Đề tài: Một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Singapore Mở đầu Singapore là một hòn đảo có người ở cách nay khoảng 200 năm. Nó nguyên là cảng biển Temasek. Đến thế kỷ 14, hòn đảo này lại trực thuộc vương quốc Majapahit của người Java. Nó được đặt tên Singapura (tiếng Phạn có nghĩa là Thành phố Sư tử) trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 14. Đầu thế kỷ 15, Singapore là một thuộc địa của Xiêm, nhưng ít lâu sau,vương quốc Malacca do chính Iskandar thành lập đã nhanh chóng bành trướng thế lực lên hòn đảo này, biến nó thành cảng biển quan trọng nhất trong vùng. Trong hơn 400 năm sau đó, trên hòn đảo Singapore chỉ có một ít người Mã Lai sinh sống trong những làng chài nhỏ ven biển. Từ đầu thế kỷ 19 đến nay, đất nước Singapore trải qua hai thời kỳ rõ rệt: một thời kỳ làm thuộc địa kéo dài đến tận năm 1959 và thời kỳ độc lập từ đó đến nay. Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), nước Anh biến Singapore thành căn cứ hải quân chính trong vùng Đông Á và tiến hành xây dựng tại đây những cơ sở quân sự qui mô. Sau khi đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945) bùng nổ, năm 1942, Singapore bị quân phiệt Nhật chiếm đóng. Khi quân Anh rút đi, họ chỉ tàn phá một phần con đường nối liền Singapore với bán đảo Mã Lai nên người Nhật dễ dàng tiếp cận với cảng lớn ở đây. Tháng 8-1945, quân phiệt Nhật đầu hàng quân đội Đồng minh vô điều kiện, người Anh quay lại Singapore. Qua năm sau (1946), nước Anh công nhận Singapore là một vùng đất tách biệt của hoàng gia và đến ngày 03-061959, Singapore thành lập bang tự trị thuộc khối thịnh vượng chung (commonwealth). Ngày 9/8/1965, Singapore thành lập nước cộng hòa độc lập. Ngày 21/9/1965, Singapore gia nhập Liên Hiệp quốc.
Nội dung Chương I Tổng quan về Singapore 1.1.
Điều kiện tự nhiên. Vị trí địa lý: nằm ở cực Nam Bán đảo Mã Lai, phía Bắc giáp Malayxia, Đông – Nam giáp Inđônêxia, nằm giáp eo biển Malacca, trên đường từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương. Với diện tích tương đương Hà Nội, đây vừa là một đất nước, vừa là một thành phố. Singapore gồm một đảo chính và gần 60 hòn đảo khác trong hải phận của mình. Đảo chính có chiều dài khoảng 42 km và chiều rộng 23 km với diện tích là 574 km2. Tổng diện tích lãnh thổ là 647,5 km2 kể cả những hòn đảo ngoài khơi. Singapore có một vị trí địa lý tuyệt vời đối với giao thông hàng hải quốc tế, thuộc trục đường vận tải biển từ Á sang Âu, từ Đông sang Tây, đây là cửa ngõ ra vào của Châu Á. Không chỉ thế, Singapore còn là tâm điểm nối liền các châu lục Á – Âu – Phi – Úc với Bắc Mỹ và Nam Mỹ ở phía Tây Thái Bình Dương. Hơn nữa, vị trí địa lý tuyệt vời này lại thuộc về những con người cần cù, đầy năng động và sáng tạo kết thành một sức mạnh tổng hợp, làm cho kinh tế Singapore ngày càng phát triển và trở thành thị trường hấp dẫn nhất trong khu vực. Singapore được nối liền với bán đảo Malayxia bởi 1,056 m bờ đê đồng thời cũng là một tuyến đường bộ, đường ray xe lửa, và một ống dẫn nước vượt qua eo biển Johor. Thủ đô của Singapore (cũng có tên là Singapore) là một trung tâm tài chính và thương mại nằm ở phía Nam đảo chính. Địa hình Singapore nhìn chung bằng phẳng và thấp. Đỉnh cao nhất là Bukit Timah, cao 163 m so với mặt biển, sông dài nhất là sông Sungei Seletar, dài 15 km. Singapore nằm ở khu vực khí hậu nhiệt đới, ấm áp và ẩm ướt quanh năm, khí hậu ôn hòa do gió mát từ biển thổi vào. Nhiệt độ ổn định, xê dịch 26,8oC – 31oC. Gió mùa Đông Bắc thường bắt đầu từ tháng 11 đến tháng giêng năm sau, vào thời gian này thời tiết nói chung là có hơi lạnh hơn so với các thời gian khác. Đây cũng là thời kỳ có mưa nhiều nhất trong năm, lượng mưa trung bình hàng năm là 2,345 mm. Tháng 7 thường là tháng hanh khô nhất nhưng vẫn là ở mức dễ chịu. Bão, lụt, hạn hán hay động đất thường không xảy ra trên đất nước này.
Tài nguyên thiên nhiên: cá, cảng, nước sâu. Cho dù đảo quốc này có nhiều dòng suối nhỏ chảy qua và không ít hồ chứa nước, Singapore vẫn thiếu nước ngọt phục vụ cho đời sống. Khoảng 50% lượng nước cần dùng phải nhập từ Malaysia, thông qua một đường ống dẫn nước chạy bên dưới con đường nối liền Singapore và Johor Baharu. Sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế và nông nghiệp, cùng với sự tăng lượng xe cộ có động cơ đã làm gia tăng sự ô nhiễm nguồn nước và bầu khí quyển. 1.2.
