MỪNG NĂM THÁNH PHAO-LÔ 28.06.2008-29.06.2009
HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ [TÀI LIỆU KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG]
GIÊRÔNIMÔ NGUYỄN VĂN NỘI 2009
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» ------------------------------------------------------
GIỚI THIỆU GIÁO TRÌNH «KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG» I. CƠ DUYÊN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH GIÁO TRÌNH «KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG» 1.1 Từ đầu năm 2008 tôi tập trung việc phục vụ Giáo Hội tại Việt Nam vào việc tổ chức và hướng dẫn các Khóa «Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo» (Scripture and Leadership Training) của Seattle U. tức Đại học của Dòng Tên ở thành phố Seattle thuộc tiểu bang Washington Hoa Kỳ. Chương trình này được gọi tắt là «Muối Đât» vì chữ Scripture and Leadership Training được viêt tắt là SALT nghĩa là Muối và mục đích của Chương Trình «Muối Đât» là đào tạo các Ki-tô hữu thành «Muối cho đời» như chính Chúa Giê-su đã dậy trong Phúc Âm Mt 5,13. 1.2 Trong 6 Khóa học của Chương Trình «Muối Đất» có một Khóa học về Thánh Phao-lô. Và từ hè thu 2007 đến nay, nhờ ơn Chúa, tôi đã mở được tất cả 9 Khóa Thánh Phao-lô: một Khóa ở Cộng đồng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Seattle (WA/USA) cho 18 học viên trong đó có 1 Phó Tế Vĩnh Viễn, 2 Nữ Tu Mến Thánh Giá và 15 giáo dân; một Khóa ở Tu Viện Thánh Phao-lô Kim Long cho 25 Nữ Tu và Dự Tu Dòng Thánh Phao-lô Huế; một Khóa ở Trung Tâm Mục Vụ Huế cho 27 học viên gồm 2 linh mục 1 Nam Tu Sĩ, 9 Nữ Tu và 15 Giáo Dân; một Khóa ở Giáo xứ Gia Hội (Huế) cho 15 anh chị em Giáo Dân; một Khóa ở Giáo xứ Kim Long (Huế) cho 18 anh chị em Giáo Dân; một Khóa ở Tu Viện Trinh Vuơng Bùi Môn (TpHCM) cho 31 Nữ Tu Dòng Trinh Vương; một Khóa ở Giáo xứ Tân Phuớc (TpHCM) cho hơn 20 anh chị em Giáo Dân của nhiều giáo xứ; một Khóa ở ở Giáo xứ Tân Hòa (Tp HCM) cho 16 anh chị em Giáo Dân của nhiều giáo xứ; một Khóa ở Giáo xứ Phong Cốc (Tây Ninh, Giáo phận Phú Cường) cho 20 bạn trẻ thuộc Hội Phan Sinh tại thế. Mới đây nhất (ngày 25.2.2009) một Khóa Phao-lô «Muối Đất» vừa được mở tại Học Viện Mục Vụ Tổng Giáo phận TpHCM, với 33 học viên tham dự, trong đó có 11 Tu Sĩ Nam Nữ thuộc 4 Dòng Tu, Tu Hội và 22 Giáo Dân thuộc nhiều giáo xứ. 1.3 Từ hồi tháng 8-9.2008 khi tôi mới mở Khóa Thánh Phao-lô tại Giáo xứ Tân Phước, học theo Chương Trình «Muối Đất», thì linh mục chính xứ đã yêu cầu tôi mở một khóa học về Thánh Phao-lô cho các Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể, Giới Trẻ và Giáo Lý Viên của Giáo xứ. Vì lúc đó tôi không thu xếp được thời gian nên mãi đến đầu năm 2009 tôi mới bắt tay vào việc. Do Tài Liệu và Phương Pháp «Muối Đất» cần nhiều thời gian (từ 27 đến 36 giờ học cho một Khóa) nên tôi không thể sử dụng cho các học viên thuộc thành phần trẻ kể trên. Tôi quyết định soạn một Giáo Trình khác cho thích hợp với đối tượng học viên là đại chúng giáo dân. Có hai yêu cầu là Giáo Trình phải vừa ngắn gọn
và dễ hiểu, vừa bao gồm những điểm cốt yếu về Cuộc Đời và các Giáo Huấn quan trọng của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại. Vì thế mà một Giáo Trình mới về Thánh Phao-lô được hình thành mang tên: «KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG.» II. GIÁO TRÌNH «KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG» Giáo Trình «KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG» gồm tám (8) đề tài. Mỗi đề tài cần tối thiểu 90 phút đồng hồ. Nếu có được 120 phút cho mỗi đề tài thì càng tốt, vì sẽ có nhiều thời gian cho việc chia sẻ hơn. Tám (8) đề tài của giáo trình như sau: I II III
«CUỘC TRỞ LẠI » HAY «ĐỔI ĐỜI » CỦA THÁNH PHAO-LÔ. THỜI ĐẠI VÀ TIỂU SỬ CỦA THÁNH PHAO-LÔ. CÔNG CUỘC, CHIẾN THUẬT VÀ PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAO-LÔ. IV GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ HỘI THÁNH. V GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ THÁNH THỂ. VI GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ THÂN XÁC VÀ VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH. VII GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ “ƠN ĐUỢC NÊN CÔNG CHÍNH. VIII LINH ĐẠO KI-TÔ HỮU THEO GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAOLÔ. BĐT CHÚA KI-TÔ THEO GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ. Nếu nơi nào có thể có thêm được buổi học thứ 9, thì sẽ dành buổi buổi học ấy cho việc chia sẻ về lợi ích thiêng liêng của Khóa học. Trong trường hợp ấy, ngay từ những buổi học đầu, người hướng dẫn cho học viên đề tài thu hoạch cá nhân như sau: “Trong nội dung các đề tài của Khóa học, anh chị thấy mình tâm đắc nhất về điểm (điều) nào? Hãy trình bày vắn gọn điểm (điều) tâm đắc nhất ấy và cho biết điểm (điều) ấy đã giúp anh chị thay đổi như thế nào trong đời sống đức tin của mình?” III. PHƯƠNG PHÁP PHỤC VỤ KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG Trong quá trình hướng dẫn các Khóa Thánh Phao-lô theo Tài Liệu và Phương Pháp “Muối Đất” tại Sài-gòn, Huế và Tây Ninh, tôi nghiệm ra rằng: nhiều giáo dân không theo nổi Khóa học, mà lý do chính là vì anh chị em không có nhiều thời gian để chuẩn bị đề tài và không quen với cách học chủ động (tự đọc Kinh Thánh, suy nghĩ và trả lời các câu hỏi trong tài liệu Bài Làm Chuẩn Bị ở nhà). Nhưng tôi cũng thấy Phương Pháp Muối Đất có rất nhiều điểm hay mà tôi có thể sử dụng cho các Khóa học khác. Vì thế mà trong khóa Thánh Phao-lô đại chúng, tôi sẽ kết hợp hai Phương Pháp cổ điển và Muối Đất.
- Phương Pháp cổ điển là Phương Pháp vẫn được các giảng viên dùng xưa nay, chủ yếu là giảng viên giảng bài, các học viên lắng nghe, ghi nốt (notes), đọc cours hay tài liệu và đặt câu hỏi, nếu chưa hiểu bài hoặc có thắc mắc liên quan tới bài để giảng viên giải đáp hoặc trình bày lại. - Còn theo Phương Pháp Muối Đất thì học viên phải đóng vai chủ động hơn nhiều trong việc học: học viên phải đọc đi đọc lại nhiều lần các đoạn Kinh Thánh được chỉ định cho mỗi đề tài; phải suy nghĩ để tìm hiểu các đoạn văn Kinh Thánh ấy; phải viết câu trả lời cho các câu hỏi được đặt trưóc; phải chia sẻ cảm nghiệm khi nghe đọc các đoạn/câu Lời Chúa và chia sẻ những việc mình đã thực hiện được sau khi học mỗi đề tài. IV. KHUNG TRÌNH BÀY MỖI ĐỀ TÀI Mỗi đề tài sẽ được trình bày và hưóng dẫn theo thứ tự các đề mục sau đây: 1. Cầu Nguyện Mở Đầu. 2. Chia Sẻ về Cảm Nghiệm, Khám Phá, Quyết Tâm, Thay Đổi nhờ Đề Tài đã học. 3. Đặt Vấn Đề. 4. Học Hỏi và Chia Sẻ. 5. Ứng Dụng. 6. Chuẩn Bị Bài sau. 7. Cầu Nguyện Kết Thúc. V. CÁC “KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG” ĐÃ VÀ ĐANG ĐUỢC TRIỂN KHAI Ngoài việc triển khai Khóa Thánh Phao-lô theo Giáo Trình Đại Chúng trên cho các Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể, Giới Trẻ và Giáo Lý Viên của giáo xứ Tân Phước (Hạt Phú Thọ, Giáo phận TpHCM), tôi cũng đã đem Giáo Trình này để mở các Khóa cho Giáo xứ Tân Châu (Hạt Tân Sơn Nhì, Giáo phận TpHCM), Giáo xứ Phong Cốc và Thánh Tuân (Hạt Tây Ninh, Giáo phận Phú Cường), Giáo xứ Kim Long (Tp Huế), Hà Úc và An Bằng (Vùng duyên hải, Hạt Hải Vân, Giáo phận Huế). Ước mong của tôi là nhiều giáo dân có cơ hội tham dự “Khóa Thánh Phao-lô đại chúng” này, hoặc ít ra là có dịp đọc và tự học nhờ/bằng tài liệu vắn gọn, dễ hiểu mà không kém phần phong phú này, để sống tinh thần Thánh Phao-lô, không chỉ trong Năm Thánh Phao-lô mà trong suốt cuộc đời của nguời tín hữu. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho nguyện ước của con, nhờ công nghiệp của Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chua và của Thánh Phao-lô, Tông Đồ Dân Ngoại! Tp Hồ Chí Minh ngày 19 tháng 03 năm 2009 Lễ Thánh Cả Giu-se
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 65/24 đường Tân Kỳ Tân Quý, Phường Tân Sơn Nhì, Quận Tân Phú, TpHCM Đt: 38107361 và 0986480337
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» ------------------------------
ĐỀ TÀI I «CUỘC TRỞ LẠI» HAY «ĐỔI ĐỜI» CỦA THÁNH PHAO-LÔ I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU - Gợi ý của người hướng dẫn: Hướng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khi thiết lập Năm Thánh Phao-lô từ 28.6.2008 đến 29.6.2009 để mọi Ki-tô hữu HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ, Vị Thánh và Tông Đồ Dân Ngoại nổi tiếng về nhiều mặt, hôm nay chúng ta bắt đầu Khóa học về Thánh Phao-lô. Anh chị em chúng ta hãy tha thiết nguyện xin Thánh Thần Thiên Chúa xuống trên mỗi anh chị em chúng ta để Người hiện diện và mở lòng mở trí chúng ta không chỉ trong buổi học hôm nay mà trong cả cuộc đời của chúng ta. - Cùng hát : XIN NGÔI BA THIÊN CHÚA ĐK : Xin Ngôi Ba Thiên Chúa ngự xuống trên chúng con. Ban hồng ân chan chứa thắm nhuần hồn xác chúng con. Biến chúng con thành những dũng sĩ theo Chúa Ki-tô, thành nhân chứng Nước Trời cho muôn người trong khắp nơi. PK 1: Nguyện Chúa Thánh Thần xin ngự đến. Lòng vạn lòng đợi trông Ngài soi sáng. Và luyện lọc hầu mong được xứng đáng với danh hiệu Đền Thánh Chúa cao quang. II. TỰ GIỚI THIỆU LÀM QUEN - Xin bạn hãy tự giới thiệu về mình với các bạn đồng khóa: tên thánh, tên gọi, nơi sinh sống làm việc, nghề nghiệp, chức vụ v.v… - Xin bạn cho biết «cơ duyên» nào đưa bạn tới với khóa học này? - Và cho biết bạn mong đợi gì ở khóa học này? III. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tại sao có Khóa học về Thánh Phao-lô này? 2. Nói/Học về Thánh Phao-lô thì câu truyện đầu tiên người ta phải nhắc tới hay kể lại là câu truyện nào? 3. Chúng ta có thể đọc câu truyện ấy ở đâu? (câu truyện ấy được kể lại hay tường thuật trong Sách Thánh nào?) 4. Đọc đoạn sách Cv 9,1-19 chúng ta có thể nhìn, nghe, ngửi, cảm thấy gì và được đánh động ra sao? 5. Tại sao Phao-lô tìm bắt (bách hại) các Ki-tô hữu ? 6. Phải hiểu thế nào về cuộc «trở lại» hay «đổi đời» của Phao-lô? 7. Cuộc «trở lại» hay «đổi đời» của Thánh Phao-lô quan trọng như thế nào với chính Phao-lô, với Hội Thánh Công giáo và với mỗi người chúng ta? 8. Cuộc «trở lại» hay «đổi đời» của Thánh Phao-lô cho ta những bài học gì?
9. Cuộc «trở lại» hay «đổi đời » của Thánh Phao-lô có liên hệ gì với những cuộc «trở lại» hay «đổi đời » của mỗi chúng ta không? IV. HỌC HỎI VÀ CHIA SẺ 1. Lý do tại sao có Khóa học về Thánh Phao-lô này. - Có 2 lý do để có Khóa học về Thánh Phao-lô này: * Lý do thứ nhất: Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã thiết lập Năm Thánh Phaolô từ 28.6. 2008 đến 29.6.2009 để mừng kỷ niệm 2000 năm ngày sinh của Thánh Phao-lô. - Lý do thứ hai: Thánh Phao-lô là Tông Đồ Dân Ngoại, người đã góp công lớn : + trong việc khai triển và đào sâu nội dung sứ điệp Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Giê-su Ki-tô đã đem đến cho nhân loại, + trong việc truyền giáo tức rao giảng Tin Mừng và giúp người ta nhìn nhận Chúa Giê-su Ki-tô là Cứu Chúa, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. + trong việc thiết lập, củng cố, hướng dẫn các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi bên ngoài xứ Pa-lét-tin. Do đó «học và sống tinh thần Thánh Phao-lô» là điều Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI mong muốn ở mọi tín hữu trong Năm Thánh Phao-lô này. 2. Nói / Học về Thánh Phao-lô thì câu truyện đầu tiên người ta phải nhắc tới hay kể lại là câu truyện nào? - Nói / Học về Thánh Phao-lô thì câu truyện đầu tiên người ta phải nhắc tới hay kể lại là “câu truyện Thánh Phao-lô trở lại” hay đúng hơn là “câu truyện Thánh Phao-lô gặp Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh trên đường Đa-mát”. Biến cố này đã thay đổi cuộc đời Thánh Phao-lô một cách triệt để, từ một kẻ bắt / giết đạo thành một người rao giảng và xây dựng Ki-tô giáo khắp vùng quanh Địa Trung Hải trong thế kỷ thứ nhất của Công nguyên. 3. Chúng ta có thể đọc câu truyện ấy ở đâu? (câu truyện ấy được kể lại hay tường thuật trong Sách Thánh nào?) - Chúng ta có thể đọc câu truyện Thánh Phao-lô trở lại hay đúng hơn là câu truyện Thánh Phao-lô gặp Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh trên đường Đa-mát trong sách Công Vụ Tông Đồ 9,1-19 và 22,6-16. Trong thư gửi tín hữu Ga-lát, Thánh Phao-lô cũng nhắc đến sự kiện này (Gl 1,11-24). 4. Đọc đoạn Cv 9,1-19 chúng ta có thể nhìn, nghe, ngửi, cảm thấy gì và được đánh động như thế nào? (1) Lần 1: Các học viên đọc chung đoạn Cv 9,1-19 và mỗi người tập trung sự chú ý của mình vào những tình tiết liên quan tới thị giác, thính giác, khứu giác để trả lời câu hỏi: «Đọc Cv 9,1-19 bạn nhìn thấy gì? nghe thấy gì? và ngửi thấy gì?» - Tôi nhìn thấy: một đoàn người hăm hở tiến bước – một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ ông Sao-lô – Sao-lô ngã sõng xoài xuống đất – một người trong đoàn nâng ông dậy và cầm tay dắt ông đi vào thành Đa-mát vì mắt Sao-lô mở mà không nhìn thấy.
- Tôi nghe thấy: tiếng ngựa hý và tiếng chân ngựa dậm xuống mặt đường - tiếng nói từ trời và câu hỏi của Sao-lô (cũng có thể chỉ nghe thấy câu hỏi của Sao-lô) - Tôi ngửi thấy: mùi ngựa, mùi nắng và mùi bụi đường. (2) Lần 2: Các học viên đọc chung đoạn Cv 9,1-19 và mỗi người tập trung sự chú ý của mình vào tâm tư tình cảm mà mình cảm nhận được để trả lời câu hỏi: «Đọc Cv 9,1-19 bạn cảm thấy gì hay cảm thấy thế nào?» - Tôi cảm xúc động vì như vừa được chứng kiến một quang cảnh lạ thường của một cuộc “thần hiện” vẫn thường được thấy trong Thánh Kinh! (3) Lần 3: Người hướng dẫn đọc lại đoạn văn Cv 9,1-19, các học viên nhắm mắt và lắng nghe và tập trung sự chú ý của mình vào (những) lời/câu/hình ảnh khiến mình chú ý để trả lời câu hỏi: đọc Cv 9,1-19 bạn được (những) lời/câu/hình ảnh nào lôi kéo đánh động? bạn nghe thấy âm vang gì trong bạn? tại sao? - Tôi được lôi kéo, đánh động bởi tiếng nói (từ trời): «Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?» và «Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ!» Thế có nghĩa là khi Sao-lô tìm bắt các Ki-tô hữu là ông tìm bắt chính Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng mà các Kitô hữu tin theo. Cũng có nghĩa là hễ ai đụng tới các Ki-tô hữu là đụng tới chính Chúa Ki-tô. - Tôi cũng được lôi cuốn và đánh động bởi quá trình thấy -không thầy - (lại) thấy của Thánh Phao-lô. Có một sự khác biệt vô cùng lớn lao và sâu sắc giữa cái thấy của Phao-lô lúc trước khi gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh và cái thấy sau khi được Chúa mở mắt qua bàn tay của Kha-na-ni-a ! Có thể nói lúc trước Phao-lô thấy rất giới hạn (Đạo cũ, Lề Luật, sự tuân giữ nghiêm ngặt các điều khoản) và lúc sau Phao-lô thấy rất nhiều và rất sâu rộng (Tình Yêu và Quyền Năng của Thiên Chúa, Kế hoạch Cứu độ của Người, sự Vâng Phục và Hạ Mình của Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa, Mầu Nhiệm Phục Sinh và Cứu Độ, v.v....) Để thấy được như thế Phao-lô đã phải trải qua 3 ngày không thấy, không ăn cũng chẳng uống như Chúa Giê-su đã trải qua 3 ngày được mai táng trong mồ để được Chúa Cha làm cho trỗi dậy. Liên hệ với bản thân, tôi nghĩ rằng tôi cũng phải trải qua một quá trình chết đi, từ bỏ, để được «thấy» tức được đổi mới, được phục sinh. - Tôi cũng được lôi cuốn và đánh động bởi lời Chúa Giê-su nói với Phao-lô: «Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và ngưòi ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì.» (câu 6) và vai trò của Kha-na-ni-a (câu 10). Tôi hiểu là Thiên Chúa đã dùng Kha-na-ni-a để chỉ cho Phao-lô biết ông phải làm gì. Thế có nghĩa là để tôi gặp được Chúa, biết Chúa muốn gì ở tôi, tôi cần có người hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ. Và có thêm nghĩa là Chúa cũng dùng tôi làm người hướng dẫn, giúp đỡ một số người tìm gặp Chúa. 5. Có nhiều lý do để cắt nghĩa tại sao Phao-lô tìm bắt hay bách hại các Ki-tô hữu: Theo linh mục Nguyễn Khắc Hy thuộc Hội Xuân Bích, giáo sư thần học ở Mỹ thì có nhiều lý do giải thích tại sao Phao-lô tìm bắt hay bách hại các Ki-tô hữu. Ngài giải thích như sau:
* Về phương diện tôn giáo, Phao-lô là một tín đồ Do Thái giáo nhiệt thành, theo gương cha ông, muốn bảo vệ đạo mình và chống lại tất cả những tổ chức gây nguy hại cho Do Thái giáo (Gl 1,13-14; Pl 3,6). * Về phương diện chính trị (mà chính trị không thể tách ra khỏi tôn giáo với nhiều người Do Thái thời đó), Phao-lô tỏ ra yêu dân tộc Do Thái qua việc bảo vệ Do Thái giáo chống lại ảnh hưởng của một giáo phái mới (là Ki-tô giáo) chấp nhận sự có mặt của người ngoại (Ro-ma, Hy Lạp…) sinh hoạt chung với người Do Thái. Phao-lô cũng như những người yêu nước khác sợ rằng nếu nhiều người Ro-ma theo giáo phái mới này, dần dà ảnh hưởng của Kitô sẽ mạnh hơn, vì về chính trị người Ro-ma là những kẻ nắm quyền đô hộ. Phao-lô, cũng như nhiều thanh niên nhiệt thành Do Thái đương thời, đề cao gương sống anh hùng của 3 vị: Pin-khát (cháu A-ha-ron), tiên tri E-li-a, và tư tế Mat-tít-gia. Ba vị này ảnh hưởng đời sống Phao-lô cũng như nhiều thanh niên đương thời. - Pin-khát, vì nhiệt thành với đạo của Gia-vê Thiên Chúa, giết chết Dim-ri vì Dim-ri tuyên truyền tà thần khác ngoài Gia-vê và quảng bá đời sống sa đọa cho dân Do Thái (Dân số 25,7-13). Việc ông giết Dim-ri được xem là đẹp lòng Chúa (Dân số 25,10-13), và được dân Do Thái khen tặng (Tv 106, 30-31). - Tiên tri Ê-li-a, vì lòng nhiệt thành với Gia-vê, đã thách thức hơn 450 ngôn sứ của thần Ba-al trong cuộc đấu sức trên núi Các-men để xem Gia-vê hay Ba-al đích thực là thần. Sau khi thắng cuộc thi, E-li-a đã ra lệnh giết chết các tiên tri này (1 Các Vua 18,17-40; 19, 10). - Theo chân của Ê-li-a và Pin-khát, Mát-tít-gia “nhiệt tình với luật Chúa” nên đã giết một người đồng hương Do Thái khi người này dám nghe theo vua An-ti-ochus IV để cúng ngoại tà thần (1 Mcb 2,23-28). Như những cha ông này, Phao-lô có lòng nhiệt thành với Chúa Gia-vê, với dân Itra-en, và với Luật Mô-sê. * Về phương diện thần học, lý do Phao-lô cưỡng bức Ki-tô giáo vì: (1º) Những người theo Đức Giê-su Ki-tô coi nhẹ Luật Mô-sê; (2º) Họ có thái độ coi thường Đền Thờ vì họ không còn thờ phượng Thiên Chúa trong đền thờ; (3º) Họ (Ki-tô hữu) dám nhận người ngoại vào trong cộng đoàn chung với những người Do Thái. Vì thế người Do Thái lúc này ngồi ăn cùng bàn với những người không chịu phép cắt bì; (4º) Và điều khó công nhận nhất là trong khi những nhà lãnh đạo tôn giáo (thượng tế, luật sĩ, biệt phái…) kết án Đức Giê-su là người phạm thánh, và bị giết chết treo như một ác nhân (mà theo Do Thái giáo, Thiên Chúa lên án chết cho kẻ phạm tội - xem Đệ Nhị Luật 21,23), thì những Ki-tô hữu tôn thờ và công bố Đức Giê-su được Thiên Chúa cho chỗi dậy từ cõi chết, là Đấng Mê-si-a của It-ra-en. Đây là điều phạm thánh không chấp nhận được.
