Lí Bạch (701-762), tự Thái Bạch, nguyên quán ở tỉnh Cam Túc, lớn lên ở đất Tứ Xuyên. Để lại khoảng 1000 bài thơ, Lí Bạch là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng, thướng được mệnh danh là “thi tiên). Về cơ bản, LB vẫn là một nhà thơ lạc quan, hào phóng. Âm hưởng chủ đạo trnog thơ ông vẫn là tiếng nói yêu đời, yêu TN, yêu quê hương dất nc. Ông đã có nhiều sáng tạo mới mẻ, táo bạo trong việc xây dựng hình ảnh, tứ thơ cũng như trong việc sử dụng thể thơ và ngôn từ HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN QUẢN CHI LĂNG Phiên âm: Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệt há DươngChâu. Cô phàm viễn ảnh bích ko tận, Duy kiến Trừơng Giang thiên tế lưu. Dịch thơ: Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng. Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời. Đỗ Phủ (712-770) là nhà thơ hiện thực lớn nhất, ko chỉ của đời Đường, mà của cả lịch sử thơ ca cổ TQ. ĐP làm thơ khi mới 7 tuổi, lúc nhà Đường còn phồn vinh, song chủ yếu sáng tác trong và sau sự biến An Lộc Sơn- Sử Tư Minh (755-763), lúc đất nc TQ chìm ngập liên miên trong cảnh loạn li. Trong 11 năm cuối đời, ĐP đưa gia đình đi lánh nạn khắp các vùng thuộc các tỉnh phía Tây Nam TQ. 770, nhà thơ đã wa đời trong cảnh đói rét và bệnh tật trên 1 chiếc thuyền. Thơ ca hiện thực của ĐP đã phát triển tới đỉnh điểm với những bài thơ nổi tiếng như Tam Lại, Tam biệt. Thơ ĐP là luật thi; mảng thơ biểu hiện những tâm trạng khác nhau của nhà thơ, trong đó tám bài Thu hứng và Đăng ca là những bài tiêu biểu. Thơ ĐP thường dc gọi là “Thi sử” vì lần theo thơ ông wa cáct hời kì, ta có thể thấy hình bóng XH đời Đường dần hiện lên như 1 bức tranh. ĐP, dc tôn vinh là “thi thánh”. Ông đã đc Hội đồng hòa bình Tgiới kỉ niệm năm 1962 Bổ sung: năm 765, ĐP rời Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên) về Văn An và năm 766 đến Quỳ Châu (đều thuộc Tứ Xuyên). Tại đây ông đã stác chùm thơ Thu hứng nổi tiếng gồm 8 bài. Chùm thơ thể hiện 1 cách sâu lắng nhất điểm nổi bật trong tâm sự nhà thơ lúc bấy giờ là lòng thương nhớ quê hương (cố viên tâm). Đây là bài thơ mở đầu, thng dc gọi là Thu hứng số 1, dc xem như “cương lĩnh stác” của cả chùm thơ. THU HỨNG (Cảm xúc mùa thu) Phiên âm: Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm. Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, Cô chu nhất hệ cố viên tâm. Hàn y xứ xứ thôi đao xích, Bạch Đế thành cao cấp mộ châm Dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa. Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước, Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.