Điều kiện xã hội.
• Đánh giá về hệ thống chính trị. Singapore là nước cộng hòa với chế độ đại nghị của Chính Phủ. Tổ chức của nhà nước bao gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp theo quy định của hiến pháp. Hiến pháp Singapore được áp dụng theo hình thức hệ thống Quốc Hội dựa trên quyền bầu cử của nhân dân. Kể từ khi giành được độc lập, Singapore luôn duy trì một hệ thống chính trị ổn định. Chính phủ Singapore điều hành đất nước có hiệu quả và đã được công nhận và đánh giá: - Nền kinh tế tự do hóa nhất thế giới trên cơ sở 10 tiêu thức: chính sách thương mại, thuế, vai trò điều hành của chính phủ, chính sách tiền tệ, luân chuyển nguồn vốn và FDI, tiền lương và kiểm soát giá cả, sở hữu công nghiệp, các quy định và thị trường chợ đen. - Sức cạnh tranh của nền kinh tế lớn nhất thế giới căn cứ vào các chỉ số: tính cởi mở, điều hành của chính phủ, nền tài chính, cơ sở hạ tầng, lực lượng lao động và luật pháp. - Hệ thống luật pháp nhất thế giới căn cứ vào hệ thống pháp luật hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế. - Môi trường kinh doanh nhất khu vực Châu Á dựa vào các chỉ số: ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư nước ngoài, cơ hội kinh doanh, chính sách của chính phủ đối với các doanh nghiệp tư nhân và cạnh tranh, chính sách ngoại hối và thương mại, hệ thống thuế, tài chính, thị trường lao động, cơ sở hạ tầng. - Chuẩn hóa chế độ quản lý doanh nghiệp nhất khu vực Châu Á dựa vào tiêu chí chất lượng quản lý tại các doanh nghiệp. - Hồi vốn FDI thứ nhì Châu Á – Thái Bình Dương. - Tình trạng tham nhũng ít nhất Châu Á. - Khu công nghiệp kỹ thuật cao trong số 10 quốc gia hàng đầu thế giới.
- Chất lượng mức sống thứ 4 trong 40 thành phố Châu Á. • Dân số. Dân số Singapore là 4,16 triệu người, tốc độ tăng dân số (không kể những người nhập cư không thường xuyên) là 1,8% (2000-2001). Mật độ dân số là 6,055 người/km2 (2001). Bình quân hàng năm dân số tăng từ 0,12 – 0,15 triệu người. • Dân tộc và tôn giáo. Thành phần dân tộc: người Hoa chiếm đa số (76,5%); tiếp theo là người Malay (13,8%), Ấn Độ (8,1%) và các dân tộc khác (1,6%). Singapore là quốc gia không có tôn giáo chính thống nhưng trên đất nước lại tồn tại các hình thái tư tưởng của các tôn giáo khác nhau. Do người Hoa chiếm tỷ lệ dân số rất lớn trong tổng dân số của Singapore, nên tôn giáo ở nước này phụ thuộc vào người Hoa với tư tưởng tôn giáo chủ yếu là đạo Phật và đạo Khổng. Tỷ lệ tôn giáo ở Singapore như sau: đạo Phật (42,5%); đạo Lão (8,5%); đạo Hồi (14,9%); đạo Thiên chúa (14,6%); đạo Ấn (4,0%); các tôn giáo khác (0,6%); không tôn giáo (14,8%). • Ngôn ngữ. Về ngôn ngữ, tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ chính, sử dụng trong các cơ quan nhà nước, kinh doanh. Các thứ tiếng khác là tiếng Hoa (phổ thông), tiếng Malay và tiếng Tamil. Nhiều tài liệu, bản chỉ dẫn đầy đủ thường đều in bằng cả 4 thứ tiếng này. Các trường học thường dạy bằng tiếng Anh, nhưng cũng có những trường dạy song song thêm cả tiếng Hoa hoặc tiếng Malay. Bên cạnh các tờ báo tiếng Anh, vẫn có báo in bằng tiếng Hoa hoặc tiếng Malay. • Đời sống văn hóa và xã hội. Các hoạt động văn hóa, xã hội ở Singapore rất rộng rãi và đa dạng. Bên cạnh việc giao lưu âm nhạc và các hình thực nghệ thuật nước ngoài, hoạt động nghệ thuật truyền thống địa phương kết hợp với hiện đại phát triển mạnh. Các hoạt động như triển lãm, những buổi trình diễn ca kịch và hòa nhạc thường xuyên được tổ chực. Những lễ hội nghệ thuật kéo dài hàng tháng được tổ chức hai năm một lần. Cơ sở phương tiện cho các hoạt động thể thao từ chạy bộ đến chơi gôn đều đáp ứng được nhu cầu của người dân. Các phương tiện, cơ sở hạ tầng thể
thao dưới nước như chèo thuyền, lướt ván có buồm, lặn có bình khí cũng rất thuận lợi. Vì những điều kiện thuận lợi trên mà mặc dù Singapore là một quốc gia nhỏ bé và được đô thị hóa cao nhưng quốc gia này lại thu hút nhiều khách du lịch từ các nước láng giềng và là cửa ngõ để đến các khu du lịch khác. 1.3.
Khái quát về tình hình kinh tế Singapore. Singapore là quốc gia không có nguồn tài nguyên đáng kể nào ngoài cảng biển nước sâu, nhưng bù lại Singapore lại có vị trí địa lý thuận lợi, mang tính chiến lược. Cơ sở hạ tầng phát triển, hệ thống chính trị ổn định, chính sách của chính phủ đã khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài vào Singapore. Lực lượng lao động siêng năng, cần cù, quan hệ lao động hài hòa đã tạo điều kiện cho Singapore trở thành một trung tâm thương mại và tài chính quốc tế. Công nghiệp hóa đã được tiến hành vào những năm 1960 đã biến đổi nền kinh tế từ tập chung và phân phối hàng hóa thành một nền kinh tế đa dạng theo cơ chế thị trường. Nền kinh tế đã phát triển mạnh trong hai thập kỷ, nhưng đến năm 1985, GDP lại giảm xuống 1,6% do tác động của cuộc khủng hoảng. Những biện pháp cấp bách được tiến hành và nền kinh tế lại được khôi phục vào những năm sau, năm 1989 tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt 9,2%, và năm 1990 tăng 9% so với năm 1989. Lạm phát được kiểm soát từ đầu những năm 1980 khi sự phát triển của nền kinh tế làm giá tiêu dùng tăng hơn 8%/năm. Giá cả tăng nhưng nhờ có các biện pháp kiểm soát phù hợp nên đã giảm lạm phát xuống -1,4% năm 1986. Vào những năm sau đó, lạm phát Singapore vẫn được ổn định trong khi giá cả hàng tiêu dùng (CPI) tăng, chẳng hạn năm 1989 tăng 2,4%, cao hơn so với năm 1988 là 1,5%. Vào những năm gần đây, tuy trong khu vực và thế giới có sự biến động trên tất cả lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính, tiền tệ, nhưng Singapore với mọi tiềm lực sẵn có của mình đã hạn chế một cách tối đa và hữu hiệu mọi ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế của mình.
• Định hướng phát triển kinh tế. Singapore luôn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, đặc biệt từ thập niên 90 trở lại đây, là nhờ định hướng “nền kinh tế gắn chặt với thị trường thế giới và cố kết với các bạn hàng chiến lược”. Một định hướng hết sức thực tế, năng động và có phần thực dụng. Định hướng lấy yếu tố thị trường bên ngoài, hay nói cách khác, lấy thị trường thế giới làm chỗ dựa,
làm cơ sở để phát triển bền vững bên trong một cách chủ động. Thực hiện đường lối kinh tế tự do. Định hướng này còn được thể hiện ở chính sách bạn hàng của Singapore là phát triển liên minh kinh tế, liên kết với bạn hàng lớn, chiến lược, đồng thời mở rộng hết thảy các mối quan hệ. Singapore có quan hệ ngoại giao với 152 quốc gia, tổ chức quốc tế, có chân trong các tổ chức kinh tế lớn như: UN, APEC, ASEAN, WTO, NAM ... và đã ký hiệp định đảm bảo đầu tư với 22 nước và tránh đánh thuế hai lần với 38 nước/ khu vực lãnh thổ. Đích cuối cùng là chiếm lĩnh thị trưởng, tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, kinh tế Singapore phụ thuộc nhiều vào công ty đa quốc gia (MNCs), những cam kết của các công ty này trong việc đặt trụ sở hoạt động lâu dài tại đây hầu như mang một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nước ngoài này. Điều đó thể hiện sự lên xuống của nền kinh tế này hoàn toàn trùng lặp với sự lên xuống của nền kinh tế thế giới và các nước phát triển, cũng như phụ thuộc vào sự duy trì của hệ thống mậu dịch tự do trên thế giới cũng như phạm vi đất nước. • Kế hoạch phát triển kinh tế. Trong khi sự phát triển nền công nghiệp sản xuất Singapore là động lực thúc đẩy chính đối với sự thành công của nền kinh tế Singapore trong những thời gian qua, thì hiện nay chính phủ lại tích cực khuyến khích phát triển các lĩnh vực dịch vụ và xem đó là động cơ cơ bản để phát triển kinh tế. Chính phủ Singapore mong muốn đưa đất nước trở thành trung tâm thương mại quốc tế, một trung tâm chuyên chở hàng hóa bằng tàu biển và đường hàng không quốc tế. Mặt khác, chính phủ Singapore còn mong muốn rằng nơi đây là vị trí thuận lợi cho việc đặt các trụ sở hoạt động của các công ty đa quốc gia và là trung tâm xuất khẩu các dịch vụ lớn trong khu vực cũng như trong thế giới. • Hợp tác phát triển trong khu vực. Chính phủ Singapore khuyến khích hợp tác phát triển trong khu vực. Đặc biệt Singapore là thành viên tích cực của hiệp hội các thành viên Đông Nam Á (ASEAN). Singapore được hưởng ưu đãi thuế quan qua hiệp định ưu đãi thuế quan với các nước thành viên ASEAN. Chính phủ cũng khuyến khích các hoạt động thương mại và đầu tư của các công ty bên ngoài bên ngoài khu vực Đông Nam Á trên địa bàn Singapore. • Singapore là khu vực thương mại tự do.