Tóm lại, có thể có lý do này quan trọng hơn lý do kia, nhưng tính tổng hợp của tất cả những lý do trên đã khiến con người Phao-lô nhiệt thành trở nên người bắt bớ Ki-tô hữu. 6. Ý nghĩa của cuộc «trở lại» hay “đổi đời” của Thánh Phao-lô: “Cuộc trở lại” của Thánh Phao-lô không thể được hiểu theo nghĩa thông thường (mà nhiều giáo dân vẫn hiểu) là Phao-lô bỏ cuộc sống ăn chơi sa đọa, tội lỗi và hoán cải trở về với Chúa; mà theo nghĩa là Phao-lô từ một Pha-ri-sêu sốt sáng, nhiệt thành đến độ bắt đạo đã trở thành một tín hữu gương mẫu, một tông đồ nhiệt thành rao giảng chính Đấng và Đạo mà ông bách hại các tín đồ lúc trước. 7. Tầm quan trọng của cuộc «trở lại» hay “đổi đời” của Thánh Phao-lô: a) Trước hết là đối với chính bản thân Thánh Phao-lô: vì nếu không có câu truyện này thì Phao-lô cũng chỉ là một người vô danh hay cùng lắm sẽ chỉ được sử sách nhắc tới như một Pha-ri-sêu thông minh tài giỏi và như một tên bạo chúa bách hại người Ki-tô hữu thửa đầu của Giáo Hội Công Giáo Rô-ma. Nhưng nhờ cuộc gặp gỡ kỳ diệu của Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh trên đường Đa-mát, Phaolô đã được biến đổi hoàn toàn, thành một vị đại thánh, một tông đồ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, một thần học gia uyên thâm sắc sảo, một mục tử hết lòng vì đoàn chiên. b) Kế đến là đối với Hội Thánh Công giáo Rô-ma: Nếu không có Thánh Phao-lô thì chúng ta không thể hình dung ra Hội Thánh Công Giáo Rô-ma đã ra sao, vì rõ ràng là Thánh Phao-lô đã đóng góp rất nhiều cho Hội Thánh Công Giáo chẳng những ở thời kỳ đầu mà ở mọi thời kỳ của Ki-tô giáo đến độ người ta đặt vân đề: “Có phải Thánh Phao-lô là vị sáng lập thứ hai của Ki-tô giáo không?” c) Sau cùng là đối với mỗi người Ki-tô hữu: Mỗi Ki-tô hữu có thể tìm thấy nơi Thánh Phao-lô: 1°) Một vị thầy, một tấm gương sống theo Chúa Ki-tô và sống chết với sứ vụ rao giảng Tin Mừng: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô.” (1 Cr 11,1). 2°) Một kho tàng giáo lý đức tin để đào sâu nghiên cứu (13 Thư). 8. Cuộc “trở lại” hay “đổi đời” của Thánh Phao-lô cho chúng ta những bài học sau đây: a) Thiên Chúa đã có kế hoạch riêng và rất bất ngờ dành cho Thánh Phao-lô. Thiên Chúa cũng có kế hoạch riêng cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta khám phá ra và vâng theo kế hoạch của Thiên Chúa! b) Thiên Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương (không có việc gì là bất khả thi đối với Thiên Chúa) trong việc tuyển chọn và biến đổi Thánh Phao-lô từ «thù» thành «bạn». Sự kiện đó khiến mỗi người chúng ta vững tin vào Thiên Chúa, dù chúng ta có yếu hèn, tội lỗi, bất hiếu, bất trung đến thế nào chăng nữa.
c) Thiên Chúa dùng trăm phương nghìn kế để lôi kéo những người Chúa chọn và gọi đến với Chúa, quay về với Chúa, phụng sự Chúa. Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, chăc ai nấy cũng đã từng cảm nghiệm nhiều lần bàn tay can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa. 9. Mối liên hệ giữa cuộc «trở lại» hay “đổi đời” của Thánh Phao-lô và những cuộc «trở lại» hay “đổi đời” của chúng ta: Thánh Phao-lô đã được Chúa Ki-tô Phục Sinh biến đổi từ một người bắt đạo thành một người truyền đạo. Bạn đã có lần nào được Chúa biến đổi nhiều hoặc ít chưa? Bạn hãy chia sẻ một cuộc biến đổi ấn tượng và đáng nhớ nhất. à Chia sẻ của các học viên: ............................................................................................... à Chia sẻ của người hướng dẫn: Cho đến ngày hôm nay, tôi đã có nhiều «cuộc đổi đời» không làm sao quên được. Tôi xin chia sẻ về một trong những «cuộc đổi đời» ấy: Vào khoảng cuối năm 1975 tôi được giới thiệu vào làm trong nhà máy Thuốc Lá Vĩnh Hội, Quận 4 Sàigòn. Nhưng sau mấy năm, tôi bắt buộc phải xin nghỉ vì nạn «kỳ thị lý lịch» trong giới lãnh đạo nhà máy. Tôi thấy mình bị oan ức vì không được làm việc như người công dân bình thường mà lại còn bị nghi kỵ nữa (tôi phải làm việc nhiều lần với một nhân viên an ninh của chế độ, vì tôi là người vào làm trong nhà máy sau 30.04.75). Tôi cảm nhận rằng những người Công giáo như tôi không được đón nhận bởi những người cộng sản nắm quyền cai trị đất nước. Cũng vào thời gian ấy, tôi bị một số bạn bè, họ hàng, bề trên nghi là người thân cộng, là đảng viên nằm vùng. Tôi lâm vào cảnh bị hiểu lầm, bị nghi ngại và thậm chí bị xa lánh và loại trừ từ cả hai phía: xã hội và giáo hội. Tôi không biết đường nào mà đi, làm thế nào mà sống ! Có thể nói là tôi rơi vào khủng hoảng tinh thần và tâm linh. Vào lúc ấy tôi may mắn gặp được một cuốn sách rất hay có tựa đề là DIEU CRUCIFIÉ (Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá) của ông Moltmann là một nhà thần học Tin Lành người Đức nổi tiếng. Trong sách tác giả đã phân tích rất sâu sắc ý nghĩa của việc Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá để cứu chuộc nhân loại. Từ đó tác giả rút ra những hệ luận cho đời sống người Ki-tô hữu là môn đệ Chúa Giê-su là phải chịu chung một số phận (bị hiểu lầm, bị vu khống, bị kết án, bị đánh đòn, bị loại trừ và bị giết) như Chúa Kitô là Thầy và là Chúa của mình! Cuốn Sách «Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá» đã đem lại cho tôi ánh sáng và sức mạnh. Tôi hiểu rằng thân phận của tôi với tư cách là một Ki-tô hữu thì phải là như vậy. Tôi sung sướng hạnh phúc trong đau khổ, vì tôi được nên giống Chúa hơn, điều mà tôi khao khát trong những năm ở trong Chủng Viện và Dòng Tu (Tiểu Đệ Phúc Âm của Chân Phước Charles de Foucauld). Dần dần tôi lấy lại được sự bình an và lạc quan, tin tưởng. Có thể xem đây là «cuộc trở lại» của tôi, trở lại theo hướng chấp nhận thân phận của người môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô và con đường Thập Giá là con đường tôi
phải đi, vì chính Chúa Giê-su Ki-tô đã đi con đường ấy và mời gọi những ai muốn theo Người đi theo con đường ấy! «Cuộc trở lại » này chẳng những giúp tôi thoát khỏi cuộc khủng hoảng của những năm 75-80 mà còn giúp tôi «kiên vững» trong cuộc sống những năm sau này, thậm chí ngay cả ngày hôm nay. Cuộc sống của tôi gặp rất nhiều khó khăn, hiểu lầm, nghi kỵ, thành kiến, vu khống của những người xung quanh, nhất là của bạn bè, bề trên. V. ỨNG DỤNG [LINH ĐẠO VÀ SỐNG LINH ĐẠO] a) Linh đạo Ki-tô giáo: 1°) Nhìn vào kinh nghiệm của riêng mình, mỗi chúng ta nhận ra điều này là Thiên Chúa không ngừng mời gọi, lôi kéo chúng ta về với Người. Có khi Thiên Chúa dùng một người, một biến cố, một cuốn sách, một bài giảng, một cuộc tĩnh tâm hay linh thao, một khóa học hỏi... để giúp chúng ta từ bỏ cuộc sống tầm thường, ích kỷ, thậm chí tội lỗi để trở nên một con người khác: nhiệt thành, tích cực và thánh thiện. 2°) Trong hành động tha thứ cho chúng ta và lôi kéo chúng ta về với Người, Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do, hợp tác và đồng thuận của chúng ta. 3°) Nếu chúng ta đọc kỹ lịch sử của dân Ít-ra-en là Dân Riêng của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng khám phá ra một kinh nghiệm tương tự: Dân phạm tội – Thiên Chúa kêu gọi và trừng phạt – Dân sám hối – Thiên Chúa thứ tha – Dân sống trong mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và với nhau – Dân lại sa ngã phản bội - Thiên Chúa kêu gọi và trừng phạt – Dân sám hối – Thiên Chúa thứ tha – Dân sống trong mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và với nhau. - Vì thế các nhà tu đức hay tâm linh nói «Linh Đạo Ki-tô giáo được xây dựng trên Ơn Trở Lại». b) Sống Linh đạo Ki-tô giáo là: 1°) Phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa 2°) Cầu xin Thiên Chúa gìn giữ và biến đổi mình 3°) Tin tưởng ở quyền năng và tình thương của Người 4°) Mau đứng dậy làm lại từ đầu (khi yếu đuối, sa ngã). VI. CHUẨN BỊ BÀI SAU CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI II THỜI ĐẠI VÀ TIỂU SỬ CỦA THÁNH PHAO-LÔ. Câu hỏi gợi ý chia sẻ: Nhờ đề tài I về «cuộc trở lại» hay «đổi đời» của Thánh Phao-lô bạn có «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới? Xin ghi «nhật ký» để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các anh chị em khác. Câu hỏi gợi ý tìm hiểu: 1. Muốn tìm hiểu về một con nguời nói chung, một vị thánh nói riêng, nhất là
Thánh Phao-lô, chúng ta phải tìm hiểu những gì? 2. Thời đại của Thánh Phao-lô có những nét đặc điểm gì? 3. Nếu chúng ta muốn biết thêm về Thánh Phao-lô thì ngoài «cuộc trở lại» của Ngài, chúng ta phải quan tâm đến những gì khác nữa? 4. Thân thế, sự nghiệp của Thánh Phao-lô có những đặc điểm gì? 5. Chúng ta có thể học được gì từ việc tìm hiểu thời đại và tiểu sử của Thánh Phao-lô? VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC . - Gợi ý của người hướng dẫn: Chúng ta vừa học về “cuộc trở lại” của Thánh Phao-lô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại và Cột Trụ của Hội Thánh Công Giáo. Chúng ta biết “cuộc trở lại” ấy quan trọng như thế nào và đem lại cho chúng ta những bài học bổ ích cho đời sống thiêng liêng. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa tiếp tục hướng dẫn và trợ giúp chúng ta để chúng ta biết SỐNG TINH THẦN CỦA THÁNH PHAO-LÔ mà liên tục hoán cải và canh tân đời sống đức tin của chúng ta theo lời mời gọi của chính Thiên Chúa. Chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện và cùng hát. - Cùng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con. Chúng con tin Cha là Đấng quyền năng và yêu thương. Xin Cha thể hiện quyền năng và tình thương ấy cho chúng con cảm nghiệm được! Chúng con biết Cha có chương trình kế hoạch riêng cho mỗi chúng con. Xin Cha thực hiện chương trình và kế hoạch ấy cho chúng con và nơi chúng con, để chúng con thuộc trọn về Cha, được nghĩa với Cha, trong Chúa Giê-su Ki-tô, Con Cha, Chúa chúng con ! Amen! - Cùng hát : XIN CHỈ CHO CON ĐK.- Xin chỉ cho con (xin chỉ cho con) đường đi của Chúa (đường đi của Chúa). Xin dạy bảo con (xin dạy bảo con) nước bước của Ngài (nước bước của Ngài). Xin hướng dẫn con trong chân lý. Xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Đấng cứu độ con, là Đấng ngày đêm con cậy trông. 1. Tất cả đường nẻo Chúa là Tình Yêu và Chân Lý dành cho những ai giữ trọn minh ước. Điều răn Chúa ra nghiêm chỉnh thực thi. 2. Xin mở lượng từ bi từ ngàn xưa Ngài vẫn có, mà quên hết những lỗi lầm con mắc, hồi niên thiếu vươn lên trong dại thơ.
HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» ------------------------------------
ĐỀ TÀI II THỜI ĐẠI VÀ TIỂU SỬ CỦA THÁNH PHAO-LÔ I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU - Gợi ý của người hướng dẫn: Hôm nay chúng ta sẽ học hỏi và trao đổi về một số đặc điểm của thời đại và tiểu sử của Thánh Phao-lô. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần thể hiện sự hiện diện và tác động của Người trên từng anh chị em chúng ta để giúp mỗi người chúng ta nhận ra hoạt động của Thiên Chúa trong thời đại của Thánh Phao-lô cũng như trong thời đại của chúng ta ngày nay, trong cuộc đời của Thánh Phao-lô cũng như trong cuộc đời của chúng ta! - Cùng hát : LẠY CHÚA THÁNH THẦN ĐK: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến. Canh tân đổi mới đời sống chúng con, tăng sức linh hồn, bồi thêm lửa mến, soi sáng trí khôn, hiệp nhất muôn lòng. PK 1: Chúa hỡi! Khấn xin ngự đến đổ tuôn muôn ơn phù giúp chúng con. Xin thương soi dẫn nhân tâm nương theo Thần Khí bước trong bình an. PK 2: Hãy đến! Thánh Linh từ ái suối ơn mát trong là Đấng ủi an. Xin thương nâng đỡ ủi an con chiên lạc hướng khổ đau lầm than. II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI «CUỘC TRỞ LẠI» CỦA THÀNH PHAO-LÔ Bạn muốn chia sẻ «khám phá », «cảm nghiệm », «quyết tâm», hay «thay đổi» gì mới hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới đề tài I là «cuộc trở lại» hay «đổi đời» của Thánh Phao-lô mà bạn đã học lần trước. Xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu. III. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Muốn tìm hiểu về một con nguời nói chung, một vị thánh nói riêng, chúng ta phải tìm hiểu những gì? Muốn tìm hiểu về Thánh Phao-lô một vị thánh nổi tiếng, chúng ta phải tìm hiểu những gì? 2. Thời đại của Thánh Phao-lô có những đặc điểm gì? 3. Nếu chúng ta muốn biết thêm về Thánh Phao-lô thì ngoài ”cuộc trở lại” của Ngài, chúng ta phải quan tâm đến những gì khác nữa? 4. Thân thế, sự nghiệp của Thánh Phao-lô có những đặc điểm gì? 5. Chúng ta có thể học được gì từ việc tìm hiểu thời đại và tiểu sử của Thánh Phao-lô? IV. HỌC HỎI VÀ CHIA SẺ
1. Muốn tìm hiểu về một con người nói chung, một vị thánh nói riêng, chúng ta phải tìm hiểu về thời đại và tiểu sử của con nguời hay của vị thánh ấy. Muốn tìm hiểu về Thánh Phao-lô, một vị thánh nổi tiếng, chúng ta phải tìm hiểu về thời đại và tiểu sử của Ngài. 2. Thời đại của Thánh Phao-lô: Đức Thánh Cha Bênê-đictô XVI, trong Bài Huấn Đức trong buổi triều yết chung vào ngày Thứ Tư, ngày 2 tháng 7 năm 2008, cũng là bài Giáo lý thứ nhất về Thánh Phao-lô mang tựa đề «Thế Giới và Thời Đại của Thánh Phao-lô» đã phát biểu rằng: «Thánh Phaolô đã được diễn tả như một “người của ba nền văn hóa,” kể cả nguồn gốc Do Thái của ngài, ngôn ngữ Hy Lạp, và đặc quyền công dân Rôma của ngài, như tên gọi gốc La-tinh của ngài làm chứng.» Đức Thánh Cha Bênê-đictô XVI nói thêm cho rõ hơn về Thánh Phao-lô: «Như chúng ta biết, Thánh Phao-lô là một người Do Thái, và như thế là một phần tử của một thiểu số về văn hóa trong Đế Quốc Rô-ma. Đồng thời ngài cũng nói tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ của nền văn hóa Hy Lạp rộng hơn, và là một công dân Rô-ma. Việc rao giảng Đức Ki-tô Phục Sinh của Thánh Phao-lô, trong khi đặt nền tảng trên Do Thái giáo, được đánh dấu bằng viễn tượng phổ quát và được dễ dàng nhờ sự quen thuộc của ngài với ba nền văn hoá. Như thế ngài có thể rút ra từ sự phong phú tinh thần của nền triết học đương thời, đặc biệt là trường phái Khắc Kỷ, trong khi rao giảng Tin Mừng. Cuộc khủng hoảng của tôn giáo theo truyền thống Hy Lạp – Rôma ở thời đại của Thánh Phao-lô cũng thuận lợi cho một quan tâm lớn lao hơn về một cảm nghiệm cá nhân về Thiên Chúa. Như chúng ta thấy trong bài giảng của ngài trước Areopagus ở A-ten (x. Cv 17,22 tt), Thánh Phao-lô đã có thể dựa vào những dòng tư tưởng này trong bài trình bày Tin Mừng của ngài. Dựa vào khung cảnh văn hóa rộng rãi này, Thánh Phao-lô đã khai triển các giáo huấn của ngài, mà chúng ta sẽ khám phá trong các bài Giáo Lý của Năm Thánh Phao-lô này. Như vậy có thể nói là thời đại của Thánh Phao-lô có những đặc điểm sau đây: a) Vê mặt chính trị thì đây là «thời của cơ cấu chính trị - hành chánh của Đế Quốc Rô-ma, là cơ cấu đảm bảo sự bình an và yên ổn từ Anh Quốc cho đến miền Nam Ai Cập, thống nhất lãnh thổ với một chiều kích chưa từng thấy. Ở không gian này, một người có thể đủ tự do và an toàn để di chuyển, được hưởng giữa những tiện nghi khác là một hệ thống đường xá ngoại hạng, và tìm thấy ở bất cứ nơi nào mình đến những đặc tính văn hóa căn bản mà không phương hại đến những giá trị địa phương, được tiêu biểu, trong mọi trường hợp, một công trình thống nhất chung “super partes,” đến nỗi triết gia Phi-lô người Do Thái ở Alexandria, đồng thời với Thánh Phao-lô, đã ca tụng Hoàng Đế Augustô bởi vì ông “đã đem tất cả mọi dân man rợ lại với nhau trong sự hòa hợp … trở thành một người bảo vệ hòa bình” (Legatio to Caium, § § 146-147). b) Vê mặt văn hóa thì đây là thời đại của «nền văn hóa Hy Lạp, hay đúng hơn là văn hóa cổ Hy Lạp (Hellenistic), là nền văn hóa mà thời hậu Alexander Đại Đế đã trở thành di sản chung ít ra của vùng Đông Địa Trung Hải và Trung Đông, mặc dù chính nền văn hóa này đã hội nhập nhiều yếu tố của các nền văn hóa của
những dân tộc được truyền thống coi là man di »,.với kho tàng thần thoại vô cùng phong phú (đa thần và mỗi thần có đền/miếu thờ và cúng lễ khác nhau) và xu huớng tìm kiếm sự minh triết (hiểu biết, khôn ngoan) và đề cao tài hùng biện trong khoa ăn nói. Cũng trong bài Giáo lý thứ nhất về Thánh Phao-lô với chủ đề «Thế Giới và Thời Đại của Thánh Phao-lô» ngày 11.10.2008 vừa nhắc đến ở trên, Đức Thánh Cha Bênê-đictô XVI, đã lưu ý rằng: «Chúng ta phải đặc biệt nhắc đến triết thuyết Khắc Kỷ, là triết lý nổi bật trong thời Thánh Phao-lô và cũng ảnh hưởng đến Ki-tô giáo, dù chỉ một phần nào..... Chúng ta tìm thấy nơi các triết gia Khắc Kỷ, những giá trị cao quý về đề tài nhân loại và sự khôn ngoan, là những điều được Ki-tô giáo đón nhận một cách tự nhiên. Như một học giả về đề tài này đã viết cách tuyệt tác, “Thuyết Khắc Kỷ … công bố một ý tưởng mới, là ý tưởng áp đặt trên con người nhiệm vụ đối với đồng loại, đồng thời giải thoát họ khỏi tất cả mọi ràng buộc thể lý cùng dân tộc và làm cho họ thành một thực thể tinh thần thuần túy” (M. Pohlenz, La Stoa, I, Florence 2, 1978, pp. 565ff).» c) Còn vê mặt tôn giáo thì đây là thời khởi đầu của Ki-tô giáo: Như chúng ta biết Thánh Phao-lô «xuất thân từ một nền văn hóa rất đặc biệt và giới hạn, chắc chắn là thiểu số, đó là nền văn hóa và truyền thống của dân Ít-ra-en. Trong thế giới ngày xưa và nhất là ở trọng tâm của Đế Quốc Rô-ma, như các học giả cho chúng ta biết, thì có chừng 10% tổng số dân chúng là người Do Thái. Vào đầu thế kỷ thứ nhất tại thành Rô-ma này, tỷ lệ đó còn ít hơn, tối đa là 3% dân số thành phố. Như vẫn còn xảy ra ngày nay, niềm tin và cách sống của họ phân biệt họ cách rõ ràng với môi trường chung quanh, và việc ấy có thể đưa đến hai hậu quả: hoặc là bị chế diễu, có thể đi đến việc kỳ thị, hoặc được thán phục, là điều được diễn tả dưới những hình thức cảm thông khác nhau như trường hợp những dân ngoại “kính sợ Thiên Chúa” hoặc “tòng giáo” liên hệ với hội đường và chia sẻ đức tin vào Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi chính Thánh Phao-lô cũng là người chịu hai cách đánh giá trái ngược nhau mà tôi đã đề cập đến. Có một điều chắc chắn là tính cách đặc thù của nền văn hóa và tôn giáo của Do Thái đã tìm được chỗ đứng dễ dàng trong một thực thể có mặt khắp nơi như là Đế Quốc Rô-ma. Chỗ đứng khó khăn và đau đớn hơn là của một nhóm những người, Do Thái hay Dân Ngoại, là những người tin chắc chắn vào con người Chúa Giê-su thành Na-da-rét, đến độ họ trở nên khác biệt với cả đạo Do Thái lẫn hình thức lương giáo thịnh hành.» (ĐTC Bênêđictô XVI, bài Giáo lý thứ nhất về Thánh Phao-lô mang tựa đề «Thế Giới và Thời Đại của Thánh Phao-lô» ngày 2.7.2008). 3. Tiều sử của Thánh Phao-lô: Muốn biết thêm về Thánh Phao-lô chúng ta phải quan tâm đến tiểu sử tức thân thế sự nghiệp của ngài. Những dòng sau đây là của chính Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viêt về Thánh Phao-lô trong bài giáo lý mang tựa đề «Thánh Phao-lô thành Tarsô» ngày 25 tháng 10, 2006: «Người đầu tiên đã được Chính Chúa, là Đấng Phục Sinh, gọi làm một Tông Đồ thật, chính là Thánh Phao-lô thành Tar-sô. Ngài nổi bật như một ngôi sao sáng nhất trong lịch sử Hội Thánh, nếu không nói là trong việc thành lập Hội Thánh. Thánh Gio-an Kim Khẩu ca tụng ngài như một người cao trọng hơn nhiều thiên
thần và tổng lãnh thiên thần (x. Panegirico, 7, 3). Dante Aligheiri trong Hài Kịch của Thiên Chúa (Divine Comedy), cảm hứng bởi câu truyện Thánh Lu-ca kể trong Tông Đồ Công Vụ (x. 9:15), đã diễn tả ngài cách đơn giản là “cái bình được chọn” (inf. 2:28), có nghĩa là: một dụng cụ được Thiên Chúa chọn. Những người khác gọi ngài là “Vị Tông Đồ Thứ 13”, hay cách trực tiếp, “vị trước nhất sau vị Duy Nhất.” Chắc chắn rằng sau Chúa Giê-su, ngài là một trong những vị tiên khởi mà chúng ta biết nhiều nhất. Thực ra, chúng ta không những chỉ có câu truyện mà Thánh Lu-ca viết trong sách Tông Đồ Công Vụ, mà còn cả một số Thư mà chính tay ngài viết, là những văn kiện trực tiếp tỏ lộ cá tính và tư tưởng của ngài mà không qua trung gian. Thánh Lu-ca cho chúng ta biết tên ngài trước kia là Sau-lô (x. Cv 7,58; 8,1), cũng là Sau-lê trong tiếng Hi-pri (x. Cv 9,14, 17; 22,7, 13; 26,14), như Vua Sau-lê (x. Cv 13,21), và ngài là người Do Thái lưu vong, vì thành Tarsô tọa lạc giữa A-nato-li-a và Sy-ri-a. Ngài xuống Giê-ru-sa-lem rất sớm để học tận gốc Luật Mô-sê theo chân Vị Thầy nổi danh là Ga-ma-li-e-lê (x. Cv 22,3). Ngài cũng học một nghề thủ công và phổ thông, là đan lều (x. Cv 18,3), mà sau này giúp ngài tự cung cấp cho mình để không trở thành gánh nặng cho Hội Thánh (x. Cv 20,34; 1 Cr 4,12; 2 Cr 12,13).» Tiểu sử của Thánh Phao-lô một phần nào được biểu lộ qua biểu đồ dưới đây: Sự Kiện - Niên Biểu và Tác Phẩm có liên quan và của Thánh Phao-lô: Sự kiện Chúa Giê-su sinh ra Phao-lô sinh ra Gioan Tẩy Giả rao giảng Sứ vụ công khai của Chúa Giê-su Chúa Giê-su bị đóng đinh và phục sinh Stêphanô tử đạo. Các Ki-tô hữu gốc Hy Lạp và Do Thái bị bách hại. Phao-lô trở lại, 3 năm ở Đa-mát. Phaolô ở Tar-sê Phao-lô với Bar-na-ba ở An-ti-ốt Hành trình truyền giáo I của Phaolô Công đồng Giê-ru-sa-lem
Niên 6 trước CN 8 sau CN 27 28-30 30
Biểu
Tác phẩm
tại
Tácxô
51
1 Tx
54
Gl
55
1 Cr
33 33 (36) 37 (40) 45 46-49 49
Hành trình truyền giáo II của Phao- 50-52 lô Hành trình truyền giáo III của 54-58 Phao-lô
Phao-lô bị tù ở Xê-da-rê Phao-lô đến Rô-ma Phao-lô bị tù ở Rô-ma
58-60 60-61 61-63
Phê-rô và Phao-lô tử đạo trong 64 (67) cuộc bách hại của Nê-rô ở Rô-ma Chiến tranh giữa người Do Thái và 67-70 Rô-ma Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy 70 85 (90) Cuộc bách hại của Đô-mi-xi-a-nô
90-96
56 56-57 58
Pl 2 Cr Rm
62 64
Plm. Cl Mc
66-70
Gc ?
