Ban Chat Nho Giao

  • Uploaded by: pvttinh
  • 0
  • 0
  • May 2020
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Ban Chat Nho Giao as PDF for free.

More details

  • Words: 2,199
  • Pages: 4
TÌM HIỂU BẢN CHẤT NHO GIÁO VIỆT NAM JOHN KREMERS WHITMORE* Vào cuối thế kỷ 20 nhìn lại lịch sử vấn đề, chúng ta cần đặt câu hỏi: thế nào là bản chất Nho học Việt Nam trong suốt năm trăm năm qua? Theo tôi biết thì câu hỏi này ít khi được đặt ra và hẳn là chưa được trả lời ở nước ngoài, đây là một câu hỏi thiết yếu. Trước hết là cho ta hiểu biết rõ hơn về bản chất của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn Trung Cận Đại, và sau đó là cho việc đẩy mạnh nghiên cứu so sánh Triết học Á Đông. Sau đây xin nêu ra vài cứ liệu và vấn đề liên quan đến bản chất này. Điểm xuất phát của tôi là hai bộ thư mục về các thư tịch quan yếu của Việt Nam thời Trung Cận Đại, một do Lê Quý Đôn soạn vào giữa thế kỷ 18 và một do Phan Huy Chú soạn sau đó hơn năm mươi năm. Hai nhà lỗi lạc này đã cung cấp cho chúng ta những thông tin về cái mà họ cho là di sản học thuật của tiền nhân. Theo ấn tượng chủ yếu của tôi về hai bộ thư mục này thì từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, người Việt Nam thời Trung Cận Đại đã tiếp cận tư tưởng Nho giáo với một cung cấp ứng dụng và thực nghiệm, ít mang tính suy gẫm và triết luận. Cung cấp này tỏ ra rất khác biệt với các phương thức tiếp cận và các cuộc tranh luận đương thời về chính vấn đề bản chất Nho học ở những nước Á Đông khác như Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Ở Trung Quốc thì ta thấy có học thuyết của Vương Dương Minh, rồi sau đó là cuộc tranh cãi của hai phái Cổ Văn và Kim Văn vào thế kỷ 18. Ở Triều Tiên đã xảy ra cuộc tranh luận nổi tiếng về Tứ Tượng và Thất Tinh giữa hai học phái của Yi T’oegye và Yi Yulgok vào thế kỷ 16. Nhật Bản thời Mạc Phủ Đức Xuyên (Tokugawa) cũng từng tranh cãi sôi nổi về Nho học và về tương quan giữa lý và khí. Ta có thể rút ra những nhận xét gì về Việt Nam thời bấy giờ khi điểm qua các tác phẩm được liệt kê trong hai thư mục này? Bộ thư mục thứ nhất mang tên Nghệ Văn Chí, do Lê Quý Đôn soạn, là một danh mục rất ít chi tiết, được chia thành bốn phần, và xếp chung vào bộ Đại Việt Thông Sử là một tác phẩm còn dang dở lúc thiếu thời của Oâng. Phần thứ nhất là Hiến Chương với 16 mục bao gồm các thư tịch về chính thể, luật lệ, hành chính, địa đồ. Phần thứ hai là Thi Văn với 67 mục. Phần ba là truyện ký với 19 mục phần lớn về các chủ đề lịch sử, ký sự và các tư liệu tạp nhạp khác. Phần thứ tư là Phương Kỹ với 14 mục về các tín ngưỡng và phương thuật khác nhau, chẳng hạn như Phật giáo, địa lý, phong thuỷ, v.v… Trong tổng số 116 tên sách, không có cuốn nào có vẻ là bàn luận chủ yếu về triết thuyết Nho gia. Phan Huy Chú thì xếp bộ thư mục mang tên Văn Tịch Chí vào bộ thư mục mang tên Văn Tịch Chí vào bộ bách khoa thư Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí đồ sộ mà ông đã soạn thảo như là tổng luận về nền văn hoá sĩ phu Bắc Hà để dâng lên cho triều Nguyễn xem xét (và thực tế là không trọng

dụng). Ở đây cũng chia ra làm bốn phần, nhưng tổ chức có hơi khác, và thư mục này có thêm nhiều chi tiết ghi chú về mỗi mục sách. Phần thứ nhất, cũng giống như Lê Quý Đôn vì ông đã soạn thảo nó lúc thiếu thời vào năm 1949, trước khi các tác phẩm Nho học (kể cả các sách của chính Lê Quý Đôn) có tên trong Văn Tịch Chí của Phan Huy Chú ra đời. Còn bản thân Phan Huy Chú thì không dành phần nào khác trong trước tác của mình, ngoài Văn Tịch Chí, để bàn về Triết học. Bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của ông thì lại tập trung chủ yếu về các vấn đề thực dụng của thuật trị quốc và sinh hoạt xã hội. Chính vĩ lẽ này mà tôi nghĩ rằng cách tiếp cận của Việt Nam thời Trung Cận Đại đối với Nho học chủ yếu là mang tính thực dụng hơn là mang tính lý thuyết hay Triết học. Như đã nêu trên, Phan Huy Chú đã tổng hợp hộ cho một triều đình hờ hững những thành tựu hàng bốn trăm năm qua của giới sĩ phu Bắc hà đồng đạo với ông. Phan Huy Chú ở cương vị rất tốt để thực hiện việc này. Trước tác của ông bao gồm không chỉ thành tựu của giới sĩ phu nói chung, nhưng cả những thành tựu của gia đình bên nội và bên ngoại của ông là hai dòng họ Phan Huy và Ngô Thì, những dòng họ phu lớn đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Các người ông (trong đó có danh Nho Ngô Thì Sĩ), cha và chú bác của ông là những sĩ phu đã đóng vai trò quan trọng trong suốt lịch sử đầy biến động của thế kỷ 18, và gia đình mỗi bên đều có những người có chính kiến đối lập nhau, kẻ thì phò Lê người thì theo Nguyễn, trong thời Tây Sơn vào phần cuối của thế kỷ. Với tác phẩm này là tập đại thành quan tâm của giới sĩ phu thời Cận đại của việt Nam, ta hãy thử xét qua nội dung của nó. Phan Huy Chú chia tác phẩm của mình làm mười phần, với tổng số là 49 chương. Tác phẩm mở đầu với phần Dư Địa Chí nói về địa lý và cơ cấu cấp tỉnh của đất nước. Tiếp theo đó là phần Nhân Vật Chí, được chia thành nhiều nhóm (một trong số đó viết về 29 vị sĩ phu), rồi các phần Quan Chức Chí, Lễ Nghi Chí và Khoa Music Chí. Sau các phần này là một phần độc đáo mang tên Quốc Dụng Chí nói về tài nguyên thiên nhiên, rồi đến các phần Hình Luật Chí, Binh Chế Chí, Văn Tịch Chí và Bang Giao Chí. Bộ bách khoa thư này quả là một chứng tích vĩ đại cho tất cả các thế hệ sĩ phu đi trước đã nổ lực đưa chính quyền và xã hội Việt Nam đến một khuôn mẫu tổ chức Hán hoá hiện đại. Công trình này đã cho thấy rất rõ việc triển khai một thể thức chính quyền có khả năng tận dụng các tài nguyên thiên nhiên và nhân lực của đất nước, và đưa nhân dân Việt Nam đến một cung cách sinh hoạt và ứng xử hoàn thiện hơn. Những sĩ phu này có vẻ như chấp nhận Nho học theo dạng chính thống của thời Minh- Thanh bên Trung Quốc, với mục đích xác định là đem kỷ cương về cho chính quyền và nhân dân, và đem lại giàu mạnh đến với đất

nước của họ. Họ có vẻ như chẳng đặt vấn đề sâu sắc gì về bản chất của hệ tư tưởng mà họ đã vay mượn, ít ra là cho đến nữa sau của thế kỷ 18, và nguồn sách vở này còn cần được nghiên cứu thêm. Có thể các tập thơ ca ít nhiều cũng có đặt vấn đề về Nho học, nhưng ta cũng cần tìm hiểu thêm về điều này. Mặc dù vương triều Nguyễn đã làm ngơ trước tập đại thành này về kinh nghiệm của giới sĩ phu Bắc hà, ta cũng thấy rằng vào thế kỷ 19 thì lịch sử Việt Nam cũng không mang đậm hơn khuynh hướng Triết học. Vương triều Nguyễn với nền tảng Nam hà của nó có vẻ như muốn học hỏi khuôn mẫu Trung Hoa trực tiếp từ Trung Quốc hơn là gián tiếp qua giới sĩ phu Bắc hà của những thế kỷ trước. Mặc dù đây là lần đầu tiên kể từ thế kỷ 15 mà các nhà vua sốt sắng tham gia vào nỗ lực của giới sĩ phu, nhưng triều đình vẫn tiếp tục tập trung vào các mối quan tâm thực dụng và mang tính lịch sử hơn là mang tính triết học. Các sách vở do triều đình biên soạn và ban hành chủ yếu là các văn kiện hành chính và các tổng tập về lịch sử và địa dư. Một lần nữa các chức năng thực dụng và thực nghiệm chiếm ưu thế. Có lẽ những bàn luận về triết học đã xảy ra trong khuôn khổ riêng tư và cá nhân hơn. Một khi giới thượng lưu Việt Nam đã sa chân vào chế độ Pháp thuộc và bị tước đoạt mất vai trò chính trị đáng kể, thì một số người bắt đầu dùng văn hoá để ứng đối và quay về với khuôn mẫu Trung Hoa. Qua đó những phần tử thượng lưu này vừa tác mình ra khỏi những kể thống trị vừa xách định thẩm quyền riêng đối với xã hội của mình. Một phần lớn nỗ lực này có liên quan đến việc xét lại Nho học xem có thể giúp ích gì cho xã hội Việt Nam đương thời không. Trong khi người Việt Nam chuyển dần từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ La Tinh thì các nhà Nho Việt Nam lại đẩy mạnh nghiên cứu về Nho học. Một trong những cuốn sách cuối cùng được viết bằng chữ Hán hẳn phải là nổ lực của Lê Văn Ngữ tìm hiểu về sách Trung Dung, một trong Tứ Thư của Tống Nho, được viết vào năm Khải Định thứ hai (1919). Sau đó không lâu, trong thập niên 1920, đã ra đời công trình lớn về Nho giáo của Trần Trọng Kim, với nộu dung gần như toàn bộ dành cho tiến trình của Nho học ở chính Trung Quốc, và chỉ có một phần ngắn ở cuối bàn về Việt Nam mà thôi. Trong khi người ta có vẻ quan tâm và bàn luận rầm rộ hơn về bản chất của Nho học Việt Nam, mục đích chính của họ cũng vẫn và lại là làm sao để uốn nắn xã hội Việt Nam. Mặc dù mục đích củng cố vương quyền của giới sĩ phu xưa kia đã bị gạt sang bên, lý tưởng cải hoá xã hội lại trở thành quan trọng hơn bao giờ hết. Hẳn là Phạm Quỳnh đã theo đuổi mục đích này qua tờ Nam Phong tạp chí cũng như qua các bài viết và diễn thuyết của mình trong bối cảnh thuộc địa. Chủ nghĩa dân tộc trong văn hoá của giới thượng lưu

Việt Nam Pháp thuộc này đã cố gắng lập cho mình chỗ đứng đối với cả người Pháp lẫn người bản xứ. Di sản của nền học thuật thời Pháp thuộc này còn kéo dài đến thời kỳ hậu thuộc địa. Chính quyền Bảo Đại (1948-1955) và sau đó là Việt Nam cộng hoà (1955-1975) đã đem chủ nghĩa truyền thống mới của Nho học Việt Nam này vào chính sách giáo dục với mục đích tạo dựng cho mình một tư thế văn hoá có thẩm quyền để chống đỡ với tác động của một bên là sự lấn át từ phương Tây và bên kia là thách đố của chủ nghĩa Cộng sản. Rõ ràng là nỗ lực này đã thất bại vì thiếu một hệ tư tưởng khả thi. Vậy thì chúng ta có thể nói gì về di sản Nho học của Việt Nam vào cuối thế kỷ 20? Không còn thắc mắc gì khi nó đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam, tuy rằng vẫn khó xác định được là vào khi nào và như thế nào. Hẳn là Nho học của năm trăm năm qua ở Việt Nam đã mang tính thực dụng chứ không phải chất vấn là chủ yếu trong công cuốc kiến thiết một hệ thống chính quyền vững mạnh và đào sâu ý thức đạo đức ở nhân dân. Theo tôi biết thì khác với những nơi khác ở Á Đông, Việt Nam đã ít tranh cãi về bản chất của nền Nho học này. Có lẽ đây chỉ là vài nhận xét mang tính ấn tượng cá nhân, và tôi mong sẽ được các bậc thức giả chỉ giáo thêm. Trong quá trình phát triển Nho học ở Việt Nam, đã khi nào ta thấy có một thời điểm hay giai đoạn chất vấn, bàn luận, và tranh cãi mang tính triết học hay chưa?

Related Documents

Ban Chat Nho Giao
May 2020 8
Tu Tuong Nho Giao
June 2020 7
Nho
November 2019 17
Nho
July 2020 12

More Documents from ""