Là một trung tâm thương mại quốc tế, Singapore hoạt động như một cảng tự do hầu như miễn thuế xuất nhập khẩu đối với nguyên liệu thô, thiết bị, và hàng hóa. Chỉ một số vài mặt hàng nhập khẩu phải kiểm soát vì lý do y tế, an ninh. Có 6 khu vực thương mại tự do cung cấp các phương tiên để lưu giữ và tái sản xuất các hàng hóa là phải nộp thuế và kiểm soát. Các dịch vụ tài chính của Singapore rất phát triển, sự phát triển của các dịch vụ tài chính là tiền đề thuận lợi để phát triển các trung tâm tài chính lớn. Việc phát triển trung tâm tài chính ở Singapore là mục tiêu, chính sách của chính phủ nhằm biến Singapore thành một trung tâm quản lý quốc tế về tài chính. • Quan hệ ngoại thương đối với các nước trong khối ASEAN. Là thành viên của tổ chức ASEAN, Singapore khuyến khích các nhà công nghiệp và các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực ASEAN vì lợi ích tăng trưởng trong khu vực. Trong lĩnh vực hợp tác thương mại, trên 14000 mặt hàng do các nước thành viên sản xuất đều được hưởng chế độ ưu đãi thương mại đối với các nước trong khối ASEAN (AFTA). Danh sách AFTA vẫn liên tục được mở rộng. Đối với các công ty thương mại và quốc tế, Singapore là trung tâm phân phối hàng hóa. Đó cũng là trung tâm tích trữ, dịch vụ và phụ tùng, một kho chứa hàng lớn trong khu vực. • Xuất khẩu. Singapore được hưởng hệ thống ưu đãi chung (GSP) dưới sự bảo hộ của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) của nhiều nước gồm: Úc, Canada, Liên minh Châu Âu (EU), Nhật, Nga, Thụy Điển và Thụy Sỹ. Theo hệ thống này, các mặt hàng của Singapore bán cho các nước trên được giảm hay trong một số trường hợp còn được miễn thuế. Qua các cơ quan đánh giá, Chính phủ cũng quản lý nhiều loại thuế và hệ thống tài chính để khuyến khích và trợ giúp các công ty xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Là một cảng tự do, Singapore không bảo hộ các ngành công nghiệp thông qua hàng rào thuế quan.
Chương II Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Singapore. 2.1. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu qua thuế. 2.1.1. Lợi nhuận xuất khẩu. Một công ty hoạt động trong lĩnh vực đánh bắt cá ở vùng nước sâu hay trong lĩnh vực sản xuất ở Singapore, thì bất cứ là thành phẩm hay linh kiện xuất khẩu đều được miễn giảm 90% khoản lợi nhuận xuất khẩu vượt quá định mức. Trong trường hợp một công ty xuất khẩu những sản phẩm đã được xuất khẩu, định mức đó là trung bình của lãi suất xuất khẩu hàng năm trong 3 năm kể từ khi có giấy phép chứng nhận xuất khẩu của công ty. Trong các trường hợp khác, cơ sở này do Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp quy định. Đối với các xí nghiệp không thuộc diện mũi nhọn, thời gian miễn thuế 3 năm, còn đối với các xí nghiệp thuộc diện mũi nhọn thì thời hạn miễn thuế là 5 năm kể từ sau thời kỳ thử thách. Trong những trường hợp đặc biệt, thời gian miễn thuế có thể là 15 năm. Vai trò của việc trả cổ phiếu thu được từ lợi nhuận xuất khẩu cũng giống như lợi nhuận có được từ doanh thu trong thời kỳ đầu. Có rất ít xí nghiệp xuất khẩu được phép hoạt động trong những năm qua mặc dù quy định về ưu tiên vẫn còn hiệu lực. •
Xuất khẩu dịch vụ. Những ưu tiên dành cho các công ty xuất khẩu dịch vụ và các dự án cho các công ty và cá nhân không cư trú, cũng như không thành lập ở Singapore. Những dịch vụ đó là:
- Dịch vụ công nghệ bao gồm: xây dựng, phân phối, thiết kế và xây dựng. - Tư vẫn, quản lý và điều hành dịch vụ tư vấn có liên quan tới vấn đề kỹ thuật, buôn bán và giao dịch khác. - Máy dệt hoặc các thiết bị, vật liệu đấu thầu, linh kiện hoặc thiết bị. - Xử lý số liệu, lập trình, phát triển phần mềm vi tính, viễn thông và các dịch vụ máy tính khác. - Các dịch vụ chuyên ngành như: kế toán, luật pháp, hóa học và kiến trúc. - Dịch vụ về giáo dục và đào tạo.