70
Ep, 2 Tx, Mt Lc/Cv, Ga/Kh, Thư Mv 2 Pr
Cuôc nổi dậy của người Do Thái 132-135 dưới thời Bar Kochbah Giê-ru-sa-lem bị phá bình địa 135 4. Những đặc điểm về thân thế, sự nghiệp của Thánh Phao-lô: a) Nguồn gốc, nền giáo dục và cuộc đổi đời lạ lùng: Thánh Phao-lô là người Do Thái (tên là Sa-un hay Sao-lô), sinh tại Tác-xô (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), thậm chí là một Pha-ri-sêu thông thái, nhiệt thành, am tường Thánh Kinh Do Thái, nhưng lại có quốc tịch Ro-ma (tên là Phao-lô). Thánh Phao-lô chẳng những hấp thụ nền giáo dục Do Thái giáo, mà còn thông thạo văn hóa Hy Lạp là văn hóa thịnh hành thời bấy giờ. Biến cố «bị/được» Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh «chộp bắt» trên đường Đa-mát đã làm thay đổi cách kỳ diệu con nguời và cuộc sống của Phao-lô. Một «cuộc đổi đời có một không hai» trong lịch sử nhân loại nói chung và Ki-tô giáo nói riêng. b) Ơn gọi và sứ mạng đặc biệt: «15 Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. 16 Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại.» (Gl 1,15-16). c) Đời sống thánh thiện: «3 Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp phạm, để không người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của chúng tôi. 4 Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, 5 đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng. 6 Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, 7 bằng lời chân lý,
bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, 8 khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; 9 bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; 10 coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả.» (2 Cr 6,3-10). d) Một cuộc đời tận hiến cho việc truyền giáo được thể hiện qua 3 hành trình truyền giáo: Theo sách Công Vụ Tông Đồ, Thánh Phao-lô có 3 hành trình truyền giáo, thêm vào đó, chuyến cuối cùng là bị giải từ Giê-ru-sa-lem về Rô-ma để thụ án do chính quyền tố cáo. Hành trình thứ nhất (khoảng từ năm 45-49) được ghi lại trong Công Vụ Tông Đồ 13,1 - 14,28. Phao-lô và Bar-na-ba rời tàu từ An-ti-o-ki-a (vùng Sy-ri-a) qua Cy-rus, qua Per-ga ở Pam-phi-li-a, qua An-ti-ô-ki-a (vùng Pi-si-di-a), rồi đến Ico-ni-um, Lys-tra, và Der-be trong vùng Tiểu Á. Sau đó Phao-lô dự Công Đồng Giê-su-ra-lem cùng với Bar-na-ba và trở về lại An-ti-ô-ki-a (vùng Sy-ri-a). Hành trình thứ hai (khoảng năm 50-52) được ghi lại trong Cv 15,6 – 18,22. Sau khi bất đồng ý kiến với Bar-na-ba, Phao-lô chọn Si-lô làm người đồng hành truyền giáo. Họ rao giảng khắp vùng Sy-ri-a, Ci-li-ci-a, Tiểu Á, qua đến Phry-gia và Ga-lát. Tại Troa bên bờ Tiểu Á, Phao-lô có thị kiến là được tàu đưa qua Mace-do-ni-a. Từ đó, Ngài theo đường bộ đến Phi-lip-phê, Thê-xa-lo-ni-ca, Be-ro-ea, A-then và Cô-rin-tô. Rồi theo tàu về E-phê-sô ở Tiểu Á và vào Cê-sa-rê và Giê-ru-sa-lem. Sau cùng các Ngài về lại An-ti-o-ki-a (vùng Sy-ri-a). Hành trình thứ ba (khoảng năm 53-58) được ghi lại trong Cv 18,23 - 21,17. Từ Giê-ru-sa-lem, Phao-lô đi về Ga-lát, Phry-gi-a và E-phê-sô để vượt qua vùng Mace-do-ni-a. Ý định theo tàu về lại Sy-ri-a bị hủy bỏ vì Ngài biết có người muốn ám hại Ngài trên đường qua Ma-ce-do-ni-a đến Troa. Phao-lô và đồng bạn dùng tàu đến My-ti-le-ne, Sa-mos và Mi-le-tus, băng qua E-phê-sô để đến Rho-des và Ty-re trong vùng Sy-ri-a. Sau một thời gian ngắn, Phao-lô trở lại Giê-ru-sa-lem để gặp tông đồ Gia-cô-bê. Hành trình cuối cùng (khoảng năm 60) là bị giải về Rô-ma cùng với các tù nhân khác, được kể lại trong Cv 27,1-28,16. Họ đi từ Xê-da-rê đến Xi-đon, My-ra trong vùng Tiểu Á, rồi đến Crê-tê. Từ Crê-tê đến Man-ta, thời tiết xấu làm đắm tàu tại Man-ta. Sau 3 tháng, họ đi tàu đến Sy-ra-cu-se, Rhe-gi-ô và Ro-ma, nơi Phao-lô bị quản chế và bị giết (Lm Mát-thêu Nguyễn Khắc Hy, S.S. «Sống Năm Thánh Phao-lô - Bài 5: Những hành trình của Thánh Phaolô thế nào? »). e) Kho tàng các Thư gửi cộng đoàn và cá nhân: Đọc trong Tân Ước, ta thấy có 13 thư mang tên tác giả Phao-lô gởi cho các giáo đoàn hay cá nhân theo thứ tự: Rô-ma, 1 và 2 Cô-rin-tô, Ga-lát, E-phê-sô, Phi-lip-phê, Cô-lô-sê, 1 và 2 Thêxa-lô-ni-ca, 1 và 2 Ti-mô-thê, Ti-tô, và Phi-lê-mon.
Một số học giả Thánh Kinh cho rằng tất cả 13 thư trên là do Phao-lô viết hay những trợ tá trực tiếp viết. Nhưng phần lớn các học giả Thánh kinh ngày nay tin rằng chỉ có 7 thư do chính Phao-lô viết là: Ro-ma, 1 và 2 Cô-rin-tô, Ga-lát, Philip-phê, 1 Thê-xa-lô-ni-ca và Phi-lê-mon. Ngay cả trong số 7 thư này cũng có những cộng sự viên cùng viết với Ngài và tên của họ được liệt kê trong những lời giới thiệu đầu thư như thư 1 và 2 Cô-rin-tô, Phi-lip-phê, 1 Thê-xa-lô-ni-ca và Phi-lê-mon. Còn sáu thư còn lại (2 Thê-xa-lô-ni-ca, Ê-phê-sô, Cô-lô-sê, 1 và 2 Ti-mô-thê và Ti-tô) là đề tài tranh luận giữa những học giả Thánh Kinh về tác quyền, và họ gọi những thư này là Thứ Kinh (Deutero-Pauline letters). Về thời gian, rất khó biết chính xác, nhưng các học giả sắp xếp những thư như sau: 1 Thê-xa-lô-ni-ca chừng 50-51; 1 và 2 Cô-rin-tô chừng 54-55; Ga-lát chừng 54-55; Phi-líp-phê chừng 56; Rô-ma chừng 57-58; Phi-lê-mon chừng 60-61; 2 Thê-xa-lô-ni-ca, Cô-lô-sê và E-phê-sô chừng giữa thập niên 80 (và nếu thật sự Phao-lô viết những thư này thì có thể vào giữa những năm 50); 1 và 2 Ti-mô-thê và Ti-tô chừng giữa 60-90 (và nếu thật sự Phao-lô viết thì có thể đầu những năm 60). Nhìn chung, tất cả 13 thư trên đều trình bày những giáo huấn thống nhất của một Phao-lô cương nghị, dứt khoát và nhiệt tình trong giảng dạy (Lm Mát-thêu Nguyễn Khắc Hy, S.S. «Sống Năm Thánh Phao-lô - Bài 3: Phaolô viết bao nhiêu thư và khi nào?) g) Cái chết chứng nhân tại Ro-ma: Việc tử vì đạo của Thánh Phao-lô được kể lại đầu tiên trong sách Công Vụ của Thánh Phao-lô, được viết vào cuối thế kỷ thứ II. Sách tường thuật rằng hoàng đế Nê-rô lên án chém đầu ngài, và bản án được thi hành ngay sau đó (x. 9,5). Ngày chết của ngài khác nhau ngay từ những tài liệu cổ, khoảng giữa cuộc bách hại mà chính hoàng đế Nê-rô phát động sau vụ hỏa hoạn của thành Ro-ma, xảy ra vào tháng 7 năm 64, và năm cuối cùng của triều đại Nê-rô là năm 68 (x. Giêrônimô, De viris ill. 5,8). Tường thuật ấy như sau : “Nhằm đạt được điều ấy (Nê-rô) ra sắc chỉ là tất cả những ai được phát hiện là Ki-tô hữu và lính của Đức Ki-tô đều sẽ bị giết chết. Và Phao-lô cũng bị cầm tù trong số nhiều người; tất cả các bạn tù là người có đạo lưu ý đến ngài khiến Xêda-rê quan sát thấy rằng ngài là người chỉ huy. Ông ta nới với Phao-lô: “Người của vua vĩ đại nay trở thành tù nhân trong tay ta, tại sao ngươi đã cho là tốt việc bí mật đến đế quốc Rô-ma của ta và lối kéo các binh lính của ta ra khỏi tỉnh của ta?” Nhưng Phao-lô, đầy Thần Khí, nói trước mọi người rằng: “Thưa ngài Xê-darê, chúng tôi chiêu dụ binh lính không chỉ từ các tỉnh của ngài mà từ khắp thế giới. Vì nhiệm vụ này được giao cho chúng tôi, để không một ai bị loại trừ nếu người ấy muốn phụng sự Đức Vua. Nếu ngài cho rằng đó là việc tốt, ngài hãy phụng sự Người. Không có của cải vinh hoa nào của cuộc đời này sẽ cứu được ngài, nhưng nếu ngài đầu phục Người, Người sẽ cứu ngài. Vì chỉ trong một ngày Người sẽ phá hủy thế giới bằng lửa. Khi Xê-da-rê nghe những lời ấy, ông ra lệnh thiêu tất cả các tù nhân, nhưng Phao-lô thì phải bị chém đầu theo luật của người Rô-ma… Lúc ấy Phao-lô đứng hướng mặt về phía đông, giơ tay lên trời mà cầu
nguyện lần cuối. Và sau khi hiệp thông trong cầu nguyện bằng tiếng Híp-ri với các tổ tiên, ông chìa cổ ra mà không nói thêm một lời nào nữa. Nhưng khi viên lý hình kéo đầu ông ra, sữa phun vào áo của người lính ấy. Và khi chúng nhìn thấy vậy, người lính và tất cả những người đứng gần đó đều kinh ngạc và chúc tụng Thiên Chúa là Đấng đã ban cho Phao-lô vinh quang ấy. Họ ra đi và báo cáo cho Xê-da-rê sự việc đã xẩy ra.” (Cv của Thánh Phao-lô 11,1-3.5). 5. Chúng ta có thể học được gì từ việc tìm hiểu thời đại và tiểu sử của Thánh Phao-lô? (Xem phần ỨNG DỤNG) V. ỨNG DỤNG [LINH ĐẠO VÀ SỐNG LINH ĐẠO] 1. Từ việc tìm hiểu thời đại của Thánh Phao-lô, chúng ta có thể học được những điều sau đây: a) Tin Mừng của Thiên Chúa cần được rao giảng cho mọi người (lớn/bé, già/trẻ, tự do/nô lệ…) và mọi dân (Do Thái cũng như Dân Ngoại). b) Tin Mừng của Thiên Chúa có khả năng thích ứng với và đi sâu vào các nền văn hóa khác nhau của nhân loại. c) Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ phúc âm hóa các nền văn hóa tức đón nhận và phát huy những điều tốt đẹp của các nền văn hóa ấy và thanh luyện, bổ sung và hoàn thiện những gì còn khiếm khuyết của các nền văn hóa ấy. 2. Từ việc tìm hiểu tiểu sử của Thánh Phao-lô, chúng ta có thể học được những điều sau đây: a) Thiên Chúa có thể dẫn đưa một con người từ chốn lầm lạc trở về chân lý. Thiên Chúa cũng có thể biến đổi một con người từ tội lỗi nên thánh thiện để người ấy làm vinh danh Thiên Chúa và đem lại lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn. Thánh Phao-lô là một điển hình “có một không hai” trong lịch sử Ki-tô giáo. b) Thiên Chúa có một kế hoạch riêng cho mỗi Ki-tô hữu. c) Thiên Chúa cần đến tất cả những gì là tốt đẹp sẵn có trong mỗi con người chúng ta để chúng ta dễ bề chu toàn sứ mạng được giao. d) Chúng ta có học cùng Thánh Phao-lô trong đời sống đức tin cậy mến: tin tuởng, cậy trông, yêu mến và phụng sự Thiên Chúa hêt lòng, hết trí khôn, hết linh hồn và yêu tha nhân như chính mình. VI. CHUẨN BỊ BÀI SAU CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI III CÔNG CUỘC, CHIẾN THUẬT VÀ PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAO-LÔ Câu hỏi gợi ý chia sẻ: Nhờ đề tài II về «thời đại» và «tiểu sử» của Thánh Phao-lô bạn có «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới? Xin ghi «nhật ký» để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các anh chị em
khác. Câu hỏi gợi ý tìm hiểu: 1. Tại sao Thánh Phao-lô được gọi là Tông Đồ Dân Ngoại? 2. Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng có tầm quan trọng như thế nào đối với Thánh Phao-lô? 3. Để loan báo Tin Mừng, Thánh Phao-lô đã sử dụng chiến thuật và phương thế nào? 4. Chúng ta có thể học được gì từ Thánh Phao-lô là Nhà Truyền Giáo nhiệt thành, là Vị Tông Đồ Dân Ngoại vĩ đại của Ki-tô giáo? VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC . - Gợi ý của người hướng dẫn: Chúng ta vừa học về thời đại và tiểu sử của Thánh Phao-lô, qua đó chúng ta thấy Thánh Phao-lô đã nỗ lực hết sức mình để đem Ki-tô giáo vào trong thế giới và xã hội thời của Ngài. Chúng ta cũng có trách nhiệm đem hết khả năng và ân sủng mà chúng ta đã nhận từ Thiên Chúa mà đem Tin Mừng đến cho đồng bào của chúng ta. Chúng ta hãy cùng cảm tạ ngợi khen Chúa về sứ mạng cao trọng mà Người đã giao và cùng cầu xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh của Thánh Thần để thực thi sứ mạng ấy. - Cùng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người cho thế gian. Chúa Giê-su Ki-tô là Con Cha, đã xuống thế làm người và đi vào lịch sử nhân loại. Người đã chiêu mộ những con người trung thực và nhiệt thành là các Tông Đồ, nhất là Thánh Phao-lô, để đem Tin Mừng yêu thương đến với mọi người, mọi dân tộc. Chúng con xin cảm tạ Cha và cảm tạ Con Cha là Chúa Giê-su Ki-tô, về Chương Trình Cứu Độ mà chúng con được thừa hưởng và mời tham dự. Chúng con cảm tạ Cha cách đặc biệt trong việc Cha tuyển chọn Thánh Phao-lô và biến Người thành vị thánh lớn lao, thành nhà truyền giáo vĩ đại. Xin Cha giúp chúng con biết noi gương bắt chước Thánh Phao-lô mà sống hết mình với Chúa Giê-su Ki-tô, Con Cha và với Tin Mừng của Ngài, với anh chị em trong cộng đoàn Hội Thánh và với những người còn ở ngoài Hội Thánh. - Cùng hát : TÁN TỤNG HỒNG ÂN ĐK : Xin dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa bao la. Xin dâng lời cảm mến hòa theo tiếng hát dâng lên. Đôi bàn tay Chúa nâng đỡ con, xin dâng lời cảm tạ. Cho đời con vững một niềm tin, xin dâng lời cảm mến. Đôi bàn tay Chúa dẫn con đi, xin dâng lời cảm tạ. Tay hồng ân Chúa đưa con về, xin dâng lời cảm mến. Chúa cho con Trời mới Đất mới, đường đời con (i) đổi mới. Con sẽ ca ngợi lòng thương xót Chúa muôn muôn đời. 1. Đời đời Người đã thương con. Đời đời Người vẫn thương con. Thương con như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh. Chúa thương yêu ấp ủ con đêm ngày.
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» ------------------------------
ĐỀ TÀI III CÔNG CUỘC, CHIẾN THUẬT VÀ PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAO-LÔ I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU - Gợi ý của người hướng dẫn: Hôm nay chúng ta sẽ học cùng Thánh Phao-lô, vị Tông Đồ Dân Ngoại, để biết Ngài coi trọng Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng như thế nào và biết Ngài đã dùng những Chiến Thuật và Phương Thế nào để loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa mà Chúa Giê-su Ki-tô đã đem đến cho nhân loại. Chúng ta hãy nguyện xin Thánh Thần Thiên Chúa xuống trên mỗi anh chị em chúng ta, để Người biến đổi chúng ta thành những tông đồ nhiệt thành, ra đi loan báo Tin Mừng cho những ngưòi đang khát khao gặp được Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện bằng bài ca «Thần Khí Chúa sai đi!» - Cùng hát: THẦN KHÍ SAI ĐI. ĐK.- Thần Khí Chúa đã sai tôi đi. Sai tôi đi loan báo Tin Mừng. Thần Khí Chúa đã hiến thánh tôi. Sai tôi đi, Ngài sai tôi đi. 1. Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù. Mang Tin Mừng giải thoát: Thiên Chúa đã cứu tôi. 2. Sai tôi đến với người than khóc, sai tôi đến với người âu sầu. Mang Tin Mừng an ủi: Thiên Chúa đã cứu tôi. II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI II VỀ «THỜI ĐẠI VÀ TIỂU SỬ» CỦA THÁNH PHAO-LÔ Bạn muốn chia sẻ «khám phá», «cảm nghiệm », «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới (hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới đề tài II về «Thời Đại và Tiểu Sử» của Thánh Phao-lô mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu. III. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tại sao Thánh Phao-lô được gọi là Tông Đồ Dân Ngoại? 2. Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng có tầm quan trọng như thế nào đối với Thánh Phao-lô? 3. Để loan báo Tin Mừng, Thánh Phao-lô đã sử dụng chiến thuật và phương thế nào?
4. Chúng ta có thể học được gì từ Thánh Phao-lô là Nhà Truyền Giáo nhiệt thành, là Vị Tông Đồ Dân Ngoại vĩ đại của Ki-tô giáo? IV. HỌC HỎI VÀ CHIA SẺ 1. Thánh Phao-lô được gọi là Tông Đồ Dân Ngoại: Linh mục Mát-thêu Nguyễn Khắc Hy, thuộc Hội Xuân Bích, giáo sư Kinh Thánh tại Mỹ, trả lời câu hỏi “Tại sao Phao-lô được gọi là Tông Đồ Dân Ngoại?” như sau: “Câu trả lời một cách ngắn gọn là vì trong thư gởi tín hữu Ga-lát, Phao-lô đã tự nhận danh hiệu này cho mình: “Tôi đã được ủy thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người không được cắt bì, cũng như Phê-rô được ủy thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người được cắt bì. Thật vậy, Đấng đã dùng ông Phê-rô hoạt động tông đồ cho những người được cắt bì, cũng đã dùng tôi hoạt động cho dân ngoại” (Gl 2, 7-8). “Về mặt lịch sử, bối cảnh của giáo đoàn Ga-lát mà Phao-lô viết những lời này giúp ta hiểu hơn về vai trò Tông Đồ Dân Ngoại của ông. Trong chuyến hành trình đến Ga-lát lần thứ hai, khi còn dừng chân ở Ê-phê-sô, Phao-lô đã nghe biết một số người loan tin rằng Phao-lô không phải là Tông Đồ, và sứ mạng ông rao giảng không được Chúa Ki-tô hay các Tông đồ trao phó (Gl 1,1.7.12). Hơn nữa, Phaolô rao giảng ngụy tin mừng (không là Tin Mừng thật) (Gl 1,7) vì ông cho phép những người theo Ki-tô giáo không cần phải giữ luật Mô-sê, như không giữ những ngày lễ ghi trong lịch Do Thái và không chịu cắt bì chẳng hạn (Gl 4,10; 6,12). Nhiều người còn vu cáo ông là người “đón gió trở cờ” hay theo cơ hội, vì có lúc ông chấp nhận phép cắt bì cho tân tòng (Gl 5,11), nay thì dạy là không cần cắt bì để nhằm có thêm nhiều tân tòng gia nhập đạo. Những tin đồn và vu cáo này là nguyên nhân khiến Phao-lô viết thư khẳng định giáo huấn thần học Ngài dạy và vai trò “Tông Đồ Dân Ngoại” của mình. “Trước hết, với những người Do Thái trung thành với luật Mô-sê mà nay tin theo Chúa Ki-tô, Phao-lô tôn trọng những luật lệ họ giữ, và nêu rõ là Phê-rô được sai đến với họ, “những người chịu cắt bì này” (Gl 2,7-8). Với những người ngoại (không chịu cắt bì như người Hy Lạp, Ro-ma, Ai Cập…), Phao-lô rao giảng rằng họ không cần phải chịu cắt bì hay giữ tất cả luật Mô-sê khi tin theo Đức Giê-su Ki-tô. Quyết định này không là ý kiến cá nhân Phao-lô mà là kết quả của Công Đồng Giê-ru-sa-lem trong đó Thánh Gia-cô-bê, Giám Mục Giê-ru-sa-lem, thay mặt các Tông Đồ công bố (Cv 15,1-21). “Vì thế Phao-lô đã phản bác những tuyên truyền sai lạc của những người mà Ngài gọi là “kẻ phá rối” (Gl 1,7), và khẳng định rằng Ngài chính là Tông Đồ, được sai bởi Thiên Chúa, và Tin Mừng Ngài rao giảng được Thiên Chúa mặc khải qua Đức Giê-su Ki-tô (Gl 1,1.12). Và với tính khẳng khái, Phao-lô công bố rằng Tin Mừng Ngài nhận là từ Thiên Chúa chứ không phải từ loài người. Do đó, nếu có ai đến rao giảng những gì nghịch lại với Tin Mừng Ngài dạy, ngay cả các Tông Đồ hay các Thiên Thần từ trời xuống, Phao-lô cảnh báo giáo dân không được tin theo (Gl 1,8-9).”
