1 - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và công nhân trong đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đối với Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"(1). Đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có bước nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin, viết năm 1920, đã thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì đây là chủ nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn chế lúc bấy giờ trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là "hậu bị quân" của cách mạng vô sản chính quốc; cách mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa mới được giải phóng, Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu sắc khát vọng và tiềm năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu lên luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể "chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta", giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc. Còn khi nói về chủ nghĩa dân tộc, các ông thường phê phán chủ nghĩa dân tộc tư sản (dân tộc lớn hay dân tộc hẹp hòi, tự ti...) và đối lập nó với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Theo Người, ở Việt Nam cũng như ở các nước phương Đông, do trình độ sản xuất kém phát triển nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước phương Tây. Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước". Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản là "một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời".
BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI TRONG NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở NƯỚC TA Đông Hải Nhận thấy ý nghĩa quan trọng của việc giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, cũng như những thuận lợi, khó khăn đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, luôn xác định rằng, mặc dù có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội giữa các vùng dân tộc thiểu số và miền núi với các vùng dân tộc Kinh và đồng bằng, song đó không phải là khó khăn không thể tránh khỏi. Vấn đề đặt ra là, chúng ta cần có chủ trương, chính sách đúng đắn để giải quyết khó khăn đó. Trong Thư gửi Đại hội Các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plây Cu (tháng 4 - 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: " Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Sê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt… Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta"1. Tiếp đó, tại Đại hội II (năm 1951), Đảng ta khẳng định: " Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc"2. Tại các kỳ Đại hội III, IV, V, Đảng ta kiên trì chủ trương: Thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc để đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng ta về vấn đề dân tộc ngày càng sáng rõ và được cụ thể hoá trong hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (năm 1986) đến nay, việc thực hiện chính sách dân tộc đã đem lại sự biến đổi sâu sắc, tích cực trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội của các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đến nay, về điều kiện sản xuất: Có 60 - 90% diện tích canh tác được tưới tiêu bằng thủy lợi. Về giao thông: Tất cả các tỉnh đều có đường ô tô đến trung tâm xã; nhiều tỉnh có đường ô tô đến tận các buôn, làng. Về giáo dục: Trường phổ thông được xây dựng đều khắp ở các xã; nhiều xã, huyện vùng cao có trường tiểu học hoàn chỉnh. Về y tế: 100% số xã có trạm y tế, trong đó có trên 80% số trạm được xây dựng kiên cố, 70% số trạm có đủ trang thiết bị. Về đời sống văn hoá: Hầu hết các xã có bưu điện văn hoá xã; 90% số xã được phủ sóng phát thanh và 75% số xã được phủ sóng truyền hình. Về xoá đói giảm nghèo: Số hộ thuộc diện xoá đói giảm nghèo xuống dưới mức 30%.
Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ những hạn chế, yếu kém trong thực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc, đồng thời đề ra nhiều nội dung, phương hướng thiết thực, cụ thể để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, trong đó nhiệm vụ trong tâm là phát triển lực lượng sản xuất trên cơ sở đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; coi phát triển kinh tế hàng hoá là cơ sở kinh tế của việc giải quyết quan hệ dân tộc. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: Đầu tư thêm và tập trung sự cố gắng của các ngành, các cấp, kết hợp với động viên tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo vệ và phát huy thế mạnh về kinh tế ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số cư trú. Có thể khẳng định rằng, Đại hội VI của Đảng là dấu mốc quan trọng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta. Từ đây, Đảng và Nhà nước ta thực sự có bước phát triển mới trong nhận thức và thực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc. Từ sau Đại hội VI, Đảng ta thường xuyên đề ra những chủ trương, đường lối phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Trong đó, Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và các Văn kiện Đại hội VII, VIII, IX có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Đặc biệt, Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị có thể được coi như một nghị quyết đặc thù, dành riêng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc. Điều đáng lưu ý trước hết là, Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị khái quát tất cả những hạn chế, yếu kém trong việc giải quyết vấn đề dân tộc nói chung và chính sách dân tộc nói riêng ở nước ta trong một thời kỳ dài xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những hạn chế, yếu kém đó " bắt nguồn từ những khuyết điểm trong chính sách kinh tế - xã hội đối với miền núi và trong việc thực hiện chính sách đó"3; từ việc "sử dụng vốn đầu tư chưa đúng, nhất là chưa chú trọng đúng mức đến xây dựng kết cấu hạ tầng của miền núi"4, mà nguyên nhân sâu xa là chưa nhận thức rõ những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội miền núi. Một thí dụ điển hình là vấn đề định canh, định cư. Du canh, du cư là tập quán rất lâu đời của đồng bào các dân tộc, song đó là tập quán lạc hậu, thường dẫn đến sự nghèo đói. Mặc dù chủ trương, chính sách định canh, định cư của Đảng và Nhà nước ta đã được thực hiện từ nhiều năm nhưng hiệu quả không cao. Nguyên nhân chính là do chúng ta áp dụng một cách máy móc mô hình định canh, định cư của đồng bào Kinh ở miền xuôi vào điều kiện sinh sống của đồng bào các dân tộc, không tính đến đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Để phát triển kinh tế ở miền núi, cần có chính sách chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế hàng hoá để phá vỡ thế tự cấp, tự túc, cải thiện quan hệ giữa các dân tộc. Bàn về vấn đề này, Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị chỉ rõ, cần "áp dụng rộng rãi các hình thức kinh tế hợp tác, quá độ thích hợp từ thấp đến cao, đặc biệt coi trọng kinh tế hộ gia đình"5.
Bên cạnh chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế, Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị còn đề ra chủ trương phát triển văn hoá, giáo dục, xây dựng nếp sống mới, chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Đây là vấn đề được Đảng ta coi là một trong những biện pháp quan trọng góp phần cải thiện quan hệ dân tộc. Theo đó, trước mắt cần tăng cường mức đầu tư cho hệ thống y tế miền núi; có chính sách trợ cấp điều trị tại các bệnh viện cho những cán bộ và nhân dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng đang có nhiều khó khăn. Để cụ thể hoá và hiện thực hoá văn kiện Đại hội VI và Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, ngày 13-3-1990, Chính phủ ra Quyết định 72 Về một số chủ trương chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Với 38 điều, Quyết định đã đề cập đến nhiều nội dung khác nhau nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng sản xuất hàng hoá. Quyết định chỉ rõ: Xây dựng cơ cấu kinh tế của miền núi theo hướng chuyển sang kinh tế hàng hoá phù hợp với đặc điểm từng vùng, tiểu vùng; phát huy thế mạnh về lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, lương thực, chăn nuôi đại gia súc; phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp, du lịch… Sự chênh lệch tương đối lớn về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các dân tộc, nhất là giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh, là nguyên nhân sâu xa dẫn đến mâu thuẫn trong quan hệ tộc người. Các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội đang ra sức lợi dụng những khó khăn nhất thời trong đời sống của đồng bào các dân tộc và việc giải quyết chưa ổn thoả về vấn đề bình đẳng giữa các dân tộc để kích động sự hằn thù dân tộc, tạo ra hố ngăn cách trong quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta cho rằng, vấn đề cấp thiết đặt ra trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay là, thực hiện bằng được sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, để sao cho tất cả các dân tộc đều có khả năng, điều kiện phát triển toàn diện và thoả mãn những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần. Cần "chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc"6 ; "kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc"7. Vấn đề bình đẳng giữa các dân tộc, xét đến cùng, là sự bình đẳng về lợi ích. Không có sự bình đẳng về lợi ích, khó có thể giải quyết hài hoà, tốt đẹp quan hệ giữa các dân tộc. Song, có một thách thức lớn là, để vươn tới sự bình đẳng về lợi ích, đồng bào các dân tộc không thể không vươn lên trình độ sản xuất tiên tiến. Trong khi đó, điều kiện sinh sống khó khăn, thiếu thốn, phong tục tập quán cổ hủ, phương thức canh tác lạc hậu làm cho đồng bào các dân tộc khó có thể tự vươn
