thọai di động ngày càng tăng, rất nhiều trong số này cũng không được liệt kê. từ những sự biến đổi như trên có thể gây ra những đánh giá sai lệch.

-

Những số điện thọai không chính xác hoặc không sử dụng được nữa: nguồn thông tin khác cho rằng phần lớn những số điện thọai không được liệt kê tập trung vào khu vực phía tây, ở đô thị lớn, tập trung vào những người không phải da trắng và tuổi từ 18 đến 34. Nhiều phương pháp được phát triển để khắc phục những thiếu sót trong danh bạ điện thọai. một trong số đó là kỹ thuật chọn số điện thọai từ danh bạ rồi gọi ngẫu nhiên hoặc gọi ngẫu nhiên. Cách để gọi điện thọai ngẫu nhiên thông thường là gọi ngay số điện thọai đã thay đổi hoặc thay đổi một vài số trong dãy số đó và tiếp tục gọi. tuy nhiên, nhu cầu sử dụng nhiều line điện thọai gia tăng trong hộ gia đình và cá nhân dẫn đến việc xuất hiện mã vùng và địa phương việc làm này cũng dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ những số điện thọai không chính xác.

-

Giới hạn thời gian phỏng vấn: giới hạn của độ dài cuộc phỏngvấn là một điều bất lợi của điện thọai nhưng mức độ của giới hạn tùy thuộc mức độ quan tâm vào chủ đề của người tham gia phỏng vấn. 10 phút là độ dài lý tưởng cho 1 cuộc phỏng vấn qua điện thọai nhưng có những cuộc phỏng vấn kéo dài 20 phút hoặc hơn không phải là hiếm. Có những cuộc phỏng vấn kéo dài tứ 1h đến 1h30 phút cho những cuộc khảo sát ở khỏang cách xa.

-

Giới hạn của việc sử dụng câu hỏi có hình ảnh hoặc phức tạp: trong phỏng vấn điện thọai rất khó sử dụng các lọai câu hỏi có bản đồ, hình minh họa, các thiết bị trợ giúp hình ảnh, hệ thống phân chia cấp bậc phức tạp hoặc hệ thống đo lường mang tính kỹ thuật(tuy nhiên trong 1 vài trường hợp có thể cung cấp trước cuộc phỏng vấn bằng bản fax hoặc email). Những vật trung gian trên sẽ giúp làm, giảm bớt độ phức tạp của cuộc khảo sát và việc sử dụng những kỹ thuật hình ảnh cũng có thể áp dụng cho cuộc phỏng vấn cá nhân. Ví dụ trong những cuộc phỏng vấn cá nhân, người được phỏng vấn đôi khi yêu cầu những bảng câu hỏi có ghi sẵn câu trả lời để lựa chọn. đối với những người được phỏng vấn không thể hình dung ra các thiết bị đo lường mà người phỏng vấn đang cố gắng mô tả. có 1 hướng giải quyết là sử dụng phương pháp chín điểm để hướng dẫn và yêu cầu người được phỏng vấn hình dung ra bằng cách dùng những phím trên điện thọai .

-

Sự dễ dàng chấm dứt cuộc PV qua điện thoại: Một vài nghiên cứu chỉ ra rằng tỉ lệ phản hồi của những cuộc nghiên cứu qua điện thoại thấp hơn rất nhiều so với PV mặt đối mặt. Một lí do là người được PV cảm thấy việc chấm dứt một cuộc PV kiểu này dễ dàng hơn. Những hoạt động tiếp thị qua điện thoại cũng góp phần vào việc này. Phản ứng của công chúng đối với những bản báo cáo điều tra trong hoạt động tiếp thị qua điện thoại về những hành vi ứng xử không hay gây thêm khó khăn cho nhà ngiên cứu vì phải cố giải thích, thuyết phục người được phỏng vấn rằng đây không phải là cái cớ để xin tài trợ, đóng góp hay là để bán hàng.

-

Ít lôi kéo được người tham gia: các cuộc nghiên cứu bằng điện thọai thì thường cho kết quả phản hồi kém hơn phỏng vấn trực tiếp cá nhân và phỏng vấn bằng điện thọai ít tốn kém hơn phỏng vấn cá nhân. mối quan hệ giữa người được phỏng vấn qua điện thọai thì thường có mối quan hệ ít hơn so với phỏng vấn trực tiếp. vì phỏng vấn cá nhân sẽ cho chí phí cao hơn phỏngvấn qua điện thọai nên trong tương lai các cuộc phỏng vấn bằng điện thọai sẽ gia tăng, vì vậy các nhà quản trị về nghiên cứu phải có nhiệm vụ cải tiến cách thức để cuộc phỏng vấn qua điện thọai lý thú hơn. một tác giả đề nghị

-

Bị xao lãng bởi môi trường xung quanh: các cuộc nghiên cứu nổi lên gần đây cho thấy số lượng điện thọai văn phòng và điện thọai bàn đã được thay thế nhiều bởi điện thọai không dây. điều này đã làm các cuộc phỏng vấn qua điện thọai bị tác động bởi môi trường xung quanh, kết quả là các cuộc phỏng vấn thu thập được có thể bị xáo trộn, không chính xác và có thể tăng khả năng bị từ chối trả lời tăng theo.



Xu hướng phỏng vấn bằng điện thọai: Xu hướng tương lai của việc phỏng vấn bằng điện thọai sẽ được theo dõi. Các máy trả lời tự động đượcx xem như kiểu mẫu. vì vậy những sự khác biệt giữa 60 nhà cung cấp dịch vụ điện thoại cộng với mực độ hợp tác giữa họ sẽ mở rộng hướng phát triển cho các nhà nghiên cứu. đó là sự quan tâm bằng nhiều cách mà việc quay số ngẫu nhiên có thể được thực hiện để đối phó vớinhững số điện thoại không có thật. các máy trả lời tự động có thể đưa ra tỷ lệ trả lời những câu hỏi phức tạp mang tính tiềm năng và đánh giá là có giá trị xuyên suốt ở những hộ gia đình ở mỹ. Những cuộc nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng hầu hết những điện thoại có sử dụng chức năng tự trả lời thì người phỏng vấn có thể tiếp cận được. tỷ lệ liên lạc lại sau đó của những gia đình có sd máy điện thoại có chức năng này thì thườngh cao hơn là những máy không sử dụng và được so sánh là ngang bằng với những máy có tín hiệu báo bận, một cuộc nghiên cứu khác lại cho rằng những cá nhân, hộ gia đình có sử dụng máy trả lời thì thường tham gia và thường xuyên tham gia vào những ngày cuối tuần hơn là những buổi tối hàng ngày và máy này dược sd phổ biến ở thành thị hơn là vùng nông thôn hẻo lánh. chức năng hộp thư thoại được ra đời từ những nhà cung cấp dịch vụ điện thoại tại địa phương. thị phàn này có ít người thâm nhập nhưng đạt được sự chấp nhận đang tăng dần. Các câu hỏi về nhân khẩu xã hội học của người sử dụng và không sử dụng, mối liên hệ giữa máy trả lời tự động và hộp thư thoại thì thay đổi một cách nhanh chóng trong thị phần công nghệ không dây cần phải được trả lời?(không hiểu…) công nghệ xác định người gọi, sự phân chia của máy fax và modem máytính đến line điện thoại, công nghệ xác định người quay số tự động và gửi lại tìn hiệu không kết nối được dẫn đến việc từ chối trả lời được mong đợi để xác định được sự tác động đến tỷ lệ các cuộc phỏng vấn qua điện thoại không liên lạc được.?(cũng k hiểu).

-

-

KHẢO SÁT TỰ QUẢN LÝ Bảng câu hỏi tự quản lý đã trở nên có mặt khắp nơi trong cuộc sống hiện đại. Các định giá dịch vụ nhà hàng, khách sạn, phân phối xe hơi, nhà cung cấp vận tải cung cấp các ví dụ dễ dàng. Thông thường một bảng câu hỏi ngắn cho phép người tham dự hoàn thành tại một địa điểm thuận lợi hay kết hợp với 1 sản phẩm. Đăng ký sử dụng, yêu cầu thông tin sản phẩm trên tạp chí, thư bảo đảm, nghiên cứu sửa chữa MindWriter, và nghiên cứu bệnh viên tư Albany là tự quản lý. Khảo sát tự quản lý qua mail được thực hiện không chỉ qua dịch vụ bưu điện U.S, mà còn qua fax và dịch vụ đưa thư. Các phương thức phân phối khác bao gồm phân phối qua máy tính và nghiên cứu giới hạn.

Bảng câu hỏi tự quản lý phân phối qua máy tính sử dụng hệ thống mạng cục bộ, internet, hay dịch vụ trực tuyến để liên lạc với người tham dự. Người tham dự có thể là mục tiêu (giống BizRate, một dịch vụ phân loại kinh doanh trực tuyến, gửi email đề nghị người mua hàng tham gia khảo sát) hay tự chọn (giống như 1 màn hình vận hành của máy tính xuất hiện một cuộc khảo sát khi người nào đó click vào website đặc biệt hay khi người tham dự tiềm năng trả lời bưu thiếp phỏng vấn dành cho người tham dự). Một cuộc khảo sát Gartner Research Dataquest năm 2001 nhận thấy 61% các hộ gia đình tích cực online và ngay khi kết nối thì 91% có khả năng tiếp tục thuê bao Internet. Đây có phải là điều ngạc nhiên hay không, khi đó, tại sao các cuộc khảo sát tự quản lý phân phối qua máy tính thu hút kinh doanh? Nghiên cứu giới hạn có thể sử dụng bảng câu hỏi bằng giấy truyền thống hay khảo sát phân phối qua máy tính. Người tham gia không được trợ giúp phỏng vấn thông thường quyết định không gian chẳng hạn như 1 cuộc mua sắm. Tất cả các phương thức đều có khó khăn và thuận lợi riêng. Web là nơi nghiên cứu Sự thu hút của Web Ví dụ Thay đổi hoàn toàn kết quả bất ngờ, Một nhà sản xuất nước ngọt thu được kết quả phù hợp khi khảo sát được phản hồi kết quả từ khảo sát Web chỉ trong 5 ngày hoàn toàn. Khéo léo sử dụng các yếu tố kích Văn phòng du lịch Florida sử dụng thích thị giác theo dõi cử động mắt để làm nổi bật website và cải tiến thông báo và in thông báo Khéo léo sử dụng nhiều cuộc khảo sát Một nhà sản xuất máy in thực hiện 7 cùng lúc cuộc khảo sát trong 6 tháng trong khi phát triển một trong các sản phẩm gần nhất Khéo léo thu hút người tham dự Một nhà sản xuất thiết bị nông nghiệp không tham dự vào dự án nghiên cứu khác, thực hiện khảo sát sử dụng máy nhắn tin hai bao gồm phản hồi quốc tế chiều miễn phí đến nông dân để hỏi người sử dụng về thiết bị của mình – thông thường phản hồi không thể thực hiện qua điện thoại hay PC. Phản hồi mang tính nặc danh Tình trạng nặc danh là yếu tố cần thiết cho 1 cuộc khảo sát của nhà sản xuất thuốc điều trị bệnh bất lực Thay đổi hoàn toàn được rút ngắn từ Cuộc nghiên cứu Hewlett-Packard sử bảng thảo khảo sát thành thực hiện khảo sát dụng QuickTake của hệ thống Greenfield Online mất 2 tuần để viết, bắt đầu, điền – nếu sử dụng nghiên cứu thông thường không sử dụng web thì tiêu chuẩn là 3 tháng Kinh nghiệm không có giá trị bằng Một tác dụng quan trọng của quảng các điều kiện khác cáo là hướng dẫn nghiên cứu web sử dụng lối đi trong siêu thị để người được phỏng vấn đi qua, sản phẩm có tác dụng khuyến khích khách hàng LiveWorld thực hiện khảo sát đóng gói trưng bày hơn 75 hình ảnh bao bì và thiết kế chai Sự hạn chế của Web Ví dụ Lựa chọn mẫu đúng tốn kém và bị chi TalkCity, làm việc cho tổ chức phối về thời gian, không giống như hệ thống Whitton và Fusien chuẩn bị danh sách 3,700 mẫu điện thoại và mail, không có danh sách thanh thiếu niên cho 1 cuộc khảo sát đánh giá hình thức đóng gói nước ngọc mới sử dụng điện thoại, danh sách email, quảng cáo, và web. Điều này thu hút mẫu 600 người cho nghiên cứu. Chi phí hơn $50,000 để chuẩn bị danh sách

Thay đổi khảo sát trên Web có thể rất Nghiên cứu thanh thiếu niên của tốn kém LiveWorld tốn $50,000 - $100,000 trả thêm tiền thù lao cho mỗi nhóm tập trung hay khảo sát. Tổng chi phí là vài trăm ngàn dollar Đòi hỏi kỹ thuật tốt về kỹ năng Một cuộc nghiên cứu 10-15 phút có nghiên cứu để điền vào khảo sát Web thể mất 5 ngày nếu không thành thạo về kỹ thuật điền thông tin, kiểm tra Trong khi nghiên cứu thích hợp hơn Một tạp chí kinh doanh nổi tiếng thực với số lượng lớn người xem, kỹ thuật sẽ hiện mẫu khảo sát chỉ với bảng câu hỏi điều không đầy đủ tra gồm 20 câu cho một cuộc khảo sát lớn hơn. Nhiều nhà nghiên cứu biết về khảo sát tự quản lý bằng cách học từ các cuộc thực nghiệm qua khảo sát email và kinh nghiệm bản thân. Vì vậy, khi chúng ta tìm hiểu ưu điểm và khuyết điểm của các phương pháp khảo sát tự quản lý khác nhau, chúng ta sẽ bắt đầu với phần kiến thức chính này. Chi phí Các loại khảo sát tự quản lý thông thường ít tốn kém hơn phỏng vấn cá nhân. Điều này phù hợp với khảo sát mail, khảo sát phân phối qua máy tính và khảo sát giới hạn.Chi phí điện thoại và mail có chung một mức, mặc dù trong các trường hợp cụ thể có thể thấp hơn. Tính chất địa lý phân tán mẫu nhiều hơn, người ta thích sử dụng khảo sát tự quản lý qua máy tính hay mail nhiều hơn do đây là phương pháp có chi phí thấp. Một cuộc khảo sát phân phối qua mail hay máy tính có chi phí ít hơn do đó là công việc của chỉ 1 người. Và khảo sát phân phối qua máy tính (bao gồm khảo sát CAPI và CATI) loại trừ chi phí khảo sát in ấn, một loại chi phí đáng kể trong khảo sát qua mail và phỏng vấn cá nhân Ảnh hưởng mẫu Một ưu điểm khác khi sử dụng mail là nhà nghiên cứu có thể liên hệ với người tham dự mặc dù không gặp được. Một vài người, như quản lý các tổ chức quan trọng, bác sĩ rất khó thực hiện nghiên cứu cá nhân hay qua điện thoại, người gác cổng (thư ký, quản lý văn phòng, trợ lý) hạn chế tiếp cận. Nhưng các nhà nghiên cứu thường có thể tiếp cận với những người tham dự đặc biệt này qua email hay máy tính. Khi nhà nghiên cứu không có đối tượng cụ thể để liên hệ - xảy ra trong nghiên cứu các tập đoàn – khảo sát phân phối qua máy tính hay mail có thể gửi đến người tham dự thích hợp. Quan sát cẩn thận Trong khi nghiên cứu giới hạn vẫn còn gây áp lực cho người tham dự về sự thay đổi hoàn toàn khá nhanh, thì trong khảo sát mail người tham dự có thể có nhiều thời gian hơn để tập hợp sự kiện, trao đổi cùng người khác, hay suy nghĩ trả lời dài hơn phỏng vấn qua điện thoại hay cá nhân. Nghiên cứu phân phối qua máy tính, đặc biệt là tiếp cận qua kết nối email vào internet, thông thường bị hạn chế thời gian và hoàn tất khi bắt đầu. Khi bắt đầu, nghiên cứu phân phối qua máy tính không thể dễ dàng phá vỡ khi người tham dự tìm kiếm thông tin cần biết ngay lập tức. Nặc danh Khảo sát qua mail thông thường quan sát vấn đề không riêng tư nhiều hơn, cung cấp thông tin nặc danh nhiều hơn các cách truyền thông khác, bao gồm các phương pháp phân phối bảng câu hỏi tự quản lý khác. Tin tức theo chủ đề Một khuyết điểm quan trọng của khảo sát tự quản lý liên quan đến chủng loại và số lượng thông tin cần có. Thông thường nhà nghiên cứu không trong đợi thu được số lượng lớn thông tin và không thể điều tra sâu vào các chủ đề. Người tham dự thông thường từ chối hợp tác với bảng câu hỏi giới hạn hay bảng câu hỏi phân phối qua máy tính, mail dài hay phức tạp trừ khi họ nhận thấy lợi ích cá nhân. Các bảng câu hỏi trả lời qua mail với nhiều câu hỏi bỏ sót các câu trả lời mô tả vấn đề, nhưng cũng có nhiều trường hợp ngoại lệ. Kinh nghiệm cho thấy người tham dự có thể trả lời bảng câu hỏi trong vòng không quá 10 phút – tương tự như nghiên cứu qua điện thoại. Mặt khác, một cuộc nghiên cứu dân số với 158 người trả lời cho thấy hơn 70% hưởng ứng bảng câu hỏi qua điện thoại. Sai số không phản hồi

Khuyết điểm quan trọng khác của nghiên cứu tự quản lý là sai số do không nhận được phản hồi. Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng người tham dự có kiến thức tốt hơn thì thích các cuộc khảo sát theo chủ đề qua mail nhiều hơn. Một tỷ lệ cao những người trả lời khảo sát đã cho thường trả lời cho người khác, trong khi đó một phần lớn những người không phản hồi thường không tham dự. Khảo sát qua mail có thể trả lại 30% phản hồi không thỏa mãn, nhưng có trường hợp tỷ lệ phản hồi vượt quá 70%. Trong cả 2 trường hợp này, có nhiều người không phản hồi, và chúng ta thường không biết làm thế nào mà người trả lời và người không trả lời không giống nhau. Giảm sai số không phản hồi Tài liệu nghiên cứu đưa ra các cách cải tiến phản hồi khảo sát qua mail và nhiều kiến thức có thể áp dụng vào các phương pháp khảo sát tự quản lý khác. Có vẻ mọi biến khả thi đều được nghiên cứu. Trên 200 bài báo tham luận được công bố dựa trên nỗ lực cải thiện tỷ lệ phản hồi mail. Hai hoạt động xem xét trên quyết định một vài biến phù hợp với tỷ lệ phản hồi chắc chắn. Một vài ý kiến thực tế nảy sinh từ kết luận này. Tiếp diễn. Tiếp diễn hay nhắc lại, rất hữu ích trong việc gia tăng tỷ lệ phản hồi. Từ đó mỗi lần tiếp diển kế tiếp đem lại nhiều phản hồi hơn. Nhà nghiên cứu rất kiên trì (và tài chính mạnh) có khả năng đạt được tổng tỷ lệ phản hồi cao vô cùng. Tuy nhiên, giá trị của thông tin bổ sung vì vậy đạt được sẽ mang trọng số tương phàn với chi phí thực hiện tiếp xúc liên tục. Khảo sát ban đầu. Điều này chứng minh ưu điểm của khảo sát, đặc biệt bằng điện thoại, rất hiệu quả trong việc gia tăng tỷ lệ phản hồi, đáp ứng việc gia tăng tỷ lệ phản hồi. Tuy nhiên, sự tiếp diễn là hình thức đầu tư tốt hơn khảo sát ban đầu. Các kỹ thuật hiện tại 1. Chiều dài bảng câu hỏi. Mặc dù cảm giác thông thường cho rằng bảng câu hỏi ngắn sẽ thu được tỷ lệ phản hồi cao hơn bảng câu hỏi dài, Bằng chứng nghiên cứu không ủng hộ quan điểm này. 2. Tài trợ khảo sát. Có ít bằng chứng thực nghiệm chứng minh sự ảnh hưởng của trách nhiệm khảo sát đối với tỷ lệ phản hồi. Tuy nhiên, có một vài bằng chứng tồn tại thừa nhận trách nhiệm chính thức hay “cụ thể” làm tăng tỷ lệ phản hồi. 3. Bao thư trả lời. Bao gồm tem, khuyến khích phản hồi bằng bao thư trả lời do điều này đơn giản hóa việc trả lời bảng câu hỏi. 4. Bưu phí. Nhiều cuộc khảo sát dựa trên bưu phí đã được công bố trong tài liệu, nhưng chỉ một vài khảo sát được thực hiện với cùng biến số. Bằng chứng cho thấy phân phối được tiến hành rất hiệu quả trong việc gia tăng tỷ lệ phản hồi. Phát hiện không chỉ cho thấy ưu điểm quan trọng cho loại thứ nhất trong 3 loại, đóng dấu lên bưu phí thông thường, cho mail thư trên mail đo, hay cho loại tem nhỏ trên loại tem đơn lớn hơn 5. Cá nhân hóa. Cá nhân hóa thư tín không đem lại ưu điểm rõ ràng trong lĩnh vực cải thiện tỷ lệ phản hồi. Không địa chỉ cá nhân bên trong cũng như không tem thư cá nhân nào gia tăng đánh kể đến tỷ lệ phản hồi, loại tem thư cá nhân chứng tỏ hiệu quả ở một mức độ nào đó trong hầu hết nhưng không phải trong tất cả các trường hợp trích dẫn. Một cuộc nghiên cứu khảo sát việc sử dụng chữ ký đối nghịch lại với một cuộc nghiên cứu khác không chỉ ra ưu điểm của chữ ký. 6. Thư giới thiệu. Ảnh hưởng của thư tín đối với tỷ lệ phản hồi hầu hết thu được từ sự chú ý thực nghiệm, mặc dù thư tín là một phần không thể thiếu trong khảo sát qua thư tín. Đó là phương tiện hợp lý nhất thuyết phục các cá nhân phản hồi, cho đến bây giờ một vài cuộc nghiên cứu cung cấp báo cáo không sâu khi đưa vào trình bày rõ ràng. 7. Nặc danh. Bằng chứng được sư dụng thể hiện cam kết giấu tên với người tham dự, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, không tác động đáng kể đến tỷ lệ phản hồi.

8. Kích thước, màu sắc. Một vài nghiên cứu khảo sát ảnh hưởng của kích thước bảng câu hỏi, phương pháp lặp lại và màu sắc cho thấy không có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ phản hồi. 9. Khuyến khích bằng tiền. Hình thức khuyến khích dùng tiền gửi chung với bảng câu hỏi rất ảnh hưởng đến việc gia tăng tỷ lệ phản hồi. Bổ sung số lượng phản hồi lớn hơn, nhưng chi phí có thể vượt quá giá trị của thông tin bổ sung. 10. Ngày tới hạn. Một vài nghiên cứu khảo sát về ảnh hưởng của ngày tới hạn cho thấy nó không làm tăng tỷ lệ phản hồi, tuy nhiên, nó lại phục vụ cho việc tăng tỷ lệ trả lại bảng câu hỏi. Các nhà nghiên cứu không chắc chắn về kết quả và kiến nghị vì “thao tác của một hay nhiều kỹ thuật độc lập vào các kỹ thuật khác có khả năng ít thực hiện khuyến khích phản hồi”. Tuy nhiên, khảo sát phân phối qua máy tính, tập hợp thực hiện hơn thu hút các kiến nghị. Khi khảo sát phân phối qua máy tính tiến hành thủ công, chi phí phân phối lại qua máy tính – bằng cách giảm sai số không phản hồi – là rất thấp. Tiến hành chuẩn bị qua email cũng được hoàn thành đúng lúc và ít tốn kém hơn qua điện thoại hay mail. Thông thường kỹ thuật phản hồi của khảo sát phân phối qua máy tính là click chuột hay bấm phím. Thư khảo sát cá nhân – kết hợp email phản hồi vào khảo sát – được thực hiện dễ dàng. Máy tính cũng sử dụng màu sắc trong khảo sát, thậm chí ảnh màu, được lựa chọn khi khảo sát bằng giấy thường được xem xét vì chi phí. Và video clip – một hình thức không bao giờ xuất hiện trong khảo sát qua mail – có thể thực hiện trong khảo sát phân phối qua máy tính. Mặc dù được phân phối chung với tiền hay hình thức khuyến khích nào khác thì sẽ được đơn giản hóa thông qua sử dụng tiền tệ. Tuy nhiên, dịch vụ thuê bên ngoài là nhân tố kích thích tham dự khi thực hiện nghiên cứu không chỉ khắc phục việc không thể hoàn thành khảo sát internet do sự hỗn loạn về mặt kỹ thuật. Các rắc rối này thường đòi hỏi việc tham dự kéo dài theo các nhà nghiên cứu và người tham dự sử dụng nhiều cấp bậc máy tính, hệ thống vận hành, phần mềm khác nhau Sự cố gắng tập trung hướng đến câu hỏi quan trọng hơn nhằm tốt đa tổng xác suất phản hồi. Phương pháp thiết kế tổng thể (TDM), bao gồm hai phần, nhằm đạt yêu cầu. Đầu tiên, nhà nghiên cứu phải nhận biết được các mặt của quá trình khảo sát ảnh hưởng đến tỷ lệ phản hồi, có thể định tính hay định lượng. Mỗi mặt phải được định hướng nhằm đạt được phản hồi tốt nhất. Thứ hai, nhà nghiên cứu phải thiết lập ảnh hưởng khảo sát đến mức thiết kế đạt mục đích thực hiện cụ thể. Kết quả thu được từ 48 khảo sát sử dụng TDM cho thấy tỷ lệ phản hồi là 50-94%, với 1 tỷ lệ phản hồi trung bình là 74%. Quá tình TDM nhằm tối thiểu gánh nặng cho người tham dự bằng cách thiết kế khảo sát sao cho: • Dễ đọc • Cung cấp hướng dẫn trả lời rõ ràng • Bao gồm thông tin cá nhân • Cung cấp thông tin về cuộc khảo sát qua thư tín (hay qua khảo sát trước) • Được nhà nghiên cứu theo dõi liên hệ nhằm khuyến khích phản hồi Tối đa hóa khảo sát qua mail Để tối đa hóa tổng xác suất phản hồi, phải chú ý đến mỗi điểm trong quá trình khảo sát tại nơi mà phản hồi có khả năng thất bại. Ví dụ: • Địa chỉ sai và bưu tín sai có thể dẫn đến kết quả không phân phối được hay không phản hồi được • Bao bì hay fax có thể trông rời rạc và có thể bị vứt bỏ khi chưa được mở • Không có hướng dẫn thích hợp thì có thể dẫn đến không phản hồi • Một người nào khác có thể mở phong bì, nhận fax hay quên không chuyển chúng đến người nhận thích hợp • Người tham dự có thể không tìm thấy sự giải thích thuyết phục để hoàn thành khảo sát và do đó loại bỏ nó • Người tham dự có thể nhất thời dẹp bảng câu hỏi sang một bên và quên hoàn thành nó

• Địa chỉ trả lời có thể bị mất do đó bảng câu hỏi không thể gửi lại Cố gắng khắc phục các vấn đề trên sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, nhưng một vài thực nghiệm tổng quát có thể được thực hiện bằng khảo sát qua mail, bằng cách mở rộng bảng câu hỏi tự quản lý sử dụng nhiều phương pháp phân phối khác nhau. Một bảng câu hỏi có thể được gửi đi bằng một bức thư tín và kỹ thuật trả lời. Hình thức khuyến khích như sử dụng đồng dollar, đồng tiền, chi phiếu thường được đi kèm với thư tín nghiên cứu thương mại. Thông thường cần có sự tiếp diễn để đạt được phản hồi tối đa. Nói chung, tồn tại các quan điểm khác nhau về số lượng và thời gian của quá trình tiếp diễn, thời gian của quá trình tiếp diễn thích ứng với các phương pháp phân phối khác nhau. TDM sử dụng mô tả tiếp diễn như sau: 1. Một tuần sau - Một bức thư tín được in lại gửi cho tất cả người nhận yêu cầu họ trả lời, nhắc họ hoàn tất và mail bảng câu hỏi 2. Ba tuần sau mail đầu tiên - Một bảng câu hỏi mới được gửi, lặp lại yêu cầu giống như thư đầu tiên cùng với một bức thư mà những người không phản hồi cho rằng không nhận được bảng câu hỏi 3. Bảy tuần sau mail đầu tiên - Một lá thư thứ 3 và bảng câu hỏi được gửi bằng thư bảo đảm đến những người không phản hồi còn lại Yêu cầu hợp tác là cần thiết, cần sự thông cảm, thực tế hơn nữa. Vấn đề này thường xảy ra khi bảng câu hỏi ngắn, dễ hoàn tất, không yêu cầu người tham dự cố gắng nhiều. Có thể hay không thể đề cập nặc danh. Một bức thư ngắn gọn nhấn mạnh phương pháp “bạn sẽ làm tôi trở nên nổi tiếng?”. Thông thường một vật lưu niệm được gửi tượng trưng cho dấu hiện nhận biết nhà nghiên cứu. Đôi khi tác động không đủ mạnh. Sau đó, yêu cầu phải nhấn mạnh vấn đề quan trọng như thế nào trong một nhóm người tham dự đồng nhất. Thư tín có thể cũng truyền đạt rằng sự giúp đỡ của người tham dự là cần thiết để giải quyết một vấn đề. Nhà nghiên cứu đóng vai trò người thích hợp thực hiện yêu cầu cần sự giúp đỡ. Ảnh hưởng chung là chuyển từ cá nhân sang người tham dự rằng họ quan trọng trong cuộc nghiên cứu. Mức độ thực hiện yêu cầu nhằm so sánh giữa hình thức bên ngoài và nội dung mà một người nào đó trông đợi vào thư thương mại hay thư cá nhân. Cuối cùng, một phương pháp tổng hợp có thể được sử dụng để cải thiện phản hồi. Một cuộc nghiên cứu so sánh bảng câu hỏi tự quản lý phân phối với khảo sát qua mail. Bên dưới hệ thống suy giảm, một cuộc khảo sát đề nghị huấn luyện cá nhân nhẹ nhàng phân phối bảng câu hỏi đến các hộ gia đình mục tiêu và trả lời trong vài ngày để hoàn tất tài liệu. Tỷ lệ phản hồi ở hệ thống suy giảm thông thường khoảng 70% - cao hơn nhiều so với khảo sát so sánh qua mail. Thêm vào đó, chi phí hoàn thành bảng câu hỏi thấp hơn khảo sát qua mail từ 18-40%. Ngoài tỷ lệ phản hồi cao hơn và chi phí cho mỗi phản hồi thấp hơn, phân phối ít hơn sẽ kiểm soát thiết kế mẫu tốt hơn, cho phép chứng minh hoàn toàn vị trí địa lý của người tham dự, và cho phép nhà nghiên cứu loại trừ những người rơi ra ngoài khung giới hạn mẫu (những người sai tuổi, thu nhập, hay các đặc điểm khác). Thông tin bổ sung có thể được thu thập từ việc quan sát người tham dự. Tuy nhiên, lợi thế về chi phí bị giới hạn khi người tham dự được nghiên cứu với sự vận chuyển ít. Phân phối ít hơn phổ biến nhiều trong nghiên cứu giới hạn khi thuê người hoàn tất bảng câu hỏi tự quản lý. Nhà nghiên cứu có thể khuyến khích người tham dự hoàn thành bảng câu hỏi, nhấn mạnh tầm quan trọng vào sự tham gia của anh hay chị và thoải mái hoàn tất, sau đó chỉ ra quy trình phản hồi. Các hoạt động này có khả năng tăng tỷ lệ phản hồi và giảm sai số không phản hồi. Phương thức khảo sát tự quản lý Khảo sát qua máy tính là bề ngoài hình thức công nghiệp, khi người tham dự hoàn tất khảo sát trong khi thực hiện tham dự vấn đề của 1 công ty. Các bảng kết quả liên tục cung cấp sự kích thích cho người tham dự hội chợ thông thường như khi cung cấp thông tin chi tiết về hội chợ để đánh giá hiệu quả triển lãm.Kỹ thuật tương tự này dễ dàng chuyển sang hoàn cảnh khác khi tập hợp đám đông lớn. Ngày nay các công ty sử dụng năng lực nội bộ để đánh giá chính sách và đạo đức người lao động. Có thể thoải mái tiếp cận hệ thống mail điện tử với tập hợp lớn và nhỏ bằng cách sử dụng bảng câu hỏi trên máy tính với nhóm người tham dự bên trong lẫn bên ngoài.

Nhiều kỹ thuật khảo sát qua mail truyền thống có thể dễ dàng thích ứng với bảng câu hỏi phân phối qua máy tính (ví dụ, người không tham dự tiếp theo sẽ dễ dàng thực hiện hơn và ít tốn kém hơn). Dễ dàng tìm thấy quy trình đăng ký và khảo sát với kích thước thực tế được thực hiện trên website toàn thế giới. Website trường đại học hỏi sinh viên về sở thích, và các ngành đại học đánh giá sự sử dụng tài liệu online của sinh viên hiện tại. Một cuộc tham quan ngắn trên internet phát hiện các tổ chức sử dụng website để đánh giá quy trình phục vụ khách hàng, xây dựng danh sách bán hàng, đánh giá kế hoạch quảng cáo và thay đổi sản phẩm, xác định nhà cung cấp và nhu cầu khách hàng, thể hiện đăng ký việc làm, đánh giá thái độ công nhân,… Đây là phần mềm dễ sử dụng, tiến bộ cho thiết kế khảo sát qua web. Bảng câu hỏi thực hiện trên web mạnh hơn hệ thống CATI, nhưng không tốn chi phí cho người quản lý mạng, phần mềm đặc biệt, hay phần cứng bổ sung. Với kết quả của internet hay website nội bộ, bạn chỉ cần một máy tính cá nhân và địa chỉ web. Hầu hết các sản phẩm có thiết kế đặc biệt cho phép khảo sát khách hàng sáng tạo và thay đổi. Hai chức năng chủ yếu là đưa ra kết quả duy nhất thông qua nghiên cứu công ty và phần mềm bỏ đi để nhà nghiên cứu sở hữu kiến thức và kỹ năng. Với dịch vụ thuê ngoài, bạn được hướng dẫn (thông thường online) thông qua công thức giải quyết, thiết kế bảng câu hỏi, nội dung câu hỏi, cách thức trả lời, và diễn đạt chuỗi câu hỏi. Các nhân viên đưa bảng câu hỏi với mã HTML, dẫn cuộc khảo sát vào server, cung cấp báo cáo và tổng hợp dữ liệu. Phần mềm bỏ đi là sự lựa chọn mạnh. Trong bài viết này, tạp chí PC đưa ra 6 sản phẩm có giao diện thiết kế tốt và chuẩn bị đặc tính dữ liệu tốt. Ưu điểm của các chương trình phần mềm này là: • Thiết kế bảng câu hỏi dưới dạng hình thức xử lý văn bản • Có khả năng nhập hình thức bảng câu hỏi dưới dạng file text • Có phương pháp hướng dẫn bạn thông qua câu hỏi và hình thức phản hồi • Câu hỏi và khả năng đọc tài liệu • Công bố tự động trên server Web • Quan sát thời gian thực của dữ liệu đầu vào • Có khả năng tập hợp dữ liệu vào môi trường dạng bảng • Chuyển sang kết quả nhanh chóng • Phân tích và kỹ thuật báo cáo linh hoạt Thoải mái sử dụng không chỉ ảnh hưởng đến tính chất phổ biến của công cụ web. Chi phí là một yếu tố quan trọng. Nó ít tốn kém nhiều hơn nghiên cứu khảo sát thông thường. Mặc dù số tiền phải trả dựa trên số lượng hoàn tất, kích thước mẫu 100 có thể tốn 1-6 lần phỏng vấn truyền thống bằng điện thoại. Lựa chọn kích thước dữ liệu qua mail hay email cũng trở nên cũng trở nên mang tính hiệu quả chi phí do một vài phương tiện có thể thực hiện qua bảng câu hỏi sử dụng email. LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP TỐI ƯU Lựa chọn phương pháp truyền đạt thông tin không phức tạp bằng lần đầu tiên xảy ra. Bằng cách so sánh mục tiêu nghiên cứu với ưu điểm và khuyết điểm của mỗi phương pháp, chúng ta có thể chọn được một phương pháp phù hợp với những gì chúng ta cần. Tổng kết ưu điểm, khuyết điểm của phỏng vấn cá nhân, phỏng vấn qua điện thoại, bảng câu hỏi tự quản lý hữu ích trong việc thực hiện so sánh. Khi các câu hỏi điều tra của bạn thu thập thông tin khó đạt được hay không thể tiếp cận người tham dự, cần xem xét sử dụng phỏng vấn qua điện thoại, nghiên cứu phân phối qua mail hay máy tính. Tuy nhiên, nếu dữ liệu có thể tập hợp nhanh chóng, nghiên cứu qua mail thường bị bác bỏ do thiếu kiểm soát sự trả lời. Như vậy, nếu mục tiêu của bạn yêu cầu tìm kiếm và đặt câu hỏi rộng thì bạc cần xem xét đến phỏng vấn cá nhân. Nếu không có sự lựa chọn nào trở nên thích hợp, có thể kết hợp các mặt tốt nhất của hai hay nhiều phương pháp vào 1 phương pháp tổng hợp. Mặc dù quyết định này phải chịu chi phí của các phương pháp kết hợp, tính chất biến đổi linh hoạt một phương pháp vào nhu cầu duy nhất của bạn thông thường chấp nhận đánh đổi.

Trong nghiên cứu MindWriter, Jason dự kiến làm bảng câu hỏi qua bưu thiếp (một hình thức nghiên cứu tự quản lý phân phối thông qua bưu chính) trong mỗi máy tính xác tay trả lại tại dịch vụ sửa chữa ComplateCare. Không phải tất cả các khách hàng sẽ trả lời bảng câu hỏi của họ, tạo thành xu hướng không phản hồi. Định dạng bưu thiếp không cho phép có nhiều chỗ để khách hàng trả lời. Khách hàng linh động sẽ chú ý gửi trả thiệp phản hồi bằng điện thoại (phân phối thực hiện với khách hàng sửa chữa máy tính xác tay) có thể cải thiện thiết kế nghiên cứu. Người tham dự có thể không ở trong trạng thái tốt nếu họ nhận một máy tính xách tay bị hư, sự không hài lòng có thể dẫn đến làm giảm tỷ lệ phản hồi và tăng liên hệ điện thoại. Cần thiết kết hợp cuộc nghiên cứu với quy trình tiêu chuẩn trong phân phối kiểm tra qua thư. Jason và Myra đưa ra đề nghị thủ tục liên tục – người không tham dự qua điện thoại thu được câu trả lời khi thiệp phản hồi không được gửi đi. Điều này làm giảm sai số không phản hồi. Khi hầu hết những người tham dự nghiên cứu trả lời các câu hỏi đo lường không có sự trợ giúp, phỏng vấn qua điện thoại có khả năng dịch chuyển phần không biết của người phỏng vấn thành phần ít nhất của dữ liệu. Trong nghiên cứu bệnh viện tư Albany, nhà nghiên cứu có thể thực hiện một số hoạt động cải thiện chất lượng dữ liệu. Phân phối bảng câu hỏi đến bác sĩ về mắt hay bệnh nhân (qua email) trước khi đến sẽ làm tăng mức độ nhận dạng chính xác thuốc, chẩn đoán, nhập viện ,… Bác sỹ bệnh nhận về mắt giữ quan trọng nhất trong vấn đề hoàn thiện sự hài lòng với quá trình cho trước nhưng không tham khảo được. Có bệnh nhân đem bảng câu hỏi hoàn chỉnh vào quy trình thanh toán, khi nhân viên thanh toán có thể xem xét tài liệu hoàn chỉnh chính xác và đầy đủ, nhằm đem lại cho nhà nghiên cứu cơ hội dễ hiểu mọi sự nhầm lẫn về câu hỏi, khái niệm, cấu trúc. Cuối cùng, việc kiểm tra trước tài liệu với một mẫu bệnh nhân có thể phát hiện các khó khăn trong quá trình và xác định vận hành. Khái niệm Edna có thể bị loại bỏ trước khi bắt đầu. Cuối cùng, tất cả các nhà nghiên cứu đều phải đối mặt với chi phí và ngày tới hạn trong thực tế. Trung bình thì phỏng vấn cá nhân là phương pháp liên lạc tốn kém nhất và mất nhiều thời gian nhất trừ khi sử dụng một nhóm lớn. Phỏng vấn qua điện thoại có mức độ chi phí vừa phải và dựa trên sự lựa chọn nhanh chóng, đặc biệt là khi sử dụng CATI. Bảng câu hỏi thực hiện qua mail ít tốn kém nhất, mặc dù thông thường đòi hỏi phải có 1 khoảng thời gian tập hợp dữ liệu dài hơn. Khi bạn đề nghị mẫu có sẵn qua internet, khảo sát qua internet có thể cải thiện thành phương thức liên lạc ít tốn kém nhất với nhiều dữ liệu có sẵn cùng lúc nhất. Sử dụng máy tính lựa chọn người tham dự, giảm thời gian tập hợp và xử lý sẽ tiếp tục cải thiện thêm chi phí thực hiện của các phương thức này trong tương lai. Qua thời gian sẽ phát hiện được phương pháp tối ưu. Tuy nhiên, nhu cầu của các nhà quản lý về thông tin thường giới hạn nguồn nội bộ. Như vậy một số yếu tố đặc biệt như sự thành thạo, đám đông, khả năng duy nhất, hay một sự thay đổi nhanh chóng nào đó sẽ khiến cho các nhà quản lý tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người nghiên cứu về các dịch vụ khảo sát liên quan. Thuê dịch vụ khảo sát Các nhà cung cấp thương mại cung cấp dịch vụ nghiên cứu thay đổi từ hoạt động dịch vụ trọn vẹn sang tư vấn đặc biệt. Khi sự tin cậy ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh thì nhà quản lý hay nhân viên đôi khi không chỉ thích đưa ra 1 mặt của dự án. Các thành viên của nhân viên trong tổ chức có thể sở hữu kiến thức duy nhất về một loại sản phẩm hay dịch vụ mà họ phải tự hoàn thành trong 1 phần của cuộc nghiên cứu. Bất chấp công việc mang tính mạo hiểm, thiết kế, lấy mẫu, thu thập dữ liệu, hay xử lý và phân tích có thể gặp phải riêng biệt hay tất cả. Hầu hết các tổ chức sử dụng yêu cầu cho kế hoạch (REP) để mô tả các yêu cầu và tìm kiếm các lợi thế cạnh tranh. Các công ty nghiên cứu cũng dựa trên các ưu điểm đặc biệt mà khách hàng không thể duy trì trong tổ chức. Phỏng vấn tập trung theo vị trí, tập trung vào điều kiện thuận lợi, hay các thuận lợi với sự hỗ trợ của máy tính có thể là điều mong cuốn của nhu cầu nghiên cứu nào đó. Một nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp với nhiều kinh nghiệm trong vấn đề quản lý tương tự lại là một ưu điểm khác. Khả năng xử lý dữ liệu và phân tích thống kê đặc biệt quan trọng trong một vài dự án. Các công ty khác thiết kế các phần mềm chuyên dụng cho phỏng vấn và trình bày dữ liệu. Danh sách các nhà cung cấp lại cung cấp một loại dịch vụ

nghiên cứu khác nhấn mạnh vào công việc nghiên cứu theo chiều dọc. Bằng cách sử dụng người tham dự như nhau cùng một lúc, các bảng biểu có thể đem lại xu hướng quan điểm hướng đến kết quả hay sản phẩm, sự chấp nhận sản phẩm hay hành vi tiêu dùng, và vô số điều cần quan tâm nghiên cứu khác. Các nhà cung cấp bảng dữ liệu có thể bảo mật thông tin trong kỹ thuật phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn qua điện thoại như các phương thức qua mail và tổng hợp khác. Sổ ghi nhớ thường mang ý nghĩa ghi chép sự việc về các vấn đề cần nghiên cứu từ bảng thành viên. Những điều này được mail trở lại cho các tổ chức nghiên cứu. Giá trị cuối cùng và máy scan giúp tập hợp dữ liệu điện tử cho nhóm tham gia dưới dạng bảng. Máy móc đặt tại nhà các thành viên có thể dùng để ước lượng mức độ hữu dụng trung bình.

Related Documents

Chuong 11
November 2019 3
Chuong 11
June 2020 3
Chuong 11
November 2019 0
Chuong 11
December 2019 0
Chuong 11
November 2019 0
Chuong 11
November 2019 2