2. Tầm quan trọng của Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng đối với Thánh Phao-lô: Muốn hiểu Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng quan trọng như thế nào đối với Thánh Phao-lô, thì chúng ta cần nêu lên một số điểm sau đây: a) Trước hết là động lực thúc đẩy Thánh Phao-lô lao mình vào Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng là lòng mến Chúa yêu ngưòi. * Trước hết là tình yêu nồng nàn đối với Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh, Đấng đã “chộp bắt” ngài trên đường Đa-mát. Linh mục Giu-se Linh Tiến Khải, trong Đề Tài II: Cuộc gặp gỡ đổi đời của Thánh Phao-lô với Chúa Ki-tô Phục Sinh đã viết về tâm hồn Thánh Phao-lô như sau: “Sau cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Ki-tô phục sinh, Phao-lô say mê Chúa Ki-tô chịu đóng đanh tới độ ông không còn trông thấy gì khác ngoài Chúa Ki-tô. Phao-lô coi tất cả mọi sự trên trần gian này là một mất mát và nhận chịu mất mát mọi sự, kể cả mạng sống mình, miễn là có thể đem mọi người về với Chúa Ki-tô (Pl 3,8-9). Nghĩa là Phao-lô đổi hướng đời mình 180 độ: từ chỗ tự mãn tưởng mình toàn năng, có thể tự cứu rỗi qua những gì mình làm, tới chỗ nhận rằng mình tùy thuộc và tín thác hoàn toàn nơi Chúa Ki-tô; từ thái độ tuân giữ luật lệ như nô lệ tới thái độ vâng phục của lòng tin.” b) Thứ đến là lòng yêu người. Trong Tông huấn “Loan Báo Tin Mừng” Evangelii Nuntiandi - (số 79) được ban hành năm 1975, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói về tâm hồn của Thánh Phao-lô như sau: “Mẫu gương Truyền Giáo là Tông Đồ Phao-lô đã viết những lời này trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, và cũng là chương trình cho tất cả chúng ta: «Chúng tôi đã yêu mến anh em tha thiết, đến nỗi sẵn sàng chia sẻ với anh em, không những chỉ Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả chính mình chúng tôi, vì anh em đã trở nên rất thân yêu đối với chúng tôi’ (1 Tx 2,8). Tình yêu này là gì? Tình yêu ấy phải hơn tình yêu của một vị thầy; đó là tình yêu của một người cha; và cũng là tình yêu của một người mẹ. Đó chính là tình yêu mà Chúa mong mỏi nơi mỗi người rao giảng Tin Mừng, nơi mỗi người xây dựng Giáo Hội. Một dấu hiệu của tình yêu là quan tâm ban phát chân lý và đưa người ta đến hợp nhất. Một dấu hiệu khác của tình yêu là một lòng tận tụy rao giảng Đức Chúa Giê-su Ki-tô, mà không hạn chế hay quay đầu trở lại.» Vì yêu mến Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh và yêu thương con người mãnh liệt như vậy nên Thánh Phao-lô dành trọn cuộc đời mình cho Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng. Chính Thánh Phao-lô đã khẳng định quan điểm, lập trường và chọn lựa của ngài như sau: - “Thật ra Chúa Ki-tô không gửi tôi đi rửa tội, nhưng là để loan báo Tin Mừng” (1 Cr 1,17); - “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16); - “Hãy rao giảng Lời Chúa! hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện!” (2 Tm 4,2). c) Cũng xuất phát từ tình yêu ấy đối với Chúa Giê-su Ki-tô mà Thánh Phao-lô đã thực hiện 3 Hành Trình Truyền Giáo phi thường. Ngoài những gì chúng ta đã
đọc được trong đề tài II, chúng ta nên đọc thêm những gì linh mục Giu-se Linh Tiến Khải viết trong Đề Tài III về “Thánh Phao-lô, nhà Truyền Giáo thời danh của Giáo Hội Ki-tô tiên khởi” như sau: “Có thể chia hoạt động truyền giáo của Phao-lô thành ba giai đoạn chính: Giai đoạn thứ nhất khá tối tăm, bắt đầu từ lúc hoán cải cho tới lúc gia nhập cộng đoàn An-ti-ô-ki-a bên Sy-ri-a. Giai đoạn thứ hai bao gồm các hoạt động rao giảng Tin Mừng tại An-ti-ô-ki-a, cứ điểm truyền giáo đầu tiên, nơi Phao-lô đã trở thành nhân vật nổi bật, và sau đó được cộng đoàn đề cử đem Tin Mừng tới cho các anh chị em ngoài Do Thái giáo. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn truyền giáo độc lập. Phao-lô bôn ba ngang dọc, giảng đạo trong vùng Tiểu Á và bên Hy Lạp, thành lập nhiều cộng đoàn Ki-tô đia phương. Đặc biệt trong giai đoạn này Phao-lô trở thành một nhân vật rất có uy tín trong các giáo đoàn nói tiếng Hy Lạp, và hoàn toàn độc lập đối với truyền thống văn hóa và tôn giáo Do Thái. “Chúng ta có ít tin tức liên quan tới giai đoạn truyền giáo thứ nhất. Sách Cv chương 9 cho biết sau cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Ki-tô Phục Sinh trên đường tới Đa-mát, Phao-lô bị mù mắt và được các người đồng hành dẫn vào thành. Chúa Ki-tô sai Kha-na-ni-a, một Ki-tô hữu của cộng đoàn Ki-tô Đa-mát, tới gặp Phao-lô để đặt tay cho ông sáng mắt. Phao-lô được tràn đầy Chúa Thánh Thần và lãnh nhận phép rửa tội, rồi lưu lại với các Ki-tô hữu Đa-mát vài ngày. “Sau đó Phao-lô bắt đầu công khai rao giảng Chúa Ki-tô Phục Sinh trong các hội đường Do Thái tại Đa-mát và vùng đông nam Đa-mát (Gl 1,17). Phao-lô trưng dẫn các lý chứng vững vàng cho thấy Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, khiến cho người Do Thái tức giận lập mưu hạ sát ông. Họ cho người canh giữ cửa thành nghiêm ngặt. Nhưng đang đêm các Ki-tô hữu có nhà xây trên tường thành giúp Phao-lô trốn thoát, bằng cách bỏ Phao-lô vào thúng và thòng xuống bên ngoài tường thành. Sau này thánh nhân cũng nhắc lại các chống đối gặp phải và lần chết hụt thứ nhất này trong chương 11,32-33 thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô. “Từ Đa-mát Phao-lô về Giê-ru-sa-lem và lưu lại đây một thời gian ngắn để làm quen với Kê-pha, tức Phê-rô, rồi sau đó sang Sy-ri-a và Xi-li-ci-a, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, như thánh nhân viết trong thư gửi tín hữu Ga-lát (1,21). Vài nét chấm phá ấy tóm gọn các sinh hoạt của 15 năm trời kể từ biến cố bị đánh ngã trên đường đi Đa-mát. Sách Tông đồ Công Vụ cũng không thêm chi tiết nào mới mẻ. “Tuy nhiên cả hai tài liệu đều cho biết Phao-lô đã gặp khó khăn trong cố gắng làm quen và sát nhập vào cộng đoàn. Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chẳng những không quen biết Phao-lô mà còn tỏ ra nghi ngờ đối với ông (Gl 1,22; Cv 9,2630). Qua đó chúng ta có thể kết luận rằng Phao-lô đã không gặt hái nhiều thành công trong thời gian hoạt động này. “Giai đoạn truyền giáo thứ hai có nhiều tin tức hơn. Chương 11 sách Công Vụ cho biết Bar-na-ba, là nhân vật nổi bật của Ki-tô giáo thời khai sinh, đã giới thiệu Phao-lô với giáo đoàn An-ti-ô-ki-a bên Sy-ri-a (Cv 11,25). An-ti-ô-ki-a là thủ phủ của vùng này và là thành phố lớn vào hàng thứ ba của Đế quốc Ro-ma thời đó, nghĩa là chỉ sau Ro-ma và A-léc-xan-dri-a bên Ai Cập. “Trong lịch sử Giáo Hội và lịch sử truyền giáo, An-ti-ô-ki-a có địa vị quan trọng và ý nghĩa, vì là cứ điểm truyền giáo rộng lớn đầu tiên, nơi các môn đệ chọn làm
bản doanh cho công tác rao truyền Tin Mừng cho dân ngoại (Cv 11,19 tt.), và cũng là nơi lần đầu tiên các môn đệ Chúa Giê-su được gọi là Ki-tô hữu (Cv 11,26). Giáo đoàn An-ti-ô-ki-a là giáo đoàn hỗn hợp gồm các Ki-tô hữu gốc Do Thái và không Do Thái. Phao-lô đã hoạt động tại đây trong vòng một năm (Cv 11,26), và được giáo đoàn sai phái cùng với Bar-na-ba đi truyền giáo tại đảo Xýp và các vùng đông nam của Tiểu Á, như trình thuật trong hai chương 13-14 sách Công Vụ. “Qua chương 2 thư gửi tín hữu Ga-lát chúng ta biết được rằng Phao-lô cộng tác với Bar-na-ba, là thành phần của cộng đoàn Ki-tô An-ti-ô-ki-a và gặt hái thành quả tốt trong công tác rao truyền Tin Mừng cho các anh chị em ngoài Do Thái giáo. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau nảy sinh ra một vấn nạn trầm trọng liên quan tới việc gia nhập đạo của các người ngoài Do Thái giáo. Để trở thành Ki-tô hữu họ phải theo các điều kiện nào: chấp nhận tin vào Chúa Giê-su và Tin Mừng của Ngài là đủ, hay phải tuân giữ luật cắt bì của Do Thái giáo nữa? “Phao-lô không phải là người đầu tiên khai mào công tác truyền giáo trong thế giới không Do Thái. Trước ông đã có một nhóm các Ki-tô hữu gốc Do Thái nói tiếng Hy Lạp rao giảng Tin Mừng và thành lập cộng đoàn An-ti-ô-ki-a. Nhưng khi từ một thói quen mục vụ truyền giáo bước sang việc thảo luận trên bình diện thần học, tức liên quan tới nguyên tắc do nhóm bảo thủ gồm các Ki-tô hữu gốc Do Thái đặt ra, Phao-lô đã tỏ ra là người có hành động sáng suốt và trung thực nhất theo tinh thần Tin Mừng giải phóng của Chúa Ki-tô. “Phao-lô bênh vực sự tự do của các anh chị em ngoài Do Thái đối với luật lệ của Do Thái giáo, mà các Ki-tô hữu gốc Do Thái vẫn tuân giữ. Cuộc tranh luận đã sôi nổi tới độ giới lãnh đạo Giáo Hội đã phải triệu tập hội nghị tại Giê-ru-sa-lem để thảo luận và nghiên cứu vấn đề, như trình thuật trong chương 15 sách Công Vụ, và trong chương 2 thư gửi tín hữu Ga-lát. Hội nghị Giê-ru-sa-lem đã là Công Đồng Chung đầu tiên trong lịch sử Ki-tô giáo. “Bar-na-ba và Phao-lô cùng với hai nhân vật khác của giáo đoàn An-ti-ô-ki-a đại diện cho phe cởi mở của cộng đoàn này tham dự Công Đồng. Sau khi nghe Barna-ba và Phao-lô trình bày và thảo luận phải trái trong Công Cồng, giới lãnh đạo Giáo Hội Ki-tô tiên khởi đã chấp nhận nguyên tắc tự do của các Ki-tô hữu ngoài Do Thái. Hàng lãnh đạo cộng đoàn Ki-tô Giê-ru-sa-lem thỏa thuận với phái đoàn đại diện giáo đoàn An-ti-ô-ki-a, và phân chia công tác truyền giáo. “Trong Gl 2,9 Thánh Phao-lô viết: “... sau khi thừa nhận đặc sủng mà Thiên Chúa đã trao phó cho tôi, Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an đã giơ tay phải bắt tay tôi tỏ tình liên đới để chúng tôi đi truyền giáo cho dân ngoại còn họ đi truyền giáo cho các anh chị em được cắt bì”, tức tín hữu Do Thái. “Sau vụ đụng độ công khai với Thánh Phê-rô ở An-ti-ô-ki-a (Gl 2), Phao-lô tách rời, không đi truyền giáo với Bar-na-ba nữa, mà hoạt động một cách độc lập với giáo đoàn An-ti-ô-ki-a. Phao-lô trở thành tông đồ của Chúa Ki-tô, và không phải tường trình với ai về công tác truyền giáo của mình, như thánh nhân viết trong 1 Cr 4,4.”
d) Hơn nữa Thánh Phao-lô chấp nhận mọi hy sinh, gian khổ vì Chúa Giê-su Kitô và vì các giáo đoàn. Không gì tốt hơn là chúng ta đọc/nghe những lời giãi bày và tổng kết của chính Thánh Phao-lô: - “Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp phạm, để không người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của chúng tôi. Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng. Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả.” (2 Cr 6,3-10). - «Họ là người Híp-ri ư? Tôi cũng vậy! Họ là người Ít-ra-en ư? Tôi cũng vậy! Họ là dòng giống Áp-ra-ham ư? Tôi cũng vậy! Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do Thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên? » (2 Cr 11,22-29). e) Sau cùng là cái chết làm chứng cho Tin Mừng tại Ro-ma (xem lại ở đề tài II). 3. Chiến thuật và phương thế Truyền Giáo của Thánh Phao-lô: a) Chiến thuật Truyền Giáo của Thánh Phao-lô : Trong Đề Tài IV trình bày về «Chiến thuật Truyền Giáo của Thánh Phao-lô» linh mục Giu-se Linh Tiến Khải cho rằng Thánh Phao-lô đã dùng những chiến thuật Truyền Giáo sau đây: - Thứ nhất là Thánh Phao-lô chọn một thành phố lớn làm cứ điểm chính, rồi từ đó rao truyền Tin Mừng cho các vùng chung quanh. Điển hình là trường hợp thành Cô-rin-tô, nơi thánh nhân đã lưu lại truyền giáo từ năm 49 tới 52, và đặc biệt là Ê-phê-sô trong chuyến truyền giáo thứ hai giữa các năm 53 tới 57.
- Thứ hai là Thánh Phao-lô rao giảng cho người đồng hương trước: Việc len lỏi và hội nhập vào cuộc sống tại các thành phố này đã được dễ dàng chính là nhờ có các cộng đoàn Do Thái sinh sống tại đây. Nghĩa là Thánh Phao-lô đã sống giữa các người đồng hương trong cộng đoàn Do Thái hải ngoại, và rao giảng Tin Mừng cho họ trước tiên. Trong các hội đường Do Thái Thánh Phao-lô đã gặp rất nhiều người ngoại giáo có thiện cảm hay tân tín đồ Do Thái, và họ đã là những người đầu tiên theo Ki-tô giáo. Trong sách Công vụ chương 19,8-10 Thánh sử Lu-ca cho chúng ta biết tại Ê-phêsô, sau khi giảng dậy trong hội đường Do Thái ba tháng, Thánh Phao-lô đã chọn trường học của ông Ti-ran-nos làm nơi giảng dậy Trong hai năm liên tiếp thánh nhân đã dùng phòng ốc trường học này để rao truyền Tin Mừng cho các anh chị em ngoại giáo, từ giờ thứ 5 tới giờ thứ 10, tức từ 11 giờ sáng cho tới 16 giờ chiều, là giờ trường ốc rảnh rỗi, vì dân chúng ăn trưa và nghỉ trưa. - Thứ ba là Thánh Phao-lô thường chọn các nơi chưa có ai tới rao truyền Tin Mừng trước đó. Thánh Phao-lô và các cộng sự viên theo nguyên tắc không tới rao giảng tại những nơi đã có người rao truyền Chúa Giê-su rồi, để không quá hãnh diện vì kết quả đã do người khác nhọc công gieo vãi. Chính Thánh Phao-lô cho chúng ta biết trong Rm 15,20 và trong 2 Cr 10,12-18. - Thứ bốn là tuy nhu cầu loan báo Tin Mừng Nước Trời khắp nơi cấp bách, Thánh Phao-lô đã không vội vã bỏ nơi này sang nơi khác. Trái lại, ngài dừng lại lâu trong thành phố này hay thành phố nọ, để củng cố cộng đoàn Ki-tô đã được thành lập ở đó và giúp cộng đoàn trưởng thành và tự lập chừng nào có thể. - Thứ năm là dù công tác rao truyền Tin Mừng chắc chắn đã tốn kém không ít - vì Thánh Phao-lô phải thanh toán chi phí di chuyển, thuê phòng ốc để giảng dậy và tụ tập các tín hữu, cũng như cung cấp phương tiện sống cho chính mình và các cộng sự viên,- Thánh Phao-lô sống theo nguyên tắc “tự lực cánh sinh” hay “tay làm hàm nhai” (Tx 2,9 và 1 Cr 9,18). - Thứ sáu là Thánh Phao-lô có các cộng sự viên và làm việc theo nhóm. Trong số các cộng sự viên đắc lực và thân tín nhất phải kể tới Si-la hay Sil-va-nô, Ti-môthê và Ti-tô. Dĩ nhiên Thánh Phao-lô luôn là người lãnh đạo và phối trí công tác truyền giảng Tin Mừng, nhưng thánh nhân rất trân trọng và quý mến các cộng sự viên của mình. Đó là lý do giải thích tại sao khi kể lại cho tín hữu nghe công tác truyền giáo Thánh Phao-lô dùng từ “chúng tôi” số nhiều (1 Tx; 2 Cr 1,19). Đó chính là sáu (6) chiến thuật Truyền Giáo của Thánh Phao-lô mà chúng ta cần học tập. b) Phương thế Truyền Giáo của Thánh Phao-lô: 1°) Chứng tá đời sống. 2°) Tiếp xúc cá nhân. 3°) Giảng và dậy. 4°) Xây dựng các cộng đoàn Ki-tô hữu. 5°) Dùng ngôn ngữ thông dụng là tiếng Hy Lạp trong rao giảng Tin Mừng và giảng dậy Giáo Lý. 6°) Hội nhập văn hóa để rao giảng Tin Mừng và giảng dậy Giáo Lý: «19 Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi
người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. 20 Với người Do Thái, tôi đã trở nên Do Thái, để chinh phục người Do Thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. 21 Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. 22 Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. 3 Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.» (1 Cr 9,19-23) 7°) Viết Thư cho các cộng đoàn và cá nhân. Thư tín là một hình thức tông đồ mục vụ (xem lại trong đề tài II). 8°) Các chuyến đi (hay hành trình) Truyền Giáo (xem lại ở trên). 4. Chúng ta có thể học được nhiều điều bổ ích từ Thánh Phao-lô là Nhà Truyền Giáo Nhiệt Thành, là Vị Tông Đồ Dân Ngoại vĩ đại của Ki-tô giáo. (Xem phần ỨNG DỤNG). V. ỨNG DỤNG [LINH ĐẠO VÀ SỐNG LINH ĐẠO] a) Thánh Phao-lô là: 1°) Một con người sống gắn bó mật thiết với Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). 2°) Một tông đồ nhiệt thành, đầy tài năng và sáng kiến trong/dưới bàn tay của Thần Khí Thiên Chúa. 3°) Một chiến sĩ Phúc âm chấp nhận mọi hy sinh, gian khổ, ngục tù, thậm chi cả cái chết vì Tin Mừng. 4°) Một mục tử và một vị lãnh đạo cộng đoàn guơng mẫu. b) Mỗi chúng ta cần rèn luyện và cầu xin Ơn Trên để - Có: 1°) Một đời sống nội tâm sâu sắc, gắn bó mật thiết với Chúa Giê-su Ki-tô. 2°) Một tình yêu nồng nàn đối với Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh và với tha nhân, nhất là với những người chưa biết Chúa. 3°) Một tấm lòng cởi mở, dễ bảo dễ dậy đối với Chúa Thánh Thần. - Trở thành: 1°) Một tông đồ nhiệt thành và có khả năng. 2°) Một chiến sĩ Phúc âm chấp nhận hy sinh, gian khổ, mất mát vì Phúc Âm và lợi ích các linh hồn. 3°) Một tôi tớ phục vụ cộng đoàn và cán bộ giáo dân guơng mẫu, theo tinh thần của Chúa Ki-tô và của Thánh Phao-lô! VI. CHUẨN BỊ BÀI SAU CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI IV GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ HỘI THÁNH
Câu hỏi gợi ý chia sẻ: Nhờ đề tài III về «Công Cuộc, Chiến Thuật và Phương Thế Truyền Giáo» của Thánh Phao-lô bạn có «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới? Xin ghi “nhật ký” để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các anh chị em khác. Câu hỏi gợi ý tìm hiểu: 1. Ngoài thân thế và sự nghiệp lừng lẫy, Thánh Phao-lô còn có gì khác đáng chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi? 2. Trong nhiều Giáo huấn của Thánh Phao-lô thì chúng ta nên đặc biệt quan tâm đến những Giáo Huấn nào? Tại sao? 3. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Hội Thánh là “Hội Thánh của Thiên Chúa” và “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” phải được hiểu như thế nào? 4. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Hội Thánh là “Hội Thánh của Thiên Chúa” và “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” phải được các Ki-tô hữu - với tư cách là chi thể của Chúa Ki-tô và của nhau - sống như thế nào ? VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC - Gợi ý của người hướng dẫn: Chúng ta vừa học hỏi, chia sẻ về Công Cuộc, Chiến Thuật và Phương Thế Truyền Giáo của Thánh Phao-lô, qua đó chúng ta thấy Thánh Phao-lô đã đóng góp chẳng những tài năng trí tuệ mà cả tấm lòng và mồ hôi xương máu của mình cho Tin Mừng của Chúa Giê-su Ki-tô được nhiều lương dân và anh chị em Do Thái đón nhận. Chúng ta cũng có trách nhiệm đem hết mọi khả năng và ân sủng - là những nén vàng, nén bạc mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta – ra phục vụ việc đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho những người đang khao khát Chúa. Chúng ta hãy cùng cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa về sứ mạng cao cả của chúng ta là làm Chứng Nhân Tình Yêu và hãy quyết tâm sống đúng chức danh là “Chứng Nhân Tình Yêu” trong môi trường sống ngày hôm nay. Hợp ý và hợp lời ca chúng ta cùng cầu nguyện và cùng hát bài “Chứng Nhân Tình Yêu.” - Cùng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã làm nên một Phao-lô vĩ đại cho Hội Thánh. Chúng con cần học gương Thánh Tông Đồ Dân Ngoại, để làm chứng cho Tình Yêu và Tin Mừng Cứu Độ mà Cha đã mạc khải qua/nơi Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con. Chúng con xin vì Danh Đấng Chí Thánh là Con Yêu Dấu của Cha. Amen! - Cùng hát: CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU
PK 1: Khi con nghe tiếng kêu mời gọi con đi gieo niềm tin mới. Con nay như thấy ngỡ ngàng vì Chúa đã đoái thương chọn con. Rồi một ngày Thánh Thần Chúa đã đến thánh hiến con cho Ngài sai con đi khắp mọi nơi rắc gieo tin vui cho muôn người. ĐK: Này đây Chúa ơi con hiến dâng cho Ngài, niềm tin tâm tư cùng trái tim nồng cháy. Từ đây hăng say theo bước chân của Ngài trung kiên làm chứng nhân Nước Trời thắp lên hạnh phúc cho muôn người. PK 2: Xin cho con suốt một tình yêu cho đi là lẽ sống. Xin cho con biết trung thành hoàn tất những bước chân đẹp xinh. Nguyện một đời con tìm đến, đến với hết những ai chân tình, để tình người mãi còn xanh ngát hương như hoa xuân trên cành. BÀI THU HOẠCH CÁ NHÂN (CHO VIỆC CHIA SẺ TRONG NGÀY BẾ GIẢNG) Trong các điều Anh Chị học được trong Khóa Thánh Phao-lô này: 1. Anh Chị tâm đắc nhất về điều gì? Anh Chị hãy trình bày điều ấy một cách vắn gọn (từ 10 đến 15 dòng khổ giấy A4). 2. Anh Chị hãy cho biết điều ấy phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào? (từ 5 đến 10 dòng khổ giấy A4). 3. Và cho biết điều ấy đã ảnh hưởng trên đời sống đức tin của riêng Anh Chị như thế nào? (từ 5 đến 10 dòng khổ giấy A4).
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» -------------------------------
ĐỀ TÀI IV GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ HỘI THÁNH I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU - Gợi ý của người hướng dẫn: Hôm nay chúng ta sẽ học cùng Thánh Phao-lô, về Hội Thánh: Hội Thánh là “Hội Thánh của Thiên Chúa” và “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô.” Đây là giáo huấn rất quan trọng cho đời sống Đức Tin của chúng ta. Vậy chúng ta hãy tập trung tâm trí vào buổi học và trước hết hãy cầu xin Thánh Thần Thiên Chúa xuống trên mỗi anh chị em chúng ta để Người ban cho chúng ta ơn biết nghe Lời Thiên Chúa qua giáo huấn của Thánh Phao-lô. - Cùng hát: LẮNG NGHE LỜI CHÚA 1. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài gọi con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời vừa khi con nghe Chúa. Xin cho con biết thân thưa: lạy Ngài, Ngài muốn con làm chi. ĐK.- Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài đượm chất ngất niềm vui, trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho đời con. 2. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài gọi con trong cuộc sống. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài từng theo bước đời con. Xin cho con biết sẵn sàng chờ đợi và vâng nghe theo Chúa. Xin cho con biết sẵn sàng thực hành Lời Chúa đã truyền ban. II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI III VỀ «CÔNG CUỘC, CHIẾN THUẬT VÀ PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO » CỦA THÁNH PHAO-LÔ Bạn muốn chia sẻ «khám phá », «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới Đề Tài III về «Công Cuộc, Chiến Thuật và Phương Thế Truyền Giáo» của Thánh Phao-lô mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu. III. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Ngoài «thân thế » và «sự nghiệp» lừng lẫy, Thánh Phao-lô còn có gì khác đáng chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi? 2. Trong các Giáo Huấn của Thánh Phao-lô thì chúng ta nên quan tâm đến những Giáo Huấn nào? Tại sao? 3. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Hội Thánh là “Hội Thánh của Thiên Chúa” và “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” phải được hiểu như thế nào?
4. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Hội Thánh là “Hội Thánh của Thiên Chúa” và “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” phải được các Ki-tô hữu -với tư cách là chi thể của Chúa Ki-tô và của nhau - sống như thế nào ? IV. HỌC HỎI VÀ CHIA SẺ 1. Không chỉ là người rao giảng Tin Mừng, Thánh Phao-lô còn là một bậc thầy chuyên về công việc dậy dỗ, khuyên nhủ, chỉ bảo các Ki-tô hữu, với những Giáo Huấn vừa sâu sắc vừa hợp thời. Đó chính là điều đáng chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi về Thánh Phao-lô, sau khi chúng ta đã biết qua về cuộc «trở lại» hay «đổi đời» diệu kỳ và về «thân thế sự nghiệp» lẫy lừng của ngài. Thật vậy, Thánh Phao-lô đã đóng góp rất lớn cho Ki-tô giáo trong việc đào sâu và trình bày Giáo Lý Đức Tin. Do đó chúng ta không thể bỏ qua các (hay ít ra là một số) Giáo Huấn của ngài. 2. Trong các Giáo huấn của Thánh Phao-lô thì chúng ta nên đặc biệt quan tâm đến một số Giáo Huấn quan trọng và cần thiết cho đời sống Đức Tin ngày hôm nay, như: - Giáo huấn về Hội Thánh: «Hội Thánh là Hội Thánh của Thiên Chúa» và «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô» (đề tài IV), - Giáo huấn về «Thánh Thể» (đề tài V), - Giáo huấn về «Thân Xác» và về «Hôn Nhân Gia Đình» (đề tài VI), - Giáo huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn trở nên Công Chính» (đề tài VII), - Linh Đạo Ki-tô hữu theo Giáo huấn của Thánh Phao-lô (đề tài VIII). Và chúng ta sẽ lần lượt học hỏi và chia sẻ về các Giáo Huấn quan trọng và cần thiết ấy trong các buổi học sắp tới. 3. Trình bày Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hội Thánh là Hội Thánh của Thiên Chúa» và «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô»: 3.1a Bối cảnh của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Hội Thánh là Hội Thánh của Thiên Chúa» là quan điểm thần học và giáo hội căn bản của Thánh Phao-lô, về Hội Thánh chống lại xu huớng tự nhiên của các Ki-tô hữu và của các cộng đoàn Ki-tô hữu muốn “cục bộ hóa” và “làm chủ” Hội Thánh. 3.1b Bối cảnh của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” là sự chia rẽ, bè phái xẩy ra trong cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô mà Thánh Phao-lô nghe biết từ người nhà của bà Khơ-lô-ê: “12 Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: "Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông Apô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô." 13 Thế ra Đức Ki-tô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phao-lô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phao-lô sao?” (1 Cr 1,12-13). 3.2 Nội dung của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Hội Thánh” gồm 2 nội dung đáng chúng ta lưu ý. Thứ nhất là Thánh Phao-lô luôn xem Hội Thánh ở bất cứ địa phương nào là «Hội Thánh của Thiên Chúa». Thứ hai là Thánh Phao-lô quan niệm và trình bày «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô.»
3.2.1 Hội Thánh là «Hội Thánh của Thiên Chúa» 1o) Lời Thánh Phao-lô: * «1Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giêsu, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, 2 kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh...» (1 Cr 1,1-2) * «1Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và Ti-mô-thê là người anh em, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, cùng với mọi người trong dân thánh trong khắp miền A-khai-a. 2 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.» (2 Cr 1,1-2). 2o) Giải thích chữ «Hội Thánh của Thiên Chúa», nhà chú giải William Barclay viết những dòng như sau: «Phao-lô nói về Hội Thánh Chúa tại Cô-rin-tô. Đây không phải là Hội Thánh của Cô-rin-tô mà là Hội Thánh của Thiên Chúa. Theo Phao-lô, một cộng đoàn riêng lẻ dầu bất cứ ở đâu vẫn là một thành phần thuộc Hội Thánh duy nhất của Thiên Chúa. Ông không muốn nói về Hội Thánh của một xứ nào, một quốc gia nào, cũng không đặt tên cho một Hội Thánh bằng tên của địa phương đó. Với Phao-lô Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa. Nếu nghĩ về Hội Thánh như vậy, chắc chúng ta sẽ nhớ lại Hội Thánh như là một thực tại kết hợp, thống nhất chúng ta với nhau nhiều hơn và sẽ bớt nhìn thấy những dị biệt có tính địa phương vẫn hay chia rẽ chúng ta» (William Barclay, Thư gửi tín hữu Côrin-tô, NXB Tôn giáo 2008, trang 5). 3.2.2 «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô» 1o) Giáo Huấn của Thánh Phao-lô: «12 Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. 13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất. 14 Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi. 15 Giả như chân có nói: "Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 16 Giả như tai có nói: "Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 17 Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? «18 Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. 19 Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? 20 Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. 21 Vậy mắt không có thể bảo tay: "Tao không cần đến mày"; đầu cũng không thể bảo hai chân: "Tao không cần chúng mày". «22 Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; 23 và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. 24 Còn những bộ
phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. 25 Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. 26 Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. «27 Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. 28 Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. 29 Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, 30 ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao? 31 Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.» (1 Cr 12,12-31). 2o) Hình vẽ biểu tượng: Vẽ hình một người với đầu, mình và chân tay. Trên đầu có tai, mắt, miệng..... Trên mình có trái tim và lá phổi. Rồi ghi chú các chức năng của mỗi cơ quan được gọi tên là các Thừa Tác Vụ (thừa tác vụ lãnh đạo thừa tác vụ lắng nghe (tiếng Thiên Chúa và tiếng con người - thừa tác vụ nhìn ra (nhận ra Chúa và nhận ra anh em) - thừa tác vụ nói Lời Chúa – thừa tác vụ yêu thương – thừa tác vụ chăm sóc – thừa tác vụ đi đến (những nơi/người cần mình) v.v... 3o) Giải thích Giáo Huấn «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Giê-su Ki-tô» chúng ta thấy được các nội dung giáo lý của Giáo Huấn như sau: - Như thân thể gồm nhiều cơ quan (hay chi thể) khác nhau nhưng vẫn chỉ là một thân thể, Hội Thánh của Thiên Chúa cũng gồm nhiều phần tử khác nhau là các Ki-tô hữu, nhưng vẫn chỉ là một Hội Thánh duy nhất; - Cũng như mỗi cơ quan (hay chi thể) của một thân thể có chức năng, phận vụ riêng, mỗi Ki-tô hữu trong Hội Thánh có vai trò, chức năng, ơn gọi và sứ mạng riêng; - Cũng như các chi thể của một thân thể phải hài hòa với các chi thể khác của thân thể, các Ki-tô hữu trong Hội Thánh phải sống hài hòa, liên đới, tương trợ, bổ sung với các Ki-tô hữu khác; - Cũng như một chi thể nào của thân thể bị đau thì sẽ khiến cả thân thể bị đau, một Ki-tô nào của Hội Thánh không mạnh khỏe sẽ làm cả Hội Thánh phải yếu đau; - Cũng như tất cả mọi chi thể của một thân thể đều được nuôi dưỡng bằng một dòng máu xuất phát từ trái tim, tất cả các Ki-tô hữu của Hội Thánh đều được nuôi sống bằng Dòng Máu Tình Yêu và Ân Sủng xuất phát từ chính Thiên Chúa, Cha Con và Thánh Thần; - Cũng như tất cả mọi chi thể của một thân thể đều phải tuân theo mệnh lệnh của cái đầu là cơ quan chỉ huy, tất cả các Ki-tô hữu của Hội Thánh đều phải thực thi
mệnh lệnh của Chúa Giê-su Ki-tô là đầu Hội Thánh và của các mục tử hợp pháp và có năng quyền lãnh đạo Dân Chúa. 3. Sống Giáo Huấn “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô”: Các Ki-tô hữu với tư cách là chi thể của Chúa Ki-tô và của nhau - phải sống Mầu Nhiệm của “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” bằng nhiều cách khác nhau (xem phần ứng dụng ở dưới). V. ỨNG DỤNG [LINH ĐẠO VÀ SỐNG LINH ĐẠO] 1. Sống mối tương quan ngày càng gắn bó, mật thiết hơn với Chúa Giê-su Ki-tô là Đầu của Thân Thể là Hội Thánh; 2. Sống mối tuơng quan ngày càng hiệp thông, đoàn kết, liên đới, bổ trợ, tôn trọng sự khác biệt... hơn, đối với các anh chị em Ki-tô hữu xung quanh, vì mọi người là chi thể của nhau; 3. Sống đạo đức, thánh thiện để đóng góp vào sự lành mạnh và thánh thiện của Thân Thể Chúa Ki-tô là Hội Thánh; 4. Biến mình thành công cụ của Chúa Ki-tô có nghĩa là chúng ta trở thành đôi tay, đôi chân, tiếng nói... của Chúa Ki-tô như cách diễn giải của William Barclay về câu nói (của Thánh Phao-lô): “Anh em là Thân Thể của Chúa Ki-tô”: “Ở đây có một tư tưởng phi thường. Chúa Giê-su không còn trong xác thịt trên trần gian này nữa, do đó, nếu Ngài muốn làm một việc gì trên đời này, Ngài phải tìm một người để làm công việc ấy. Nếu Ngài muốn dậy dỗ một đứa trẻ, Ngài tìm một thầy giáo để dậy bảo nó. Nếu muốn chữa lành một người bệnh, Ngài tìm một bác sĩ hay một nhà giải phẫu để làm công việc đó cho Ngài. Nếu Ngài muốn kể lại một câu chuyện về mình, Ngài phải tìm một người để kể. Tóm lại chúng ta là thân thể của Chúa Ki-tô, là những bản tay để làm việc cho Ngài, những bản chân để chạy việc cho Ngài, là tiếng nói để phát ngôn cho Ngài. “Ngài không có tay, chỉ có đôi tay của chúng ta Để làm công việc ngày hôm nay của Ngài. Ngài không có chân, chỉ có đôi chân của chúng ta Để dẫn người ta theo đường lối Ngài. Ngài không có tiếng nói, chỉ có tiếng nói của chúng ta Để nói vời loài người rằng Ngài đã chịu chết như thế nào Ngài không có cách giúp đỡ nào khác ngoài sự giúp đỡ của chúng ta Để đưa họ đến bên cạnh Ngài.” (William Barclay, Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, NXB Tôn giáo 2008, trang 100).
VI. CHUẨN BỊ BÀI SAU CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI V GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ THÁNH THỂ Câu hỏi gợi ý chia sẻ: Nhờ đề tài IV bạn đã có dịp học hỏi Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Hội Thánh là «Hội Thánh là của Thiên Chúa» và «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Giê-su Ki-tô», bạn có «khám phá », «cảm nghiệm », «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới? Xin ghi “nhật ký” để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các anh chị em khác. Câu hỏi gợi ý tìm hiểu: 1. Ngoài Giáo huấn về Hội Thánh là “Hội Thánh của Thiên Chúa” và “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” Thánh Phao-lô còn có Giáo Huấn nào khác đáng chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi? 2. Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể phải được hiểu như thế nào? 3. Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào ? VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC - Gợi ý của người hướng dẫn: Chúng ta vừa tìm hiểu Giáo huấn của Thánh Phao-lô về “Hội Thánh là Hội Thánh của Thiên Chúa” và “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô”, qua đó chúng ta thấy rõ hai mối tương quan chiều dọc và chiều ngang của đời sống đức tin của chúng ta. Chiều dọc là sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su Ki-tô và chiều ngang là sống hiệp thông, đoàn kết, yêu thương và liên đới với các anh chị em Ki-tô hữu khác. Chúng ta hãy nguyện xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn hiệp nhất và quyết tâm xây dựng tình hiệp thông đoàn kết giữa những người cùng tin theo Chúa. - Cùng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha, vì Cha đã sai Con Một Cha xuống trần gian để Người quy tụ chúng con thành một cộng đoàn, một dân thánh. Chúng con còn được cha ban Thánh Thần là Đấng sẽ giúp chúng con sống kết hiệp mật thiết với Cha và hiệp thông sâu xa với anh chị em cùng niềm tin. Xin cho chúng con nên một trong Tình Yêu Cha! - Cùng hát: BÀI CA HIỆP NHẤT
ĐK.- Xin hiệp nhất chúng con nên một trong Tình Yêu Chúa. Xin hiệp nhất chúng con như Ngài liên kết với Cha. Xin giải thoát chúng con xa điều bất hòa chia rẽ.Xin kết liên muôn người trong Tình mến Chúa Cha muôn đời. PK 1: Vì Ngài được sai đến để tìm chiên khắp nơi xa xôi. Vì rằng Cha sai đến, đến đưa về ràn chiên duy nhất. Thì này nguyện xin Chúa, hãy thương ban Thánh Linh của Ngài, hiệp nhất chúng con trong Chúa. PK 2: Người người mọi dân nước cũng là con của Cha trên trời. Được Ngài thương cứu vớt bởi một lần hy sinh khổ giá. Thì này nguyện xin Chúa, hãy thương ban Thánh Linh của Ngài, hiệp nhất chúng con trong Chúa.
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» --------------------
ĐỀ TÀI V GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ THÁNH THỂ. I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU - Gợi ý của người hướng dẫn: Hôm nay chúng ta sẽ học cùng Thánh Phao-lô, về Thánh Thể còn được gọi là Bữa Tối của Chúa Giê-su. Thánh Thể là Mầu Nhiệm và là Cử Hành gần gũi nhất với đời sống Đức Tin của chúng ta. Nhưng Thánh Thể cũng đòi hỏi ở những người tham dự một thái độ, một cách sống xứng hợp. Vì thế mà chúng ta cần tìm hiểu cho kỹ và cố gắng áp dụng Giáo Huấn của Thánh Phao-lô vào cuộc sống. Trước hết chúng ta hãy dâng lời ca tụng Thiên Chúa là Tình Yêu, Tình Yêu Ban Phát, Tình Yêu Hiến Dâng, Tình Yêu Cho Đi, vì chính nhờ Tình Yêu này mà chúng ta có Thánh Thể. - Cùng hát: CHÚA LÀ TÌNH YÊU ĐK: Chúa là Tình Yêu, Ngài đã đến cứu thế giới khỏi chốn lưu đầy. Chúa là Tình Yêu, Ngài đã thương ban Con Một cho trần thế. Để đem muôn ơn lành, để loan tin vui mừng, khắp thế giới cho mọi người, Ngài đã chết trong đau thương để ta sống bình an. PK 1: Còn tình yêu nào cao vời vợi bằng tình Chúa đã thương ta. Dù rằng đất trời mãi đổi thay, nhưng tình Chúa vẫn yêu ta đến muôn muôn đời. PK 2: Ngài hằng mong chờ luôn mời gọi người người sống yêu thương nhau. Để tình yêu Ngài mãi tràn lan trong tình chúng ta yêu nhau sống vui an bình. II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI IV VỀ GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ «HỘI THÁNH LÀ THÂN THỂ CHÚA KI-TÔ» Bạn muốn chia sẻ «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới Đề Tài IV : Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Hội Thánh là «Hội Thánh của Thiên Chúa» và «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô» mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu. III. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Ngoài Giáo Huấn về Hội Thánh là «Hội Thánh của Thiên Chúa» và «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô» Thánh Phao-lô còn có Giáo Huấn nào khác đáng chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi? 2. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể phải được hiểu như thế nào?
3. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào ? IV. HỌC HỎI VÀ CHIA SẺ 1. Ngoài Giáo huấn về Hội Thánh là «Hội Thánh của Thiên Chúa» và «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô» Thánh Phao-lô còn có Giáo Huấn về Thánh Thể cũng rất đáng được chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi, vì Thánh Thể, còn được gọi là Bữa Tối của Chúa, là việc làm do chính Chúa Giê-su đã thực hiện trong Đêm Thứ Năm Tuần Thánh và đã truyền lệnh cho Hội Thánh «hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy». Vì thế mà Mầu Nhiệm và Cử Hành gắn liền với đời sống đức tin của chúng ta. 2. Tìm hiểu Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Thánh Thể” 2.1 Bối cảnh của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Thánh Thể” là sự xúc phạm đến ý nghĩa và đòi hỏi của việc cử hành Bữa Tối của Chúa trong cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô: “17 Nhân lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại. 18 Thật thế, trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau, và tôi tin là điều ấy có phần nào đúng. 19 Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn. 20 Khi anh em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. 21 Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say. 22 Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? Tôi phải nói gì với anh em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu!” (1 Cr 11,17-22). 2.2 Nội dung của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Thánh Thể” a) Bản văn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể (1 Cr 11,23-34) «23 Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." 25 Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." 26 Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. 27 Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. «28 Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. 29 Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. 30 Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết.31 Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử. 32 Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian.
«33 Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. 34 Ai đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án. Về các vấn đề khác, tôi sẽ liệu khi nào đến thăm anh em.» b) Các bản văn của Tin Mừng Nhất Lãm về Thánh Thể 1o) Bản văn của Thánh Mát-thêu (26,26-29): «26 Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy." 27 Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy uống chén này, 28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội. 29 Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.» 2o) Bản văn của Thánh Mác-cô (14,22-25): «22 Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." 23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. 24 Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. 25 Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.» 3o) Bản văn của Thánh Lu-ca (22,14-20): «14 Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. 15 Người nói với các ông: "Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa." «17 Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18 Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến." «19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy." 20 Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.» c) So sánh các bản văn Kinh Thánh về Thánh Thể: 1 Cr 11,17-34 Nhân lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại. 18 Thật thế, trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau, và tôi tin là điều ấy có phần nào 17
Mt 26, 26-29 Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ 26
Mc 14, 22-25 Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông 22
Lc 22,14-20 Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. 15 Người nói với các ông: "Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ 14
đúng. 19 Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn. 20 Khi anh em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. 21 Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say. 22 Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? Tôi phải nói gì với anh em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu! 23 Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." 25 Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." 26 Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.
và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy." 27 Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy uống chén này, 28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.
và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." 23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. 24 Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa." 25
Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy." 29
hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa." 17 Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18 Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến." 19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy." 20 Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.”
Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. 28 Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. 29 Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. 30 Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết.31 Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử. 32 Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian. 33 Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. 34 Ai đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án. Về các vấn đề khác, tôi sẽ liệu khi nào đến thăm anh em. 27
d) Chúng ta thấy một số điểm giống và khác nhau như sau: 1o) Trước hết chúng ta nên nhớ rằng đoạn văn của Phao-lô (55) có trước ba đoạn văn của Tin Mừng Nhất Lãm: Mác-cô (64), Mát-thêu (70) và Lu-ca (85-90). 2o) Hành động và lời "truyền phép” của Chúa Giê-su tức hành động và lời nói làm nên Bí Tích Thánh Thể được nêu lên trong cả 4 đoạn văn của Phao-lô, Mátthêu, Mác-cô và Lu-ca: "Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em" và "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới." Như vậy cốt yếu của Mầu Nhiệm hay Bí Tích Thánh Thể là sự hiến tế thập giá của Chúa Giê-su,
Con Thiên Chúa, vì con người, vì chúng ta! Và đồng thới là Lễ Tạ Ơn đối với Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một ... (Ga 3,16). 3o) Từ «Giao Ước» cũng được nêu lên trong cả 4 đoạn văn của Phao-lô, Mátthêu, Mác-cô và Lu-ca. Đây là Giao Ước Mới, thay thế Giao Ước Cũ giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en. 4o) «Lệnh truyền» của Chúa Giê-su về việc làm lại việc Người làm: "Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy" chúng ta chỉ tìm thấy trong hai đoạn văn của Phao-lô (1 Cr 11, 25) và Lu-ca (22,19). 5o) «Bữa Tiệc Cánh Chung» được Chúa Giê-su nhắc đến trong ba đoạn văn của Mát-thêu (26,29), Mác-cô (14,25) và Lu-ca (22,15.18). 6o) Trong đoạn văn của Lu-ca, chúng ta thấy trước Bữa Ăn Thánh Thể là Bữa Ăn Vượt Qua của Cựu Ước (xem Xh 12,1-28). Trong bản văn Lu-ca trong Bữa Ăn Vượt Qua còn có một chi tiết trong lời nói của Chúa Giê-su: "Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau” thay vì "cầm lấy mà ăn, mà uống"! 7o) Trong đoạn văn của Phao-lô, chúng ta thấy phần đầu (1 Cr 11, 17-22) và phần cuối (1 Cr 11, 27-34) là hai văn đoạn không có trong ba bản văn Phúc Âm. Phần đầu có thể được xem là nguyên do hay cơ hội khiến Phao-lô phải nhắc đến sự kiện Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Còn phần cuối là những lời cảnh báo của Phao-lô về những vi phạm của một số Ki-tô hữu Cô-rin-tô trong các buổi cử hành Thánh Thể. Cũng trong đoạn văn này chúng ta thấy Phao-lô nói lên ý nghĩa của việc tham dự Thánh Thể: "Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết." (1 Cr 11, 26). 8o) Ngoài ra, phần đầu đoạn văn của Phao-lô (1 Cr 11, 17-22) còn cho chúng ta thấy một sinh hoạt rất đặc biệt của người thời xưa: Đó là "tập tục nhiều người tụ tập lại để ăn bữa chung với nhau và có một loại tiệc đặc biệt là eranos, mỗi người đem theo phần ăn riêng của mình, tất cả góp lại để làm một bữa ăn chung. Hội Thánh sơ khai cũng có thói quen đó. Các Ki-tô hữu có một bữa ăn gọi là agape, bữa tiệc yêu thương. Khi đến dự, mỗi người đem thức ăn tới để chung mọi thứ lại rồi cùng ngồi ăn chung với nhau. Đây là một tập tục tốt... một phuơng thức nhằm kiến tạo và nuôi dưỡng sự hiệp thông thật sự giữa các Ki-tô hữu. Nhưng giáo đoàn có kẻ giầu, người nghèo, có người đem đến nhiều thức ăn, nhưng cũng có nhiều nô lệ vốn chẳng có gì để góp phần cả. Quả thật, với một người nô lệ nghèo khổ thì bữa tiệc yêu thương chính là bữa ăn đầy đủ nhất trong tuần. Nhưng tại Cô-rin-tô, nghệ thuật chia sẻ cho nhau đã bị đánh mất, người giầu đã không chia thức ăn của mình, nhưng tụ tập thành một nhóm riêng, ăn uống hối hả như sợ phải chia phần cho kẻ khác, trong khi số người nghèo thì hầu như chẳng có gì mà ăn cả. Hậu quả trong bữa mà lẽ ra việc phân chia giai cấp xã hội bị xóa sổ, lại càng mài nhọn, gây nên tình trạng trầm trọng thêm. Đáng lẽ phải là cơ hội thông hiệp, lại thoái hóa để trở thành những điều gây phân chia giai cấp. Cho nên Phaolô đã không ngần ngại quở trách không tiếc lời." (William Barclay, Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, NXB Tôn giáo, 2008, trang 87-88). Để dễ nhận ra những điểm tương đồng và dị biệt trong 4 bản văn Kinh Thánh nói trên, chúng ta hãy nhìn vào biểu đồ sau đây: Nội dung
1 Cr
Mt
Mc
Lc
1. Bữa Ăn Vượt Qua 2. Bữa Ăn Yêu Thương (Agapê) 3. Hành động và lời làm nên Thánh Thể 4. ”Giao Ước” 5. Lệnh truyền lập lại 6. Bữa Tiệc Cánh Chung 7. Ý nghĩa của việc ăn bánh uống chén 8. Tội phạm đên Thánh Thể
11,17-34
26,26-29
14,22-25
22,14-20
o x
o o
o o
x o
x
x
x
x
x x o x
x o x o
x o x o
x x x o
x
o
o
o
e) Tội phạm đến Thánh Thể theo giáo huấn của Thánh Phao-lô: Thánh Phao-lô cảnh báo: "Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này." (1 Cr 11,27-28). Chính Thánh Phao-lô giải thích ăn Bánh và uống Chén của Chúa cách bất xứng là không phân biệt được Thân Thể Chúa. Câu này có thể được hiểu theo 2 nghĩa như sau: * Nghĩa thứ nhất là người ăn Bánh và uống Chén mà không hiểu rõ ý nghĩa, không ý thức được tính quan trọng của việc mình làm, không lãnh hội thấu đáo tính cách thánh thiêng của sự việc. Cũng có thể hiểu là người ăn Bánh và uống Chén mà không có lòng tôn kính, không ý thức được tình yêu thương và phần trách nhiệm việc làm đó sẽ áp đặt trên người ấy. * Nghĩa thứ hai là người ăn Bánh và uống Chén mà không biết rằng Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô (12,12) vì thế không kể gì đến anh chị em minh trong buổi lễ cử hành Thánh Thể. Nói cách khác là người không hiểu Thân Thể Chúa Ki-tô là cộng đoàn tín hữu, nên kỳ thị anh em mình, nhìn anh em mình bằng con mắt đố kỵ như không phải là một người trong anh em. Vì thế tất cả những ai có lòng hận thù, cay đắng, đố kỵ anh em mình sẽ ăn và uống cách không xứng đáng nếu còn giữ tinh thần đó trong lòng mà đến bàn tiệc của Chúa. V. ỨNG DỤNG [LINH ĐẠO VÀ SỐNG LINH ĐẠO] 1. Trong Tông Huấn "Bí Tích Tình Yêu" Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, trình bày Bí Tích hay Mầu Nhiệm Thánh Thể là để TIN, CỬ HÀNH và SỐNG. Nên chúng ta cố gắng tìm đọc và học về Tông Huấn quan trọng này. 2. Ở đây chúng ta được mời gọi ứng dụng Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể chủ yếu bằng hai cách sau đây:
* Cách thứ nhất là chúng ta cử hành và tham dự Thánh Thể một cách hiểu biết và ý thức về ý nghĩa và đòi hỏi của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Ý nghĩa của Thánh Thể là Hiến Tế của Con Thiên Chúa, là Giao Ước Mới được ký kết giữa Thiên Chúa và nhân loại trong Máu Thánh của chính Chúa Giê-su Ki-tô, Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. * Cách thứ hai là trước khi Ăn Bánh và Uống Chén của Chúa chúng ta phải có những bữa ăn agape (tức bữa ăn yêu thương huynh đệ) giữa các anh em chị trong cộng đoàn. Có nghĩa là chỉ khi chúng ta đã thể hiện tình yêu thương với anh chị em trong cộng đoàn, nhất là với những người túng thiếu, cần sự chia sẻ của chúng ta (lương thực vật chất, mối quan tâm, thời gian, sự yêu thương, chăm sóc), thì chúng ta mới cử hành Bữa Tối của Chúa một cách xứng đáng. Nói vắn gọn: Thánh Thể đòi hỏi sự tương trợ và chia sẻ. Chính Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, trong buổi triều yết dành cho hai tổ chức từ thiện của Bénélux «Pro Petri Sede» và của Bỉ «Etrennes Pontificales» sáng 27.2.2009 vừa qua, đã phát biểu như sau: «Năm Thánh Phao-lô cho chúng ta cơ hội, -nhờ suy niệm lời Thánh Tông Đố Dân Ngoại-, ý thức lại một cách sống động hơn về sự kiện Hội Thánh là một Thân Thể mà trong Thân Thể ấy chỉ có một sự sống duy nhất luân chuyển là sự sống của Chúa Ki-tô. Vì thế mỗi chi thể của Hội Thánh gắn liền, cách rất sâu sắc, với tất cả các chi thể khác và không thể không biết đến nhu cầu của những chi thể kia». Đức Thánh Cha nói thêm: «Được nuôi dưỡng bằng cùng một Tấm Bánh Thánh, các Ki-tô hữu không thể thờ ơ khi thiếu bánh trên bàn ăn của nhân loại. Năm nay các con đã chấp nhận lằng nghe tiếng gọi mở rộng tâm hồn trước các nhu cầu của những người túng thiếu, với mục đích làm cho các chi thể của Thân Thể Chúa Ki-tô đang bị nỗi khổ dày vò, được an ủi và trở nên những chi thể sống động và tự do hơn để làm chứng cho Tin Mừng» (bản tin Zenit ngày 27.2.2009). VI. CHUẨN BỊ BÀI SAU CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI VI GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ THÂN XÁC VÀ VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH Câu hỏi gợi ý chia sẻ: Nhờ đề tài V bạn đã có dịp học hỏi Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Thánh Thể», bạn có «khám phá », «cảm nghiệm », «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới? Xin ghi “nhật ký” để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các anh chị em khác. Câu hỏi gợi ý tìm hiểu: 1. Ngoài Giáo Huấn về «Hội Thánh» và Giáo Huấn về «Thánh Thể», Thánh Phao-lô còn có Giáo Huấn nào khác đáng chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi?
2. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Thân Xác» phải được hiểu như thế nào? 3. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Thân Xác» phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào? 4. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hôn Nhân Gia Đình» phải được hiểu như thế nào? 5. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hôn Nhân Gia Đình» phải được các Kitô hữu sống như thế nào? VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC - Gợi ý của người hướng dẫn: Chúng ta vừa học về Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể. Lâu nay có thể chúng ta chưa nhận thức đủ về ý nghĩa và yêu cầu của Thánh Thể, nên chúng ta cử hành và tham dự một cách máy móc, hình thức, hời hợt. Cũng vì chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và yêu cầu của Thánh Thể, nên chúng ta không quan tâm đến việc giúp đỡ, chia sẻ những gì chúng ta có -hay đúng hơn chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa- với những anh chị em cần đến những thứ ấy để có đời sống xứng đáng hơn với phẩm giá làm người và làm con Chúa. - Cùng cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su đang hiện diện trong Mình Thánh. Con xin hiến dâng linh hồn và thân xác con để hợp nhất cùng Chúa vẫn hằng ngày được dâng làm của lễ hiến tế khắp nơi trên thế giới, để tôn vinh Thiên Chúa Cha và cầu xin cho triều đại Ngài trị đến. Xin Chúa đoái nhận của lễ hèn mọn này là bản thân con. Xin sử dụng con theo Thánh Ý Chúa vì vinh quang Thiên Chúa Cha, và sự cứu rỗi các linh hồn. Lạy Chúa Giê-su êm ái dịu dàng, xin cho lòng con bừng cháy ngọn lửa yêu mến Chúa. Xin biến hóa thân con thành chính Mình Ngài. Xin Chúa thần-linh-hóa bản thân con, ngõ hầu mọi cử chỉ, hành vi của con đều đẹp lòng Chúa. Ước chi Ngài thực hiện điều ấy nơi con, nhờ quyền năng phép Thánh Thể con được rước mỗi ngày. Ôi! Con nóng lòng ước ao biến hóa toàn thân thành Mình Chúa, Chúa ôi, Chúa của con! - Cùng hát: TA LÀ BÁNH HẰNG SỐNG ĐK: Ta là Bánh Hằng Sống, là Bánh ban xuống bởi trời. Ta là Bánh Trường Sinh, ai ăn sẽ sống muôn đời. 1.2.3 Đây Mình Ta chính là của ăn, và Máu Ta thật là của uống. 1. Người ăn Bánh này không còn đói khát chi, người uống Máu này sẽ được trường sinh. 2. Người không lãnh nhận ăn Thịt uống Máu Ta, sẽ chết hao mòn muôn đời trầm luân. 3. Dù cho đất trời theo ngày tháng biến thay, Lời Chúa ban truyền muôn đời không phai.
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» -------------------------------
ĐỀ TÀI VI GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ THÂN XÁC VÀ VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU - Gợi ý của người hướng dẫn: Hôm nay chúng ta sẽ đến với Thánh Phao-lô để xin ngài giảng dậy cho chúng ta hiểu về giá trị và ý nghĩa của “Thân Xác” và của “Hôn Nhân Gia Đình”. Điều này rất quan trọng đối với giáo dân nói chung, và với các bậc làm cha mẹ và các bạn trẻ nói riêng vì trong bối cảnh xã hội và thế giới hiện nay đang bị tràn ngập bởi nhiều tội ác liên quan tới thân xác con người (tà dâm, đĩ điếm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, kỹ nghệ tình dục v.v…) khiến những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình và xã hội bị sa sút trầm trọng. Trong bối cảnh ấy, Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Thân xác” và về “Hôn Nhân Gia Đình” là một liều thuốc đặc trị cần thiết và hữu ích cho cá nhân và cộng đồng. Chúng ta hãy dâng lời chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa vì Người đã dựng nên con người là tạo vật có hồn và xác và vì Người đã thiết lập định chế Hôn Nhân Gia Đình cho con người sống nương tựa lẫn nhau. Chúng ta cũng hãy dâng chính con người chúng ta cho Thiên Chúa, để Người gìn giữ, thanh luyện và thánh hóa trong quyền năng và tình thương của Người! - Cùng hát: CHÚA KHÔNG LẦM 1. Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con. Dù lời ngài con không giữ tròn. Vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: Rằng thân con bởi tro bụi, và được cưu mang trong tội lỗi. ĐK. NHƯNG LÒNG CHÚA VẪN BAO LA, DÙ CHO BAO PHEN CON YẾU ĐUỐI, THÀNH TÂM XIN ĂN NĂN THỐNG HỐI, LÀ NGÀI LẠI THỨ THA. 2. Chúa không lầm khi Ngài đành hy sinh. Để rồi nhìn con không đáp tình. Vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: Con mang thân thể nặng nề, là còn luôn mê trần thế. ĐK.
II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI V VỀ GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ «THÁNH THỂ» Bạn muốn chia sẻ «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi», gì mới hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới Đề Tài V: Giáo huấn của Thánh Phao-lô về «Thánh Thể» mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu. III. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Ngoài Giáo Huấn về «Hội Thánh» và Giáo Huấn về «Thánh Thể», Thánh Phao-lô còn có Giáo Huấn nào khác đáng chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi? 2. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Thân Xác» phải được hiểu như thế nào? 3. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Thân Xác» phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào? 4. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hôn Nhân Gia Đình» phải được hiểu như thế nào? 5. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hôn Nhân Gia Đình» phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào? IV. HỌC HỎI VÀ CHIA SẺ 1. Ngoài Giáo Huấn về “Hội Thánh” và Giáo Huấn về “Thánh Thể”, Thánh Phao-lô còn có một số Giáo Huấn khác rất đáng được chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi để áp dụng vào cuộc sống người Ki-tô hữu. Trước hết đó là Giáo Huấn về «Thân Xác» và về «Hôn Nhân Gia Đình» mà chúng ta sẽ tìm hiểu hôm nay. Đây là một Giáo Huấn rất cần được học hỏi, nghiên cứu tường tận và áp dụng triệt để, để phục hồi giá trị của thân xác và của hôn nhân gia đình Ki-tô giáo trong một xã hội và thế giới đang sa sút trầm trọng về các giá trị thiết yếu của đời sống luân lý, nhất là luân lý tính dục. 2. Tìm hiểu Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Thân Xác». a) Bối cảnh của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Thân xác”: Các tín hữu Cô-rin-tô đã có một đời sống tính dục buông thả, nào là tội loạn luân (1 Cr 5), nào là tội tà dâm (1 Cr 6,12-20). Sự kiện này không có gì đáng ngạc nhiên vì phần đông anh chị em tín hữu Cô-rin-tô đều là những người tân tòng, họ vừa trở lại từ một môi trường nổi tiếng là “tội lỗi” là thành phố Cô-rin-tô thời đầu Công Nguyên. b) Ý nghĩa của Thân Xác theo Giáo Huấn của Thánh Phao-lô: Theo Thánh Phao-lô thì thân xác của con người hay đúng hơn của người Ki-tô hữu có 4 ý nghĩa cốt yếu sau đây: 1°) Thân xác con người là để phụng sự Thiên Chúa: «Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác.» (1 Cr 6,13).
2°) Thân xác con người là thân thể Chúa Ki-tô: «15 Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Ki-tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào! 16 Anh em chẳng biết rằng ăn ở với người kỹ nữ là nên một thân xác với người ấy sao? Thật thế, có lời chép rằng cả hai sẽ thành một xương một thịt. 17 Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.» (1 Cr 6,15-17). 3°) Thân xác con người là Đền thờ Chúa Thánh Thần: «19 Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, 20 vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em.» (1 Cr 6,19-20). 4°) Thân xác con người là để chờ ngày được phục sinh: «14 Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại.» (1 Cr 6,14). 3. Sống Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Thân Xác»: 1°) Làm vinh danh Thiên Chúa bằng/nơi thân xác: “Anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.» (1 Cr 6,20). 2°) Tránh tội gian dâm làm hoen ố thân xác: «Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình.» (1 Cr 6,18). 3°) Tránh gương mù gương xấu: Phải đau buồn về tình trạng tội lỗi trong cộng đoàn và loại trừ người phạm tội loạn luân ra khỏi cộng đoàn, để tránh gây gương mù gương xấu cho người khác (1 Cr 5,2). 4. Tìm hiểu Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hôn Nhân Gia Đình» a) Bối cảnh của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Hôn Nhân Gia Đình”: Nhân dịp phải trả lời thư đã nhận được từ các tín hữu Cô-rin-tô: “Bây giờ, tôi đề cập tới những điều anh em đã viết cho tôi: đàn ông không gần đàn bà là điều tốt.” (1 Cr 7,1), Thánh Phao-lô lợi dụng cơ hội để trình bày Giáo Huấn của ngài (= của Mạc Khải) về “Hôn Nhân Gia Đình” Ki-tô giáo. b) Lời Thánh Phao-lô về “Hôn Nhân Gia Đình”: Thánh Phao-lô đề cập đến “Hôn Nhân Gia Đình” trong 2 đoạn văn quan trọng sau: - Đoạn văn thứ nhất là 1 Cr 7,2-11: «2 Nhưng để tránh hiểm hoạ dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng. 3 Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. 4 Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. 5 Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Xa-tan lợi dụng để cám dỗ. 6 Điều tôi nói đó là một sự nhân nhượng chứ không phải là một mệnh lệnh. 7 Tôi ước muốn mọi người đều như tôi; nhưng mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng, kẻ thế này, người thế khác. 8 Với những người độc thân và quả phụ, tôi nói thế này: họ cứ ở vậy
như tôi thì tốt cho họ. 9 Nếu không tiết dục được, họ cứ kết hôn, vì thà kết hôn còn hơn là bị thiêu đốt. 10 Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, 11 mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.» - Đoạn văn thứ hai là Ep 5,22-32: «22 Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. 24 Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. 25 Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; 26 như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, 27 để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. 28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, 30 vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. 31 Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. 33 Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.» c) Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Hôn Nhân Gia Đình: * Từ đoạn văn 1 Cr 7,2-11: 1°) Tính hợp pháp của Hôn Nhân: sống độc thân là một lý tưởng tốt lành, nhưng không phải ai cũng có thể sống độc thân, vì nó đòi hỏi một ân sủng, một hồng ân đặc biệt của Thiên Chúa (c 7). Như vậy hôn nhân được coi như một phương thuốc chữa trị tình tư dục, một lối phòng vệ dành cho những người vì không nhận được hồng ân đó nên không thể giữ mình (c 2). Từ quan điểm này, hôn nhân là hoàn toàn hợp pháp; kết hôn không hề là điều tội lỗi (cc 28,36). Đôi khi hôn nhân trở thành một nghĩa vụ luân lý (cc 8-9). 2°) Tính không thể tháo gỡ của Hôn Nhân: Cả chồng cả vợ không được bỏ người phối ngẫu. Có thể ly thân tức là sống tách ra nhưng không được lấy người khác (1 Cr 7, 4-5.10-11.39 xem Rm 7,2-3). 3°) Tính duy nhất của Hôn Nhân: “nhất phu nhất phụ” (xem Rm 7,2-3). 4°) Sự thánh thiện của Hôn Nhân: được biểu thị qua * Mục tiêu của Hôn Nhân: sinh sản và giáo dục con cái con cái (nhân bản /đức tin) là việc tiếp nối công trình của Đấng Tạo Hóa, tiếp diễn và mở rộng gia đình con cái Thiên Chúa. * Tính biểu tượng thánh thiêng của Hôn Nhân Ki-tô giáo: - Hôn Nhân, một biểu tượng: “22 Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. 24 Và như Hội
Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy.” (Ep 5,22-24) - Hôn Nhân, một Bí Tích: Giáo hội đặt hôn nhân trong số 7 bí tích Chúa Giê-su Ki-tô thiết lập. - Tính ưu việt của khiết tịnh hoàn hảo: đời sống khiết tịnh vì Chúa ưu việt hơn đời sống vợ chồng, vì người sống khiết tịnh được giải phóng khỏi những lo toan trần thế và những trở ngại đủ loại đi kèm theo hôn nhân. 5°) Những quyền lợi và nghĩa vụ hỗ tương của các đôi vợ chồng: * bình đẳng về quyền lợi: Người phụ nữ không còn là đồ vật của đàn ông, nhưng là bạn đời: người vợ bình đẳng với người chồng trong mọi quyền lợi chính yếu, người chồng cũng có những bổn phận đối với vợ y như bổn phận của người vợ đối với chồng, và điều đó có được nhờ sự cho đi không lấy lại, vốn nối kết người này với người kia. Mỗi người không còn thuộc về riêng mình, nhưng thuộc về người mình đã trao hiến: “3 Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. 4 Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. 5 Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Xa-tan lợi dụng để cám dỗ.... 10 Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, 11 mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.” (1 Cr 7,3-5.10-11) * phẩm trật các vai trò: “Nhưng tôi muốn anh em biết rằng thủ lãnh của người nam là Đức Ki-tô, thủ lãnh của người nữ là người nam, và thủ lãnh của Đức Ki-tô là Thiên Chúa.... 8 Thật vậy, không phải người nam tự người nữ mà có, nhưng người nữ tự người nam. 9 Cũng chẳng phải người nam được dựng nên vì người nữ, nhưng người nữ vì người nam. 11 Tuy nhiên, trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam. 12 Thật thế, như người nữ tự người nam mà có, thì người nam cũng bởi người nữ mà sinh ra, và mọi sự đều tự Thiên Chúa mà có.” (1 Cr 11,3.8-9.11-12). * Từ đoạn văn Ep 5,22-32: 1°) Đối chiếu giữa Hôn Nhân con người với sự kết hiệp giữa Đức Ki-tô và Giáo Hội (cc 22-31). 2°) Mầu nhiệm này là cao cả (c 32). Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô kết hiệp với Hội Thánh là “mẫu”, “mô hình” và “lý tưởng” cho sự kết hiệp phu phụ. Sự kết hiệp phu phụ là “hình bóng”, “dấu chỉ” của Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô kết hiệp với Hội Thánh. 5. Sống Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hôn Nhân Gia Đình» V. ỨNG DỤNG [LINH ĐẠO VÀ SỐNG LINH ĐẠO] Sống Giáo Huấn của Thánh Phaolô về ”Thân Xác” (xem IV.3) và ”Hôn Nhân Gia Đình” (xem IV.5) ở trên.
VI. CHUẨN BỊ BÀI SAU CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI VII GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ ƠN TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH. Câu hỏi gợi ý chia sẻ: Nhờ đề tài VI bạn đã có dịp học hỏi Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Thân Xác” và về «Hôn Nhân Gia Đình» bạn có «khám phá», «cảm nghiệm » hay «quyết tâm» gì mới? Xin ghi “nhật ký” để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các anh chị em khác. Câu hỏi gợi ý tìm hiểu: 1. Ngoài Giáo Huấn về «Hội Thánh”, về «Thánh Thể», về “Thân Xác” và “Hôn Nhân Gia Đình” Thánh Phao-lô còn có Giáo Huấn nào khác đáng chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi? 2. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên công chính» phải được hiểu như thế nào? 3. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên công chính» phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào? VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC - Gợi ý của người hướng dẫn: Chúng ta vừa học hỏi, chia sẻ về Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về ”Thân Xác” và về ”Hôn Nhân Gia Đình.” Kinh nghiệm bàn thân mỗi người cho thấy chúng ta đã nhiều lần bị tổn thương và còn rất dễ bị tổn thương trong lãnh vực này. Chúng ta biết Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, đã chịu chết trên cây thập giá để mang lại sự phục sinh và đời sống mới cho con người. Chúng ta hãy cầu xin Người chữa lành chúng ta về những bệnh tật thể xác. - Cùng cầu nguyện: LỜI CẦU NGUYỆN CHỮA LÀNH BẢN THÂN (Trích tập “GIỜ BÊN CHÚA” của Hội Thánh Linh Seattle, WA/USA) Lạy Chúa Giê-su, con cảm tạ Chúa vì Chúa là Đấng Chữa Lành cao cả. Có Lời Chúa phán rằng: "Tội lỗi của con, chính Cha đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, con sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà con đã được chữa lành". Con ca ngợi Chúa vì Chúa muốn con được trọn vẹn. Con cảm tạ Chúa vì Chúa quá thân thiện, quá yêu thương và quan tâm đến nhu cầu của con. Chúa muốn chữa lành con về tâm linh, tâm lý, tình cảm, mối quan hệ và thể xác của con. Con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa quyền năng đã ban Thánh Thần cho con. Con xin thành tâm thống hối ăn năn và nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu độ của con. Ngài là nguồn Nước Hằng sống cung cấp cho con nhờ sự chết và sự sống
lại của Ngài. Lạy Chúa Giê-su, hôm nay con mời Chúa bước vào cuộc đời con, vào căn nhà tâm linh của con, xin ánh sáng Phục sinh của Chúa chiếu soi vào những nơi tăm tối trong tâm hồn con, để nhờ Ánh sáng của Chúa con được thanh tẩy và chữa lành. Lạy Chúa, xin chữa lành mối quan hệ của con với Chúa: do tội lỗi, do thiếu lòng tin đã làm cho mối quan hệ của con với Chúa không khắng khít, không tốt đẹp, và xa cách. Con muốn hàn gắn lại mối quan hệ của con với Chúa như ngày con mới chịu phép rửa được tinh tuyền, trong sạch, lòng hân hoan và tràn đầy ân sủng làm con cái Chúa. Xin Chúa cắt đứt mối quan hệ của con với bóng tối như mê tín dị đoan, bói toán, tử vi, lên đồng... Xin Chúa chữa lành quan hệ bị sứt mẻ hay đỗ vỡ của con với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, họ hàng, bạn bè, ông chủ, bạn làm ăn, chủ chiên, người trong cộng đoàn, trong hội đoàn, trong nhóm nhỏ. Con xin tha thứ cho người làm con buồn lòng, đau khổ và chúc lành cho người đó, nếu như con đã chúc dữ, nguyền rủa họ, xin nhờ Danh Chúa bẻ gẫy và vô hiệu hóa những lời chúc dữ, nguyền rủa đó. Xin Chúa bẻ gẫy và làm vô hiệu hóa những lời nguyền rủa, chúc dữ trên con bất cứ đến từ ai. Xin Chúa chữa lành mặt tâm lý của con như: luôn có ý nghĩ xấu về người khác, mặc cảm sợ hãi, lo lắng, mặc cảm bị ghét bỏ, bị thua kém, tư tưởng và ước muốn thiếu trong sạch. Xin Nước và Máu từ cạnh sườn Chúa tẩy rửa tâm trí con. Xin Chúa chữa lành những tật xấu của con: tật nói xấu, ganh tỵ, chia rẽ, nóng nảy, giận hờn, khoe khoang, nói tục, cờ bạc, rượu chè, hút sách, tham ăn, gian lận, thèm muốn vợ chồng người... Xin Chúa cắt bỏ những tật xấu ấy khỏi con người con. Xin Chúa giúp con hoàn toàn tha thứ được cho người làm con đau khổ nhất. Xin cho con không còn nhớ tới chuyện đau khổ ấy, và lấy ra khỏi tiềm thức của con. Con cảm tạ, ngợi khen Chúa Giêsu đã chữa lành cho con. Xin Chúa đổ tràn Thánh Thần trên con, trong con. Xin đổ Thần Khí khôn ngoan vào tâm trí con, Thần Khí yêu thương vào trái tim con, Thần Khí trong sạch vào đôi mắt con, Thần Khí hiểu biết vào đôi tai con, Thần Khí bình an và hoan lạc trong tâm hồn con. Con chúc tụng, ngợi khen và cám ơn Chúa. Amen. Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen. - Cùng hát: CHÚA KHÔNG LẦM 3. Chúa không lầm khi Ngài gọi con theo. Dù đời dạt trôi như cánh bèo. Vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: Một khi hởi thở chưa tàn, là đời chưa qua khỏi sầu oán. ĐK.
ĐK. NHƯNG LÒNG CHÚA VẪN BAO LA, DÙ CHO BAO PHEN CON YẾU ĐUỐI, THÀNH TÂM XIN ĂN NĂN THỐNG HỐI, LÀ NGÀI LẠI THỨ THA. 4. Chúa không lầm khi Ngài dìu con lên. Dù rằng đời con bao thấp hèn. Vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: Nhiều khi con chẳng trung thành, là vì con đâu phải thần thánh. ĐK.
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» ---------------------------
ĐỀ TÀI VII GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ ƠN ĐƯỢC NÊN CÔNG CHÍNH I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU - Gợi ý của người hướng dẫn: Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu đề tài được xem là khó nhất trong các Giáo Huấn quan trọng của Thánh Phao-lô: đó là Giáo Huấn về “Ơn được nên công chính” mà Thiên Chúa, vì lòng thương, đã ban cách “nhưng không” cho những ai tin vào Con của Người là Chúa Giê-su Kitô. Hiểu được Giáo Huấn này, chúng ta có sẽ có thái độ biết ơn và khiêm tốn đối với Thiên Chúa. Hiểu được Giáo Huấn này, chúng ta có sẽ sống đạo một cách truởng thành và vô vị lợi hơn. Chúng ta hãy hướng tâm trí về Thiên Chúa Tình Yêu mà cùng nhau dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ lên Người! - Cùng hát: CHÚA LÀ TÌNH YÊU ĐK: Chúa là Tình Yêu, Ngài đã đến cứu thế giới khỏi chốn lưu đầy. Chúa là Tình Yêu, Ngài đã thương ban Con Một cho trần thế. Để đem muôn ơn lành, để loan tin vui mừng, khắp thế giới cho mọi người, Ngài đã chết trong đau thương để ta sống bình an. PK 1: Còn tình yêu nào cao vời vợi bằng tình Chúa đã thương ta. Dù rằng đất trời mãi đổi thay, nhưng tình Chúa vẫn yêu ta đến muôn muôn đời. PK 2: Ngài hằng mong chờ luôn mời gọi người người sống yêu thương nhau. Để tình yêu Ngài mãi tràn lan trong tình chúng ta yêu nhau sống vui an bình. II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI VI VỀ GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ «THÂN XÁC» VÀ VỀ «HÔN NHÂN GIA ĐÌNH» Bạn muốn chia sẻ «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới Đề Tài VI: Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Thân Xác» và về «Hôn Nhân Gia Đình» mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu. III. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Ngoài Giáo Huấn về «Hội Thánh”, về «Thánh Thể», về “Thân Xác” và “Hôn Nhân Gia Đình” Thánh Phao-lô còn có Giáo Huấn nào khác đáng chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi? 2. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên công chính» phải được hiểu như thế nào?
3. Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên công chính» phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào? IV. HỌC HỎI VÀ CHIA SẺ 1. Giáo Huấn về «Ơn được nên công chính» : Ngoài Giáo Huấn về «Hội Thánh”, về «Thánh Thể», về “Thân Xác” và “Hôn Nhân Gia Đình” Thánh Phaolô còn có Giáo Huấn về «Ơn được nên công chính» là một Giáo Huấn rất quan trọng và được xem là khó hiểu nhất trong các Giáo Huấn quan trọng của Thánh Phao-lô. Nhưng hiểu được Giáo Huấn này chúng ta – giáo dân Việt Nam – sẽ biết sách sống đạo một cách khiêm tốn và trưởng thành hơn, nhờ thoát khỏi não trạng giữ đạo (hay đi đạo) để «lập công» với Thiên Chúa hay để được vào Nước Thiên Đàng. 2. Tìm hiểu Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên công chính» a) Thiên Chúa ban «ơn được nên công chính» cho những ai tin vào Đức Giêsu là Đấng đã chết trên thập giá để xóa tội trần gian «38 Thưa anh em, xin biết cho điều này: chính nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em ; 39 và trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính nhờ tuân giữ Luật Mô-sê, thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính.» (Cv 13,38-39) - «15 Chúng ta bẩm sinh là người Do Thái chứ không phải hạng người tội lỗi xuất thân từ dân ngoại. 16 Tuy nhiên, vì biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy. 17 Nhưng nếu khi tìm cách nên công chính trong Đức Ki-tô mà chúng ta vẫn bị liệt vào hàng tội lỗi, thì chẳng hóa ra Đức Ki-tô là người phục vụ tội lỗi sao? Không phải thế! 18 Thật vậy, nếu tôi xây lại những gì tôi đã phá, thì tôi tỏ ra mình là kẻ phạm pháp. 19 Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. 20 Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. 21 Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Ki-tô đã chết vô ích.» (Gl 2,15-21). b) Thiên Chúa ban «ơn được nên công chính» một cách «nhưng không» «21 Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. 22 Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. 23 Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, 24 nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. 25 Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội
nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. 26 Nhưng bây giờ, Người muốn cho thấy rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giê-su được nên công chính. 27 Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật nào mà hãnh diện? Vào việc làm chăng? Không, nhưg dựa vào lòng tin. 28 Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy. 29 Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao? Có chứ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa, 30 vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm cho người không được cắt bì nên công chính cũng bởi họ tin. 31 Vậy có phải là chúng ta dựa vào đức tin mà hủy bỏ Lề Luật chăng? Không phải thế! Trái lại, chúng ta củng cố Lề Luật.» (Rm 3,21-31). c) Tin Mừng là sức mạnh cứu độ và là mạc khải sự công chính của Thiên Chúa «16Vâng, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp. 17 Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống.» (Rm 1,16-17). d) Được giải thoát khỏi Lề Luật cũ, người tín hữu được «ơn được nên công chính» và được làm con cái Thiên Chúa: «23 Trước khi đức tin đến, chúng ta bị Lề Luật giam giữ, cho tới khi đ0ức tin được mạc khải. 24 Như thế Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Ki-tô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin. 25 Nhưng khi đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa. 26 Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô.» (Gl 3,23-26). e) Người tín hữu được nên công chính cũng có nghĩa là người ấy được thánh hóa và cứu dộ: Ơn được nên công chính nhắm mục đích làm cho tín hữu thông phần vào một phẩm tính khác của Thiên Chúa: đó là sự thánh thiện: “Thiên Chúa đã chọn anh em ngay từ lúc khởi đầu, để cứu độ anh em nhờ Thần Khí Thánh Hóa và nhờ lòng tin vào chân lý” (2 Tx 2,13). Sự thánh thiện nằm ở chỗ tín hữu, nhờ tác động của Thần Khí, thanh luyện mình dần dần khỏi tội lỗi và kết hiệp mỗi ngày một hơn với Thiên Chúa chí thánh. Sự công chính đi liền với sự thánh thiện và phúc cứu độ: “Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hóa và cứu chuộc anh em…” (1 Cr 1,30). 3. Sống Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên Công Chính» (Xem phần sau).
V. ỨNG DỤNG [LINH ĐẠO VÀ SỐNG LINH ĐẠO] Sống Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Ơn được nên công chính” không thể không thực hiện 4 điều quan trọng dưới đây: a) Thứ nhất là tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa là Cha và là Vị Đại Ân Nhân của chúng ta: Thánh Phao-lô đã nói: “Có gì chúng ta có mà chúng ta không lãnh nhận.” Vậy thì tâm tình biết ơn phải là tâm tình của những người đã nhận tất cả từ Thiên Chúa: sự hiện hữu, ơn gọi Ki-tô hữu với những Ơn được nên công chính, được thánh hóa và được cứu chuộc. Từ nay chúng ta sẽ làm mọi việc lành phúc đức để làm đẹp lòng Thiên Chúa và tỏ lòng biết ơn, thay vì chúng ta làm mọi việc để được Thiên Chúa ban ơn như trước đây! b) Thứ hai là thể hiện lòng tin sâu sắc, cá vị, dấn thân vào Chúa Giê-su Ki-tô: tức thể hiện mối tương quan liên-ngôi-vị với Chúa Ki-tô, phó thác thân mình và cuộc đời của mình cho Người. Đức tin là thái độ nội tâm, nhưng được biểu lộ ra bên ngoài bằng lời tuyên xưng trên môi miệng trong bí tích Thánh Tẩy. Hậu quả của đức tin, tức cũng là của bí tích Thánh Tẩy, là tạo nên những tương quan mới giữa người tín hữu với Chúa Ki-tô, với Chúa Thánh Thần và với Chúa Cha. c) Thứ ba là tìm mọi cách xa lánh tội lỗi: Do lòng thương mà Thiên Chúa xóa hết mọi tội lỗi cho chúng ta, nên không có lý do gì mà chúng ta quay trở lại với tội lỗi để sống dưới ách nô lệ của nó như trước kia. d) Thứ bốn là cố gắng trở nên một với Chúa Ki-tô Giê-su: Thánh Phao-lô nói: «Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô…đều mặc lấy Đức Ki-tô… Mà nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô thì anh em là dòng dõi ông Ápra-ham, những người thừa kế theo lời hứa.» (Gl 3,27-29; Rm 7,4). Người ta có thể nói tới một sự đồng hóa với Đức Ki-tô, vì người tín hữu được Chúa Cha hoạch định là nên “đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29). VI. CHUẨN BỊ BÀI SAU CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI VIII LINH ĐẠO KI-TÔ HŨU THEO GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ Câu hỏi gợi ý chia sẻ: Nhờ đề tài VII bạn đã có dịp học hỏi Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên công chính» bạn có «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới? Xin ghi “nhật ký” để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các anh chị em khác. Câu hỏi gợi ý tìm hiểu: 1. Ngoài các Giáo Huấn quan trọng về «Hội Thánh», về «Thánh Thể», về «Thân Xác và Hôn Nhân Gia Đình», về «Ơn được nên công chính» Thánh Phao-lô còn để lại «di sản» quý giá nào cho Hội Thánh và các Ki-tô hữu?
2. Thế nào là linh đạo hay cách sống hay con đường nên thánh của Ki-tô hữu? 3. Linh đạo Ki-tô hữu theo giáo huấn của Thánh Phao-lô phải được hiểu và sống như thế nào? VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC - Gợi ý của người hướng dẫn: Chúng ta vừa học hỏi, chia sẻ về Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên Công Chính.» Kinh nghiệm cho thấy rằng nhiều khi chúng ta lầm tưởng là mình có thể có được ơn này ơn nọ bằng những nỗ lực cá nhân hay bằng những hy sinh hãm mình, việc lành phúc đức. Thật ra Thiên Chúa đã ban tất cả những ơn ấy cho chúng ta một cách nhưng không, nghĩa là không phải do công lao gì của chúng ta cả mà hoàn toàn do Lòng Thương của Người mà thôi. Chúng ta hãy dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. - Cùng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Đấng Công Chính và chỉ có một mình Thiên Chúa là Đấng Công Chính: Chúa đã giữ và thực hiện lời hứa với Tổ Phụ Áp-ra-ham, với Người Tôi Tớ của Chúa là Mô-sê và với toàn dân Ít-ra-en. Chúa đã không tiêu diệt chúng con khỏi mặt đất này, dù chúng con thường xuyên bất hiếu, bất trung, lỗi phạm với Chúa. Chúa đã tha thứ và xóa mọi tội lỗi của chúng con bằng Máu Thánh Con Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô chết treo trên Thập Giá. Chúa ban nhưng không hết mọi ân sủng, nhất là ơn được nên công chính cho chúng con. Chúa chỉ đòi chúng con mỗi một điều kiện là tin vào Con của Chúa, tin rằng Đức Giê-su Ki-tô đã chết và trỗi dậy. Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa về các hồng ân ấy. Chúng con tuyên xưng rằng Chúa Giê-su Ki-tô là Con Chúa đã chịu chết để thánh hóa và cứu chuộc chúng con! - Cùng hát: CẢM TẠ CHÚA. ĐK: Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa. Đến muôn đời con ngợi khen danh Chúa (đến muôn đời), muôn muôn đời con ca vang tình thương Chúa, và mãi mãi con nhớ công ơn Người. PK 1: Vì tình yêu bao la Chúa nâng đỡ con như phượng hoàng tung đôi cánh. Chúa dắt dìu con đi trong ánh sáng Người hạnh phúc nào hơn. PK 2: Dù đời con thương đau sống bên Chúa con luôn cậy trông nơi Danh Chúa. Chúa đoái nhìn xem con trong lúc vui sầu an ủi nào hơn.
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» -------------------------
ĐỀ TÀI VIII LINH ĐẠO KI-TÔ HỮU THEO GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU - Gợi ý của người hướng dẫn: Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu đề tài cuối cùng của Giáo Trình Khóa Thánh Phao-lô đại chúng. Đó là đề tài thứ VIII với tựa đề «Linh Đạo Ki-tô hữu theo Giáo Huấn của Thánh Phao-lô». Hiểu được Giáo Huấn này, chúng ta có sẽ có thái độ biết ơn và khiêm tốn đối với Thiên Chúa, vì ơn được nên công chính, được thánh hóa và được cứu độ đều do Thiên Chúa ban cho chúng ta một cách nhưng không. Cũng nhờ hiểu được Giáo Huấn này, chúng ta có sẽ sống đạo một cách truởng thành và vô vị lợi hơn. Chúng ta hãy hướng tâm trí về Thiên Chúa Tình Yêu mà cùng nhau dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ lên Người! - Cùng cầu nguyện: KHÚC HÁT TẠ ƠN. ĐK: Xin dâng kính câu ca tạ ơn. Ca khen Chúa mến yêu nhân trần. Ngàn đời kính chúc Vua muôn loài. Danh Chúa luôn rạng ngời. PK 1: Vì tình Cha ôi quý trọng thay. Muôn ơn lành chan chứa trời mây. Từng cao xanh lừng tiếng ngàn dân. Hát khúc ca tạ ơn. PK 2: Bầu trời long lanh ánh ngàn sao. Mây lưng trời sương tuyết ngàn cao. Rền vang lên nhạc khúc hoà ca. Kính đáp ân tình Cha. II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI VII VỀ GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ «ƠN ĐƯỢC NÊN CÔNG CHÍNH» Bạn muốn chia sẻ «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì mới, hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới Đề Tài VII: Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên công chính» mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu. III. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Ngoài các Giáo Huấn quan trọng về «Hội Thánh», về «Thánh Thể», về «Thân Xác và Hôn Nhân Gia Đình», về «Ơn được nên công chính» Thánh Phao-lô còn để lại «di sản» quý giá nào cho Hội Thánh và các Ki-tô hữu? 2. Thế nào là linh đạo hay cách sống hay con đường nên thánh của Ki-tô hữu? 3. Linh đạo Ki-tô hữu theo giáo huấn của Thánh Phao-lô phải được hiểu và sống như thế nào?
IV. HỌC HỎI VÀ CHIA SẺ 1. Ngoài các Giáo Huấn quan trọng về «Hội Thánh», về «Thánh Thể», về «Thân Xác và Hôn Nhân Gia Đình», về «Ơn được nên công chính» Thánh Phao-lô còn để lại một «di sản» vô cùng quý giá cho Hội Thánh và cho các Ki-tô hữu chúng ta. Di sản đó là: «Linh Đạo Ki-tô hữu» hay «cách sống» hay «con đường nên thánh» của các Ki-tô hữu. 2. Có nhiều định nghĩa về linh đạo (hay cách sống hay con đường nên thánh) của Ki-tô hữu. Sau đây là một vài định nghĩa có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn: a) «Trong kinh nghiệm của tôi, định nghĩa tốt nhất và chính xác nhất của linh đạo đơn giản chỉ là “tôi đối phó thế nào với cuộc sống.» (Gerard Broccolo, Vital Spiritualities). b) «Trong nghĩa thông thường nhất, linh đạo là những con đường (cách) và mô hình nhờ đó một người, bằng trí tuệ, cảm xúc và thể lý, liên hệ được với cái là thực nhất và quí giá nhất cho người ấy.» (James Nelson, The Intimated Connection). c) «Trong nghĩa rộng, linh đạo có thể được miêu tả là con đường nên thánh… nhưng khi các phương thế kết hiệp với Thiên Chúa trở nên cụ thể thì xuất hiện nhiều cách tiếp cận khác nhau. Một cách tiếp cận đặc biệt để kết hiệp với Thiên Chúa được gọi là linh đạo.» (George Lane, Christian Spirituality). d) «… Linh đạo không được miêu tả một cách thỏa đáng là xây dựng mối tương quan cá nhân với Thiên Chúa: một não trạng “Chúa Giê-su và tôi”. Có lẽ sự canh tân cơ bản nhất của Công Đồng Vatican II là “chiều kích cộng đoàn” của mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa là Đấng muốn cứu rỗi chúng ta không phải với tư cách cá nhân mà với tư cách cộng đoàn: “Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện.» (Ánh sáng muôn dân, 2) (Katherine Dyckman & Pat Carroll, Inviting the Mystic, Supporting the Prophet). e) «Linh đạo là cách chúng ta đáp lại cuộc sống như thế nào với tất cả sự thật của mình.» (Jean Hunter đồng ý với Jen Galbraith). f) «... Các bản văn Thánh Kinh là những lời đáp lại sự hiện diện khai mào và mầu nhiệm của Thiên Chúa trong quá trình cuộc sống con người.» (Michael Fishbane, Text and Texture). g) «Linh đạo Thánh Kinh mời gọi chúng ta, từng cá nhân cũng như với tư cách cộng đoàn, đưa bản văn Thánh Kinh vào trong tiến trình trở nên chính chúng ta, một tiến trình cực nhọc, lâu dài và khổ đau, là một phần của mầu nhiệm hình thành của Nước Thiên Chúa. Chúng ta phải để cho Lời Chúa thấm sâu vào sự tự vệ của chúng ta, thách đố chúng ta một cách quyết liệt, để chúng ta trở lại và đi vào cuộc sống mới. Nhưng tiến trình này cũng đòi hỏi chúng ta từ bỏ chính mình. Có nghĩa là một phần của chúng ta phải chết đi.» (Karen Barta, Gospel of Mark).
3. Linh đạo Ki-tô hữu theo giáo huấn của Thánh Phao-lô phải được hiểu và sống như thế nào? Linh mục Norbertô Nguyễn Văn Khanh, ofm, đã dành Chương XIII là Chương Chót trong Cuốn THÁNH PHAO-LÔ CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG (2008), từ trang 181 đến hết trang 205, cho chủ đề “Linh Đạo Ki-tô hữu theo Thánh Phaolô”. Thiết nghĩ khó có ai có thể viết một bài đầy đủ hơn chương XIII này, nên tôi sẽ dựa vào đó mà trình bày, cách vắn gọn. Trước hết chúng ta hãy ghi nhận ý kiến xác đáng của cha Khanh trong câu nói này: “Khi nói đến đời sống thiêng liêng, chúng ta không chỉ nghĩ tới đời sống nội tâm, liên hệ đến phần tâm linh, mà tới đời sống cụ thể của con người toàn diện gồm linh hồn và thể xác, cá nhân và cộng đoàn, một đời sống được linh hoạt bởi tinh thần Ki-tô hữu hay chính xác và sâu xa hơn, bởi Thần Khí của Thiên Chúa” (sđd, trang 181). Linh đạo Ki-tô hữu theo giáo huấn của Thánh Phao-lô gồm 3 giai đoạn: Trước hết là bước vào đời sống mới, kế đến là gia nhập Cộng đoàn các tín hữu và sau cùng là sống đời Ki-tô hữu như thế nào? Mỗi giai đoạn có nội dung riêng như sau: A. Bước vào đời sống mới 1.- Đức Tin a) Đời sống Ki-tô hữu bắt đầu bằng đức tin (là thái độ tôn giáo cơ bản). Niềm tin Ki-tô hữu là “niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô” (Gl 2,16.20; Rm 3,22.26 v.v.). b) Đức tin là mối tương quan liên-ngôi-vị, là một sự phó thác thân mình cho Đức Ki-tô. Sau khi bị Đức Ki-tô “chộp bắt” (Pl 3,12), Thánh Phao-lô không còn là chủ nhân của bản thân mình nữa mà là Đức Ki-tô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 20). c) Niềm tin ấy được diễn tả qua một công thức cơ bản: “Đức Giê-su là Chúa” (Rm 10,9a): Có nghĩa là tuyên xưng Vương Quyền của Đức Giê-su trên vũ trụ; cũng đồng nghĩa với việc tin rằng “Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết.” (Rm 10,9b; 4,24). d) Đức tin là thái độ nội tâm, nhưng được biểu lộ ra nên ngoài bằng lời tuyên xưng trên môi miệng trong bí tích Thánh Tẩy. Hậu quả là tạo nên những tương quan mới giữa người tín hữu với Đức Ki-tô, với Chúa Thánh Thần và với Chúa Cha. 2.- Trở nên một với Đức Ki-tô a) Ngay tại Đa-mát, Phao-lô đã ý thức mình được dẫn vào một đời sống mới (Rm 6,4; 7,6; Tt 3,5), được trở thành một thụ tạo mới (Gl 6,15; Ep 3,10). b) Nhờ đức tin và bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu thuộc về Đức Ki-tô: “27 Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. 28 Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do,
đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô. 29 Mà nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa” (Gl 3,27-29; Rm 7,4). c) Người ta có thể nói đến một sự đồng hóa với Đức Ki-tô. Chúa Cha đã tiền định cho các tín hữu nên đồng hình đồng dạng với Con của Người (Rm 8,29), nhưng điều đó cũng đòi hỏi mỗi người phải nỗ lực vươn tới không ngừng, như một vận động viên chạy đua nơi thao trường (Pl 3,12-14). d) Nhờ đức tin và bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu được thông phần vào tình trạng chịu đóng đinh, chịu chết, mai táng và sống lại của Đức Ki-tô: “3 Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? 4 Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. 5 Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.” (Rm 6,3-5). 3.- Ơn Chúa Thánh Thần a) Đây cũng là một trong những ân huệ tiên khởi mà các Ki-tô hữu được đón nhận. Tại Đa-mát Sa-un đã nghe Kha-na-ni-a tuyên bố: "Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Đức Giê-su, Đấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần" (Cv 9,17). b) Chính Chúa Thánh Thần biểu lộ quyền năng của Người nơi lời rao giảng của vị Tông Đồ để cho người nghe đón nhận và tin (1 Tx 1,5; Rm 15,9). c) Khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Chính Người là đối tượng của lời hứa mà Thiên Chúa đã tuyên bố với Áp-ra-ham ngày xưa: “Như thế là để nhờ Đức Giê-su Ki-tô, các dân ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Áp-ra-ham, và để nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí.” (Gl 3,14). d) Chính Chúa Thánh Thần là “ân huệ mở đầu” cho mọi ân huệ khác (Rm 8,3), là “ấn tín” bảo đảm ơn cứu chuộc chung cuộc (2 Cr 1,21; 5,5). Người thánh hóa Ki-tô hữu và tạo nên trong họ một quy luật mới, tức luật của sự sống: “Thật vậy, luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su, đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết” (Rm 8,2). e) Chính nhờ Thánh Thần mà người Ki-tô hữu thuộc về Đức Ki-tô: “Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô.” (Rm 8,9). 4.- Tương quan mới với Chúa Cha a) Khi cứu chuộc chúng ta trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa cho chúng ta được giao hòa với Người. Từ nay không còn gì tách biệt chúng ta khỏi Thiên Chúa: “Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên (dân Do Thái và Dân Ngoại), chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep 2,18).