lên, nếu không có sự tương thân, tương ái, giúp đỡ của các dân tộc anh em khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Như vậy, để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, chúng ta cần thực hiện được một hệ thống chính sách dân tộc đúng đắn, phù hợp với điều kiện sinh sống của đồng bào các dân tộc, và hệ thống chính sách đó phải được bảo đảm bằng cơ chế, được luật hoá. Hơn nữa, hệ thống chính sách đó không chỉ đề cập đến lĩnh vực kinh tế như giảm thuế nông nghiệp cho sản xuất lương thực, miễn thuế lưu thông cho một số sản phẩm thiết yếu…, mà còn đề cập đến các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục, đào tạo, xây dựng hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ ở cơ sở, đội ngũ già làng, trưởng bản. Tính đến nay, ở nước ta có tới 26 luật, bộ luật và 3 pháp lệnh trực tiếp đề cập đến vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc. Trong đó, có 5 điều qui đinh trong Hiến pháp năm 1992, có 45 điều qui định trong các luật và bộ luật, 3 điều qui định trong pháp lệnh. Thực tiễn quan hệ dân tộc ở nước ta thời gian qua cho thấy, việc cải thiện quan hệ giữa các dân tộc không chỉ phụ thuộc vào những chủ trương, chính sách lớn, lâu dài, mang tính tổng thể về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng-an ninh của Đảng và Chính phủ, mà còn phụ thuộc vào những chính sách rất cụ thể của Chính phủ về định canh, định cư, giao đất, giao rừng, tiếng nói, chữ viết, dùng muối i ốt, xoá bỏ trồng cây thuốc phiện… Chính vì vậy, trong thời gian qua, chính phủ đã đề ra nhiều chính sách, chỉ thị, biện pháp, cụ thể phù hợp với đặc điểm của từng vùng đồng bào dân tộc, mà nội dung là tập trung vào những nhiệm vụ chính yếu như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng hệ thống giao thông, lưới điện sinh hoạt, đẩy mạnh giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí…Đó là các văn bản: + Chỉ thị 525/TTg ngày 2-11-1993 của Thủ tướng Chính phủ Về một số chủ trương tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Trong đó, Chỉ thị tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo vệ rừng và tài nguyên rừng, đầu tư cho đường giao thông, nước sản xuất và sinh hoạt, điện, giáo dục và đào tạo... + Nghị quyết 06/CP ngày 29- 01-1993 của Chính phủ Về tăng cường phòng chống và kiểm soát ma tuý, trong đó có vấn đề thay thế cây thuốc phiện. + Quyết định số 960-TTg ngày24-12-1996 của Thủ tướng Chính phủ Về định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc. Trong đó, Quyết định tập trung vào nhiệm vụ: phát triển hệ thống giao thông liên tỉnh, liên huyện, liên xã, qui hoạch, bố trí dân cư, thực hiện định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo… + Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 393-TTg ngày10- 6-1996 Về quy hoạch dân cư, tăng cường cơ sở hạ tầng, sắp xếp sản xuất ở vùng dân tộc và miền núi. Chỉ thị
đã nêu rõ: đến năm 2000 phải cơ bản hoàn thành việc xây dựng các trường phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh, huyện và trường bán trú ở xã; các huyện đều có trung tâm y tế…; các huyện và trung tâm cụm xã đều có trạm phát hình và phát thanh… để đồng bào được hưởng các dịch vụ văn hoá, phúc lợi xã hội. + Đặc biệt, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 135/1998 QĐ - TTg ngày 317-1998 phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135). Trong đó, Chương trình đề cập đến những nội dung chủ yếu như xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, điện, nước…), đào tạo cán bộ, quy hoạch dân cư, phát triển kinh tế …nhằm đạt mục tiêu đến năm 2005 giảm các hộ nghèo xuống còn 25%. Từ khi có Quyết định này, Nhà nước đã huy động vốn đầu tư khá lớn (22 880 tỉ đồng giai đoạn 2001-2005) để các vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển kinh tế -xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá tinh thần, góp phần thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch với đồng bằng và thành thị. Thực tế, với mức đầu tư 400 triệu đồng/xã, Chương trình 135 đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở 3 tỉnh Hoà Bình, Lai Châu, Sơn La. Tóm lại, từ khi thực thi công cuộc đổi mới đến nay, đặc biệt là những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta liên tục đề ra và thực hiện những đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật đúng đắn, sát thực về vấn đề dân tộc. Nhờ vậy, vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc ở nước ta được cải thiện rõ rệt; kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, quốc phòng - an ninh ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi có bước phát triển vượt bậc và từng bước được củng cố vững chắc. Có thể nói, đó là kết quả của bước phát triển mới trong nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam. 1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 4, tr 217 Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t2, tr 440 3 Một số văn kiện về chính sách dân tộc, miền núi của Đảng và Nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1992, tr 5 4 Sđd, tr17 5 Sđd, tr 21 6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr128 7 Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr35 2
Lợi dụng vấn đề dân tộc: Các thế lực thù địch, hiểu rất rõ tầm quan trọng của sự ổn định chính trị - xã hội ở Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng tìm mọi thủ đoạn để phá vỡ sự ổn định đó. Một trong những thủ đoạn ấy là kích động gây mâu thuẫn dân tộc, tạo cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân ta. Chúng cho rằng, "cuộc chiến tranh ngầm dân tộc" là một cuộc đấu tranh lớn trên bán đảo Đông Dương, có sự liên kết kinh tế, chính trị, phải nhằm vào mâu thuẫn và hận thù xa xưa và hiện tại để kích động, lợi dụng và tạo thành một mặt trận đấu tranh rộng rãi. Với mục tiêu gây bạo loạn khu vực, gây biến động làm mất sự ổn định chính trị và kích động đấu tranh đòi tự do hoặc tách ra khỏi cộng đồng dân tộc, lập quốc gia mới, chúng chủ trương kích động gây chia rẽ, mâu thuẫn dân tộc, phối hợp trong nước và ngoài nước xây dựng lực lượng ngầm đủ sức gây biến động, cao hơn là bạo loạn chính trị lật đổ chính quyền sở tại, kêu gọi Liên Hợp quốc can thiệp; trọng điểm là các khu vực: đông người Khơ Me (ở Tây Nam Bộ), vùng người Mông (ở Tây Bắc), và điển hình là khu vực Tây Nguyên. Tây Nguyên là địa bàn chiến lược của cách mạng nước ta, nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Để tạo ra tình hình an ninh bất ổn, chúng đã không từ một thủ đoạn nào mưu toan chia rẽ giữa người Kinh và người Thượng; xuyên tạc tình đoàn kết truyền thống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong các cuộc đấu tranh giải phóng cũng như bảo vệ Tổ quốc và xây dựng Tây Nguyên ngày nay. Chúng lợi dụng các hoạt động du lịch thăm thân và liên doanh hợp tác kinh tế để xâm nhập, móc nối với những tên phản động cũ trên địa bàn của các tỉnh như: Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Bình Phước để hoạt động phá rối. Thủ đoạn của các thế lực thù địch bên ngoài cấu kết với bọn phản động trong nước để chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi ích của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, ngày càng thâm độc và xảo quyệt. Bằng những thủ đoạn lừa phỉnh tinh vi, thông qua cái gọi là "Nhà nước Đề Ga độc lập" chúng đã đưa ra "yêu sách" để dụ dỗ, lừa gạt nhân dân, như: "Người Kinh phải về Hà Nội, trả lại đất cho người Đề Ga", "Đất Tây Nguyên là của người Tây Nguyên", "Phụ nữ dân tộc được tự do sinh đẻ vì đất Tây Nguyên rất rộng, không thiếu chỗ cho đồng bào sinh sống"(!). Chúng ra sức nói xấu, bôi nhọ bản chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng tăng cường thu thập danh sách đồng bào dân tộc thiểu số (chủ yếu trên địa bàn Tây Nguyên) gửi sang Mỹ để lừa bịp các tổ chức quốc tế mong nhận được sự ủng hộ. Một hoạt động rất thâm độc của các thế lực thù địch bên ngoài và bọn phản động trong nước ở địa bàn Tây Nguyên là, dụ dỗ đồng bào các dân tộc thiểu số vượt biên trái phép, vừa tạo ra sự mất ổn định chính trị hiện tại, vừa phục vụ cho âm mưu lật đổ trong tương lai. Sau vụ gây rối tháng 2-2001 do các thế lực thù địch bên ngoài chỉ đạo, bọn cầm đầu Phun-rô kích động lôi kéo một số đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên tham gia biểu tình đòi thành lập "nhà nước Đề Ga độc lập", dụ dỗ một số người chạy sang Cam-pu-chia.