- Các dịch vụ chỉ định khác. Để khuyến khích xuất khẩu thì thu nhập từ dịch vụ xuất khẩu mà vượt chỉ tiêu sẽ được giảm 90% thuế trong 5 năm. Để khuyến khích các nhà kinh doanh quốc tế thành lập các cơ sở khu vực của họ ở Singapore, các nhà doanh nghiệp sẽ được giảm 10% thuế thu nhập nước ngoài từ giao dịch hàng hóa, bao gồm: hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, hàng hóa khoáng chất, vật liệu xây dựng và các linh kiện máy móc. • Các nhà kinh doanh dầu. Để khuyến khích hoạt động kinh doanh năng lượng ở Singapore, các nhà kinh doanh dầu được giảm 10% thuế thu nhập từ các buôn bán dầu hoặc hoa hồng từ môi giới mua bán. • Hàng đổi hàng. Các công ty tiến hành hoạt động mua bán hàng đổi hàng được miễn thuế từ hoạt động này trong 5 năm. Các hoạt động này gồm: hàng đổi hàng, mua bán đi lại. Để việc ưu tiên là phù hợp, một phần của mỗi giao dịch này, hoặc tài chính hoặc hàng hóa thực, phải qua Singapore. Ưu tiên này do Ủy ban phát triển Thương mại giám sát. 2.1.2. Chính sách hoàn thuế GST (thuế hàng hóa và dịch vụ). Tại Singapore hiện áp dụng thuế hàng hóa và dịch vụ (Goods and Services Tax) ở mức 7%. Để khuyến khích xuất khẩu tại chỗ, Singapore đã thực hiện chính sách hoàn thuế cho du khách để kich thích chi tiêu của họ. Theo chương trình hoàn thuế cho du khách (Tourist Refund Scheme), nếu mua hàng hóa tại Singapore từ những cửa hiệu bán lẻ tham gia chương trình, du khách có thể được hoàn lại thuế GST khi vận chuyển hàng hóa ra khỏi Singapore qua sân bay quốc tế Changi (Changi International Airport) hoặc Sân Bay Seletar (Seletar Airport) trong vòng 2 tháng kể từ ngày mua hàng. Các khoản hoàn thuế GST không được áp dụng cho những du khách khởi hành bằng đường bộ hoặc đường biển. Những du khách đáp ứng các điều kiện của chương trình sẽ được quyền nhận tiền hoàn thuế GST từ những cửa hiệu bán lẻ hoặc tại một chi nhánh hoàn thuế trung tâm. Hiện tại, có 2 chi nhánh hoàn thuế trung tâm. Đó là
các công ty Global Refund Singapore Pte Ltd và Premier Tax Free (Singapore) Pte Ltd. 2.2. Ưu tiên xuất khẩu. 2.2.1. Hỗ trợ xuất khẩu. Cơ quan tiền tệ Singapore tiến hành một chương trình chiết khấu lại trên các biên lai xuất khẩu mà có thể do ngân hàng chiết khấu lại một lần xuất khẩu thực và tái xuất biên lại cho cơ quan tiên tệ Singapore với mức ưu việt hơn, hiện nay là 3,75%/năm. Khoản hoa hồng tối đa có thể nhận nhờ thỏa thuận của ngân hàng theo chương trình này tối đa là 1,5%/năm. Tỷ lệ đặc biệt của lãi suất hoàn trả cho cơ quan trên thông qua thỏa thuận từ ngân hàng là để chuyển cho các nhà xuất khẩu. 2.2.2. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Singapore là công ty nhà nước góp 50% vốn cung cấp tất cả các dịch vụ bảo hiểm cho nhà xuất khẩu Singapore chống lại việc người mua không trả tiền vì lý do chính trị hoặc kinh tế đột ngột xảy ra đối với người mua. Công ty này cũng đưa ra các chương trình bảo đảm của ngân hàng đối với nhu cầu bảo hiểm tín dụng ngắn, trung và dài hạn của các nhà xuất khẩu ở địa phương. Công ty này cũng là thành viên đầy đủ của Liên hiệp các nhà bảo hiểm tín dụng và đầu tư quốc tế. 2.2.3. Những ưu tiên đầu tư vào các nước khác. Để khuyến khích đầu tư mà cho phép tiếp cận hơn với thị trường nước ngoài, với công nghệ cũng như việc thuê mướn các chuyên gia có trình độ cao, sẽ được áp dụng chế độ giảm thuế đối với những công ty của Singapore bị thua lỗ, những công ty có cổ phần của nước ngoài hoặc các loại công ty hợp doanh. Việc ưu tiên này cũng áp dụng cho các công ty có vốn liên doanh. Mục tiêu của Singapore là trở thành nước phát triển. Chính phủ sẽ tiếp tục xúc tiến và thu hút với ưu tiên dành cho các hoạt động đầu tư nước ngoài, nguồn vốn đầu tư để giúp Singapore phát triển thành trung tâm kinh doanh một cách tổng thể. Với những ưu tiên dành cho đầu tư mà chính phủ đưa ra, xu hướng của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà kinh doanh nước ngoài tập chung trong một số dự án nhất định sau:
- Những dự án có tính kỹ năng cao, có giá trị gia tăng, đòi hỏi nhân công khéo léo, hiệu quả hơn và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Đồng thời đòi hỏi các công ty nước ngoài càng ngày càng hướng và các hoạt động như phát triển sản xuất, thiết kế công nghệ, Marketing quốc tế, quản lý quỹ. - Những dự án mà đòi hỏi khởi động nhanh mà đem lại ưu thế cơ sở hạ tầng công nghiệp hiệu quả. Nền công nghiệp điện toán của các phương tiện thông tin đại chúng đã thành công ở Singapore nhờ nguyên nhân này. - Những dự án mà tập chung vào lợi nhuận từ sự ổn định chính trị của Singapore và cho phép bảo vệ môi trường. - Các dự án mà xuất khẩu sang các nước phát triển hoặc phục vụ cho thị trường Châu Á – Thái Bình Dương. Singapore có mối quan hệ buôn bán tốt đối với tất cả các quốc gia. Xu hướng này sẽ tiếp tục được áp dụng vào chiến lược dành cho các nhà đầu tư trong vài năm tới. 2.3. Đánh giá tổng quát về chính sách ưu tiên xuất khẩu của Singapore. Singapore được coi là một mô hình của CNTB và kinh tế thị trường ở Đông Nam á. Những thập kỷ gần đây, sự phát triển "hiện đại hoá các thể chế TBCN" tại Singapore được gia tốc bởi sự hưởng ứng của các nước tư bản phát triển. Bản thân Singapore cũng rất năng động trong việc hoạch định các chính sách và triển khai các chiến lược phát triển kinh tế của mình trên cơ sở khắc phục sự nghèo nàn về đất đai, tài nguyên, phát huy ưu thế về địa lý và tiến bộ khoa học và công nghệ. Khi đề cập nghiên cứu mô hình công nghiệp hoá của cộng hoà Singapore chúng ta nhận thấy nước này có những nét chung của những nước công nghiệp mới (NICs) ở châu á như khởi đầu bằng phát triển các ngành thay thế nhập khẩu và sau chuyển sang chính sách phát triển các ngành công nghiệp hướng đến xuất khẩu. Tuy nhiên Singapore cũng có một số chính sách rất riêng biệt trên con đường phát triển: - Đi từ loại hình công nghiệp sử dụng nhiều lao động đến công nghiệp sử dụng nhiều vốn và kỹ thuật cùng với định hướng ưu tiên xuất khẩu. Lấy xuất khẩu làm thước đo thành công kinh tế, lấy thu hút vốn đầu tư nước ngoài làm nền tảng cơ sở cho tiến bộ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. Coi thành phần kinh tế tư nhân nước ngoài là đầu tầu chính cho phát triển công nghiệp chế biến- chế tạo và cũng là cách thức tốt nhất thúc đẩy tiến trình hội nhập nền kinh tế của mình vào hệ thống toàn cầu. - Đối với những doanh nghiệp có sản phẩm dành cho xuất khẩu được ưu đãi nhiều hơn so với những doanh nghiệp cung cấp cho tiêu dùng nội địa.
Các doanh nghiệp này có thể được miễn tới 90% thuế lợi tức trong thời hạn 8 năm và có thể kéo dài tới 15 năm nếu như doanh nghiệp đó có vốn cố định trị giá khoảng 70 triệu USD, có thể được miễn giảm 1 phần thuế xuất khẩu hàng hoá (thuế mậu dịch). - Các nhà đầu tư ngoại quốc được quyền sở hữu 100% vốn của mình trong các dự án, được tự do chuyển lợi nhuận về nước, được miễn thuế khi vay nguồn vốn nước ngoài, được miễn thuế bản quyền và bằng phát minh sáng chế từ bên ngoài vào, được miễn thuế đầu tư vào nghiên cứu khoa học, đào tạo tay nghề và nâng cấp công nghệ và có thể được miễn thuế đối với những thiết bị, nguyên liệu không có sẵn tại Singapore mà phải nhập khẩu... 2.3.1. Thành tựu đạt được từ chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Singapore. Có thể nói rằng: Thành tựu phát triển của Singapore gắn liền với thương mại. Nước này đã sử dụng tối đa lợi thế của một cảng thương mại trung chuyển quốc tế và trong mấy chục năm qua đã thành công trong thương mại đối lưu. Đây chính là kết quả của chính sách công nghiệp hoá hướng tới xuất khẩu mà Singapore thi hành từ đầu những năm 60 của thế kỷ trước. Cùng với lĩnh vực ngân hàng- tài chính, dịch vụ- viễn thông và du lịch, hoạt động của lĩnh vực thương mại, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu đã phục vụ đắc lực cho sự bành trướng của nền kinh tế và hiện đại hoá các thể chế TBCN tại quốc gia này. 2.3.2. Hạn chế của chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Singapore. Singapore là nền kinh tế mở và phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường quốc tế. Điều này thể hiện rất rõ qua việc kim ngạch thương mại hàng năm của nước này thường gấp khoảng 3 lần GDP. Chính sự phụ thuộc quá lớn đến sự ổn định của thị trường quốc tế mà nền kinh tế Singapore dễ tổn thương trước bất kỳ sự suy giảm thương mại nào. Đặc biệt rõ nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu được biết đến với tên gọi “cơn sóng thần tài chính” (Nhưng chính là sự sụp đổ của lĩnh vực xuất khẩu, chứ không phải của các thị trường tài chính) đã gây thiệt hại lớn tới nền kinh tế này: + Tổng kim ngạch xuất khẩu của Singapore tháng 12/2008 giảm mạnh, chỉ đạt SGD 29,958 tỷ, giảm 20,4% so với cùng kỳ năm 2007 và giảm 11,9% so với tháng trước.
+ Các mặt hàng xuất khẩu phi dầu, sản xuất nội địa giảm 20,8% so với cùng kỳ năm 2007 (tháng 11/2008 giảm 17,5%). Tính cả năm 2008 xuất khẩu các mặt hàng phi dầu, sản xuất nội địa giảm 7,9% là con số tồi tệ nhất trong vòng 7 năm qua. + Một trong các mặt hàng mà Singapore có thế mạnh là hàng điện tử cũng có chung số phận. Số lượng các đơn đặt hàng giảm khiến kim ngạch xuất khẩu trong tháng 12/2008 của các mặt hàng này giảm 25,4% và là tháng thứ 23 liên tục giảm sút. + Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hóa chất và dược phẩm trong tháng 12/2008 cũng giảm mạnh lần lượt là 17,4% và 51,1%. Kim ngạch các mặt hàng tái xuất, phi dầu có mức giảm 13%, cao hơn mức giảm của tháng 11/2007 là 8,6%. + Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường chính là EU, Mỹ, Trung quốc lần lượt giảm 34%, 24% và 2,9% và sang 2 nước láng giềng Malaysia và Indonesia giảm lần lượt là 26% và 12%./. Xuất khẩu của Singapore bị suy giảm mạnh do các khách hàng nước ngoài đang tạm thời giảm hoặc chấm dứt đơn đặt hàng. Bên cạnh đó, Singapore lệ thuộc quá nhiều vào việc xuất khẩu những sản phẩm mà nhu cầu sử dụng không quá cấp bách, như tivi màn hình phẳng, loại hàng có doanh thu đặc biệt giảm mạnh gần đây. Thế mạnh của Singapore là nhập khẩu nguyên liệu thô, sau đó gia công chế biến, chẳng hạn như sản xuất hóa chất và linh kiện điện tử rồi xuất khẩu. Vì thế tổng giá trị hàng xuất khẩu sau khi gia công chế biến của Singapore cao hơn rất nhiều so với tổng sản phẩm quốc nội của nước này, khoảng 3,5 lần. Nhưng khủng hoảng kinh tế thế giới đồng nghĩa với việc đơn đặt hàng giảm. Và kết quả là hoạt động sản xuất của Singapore giảm trung bình 21,3% trong quý 4-2008.
Chương III Bài học kinh nghiệm cho chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam. 3.1. Thuế và chính sách thuế. Về hệ thống thuế:
Do tác động của việc đãi ngộ các nhà xuất khẩu (thông qua hoàn thuế, ưu đãi thuế) không lớn hơn tác động của cơ cấu thuế nhập khẩu nên các nhà kinh tế thường nghĩ tới hai giải pháp: Một là, ủng hộ thương mại tự do, nghĩa là loại bỏ cả thuế nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu vì nếu xét tới tác động ròng của khuyến khích xuất khẩu thì thuế nhập khẩu ngang với trợ cấp xuất khẩu cũng tương đương với không có thuế nhập khẩu và không có trợ cấp. Sự can thiệp đồng nhất sẽ không phải là chính sách tốt nhất của chính sách thương mại vì việc không can thiệp luôn được ưa chuộng hơn so với sự can thiệp đồng nhất bởi bất cứ sự can thiệp nào cũng không thể tránh khỏi chi phí quản lý; Hai là, trong trường hợp mà giải pháp tự do hóa thương mại ngay lập tức không thể thực hiện được, cần có sự lựa chọn chính sách khác nhằm giảm khuynh hướng chống xuất khẩu trong nền kinh tế, đó là thực hiện tăng trợ cấp xuất khẩu đi cùng với giảm thuế nhập khẩu đầu vào trung gian cho xuất khẩu. Như vậy trên thực tế sẽ làm giảm tăng mức độ bảo hộ hiệu quả cho khu vực xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng có một vài bất lợi đối với giải pháp này, đó là việc suy giảm nguồn thu, trực tiếp là do thuế nhập khẩu giảm và gián tiếp là những chi phí liên quan đến việc hoàn thuế hoặc thực hiện chính sách miễn thuế đối với khu vực nhập khẩu tăng lên. Xu hướng tất yếu của tự do hoá thương mại hiện nay yêu cầu các nước đang phát triển nói chung và Việt nam nói riêng hướng tới việc giảm và xoá bỏ dần thuế quan, hạn chế định lượng, và đồng bộ hoá hệ thống thuế. Chiến lược duy nhất để Việt Nam giảm khuynh hướng chống xuất khẩu là đơn giản các loại thuế suất và giảm mức thuế. Chuyển sang hệ thống thuế thống nhất là cách hữu hiệu để giảm những tổn thất do phân bổ sai nguồn lực, loại bỏ tham nhũng và tuỳ tiện trong quản lý thuế, giảm bỡt sự chậm trễ và cách làm sai trái trong thủ tục hải quan.
Về cơ chế hoàn thuế: Cơ sở của việc tính hoàn thuế hiện nay chưa được quy định rõ ràng, dựa vào nhận định chủ quan của cán bộ hải quan là chính. Việc tính hoàn thuế dựa theo từng chuyến hàng, trong đó cán bộ hải quan đưa ra quyết định về tỷ lệ xuất khẩu trong tổng sản lượng và tỷ lệ đầu vào- đầu ra áp dụng khi tính giá trị nhập khẩu được hoàn thuế. Để tạo một môi trường công bằng và trong sạch cho các doanh nghiệp, có thể thay hệ thống tính toán hoàn thuế trực tiếp hiện nay bằng một hệ thống tính toán hoàn thuế trên cơ sở áp dụng các mức chuẩn về hàm lượng nhập khẩu trong giá trị xuất khẩu FOB (như hệ thống hoàn thuế ở Hàn Quốc, Đài Loan, Sri Lanka...). Mức chuẩn này được công bố trước, doanh nghiệp dựa vào sản lượng xuất khẩu của mình để xin hoàn thuế theo mức đã
công bố, kể cả khi họ thay nguyên liệu đầu vào nhập khẩu bằng nguyên liệu sản xuất trong nước. Để giải quyết thiên lệch bất lợi cho các nhà sản xuất xuất khẩu gián tiếp, cần thiết phải mở rộng diện được hoàn thuế tới cả đầu vào nhập khẩu của những nhà xuất khẩu gián tiếp này. Có như vậy mới khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng các sản phẩm trung gian trong nước. Trên thực tế hai con rồng Hàn Quốc và Đài Loan đã thực hiện thành công những cơ chế hoàn thuế toàn diện như vậy.
Về các loại thuế: Để đi tắt và đón đầu trong điều kiện mới, Việt Nam cần áp dụng công cụ điều tiết mới. Để điều tiết hàng hoá XNK, thời gian qua, chúng ta đã sử dụng công cụ phi thuế như: cấm, tạm ngừng hạn ngạch, chỉ tiêu, phụ thu, gía tính thuế tối thiểu. Công cụ này sẽ không còn tồn tại sau đàm phán thương mại quốc tế nên để đáp ứng nhu cầu bảo hộ chính đáng, cần sớm áp dụng những công cụ quản lý mới đang phổ biến trên thế giới. Thứ nhất, là thuế tuyệt đối tính trên một đơn vị hàng hoá được nhiều nước trong đó có cả những nước có chế độ ngoại thương tương đối tự do như Mỹ, Singapore... áp dụng. Thuế này không gây ảnh hưởng đến mậu dịch chính ngạch nhưng lại có tác dụng lớn đối với mậu dịch biên giới, nơi hàng hoá được nhập khẩu với giá rất rẻ làm mất tác dụng của tính thuế theo tỷ lệ phần trăm. Bên cạnh đó biện pháp này vừa bãi bỏ được chế độ tính thuế theo giá tối thiểu vừa chống được gian lận thương mại thông qua khai man trị giá tính thuế. Biện pháp này phù hợp với hàng nông sản và một số sản phẩm công nghiệp khác vẫn được nhập khẩu vào nước ta với giá quá thấp, đặc biệt có tác dụng đối với hàng tiêu dùng đã qua sử dụng. Thứ hai, cần áp dụng thuế chống phá giá nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh an toàn cho các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam. Cần tận dụng chức năng của thuế bảo vệ môi trường để có khoản thu bồi đắp cho thiệt hại môi trường cũng như hỗ trợ việc giảm hay cấm nhập hàng tiêu dùng đã qua sử dụng. Biện pháp này còn có tác dụng đệm trong trường hợp không thể nâng thuế lên quá cao để bảo hộ hàng trong nước. 3.2. Các chính sách khác. * Cần phải tìm hiểu và tham gia một cách tích cực vào các định chế hoạt
động thị trường thế giới sao cho hội nhập được nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới để tranh thủ được các điều kiện quốc tế, mở rộng thị trường. Nhờ đó, chúng ta có thể tận dụng được các điều kiện, các ưu đãi hỗ trợ cho việc thu hút vón, chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. * Tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, nền kinh tế hướng vào xuất khẩu thì hàng hoá phải có khả năng cạnh tranh cao. Do vậy, chính sách của nước ta phải tập trung đầu tư vào các ngành hàng nhằm tạo ra những sản phẩm mới trên cơ sở nhu cầu của thị trường thế giới; có được sản phẩm với hàm lượng công nghệ hiện đại và chứa đựng nhiều giá trị gia tăng; tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế và trong nước. *Xác định các bước đi hợp lý và các chính sách để thực hiện bước đi đó: nền kinh tế Singapore đã thành công khi thực hiện một chiến lược là chuyển từ xuất khẩu nguyên liệu sang xuất khẩu các sản phẩm chế biến, lúc đầu là sản phẩm có hàm lượng lao động cao ở nơi có lao động rẻ, sau khi lao động tăng giá, nước này chuyển sang sản xuất các sản phẩm với công nghệ tiên tiến với hàm lượng khoa học cao, sử dụng ít lao động. Về chính sách, Chính phủ phải quản lý được thị trường. Thực hiện thống nhất thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, thực hiện đầu tư tập trung cho các ngành hướng vào xuất khẩu. Chính phủ xác lập những giải pháp hợp lý tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển. Nhà nước cần có các chính sách tận dụng vốn, công nghệ và tổ chức thị trường hướng về xuất khẩu của các công ty xuyên quốc gia và các công ty này có vai trò rất lớn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Trải qua mười năm nỗ lực phấn đấu, thành công nổi bật của Việt Nam là đã giúp cho nền kinh tế thích ứng được với những biến đổi trong bản thân nền kinh tế Việt Nam cũng như trong môi trường kinh tế quốc tế. Song con đường đi đến tăng trưởng với xuất khẩu là động lực không phải là bằng phẳng. Chiến lược công nghiệp hoá gồm hai mũi nhọn chưa bù đắp được xu hướng bất lợi cho xuất khẩu được ẩn chứa trong chế độ bảo hộ. Vấn đề cấp bách là cần có những chính sách kinh tế khả thi, đồng bộ và hiệu quả để không chỉ khắc phục những thiên vị bất lợi cho xuất khẩu mà còn tạo đà cho xuất khẩu nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung có sức bật để tiến xa hơn nữa trong chặng đường rút ngắn khoảng cách với những con rồng châu á. Nghĩa là, dẫu có khó khăn và trở ngại thì đây chính là cơ hội và thách thức để Việt Nam khẳng định vị thế của mình, góp phần tạo nên một sự thần kỳ mới của Đông Nam á trong tương lai.