b) Việc tín hữu được “đến cùng Thiên Chúa” giả định một tương quan đặc biệt: tương quan con cái đối với Cha mình. Thiên Chúa cho chúng ta làm em của Đức Giê-su và được ơn làm con (Rm 8,29; Ep 1,5). Ơn ấy gắn liền với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần: “14 Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. 15 Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi! 16 Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. 17 Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,14-17). c) Ơn làm con tạo nên sự dạn dĩ và ngoan ngoãn hoàn toàn theo tác động của Thần Khí. Cũng tạo nên những quyền lợi cho các tín hữu: quyền thừa tự (hưởng gia sản của người cha). d) Ơn làm con đã được ban ngay bây giờ cho người tín hữu, nhưng nó không ngừng phát triển cho tới mức viên mãn ở đời sau, vì “chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa.” (Rm 8,23). 5.- Ơn được nên công chính a) Hậu quả của đức tin, dưới một góc độ khác, là người tín hữu được “trở nên công chính” trước mặt Thiên Chúa: “38 Vậy thưa anh em, xin biết cho điều này: chính nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em; và trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính nhờ tuân giữ Luật Mô-sê, 39 thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính.” (Cv 13,38-39). Và: “Trái lại người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính.” (Rm 4,5). b) Thiên Chúa “công chính hóa” người tín hữu không phải bằng một lời tuyên bố bên ngoài, nhưng biến đổi họ tận tâm can, làm cho họ nên “một thụ tạo mới.” c) Người tín hữu, từ hoàn cảnh tội lỗi, được trở nên “công chính” nghĩa là được tha thứ tội lỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5,19). d) Được giải phóng khỏi tội lội, người tín hữu cũng được giải phóng khỏi sự chết đời đời và sẽ được tham gia vào sự sốnng lại của Đức Ki-tô” (Rm 8,11). e) Ơn được trở nên công chính nhắm làm cho người tín hữu thông phần vào một phẩm chất khác của Thiên Chúa: đó là sự thánh thiện: “Thiên Chúa đã chọn anh em ngay từ lúc khởi đầu, để cứu độ anh em nhờ Thần Khí thánh hóa và nhờ lòng tin vào chân lý” ( 2 Tx 2,13). Sự thánh thiện nằm ở chỗ, nhờ tác động của Thần Khí, người tín hữu thanh luyện mình dần đần khỏi tội lỗi và kết hiệp một ngày một sâu sắc hơn với Thiên Chúa chí thánh. Sự công chính đi liền với sự thánh thiện và phúc cứu độ: “Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta,
sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hóa và cứu cuộc anh em…” (1 Cr 1,30). B. Gia nhập Cộng đoàn các tín hữu Bí tích thánh tẩy liên kết người tín hữu với Đức Ki-tô, nhưng đồng thời cũng dẫn đưa họ vào trong một cộng đoàn là Giáo hội. Khi mới được ơn trở lại, Thánh Phao-lô đã cảm nghiệm được một thực tại gồm hai sắc thái: một đàng người gặp được cá nhân Đức Ki-tô, Đấng đã chết nhưng nay đang sống trong vinh quang; đàng khác người gặp được “Đức Ki-tô huyền nhiệm”, nghĩa là chính Đức Ki-tô ấy hiện diện nơi các tín hữu kà người đang bắt bớ. Khi Phao-lô hỏi: “Ngài là ai?”, thì có tiếng đáp” “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5; 22,8; 26,14). 1.- Bản chất của Giáo hội a) Thánh Phao-lô dùng nhiều hình ảnh bổ túc cho nhau để diễn tả bản chất sâu xa của cộng đoàn các tín hữu là Giáo hội: thửa ruộng (1 Cr 3,9), cây trồng (1 Cr 3,6), ngôi nhà (1 Cr 3,9-11; Ep 2,20-21), tương quan vợ chồng (Ep 5, 25-32). b) Hình ảnh thường được dùng nhất là “thân mình của Đức Ki-tô”. Hình ảnh và kiểu nói này xuất hiện trước hết trong thư 1 Cô-rin-tô (6,12-20; 10,14-17; 12,1227), sau đó trong thư Rô-ma (12,4-5), trong các thư Cô-lô-xê (3,15) và Ê-phê-xô (2,16); b) Giáo hội là thân mình Đức Ki-tô (Cl 1,24); các Ki-tô hữu là chi thể của nhau (Ep 4,25) và của Chúa Ki-tô (Ep 5,20). Trong thư Ga-lát, Thánh Phao-lô nhấn mạnh sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô (Gl 3,28). Trong thư 1 Cr Thánh Phao-lô dùng hình ảnh “thân mình Đức Ki-tô” để làm sáng tỏ bản chất của sự hiệp nhất ấy (1 Cr 12,4-11). c) Đức Ki-tô đóng vai là đầu của Thân Thể (Nhiệm Thể): “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18), “Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng Cứu Chuộc Hội Thánh, thân thể Người” (Ep 5,23). d) Các Ki-tô hữu được “nên một” với Đức Ki-tô, thì cũng “nên một” với nhau (1 Cr 12,12-27; Rm 12,4-5). Các chi thể trong nhiệm thể sống được nhờ liên kết với đầu và lớn lên được nhờ sự liên kết đó mỗi ngày một chặt chẽ hơn: “15 Nhưng, sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. 16 Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái. (Ep 4,15-16) e) Thánh Phao-lô còn dùng một hình ảnh khác rất có ý nghĩa là tương quan vợ chồng. Trong cựu ước Ít-ra-en đã được Thiên Chúa đối xử như một người vợ, một người vợ bất tring (Hs 2, 4-5; Is 54,5; 62,5; Gr 2,2-23; nhất là Ed 16 và Diệu Ca). Đức Giê-su cũng đã tự xem mình là lang quan cộng đoàn của mình (Mc 2,19-20) Gio-an Tẩy Gỉa cũng đã triển khai (Ga 3,29). Sau này trong sách Khải Huyền Giáo hội được gọi là “Hiền Thê của Con Chiên” (Kh 21,2.9;22,17). “22 Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu
chuộc Hội Thánh, thân thể của Người.24 Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. 25 Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh;26 như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, 27 để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. 28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh,30 vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. 31 Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. 33 Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng. (Ep 5,22-33). 2.- Một kiểu nói độc đáo: “Trong Đức Ki-tô Giê-su” a) Thánh Phao-lô thường nói “trong Đức Ki-tô Giê-su” hay “trong Đức Ki-tô” và không bao giờ nói “trong Đức Giê-su” hay “trong Đức Giê-su Ki-tô” (như Gioan). Đó là chứng cớ hiển nhiên cho thấy Phao-lô không nhìn Đức Giê-su trong tư cách cá nhân, nhưng theo chức năng Mê-si-a của Người, trong tư cách là A-đam mới. b) Kiểu nói “trong Đức Ki-tô Giê-su” rõ ràng liên hệ đến thần học của Thánh Tông Đồ về Thân Thể Mầu Nhiệm: - “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su” (en Khristô Iesu). Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy trong Đức Kitô” (eis Khriston), đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3,26-27). - “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước trong Đức Ki-tô Giê-su” (eis Khriston Iesoun), là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền na7ng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một thân cây với Đức Ki-tô, nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,3-5). - “Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người phải chết trong A-đam, thì mọi người cũng được Thiên Chúa cho sống lại trong Đức Ki-tô” ( 1 Cr 15,21-22). c) Ý nghĩa của kiểu nói “trong Đức Ki-tô Giê-su”: * Nghĩa mạnh (nghĩa bình thường): “trong Đức Ki-tô Giê-su” diễn tả môi trường sự sống trong đó toàn thể các Ki-tô hữu hoặc mỗi một Ki-tô hữu lãnh nhận các ân huệ của Thiên Chúa, nhờ Đức Ki-tô là Trung Gian. Trong trường hợp này kiểu
nói “trong Đức Ki-tô Giê-su” nói lên tương quan sống động giữa các Ki-tô hữu với Đức Ki-tô và với nhau trong cùng một Nhiệm Thể duy nhất. * Trong một số ít trường hợp theo nghĩa nhẹ, kiểu nói “trong Đức Ki-tô Giê-su” có nghĩa theo tinh thần Phúc âm hay tinh thần Ki-tô giáo. Vậy chúng ta có thể kết luận là “trong Đức Ki-tô Giê-su” là kiểu nói ám chỉ Giáo hội với tư cách là Nhiệm Thể của Chúa Ki-tô. C. Sống đời Ki-tô hữu thế nào? Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về sự tháp nhập vào Đức Ki-tô và vào thân mình mầu nhiệm của Người chi phối toàn bộ nền luân lý Ki-tô giáo trên bình diện cá nhân và tập thể. Được Thiên Chúa tái tạo trong Đức Ki-tô, người Ki-tô hữu sẽ sống một đời sống mới. Sau đây là những nguyên tắc cơ bản của đời sống ấy. 1.- Đồng hóa với Đức Ki-tô a) Được cứu độ nhờ Đức Ki-tô và cho Đức Ki-tô, các Ki-tô hữu không thuộc về mình nữa, nhưng thuộc về Người (Rm 14,7-9; 2 Cr 5,15). Người là Chúa của họ, là “nguồn sống của họ” (Cl 3,4). Vì thế nguyên tắc đầu tiên của đời sống Ki-tô hữu là họ phải sống, không phải cho chính mình, nhưng cho Đấng đã chết và sống lại cho họ” b) Từ nay chính Đức Ki-tô sống và hoạt động trong họ (Gl 2,20). Vì là thụ tạo có lý trí và tự do, họ được mời gọi cộng tác với Ơn Chúa: họ phải có một nỗ lực cá nhân được biểu lộ qua việc noi gương lối sống của Chúa. Thánh Phao-lô nhiều lần diễn tả bổn phận noi gương Chúa một cách cụ thể: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô (1 Cr 11,4; 4,16; 1 Tx 1,6; 2 Tx 3,7). Người mời gọi họ hãy sống xứng đáng với Chúa (Cl 1,10; 2,6; Ep 4,1). Sự noi gương này chính là sự đồng hóa với Đức Ki-tô, tức với cái chết và sự sống lại của Người: “10 Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. 11 Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi. 12 Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.” (2 Cr 4,10-12). 2.- Nhờ Thần Khi mà tiến bước a) Kinh nghiệm Ki-tô hữu đầu tiên của Phao-lô cũng như các Ki-tô hữu khác là được sở hữu (theo nghĩa chủ động và thụ động) Đức Ki-tô và Thần Khí. Đó là một trong những hậu quả của bí tích Thánh Tẩy. Chính nhờ sự hiện diện ấ`y mà xuất hiện nơi Ki-tô hữu một “thần khí mới” một tinh thần mới, nhờ đó Ki-tô hữu trở thành “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17; Gl 6,15; Ep 4,24). b) Ngay từ bây giờ Thần Khí biến đổi các Ki-tô hữu thành những con cái của Chúa Cha và những người em của Đức Ki-tô (Gl 4,6). Tất nhiên họ không phải là những người con theo bản tính, nhưng theo ơn được nhận: tuy nhiên ơn dưỡng tử này này cũng không phải là một tương quan pháp lý, nhưng biến chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, để rồi Đức Ki-tô trở nên anh trưởng giữa một đàn em đông đảo (Rm 8,29). Thần Khí vừa là nguyên lý tạo nên sự biến đổi
đồng thời là chứng cớ bảo đảm cho sự chân thật: “Chính Thần Khí chứng thực cho trần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,16). c) Bởi đó người Ki-tô hữu phải từ bỏ lối sống “theo xác thịt” nghĩa là theo những thúc đầy của con người tự nhiên, để sống theo Thần Khí (Gl 5,25). Phao-lô nêu ra một số hành vi cụ thể của hai lối sống đối lập ấy trong thư gửi tín hữu Ga-lát: “ 16 Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa. 17 Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. 18 Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. 19 Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, 20 thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, 21 ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. 22 Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, 23 hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế.” (Gl 5,16-23). d) Ngoài ơn trọng đại là biến đổi các Ki-tô hữu thành con cái Thiên Chúa, Thần Khí còn là nguyên lý của sự khôn ngoan (1 Cr 10,14-16; Ep 1,17-20), của sức mạnh nội tâm (R, 8,14-16; Ep 3,16; 2 Tm 1,7) và nhất là của tình yêu (Rm 5,5). e) Thần Khí đích thực là nguồn sự sống cho các tín hữu. Chính người là sức mạnh nhờ đó Chúa Cha đã cho Đức Giê-su trỗi dậy từ cõi chết (Rm 1,4). Nay Người không ngừng hoạt động nới các tín hữu để giúp họ thực hiện cuộc sống công chính và thánh thiện (Rm 8,10-11): cuộc sống này tuy còn bất toàn, bao lâu con người còn sống trên trần gian, nhưng sẽ triển nở thành sự sống đời đời (Gl 6,8; Rm 6,22). Bây giờ các tín hữu mới thu lượm hoa trái đầu mùa; mai sau sẽ là mùa màng chan chứa ( 2 Cr 1,22; 5,5; Rm 8,23; Ep 1,14). f) Được khắc ghi dấu ấn của Thần Khí trong ngày chịu phép Thánh Tầy (Ep 1,13), được Thần Khí giải khát và nuôi sống ( 1 Cr 12,13), được trở nên đền thờ của Người (1 Cr 6,9) người tín hữu có bổn phận là lắng nghe tiếng Người, đứng dập tắt sự thúc đầy của Nguời (1 Tx 5,19). Tất cả đời sống và nền tảng luân lý của Ki-tô hữu có thể được tóm tắt trong một câu: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhở Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25). 3.- Đến với Chúa Cha khởi điểm và cùng đích a) Chúng ta biết điều mà Thiên Chúa nhắm trong công trình sáng tạo và cứu chuộc của Người là đặt để Con Một của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đảo (Rm 8, 29; Ep 1,5). Chương trình ấy đã được thực hiện qua Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa (Gl 4,6-7). b) Hậu quả là các tín hữu được trở thành con cái của Chúa Cha nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô (Gl 3,26): tương quan ấy không ngừng phát triển cho tới ngày Đức Ki-tô và mọi chi thể của Người xuất hiện trong vinh quang (Rm 8,19-23; Cl 3,4). Mọi tín hữu đều vững tin rằng họ sẽ được dẫn vào trong tình thân ái của Chúa
Cha: “Thật vậy, nhờ Người (Đức Ki-tô) cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep 2,18). c) Đối với các Ki-tô hữu Thiên Chúa là người Cha: Cha của Đức Giê-su Ki-tô và Cha của họ. Chính Người có sáng kiến đặt ra chương trình vĩ đại ấy, và chỉ với mục đích là đổ tràn trên chúng ta nguồn vinh quang chan chứa của Người. Người là nguồn gốc mọi ân huệ ban xuống cho con người một cách nhưng không. d) Thiên Chúa cũng là cùng đích. Vì thế nỗ lực của chúng ta là làm đẹp lòng Người (1 Tx 4,1; Rm 14,18; Ep 5,10; Pl 4,18), thực hiện thánh ý Người (Rm 12,2; Cl 4,12), tìm kiếm vinh quang của Người (1 Cr 10,31; Cl 3,17), làm sao để mọi hoạt động của chúng ta trở thành một lễ phẩm được Người vui nhận (Rm 12,1; 15,16; Pl 4,18). 4.- Trong tâm tình tạ ơn, hoan lạc và bình an a) Người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy một nền linh đạo như thế triển nở trong tâm tình tạ ơn, hoan lạc và bình an. b) Mặc dầu Phao-lô vẫn luôn luôn ý thức thân phận tội lỗi và hèn yếu của mình (1 Tm 1,15; 2 Cr 4, 7; 11,29-30), nhưng ý nghĩ về tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa được biểu lộ ra nơi lễ tế của Đức Ki-tô luôn tạo ra nơi vị tông đồ một niềm tin tưởng không bao giờ phai nhạt: cuộc chiến thắng của Đức Ki-tô trên sự tội và sự chết chẳng bảo đảm cho các Ki-tô hữu là họ cũng sẽ chiến thắng như Người và nhờ Người sao? (1 Cr 15,57). Vì thế mà tâm tình tri ân và cảm tạ được Người nhắc đi nhắc lại: - “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1 Tx 5,18). - “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5,20). - “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). - “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,6). - “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian khốn khó” (2 Cr 7,4). - “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em” (Pl 4,4). - “Anh em hãy vui mừng luôn mãi” (1 Tx 5,16). - “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp vời Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 4,4). - “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). 5.- Trước viễn cảnh đời đời. a) Chúng ta không còn sống trong thời gian chuẩn bị nữa, thời gian mà chúng ta còn là “vị thành niên” bị cầm giữ bởi những yếu tố trần thế: cùng với sự xuất hiện của Con Thiên Chúa, thì thời gian viên mãn đã đến (Gl 4,2-4; Ep 1,10). Thánh Phao-lô còn nói A-đam là hình bóng của Đấng sẽ đến, tức là Đức Ki-tô (x
Rm 5,14), và những quy luật Do Thái là “hình bóng những điều sắp tới, nhưng thực tại là thân thể Đức Ki-tô” (Cl 2,17). b) Các tác giả khác của Tân Ước dùng một hình ảnh gợi hình hơn: chúng ta đang sống vào “những ngày cuối cùng” (Cv 2,17; 1 Pr 1,20; 1 Ga 2,18: giờ cuối cùng). Còn các ngôn sứ xưa dùng kiểu nói “Thời cuối cùng” (Is 2,2; Mi 4,1 v.v…). Thánh Phao-lô dùng kiểu nói này một đôi lần (1 Tm 4,1; 2 Tm 3,1). Kiểu nói này ám chỉ một tương lai xa xôi, nhưng là thời gian hiện tại, thời gian hoạt động của Đấng Cứu thế. c) Thời gian hiện tại là thời gian mà Nhiệm Thể Chúa Ki-tô đang phải lớn lên cho đến ngày đạt tới mức mà Thiên Chúa đã ấn định (Ep 4,15-16), Mỗi cá nhân Ki-tô hữu phải lớn lên và ngôi đền thờ Giáo hội cũng phải vươn tới chỗ hoàn tất (Cl 2,19; Ep 4,16). Cuộc khải hoàn của Đức Ki-tô sẽ được mở rộng tới muôn loài, muôn vật; rồi chính Đức Ki-tô lại trao toàn quyền lại cho Thiên Chúa. (1 Cr 15,25-28). d) Người Ki-tô hữu không những sẽ được ở với Chúa mãi mãi (1 Tx 4,17), nhưng thân xác của họ sẽ được sống lại vào ngày tận thế dưới tác động của Chúa Thánh Thần; và trong thân xác được biến đổi ấy họ sẽ hoàn toàn nên giống Chúa Ki-tô. Đó là niềm hy vọng của người Ki-tô hữu viễn ảnh cho bản thân mình và cho mọi người thiện tâm. Đó cũng là viễn cảnh trong đó họ đang sống, làm việc và xây dựng thế giới này. V. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC - Gợi ý của người hướng dẫn: Hôm nay chúng ta kết thúc Khóa học về Thánh Phao-lô. Tuy khóa học thật ngắn ngủi nhưng chắc chắn cũng đã đem lại cho mỗi người trong chúng ta rất nhiều điều tốt lành, cả về mặt hiểu biết về con người và giáo huấn của Thánh Phao-lô, cả về mặt tâm linh tức tác động của những trang, những đoạn hoặc những câu Lời Chúa trong các Thư của Thánh Phao-lô trên tâm hồn và cuộc sống đức tin của chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời tri ân cảm tạ. - Cùng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Ki-tô Giê-su và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho Hội Thánh Cha một người con ưu tú là Phao-lô, một môn đệ xuất sắc noi gương cho chúng con bắt chước Chúa Ki-tô, một Tông Đồ Nhiệt Thành đã đóng góp bao nhiêu công sức cho Công Cuộc Loan Báo Tin Mừng cho Dân Ngoại và xây dựng Hội Thánh thời khởi đầu. Xin Cha ban cho chúng con lòng mến Chúa yêu người nồng nàn và tâm hồn cháy bỏng lửa Truyền Giáo của Thánh Phao-lô. Chúng con xin vì Danh Chúa Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. A-men. - Cùng hát: TÌNH YÊU CHÚA CAO VỜI ĐK: Tình yêu Chúa cao vời biết bao nào con biết đáp đền thế nào, để cho cân xứng Chúa ơi. Để cho cân xứng Chúa ơi. PK 1: Ôi tình yêu thương Chúa cao vời, tình yêu thương Chúa muôn đời. Người yêu con tự ngàn xưa. Từ khi chưa có đồi non, từ khi chưa có trời cao, chưa có
vầng trăng với ngàn sao. Gọi con giữa muôn muôn người, tìm con giữa nơi bùn nhơ. PK 2: Ôi vì thương con Chúa quên mình, vì yêu nên hiến thân mình gọi con nên bạn tình Cha. Dù bao sóng gió hiểm nguy, dìu con trên bước đường đi, ơn Chúa ngày đêm ấp ủ con. Vì con Chúa quên thân mình, đời con dám mơ gì hơn. PK 3: Con thành tâm dâng hiến trọn đời, thành tâm dâng hiến xác hồn để nên tông đồ của Cha. Và nên nhân chứng của Cha, truyền rao chân lý của Cha, gieo rắc Lời Cha khắp gần xa. Đời con sẽ đi khắp miền, làm nhân chứng cho tình yêu
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ» ---------------BÀI ĐỌC THÊM CHÚA KI-TÔ THEO GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ Linh mục Minh Huy đã trình bày với các tu sĩ một đề tài mang tựa đề «CHÚA KI-TÔ VÀ HỘI THÁNH THEO GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ». Con xin cha Minh Huy cho phép con dùng phần CHÚA KI-TÔ THEO GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ làm BÀI ĐỌC THÊM CHO GIÁO TRÌNH THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG của con. Chân thành cảm ơn cha! 1. Chúa Kitô là trung tâm điểm Đối với thánh Phao-lô, tâm điểm của lịch sử cứu độ là cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su (x.1 Cor 15). Tất cả những gì thánh Phao-lô làm và rao giảng đều xuất phát từ trung tâm ấy (x. Cl 1,1; Rm 1,1; Gl 1,1; Pl 1,1.27; 1 Cr 4,15). Ngài khẳng quyết: “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Khi nói “mọi sự đều do Ngài mà được tạo dựng…” (Cl 1,16.19), thánh Phao-lô khẳng định thần tính của Chúa Ki-tô (Gl 1,1); và ngài cũng khẳng định nhân tính của Chúa Ki-tô khi viết: “Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con của Người đến, sinh làm con một người phụ nữ” (Gl 4,4). Cả cuộc đời thánh Phao-lô sau khi trở lại là Chúa Ki-tô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống nữa, mà Chúa Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 19b-20). Đối với thánh Phao-lô, Chúa Ki-tô là người mang lại ơn cứu độ cho chúng ta qua việc tha thứ tội lỗi bởi ân sủng phong phú của Ngài: “Trong Ngài chúng ta được ơn cứu độ, được tha thứ tội lỗi theo sự phong phú ân sủng Ngài đổ xuống trên chúng ta.” (Ep 1,7-8). Do đó, như thánh Phao-lô, cả cuộc đời chúng ta phải là một lời rao giảng Phúc âm, rao giảng Đức Ki-tô là Chúa và là Đấng cứu độ. 2. Thánh Phao-lô chia sẻ kinh nghiệm biết Chúa Ki-tô Ngài thú nhận: “Mặc dầu trước kia tôi đã biết Chúa Ki-tô theo xác thịt, nhưng bây giờ tôi không còn biết Người như thế nữa” (2 Cr 5,16). “Biết theo xác thịt” có nghĩa là chỉ biết vẻ bề ngoài, chứ không thể biết thật sự cái tâm của con người: “Tri nhơn, tri diện, bất tri tâm” (Biết người, biết mặt mà không biết lòng). Chỉ có con tim với con tim mới thật sự biết được một con người.
Người Do Thái đã biết Chúa Giê-su theo cách bề ngoài ấy: họ biết Người là người Nazareth, con bà Ma-ri-a và bác thợ mộc Giu-se, v.v. nhưng không thật sự biết Người và chân lý của Người. Trái lại, Nhóm Mười Hai đã hiểu đúng về Thầy mình, như thánh Phê-rô đã tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa hằng sống, khi Chúa Giê-su hỏi họ: “Các con nói Thầy là ai?” Ngày nay cũng có những người học rộng biết nhiều điều cao cả về Chúa Ki-tô, nhưng Chúa Ki-tô đã không ảnh hưởng gì vào cuộc đời họ. Trái lại nhiều người chất phác không biết những chi tiết cao siêu ấy, nhưng họ lại biết Chúa Ki-tô với tất cả con tim, và chân lý của Người đi vào cuộc đời họ, tác động họ, biến đổi họ và hướng dẫn họ (x. 1 Tx 2,13). Thánh Phao-lô thật sự biết Chúa Ki-tô theo cách ấy, biết thật sự con người và chân lý của Chúa Ki-tô trước, rồi dần dần học biết thêm các chi tiết về Người, nhờ đó ngài say yêu Người, rao giảng về Người và sống chết cho Người. Thánh Phao-lô đã học được những chi tiết về Chúa Ki-tô từ các Tông Đồ trước ngài, từ Hội Thánh Sơ Khai, và nhất là được chính Chúa mạc khải cho. Qua các thư của ngài, thánh Phao-lô tỏ ra biết chắc chắn về cuộc sống, lời nói, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su, nhưng không như những gì thuộc về quá khứ, mà là những biến cố thực tại của một con người vẫn còn đang sống. Những lời nói và hành động của Chúa Giê-su đối với thánh Phao-lô luôn luôn là hiện tại. Phải, Chúa Giê-su hiện vẫn đang sống, đang nói với chúng ta, và hướng dẫn chúng ta. Đó là cách biết đích thực về Chúa Giê-su, không phải như một người trong quá khứ, nhưng là Chúa đang ở với chúng ta, đang đồng hành với chúng ta, đang chỉ cho chúng ta biết phải sống thế nào, làm việc thế nào, yêu thương thế nào, chịu đau khổ thế nào, tha thứ làm sao, vượt lên thử thách và khủng hoảng làm sao để tái định hướng, tiếp tục và tiến lên trong đời sống ơn gọi và sứ vụ của chúng ta. 3. Chúa Ki-tô là A-đam mới Đối với thánh Phao-lô, Chúa Ki-tô là A-đam mới của thời cánh chung (1 Cr 15,45): A-đam cũ đầu tiên vì kiêu ngạo muốn bằng Thiên Chúa mà phạm tội khiến nhân loại phải chết, còn A-đam cuối cùng tự hủy chính mình, mang lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống người phàm, hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Pl 2,6-8), để trở nên căn nguyên cứu rỗi đời đời cho những ai tin. Bởi hành động bất tuân của mình, A-đam cũ đã mang lại cái chết. Chúa Giê-su, A-đam mới, cũng bởi hành động vâng phục của mình, đã tiêu diệt sự chết và mang lại sự sống (1 Cr 15,54-55). Quả thế, “Do sự bất tuân của một người (Ađam) mà nhiều người thành tội, thì do sự vâng phục của một người (Chúa Ki-tô) mà nhiều người được nên công chính” (Rm 5,19).
Nhưng Chúa Giê-su cũng đến phục hồi sự sống và phẩm giá cho thân xác nữa. Thánh Phao-lô viết: “Gieo xuống trong hư hoại chỗi dậy trong bất diệt; gieo xuống trong nhục nhã chỗi dậy trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối chỗi dậy trong quyền năng; gieo xuống trong xác phàm chỗi dậy trong xác thiêng” (1 Cr 15,42-44) Thánh Phao-lô dạy rằng Chúa Ki-tô trở nên người phàm để hóa giải mối bất hòa do tội A-đam đã gây nên giữa Thiên Chúa và con người, và cũng do chính tội riêng của chúng ta nữa. Nhờ cái chết và phục sinh của Người, Chúa Giê-su mang lại ơn cứu độ cho chúng ta qua việc gánh lấy tội chúng ta: “Vì chúng ta, Thiên Chúa đã làm cho Ðấng không hề biết tội là gì thành tội, để chúng ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa trong Người” (2 Cr 5,21). Chớ gì trót cả cuộc đời chúng ta trở thành lời rao giảng Chúa Ki-tô, bằng chứng tá cuộc sống và việc làm hằng ngày của chúng ta, trong mọi hoàn cảnh và biến cố của cuộc đời, dù được vui mừng hay phải buồn phiền, dù thành công hay thất bại, dù được cảm thông hay bị hiểu lầm, dù cảm thấy hạnh phúc hay phải đau khổ: Biết rằng đời hiểu hay không Uống cho bằng cạn chén hồng Chúa giao Thương ai Chúa mới gọi vào Kèm trong thử thách dạt dào đỡ nâng.
LỜI TRI ÂN Con hết lòng tri ân Linh mục Chính xứ Tân Phước (Hạt Phú Thọ, Tổng Giáo phận TpHCM) và các Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể, Giáo Lý Viên, Giới Trẻ Tân Phước, Linh mục Chính xứ Tân Châu (Hạt Tân Sơn Nhì, Tổng Giáo phận TpHCM) và anh chị em giáo dân Tân Châu, Tân Thành, Linh mục Chính xứ Hà Úc (Vùng Duyên Hải, Hạt Hải Vân, Tổng Giáo phận Huế) và anh chị em giáo dân Hà Úc, Linh mục Chính xứ An Bằng (Vùng Duyên Hải, Hạt Hải Vân, Tổng Giáo phận Huế) và anh chị em giáo dân An Bằng, Linh mục Chính xứ Kim Long (Hạt Nội Huế, Tổng Giáo phận Huế) và anh chị em giáo dân Kim Long, Linh mục Chính xứ Phong Cốc (Hạt Tây Ninh, Giáo phận Phú Cường) và anh chị em giáo dân Phong Cốc, Linh mục Chính xứ Thánh Tuân (Hạt Tây Ninh, Giáo phận Phú Cường) và anh chị em giáo dân Thánh Tuân: NHỜ QUÝ CHA VÀ QUÝ ANH CHỊ EM MÀ CÓ KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG NÀY. Sàigòn ngày 27 tháng 03 năm 2009 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội