Bản đồ nước CHXHCN Việt Nam
1.Một số thông tin về địa lý Việt Nam • • Tên nước : CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Thủ đô : Hà Nội Vị trí địa lý : (đất liền) Kinh độ : từ 102o O9’ đến 109o 30’ Đông Vĩ độ : từ 8o10’ đến 23o24’ Bắc Diện tích đất liền : 331.690 km2 Khoảng cách (đường chim bay) giữa hai điểm cực nam và bắc : 1.650 km Khoảng cách Đông-Tây tối đa: 600 km (Bắc Bộ), 400 km (Nam Bộ); tối thiểu: 50 km (Quảng Bình, Trung Bộ). Dân số: Hơn 80 triệu người (2002) trong đó nữ chiếm 51%, nam 49%. Đơn vị hành chính: Gồm 64 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng) Đặc điểm địa lý: + Núi, đồi: Núi và cao nguyên chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ. Hệ thống núi kéo dài từ biên giới TâyBắc đến phần đông của Nam Bộ, dài tổng cộng 1.400 km. Đỉnh núi cao nhất: Fan Si Pan cao 3.143 m. + Đồng bằng: Đồng bằng sông Hồng: 15.000 km2. Đồng bằngsông Cửu Long: 40.000 km2. + Những sông chính: Tổng chiều dài các con sông là 41.000 km với tổng lưu lượng gần 300 tỷ m3 nước và 3.100 km kênh rạch. Sông Hồng dài 1.149 km trong đó 510 km chảy trên lãnh thổ Việt Nam. Sông Mê kông (Cửu Long) dài 4.220 km trong đó 220 km chảy trên lãnh thổ Việt Nam.
Đặc điểm khí hậu: Việt Nam hoàn toàn nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với các đặc điểm khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều và mưa theo mùa. + Nhiệt độ: + Lượng mưa: (trung bình trong năm) Hà Nội : 1.763 mm. Huế : 2.867 mm. Tp Hồ Chí Minh : 1.910 mm. + Độ ẩm trung bình vượt 80%, thậm chí 90% trong mùa mưa và thời kỳ có mưa phùn. Giao thông: + Đường bộ: 86.327 km (1995); Khoảng cách chính (đường bộ): * Hà Nội-TP Hồ Chí Minh : 1.738 km * Hà Nội-Điện Biên Phủ : 474 km * Hà Nội-Hải Phòng : 102 km * Hà Nội-Huế : 654 km + Đường sắt: 3.219 km (1995), gồm 5 tuyến. + Đường hàng không: Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (VietnamAirlines) có 17 đường bay quốc tế, và 16 đường bay nội địa. Các sân bay lớn: Nội Bài (Hà Nội), Tân Sơn Nhất (TP.HCM) , Đà Nẵng, Phú Bài (Huế), Cát bi (Hải Phòng), Điện biên (Lai châu), Vinh (Nghệ An), Nha Trang, Cần Thơ... + Một số cảng biển chính: Hòn Gai, Hải Phòng, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn ... Địa hình Việt Nam có hình chữ S nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương, giữa vùng Đông Nam á, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, phía Đông và Nam giáp biển. Phần lớn diện tích lãnh thổ Việt Nam có địa hình đồi núi tập trung ở phía Bắc và phía Tây; các đồng bằng nằm chủ yếu ở phía Đông và phía Nam lãnh thổ. Vùng biển của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km2, bờ biển trải dài hơn 3000 km, nằm dọc biển Đông của Thái Bình Dương. Các vùng núi và biển này chứa nhiều nguồn tài nguyên và khoáng sản đa dạng phong phú. Phía Tây Nam miền Trung Việt Nam là một cao nguyên rộng lớn ở độ cao trên 1000 m, bao phủ bởi lớp đất đỏ bazan, rất thích hợp với các cây công nghiệp vùng nhiệt đới và ôn hoà (cao su, chè, cà phê, ca cao...). Dọc theo bờ biển Việt Nam, từ Bắc xuống Nam, có nhiều bãi biển đẹp, đặc biệt là Vịnh Hạ Long với hơn 3000 hòn đảo, được UNESCO công nhận là kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Việt Nam có nhiều khu rừng nguyên thuỷ còn chưa bị khai thác với nhiều loài động , thực vật quý và hiếm,
nhiều vùng cao có khí hậu ôn hoà và phong cảnh độc đáo như Sa Pa, Đà Lạt... và vô số hồ, suối, thác và hang động độc đáo... Các mỏ khoáng sản như than đá, sắt, bô-xít và kim loại hiếm tập trung chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung; trên thềm lục địa và các vùng ven biển có nhiều mỏ dầu và khí đốt. Sông, hồ và các vùng biển Việt Nam có nhiều cá tôm và các loại hải sản.
2.Sơ lược lịch sử Việt Nam • • • Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ (300.000 -500.000 năm). Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước. Dân tộc Việt Nam đã được hình thành và bước đầu phát triển trên vùng châu thổ sông Hồng và sông Mã phía Bắc của Việt Nam ngày nay. Con người từ các vùng đồi núi xuống vùng đồng bằng, từ đời này sang đời khác đã khai hoá đất để trồng trọt. Họ đã tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự dòng sông Hồng gây nhiều lũ lụt hàng năm. Quá trình lao động không ngừng để chế ngự nước - chống lũ, lụt, bão, hạn hán, xây dựng đê điều, đào kênh phục vụ cho việc trồng lúa đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hoá làng xã. Vào thời đại Đồ đồng đã ra đời một nền văn minh thống nhất và độc đáo, đạt mức độ kỹ thuật và nghệ thuật cao, nền văn minh Đông Sơn rực rỡ. Các nghiên cứu nhân chủng, lịch sử và khảo cổ gần đây đã khẳng định sự tồn tại một thời kỳ các Vua Hùng khoảng 1000 năm trước Công nguyên trên Vương quốc Văn Lang, sau đó đổi tên là âu Lạc. Đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, Ấu Lạc đã bị xâm chiếm và sát nhập vào đế chế phong kiến Hán hùng mạnh ở phương Bắc. Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung Hoa kéo dài mười thế kỷ đã không bẻ gẫy được sức kháng cự của dân tộc và không đồng hoá được nền văn hoá Việt Nam. Vào thế kỷ thứ mười sau Công nguyên đất nước đã giành được độc lập vững chắc và xây dựng một nhà nước độc lập mang tên Đại Việt. Đất nước đã trải qua nhiều triều đại vua chúa phong kiến mà quan trọng nhất là triều Lý (thế kỷ11 và 12), triều Trần (thế kỷ 13 và 14), triều Lê (thế kỷ 15, 16 và 17) với một nền hành chính tập quyền, một lực lượng quân đội mạnh, một nền kinh tế và văn hoá phát triển cao. Trong suốt thời kỳ này, Việt Nam phải liên tục đấu tranh chống lại các âm mưu xâm lược của các đế chế phong kiến Trung Hoa và Mông Cổ. Các cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ chống quân xâm lược Tống (thế kỷ 11), Nguyên (thế kỷ 13), Minh (thế kỷ 15) đã giành những thắng lợi vang dội. Sau mỗi cuộc kháng chiến, Việt Nam trở nên mạnh hơn, các dân tộc đoàn kết hơn và đất nước bước vào một thời kỳ cường thịnh mới. Nền văn hoá Đông Sơn được bổ sung bởi ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đã phát triển qua nhiều thế kỷ trong khuôn khổ một nhà nước độc lập. Phật giáo, Nho giáo, Khổng giáo thâm nhập vào Đại Việt mang theo nhiều yếu tố văn hoá quần chúng và nhiều hình thức đặc biệt. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có ngôn ngữ riêng và một nền văn minh nông nghiệp phát triển khá cao.
Đến thế kỷ 17 và 18, chế độ phong kiến Việt Nam suy yếu nghiêm trọng. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục diễn ra đã dẫn đến phong trào Tây Sơn (1771-1802). Tây Sơn đã tiêu diệt các chế độ vua chúa cát cứ, thống nhất đất nước, đánh đuổi quân xâm lược Thanh (Trung Quốc) đồng thời ban hành nhiều cải cách xã hội và văn hoá. Nhưng không lâu sau đó với sự giúp đỡ của ngoại bang, Nguyễn ánh đã giành được quyền thống trị và lập nên triều đình nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Vào giữa thế kỷ 19 (1858), thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm chiếm Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất lực đã dần dần nhân nhượng quân xâm lược và từ năm 1884 Pháp thiết lập chế độ bảo hộ và thuộc địa trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu, các phong trào kháng chiến quần chúng dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước nổ ra ở khắp mọi nơi, nhưng cuối cùng đều thất bại. Nguyễn ái Quốc, sau đó trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã hoạt động ở nước ngoài để tìm con đường cứu nước. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quần chúng nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật, thực hiện cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945. Nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời lại phải đương đầu với các âm mưu xâm lược và can thiệp của Pháp và Mỹ, phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm sau đó. Trước hết, sự trở lại xâm lược của Pháp đã gây ra cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) của Việt Nam, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ nay mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động với Thủ đô là Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà nằm dưới sự quản lý của chính quyền thân Pháp, rồi thân Mỹ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn sử dụng mọi sức mạnh để ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người kháng chiến cũ, do vậy xuất hiện phong trào đấu tranh vì hoà bình, thống nhất đất nước. Chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng, đặc biệt từ ngày Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, ngày 20/12/1960. Để duy trì Chế độ Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60 Mỹ đã gửi nửa triệu quân Mỹ và đồng minh đến miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến, và từ 5/8/1964 bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập tự do", đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Mùa xuân năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đè bẹp Chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 25/4/1976, nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc. Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Từ năm 1975 đến 1986, Việt Nam phải đối phó với vô vàn khó khăn. Những hậu quả và tệ nạn xã hội do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh ở biên giới Tây Nam chống diệt chủng Khme đỏ, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy ra... đã đặt Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt. Hơn nữa, những khó khăn
càng trầm trọng do xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan, nóng vội và duy ý chí muốn xây dựng lại đất nước nhanh chóng mà không tính đến những điều kiện cụ thể. Vào đầu những năm 80, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986. Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện nhằm vượt qua khó khăn, đi vào vào con đường phát triển và từng bước hội nhập khu vực và quốc tế. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm khuyết điểm, đề ra đường lối Đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, đi đôi với việc tăng cường cơ sở pháp lý, đổi mới tổ chức Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam thực sự mở cửa, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dựa trên việc nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài sang cơ chế thị trường, tự chủ về tài chính nhằm cân bằng ngân sách nhà nước và hướng tới xuất khẩu. Trước năm 1989 hàng năm Việt Nam đều phải nhập khẩu lương thực, có năm trên 1 triệu tấn. Từ năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu 1-1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%). Đời sống của nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng bao vây, cô lập. Tháng 6 năm 1991, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lại quyết tâm tiếp tục chính sách Đổi mới của Việt Nam với mục tiêu vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Đại hội cũng đề ra chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ với mục tiêu Việt Nam "muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển." Mặc dù bị tác động sâu sắc do việc Liên Xô, Đông Ấu tan rã, các thị trường truyền thống bị đảo lộn; tiếp tục bị bao vây cấm vận và phải đối phó với các âm mưu hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, Việt Nam đã từng bước khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp tục giành nhiều thắng lợi to lớn. Từ năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6/1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ mức 67,1% (1991) xuống còn 12,7% (1995) và 4,5% (1996). Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá nghệ thuật thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Chính trị ổn định, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của Việt Nam được giữ vững, quốc phòng an ninh được củng cố tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc Đổi mới. Hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố, bộ máy nhà nước pháp quyền được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ của Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, tháng 6/1996 đã đánh giá những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng trong 10 năm Đổi mới (1986-1996) và đề ra mục tiêu phát triển đến năm 2000 và 2020 là : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, tháng 4/2001, đã thông qua Nghị quyết về những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong thời gian tới, cho tới 2010 là: Đưa GDP tăng ít
nhất gấp hai lần năm 2000; tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế đạt trên 30% GDP; nhịp độ tăng trưởng bình quân năm ít nhất đạt 7%; tỷ trọng nông nghiệp trong GDP là 16-17%; công nghiệp 40-41%; dịch vụ 42-43%; tỷ lệ lao động trong nông nghiệp còn khoảng 50%; tỷ lệ người được đào tạo nghề là 40%; phổ cập bắt buộc trung học cơ sở trong cả nước; hạ tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 20%; tuổi thọ trung bình đạt 71 tuổi; tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3.Giáo dục Việt Nam • • I. Tình hình giáo dục Mặc dù đất nước còn nghèo, thu nhập quốc dân còn thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, nhưng Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về mặt giáo dục. Cả nước có khoảng 22 triệu học sinh, trong đó có 13,2 triệu học sinh tiểu học (chiếm 58%) 4,3 triệu học sinh trung học và 260.000 sinh viên cao đẳng và đại học.
Tỉ lệ biết chữ ở Việt Nam tương đối cao (92% dân số). Trong số 8% dân số mù chữ thì 80% sống ở vùng nông thôn, trong đó 60% là phụ nữ. Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục tăng nhanh trong thời gian qua, chiếm khoảng 10% ngân sách nhà nước (trong đó 70-80% dùng để trả lương cho giáo viên). Ngân sách dành cho giáo dục và đào tạo của khu vực tư nhân ước tính là trên 40% tổng chi phí trực tiếp. Trong số đó nhiều nhất là chi cho cấp mẫu giáo và trung học cơ sở (khoảng 60%) rồi đến tiểu học (dưới 50%), trung học chuyên ban (19%) và trung học chuyên nghiệp và trung học nghề (12%). Nền giáo dục Việt Nam ngoài việc đào tạo ra một đội ngũ lao động có trình độ và tay nghề, còn tạo ra những nhà khao học có tên tuổi trên thế giới như Nguyễn Văn Hiệu, Trần Đại Nghiã, Tôn Thất Tùng... Bên cạnh các thành tích đó, hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam còn đang đứng trước nhiều khó khăn. Trường lớp còn thô xơ, trang thiết bị nghèo nàn lạc hậu, giáo trình thiếu cập nhật, trình độ giáo viên chưa cao và chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt hiện vẫn còn hàng triệu trẻ em không đến trường. II. Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo 1) Chính sách giáo dục: Luật Phổ cập giáo dục tiểu học được Quốc hội thông qua ngày 12/8/1991. Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua tháng 4/1997, có nội dung chủ yếu là: - Cấu trúc lại hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống văn bằng. Củng cố trường công, khuyến khích mở trường bán công, dân lập; cho phép mở trường tư ở các cấp mầm non, chuyên nghiệp
và đại học. Đa dạng hoá các loại hình giáo dục như: tập trung và không tập trung, chính qui và không chính qui, học từ xa... - Xác định lại mục tiêu giáo dục đào tạo, thiết kế lại chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo cụ thể của từng cấp học, ngành học đáp ứng yêu cầu phát triển, đặc biệt yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Tăng cường hệ thống luật pháp trong giáo dục. Tăng dần tỉ trọng ngân sách giáo dục. Huy động các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ quốc tế, vay vốn nước ngoài để phát triển giáo dục. - Cải thiện đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. - Đổi mới quản lí giáo dục. 2) Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo: Chính phủ Việt Nam tập trung ưu tiên hợp tác trong các lĩnh vực: - Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt về đào tạo kỹ năng trình độ cao, nhân lực thành thạo chuyên môn thuộc những lĩnh vực ứng dụng công nghệ tiên tiến và quản lý kinh doanh. - Phát triển những ngành học và môn học cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cần thiết cho sự hợp tác quốc tế. - Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và trao đổi sinh viên, thông tin, tài liệu và kinh nghiệm về giáo dục và khoa học. Chính phủ đặt mục tiêu: - Hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn, chuẩn bị vào lớp 1. - Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước. Phổ cập trung học cơ sở ở thành phố, vùng kinh tế trọng điểm và nơi có điều kiện. - Tính chung cả nước có 60% trẻ em độ tuổi 11-15 học trung học cơ sở. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, ngoại ngữ, tin học ở trường trung học. - Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15-35, tất cả các tỉnh đạt tiêu chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học. - Tăng qui mô học nghề bằng mọi hình thức lên khoảng 1 triệu người/năm, đạt 22%-25% đội ngũ lao động được qua đào tạo. - Nâng qui mô giáo dục đại học, cao đẳng với cơ cấu đào tạo hợp lý, theo sát cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. - Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức học từ xa. III. Sơ đồ hệ thống và chứng chỉ giáo dục quốc dân 1. Sơ đồ của hệ thống giáo dục
2. Sơ đồ hệ thống văn bằng, chứng chỉ
Bậc, cấp giáo dục
1 I. GD mầm non - Nhà trẻ
Thời gian Điều kiện học Tuổi khung lực để được chuẩn vào của quá vào học lớp lớp đầu trình đầu GDĐT 2
3
3 năm
3-4 tháng
3 năm
3 tuổi
5 năm
6 tuổi
4 năm
11 tuổi
Văn bằng tốt nghiệp
4
5
có bằng tiểu học
Bằng tiểu học
- Mẫu giáo II. GD phổ thông - Tiểu học 3 năm - Trung học cơ sở - Trung học
15 tuổi
có bằng trung học cơ sở
Bằng trung học cơ sở Bằng tú tài
chuyên ban III. GD chuyên nghiệp - Đào tạo nghề sau tiểu học
Có bằng trung học cơ Chứng chỉ nghề dưới 1 13-14 tuổi sở năm Bằng nghề 15 tuổi - Đào tạo Có bằng 1-2 năm nghề sau trung học cơ Bằng trung học trung học cơ sở 15 tuổi chuyên nghiệp 3-4 năm sở - Trung học chuyên nghiệp
15 tuổi
3-4 năm
Có bằng Bằng trung học trung học cơ ngh sở
- Trung học nghề IV. Bậc giáo dục đại học
- Cao đẳng
- Đại học
- Cao học
- Đào tạo tiến sĩ
3 năm
18 tuổi
4-6 năm 18 tuổi
2 năm
4 năm 2 năm
Có bằng tú tài hoặc trung học chuyên Bằng cao đẳng nghiệp hoặc trung học nghề Có bằng tú tài hoặc trung học chuyên nghiệp hoặc trung học nghề Có bằng cử nhân
Hoàn thành giai đoạn1: chứng chỉ đại học đại cương Hoàn thành giai đoạn 2:Bằng cử nhân Bằng cao học hoặc thạc sĩ
Có bằng cử nhân Bằng tiến sĩ Có bằng cao học
4.Văn hoá Việt Nam
• • • Việt Nam có một nền văn hoá đặc sắc, lâu đời gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc. Các nhà sử học thống nhất ý kiến ở một điểm: Việt Nam có một cộng đồng văn hoá khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này. Đó là cộng đồng văn hoá Đông Sơn. Cộng đồng văn hoá ấy phát triển cao so với các nền văn hoá khác đương thời trong khu vực, có những nét độc đáo riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá vùng Đông Nam á, vì có chung chủng gốc Nam á (Mongoloid phương Nam) và nền văn minh lúa nước. Những con đường phát triển khác nhau của văn hoá bản địa tại các khu vực khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả v.v...) đã hội tụ với nhau, hợp thành văn hoá Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước "phôi thai" đầu tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc và đắp giữ đê trồng lúa), từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc. Giai đoạn văn hoá Văn Lang-Ấu Lạc (gần năm 3000 đến cuối thiên niên kỉ 1 trước CN) vào thời đại đồ đồng sơ khai, trải 18 đời vua Hùng, được coi là đỉnh cao thứ nhất của lịch sử văn hoá Việt Nam, với sáng tạo tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn và kỹ thuật trồng lúa nước ổn định. Sau giai đoạn chống Bắc thuộc có đặc trưng chủ yếu là song song tồn tại hai xu hướng Hán hoá và chống Hán hoá, giai đoạn Đại Việt (từ thế kỉ 10 đến 15) là đỉnh cao thứ hai của văn hoá Việt Nam. Qua các triều đại nhà nước phong kiến độc lập, nhất là với hai cột mốc các triều Lý-Trần và Lê, văn hoá Việt Nam được gây dựng lại toàn diện và thăng hoa nhanh chóng có sự tiếp thu ảnh hưởng to lớn của Phật giáo và Nho giáo. Sau thời kì hỗn độn Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn chia cắt đất nước, rồi từ tiền đề Tây Sơn thống nhất đất nước và lãnh thổ, nhà Nguyễn tìm cách phục hưng văn hoá dựa vào Nho giáo, nhưng lúc ấy Nho giáo đã suy tàn và văn hoá phương Tây bắt đầu xâm nhập nước ta. Kéo dài cho tới khi kết thúc chế độ Pháp thuộc là sự xen cài về văn hoá giữa hai xu hướng Ấu hoá và chống Ấu hoá, là sự đấu tranh giữa văn hoá yêu nước với văn hoá thực dân. Giai đoạn văn hoá Việt Nam hiện đại được hình thành kể từ những năm 20-30 của thế kỷ này, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác-Lênin. Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh thế giới hiện đại, đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá Việt Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch sử mới. Có thể nói xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hoá chồng lên nhau: lớp văn hoá bản địa, lớp văn hoá giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hoá giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hoá bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hoá ngoại lai đồng hoá, trái lại còn biết sử dụng và Việt hoá các ảnh hưởng đó làm giầu cho nền văn hoá dân tộc. Văn hoá dân tộc Việt Nam nảy sinh từ một môi trường sống cụ thể: xứ nóng, nhiều sông nước, nơi gặp gỡ của nhiều nền văn minh lớn. Điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa nước...) đã tác động không nhỏ đến đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc, đến tính cách, tâm lý con người Việt Nam. Tuy nhiên điều kiện xã hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn hoá và tâm lý dân tộc. Cho nên cùng là cư dân vùng trồng
lúa nước, vẫn có những điểm khác biệt về văn hoá giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào, Indonesia, ấn Độ v.v... Cùng cội nguồn văn hoá Đông Nam á, nhưng do sự thống trị lâu dài của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn hoá Hán, nền văn hoá Việt Nam đã biến đổi theo hướng mang thêm các đặc điểm văn hoá Đông á. Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và luôn luôn phải làm các cuộc chiến tranh giữ nước, từ đó tạo nên một đặc trưng văn hoá nổi bật: tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc. Chiến tranh liên miên, đó cũng là lý do chủ yếu khiến cho lịch sử phát triển xã hội Việt Nam có tính bất thường, tất cả các kết cấu kinh tế-xã hội thường bị chiến tranh làm gián đoạn, khó đạt đến điểm đỉnh của sự phát triển chín muồi. Cũng vì chiến tranh phá hoại, Việt Nam ít có được những công trình văn hoá-nghệ thuật đồ sộ, hoặc nếu có cũng không bảo tồn được nguyên vẹn. Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc một sắc thái riêng, cho nên văn hoá Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng. Ngoài văn hoá Việt-Mường mang tính tiêu biểu, còn có các nhóm văn hoá đặc sắc khác như Tày-Nùng ,Thái,Chàm, Hoa-Ngái, Môn- Khơme, H’Mông-Dao, nhất là văn hoá các dân tộc Tây Nguyên giữ được những truyền thống khá phong phú và toàn diện cuả một xã hội thuần nông nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên. Dưới đây là cái nhìn khái quát về các lĩnh vực văn hoá chủ yếu: 1. Triết học và tư tưởng Lúc đầu chỉ là những yếu tố tự nhiên nguyên thuỷ thô sơ về duy vật và biện chứng, tư tưởng người Việt trộn lẫn với tín ngưỡng. Tuy nhiên, xuất phát từ gốc văn hóa nông nghiệp, khác với gốc văn hoá du mục ở chỗ trọng tĩnh hơn động, lại có liên quan nhiều với các hiện tượng tự nhiên, tư tưởng triết học Việt Nam đặc biệt chú tâm đến các mối quan hệ mà sản phẩm điển hình là thuyết âm dương ngũ hành (không hoàn toàn giống Trung Quốc) và biểu hiện cụ thể rõ nhất là lối sống quân bình hướng tới sự hài hoà. Sau đó, chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo được dung hợp và Việt hoá đã góp phần vào sự phát triển của xã hội và văn hoá Việt Nam. Đặc biệt các nhà Thiền học đời Trần đã suy nghĩ và kiến giải hầu hết các vấn đề triết học mà Phật giáo đặt ra (Tâm-Phật, Không-Có, Sống-Chết...) một cách độc đáo, riêng biệt. Tuy Nho học về sau thịnh vượng, nhiều danh nho Việt Nam cũng không nghiên cứu Khổng-Mạnh một cách câu nệ, mù quáng, mà họ tiếp nhận cả tinh thần Phật giáo, Lão-Trang nên tư tưởng họ có phần thanh thoát, phóng khoáng, gần gũi nhân dân và hoà với thiên nhiên hơn. ở các triều đại chuyên chế quan liêu, tư tưởng phong kiến nặng nề đè nén nông dân và trói buộc phụ nữ, nhưng nếp dân chủ làng mạc, tính cộng đồng nguyên thuỷ vẫn tồn tại trên cơ sở kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc. Cắm rễ sâu trong xã hội nông nghiệp Việt Nam là tư tưởng nông dân có nhiều nét tích cực và tiêu biểu cho con người Việt Nam truyền thống. Họ là nòng cốt chống ngoại xâm qua các cuộc kháng chiến và nổi dậy. Họ sản sinh ra nhiều tướng lĩnh có tài, lãnh tụ nghĩa quân, mà đỉnh cao là người anh hùng áo vải Quang Trung-Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18. Chính sách trọng nông ức thương, chủ yếu dưới triều Nguyễn, khiến cho ý thức thị dân chậm phát triển. Việt Nam xưa kia coi trọng nhất nông nhì sĩ, hoặc nhất sĩ nhì nông, thương nhân bị khinh rẻ, các nghề khác thường bị coi là nghề phụ, kể cả hoạt động văn hoá. Thế kỷ 19, phong kiến trong nước suy tàn, văn minh Trung Hoa suy thoái, thì văn hoá phương Tây bắt đầu xâm nhập Việt Nam theo nòng súng thực dân. Giai cấp công nhân hình thành vào đầu thế kỉ 20 theo chương trình khai thác thuộc địa. Tư tưởng Mác-Lênin được du nhập vào Việt Nam những năm 20-30 kết hợp với chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực biến đổi lịch sử đưa đất
nước tiến lên độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tiêu biểu cho thời đại này là Hồ Chí Minh, anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng và danh nhân văn hoá được quốc tế thừa nhận. Giai cấp tư sản dân tộc yếu ớt chỉ tiến hành được một số cuộc cải cách bộ phận ở nửa đầu thế kỉ 20. Như vậy, Việt Nam không có một hệ thống lý luận triết học và tư tưởng riêng, thiếu triết gia tầm cỡ quốc tế. Nhưng không có nghĩa là không có những triết lý sống và những tư tưởng phù hợp với dân tộc mình. Xã hội nông nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thuỷ kéo dài đã tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy lưỡng hợp (dualisme), một cách tư duy cụ thể, thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi. Đó là một lối sống nặng tình nghĩa, đoàn kết gắn bó với họ hàng, làng nước (vì nước mất nhà tan, lụt thì lút cả làng). Đó là một cách hành động theo xu hướng giải quyết dung hoà, quân bình, dựa dẫm các mối quan hệ, đồng thời cũng khôn khéo giỏi ứng biến đã từng nhiều lần biết lấy nhu thắng cương, lấy yếu chống mạnh trong lịch sử. Trong các bậc thang giá trị tinh thần, Việt Nam đề cao chữ Nhân, kết hợp chặt chẽ Nhân với Nghĩa, Nhân với Đức, bất nhân bất nghĩa đồng nghĩa với thất đức. Nguyễn Trãi từng diễn tả quan niệm Nhân Nghĩa của người Việt - đối lập với cường bạo, nâng lên thành cơ sở của đường lối trị nước và cứu nước. Việt Nam hiểu chữ Trung là Trung với nước, cao hơn Trung với vua, trọng chữ Hiếu nhưng không quá bó hẹp trong khuôn khổ gia đình. Chữ Phúc cũng đứng hàng đầu bảng giá trị đời sống, người ta khen nhà có phúc hơn là khen giầu, khen sang. Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập thế giới, sẽ phải phấn đấu khắc phục một số nhược điểm trong văn hoá truyền thống; kém tư duy lôgích và khoa học kỹ thuật; đầu óc gia trưởng, bảo thủ, địa phương, hẹp hòi; tư tưởng bình quân; xu hướng phủ định cá nhân, san bằng cá tính; tệ ưa sùng bái và thần thánh hoá; thói chuộng từ chương hư danh, yếu về tổ chức thực tiễn... 2. Phong tục tập quán Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Đầu tiên là ăn, có thực mới vực được đạo, trời đánh còn tránh bữa ăn. Cơ cấu ăn thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản. Luộc là cách nấu ăn đặc sắc của Việt Nam. Nhưng cách thức chế biến món ăn lại giầu tính tổng hợp, kết hợp nhiều chất liệu và gia vị. Người Việt hay dùng các chất liệu vải có nguồn gốc thực vật, mỏng, nhẹ, thoáng, phù hợp xứ nóng, với các sắc màu nâu, chàm, đen. Trang phục nam giới phát triển từ đóng khố ở trần đến áo cánh, quần ta (quần Tàu cải biến). Nữ giới xưa phổ biến mặc yếm, váy, áo tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài hiện đại. Nói chung, phụ nữ Việt Nam làm đẹp một cách tế nhị, kín đáo trong một xã hội "cái nết đánh chết cái đẹp". Trang phục cũ cũng chú ý đến khăn, nón, thắt lưng. Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với môi trường sông nước (nhà sàn, mái cong). Sau đó là nhà tranh vách đất, lợp rạ, vật liệu chủ yếu là tre gỗ, không cao quá để chống gió bão, quan trọng nhất là hướng nhà thường quay về phía Nam chống nóng, tránh rét. Nhà cũng không rộng quá để nhường diện tích cho sân, ao, vườn cây. Vả lại, người Việt Nam quan niệm "rộng nhà không bằng rộng bụng". Các kiến trúc cổ bề thế thường ẩn mình và hoà với thiên nhiên. Phương tiện đi lại cổ truyền chủ yếu là đường thuỷ. Con thuyền các loại là hình ảnh thân quen của cảnh quan địa lý-nhân văn Việt Nam, cùng với dòng sông, bến nước.
Các phong tục hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội của Việt Nam đều gắn với tính cộng đồng làng xã. Hôn nhân xưa không chỉ là nhu cầu đôi lứa mà còn phải đáp ứng quyền lợi của gia tộc, gia đình, làng xã, nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng tốt, trải qua nhiều lễ từ giạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu đến tơ hồng, hợp cẩn, lại mặt, và phải nộp cheo để chính thức được thừa nhận là thành viên của làng xóm. Tục lễ tang cũng rất tỉ mỉ, thể hiện thương xót và tiễn đưa người thân qua bên kia thế giới, không chỉ do gia đình lo mà hàng xóm láng giềng tận tình giúp đỡ. Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân, nông nhàn. Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung thu, tết Ông táo... Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm mới...), các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe...). Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hoá (hội chùa). Lễ hội có 2 phần: phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn, phần hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian. 3. Tín ngưỡng và tôn giáo Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên đã nảy sinh tín ngưỡng phồn thực. ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện: thờ sinh thực khí nam và nữ (khác với ấn Độ chỉ thờ sinh thực khí nam) và thờ cả hành vi giao phối (người và thú, ngay ở Đông Nam á cũng ít có dân tộc thờ việc này). Dấu tích trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và chân cột đá, trong trang trí các nhà mồ Tây Nguyên, trong một số phong tục và điệu múa, rõ nhất là ở hình dáng và hoa văn các trống đồng cổ. Nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. ở Việt Nam, đó là tín ngưỡng đa thần và coi trọng nữ thần, lại thờ cả động vật và thực vật. Một cuốn sách nghiên cứu (xuất bản năm 1984) đã liệt kê được 75 nữ thần, chủ yếu là các bà mẹ, các Mẫu (không những có Ông Trời, mà còn có Bà Trời tức Mẫu Cửu Trùng, ngoài ra là Mẫu Thượng Ngàn, Bà chúa Sông v.v...). Về thực vật được tôn sùng nhất là Cây lúa, sau đó tới Cây đa, Cây cau, Cây dâu, quả Bầu. Về động vật, thiên về thờ thú hiền như hươu, nai, cóc, không thờ thú dữ như văn hoá du mục, đặc biệt là thờ các loài vật phổ biến ở vùng sông nước như chim nước, rắn, cá sấu. Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng (Hồng Bàng là tên một loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng hoá một giống chim đẻ trứng, Rồng sự trừu tượng hoá từ rắn, cá sấu). Rồng sinh ra từ nước bay lên trời là biểu trưng độc đáo đầy ý nghĩa của dân tộc Việt Nam. Trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt Nam (trong Nam bộ gọi là Đạo Ông Bà). Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần cai quản che chở cho cả làng (thường tôn vinh những ngươì có công khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc các anh hùng dân tộc đã sinh hay mất ở làng). Cả nước thờ vua tổ, có ngày giỗ tổ chung (Hội đền Hùng). Đặc biệt việc thờ Tứ Bất Tử là thờ những giá trị rất đẹp của dân tộc: Thánh Tản Viên (chống lụt), Thánh Gióng (chống ngoại xâm), Chử Đồng Tử (nhà nghèo cùng vợ ngoan cường xây dựng cơ nghiệp giầu có), bà Chúa Liễu Hạnh (công chúa con Trời từ bỏ Thiên đình xuống trần làm người phụ nữ khát khao hạnh phúc bình thường). Mặc dù có trường hợp dẫn tới mê tín dị đoan, tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hoà trộn cả vào các tôn giáo chính thống.
Phật giáo (Tiểu thừa) có thể đã được du nhập trực tiếp từ ấn Độ qua đường biển vào Việt Nam khoảng thế kỉ 2 sau CN. Phật giáo Việt Nam không xuất thế mà nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thoát tục. Khi Phật giáo (Đại thừa) từ Trung Quốc vào nước ta, tăng lữ Việt Nam mới đi sâu hơn vào Phật học, nhưng dần hình thành những tôn phái riêng như Thiền Tông Trúc Lâm đề cao Phật tại tâm. Thời Lý-Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn hoá mang tính chất "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo cùng tồn tại). Qua nhiều bước thăng trầm, đạo Phật trở nên thân thiết với người Việt Nam, thống kê năm 1993 cho biết vẫn có tới 3 triệu tín đồ xuất gia và khoảng 10 triệu người thường xuyên vãn chùa lễ Phật. Thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam, đến năm 1070 Lý Thái Tổ lập Văn Miếu thờ Chu Công-Khổng Tử mới có thể xem là được tiếp nhận chính thức. Thế kỉ 15, do nhu cầu xây dựng đất nước thống nhất, chính quyền tập trung, xã hội trật tự, Nho giáo thay chân Phật giáo trở thành quốc giáo dưới triều Lê. Nho giáo, chủ yếu là Tống Nho, bám chắc vào cơ chế chính trị-xã hội, vào chế độ học hành khoa cử, vào tầng lớp nho sĩ, dần chiếm lĩnh đời sống tinh thần xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở Việt Nam từng yếu tố riêng lẻ - nhất là về chính trị-đạo đức, chứ không bê nguyên xi cả hệ thống. Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỉ 2. Do thuyết vô vi mang tư tưởng phản kháng bọn thống trị, nó được người dân dùng làm vũ khí chống phong kiến phương Bắc. Nó lại có nhiều yếu tố thần tiên, huyền bí, nên hợp với tiềm thức con người và tín ngưỡng nguyên thuỷ. Nhiều nhà nho cũ mộ khuynh hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc của Lão-Trang. Nhưng từ lâu Đạo giáo như một tôn giáo không tồn tại nữa, chỉ còn để lại di sản trong tin ngưỡng dân gian. Ki-tô giáo đến Việt Nam vào thế kỉ 17 như một khâu môi giới trung gian của văn hoá phương Tây và của chủ nghĩa thực dân. Nó tranh thủ được cơ hội thuận lợi: chế độ phong kiến khủng hoảng, Phật giáo suy đồi, Nho giáo bế tắc, để trở thành chỗ an ủi tinh thần cho một bộ phận dân chúng nhưng trong một thời gian dài không hoà đồng được với văn hoá Việt Nam. Trái lại, nó buộc phải để giáo dân lập bàn thờ trong nhà. Chỉ khi hoà Phúc âm trong dân tộc, nó mới đứng được ở Việt Nam. Năm 1993 có khoảng 5 triệu tín đồ công giáo và gần nửa triệu tín đố Tin Lành. Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản địa mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định. Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có. Và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ông Trời, cũng như môtíp người lấy tiên trong các chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam. 4. Ngôn ngữ Về nguồn gốc tiếng Việt, có nhiều giả thuyết. Giả thuyết giầu sức thuyết phục hơn cả: tiếng Việt thuộc dòng Môn-Khơme của ngữ hệ Đông Nam á, sau chuyển biến thành tiếng Việt-Mường (hay tiếng Việt cổ) rồi tách ra. Trong tiếng Việt hiện đại, có nhiều từ được chứng minh có gốc MônKhơme và tương ứng về ngữ âm, ngữ nghĩa khi so sánh với tiếng Mường. Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, và dưới các triều đại phong kiến, ngôn ngữ chính thống là chữ Hán, nhưng cũng là thời gian tiếng Việt tỏ rõ sức sống đấu tranh tự bảo tồn và phát triển. Chữ Hán được đọc theo cách của người Việt, gọi là cách đọc Hán-Việt. Và được Việt hoá bằng nhiều cách tạo ra nhiều từ Việt thông dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ 13 là chữ Nôm. Thời kỳ thuộc Pháp, chữ Hán dần bị loại bỏ, thay thế bằng tiếng Pháp dùng trong ngôn ngữ hành
chính, giáo dục, ngoại giao. Nhưng nhờ chữ Quốc ngữ, có lợi thế đơn giản về hình thể kết cấu, cách viết, cách đọc, văn xuôi tiếng Việt hiện đại thực sự hình thành, tiếp nhận thuận lợi các ảnh hưởng tích cực của ngôn ngữ văn hoá phương Tây. Chữ quốc ngữ là sản phẩm của một số giáo sĩ phương Tây trong đó có Alexandre de Rhodes hợp tác với một số người Việt Nam dựa vào bộ chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt dùng trong việc truyền giáo vào thế kỉ 17. Chữ quốc ngữ dần được hoàn thiện, phổ cập, trở thành công cụ văn hoá quan trọng. Cuối thế kỉ 19, đã có sách báo xuất bản bằng chữ quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếng Việt và chữ quốc ngữ giành được địa vị độc tôn, phát triển dồi dào, là ngôn ngữ đa năng dùng trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp học, phản ánh mọi hiện thực cuộc sống. Ngày nay, nhờ cách mạng, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có chữ viết riêng. Đặc điểm của tiếng Việt: đơn âm nhưng vốn từ cụ thể, phong phú, giầu âm sắc hình ảnh, lối diễn đạt cân xứng, nhịp nhàng, sống động, dễ chuyển đổi, thiên về biểu trưng, biểu cảm, rất thuận lợi cho sáng tạo văn học nghệ thuật. Tự điển tiếng Việt xuất bản năm 1997 gồm 38410 mục từ. 5. Văn học Phát triển song song, tác động qua lại sâu sắc: Văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành phần là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian chiếm vị trí quan trọng ở Việt Nam, có công lớn gìn giữ phát triển ngôn ngữ dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Sáng tác dân gian gồm thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, câu đố, tục ngữ, ca dao... với nhiều màu sắc các dân tộc ở Việt Nam. Văn học viết ra đời từ khoảng thế kỉ 10. Cho đến đầu thế kỉ 20 cũng có hai bộ phận song song tồn tại: chữ Hán (có thơ, văn xuôi, thể hiện tâm hồn, hiện thực Việt Nam nên vẫn là văn chương Việt Nam) và chữ Nôm (hầu như chỉ có thơ, lưu truyền lại nhiều tác phẩm lớn). Từ những năm 20 của thế kỉ 20, văn học viết chủ yếu sáng tác bằng tiếng Việt qua chữ quốc ngữ, có sự cách tân sâu sắc về các hình thức thể loại như tiểu thuyết, thơ mới, truyện ngắn, kịch... và sự đa dạng về xu hướng nghệ thuật, đồng thời phát triển với tốc độ nhanh, nhất là sau Cách mạng tháng Tám đi theo đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng về cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân. Có thể nói ở Việt Nam, hầu như cả dân tộc sính thơ, yêu thơ, làm thơ - từ vua quan, tướng lĩnh, sư sãi, sĩ phu đến sau này nhiều cán bộ cách mạng - và một cô thợ cấy, một cụ lái đò, một anh lính chiến đều thuộc dăm câu lục bát, thử một bài vè. Về nội dung, chủ lưu là dòng văn chương yêu nước bất khuất chống ngoại xâm ở mọi thời kỳ và dòng văn chương phản phong kiến thường thông qua thân phận người phụ nữ. Phê phán các thói hư tật xấu của xã hội cũng là mảng đề tài quan trọng. Các thi hào dân tộc lớn đều là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Văn học Việt Nam hiện đại phát triển từ lãng mạn đến hiện thực, từ âm hưởng chủ nghĩa anh hùng trong chiến tranh đang chuyển sang mở rộng ra toàn diện cuộc sống, đi vào đời thường, tìm kiếm các giá trị đích thực của con người. Văn học cổ điển đã tạo nên những kiệt tác như Truyện Kiều (Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi)... Việt Nam từ mấy thế kỉ trước đã có những cây bút nữ độc đáo: Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan. Văn xuôi hiện đại có những tác giả không thể nói là thua kém thế giới: Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nam Cao... Bên cạnh đó là những nhà thơ đặc sắc như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tố Hữu... Tiếc rằng hiện nay chưa có những tác phẩm lớn phản ánh đầy đủ, trung thực và xứng đáng đất nước và thời đại. 6. Nghệ thuật Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc, trong đó bộ gõ là phổ biến nhất, đa dạng nhất và có nguồn gốc lâu đời nhất (trống đồng, cồng chiêng, đàn đá, đàn tơ rưng...). Bộ hơi phổ biến là sáo khèn, còn bộ dây độc đáo nhất có đàn bầu và đàn đáy.
Thể loại và làn điệu dân ca Việt Nam rất phong phú khắp Trung, Nam, Bắc: từ ngâm thơ, hát ru, hò đến hát quan họ, trống quân, xoan, đúm, ví giặm, ca Huế, bài chòi, lý. Ngoài ra còn có hát xẩm, chầu văn, ca trù. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền có chèo, tuồng. Rối nước cũng là một loại hình sân khấu truyền thống đặc sắc có từ thời Lý. Đầu thế kỉ 20, xuất hiện cải lương ở Nam bộ với các điệu vọng cổ. Nghệ thuật thanh sắc Việt Nam nói chung đều mang tính biểu trưng, biểu cảm, dùng thủ pháp ước lệ, giầu chất trữ tình. Sân khấu truyền thống giao lưu mật thiết với người xem và tổng hợp các loại hình ca múa nhạc. Múa Việt Nam ít động tác mạnh mẽ mà đường nét uốn lượn mềm mại, chân khép kín, múa tay là chính. ở Việt Nam, nghệ thuật chạm khắc đá, đồng, gốm đất nung ra đời rất sớm có niên đại 10000 năm trước CN. Sau này gốm tráng men, tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh lụa, tranh giấy phát triển đến trình độ nghệ thuật cao. Nghệ thuật tạo hình Việt Nam chú trọng diễn tả nội tâm mà giản lược về hình thức, dùng nhiều thủ pháp cách điệu, nhấn mạnh. Đã có 2014 di tích văn hoá, lịch sử được Nhà nước công nhận và 2 di tích là cố đô Huế, Vịnh Hạ Long được quốc tế công nhận. Kiến trúc cổ còn lại chủ yếu là một số chùa-tháp đời Lý-Trần; cung điện-bia đời Lê, đình làng thế kỉ 18, thành quách-lăng tẩm đời Nguyễn và những ngọn tháp Chàm. Thế kỉ 20, tiếp xúc với văn hoá phương Tây, nhất là sau khi nước nhà độc lập, các loại hình nghệ thuật mới như kịch nói, nhiếp ảnh, điện ảnh, ca múa nhạc và mỹ thuật hiện đại ra đời và phát triển mạnh, thu được những thành tựu to lớn với nội dung phản ánh hiện thực đời sống và cách mạng. Cho nên đến giữa năm 1997, đã có 44 người hoạt động văn hoá-nghệ thuật được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh, 130 người được phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, 1011 người được tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, đặc biệt có hai người được nhận giải thưởng quốc tế về âm nhạc là Đặng Thái Sơn (Giải âm nhạc Chopin) và Tôn Nữ Nguyệt Minh (Giải âm nhạc Tchaikovski). Tính đến đầu năm 1997, cả nước có 191 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp và 26 xưởng phim, hãng phim, kể cả trung ương và địa phương. Đã có 28 phim truyện, 49 phim thời sự-tài liệu và khoa học được nhận giải thưởng quốc tế ở nhiều nước. Văn hoá dân tộc cổ truyền hiện đứng trước sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đứng
trước những thách thức gay gắt của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá. Nhiều ngành văn hoá nghệ thuật đang có phần chững lại, tìm đường và tự cách tân. Hơn bao giờ hết đặt ra vấn đề bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, vấn đề lựa chọn các giá trị cũ, xây dựng các giá trị mới. Bảo tồn nhưng vẫn phải là một nền văn hoá mở. Hiện đại nhưng không xa rời dân tộc. Công cuộc đổi mới văn hoá đang tiếp tục...
5.Một số nét kinh tế Việt Nam • • I. TỔNG QUAN Những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục và tăng cường công cuộc Đổi mới kinh tế trên nhiều lĩnh vực và đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế. Tuy giành lại được độc lập từ ngày 2/9/1945, nhưng Việt Nam phải trải qua 30 năm kháng chiến, đến năm 1975 đất nước mới hoàn toàn thống nhất. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nền kinh tế quá thấp, hậu quả chiến tranh quá nặng nề cùng với những thiếu sót, sai lầm trong chỉ đạo kinh tế, duy trì quá lâu cơ chế tập trung bao cấp nên đến năm 1985 kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam diễn ra vào tháng 12/1986 đã đưa ra đường lối Đổi mới trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm mà nội dung chủ yếu là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó, tháng 6/1991, Đại hội VII của Đảng đã tiến hành đánh giá thành quả Đổi Mới và tiếp tục thực hiện đường lối Đổi Mới, đề ra chính sách đối ngoại phù hợp với xu thế lớn của thế giới là đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế để tạo thêm thế mạnh, tranh thủ thêm vốn và công nghệ cho phát triển kinh tế quốc dân. Những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội trong thời gian này đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và đặt nền móng cho giai đoạn phát triển mới. Đại hội lần thứ VIII (tháng 6/1996) khẳng định quyết tâm tiếp tục và phát triển hơn nữa đường lối Đổi mới kinh tế toàn diện, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiếp tục phát huy hơn nữa những thành quả đã đạt được, Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4/2001) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 nhằm xây dựng nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ, cùng phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."
II. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ 1945 Từ 1945-1975: Nền kinh tế trong thời kỳ chiến tranh. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công giữa lúc giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm vẫn còn rình rập. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, cả dân tộc lại phải đứng lên dốc sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm kéo dài 9 năm. Với chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, hoà bình được lập lại nhưng đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Ở miền Bắc bắt đầu thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh thông qua khôi phục nhanh nông nghiệp và giao thông vận tải. Nền kinh tế có nhiều thành phần tham gia. Từ năm 1958, miền Bắc thực hiện cải tạo XHCN về kinh tế, hình thành mô hình phát triển kinh tế tập trung và công hữu hoá tư liệu sản xuất, kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân từ trung ương. Nhà nước thực hiện chế độ phân phối sản phẩm bằng tiền lương định mức và bao cấp qua tem phiếu. Với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng. Nhà nước quan tâm phát triển giáo dục, y tế và xây dựng nhiều công trình công cộng. Tính ưu việt của chế độ mới được phát huy mạnh mẽ, nông nghiệp được phục hồi nhanh chóng và nhiều cơ sở công nghiệp nặng đầu tiên được xây dựng..., nhưng từ năm 1964 bắt đầu bộc lộ các nhược điểm của mô hình kinh tế. Từ năm 1964, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Nhân dân miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu và vừa chi viện cho miền Nam. Tình hình này kéo dài trong suốt 10 năm (1965-1975). Trong khi đó, cũng từ 1954, nền kinh tế miền Nam Việt Nam tiến theo mô hình thị trường, nhưng chủ yếu là mô hình kinh tế phục vụ chiến tranh. Từ 1975-1986: Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Sau khi miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975) và đất nước thống nhất (năm 1976), bắt đầu ngay việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980). Kế hoạch này có nhiều điểm duy ý chí nên phần lớn chỉ tiêu đều không đạt. Sản xuất đình trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4 %/ năm (kế hoạch là 13-14 %) trong khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên 2,3 %. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá cả tăng hàng năm 20 %, nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhiều công trình phải bỏ dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng. Đại hội IV ĐCS VN đã quyết định cải tạo XHCN trong cả nước với mục tiêu lớn: xây dựng chế độ làm chủ tập thể và sản xuất lớn. Do các mục tiêu đề ra quá lớn nên trong kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985) nền kinh tế thiếu cân đối và lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Sản xuất đình trệ thể hiện trên tất cả các lĩnh vực. Nạn lạm phát tăng nhanh, đầu những năm 80 tăng khoảng 30-50 % hàng năm, cuối năm 1985 lên đến 587,2 % và siêu lạm phát đạt đến đỉnh cao vào năm 1986, với 774,7 %. Đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc Đổi mới. Từ 1986 đến nay: Đổi mới kinh tế. a. Giai đoạn 1986-1990: Giai đoạn đầu đổi mới.
Đây là giai đoạn đầu của thời kỳ Đổi mới với việc chủ yếu là đổi mới cơ chế quản lý. Trong thời gian này đã ban hành nhiều nghị quyết và quyết định của Đảng và Chính phủ nhằm cải tiến quản lý kinh tế, chính sách tiền tệ, chính sách nông nghiệp... Tuy nhiên trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm này cơ chế cũ chưa mất đi, cơ chế mới chưa hình thành nên Đổi mới chưa có hiệu quả đáng kể. Trung bình trong 5 năm, tổng sản phẩm trong nước tăng 3,9%/năm. Vào những năm cuối của thập kỷ 80, tình hình bắt đầu biến chuyển rõ rệt. Riêng lĩnh vực nông nghiệp có sự tiến bộ đột biến. Năm 1988, Việt Nam đưa ra chế độ khoán nông nghiệp, giao đất cho nông dân, lấy hộ nông dân làm đơn vị kinh tế. Kết quả là nếu năm 1988 phải nhập 450 nghìn tấn lương thực thì năm 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo gần 1 triệu tấn và năm 1990 thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới với 1,5 triệu tấn. Một số ngành công nghiệp then chốt như điện, thép cán, xi măng, dầu thô đạt mức tăng trưởng khá. Giá trị xuất nhập khẩu bình quân tăng 28,0%/năm, tỷ lệ nhập siêu giảm nhanh. Nếu trong các năm 1976-1980 tỷ lệ giữa xuất và nhập là 1/4,0 thì những năm 1986-90 chỉ còn 1/1,8. Một thành công lớn là siêu lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi (năm 1986 lạm phát là 774,7 %, thì năm 1987 là 223,1 %, 1989 là 34,7% và 1990 là 67,4 %). Tóm lại, thành công của Đổi mới trong các năm 1986-90 là sản xuất được phục hồi, kinh tế tăng trưởng, lạm phát bị đẩy lùi. Điều quan trọng hơn là đã chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới.Thành công này càng có ý nghĩa hơn bởi Đổi mới được thực hiện trước khi các nước Đông Ấu và Liên Xô cũ bị khủng hoảng toàn diện. b. Giai đoạn 1991-1996: Đổi mới đạt kết quả quan trọng. Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 6/1991 đã đưa ra chiến lược "Ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000" đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho kế hoạch 5 năm 1991-95. Khó khăn lớn lúc này là nền kinh tế vẫn bị bao vây, cấm vận trong bối cảnh các nước Đông Ấu và các nước thuộc Liên Xô (cũ) rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương của Việt Nam với khu vực này giảm sút đột ngột, năm 1991 chỉ bằng 15,1% năm 1990. Song, thuận lợi lúc này là Đổi mới đã phát huy tác dụng, các cơ sở kinh tế thích nghi dần với cơ chế quản lý mới. Những thành tựu nổi bật là: 1. Cơ chế quản lý kinh tế đã thay đổi căn bản: Trong nền kinh tế xuất hiện nhiều thành phần: quốc doanh, tư bản nhà nước, tư bản tư doanh, hợp tác xã, cá thể... trong đó kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 60% tổng sản phẩm trong nước. Các thành phần kinh tế được trao quyền sử dụng đất và xuất nhập khẩu. Kinh tế quốc doanh tiếp tục được chú trọng và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 2. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao : Trong 5 năm 1991-1995 tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 8,2%. Năm 1996 tăng 9,5%. Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực phát triển liên tục và vững chắc mỗi năm tăng thêm 1 triệu tấn lương thực. Sản xuất công nghiệp đã từng bước thích nghi với cơ chế quản lý mới, bình quân mỗi năm tăng 13,5%, là mức tăng cao nhất từ trước tới lúc đó. Sản xuất trong nước đã có tích luỹ, đảm bảo trên 90 % quĩ tích luỹ và quĩ tiêu dùng hàng năm.
Từ 1991- 1995 có 1401 dự án FDI với 20,413 tỷ USD vốn đăng ký. Đây là thời kỳ vốn FDI vào Việt Nam tăng cao nhất, khoảng 50%/năm. Về xuất khẩu, trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu bình quân mỗi năm tăng 27%, gấp 3 lần tốc độ tăng GDP. 3. Đổi mới cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vu, giảm dần của khu vực nông, lâm ngư nghiệp. Cơ cấu vùng kinh tế cũng bắt đầu thay đổi theo hướng hình thành các vùng trọng điểm, các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất và các vùng chuyên canh sản xuất lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp. 4. Lạm phát tiếp tục bị kiềm chế và đẩy lùi: Thời kỳ này nhờ sản xuất phát triển, lưu thông hàng hoá thông thoáng lại có thêm kinh nghiêm chống lạm phát mấy năm trước nên giá cả ổn định dần. Giá hàng hoá và dịch vụ năm 1991 tăng 67,5 %; năm 1993 chỉ tăng 5,2 %; năm 1996 xuống 4,5%. 5. Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại: Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ bình thường với tất cả các nước và trung tâm kinh tế- chính trị lớn trên thế giới. Ngày 28/07/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). Cũng trong tháng 7/1995, Việt Nam và Liên minh Châu Ấu đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật và bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Mỹ. Việt Nam cũng đã nộp đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đến cuối năm 1996, Việt Nam có quan hệ kinh tế thương mại chính thức với trên 120 nước, kim ngạch ngoại thương gia tăng nhanh chóng, bình quân trên 20%/năm. Nhiều nước và tổ chức quốc tế đã dành cho Việt Nam viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay để đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Đời sống của nhân dân đã dần dần được cải thiện. Giáo dục, y tế được củng cố và tăng cường. Đời sống vật chất và tinh thần của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn một triệu lao động có việc làm. Công tác nghiên cứu khoa học- công nghệ được đẩy mạnh. c. Giai đoạn từ 1996 đến nay: tiếp tục tăng cường đổi mới. Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6/1996) đã đưa ra mục tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2020 đưa Việt Nam "trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh." Trong 2 năm 1996- 1997, nền kinh tế phát triển tốt, GDP bình quân đạt hơn 9%, cao hơn cả mức trung bình của 5 năm trước. Nhiều ngành sản xuất kinh doanh tiếp tục đạt được những tiến bộ đáng kể. Giá trị sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp tăng bình quân 4,8%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,8%, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 28,4%/năm, nhập khẩu tăng 20%/năm. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát, năm 1996 là 4,5% và năm 1997 là 4,3%. Vốn đầu tư phát triển tăng nhanh đạt khoảng 14- 15 tỷ USD, bằng 35% mức kế hoạch 5 năm 1996- 2000, trong đó vốn huy động trong nước
chiếm 51% còn lại là vốn từ nước ngoài. Tuy nhiên, từ giữa năm 1997, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, nền kinh tế Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng GDP liên tục suy giảm: năm 1996 đạt 9,34%; năm 1997 đạt 8,15%; 1998 chỉ còn 5,83% và năm 1999 chỉ đạt 4,8%. Tốc độ tăng trưởng giảm sút thể hiện ở hầu hết các ngành kinh tế chủ yếu: ngành công nghiệp- xây dựng đạt tốc độ tăng 13,5% năm 1996, đã giảm xuống 12,6% năm 1997, 10,3% năm 1998 và giảm mạnh xuống còn 7,7% năm 1999. Ngành dịch vụ đạt mức 8,9% năm 1996, giảm xuống còn 7,1% năm 1997, 4,2% năm 1998 và chỉ còn 2,3% năm 1999. Ngành nông nghiệp cũng có suy giảm: từ 4,4% năm 1996 xuống 4,3% năm 1997 và chỉ còn 2,7% năm 1998. Sang năm 1999, nông nghiệp đã có dấu hiệu phục hồi với tốc độ tăng trưởng 5,2%. Sự sút giảm cũng được bộc lộ nhiều trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Về ngoại thương, năm 1998 kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 0,9% so với năm 1997. Mặc dù năm 1999, xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 11,52 tỷ USD, tăng 23,1% so với năm 1998 nhưng thiếu vững chắc, tỷ lệ xuất khẩu nông sản, nguyên liệu thô còn cao. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giảm sút nghiêm trọng. Năm 1999, chỉ có 298 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký khoảng 1,548 tỷ USD. Chính phủ đã và đang nỗ lực điều chỉnh các chính sách để thu hút đầu tư nước ngoài vì đây là một nguồn vốn quan trọng đóng góp lớn cho phát triển kinh tế xã hội (khu vực có FDI đóng góp gần 10% GDP, 21% xuất khẩu tạo ra hơn 300.000 việc làm). Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Công tác thu hút và giải ngân vốn ODA đã có tiến bộ dần qua các năm. Từ năm 1993-1999 Việt Nam đã giải ngân được 6,3 tỷ USD, chiếm hơn 40% so với nguồn ODA đã được cam kết. Ngành du lịch cũng đạt được nhiều thành tựu với lượng khách du lịch nước ngoài ngày càng tăng, các dịch vụ của ngành cũng có chất lượng tốt hơn. Đặc biệt, lĩnh vực hợp tác lao động nước ngoài đã có nhiều tiến bộ, mở ra một hướng quan trọng góp phần tăng thu nhập ngoại tệ, giải quyết việc làm. Hiện Việt Nam có hơn 54.000 lao động ở ngoài nước, thị trường được mở rộng từ 15 nước năm 1995 lên 38 nước năm 1999. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội vẫn duy trì được đà phát triển. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Công tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh nhằm từng bước nâng cao công bằng xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Trong những năm qua, tình trạng nghèo khổ ở Việt Nam đã giảm đi đáng kể. Chính phủ đã và đang áp dụng nhiều biện pháp thúc đẩy kinh tế như ban hành và thực thi Luật Doanh nghiệp, cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư, thông qua Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, cải cách tài chính, tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực... Tháng 4 năm 2001, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Phương hướng, Nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 nhằm đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và chất lượng phát triển xã hội của đất nước. Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã đề ra mục tiêu tổng quát là "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” theo quan điểm phát triển gồm 5
nội dung chính: (i) phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; (ii) coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết; (iii) đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực; (iv) gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; và (v) Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế- xã hội với quốc phòng an ninh. Trên tinh thần đó, bản Phương hướng, Nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 đã xác định mục tiêu tổng quát là tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Cụ thể hoá mục tiêu đó, chỉ tiêu kế hoạch đặt ra là đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Để được như vậy, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005 phải đạt 7,5%, trong đó dự kiến nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%. Về kinh tế đối ngoại, phấn đấu nâng tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Cơ cấu kinh tế trong GDP đến năm 2005 sẽ chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20 - 21%, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 39%, và tỷ trọng các ngành dịch vụ 41 - 42%. Thực hiện đường lối chính sách đó, Việt Nam đã tập trung cải cách hành chính và tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, mở rộng hợp tác quốc tế, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, nhờ đó kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì được sức phát triển tương đối nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP vẫn duy trì được xu hướng tăng dần, năm 2001 đạt 6,89% và 2002 đạt 7,05%, năm 2003 đạt 7%. Công nghiệp là ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng giá trị cao nhất, đạt trên 10% mỗi năm. Tốc độ tăng của lĩnh vực dịch vụ đạt xấp xỉ tốc độ tăng GDP, trong khi giá trị sản xuất nông nghiệp phục hồi trở lại với mức tăng trên 4% sau khi sụt giảm xuống mức gần 3% năm 2001 (do biến động giá sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới). Với mức tăng như vậy, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng đã định, năm 2002 tỷ trọng nông nghiệp còn khoảng 23%GDP, công nghiệp đạt cao nhất 38,6% và dịch vụ 35,5%. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới, tuy còn chậm nhưng đã từng bước nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các hình thức đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng đã đa dạng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy nhanh tiến trình này. Thành phần kinh tế tư nhân có bước phát triển mạnh mẽ và ngày càng mở rộng quy mô và ngành nghề. Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2000 tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng phát triển mạnh. Đến nay Việt Nam đã thu hút thêm được tổng số trên 40 tỷ USD vốn FDI (vốn đăng ký). Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế, đặc biệt là
công nghiệp của Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng và tăng thêm sức cạnh tranh cho sản phẩm trong nước. Kinh tế tập thể đang được tổ chức lại theo hướng hiệu quả hơn, giải quyết những tồn đọng vướng mắc nhằm đổi mới phương thức hợp tác giữa các hộ gia đình, các làng nghề... đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Hoạt động kinh tế đối ngoại cũng có bước phát triển ổn định. Kim ngạch xuất nhập khẩu cũng không ngừng tăng lên, năm 2001 đạt trên 15 tỷ USD xuất khẩu và trên 16 tỷ USD nhập khẩu, năm 2002 lần lượt là trên 16,5 tỷ và 19,3 tỷ USD. Đã hình thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm hàng công nghiệp nhẹ, hàng nông, lâm, hải sản và hàng điện tử. Tuy tỷ lệ nhập siêu vẫn còn cao và biến động nhưng ngoại thương Việt Nam đã đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Hoạt động du lịch cũng có bước phát triển vượt bậc với khoảng 2 triệu lượt khách quốc tế mỗi năm. Các ngành dịch vụ liên quan như khách sạn, hàng không... cũng có bước phát triển mới. Hệ thống tài chính tiền tệ cũng đang từng bước được cải thiện và nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Các ngân hàng hoạt động thông thoáng và ngày càng có nhiều dịch vụ hơn, đặc biệt là phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử. Tỷ lệ nợ xấu giảm đáng kể. Nhìn chung, trong hơn 15 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Thực tiễn đã cho thấy công cuộc Đổi mới của Việt Nam phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện cụ thể trong nước. Những thành công của Đổi mới đã đã thực sự làm thay đổi bộ mặt của đất nước theo hướng tích cực, tạo được nhiều tiền đề vật chất để tiếp tục tăng cường đổi mới trong thời gian tới. Những năm đầu thế ký 21, kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước phát triển khá tốt, tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng vững vàng hơn. Chính phủ và nhân dân Việt Nam đang tiếp tục tăng cường công cuộc Đổi mới với trọng tâm là cải cách kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước khác trong khu vực. Trên cơ sở những thành tựu kinh tế đã đạt được và những bài học rút ra trong thực tiễn tiến hành Đổi mới, Việt Nam đã và đang tiếp tục đẩy mạnh quá trình này, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá, thay đổi nhanh cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế.
Tóm tắt lịch sử ngành Ngoại giao Việt Nam • • • BỘ NGOẠI GIAO - NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ ----------Ngày 28 tháng Tám 1945, Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố thành
lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Chính phủ Lâm thời kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Vì ý nghĩa trọng đại của sự kiện này, ngày 28 tháng Tám 1945 trở thành ngày thành lập ngành ngoại giao Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh phụ trách Bộ Ngoại giao đến ngày 2 tháng Ba 1946. Khi thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, theo chính sách Liên hiệp của chính quyền mới, chức vụ này được giao cho ông Nguyễn Tường Tam, người của Đảng Việt Quốc. Nhưng ngày 30 tháng Năm 1946, Nguyễn Tường Tam đã trốn theo quân đội Tưởng Giới Thạch sang Trung Quốc. Một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao cho đến khi chuyển giao chức vụ này cho ông Hoàng Minh Giám vào tháng Ba 1947. Sau ngày hòa bình lập lại, chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao lần lượt do các vị sau đảm nhiệm: Thủ tướng Phạm Văn Đồng kiêm nhiệm từ tháng Tám 1954 đến tháng Hai 1961, ông Ung Văn Khiêm (2/1961 - 4/1963), ông Xuân Thủy (4/1963 - 4/1965), ông Nguyễn Duy Trinh (4/1965 - 2/1980), ông Nguyễn Cơ Thạch (2/1980 8/1991), ông Nguyễn Mạnh Cầm (8/1991 - 1/2000) và ông Nguyễn Dy Niên (từ tháng 1/2000 đến nay). Bà Nguyễn Thị Bình là Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam từ tháng Sáu 1969 đến tháng Bảy 1976. Trụ sở Bộ Ngoại giao ban đầu được đặt ngay trong Phủ Chủ tịch, sau đó chuyển đến số nhà 43 Lý Thái Tổ. Năm 1946, trụ sở Bộ Ngoại giao chuyển đến số nhà 23 Phố Hàng Tre, sau đó cùng Chính phủ chuyển về ngoại thành, gần Vân Đình – Hà Đông rồi rút lên An toàn khu tại xóm Dõn, xã Minh Khai (nay là xã Minh Thanh), huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trong 9 năm kháng chiến, Bộ Ngoại giao đóng trụ sở lâu nhất tại đây, cho đến tháng Bảy 1954, chuyển sang Đại Từ, Thái Nguyên. Từ tháng Mười 1954 đến nay, trụ sở Bộ Ngoại giao đặt tại nhà số 1 Tôn Thất Đàm, thuộc Quận Ba Đình, Hà Nội. NGOẠI GIAO VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ 1) Góp phần bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, phục vụ công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954). Ngành ngoại giao sau khi ra đời đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ một tháng sau ngày Tuyên ngôn độc lập, ngày 3 tháng Mười 1945, Bộ Ngoại giao Chính phủ Lâm thời đã ra thông cáo về chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định mục tiêu phấn đấu cho nền độc lập “hoàn toàn và vĩnh viễn" của Việt Nam, hợp tác, thân thiện với các nước đồng minh và các dân tộc láng giềng Trung Hoa, Khơme và Lào. Nhân danh người đứng đầu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư, công hàm cho những người đứng đầu Chính phủ các nước lớn Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông báo về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định tính hợp pháp của nhà nước đó, đồng thời tố cáo thực dân Pháp trở lại tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương. Trong hoàn cảnh cùng lúc phải chống lại nhiều đối thủ mạnh, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành những hoạt động ngoại giao khôn khéo, triệt để khai thác mâu thuẫn giữa Mỹ Tưởng với Pháp; tiến hành hòa hoãn với Tưởng kiên quyết chống thực dân Pháp âm mưu xâm chiếm nước ta một lần nữa. Với chủ trương "Hoa - Việt thân thiện" cùng các sách lược mềm mỏng, ta đã vô hiệu hóa âm mưu tiêu diệt Đảng Cộng sản và phá tan Việt Minh của Tưởng Giới Thạch, đem lại cho miền Bắc một thời kỳ tương đối ổn định để thực hiện chủ trương kháng chiến, kiến quốc, xây dựng củng cố chính quyền nhân dân, tạo điều kiện chi viện cho cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam. Từ tháng Chín 1945 đến tháng Mười hai 1946, ta đã thực hiện nhiều cuộc đấu tranh ngoại giao với Pháp, đặc biệt là tại Hội nghị Đà Lạt và Hội nghị Fontainebleau, ký các Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba và Tạm ước 14 tháng Chín, chuẩn bị thời gian và lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Từ cuối năm 1946 đến năm 1950, công tác ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với hoạt động quân sự và đấu tranh chính trị; chủ động triển khai các hoạt động quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, hình thành liên minh chiến đấu với Lào và Campuchia chống kẻ thù chung. Trong các năm 1947 – 1949, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều hoạt động quan trọng để tranh thủ và vận động dư luận Pháp, kêu gọi nhân dân Pháp gây áp lực đòi Chính phủ Pháp chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược; vận động các nước Châu Á và thuộc địa Pháp đồng tình, ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân xâm lược. Một cố gắng quan trọng của công tác ngoại giao thời kỳ này là mở đột phá ở Tây Nam, thiết lập quan hệ trực tiếp với một số nước Đông Nam Á và Nam Á như Thái Lan, Miến Điện, Indonexia và Ấn Độ… Liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia cũng được tiếp tục đẩy mạnh, giúp đỡ nhau trên cơ sở dân tộc tự quyết, tôn trọng lợi ích của nhau tạo nên bước phát triển mới của cách mạng mỗi nước. Hoạt động ngoại giao cũng góp phần đấu tranh làm thất bại kế hoạch của Pháp và Mỹ âm mưu dùng Bảo Đại và Nguyễn Văn Xuân lập chính phủ bù nhìn. Cuối năm 1949, tình hình thế giới và Châu Á có những biến cố lớn đánh dấu bằng sự củng cố các chính quyền dân chủ nhân dân ở Đông Âu, sự phục hồi của Liên Xô và sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đầu năm 1950, chỉ trong vòng chưa đầy hai tháng, Chính phủ ta đã lần lượt thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Rumani, Ba Lan, Hungari, Bungari và Anbani. Tiếp sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, ta đã phối hợp với Liên Xô, Trung Quốc, tích cực đấu tranh cho một giải pháp hòa bình về Việt Nam, Lào và Campuchia tại Hội nghị Geneve năm 1954 về Đông Dương, đưa đến việc ký kết. Hiệp định Geneve. Hiệp định ghi nhận thắng lợi to lớn của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược, vì tự do và thống nhất của đất nước. Điện Biên Phủ - Geneve là đỉnh cao của chín năm kháng chiến, là thành tựu chung trên các mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, chấm dứt sự nô dịch của thực dân Pháp ở Việt Nam cũng như trên toàn bán đảo Đông Dương, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thống nhất đất nước. 2) Tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Sau khi Hiệp định Geneve 1954 được ký kết, Ngành Ngoại giao đã trưởng thành qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, hoạt động trong điều kiện mới, có nhiều thuận lợi, với nửa nước đã được giải phóng, uy tín quốc tế của Việt Nam được nâng cao, nhất là với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Ngành ngoại giao đã triển khai nhiều hướng hoạt động quan trọng nhằm đấu tranh thi hành Hiệp định Geneve, xây dựng quan hệ đoàn kết, hợp tác toàn diện và chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường đoàn kết hợp tác trong phong trào Cộng sản, công nhân quốc tế và các lực lượng tiến bộ đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, đồng thời xây dựng quan hệ hữu nghị với Campuchia và Lào cùng các quốc gia khác ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh. Ngoại giao Việt Nam tiến hành đấu tranh thi hành Hiệp định Geneve để thực hiện thống nhất nước nhà, góp phần làm cho dư luận thế giới thấy rõ thiện chí hòa bình của nhân dân Việt Nam, tạo được sự ủng hộ của nhân dân thế giới với cuộc đấu tranh chính nghĩa của ta, chống âm mưu của Mỹ và tay sai chia cắt lâu dài nước Việt Nam. Cho đến đầu năm 1960, tình hình trong nước và quốc tế có những thay đổi quan trọng. Hoạt động ngoại giao tiếp tục vận dụng pháp lý Hiệp định Geneve tố cáo chính sách can thiệp xâm lược của Mỹ, chính sách độc tài tàn bạo của chính quyền Ngô Đình Diệm, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, nhất là giúp đỡ vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa xây dựng kinh tế và tăng cường tiềm lực quốc phòng cho miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hoạt động ngoại giao cũng làm cho nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới thấy rõ tính chất xâm lược phi nghĩa của cuộc chiến tranh do
Mỹ tiến hành ở Việt Nam và âm mưu của Mỹ mở rộng chiến tranh. Với sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), ngoại giao hai miền đã phối hợp chặt chẽ, góp phần làm thất bại các luận điệu lừa bịp dư luận của Mỹ. Khi Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc và ồ ạt đưa quân vào miền Nam tiến hành "chiến tranh cục bộ" năm 1965, nhiều hoạt động đối ngoại được thực hiện trên quy mô lớn tấn công đối phương, đề cao chính nghĩa của Việt Nam vạch rõ hành động xâm lược của Mỹ, phơi bày tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ, nêu cao quyết tâm chiến đấu và chiến thắng cũng như thiện chí hòa bình của quân dân ta. Bằng những hoạt động đa dạng, chúng ta đã hình thành được mặt trận nhân dân thế giới rộng rãi ủng hộ Việt Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược. Phong trào này lan rộng từ các nước xã hội chủ nghĩa tới các nước tư bản chủ nghĩa, các nước dân tộc khắp 5 Châu lục tạo nên sự cổ vũ mạnh mẽ đối với nhân dân ta, cô lập Mỹ và làm phân hóa sâu sắc nội bộ Mỹ, tạo nên phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh phát triển nhanh chóng trên quy mô toàn nước Mỹ. Phát huy lợi thế trên chiến trường, nhất là sau thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, ngoại giao Việt Nam đã có nhiều đợt tấn công quan trọng, góp phần buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom, bắn phá miền Bắc, kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, đi vào đàm phán, biến những kết quả đã đạt được trên chiến trường thành kết quả trên bàn Hội nghị, tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trên đất nước ta. Từ tháng Năm 1968 đến tháng Giêng 1973, Việt Nam đã tiến hành đàm phán với Mỹ tại Paris. Ngày 27 tháng Giêng 1973, Việt Nam và Mỹ đã ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Với Hiệp định Paris, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh, chấm dứt dính líu quân sự, rút khỏi Việt Nam và Đông Dương. Quân ngụy mất chỗ dựa, bị suy yếu và lún sâu vào khủng hoảng. Nhân dân Việt Nam đã thực hiện mục tiêu "đánh cho Mỹ cút”, chuyển sang giai đoạn “đánh cho ngụy nhào" bằng đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam. 3. Phục vụ đất nước thời kỳ xây dựng hòa bình và đổi mới (1976-2004). Những năm đầu sau chiến tranh, ngoại giao Việt Nam đã triển khai những hoạt động quan trọng theo hướng đa phương và đa dạng, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ được sự giúp đỡ quan trọng từ nhiều nguồn, nhiều nước, góp phần tăng cường sức mạnh kinh tế của đất nước. Việt Nam trở thành thành viên tích cực của phong trào Không liên kết (1976), thành viên Liên Hợp quốc (1977) và nhiều tổ chức quốc tế khác, thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng loạt nước ở các châu lục có chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Việt Nam đã tích cực chủ động tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Liên Xô, gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt - Xô, tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Quan hệ Việt Nam - Lào được nâng lên tầm cao mới. Quan hệ với các nước thành viên ASEAN từng bước được cải thiện, chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại và xúc tiến bình thường hóa. Tuy vậy, công cuộc xây dựng tiến hành chưa được bao lâu thì Việt Nam gặp phải những thử thách nghiêm trọng mới trong quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa Việt Nam và một số nước láng giềng có chung biên giới xuất hiện nhiều trắc trở và diễn biến ngày càng phức tạp, Việt Nam lại phải tiến hành cuộc đấu tranh giữ vững an ninh biên giới Tây Nam và giúp đỡ nhân dân Campuchia loại trừ chế độ diệt chủng Pônpốt. Quan hệ Việt Nam Trung Quốc trải qua một giai đoạn không bình thường, mà đỉnh cao là sự kiện 17 tháng Hai 1979. Những năm sau đó, Việt Nam kiên trì theo đuổi chủ trương khôi phục quan hệ hữu nghị và láng giềng với Trung Quốc. Một bộ phận quan trọng của hoạt động ngoại giao giai đoạn này nhằm đấu tranh chống lại chính sách của chính quyền Mỹ, bao vây cấm vận Việt Nam. Mặt trận đối ngoại được mở rộng với những hoạt động tích cực phát triển quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa và Không liên kết. Chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với ngần 40 nước thuộc
thế giới thứ 3. Quan hệ với các nước tư bản phát triển và các tổ chức quốc tế tiếp tục được mở rộng. Từ năm 1976 đến 1986, Việt Nam thiết lập các cơ quan đại diện ngoại giao tại Nhật bản, Canada, Cộng hòa Liên bang Đức, và Ôxtrâylia..., tham gia 33 tổ chức quốc tế và 19 điều ước quốc tế. Những nỗ lực ngoại giao giai đoạn này góp phần làm thất bại âm mưu bao vây cấm vận của Mỹ và các thế lực thù địch và giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật của nước ta. Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, mở ra một giai đoạn mới trong đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại của Việt Nam mà nhiệm vụ hàng đầu là tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với chính sách đoàn kết, hợp tác toàn diện với Liên Xô, mở rộng quan hệ với tất cả các nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra và triển khai nhiều nghị quyết, chủ trương đối ngoại quan trọng, chủ động tháo gỡ những khó khăn, phức tạp trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước. Quan hệ hợp tác toàn diện với Lào cũng không ngừng được củng cố phát triển. Quan hệ với Trung Quốc cũng được bình thường hóa (1991), phát triển nhanh chóng và ngày càng toàn diện. Hai nước thường xuyên trao đổi các đoàn cấp cao, ký kết Hiệp ước biên giới trên bộ, Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định hợp tác nghề cá, xác định khuôn khổ lâu dài cho quan hệ hai nước theo phương châm "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Quan hệ với các nước Đông Nam Á cũng chuyển sang một trang mới. Từ khi gia nhập ASEAN (7/1995), Việt Nam đã tích cực tham gia vào các hoạt động chung của ASEAN, chủ động đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng góp phần củng cố và tăng cường hợp tác đoàn kết, nhất trí trong nội bộ ASEAN, thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và thịnh vượng chung ở Đông Nam Á, nâng cao vị trí và vai trò của Việt Nam tại khu vực. Tháng Bảy 1995, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ chính thức bình thường hóa. Với việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, lần đầu tiên Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước lớn trên thế giới. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trong cộng đồng quốc tế được chủ động triển khai từ đầu những năm 1990, sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, đã đạt được những thành tựu to lớn. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới và đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước, quan hệ kinh tế thương mại với trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Bước sang thế kỷ XXI, tiếp tục phát huy truyền thống và những thành tựu đối ngoại về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngoại giao Việt Nam chuyển hướng mạnh mẽ sang phục vụ kinh tế trong đó nhiệm vụ hàng đầu là tạo môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế, lấy việc mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại làm trọng tâm. Hoạt động ngoại giao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng được tăng cường và mở rộng, góp phần xây dựng chính sách, khuôn khổ pháp lý cho quan hệ kinh tế đối ngoại, nghiên cứu đánh giá các vấn đề chính trị, kinh tế quốc tế tác động đến Việt Nam, nghiên cứu chính sách kinh tế, tìm hiểu tiềm năng thế mạnh của các nước, để thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật, giáo dục - đào tạo, văn hóa, du lịch, lao động... Đặc biệt, từ năm 2000 trở lại đây, Bộ trưởng Ngoại giao đã triển khai việc giao chỉ tiêu kinh tế đối ngoại cho từng cơ quan đại diện. Nhiệm vụ ngoại giao phục vụ kinh tế còn được cụ thể hóa trong nghị định 08 ban hành ngày 10 tháng Hai 2003 của Chính phủ, quy định rõ chức năng phục vụ phát triển kinh tế cho các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
6.Các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam • • •
Các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam Các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với tổng số 54 dân tộc. Dân tộc Việt (Kinh) chiếm 87% dân số cả nước, sống tập trung chủ yếu trong vùng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng ven biển miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long và các thành phố lớn. 53 dân tộc còn lại, thường quen gọi là dân tộc thiểu số, có số lượng thay đổi từ trên dưới một triệu như Tày, Nùng, Thái, Mường, Khmer, đến trên ba trăm người như dân tộc Ơ Đu và Brâu. Hầu như các dân tộc thiểu số, trừ người Hoa, người Khmer, đèu có địa bàn cư trú chủ yếu trên các vùng trung du và miền núi (chiếm 2/3 lãnh thổ ) trải dài từ Bắc vào Nam . Dân tộc Việt ngay từ thế kỷ thứ 10 đã thiết lập được một nền quân chủ tập trung. Người Chăm đã từng sớm có một nền văn hoá rực rỡ. Người Tày, Nùng và Khơ-me đã đạt đến một giai đoạn phát triển cao với sự xuất hiện các tầng lớp xã hội khác nhau. Người Mường, H’mông, Dao, Thái... tập trung dưới quyền giám hộ của tù trưởng địa phương. Nhiều dân tộc còn chia thành đẳng cấp, đặc biệt là các bộ tộc sống trên các vùng núi. Một số dân tộc ít người đã biết các kỹ thuật canh tác khá thành thục. Họ đã sớm canh tác lúa trên ruộng ngập nước và tiến hành tưới tiêu. Số khác tiến hành săn bắn, đánh cá, hái lượm và sống bán du mục. Mỗi nhóm dân tộc đều có nền văn hoá riêng biệt, giàu có và độc đáo. Tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng hết sức khác biệt. Tuy nhiên, bên trên của sự khác biệt này đã hình thành sự đoàn kết căn bản giữa các dân tộc, kết quả của một quá trình hợp tác qua nhiều thế kỷ trên cùng mảnh đất Việt Nam. Ngay từ thế kỷ đầu tiên của thời kỳ lịch sử, đã hình thành quá trình bổ sung lẫn nhau trong quan hệ kinh tế giữa nhân dân đồng bằng và các dân tộc miền núi. Tình đoàn kết này không ngừng được củng cố qua các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc. Thông qua cuộc đấu tranh chung để bảo vệ và xây dựng đất nước và quá trình hỗ trợ lẫn nhau để tồn tại và phát triển, một cộng đồng chung giữa người Việt và các dân tộc ít người đã hình thành và không ngừng được củng cố và phát triển. Tuy vậy, trên thực tế còn tồn tại một khoảng cách rõ rệt về đời sống vật chất và tinh thần giữa các dân tộc vùng đồng bằng và miền núi cũng như giữa các dân tộc ít người. Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách cụ thể và những ưu đãi đặc biệt để giúp đỡ đồng bào miền núi đuổi kịp miền xuôi, đồng thời cố gắng phát triển và gìn giữ bản sắc văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc. Hiện nay, các chương trình cung cấp muối iốt cho các bản, làng xa xôi; chương trình cung cấp trang bị các trạm y tế - vệ sinh trong mỗi làng; chương trình chống sốt rét; chương trình xây dựng các trường học miễn phí cho trẻ em các dân tộc ít người; chương trình định canh định cư; các dự án nghiên cứu tạo chữ viết cho các dân tộc, tìm hiểu và phát triển văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc đã thu kết quả tốt.
Thống kê thành phân và sự phân bổ của các dân tộc ở Việt Nam
28
Ta-ôi
Tôi-ôi, Ta-hoi, Ta-ôih, Tà-uất (Atuất)
29
Mạ
30
Co
Trầu, Cùa, Mọi, Col, Cor, Khùa
31
Chơ-ro
32
Hà Nhì
33
Pa-cô, Ba-hi, Can-tua
Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế
35.000
39.000
33.400
36.900
Quảng Ngãi, Quảng Nam
27.800
29.800
Châu-ro, Dơ-ro, Mọi
Đồng Nai
22.600
26.500
U Ní, Xá Hà Nhì Cồ U Ní, Hà Chồ, Hà Nhì Nhì Già La Mí, Hà Nhì Đen
Lai Châu, Lào Cai
17.500
20.000
Xinh Mun
Puộc, Pụa, Xá
Sơn La, Lai Châu
18.000
22.000
34
Chu-ru
Chơ-ru, Kru, Mọi
Lâm Đồng, Ninh Thuận
15.000
17.000
35
Lào
Lào Bốc, Lào Nọi
Lai Châu, Sơn La
11.600
12.400
36
La-chí
Thổ Đen, Cù Tê, Xá, La ti, Mán Chí
Hà Giang
10.800
12.100
37
Phù Lá
Lao Cai, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang
9.050
9.000
Châu Mạ, Lâm Đồng, Đồng Chô Mạ, Mọi Nai
Dạ, Nghẹt
Bồ Khô Pạ (Xá Phó), Mun Di Pạ, Phù Lá Đen, Phù Lá Hoa, Phù Lá Trắng, Phù