Đoàn kết là sức mạnh vô địch. Trước thời cơ và vận hội mới, phát huy truyền thống yêu nước, đại đoàn kết của dân tộc ta, kế tục những thành quả vẻ vang và phát huy những bài học kinh nghiệm suốt 74 năm hoạt động, dưới ngọn cờ của Đảng, Đại hội lần thứ VI của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhất định mở ra một thời kỳ mới phát triển mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện hơn nữa của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quan điểm tại Đại hội II, 1951 tiếp tục được Hồ Chí Minh bổ sung. Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người viết: '' Đảng ta có chục vạn đảng viên ở các cấp chính quyền, ở trong bộ đội, ở các xí nghiệp, các trường học, các nông thôn, đảng đều liên hệ chặt chẽ với quần chúng như chân tay, ruột thịt. Ở Trung ương thì có những đồng chí nhiều kinh nghiệm, giàu quyết tâm một lòng phục vụ giai cấp và nhân dân. Vì vậy Đảng ta là Đảng của giai cấp lao động mà cũng là Đảng của toàn dân''. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong của cả dân tộc. Tháng 10- 1957, Hồ Chí Minh nói: '' Đảng là đội tiền phong của nhân dân lao động mà trước hết là giai cấp công nhân'' hoặc ''Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc''. Tư tưởng hai ''tiền phong'' của Đảng được Hồ Chí Minh thể hiện đậm nét cách đây gần 50 năm. Tư tưởng đó tiếp tục được Người phát triển trong những năm 60. Nói chuyện tại hội nghị bồi dưỡng cán bộ do Trung ương tổ chức, tháng l. 1965 Hồ Chí Minh chỉ rõ: ''Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc''. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng của ai chúng tôi thấy nổi lên mấy vấn đề: Thứ nhất, quan điểm nhất quán của Người là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng ta, Đảng của chúng ta là Đảng của giai cấp công nhân, giai cấp cần lao, giai cấp lao động. Thứ hai, trong những trường hợp khi Người đề cập đến Đảng của nhân dân, của dân tộc, của toàn dân thì trước đó phải là của giai cấp công nhân hoặc trước hết là giai cấp công nhân. Trừ trường hợp đặc biệt 1945, khi Đảng tuyên bố tự giải tán, còn lại không một lần nào Hồ Chí Minh chỉ nói Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của nhân dân, của dân tộc, của toàn dân. Trong khi đó nhiều lần Hồ Chí Minh chỉ nói Đảng là Đảng của giai cấp công nhân, giai cấp cần lao.
Thứ ba, theo suy nghĩ của chúng tôi sau khi nói Đảng của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh thêm Đảng của nhân dân, của dân tộc, của toàn dân, Người muốn nhấn mạnh hai ý: Một là, đảng đại diện, tiêu biểu cho lợi ích của dân tộc, của toàn dân. Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ ngoài lợi ích của giai cấp công nhân của nhân dân, dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III ( 1960) viết: ''Đảng ta không những là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân Việt Nam mà đồng thời còn là đại biểu trung thành cho lợi ích chân chính của nhân dân lao động và của dân tộc. Điều đó cũng giải thích vì sao công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác ở nước ta thừa nhận Đảng ta là Đảng của họ, một lòng một dạ tin tưởng và ủng hộ Đảng ta''' . Hai là, đảng viên của Đảng không chỉ là những người tiên tiến, ưu tú xuất thân từ giai cấp công nhân mà còn từ tất cả các giai cấp, tầng lớp khác trong dân tộc. Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua đã viết: Công nhân, thợ thủ công, dân cày, binh lính, học sinh và các giai cấp khác tin theo chủ nghĩa cộng sảng, chương trình Đảng và quốc tế cộng sản, hăng hái đấu tranh, phục tùng mệnh lệnh Đảng, đóng đảng phí và chịu phấn đấu trong một tổ chức Đảng thì được vào Đảng. Năm 1960 Hồ Chí Minh nói Đảng ta là con nòi. Thứ tư, Hồ Chí Minh có những cách tiếp cận khác nhau trong khi trả lời câu hỏi Đảng của ai nhưng Đảng cộng sản Việt Nam thực chất là Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng mácxít lê nin nít cách mạng chân chính. Bởi vì, Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác- Lê nin, Đảng giác ngộ giai cấp công nhân rành mạch, lập trường giai cấp công nhân dứt khoát, tác phong giai cấp công nhân đúng đắn, tư tưởng của Đảng là tư tưởng của giai cấp công nhân. Mối quan hệ dân tộc - giai cấp đã được Hồ Chí linh kết hợp một cách hết sức nhuần nhuyễn cả trong việc xác định đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới cũng như trong việc trả lời câu hỏi Đảng của ai. Sự kết hợp đó là một trong những sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố hàng đầu tạo nên sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. ----------------------------------------------------------------------------------------Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt vấn đề dân tộc ở vị trí chiến lược và công tác dân tộc là bộ phận quan trọng của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, với đặc điểm quốc gia có nhiều dân tộc anh em, Đảng ta đã xây
dựng chính sách dân tộc trên nguyên tắc đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, nhằm giành độc lập cho Tổ quốc, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc. Thực hiện chính sách đó, hơn 70 năm qua, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân các dân tộc nước ta luôn luôn được sự quan tâm, tạo những điều kiện thuận lợi, đã động viên được sức mạnh to lớn của đồng bào các dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp, đưa cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đến thắng lợi vẻ vang và ngày nay đang tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta chủ yếu sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, là nơi còn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Vì vậy, trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, đồng thời có các giải pháp cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Sau khi có Nghị quyết 22-NQ/TƯ ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 72-HĐBT, ngày 13-31990, "Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi". Sau đó là một loạt các nghị quyết, chỉ thị, quyết định được ban hành như : Chỉ thị 68-CT/TƯ của Ban Bí thư ; Quyết định 525/TTg ; Chỉ thị 393/TTg, Quyết định 656/TTg, Quyết định 960/TTg, Quyết định 135/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ v.v.. Các văn bản này đã đề cập đến những vấn đề quy hoạch phát triển từng khu vực miền núi, các chương trình phát triển trong từng giai đoạn cụ thể hoặc từng lĩnh vực trong nội dung phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Nhìn chung những chủ trương chính sách đúng đắn đó đã đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng, góp phần làm thay đổi đáng kể diện mạo đời sống kinh tế - xã hội ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 10 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế tại vùng các dân tộc thiểu số và miền núi đạt mức bình quân từ 8 đến 10%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng : từ năm 1990 đến 1999, tỷ trọng nông - lâm nghiệp giảm từ 76% xuống còn 58% ; công nghiệp, xây dựng cơ bản tăng từ 9% lên 16% ; thương mại - dịch vụ tăng từ 15% lên 26%. Số hộ nghèo, đói hằng năm giảm từ 2 đến 3%. Sản xuất lương thực đã dần chuyển dịch theo hướng thâm canh, đầu tư khoa học - kỹ thuật, trước hết là giống mới, phân bón, kỹ thuật trồng trọt..., để tăng năng suất. Mức bình quân lương thực chung của khu vực miền núi tăng năm sau cao hơn năm trước (từ 230 lên 300 kg/người/năm). Nhiều vùng cây chuyên canh đã được hình thành theo hướng sản xuất hàng hóa như : cây chè ở các tỉnh miền núi phía Bắc ; cà phê ở các tỉnh Tây Nguyên; cao su ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên ; cây điều, hạt tiêu ở Tây Nguyên và các tỉnh miền Trung, Nam Bộ ; cây quế, cây hồi ở Yên Bái, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Quảng Nam ; cây ăn quả ở Sơn La, Lào Cai, Bắc Giang...
Cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống ở vùng các dân tộc thiểu số và miền núi phát triển nhanh chóng. Mạng lưới giao thông phát triển mạnh. Đến nay, về cơ bản, các huyện miền núi vùng cao, vùng sâu, vùng xa đã có đường ô tô, trên 95% số xã trong cả nước có đường ô tô đến trung tâm xã. Đến năm 2000, các tỉnh Tây Nguyên không những có đường ô tô đến trung tâm xã mà còn đến phần lớn các buôn, làng. Nhiều tỉnh phía Bắc với địa hình khó khăn, hiểm trở cũng đã có đường ô tô đến các xã trong tỉnh. Có huyện vùng cao, núi non hiểm trở như Điện Biên Đông (Lai Châu), Si Ma Cai (Lào Cai)... cũng có đường ô tô đến tất cả các xã trong huyện vào mùa khô. Phần lớn các huyện miền núi đã có đường nhựa đến khu vực trung tâm. Đến năm 1999, cả nước có 77,15% số xã ; 68,10% số hộ ở nông thôn được sử dụng điện lưới quốc gia. Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, tỷ lệ chung là 44,80% số xã và 49,24% số hộ ; ở các tỉnh Tây Nguyên là 55,27% số xã và 41,0% số hộ. Đến nay, tất cả các huyện, thị ở các tỉnh miền núi trong cả nước đã có truyền dẫn vi ba số ; 56% số xã được phủ sóng truyền hình ; 85% dân số sử dụng sóng truyền thanh và trên 70% số xã có điện thoại. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và tăng cường, các dịch vụ y tế đã đến với người dân vùng sâu, vùng xa. Đến nay không còn xã trắng về y tế, hệ thống y tế thôn bản được khôi phục và phát triển. Các huyện miền núi đều có bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực được xây dựng và tăng cường các trang, thiết bị, thuốc men phục vụ công tác khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Về cơ bản, y tế miền núi đã khống chế được các bệnh dịch nguy hiểm, các bệnh lưu hành chủ yếu như : sốt rét, bướu cổ, bệnh phong... Công tác chăm sóc và bảo vệ bà mẹ trẻ em được quan tâm đúng mức, thực hiện có hiệu quả các chương trình y tế như : tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em... Đến năm 2000, tất cả các xã ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có trường tiểu học, một số xã hoặc liên xã đã có trường trung học phổ thông cơ sở, thu hút phần lớn con em đồng bào đến trường. Công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục trong độ tuổi và trong cán bộ cơ sở được đẩy mạnh. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú phát triển mạnh với 180 trường cấp huyện, 45 trường cấp tỉnh và 7 trường cấp trung ương quản lý, trong đó có 3 trường dự bị đại học là nơi tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở những vùng này. Đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số ngày càng lớn mạnh về số lượng cũng như chất lượng ; tất cả các dân tộc đều có đảng viên ; gần 50 dân tộc thiểu số có người tốt nghiệp cao đẳng và đại học. Đến nay đã có 130 người có trình độ trên đại học, 13.000 người có trình độ đại học, cao đẳng, 78.000 người có trình độ trung học chuyên nghiệp và trên 10.000 công nhân kỹ thuật. Đội ngũ cán bộ trên đã và đang giữ những vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan đảng và nhà nước, các ngành từ trung ương đến cơ sở.
Trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện mục tiêu đó, trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và trong nước và từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã xác định : "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân"(1). "Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng"(2) và Đảng ta chủ trương tiếp tục "thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển"(3). Đại hội cũng đã xác định rõ ràng, cụ thể chủ trương về xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số : "... thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn... Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số "(4). Vấn đề quan trọng hiện nay là nhanh chóng triển khai đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực sinh động. Tuy có phát triển và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về nhiều mặt trong thời gian qua, song hiện nay khu vực miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn là nơi khó khăn và lạc hậu nhất của nước ta. Khoảng cách phát triển giữa miền núi và miền xuôi, nhất là so với khu vực thành thị, còn khá lớn và có xu hướng ngày càng doãng ra. Vì vậy, muốn thu hẹp khoảng cách này, chúng ta cần tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ một số chính sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi bao gồm : Chính sách đầu tư : Nhà nước ưu tiên đầu tư vốn theo hướng nâng cao tỷ trọng đầu tư trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết vấn đề bức xúc về mặt xã hội ở vùng các dân tộc thiểu số và miền núi. Ngân sách nhà nước cần được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và tập trung chủ yếu vào xây dựng cơ sở hạ tầng như : giao thông, điện, thủy lợi, nước sạch, trạm y tế, bệnh viện, trường học... Đồng thời, Nhà nước cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, các tổ chức kinh tế, tư nhân đầu tư phát triển kinh doanh ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Để chính sách đầu tư vào khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát huy hiệu quả, bên cạnh việc tiếp tục đầu tư cho khu vực này, việc tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm cả trong hoạch định chính sách lẫn trong tổ chức thực hiện chính sách là một việc làm quan trọng và cần thiết. Chính sách tài chính - tín dụng : Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi về thuế như : thuế nông nghiệp, thuế tiểu, thủ công nghiệp, thuế lưu thông hàng hóa và một số loại thuế khác ở vùng dân tộc, miền núi, kể cả thuế thuê đất sử dụng phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục thực hiện, điều chỉnh và hoàn thiện chính sách hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, thương nghiệp nhà nước hoạt động ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Có chính sách trợ cước, trợ giá thu mua nông sản, lâm sản và bán hàng hóa thiết yếu như : muối, dầu hỏa, thuốc chữa bệnh, giấy viết, phân bón, thuốc trừ sâu, giống... cho đồng bào. Đi đôi với việc cho vay vốn tín dụng ưu tiên hỗ trợ phát triển nông - lâm nghiệp, xóa đói, giảm nghèo với lãi suất thấp thì việc nâng cao tri thức sử dụng vốn phục vụ sản xuất cho đồng bào các dân tộc thiểu số là khâu hết sức quan trọng hiện nay. Đối tượng người nghèo, đói, Nhà nước có cơ chế cho vay riêng để giúp đỡ phát triển sản xuất không trả lãi hoặc thông qua chương trình xóa đói, giảm nghèo. Chính sách phát triển các thành phần kinh tế : Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, tạo điều kiện để các hợp tác xã miền núi phát triển với quy mô và hình thức thích hợp. Các thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, là "bà đỡ" trong sự phát triển kinh tế - xã hội miền núi, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư kinh doanh ở những vùng này. Chính sách phát triển rừng : Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát huy tiềm năng lao động, đất đai, vật tư, tiền vốn vào việc bảo vệ và phát triển rừng. Người được giao rừng được vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi để đầu tư phát triển rừng và được hưởng các nguồn lợi từ rừng, được miễn thuế sử dụng đất trong chu kỳ sản xuất theo quy định. Nhà nước hỗ trợ giống cây đặc sản cho các hộ gia đình trồng rừng ở những vùng đặc biệt khó khăn, vùng đầu nguồn xung yếu. Tiếp tục thực hiện và có cơ chế, chính sách phù hợp hơn trong việc giao đất, giao rừng cho đồng bào dân tộc chăm sóc, bảo vệ và khai thác, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào các dân tộc thiểu số có thể yên tâm sống bằng nghề rừng. Chính sách phát triển nguồn nhân lực : Thực hiện chính sách ưu tiên tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, có cơ chế thỏa đáng, phù hợp nhằm khuyến khích cán bộ miền xuôi lên công tác ở vùng dân tộc, miền núi. Tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi đối với cán bộ đang công tác tại miền núi như : phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt và một số chế độ khác, nhất là chính sách phụ cấp sinh hoạt cho cán bộ cơ sở, già làng, trưởng thôn, trưởng bản. Tăng cường nguồn nhân lực cho miền núi, quy hoạch, sắp xếp lại dân cư theo hướng phát triển bền vững phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Cần đầu tư thỏa đáng để có một chiến lược tạo nguồn nhân lực cho miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ có làm tốt công tác đầu tư cho nguồn nhân lực mới tạo ra yếu tố quyết định để có thể khắc phục được một cách cơ bản những thiếu hụt và bất cập về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong giai đoạn tới. Chính sách phát triển khoa học và chuyển giao công nghệ : Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên đầu tư các thiết bị công nghệ phục vụ cho các ngành trồng trọt,
chăn nuôi và chế biến nông - lâm sản, chính sách chuyển giao công nghệ ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật về giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật thâm canh, kỹ thuật canh tác trên đất dốc, phương thức nông - lâm kết hợp, kỹ thuật tưới tiêu, bảo vệ thực vật, thú y và các công nghệ chế biến nông - lâm sản. Khuyến khích các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học, các trường đại học, trường đào tạo cán bộ, cá nhân các nhà khoa học nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ mới ở vùng dân tộc, miền núi. Tuy nhiên, trong khi triển khai các chương trình khoa học, công nghệ cần chú trọng đến hình thức, nội dung, thời gian cho phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng nhóm dân tộc. Chính sách giáo dục : Có chính sách ưu tiên đầu tư xây dựng các cơ sở trường lớp, cung cấp trang, thiết bị dạy, học ; đào tạo giáo viên phục vụ sự nghiệp phát triển giáo dục ở vùng dân tộc, miền núi. Thực hiện có hiệu quả công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, mở rộng hệ thống các trường phổ thông cấp tiểu học và trung học cơ sở, trường phổ thông dân tộc nội trú ; các trường dạy nghề ; các lớp dự bị dành riêng cho học sinh dân tộc thiểu số. Thực hiện chính sách ưu tiên trong tuyển sinh, trợ cấp, học bổng đối với học sinh người dân tộc thiểu số vào học các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề... ; chính sách miễn học phí, cho mượn sách giáo khoa, giúp đỡ giấy viết đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số và con em gia đình miền xuôi lập nghiệp tại miền núi mà đời sống có nhiều khó khăn và một số chế độ chính sách khác cho giáo viên ở vùng dân tộc, miền núi. Chính sách y tế : Nhà nước ưu tiên đầu tư cho xây dựng và củng cố hệ thống y tế cơ sở, xây dựng trạm y tế, phòng khám đa khoa khu vực, tăng cường các dịch vụ y tế phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Ưu tiên thuốc chữa bệnh thông thường, thuốc phòng, chống dịch bệnh cho vùng cao, miền núi, tiếp tục thực hiện chế độ cấp thuốc sốt rét, thuốc phòng chống bướu cổ, giảm giá bán muối trộn iốt cho nhân dân. Thực hiện chế độ miễn viện phí cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Chính sách văn hóa - thông tin : Có cơ chế, chính sách đầu tư kinh phí xây dựng các trạm tiếp sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, thực hiện chương trình phủ sóng vùng lõm, tăng cường các phương tiện thông tin đại chúng, chính sách hỗ trợ thông tin, trợ giá máy truyền thanh, truyền hình, cấp không thu tiền một số báo, chí. Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa dân tộc, ưu tiên kinh phí cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật truyền thống ; tăng cường sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong nước và quốc tế. * TS, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu chính sách Dân tộc và Miền núi, Ủy ban Dân tộc và Miền núi (1) Xem : Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr 86
(2) và (3) : Văn kiện đã dẫn, tr 127 (4) : Văn kiện đã dẫn, tr 127 - 128 THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG CƠ SỞ PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC Tòng Thị Phóng* Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi. Và đoàn kết là truyền thống quý báu, là bài học lớn của cách mạng nước ta. Từ nhận thức sâu sắc đó, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ : "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, kề vai sát cánh với nhau trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt vấn đề dân tộc ở vị trí chiến lược và công tác dân tộc là bộ phận quan trọng của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xây dựng chính sách dân tộc trên nguyên tắc đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, để cùng giành độc lập, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ; đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc. Từ khi có Đảng đến nay, vấn đề dân tộc và công tác dân tộc đã được thể hiện cụ thể thông qua các quan điểm, đường lối, chủ trương, biện pháp chỉ đạo thực tiễn của Đảng và Nhà nước ta. Trải qua các thời kỳ cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, vấn đề dân tộc và công tác dân tộc luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Trung ương Đảng và Chính phủ, thông qua việc xác định mục tiêu, tạo lập các thể chế hoạt động, định hướng nội dung chiến lược và cụ thể cho từng giai đoạn, đầu tư nhân lực, vật lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện... Chính điều đó đã tạo nên một dấu ấn, một nét đặc trưng của vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong thế kỷ XX. Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta đồng thời là biểu hiện của truyền thống văn hóa, nhân văn sâu sắc của ông cha ta. Thực hiện chính sách nhất quán đó, hơn 73 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân tộc đã động viên được sức mạnh to lớn của đồng bào các dân tộc, góp phần vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của toàn dân tộc Việt Nam. Vấn đề bình đẳng giữa các dân tộc là một trong những nguyên tắc cơ bản về chính sách dân tộc của Đảng. Bình đẳng dân tộc là quyền ngang nhau của mọi dân tộc trong tất cả các mặt của đời sống xã hội, được bảo đảm bằng pháp luật. Nội dung của quyền bình đẳng giữa các dân tộc được thể hiện chủ yếu ở chỗ : Các dân tộc đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ ; về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và
cơ hội phát triển. Những công dân là người dân tộc thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để nhanh chóng tiến kịp trình độ chung. Đoàn kết các dân tộc là nguyên tắc nhất quán xuyên suốt quá trình hoạch định chính sách dân tộc của Đảng, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, phát huy sức mạnh truyền thống và hiện đại ; sức mạnh tinh thần và vật chất ; tài nguyên, tiền vốn và đặc biệt là sức mạnh của con người. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm đoàn kết trong Đảng, đoàn kết các tầng lớp nhân dân và đoàn kết quốc tế. Đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại ngày nay không chỉ dựa trên cơ sở thống nhất lợi ích chung là xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà còn phải biết phát huy các giá trị truyền thống quý báu của mỗi thành viên, của từng dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một bộ phận của đường lối đổi mới, là thành quả của công cuộc đổi mới. Chính vì vậy, đại đoàn kết đã trở thành mục tiêu và động lực của tiến trình phát triển đất nước. Tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc là thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc của Đảng ta. Nội dung tương trợ, giúp đỡ nhau bao hàm sự đoàn kết, tương trợ nhau giữa các dân tộc trong mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là trong tổ chức cuộc sống, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, sự hỗ trợ của Nhà nước có vai trò rất quan trọng, nhằm tạo cơ hội cho các dân tộc phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội, nhanh chóng hòa nhập trong đại gia đình Việt Nam. Giải quyết tốt công tác dân tộc ở nước ta hiện nay nhằm thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa ở khu vực miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số là một sự nghiệp vẻ vang nhưng rất nặng nề. Sự nghiệp đó đòi hỏi toàn Đảng phải nâng cao nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện nội dung vấn đề dân tộc và công tác dân tộc trong tình hình mới. Việc hoạch định kế hoạch, tăng cường đầu tư, lựa chọn giải pháp phát triển đối với từng vùng miền, địa phương, ngành... phải phù hợp và hiệu quả. Có như vậy mới có thể tạo ra cơ hội để khu vực miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số đẩy nhanh nhịp độ giảm đói nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề vật chất và nguồn lực con người để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những nội dung cơ bản trên đây là một thể thống nhất biện chứng của quá trình hoạch định chính sách dân tộc của Đảng trong thời kỳ mới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy (khóa IX) đã phân tích, đánh giá sâu sắc những thành tựu về công tác dân tộc, đồng thời, chỉ rõ những hạn chế, yếu kém và những nguyên nhân khách quan, chủ quan của công tác dân tộc nói chung và thực hiện chính sách dân tộc nói riêng. Trên cơ sở đó, khẳng định những quan điểm cơ bản, mục tiêu cụ thể đến năm 2010 và những nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách của công tác dân tộc trong thời kỳ mới ; xác định rõ một số chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc. Hệ thống chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta được xây dựng và thực hiện là nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Những nội dung cụ thể của chính sách dân tộc được xác định gồm : Một là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và cho đất nước, tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xác lập quyền làm chủ về đất đai gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, môi trường sống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Khắc phục cơ bản tình trạng tranh chấp đất đai và di cư tự do ở các vùng các dân tộc thiểu số hiện nay. Đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, phát triển cây trồng, vật nuôi có ưu thế theo hướng hàng hóa với những bước đi và quy mô phù hợp ; gắn sản xuất với chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đến năm 2010, các vùng dân tộc và miền núi cơ bản không còn hộ đói ; giảm hộ nghèo xuống dưới 10% ; giảm dần khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các dân tộc, các vùng ; trên 90% hộ dân có đủ điện, nước sinh hoạt ; xóa tình trạng nhà tạm bợ, nhà dột nát. Đổi mới cơ chế quản lý thích hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và miền núi nói riêng, thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa làm chuyển biến cục diện kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc, miền núi. Đầu tư đồng bộ và có trọng điểm thông qua các chương trình, dự án vào các lĩnh vực và vùng quan trọng. Xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng dân tộc, miền núi, trước hết là giao thông, thông tin liên lạc, năng lượng và các công trình thủy lợi. Phấn đấu 100% số xã có đường ô-tô đến trung tâm xã. Xóa dần số xã đặc biệt khó khăn ; hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư ; chấm dứt tình trạng di cư tự do ; giải quyết cơ bản vấn đề đất sản xuất cho nông dân thiếu đất ; ngăn chặn tình trạng suy thoái môi trường sinh thái. Cùng với sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, áp dụng các cơ chế thích hợp nhằm phát huy nội lực của đồng bào các dân tộc đóng góp vào sự nghiệp xây dựng quê hương giàu đẹp và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Hai là, có chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức cho các dân tộc thiểu số. Nâng cao trình độ dân trí, thực hiện hiệu quả chương trình xóa mù chữ và phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo, nhất là hệ thống trường phổ thông dân tộc nội
trú các cấp ; đẩy mạnh việc tổ chức các trường mẫu giáo công lập, mở rộng việc dạy chữ dân tộc. Đa dạng hóa và phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc ; đưa chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú ; tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu tiên, cử tuyển con em đồng bào các dân tộc thiểu số vào học tại các trường đại học và cao đẳng ; mở thêm trường dự bị đại học dân tộc ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên. Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội địa phuơng. Nghiên cứu tổ chức hệ thống trường chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí thức và cán bộ là người dân tộc thiểu số. Thực hiện chính sách ưu tiên, khuyến khích đối với cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền núi. Có chính sách với người có uy tín trong cộng đồng, kể cả một số chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản. Ba là, kế thừa và phát triển giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tôn trọng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Không ngừng nâng cao mọi điều kiện để đồng bào các dân tộc được hưởng thụ các thành tựu văn hóa tiên tiến của nhân loại, kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp, đồng thời bài trừ những tập tục lạc hậu cản trở sự tiến bộ của các dân tộc. Phấn đấu để 90% số đồng bào được xem truyền hình ; 100% được nghe đài phát thanh. Có chính sách đầu tư thích đáng cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, cho những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật dân tộc. Bốn là, quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây ; tăng cường cơ sở khám chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã, thôn, ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số ; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian ; từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số. Bằng việc ưu tiên đầu tư thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa, dân số - kế hoạch hóa gia đình... từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc. Giải quyết kịp thời những nhu cầu bức xúc về đời sống, sinh hoạt cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới như nước sinh hoạt, các mặt hàng thiết yếu (dầu lửa, muối ăn, giấy, vở học sinh, thuốc chữa bệnh, dịch vụ văn hóa...). Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, thôn, bản, buôn, làng văn hóa. Năm là, xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi phải gắn chặt với chính sách an ninh - quốc phòng nhất là ở các địa bàn xung yếu, vùng sâu, biên giới ; ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, làm mất ổn định xã hội. Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng khó khăn về đời sống, trình độ dân trí thấp của đồng bào và những sai sót của các cấp, các ngành trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta để kích động, chia rẽ các dân tộc nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Do đó, trong xây dựng chính sách dân tộc, phải xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra "điểm nóng" về an ninh, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi. Tiếp tục xây dựng, phát triển chính sách đối với các khu kinh tế kết hợp quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Thông qua các chính sách, biện pháp cụ thể, động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực tự cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng quốc phòng - an ninh vững mạnh, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc chính là thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước - cơ sở phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tăng cường vận động quần chúng thực hiện chính sách dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay là rất quan trọng và cần thiết ; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó vai trò công tác dân vận của các lực lượng vũ trang, của quân đội là to lớn, vẻ vang và cũng là trách nhiệm nặng nề. Nhiệm vụ trọng tâm của công tác vận động đồng bào các dân tộc thiểu số là làm cho đồng bào hiểu đúng và tự giác thực hiện tốt những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện quân với dân một ý chí. Cần nắm được diễn biến tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng và phong tục tập quán của đồng bào ; giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc, từng vùng, tránh tư tưởng chủ quan, áp đặt, máy móc, hình thức và cách làm không phù hợp. Kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang với các cấp ủy, chính quyền các cấp, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức vận động đồng bào các dân tộc thực hiện tốt nhiệm vụ xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, sức khỏe cho đồng bào các dân tộc ; nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc tốt đẹp của các dân tộc ; xây dựng cơ sở chính trị rộng khắp, vững mạnh ở các vùng dân tộc. Coi trọng việc đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ; quán triệt phương châm : chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc ; sử dụng nhiều hình thức vận động phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng địa phương. Cán bộ, bộ đội công tác ở vùng dân tộc và miền núi phải thấm nhuần phong cách : "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân
và có trách nhiệm với dân". Lực lượng vũ trang làm dân vận không chỉ nhằm phát huy vai trò của bản thân lực lượng vũ trang đối với nhiệm vụ chiến lược của Đảng là thường xuyên củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, chính quyền với nhân dân mà chính thông qua công tác dân vận, lực lượng vũ trang nâng cao được ý thức, tình cảm phục vụ nhân dân, phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ. Đây là trường học thực tế tốt nhất để rèn luyện bộ đội. Dưới ánh sáng Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy (khóa IX), chúng ta tin tưởng rằng, chính sách dân tộc của Đảng sẽ được thể chế hóa bằng pháp luật và kế hoạch nhà nước, bằng các chương trình hành động của các cấp, các ngành, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, biến Nghị quyết của Đảng thành hiện thực sinh động trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc. Thông qua công tác vận động đồng bào các dân tộc đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với dân, làm cho đồng bào các dân tộc tin tưởng, phấn khởi gắn bó với Đảng, với chế độ, hăng hái tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC - VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP Lời Bộ Biên tập: Thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc là một trong những hoạt động lớn và rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nghị Trung ương 7, khóa IX, đã ra hai nghị quyết quan trọng về vấn đề này, đó là "Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" và "Về công tác dân tộc". Đây là những nghị quyết đề cập đến các vấn đề chính trị lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Tổ chức thực hiện tốt đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về vấn đề dân tộc sẽ góp phần to lớn vào việc mở rộng và tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, bảo vệ và phát triển những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ ý nghĩa đó, vừa qua, tại Hà Nội, Tạp chí Cộng sản và Ủy ban Dân tộc tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề "Thực hiện chính sách dân tộc - vấn đề và giải pháp". Sau hai bài phát biểu đề dẫn của GS, TS Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương và đồng chí Ksor Phước, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc đã trình bày báo cáo, nhiều đại biểu đã phát biểu ý kiến và thảo luận sôi nổi xung quanh vấn đề này. Số 10-2004, Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài của đồng chí Ksor Phước. Và số này, Tạp chí Cộng sản xin trân trọng tiếp tục giới thiệu Bài đề dẫn của GS, TS Lê Hữu Nghĩa và Bài Tổng quan Hội thảo.
BÁO CÁO ĐỀ DẪN Lê Hữu Nghĩa 1 - Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI và thiên niên kỷ thứ ba, chủ nghĩa thực dân cũ đã bị sụp đổ, toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế khách quan tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới, song vấn đề dân tộc không vì thế mà giảm đi ý nghĩa của nó. Trái lại, nó ngày càng nổi lên như một vấn đề cấp bách, quan trọng của thời đại, đang thu hút sự quan tâm của tất cả các quốc gia. Độc lập dân tộc vẫn là một nội dung chủ yếu trong tiến trình phát triển của đa số các dân tộc, quốc gia, vẫn là mục tiêu lớn của thời đại; nhân tố dân tộc vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng trong thời đại. Tuy vậy, một nghịch lý là, nhân loại đang đứng trước một thực tế nghiệt ngã của những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc đẫm máu mà việc giải quyết chúng dường như vẫn còn bế tắc. Nói cụ thể hơn, vấn đề ly khai dân tộc và xung đột sắc tộc đang trở thành vấn đề nóng bỏng và hơn thế, trở thành cơn ác mộng thường trực, khiến cộng đồng quốc tế phải hết sức quan tâm và lo ngại. Chủ nghĩa ly khai dân tộc đang có xu hướng gia tăng. Chủ nghĩa dân tộc, theo nghĩa tích cực, là trào lưu hướng đến đấu tranh đòi quyền tự quyết dân tộc và quyền bình đẳng dân tộc, chống lại sự nô dịch, ép buộc của các dân tộc lớn; là sự trỗi dậy của ý thức tộc người, sự thoát khỏi tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc và chống lại tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan. Song, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và cùng với nó là chủ nghĩa ly khai dân tộc lại là trào lưu tạo ra sự chia rẽ, kỳ thị dân tộc; khoét sâu và cố tình khơi dậy sự bất hòa, kích động lòng hận thù giữa các dân tộc; thổi phồng sự tự cao, tự đại quá khích về lịch sử dân tộc mình, dòng giống mình. Hậu quả mà đỉnh cao của nó là xung đột dân tộc, chiến tranh sắc tộc, là những cuộc nội chiến nhiều khi rất đẫm máu, được thể hiện dưới nhiều hình thức như chiến tranh quy mô lớn, vừa và nhỏ, chiến tranh du kích, bạo loạn lật đổ, tàn sát, khủng bố, gây rối, phá hoại... Ngày nay, các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ chủ quyền và độc lập dân tộc. Đây là phong trào đấu tranh chân chính, mang tính nhân văn cao cả, hoàn toàn khác về chất so với chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa ly khai dân tộc hiện nay. Tất nhiên, trước xu thế toàn cầu hóa, nhất là toàn cầu hóa về kinh tế, "chủ nghĩa dân tộc chân chính" theo nghĩa truyền thống không phải không nhận thấy vai trò mới của mình. Đó là cuộc đấu tranh ngày một sâu rộng của các quốc gia dân tộc đang phát triển chống lại các nước tư bản phát triển trong hàng loạt vấn đề như: sự chèn ép, bóc lột về kinh tế, sự đe dọa, gây ảnh hưởng về chính trị, sự lấn lướt, đồng hóa về văn hóa...
Trái ngược với xu hướng đoàn kết, hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa ly khai dân tộc hiện nay lại đi theo hướng của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vị kỷ: tự cô lập mình và tự tạo ra mâu thuẫn cho mình trong lòng một quốc gia đa dân tộc. Đặc biệt, đối với những quốc gia đa dân tộc "đang yên đang lành", vốn có lịch sử gắn bó lâu đời, hiện đang trên đà phát triển, có sự bình đẳng và hài hòa về lợi ích giữa các dân tộc, thì sự xuất hiện của chủ nghĩa ly khai dân tộc, của xung đột sắc tộc, quả là tai họa khủng khiếp. Bởi vì, nó không chỉ gây ra sự chia rẽ, hằn thù dân tộc, cảnh "đầu rơi máu chảy", "huynh đệ tương tàn", mà điều quan trọng hơn, còn phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội, cản trở lớn đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, không ít nơi trên thế giới đang xảy ra hoặc tiềm ẩn tình trạng đó. Dĩ nhiên, sự bùng nổ trào lưu ly khai dân tộc trên thế giới hiện nay, ngoài nguyên nhân bên trong (vấn đề lịch sử, những mâu thuẫn nội tại...), còn có nguyên nhân bên ngoài không kém phần quan trọng, đó là sự kích động, sự hỗ trợ, giúp đỡ của những thế lực hiếu chiến, phản động từ bên ngoài, với mục đích vụ lợi (buôn bán vũ khí, tăng sức ép...), can thiệp lật đổ, gây ảnh hưởng khu vực, hoặc phục vụ chính sách bá quyền, chiến lược toàn cầu... Điều đó đòi hỏi mỗi nhà nước, mỗi tổ chức quốc tế và toàn cộng đồng quốc tế phải có sự nỗ lực, sự phối hợp, sự hợp tác và đề ra được những chính sách, chương trình đúng đắn, thích hợp về vấn đề dân tộc và sắc tộc, nhằm nhanh chóng ngăn chặn sự bùng phát của chủ nghĩa ly khai dân tộc và sự tiềm ẩn của xung đột sắc tộc. 2 - Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Đối với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc luôn là vấn đề chiến lược quan trọng và cấp thiết. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rằng, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng Việt Nam. Trong Thư gửi Đại hội Các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plây Cu (tháng 4-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Sê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt... Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu giây liên lạc, hai là vì có kẻ xui giục để chia rẽ chúng ta. Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta... Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta" (1). Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn kịp thời đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc. Ngay từ Đại hội II (năm 1951), Đảng ta đã chỉ rõ: "Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành động gây hằn thù, chia rẽ giữa các dân tộc" (2). Sau đó, trong tất cả các kỳ đại hội, Đảng ta đều đưa ra đường lối, chủ trương về
việc thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, nhằm tạo ra động lực và sức mạnh to lớn đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, thực hiện thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt, tại Đại hội IX, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới và kế thừa những chủ trương, quan điểm của các kỳ đại hội trước về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc, Đảng ta khẳng định: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển... Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc" (3). Điều đặc biệt nữa là, gần đây, tại Hội nghị Trung ương 7, khóa IX, Đảng ta ra hai nghị quyết liên quan trực tiếp đến vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Đó là Nghị quyết Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và Nghị quyết Về công tác dân tộc. Tại hội nghị này, trên cơ sở nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và trong nước cũng như tầm quan trọng của công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta chỉ rõ: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Cần ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và kết cấu hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo. Trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng ta về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc, Nhà nước ta thường xuyên ban hành những chính sách, pháp luật phù hợp, khả thi trong việc thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, đặc biệt là những chính sách ưu tiên và đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Cho đến nay, ngoài một số điều của Hiến pháp xác định quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chúng ta có tới 26 luật, bộ luật và 3 pháp lệnh đề cập trực tiếp đến vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Đáng chú ý là, trong những năm gần đây, Chính phủ ta liên tục ra chỉ thị, nghị quyết, quyết nghị về đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mà gần đây nhất là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 135/1998/QĐ-TTg, ngày 31-7-1998, về Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi là Chương trình 135). 3 - Như vậy, trong mọi giai đoạn cách mạng, nhất là trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Thực tiễn đã chứng minh sự đúng đắn và nhất quán của những đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Nhờ đó, chúng ta luôn có được khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc. Động lực và sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã làm nên hết thắng lợi vẻ vang này đến thắng lợi vẻ vang khác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. Đặc biệt, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, chúng ta đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Về kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi đang từng bước chuyển dịch theo cơ chế thị trường với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế có sự chuyển biến nhanh chóng và tích cực: So với năm 1990, hiện nay, tỷ trọng nông, lâm nghiệp giảm từ 76% xuống còn 56,3%; tỷ trọng công nghiệp, xây dựng tăng từ 9% lên 18,4%; tỷ trọng dịch vụ tăng từ 15% lên 25,3%. Trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các tỉnh miền núi luôn đạt mức khá; riêng tốc độ tăng trưởng công nghiệp trung bình hằng năm đạt từ 15 - 20%, cao hơn mức trung bình của cả nước. Đáng chú ý là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân ở nhiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi được cải thiện rõ rệt. Tính đến nay, 100% số huyện miền núi vùng cao xây dựng được đường ôtô, trong đó có 97,12% số xã có đường ôtô đến trung tâm xã; 98% số huyện và 64% số xã có điện lưới quốc gia; 90% số xã được phủ sóng phát thanh và 75% số xã được phủ sóng truyền hình. Công tác xóa đói giảm nghèo đem lại hiệu quả thiết thực: ở thời điểm hiện nay, bình quân số hộ thuộc diện xóa đói giảm nghèo xuống dưới mức 30%. Về văn hóa - giáo dục. Văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được giữ gìn và phát huy. Chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ được thực hiện rộng khắp và triệt để. Hệ thống trạm y tế được xây dựng xuống tận cơ sở; việc khám, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo được quan tâm thường xuyên. Tính đến nay, 100% số xã có trường tiểu học; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt từ 85 đến 90%. Hầu hết các xã có trạm y tế (gần 100%), trong đó 83% số trạm được xây dựng kiên cố và 69% số trạm có đủ trang thiết bị. Về hệ thống chính trị và quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Hệ thống chính trị từng bước được tăng cường, củng cố và vững mạnh. Đặc biệt, hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng được quan tâm nhiều hơn và có sự chuyển biến tích cực hơn; vai trò của già làng, trưởng bản được coi trọng và phát huy. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và tiếp tục được củng cố. Nhờ vậy, những âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động được phát hiện kịp thời và xử lý có kết quả. Bên cạnh những thành tựu nói trên, chúng ta cũng còn những yếu kém, hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân tộc:
Thứ nhất, kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn chậm phát triển và gặp rất nhiều khó khăn trong việc hòa nhập với nền kinh tế thị trường của cả nước. Sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt là giữa các vùng đó và các vùng đồng bằng, còn khá cao. Ở một số nơi, tình trạng du canh, du cư, di cư tự do vẫn còn diễn ra thường xuyên và có những diễn biến phức tạp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn rất thấp kém, chưa được đầu tư phát triển kịp thời và thoả đáng. ở nhiều nơi, tỷ lệ đói nghèo còn khá cao, thậm chí rất cao. Thứ hai, ở nhiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trình độ phát triển văn hóa giáo dục còn thấp so với trình độ phát triển chung của cả nước. Công tác giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nghề, chưa được quan tâm thích đáng, ít mang tính xã hội hóa và chưa có sự đa dạng về hình thức, mô hình. Đời sống văn hóa, nghệ thuật của nhân dân còn thấp kém. Một số tập quán lạc hậu trong cưới xin, ma chay, lễ hội... có xu hướng gia tăng. Bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp, nhất là tiếng nói và chữ viết, ít được quan tâm gìn giữ, bảo tồn. Thứ ba, hệ thống chính trị cơ sở ở nhiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn yếu kém. Cụ thể là, trình độ văn hóa, lý luận và chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế: Không ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của chính sách dân tộc, công tác dân tộc trong tình hình mới; chưa tích cực, chủ động tổ chức, vận động nhân dân phát huy tinh thần đoàn kết và khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Ở không ít nơi, sự chỉ đạo, quản lý của cán bộ chính quyền chủ yếu dựa vào lòng nhiệt tình và thói quen, kinh nghiệm, chưa bám sát đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thứ tư, ở một số vùng dân tộc thiểu số và miền núi, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội chưa được củng cố vững chắc và bị buông lỏng, còn tiềm ẩn sự mất ổn định. Khi xảy ra những vụ việc vi phạm, phá hoại an ninh, trật tự an toàn xã hội, chưa có biện pháp đối phó thích hợp, còn thụ động, ỷ lại, trông chờ vào cấp trên. Sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội chưa thật sự gắn với quốc phòng, an ninh. Thứ năm, ở một số vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, lợi dụng địa hình phức tạp, rộng lớn và sự thiếu hiểu biết của nhân dân, các thế lực thù địch ra sức thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình". Một trong những âm mưu đó là, lợi dụng các vấn đề dân tộc, nhân quyền và tôn giáo để tạo ra sự hằn thù, chia rẽ dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, xã hội. Ở một số nơi, tôn giáo phát triển phức tạp, không bình thường, trái với pháp luật và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân. Chẳng hạn, đạo Vàng Chứ ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tin lành Đề Ga ở các tỉnh Tây Nguyên. Sự phát triển phức tạp, không bình thường của tôn giáo ở
một số nơi phần lớn là do âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch gây nên. 4 - Tại cuộc Hội thảo này, trên cơ sở làm rõ những thành tựu và những hạn chế, yếu kém của việc thực hiện chính sách dân tộc, chúng ta cần có những đề xuất mới nhằm góp phần vào việc bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Trước mắt, chúng ta cần hướng vào những vấn đề chủ yếu sau: - Tại sao kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn chậm phát triển, vẫn chưa thật sự hoà nhập với nền kinh tế hàng hóa? Làm thế nào để nâng cao chất lượng sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm một cách thuận lợi, nhanh chóng? - Làm thế nào để cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu ngành kinh tế nói riêng ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi có sự chuyển biến tích cực hơn nữa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa? Tại sao kinh tế lâm nghiệp, đáng lẽ là thế mạnh của các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, lại phát triển chậm? Cần có chính sách đối với phát triển lâm nghiệp như thế nào để đồng bào các dân tộc gắn với rừng hơn nữa? - Cần làm gì để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng du canh, du cư, di cư tự do hiện đang còn diễn ra ở nhiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi? Làm thế nào để kết hợp hài hòa giữa việc thực hiện nghiêm chỉnh Luật Đất đai với việc tôn trọng tập quán sử dụng đất đai của đồng bào các dân tộc thiểu số? - Chính sách đầu tư nên như thế nào để phát triển và nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở một số vùng cao, vùng sâu, vùng xa hiện đang còn rất thấp kém? - Làm thế nào để chương trình xóa đói giảm nghèo đem lại hiệu quả thiết thực hơn nữa? Tại sao tỷ lệ đói nghèo ở nhiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn cao, thậm chí rất cao (68% số hộ ở một số xã, huyện thuộc các tỉnh Tây Bắc, 51% số hộ ở một số xã, huyện thuộc các tỉnh Tây Nguyên)? Nguyên nhân là do khâu tổ chức thực hiện hay là do sự đầu tư của Nhà nước còn thấp?... Tựu trung lại, mục đích của Hội thảo là: Thứ nhất, làm rõ những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Thứ hai, phân tích thực trạng vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta trong những năm gần đây. Thứ ba, đề xuất những giải pháp quan trọng và cấp thiết nhằm thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc ở nước ta trong thời gian tới. Với mục đích như vậy, Hội thảo cần tập trung làm rõ một số vấn đề chủ yếu sau:
a - Vị trí chiến lược quan trọng của vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. b - Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường, kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. c - Đẩy mạnh sự phát triển toàn diện (chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh....); gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề văn hóa, xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. d - Phát triển kinh tế thị trường ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi - thực trạng và giải pháp. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. đ - Thực trạng đói nghèo, công tác xóa đói giảm nghèo và việc thực hiện chính sách công bằng xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. e - Thực trạng đất đai, quản lý đất đai ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Chính sách phân bổ dân cư, nguồn nhân lực ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. g - Bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tình hình thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và các giải pháp đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. h - Giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. i - Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh; giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. k - Ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị - xã hội. Thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng, tôn giáo ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Hy vọng, qua Hội thảo này, với sự thảo luận, tranh luận sôi nổi, cởi mở và nghiêm túc của các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học, chúng ta sẽ thu được nhiều ý
kiến đóng góp quý báu nhằm góp phần giải quyết vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay.