GIỚI THIỆU CHUNG Đất nước Việt Nam trải dài từ Bắc đến Nam với diện tích khoảng 330.000km 2. Là đất nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú, đất đai màu mỡ, địa hình đa dạng, có tiềm năng kinh tế biển. Cùng với truyền thống người dân bao đời cần cù lao động, đất nước Việt Nam đang từng ngày từng giờ thay da đổi thịt. Hiện nay Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trên thế giới. Tuy nhiên, với dân số khoảng 80 triệu người, Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn về tài nguyên thiên nhiên và môi trường, các hệ sinh thái đang suy thoái ở mức độ nghiêm trọng. Chính sách đổi mới đã đem lại bộ mặt mới cho nền kinh tế Việt Nam . Tuy nhiên, với tiến trình gia tăng dân số, thâm canh nông nghiệp, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá đang ảnh hưởng lớn đối với môi trường, với khai thác tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển và các dạng tài nguyên khác. Làm thế nào để phát triển bền vững, ổn định tối đa nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên và đa dạng sinh học, đang là vấn đề cấp thiết đặt ra. Trong đó vấn đề rác thải và xử lý rác thải, đặc biệt là chất thải rắn, sao cho hiệu quả chính là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm nhất hiện nay. Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài tiểu luận này, chúng tôi xin được tóm tắt sơ lược về tình hình rác thải ở Việt Nam, đồng thời nêu lên một số giải pháp khả thi để giải quyết vấn đề này. Trong các giải pháp mà chúng tôi nêu ra, có một phần là kinh nghiệm xử lý rác thải tại các nước phát triển như: Australia, Singapore,… ; một phần là sự tổng hợp của chúng tôi về các giải pháp đã được áp dụng và mang lại thành công ở nước ta, và phần còn lại là những đề xuất của bản thân để góp phần giải quyết vấn đề này. Trong đó giải pháp được chúng tôi xoáy sâu nhất là việc nâng cao nhận thức trong dân chúng về vấn đề hạn chế ô nhiễm môi trường, đặc biệt là công tác phân loại rác thải tại nguồn. Bài viết gồm 2 phần chính: Phần 1 nói về thục trạng rác thải ở Việt Nam, nguyên nhân cũng như hậu quả của vấn đề này Phần 2 đề cập đến các biện pháp tương đối khả thi và phù hợp với tình hình của Việt Nam. Mong rằng bài tiểu luận sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn tương đối rõ hơn về vấn đề rác thải của Việt Nam hiện nay.
Trang 1
PHẦN I: THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ RÁC THẢI Ở VIỆT NAM Vấn đề ô nhiễm môi trường là một thách thức ngày càng to lớn không chỉ với Việt Nam mà còn với cả nhân loại. Việt Nam vẫn tiếp cận chậm đối với vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường nói chung và xử lý rác thải, chất thải rắn nói riêng. Tuy Chính phủ và các bộ, ngành ngày càng quan tâm nhiều hơn và tăng cường đầu tư trong lĩnh vực xử lý rác thải nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.Theo những báo cáo gần đây của các cơ quan chức năng thì mỗi năm Việt Nam sản sinh trên 15 triệu tấn chất thải rắn, tức là trung bình mỗi người xả ra gần 2 tạ rác, trong đó phần lớn không được tiêu hủy an toàn. Chất thải rắn tập chung chủ yếu ở các đô thị. Vùng này có dân số chỉ chiếm 24% dân số của cả nước, nhưng lại phát sinh đến hơn 6 triệu tấn rác mỗi năm, bằng một nửa tổng lượng chất thải sinh hoạt của cả nước. Đồng thời, các chất thải ở đây cũng có thành phần nguy hại hơn, như pin, dung môi, nhựa, kim loại, thuỷ tinh..., là những thứ độc hại và khó phân huỷ. Dự báo đến năm 2010, sẽ có thêm khoảng 10 triệu cư dân sống trong các vùng đô thị, kéo theo sự gia tăng 60% chất thải sinh hoạt, còn chất thải nguy hại (như chất thải bệnh viện, công nghiệp và sử dụng thuốc trừ sâu) tăng lên 3 lần. Lượng rác thải phát sinh không ngừng tăng lên, song việc thu gom vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn, khối lượng xử lý thì hầu như không đáng kể. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, chỉ có gần 3/4 lượng rác thải ở các đô thị được thu gom, và 1/5 ở nông thôn. Trong số 91 điểm tiêu hủy rác của cả nước, chỉ có 17 bãi rác là hợp vệ sinh, số còn lại thường là lộ thiên, gây ô nhiễm nghiêm trọng đất, nước mặt và nước ngầm. Các lò đốt rác thải y tế có công suất đủ để tiêu huỷ khoảng một nửa số rác thải y tế nguy hại trên cả nước, song do thiếu kinh phí vận hành và bảo dưỡng, các lò đốt này được hoạt động không đúng quy trình, làm tăng nguy cơ phát thải các khí dioxin và furan độc hại.Đống rác khổng lồ này đang là nguy cơ đe dọa lớn với sức khoẻ cộng đồng và môi trường. Không những vậy, với đà phát triển nhanh của nền kinh tế nước ta như trong thời gian vừa qua mà chúng ta không nhanh chóng đưa ra được những giải pháp hợp lý, thì có thể tin chắc rằng trong thời gian không xa, Việt Nam sẽ trở thành một bãi rác lớn. Mọi ngành, mọi nhà thải ra chất độc Đầu tiên là các cơ sở công nghiệp hoá chất, sản xuất thuốc trừ sâu, phân bón và khai thác chế biến khoáng sản thải ra cyanua vượt quá tiêu chuẩn cho phép hơn 80 lần còn H2S gấp 4 lần. Tiếp đến là các cơ sở dệt may, cơ sở công nghiệp giấy, với nước thải có độ kiềm cao (độ PH 9 – 11), chứa nhiều kim loại nặng, chất hữu cơ đa vòng thơm chứa Clo độc hại rất khó phân huỷ trong môi trường tự nhiên. Loại nước thải này có chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD) có thể lên tới 700 mg/l và nhu cầu ôxy hoá học (COD) cao tới 2.500 mg/l, có thể gấp 17 lần tiêu chuẩn cho phép, thường không được xử lý trước khi đổ vào sông. phát triển kinh tế chưa dung hoà với bảo vệ môi trường. Ông Phùng Văn Vui, Chánh Thanh tra Cục Bảo vệ Môi trường “cụ thể hoá” rằng: “Cứ 4 đơn vị sản xuất thì có 1 cơ sở vi phạm”. Theo đúng luật thì nhiều nhà máy sẽ phải đóng cửa từ lâu, ví dụ như Gang thép Thái Nguyên. Nước thải của nhà Trang 2
máy này chứa nhiều phenon, kim loại nặng, NH4 (30 mg/l), các hợp chất hữu cơ (120 mg/l), làm ô nhiễm sông Cầu nghiêm trọng, nhất là vào lúc không phải là mùa lũ trong năm. Nước thải bẩn đổ vào sông là tình trạng phổ biến ở các đô thị, nghiêm trọng nhất là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một số cơ sở chế biến thực phẩm và giết mổ gia súc không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh lại bị quá tải lâu nay. Ở Hà Nội, 62 cơ sở giết mổ gia súc (37 cơ sở giết mổ lợn, còn lại là giết mổ trâu, bò) thì có 6 cơ sở tư nhân, tất cả số này dù đã có đầu tư nâng cấp nhà xưởng, bể chứa và đường ống nước, nhưng vẫn không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và đều giết mổ thủ công. Chỉ có một cơ sở duy nhất tại Công ty chế biến thực phẩm Lương Yên là có hệ thống nhà xưởng máy móc giết mổ hoàn chỉnh. Chất thải từ quá trình giết mổ ở các cơ sở tư nhân đều chảy thẳng ra cống thoát nước thành phố, bể phốt là thứ hiếm hoi ở các lò mổ này. Vì thế, dù được nhân viên thú y kiểm định, không thể đảm bảo thịt đưa ra thị trường đủ tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Thực chất các lò mổ này hiện nay chỉ là điểm “thu gom” các lò mổ tự phát, nhỏ lẻ để cơ quan thú y dễ kiểm dịch hơn mà thôi. Bỏ ra hơn 5 tỷ đồng để đầu tư cho mỗi lò mổ hiện đại được “cơ giới hoá” là điều mới nằm trong trong “kế hoạch". Lò mổ “tự phát” tại nông thôn thì sao? Làng nào cũng có vài hộ gia đình làm nghề “hàng dát”. Tất nhiên, chất thải từ giết mổ thường chảy xuống ao, cũng như mọi loại chất thải sinh hoạt khác. Ao vẫn là nơi rửa bát, rửa rau, giặt chăn chiếu ở nhiều vùng nông thôn. Thuốc trừ sâu bị sử dụng bừa bãi, các loại bao túi đựng thuốc trừ sâu vương vãi bên bờ ruộng, cạnh đường làng... nhiều nơi. Và cá, tôm dưới ao nước bẩn cũng sẽ bị nhiễm bẩn. Còn tại Hà Nội, nơi ao đã bị lấp hầu hết, các hồ đều là nơi “chứa tạm” nước cống và chống ngập lụt cho thành phố. Nhưng cá nuôi ở Hồ Tây (hồ ít ô nhiễm nhất) bán vẫn rất chạy, xí nghiệp nuôi cá Hồ Tây ăn nên làm ra, đồng thời dân quanh hồ không ít người đang kiếm sống bằng cách câu cá trộm. Trai, ốc tại các hồ ao ô nhiễm của Hà Nội cũng tiêu thụ tốt. Dịch bệnh ở tôm nuôi tại các địa phương rộ lên gần đây như Long An và nhiều tỉnh miền Trung có nguyên nhân mấu chốt là môi trường nơi nuôi tôm đã bị ô nhiễm. Các loại nghề thủ công vừa phát đạt lại đã ô nhiễm, có thể kể đến làng gốm sứ Bát Tràng, các làng sơn mài ở Hà Tây, đồ gỗ Đồng Kỵ, làng rèn Vân Chàng... Bất cập ngay từ cách thức thu gom rác Thủ công là từ có thể dùng khái quát hoạt động thu gom rác ở Hà Nội. Bây giờ ra đường ai nấy đều sợ gặp công nhân quét rác đang làm việc. Nhất là vào giờ tan tầm, những chiếc chổi cứ lia trên đường, “khuấy động” một lượng bụi không nhỏ vào không khí. Có lẽ người ta quên mất khâu quan trọng là phun nước trước và sau khi quét. Số lượng xe phun nước quá ít ỏi, chỉ hoạt động chủ yếu vào những ngày lễ lớn, dịp tết... Bụi, rác quá nhiều, việc chỉ quét đường, thu gom rác vào đêm khuya hay sáng sớm như những năm trước nay không còn thích hợp. Hà Nội bây giờ có nhiều con đường mà mỗi khi có gió to là người dân hít bụi. Các đường vành đai như Minh Khai, Âu Cơ, đường nối với quốc lộ như đường Nguyễn Khoái - đê Hữu Hồng luôn có bụi mù mịt do nhiều ô tô qua lại. ý tưởng xây dựng các trạm kiểm tra tải trọng xe, kết hợp với làm vệ sinh và rửa xe trước khi vào thành phố đã không được cơ quan quản lý đô thị quan tâm. Và khi ra đường vài năm nay, điều người quan tâm nhất là đeo khẩu trang.
Trang 3
Hiện nay Hà Nội chỉ có cách dùng chổi, xẻng gom rác lên xe rồi đưa đến điểm tập kết. Từ đấy rác sẽ lên những chiếc ô tô tàng tàng chạy ra các bãi rác ngoại ô đợi chôn lấp. Rác thỉnh thoảng rơi từ những chiếc ô tô chuyên dụng ra đường. Các nhà máy tự thu gom rác thải công nghiệp của mình rồi vận chuyển ra bãi chôn tập trung. Hiện rất ít nhà máy có hệ thống xử lý rác thải riêng. Còn ở ngoại thành, người dân đổ rác bừa bãi mọi nơi có thể: đổ bên đường đi, bờ ruộng, xuống ao hồ. Khoảng 80% số hộ dân Hà Nội hiện nay sử dụng hố xí tự hoại, số còn lại sử dụng những loại “cổ điển” hơn và tất nhiên là gây ô nhiễm hơn. Hiện tại công ty Môi trường đô thị chỉ thu gom được 250/350 tấn “chất thải đặc biệt” này mỗi ngày, chuyển đến nhà máy chế biến phân vi sinh Cầu Diễn để “ủ” thành 700 tấn phân compost/năm. Cách xử lý rác phổ biến hiện nay Trên thế giới có 3 phương pháp xử lý rác chủ yếu là: thiêu đốt, ủ sinh học và chôn lấp. Tuy đảm bảo vệ sinh, gọn nhẹ nhưng chi phí lại cao, trang thiết bị rất đắt tiền nên phương pháp thiêu đốt không thích hợp với việc áp dụng đại trà ở Việt Nam. Phương pháp ủ sinh học chi phí đầu tư ban đầu thấp, nhưng nhược điểm là quy trình kéo dài 3 – 4 tháng, xử lý bãi nơi chôn lấp để ủ rác khó làm triệt để nên dễ gây thiệt hại tới môi trường. Cối cùng chỉ có cách chôn lấp là được sử dụng nhiều nhất. Cách này vừa dễ làm, vừa đỡ tốn kém nhưng lại có nhược điểm là không vệ sinh, làm ô nhiễm nguồn nước, các loại khí sản sinh khi rác phân huỷ gây ô nhiễm không khí và cháy nổ. 90% lượng rác thu gom ở Hà Nội sẽ được xử lý chôn lấp. Hiện nay hầu hết rác thải của Hà Nội được xử lý ở khu xử lý rác Nam Sơn (huyện Sóc Sơn) và ở Xí nghiệp chế biến rác Cầu Diễn với phương pháp vi sinh có công suất 30.000 m3/năm. Rác từ 36 bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện cấp trung ương và thành phố hiện nay được xử lý bằng phương pháp đốt. Khoảng 2/3 rác y tế được Công ty Môi trường đô thị thu gom và xử lý theo hợp đồng (gồm cả chất thải rắn y tế thông thường). Lượng rác y tế còn lại được công ty nghĩa trang xử lý một phần, còn thì các bệnh viện xử lý nốt tại chỗ. Năm 1999 thành phố đã đầu tư xây dựng một xưởng đốt rác y tế (công suất 3,2 tấn/ngày) nhưng chưa lúc nào đáp ứng nổi nhu cầu. Gần đây một số địa phương đã quan tâm hơn đến việc xử lý triệt để rác thải y tế, như tỉnh Hà Tây mới đây đã quyết định đầu tư 1,6 tỷ đồng xây dựng mới 4 lò đốt chất thải rắn y tế, thì Hà Nội vẫn còn dậm chân tại chỗ – một số lò đốt rác y tế trong các bệnh viện nếu có thì đã bị hư hỏng, hoặc tạo ra khí độc hại nên đã phải ngừng vận hành lâu nay. Ô nhiễm các bãi chứa rác Thực tế cho thấy các bãi chứa rác ở Hà Nội hầu hết nằm gần khu dân cư, thường là những bãi rác “thiên tạo” - các ao hồ bỏ hoang được sử dụng làm nơi chứa rác, không theo quy hoạch hay dựa trên một kết quả điều tra xã hội nào, và không được quản lý hiệu quả. Vì vậy các bãi này gây ô nhiễm đến đời sống dân cư, thậm chí là những ổ dịch bệnh. Số liệu thống kê thành phần rác được đưa đến bãi chôn lấp cho thấy 50% tổng số rác là rác hữu cơ, tỷ lệ nước trong rác loại này là 60-70%. Các bãi rác không được lấp đất thường xuyên, không được xử lý, nền bãi là nguyên nhân chính làm ô nhiễm, nước rác hoà với nước mưa thấm xuống mạch nước ngầm. Đây đó bãi rác của Hà Nội còn là nơi kiếm sống của nhiều người thất nghiệp, trẻ lang thang, không ai dám bảo đảm là sau vài tiếng bới rác kiếm sống ở đây, người bới rác mang những thứ kiếm được đến bán lại cho các chủ đầu mối phế liệu lại không “nhân tiện” mà phát tán luôn loại bệnh dịch nào đó.
Trang 4
Tiền chi nhiều nhưng môi trường vẫn ô nhiễm Theo số liệu từ Sở Giao thông Công chính, lượng rác thu gom ở thành phố Hồ Chí Minh bình quân ngày có trên 6.010 tấn, trong đó rác sinh hoạt là 4.936 tấn, rác xây dựng là 1.069 tấn và rác y tế là 5,5 tấn. Trong số này chưa có số chính thức về rác công nghiệp, nhưng tính sơ bộ cũng phải 1.000 tấn ngày, trong đó có khoảng 20% rác có tính chất độc hại. Lượng rác trong thành phố hàng ngày được giải quyết nhờ lực lượng quét dọn vệ sinh gồm 7.350 người, trong đó có 2950 người thuộc lực lượng tư nhân. Rác từ khu phố được chuyển ra đến điểm hẹn bằng xe đẩy tay, các xe cơ giới đến lấy rác chuyển về trạm trung chuyển rồi mới đưa đến khu xử lý rác. Vấn đề đau đầu nhất của thành phố là làm thế nào để có chỗ xử lý rác cho hợp vệ sinh, không ảnh hưởng đến khu vực dân cư đang sinh sống. Hiện nay thành phố đang sử dụng các bãi rác sau: bãi rác Đông Thạnh (huyện Hóc Môn) rộng 40 ha, cách trung tâm thành phố 26 km. Nơi đây xử lý toàn bộ lượng xà bần phát sinh của thành phố; bãi rác Gò Cát (huyện Bình Chánh) rộng 25 ha, cách trung tâm thành phố 16,4 km, xử lý rác sinh hoạt với công suất 2.000 tấn/ngày; bãi chôn rác Phước Hiệp (huyện Củ Chi) rộng 43,3 ha, cách trung tâm thành phố 45 km, hàng ngày xử lý 3.000 tấn rác sinh hoạt. Ngoài ra còn có 3 bãi rác nhỏ trên địa bàn huyện Bình Chánh, Cần Giờ, Củ Chi. Riêng số rác y tế có 9 xe chuyên dùng, hàng ngày chở rác ra lò gas ở trung tâm Bình Hưng Hoà để đốt. Phần rác trên kinh rạch do công ty môi trường đô thị và công ty dịch vụ công ích quận 8 thực hiện. Thời gian qua bằng nhiều nguồn kinh phí, thành phố đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng cho các dự án xử lý rác như: khu liên hợp xử lý chất rắn Tây Bắc thành phố để chôn rác, dự án này được thành phố đầu tư 215 tỷ đồng; dự án nâng cấp Công trường xử lý rác Gò Cát: 261,4 tỷ đồng, trong đó ngân sách thành phố chiếm 40%, nguồn ODA Hà Lan 60%. Ngoài ra tới đây còn chuẩn bị hàng ngàn tỷ đồng để hình thành các khu liên hợp xử lý chất rắn ở xã Phước Hiệp, xã Đa Phước (231,8 tỷ đồng) xã Tân Thành, Long An; xây dựng 2 nhà máy xử lý rác thành phân hữu cơ vi sinh ở xã Phước Hiệp, 2 dự án này do 2 công ty tư nhân đầu tư. Về công tác quét dọn, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải, hiện nay ngân sách thành phố thanh toán toàn bộ. Tổng kinh phí cho hoạt động quản lý chất thải năm 2002 là 235,3 tỷ đồng, trong đó kinh phí xử lý rác là 37,9 tỷ đồng. Việc thu phí thu gom rác là do công nhân vệ sinh quận, huyện và lực lượng quét rác tư nhân thực hiện. Khoản thu này chỉ để trang trải chi phí thu gom rác từ hộ dân chuyển đến điểm tập kết rác chuyển sang xe cơ giới của ngành vệ sinh, không nộp vào ngân sách thành phố. Tuy nhiên, theo đánh giá của Sở Giao thông Công chính thành phố thì tình hình chất lượng vệ sinh đô thị chưa tốt, việc xây dựng các hạng mục của bãi rác chưa đồng bộ, nước rỉ rác còn lưu lại nhiều trong các bãi chôn rác, ảnh hưởng đến sinh hoạt dân cư khu vực gần bãi rác. Bà Nguyễn Thị Bạch Vân ở Viện Kinh tế thành phố cho rằng, tình hình rác gây ô nhiễm như hiện nay là do công nghệ chôn lấp rác hiện nay quá lạc hậu. Xử lý rác như trên vừa mất vệ sinh vừa lãng phí khối lượng rác lớn có thể tái chế thành sản phẩm phục vụ nông nghiệp hoặc trong sinh hoạt như phân bón, gas, bao bì nhựa... nên có nhiều nhà máy sản xuất sản phẩm từ 98% lượng rác được chôn, để giải quyết được môi trường và đem lại hiệu quả kinh tế. Để giải quyết tốt vấn đề rác, Sở Giao thông thành phố đề nghị sớm hoàn tất các dự án đang dở dang, chọn lựa công nghệ xử lý nước rỉ rác thích hợp để đầu tư cho các bãi chôn rác, UBND thành
Trang 5
phố nên ban hành quy định về xử phạt vi phạm về vệ sinh môi trường, thực hiện thông tin và công khai các dự án xử lý rác để người dân tham gia đóng góp ý kiến. Tuy nhiên, theo ông Trưởng ban kinh tế ngân sách HĐND thành phố thì vấn đề giải quyết tốt việc xử lý rác không phải là vấn đề tài chính, chi nhiều tiền nhưng tổ chức thu gom, xử lý không tốt thì việc ô nhiễm môi trường vẫn còn tiếp tục. Theo ông, lực lượng thu gom rác tư nhân có những mặt tích cự mà các công ty môi trường đô thị khó đảm đương được, đồng thời cũng có những tiêu cực đối với người dân. Vấn đề là làm thế nào để hạn chế được hiện tượng tiêu cực ở lực lượng này, phát huy được tính tích cực thì việc giải quyết rác không còn là nỗi lo âu của các cấp lãnh đạo và người dân thành phố.
NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG NÀY Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, nguyên nhân chính dẫn đến hiện trạng trên chủ yếu là do: Nguyên nhân khách quan: ♦Việt Nam là một nước nghèo, xuất phát điểm về kinh tế rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, muốn vươn lên, đuổi kịp các nước phát triển, đòi hỏi chúng ta phải tập trung mở cửa nhanh nền kinh tế, đẩy nhanh công tác sản xuất. Và nó đồng nghĩa với việc chúng ta phải hy sinh rất nhiều trong đó có vấn đề tài nguyên và môi trường. ♦Mặt khác là một nước lạc hậu, trình độ công nghệ nhìn chung rất thấp kém, vì thế hiển nhiên, các công nghệ xử lý rác thải ở Việt Nam cũng không thể giải qyết được vấn đề rác thải ngày càng gia tăng. Nguyên nhân chủ quan: ♦Đầu tiên đó là sự thiếu ý thức của người dân: đa số chúng ta chưa có ý thức bảo vệ môi trường, tình trạng xả rác bừa bãi xảy ra thường xuyên. Ở mọi nơi, từ đường xá, sông, hồ, kênh, rạch,… đâu đâu cũng có thể bắt gặp rác thải sinh hoạt tràn lan. Ngoài ra, việc các hộ gia đình không phân loại rác trước tại nhà cũng gây nhiều khó khăn và tốn kém cho công tác xử lý rác thải… ♦Trách nhiệm tiếp theo thuộc về các doanh nghiệp. Vì quá đặt cao vấn đề lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp không ngại đẩy mạnh sản xuất và cũng không ngại hủy hoại môi trường xung quanh, đặt biệt là vấn đề chất thải độc hại chưa qua chế biến được thải đầy ra khu vực xung quanh gây nên những hậu quả vô cùng to lớn cho môi trường xung quanh. ♦Trách nhiệm của Nhà Nước và các cơ quan hữu quan: rất ít thấy trường hợp các cơ quan hữu quan phát hiện và xử lý các đơn vị vi phạm trong lĩnh vực ô nhiễm môi trường (hầu hết là do người dân phản ánh); việc xử lý cũng chưa thật sự nghiêm khắc đủ để những người vi phạm ý thức được việc làm của mình. Ngoài ra, các văn bản pháp quy của Nhà nước cũng còn nhiều bất cập mà khả năng phát huy tác dụng cũng rất thấp…
HẬU QUẢ CỦA VẤN ĐỀ: Trang 6
Những con số đáng sợ… Một kết quả phân tích gần đây của Trung tâm phân tích thí nghiệm TP.HCM cho thấy lượng benzen trong không khí tại các trục giao thông chính của thành phố đã lên đến mức báo động đỏ với nồng độ benzen trung bình là 33,6 micro gam/m3, cao gấp 6,72 lần tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới là 5 micro gam/m3. Các nhà khoa học cho rằng nếu dựa vào kết quả này thì nguy cơ mắc bệnh bạch cầu đối với những người luôn hít thở không khí tại TP.HCM có thể cao gấp 5,4 lần so với những khu vực khác. Điều đó cũng giải thích vì sao tại các bệnh viện chuyên ngành, số người mắc các loại bệnh ung thư luôn tăng ở cấp số cộng. Những chất nguy hại đến sức khỏe của con người này đang ngày càng nhiều thêm. Các nhà khoa học cũng dẫn ra một ví dụ: do việc xả thải vô trách nhiệm các dẫn xuất phenol có trong dầu hạt điều, 20 công nhân ngành vệ sinh môi trường đã bị bỏng khi nạo vét khai thông luồng lạch thoát nước ở một tuyến kênh hở thuộc địa bàn huyện Bình Chánh - TP.HCM. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng nhận định rằng: "Trên lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có rất nhiều dòng thải mà trong thành phần của chúng có chứa các chất nguy hại như các a-xít, ba-zơ, các kim loại nặng như Hg, Pb, Zn, Cr, Ni..., thuốc bảo vệ thực vật, dầu mỡ khoáng, vi trùng gây bệnh... Nếu các dòng thải này không được kiểm soát và quản lý tốt thì khả năng gây ô nhiễm, hủy hoại môi trường và nguồn nước là rất lớn". ….Và những nguy hại từ nó lên cộng đồng: Chất thải y tế bao gồm một lượng lớn chất thải nói chung và một lượng nhỏ hơn các chất thải có tính nguy cơ cao. Chất thải y tế có thể tạo nên những mối nguy cơ cho sức khỏe con người. Việc tiếp xúc với các chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thương. Đó là do trong chất thải y tế có thể chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm, chất độc hại, các loại hóa chất và dược phẩm nguy hiểm, các chất thải phóng xạ, các vật sắc nhọn... Các nguy cơ từ chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn: Các vật thể trong thành phần của chất thải rắn y tế có thể chứa đựng một lượng rất lớn bất kỳ tác nhân vi sinh vật bệnh truyền nhiễm nào. Các tác nhân gây bệnh này có thể xâm nhập vào cơ thể người thông qua: da (qua một vết thủng, trầy sước hoặc vết cắt trên da), các niêm mạc (màng nhầy), đường hô hấp (do xông, hít phải), đường tiêu hóa... Có một mối liên quan đặc biệt giữa sự nhiễm khuẩn do HIV và virut viêm gan B, C, đó là những bằng chứng của việc lan truyền các bệnh truyền nhiễm qua đường rác thải y tế. Những virut này thường lan truyền qua vết tiêm hoặc các tổn thương do kim tiêm có nhiễm máu người bệnh. Trong các cơ sở y tế, tính đề kháng của vi khuẩn đối với các loại thuốc kháng sinh và các hóa chất sát khuẩn cũng có thể góp phần tạo ra những mối nguy cơ do sự quản lý yếu kém các chất thải y tế. Điều này đã được minh chứng, chẳng hạn các plasmit từ các động vật thí nghiệm có trong chất thải y tế đã được truyền cho vi khuẩn gốc qua hệ thuống xử lý chất thải. Hơn nữa, vi khuẩn E. Coli kháng thuốc đã cho thấy nó vẫn còn sống trong môi trường bùn hoạt mặc
Trang 7
dù ở đó có vẻ như không phải là môi truờng thuận lợi cho loại vi sinh vật này trong điều kiện thông thường của hệ thống thải bỏ và xử lý rác, nước. Độ tập trung của các tác nhân gây bệnh và các vật sắc nhọn bị nhiễm các vi sinh vật gây bệnh (đặc biệt là những mũi kim tiêm qua da) hầu như là những mối nguy cơ tiềm ẩn sâu sắc đối với sức khỏe trong các loại chất thải bệnh viện. Các vật sắc nhọn có thể không chỉ là những nguyên nhân gây ra các vết cắt, vết đâm thủng mà còn gây nhiễm trùng các vết thương nếu nó bị nhiễm các tác nhân gây bệnh. Như vậy, những vật sắc nhọn được coi là một loại rác thải rất nguy hiểm bởi nó gây những tổn thương kép: vừa gây tổn thương lại vừa lây truyền các bệnh truyền nhiễm. Những vấn đề đáng lưu tâm là sự nhiễm trùng có thể được lây truyền bởi sự xâm nhập qua da của các tác nhân gây bệnh, ví dụ như nhiễm khuẩn huyết do virut. Các loại kim tiêm đã tiêm qua da là một phần quan trọng của loại hình chất thải sắc nhọn và là mối nguy hiểm đặc biệt bởi chúng thường bị dính máu bệnh nhân. Nhiều loại hóa chất và dược phẩm được sử dụng trong các cơ sở y tế là những mối nguy cơ đe dọa sức khỏe con người (các độc dược, các chất gây độc gen, chất ăn mòn, chất dễ cháy, các chất gây phản ứng, gây nổ, gây shock phản vệ...). Các loại chất này thường chiếm số lượng nhỏ trong chất thải y tế, với số lượng lớn hơn có thể tìm thấy khi chúng quá hạn, dư thừa hoặc hết tác dụng cần vứt bỏ. Chúng có thể gây nhiễm độc do tiếp xúc cấp tính và mãn tính, gây ra các tổn thương như bỏng. Sự nhiễm độc này có thể là kết quả của quá trình hấp thụ hóa chất hoặc dược phẩm qua da, qua niêm mạc, qua đường hô hấp hoặc đường tiêu hóa. Việc tiếp xúc với các chất dễ cháy, chất ăn mòn, các hóa chất gây phản ứng (formaldehyd và các chất dễ bay hơi khác) có thể gây nên những tổn thương tới da, mắt hoặc niêm mạc đường hô hấp. Các tổn thương phổ biến hay gặp nhất là các vết bỏng. Các chất khử trùng là những thành phần đặc biệt quan trọng của nhóm này, chúng thường được sử dụng với số lượng lớn và thường là những chất ăn mòn. Cũng cần phải lưu ý rằng những loại hóa chất gây phản ứng có thể hình thành nên các hỗn hợp thứ cấp có độc tính cao. Các sản phẩm hóa chất được thải thẳng vào hệ thống cống thải có thể gây nên các ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động của hệ thống xử lý nước thải sinh học hoặc gây ảnh hưởng độc hại tới hệ sinh thái tự nhiên nhận được sự tưới tiêu bằng nguồn nước này,. Những vấn đề tương tự như vậy cũng có thể bị gây ra do các sản phẩm của quá trình bào chế dược phẩm bao gồm các kháng sinh và các loại thuốc khác, do các kim loại nặng như thủy ngân, phenol và các dẫn xuất, các chất khử trùng và tẩy uế. Những nguy cơ từ chất thải gây độc gen (genotoxic): Đối với các nhân viên y tế chịu trách nhiệm tiếp xúc và xử lý loại chất thải gây độc gen, mức độ ảnh hưởng của những mối nguy cơ bị chi phối bởi sự kết hợp giữa bản chất của chất độc và phạm vi, khoảng thời gian tiếp xúc với chất độc đó. Những phương thức tiếp xúc chính là hít phải dạng bụi hoặc dạng phun sương qua đường hô hấp; hấp thụ qua da; qua đường tiêu hóa do ăn phải thực phẩm nhiễm thuốc, hóa chất hoặc chất bẩn có tính độc. Việc nhiễm độc qua đường tiêu hóa là kết quả của những thói quen xấu chẳng hạn như dùng miệng để hút ống pipet trong khi định lượng dung dịch. Mối nguy hiểm cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với các loại dịch thể và các chất tiết của những bệnh nhân đang được điều trị bằng hóa trị liệu.
Trang 8
Nhiều loại thuốc có độc tính gây kích thích cao độ và gây nên những hậu quả hủy hoại cục bộ sau khi tiếp xúc trực tiếp với da hoặc mắt. Chúng cũng có thể gây chóng mặt, buồn nôn, đau đầu hoặc viêm da. Những nguy cơ từ các chất thải phóng xạ: Loại bệnh gây ra do chất thải phóng xạ được xác định bởi loại chất thải và phạm vi tiếp xúc. Nó có thể là đau đầu, hoa mắt chóng mặt và nôn nhiều bất thường. Bởi chất thải phóng xạ, cũng như loại chất thải dược phẩm, là một loại độc hại gen, nó cũng có thể ảnh hưởng đến các yếu tố di truyền. Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ có hoạt tính cao, ví dụ như các nguồn phóng xạ của các phương tiện chẩn đoán (máy Xquang, máy chụp cắt lớp...), có thể gây ra một loạt các tổn thương (chẳng hạn như phá hủy các mô, từ đó đòi hỏi phải dẫn đến việc xử lý loại bỏ hoặc cắt cụt các phần cơ thể). Các nguy cơ từ những loại chất thải có hoạt tính thấp có thể phát sinh do việc nhiễm xạ trên phạm vi bề mặt của các vật chứa, do phương thức hoặc khoảng thời gian lưu giữ loại chất thải này. Các nhân viên y tế hoặc những người làm nhiệm vụ thu gom và vận chuyển rác thải tiếp xúc với loại chất thải phóng xạ này là những người thuộc nhóm nguy cơ cao. Ảnh hưởng của chất thải hóa chất và dược phẩm: Trong khi không có tài liệu khoa học nào cho thấy mức độ phổ biến của bệnh tật gây ra do chất thải hóa chất hoặc dược phẩm từ các bệnh viện đối với cộng đồng, thì nhiều trường hợp nhiễm độc quy mô lớn do chất thải hóa chất công nghiệp đã xảy ra. Ngoài ra đã có nhiều vụ tổn thương hoặc nhiễm độc do việc vận chuyển hóa chất và dược phẩm trong bệnh viện không bảo đảm. Các dược sĩ, bác sĩ gây mê, y tá, kỹ thuật viên, cán bộ hành chính có thể có nguy cơ mắc các bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da do tiếp xúc với các loại hóa chất dạng chất lỏng bay hơi, dạng phun sương và các dung dịch khác.
Trang 9
PHẦN II: CÁC GIẢI PHÁP KHẢ THI CHO VẤN ĐỀ RÁC THẢI Ở VIỆT NAM Từ việc phân tích về thực trạng tình hình môi trường nói chung và tình hình rác thải nói riêng ở nước ta hiện nay. Có thể thấy rõ những nguy cơ tiềm tàng của việc phá hủy môi trường đang dần dần bộc lộ những nguy hại của nó đối với nền kinh tế và đối với sức khoẻ cộng đồng. Vì vậy đã đến lúc chúng ta phải hành động và đẩy mạnh và nhanh hơn nữa các biện pháp khắc phục cũng như giải quyết vấn đề môi trường của chúng ta, mà trước hết là vấn đề rác thải. Thực tế cho thấy để cải thiện vấn đề rác thải ở Việt Nam, bên cạnh việc nâng cao nhận thức cộng đồng và áp dụng sản xuất sạch hơn, Việt Nam cần mở rộng việc áp dụng các biện pháp khuyến khích về kinh tế, dựa trên nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền", từ đó sẽ tiết kiệm đáng kể nguồn kinh phí. Ước tính, nếu giảm được 10% lượng chất thải phát sinh, mỗi năm chúng ta sẽ tiết kiệm được 200 tỷ đồng cho hoạt động xử lý rác thải sinh hoạt và 130 tỷ đồng cho xử lý rác y tế. Để giải quyết được lượng rác khổng lồ như hiện nay, cần thực hiện đồng bộ 3 biện pháp: giảm thiểu việc tạo ra chất thải càng nhiều càng tốt, gia tăng tính hiệu quả của việc quản lý và xử lý rác, tái sử dụng chất thải và tái chế chất thải. 1. NHÓM BIỆN PHÁP GIẢM CHẤT THẢI: THUẾ CACBON Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thì y họ phải sử dụng một hệ thống tổng thể các chính sách, biện pháp và các công cụ rất đa dạng để thực hiện xử lý rác thải để bảo vệ môi trường, nhưng nhìn chung được phân thành các nhóm: Nhóm các biện pháp hành chính kết hợp với giáo dục và truyền thông môi trường; Nhóm các biện pháp kinh tế-tài chính. Trong đó, thuế và phí là hai công cụ quan trọng. Phí bảo vệ môi trường nhằm tạo nguồn thu để bù đắp một phần chi phí xử lý các chất thải, khôi phục, cải thiện chất lượng môi trường. Nhưng nhìn chung, các khoản phí bảo vệ môi trường rất đa dạng và gắn với các hoạt động của các cơ quan quản lý và sự nghiệp thuộc lĩnh vực môi trường. Chẳng hạn các khoản phí bảo vệ môi trường gồm phí nước thải; phí vệ sinh (thu gom và xử lý chất thải rắn), thực tế hiện nay do mức thu phí còn tương đối thấp, nên ít có tác dụng ngăn ngừa và hạn chế việc phát thải các chất ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, việc thu phí đã tạo nguồn thu để bù đắp một phần chi phí đã có tác động nhất định đến ý thức của đối tượng phát thải các chất gây ô nhiễm môi trường. Thuế bảo vệ môi trường có tác dụng kích thích và điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng theo hướng bảo vệ môi trường, thúc đẩy việc nghiên cứu tìm ra các nguồn năng lượng ềsạchể nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người hoặc có thể dẫn tới việc ra đời của các công nghệ, chu trình sản xuất và sản phẩm mới giảm thiểu tiêu hao nguyên nhiên vật liệu và các rác thải phế liệu từ quá trình sản xuất làm ô nhiễm môi trường. Tạo nguồn thu cho ngân sách. Tuy nhiên, khả năng phát huy tác dụng của thuế và phí trong bảo vệ môi trường cũng có mức độ khác nhau. Trong đó, công cụ phí chủ yếu nhằm tạo nguồn thu để trang trải chi phí công tác xử lý ô nhiễm môi trường, tác dụng điều chỉnh hành vi đối tượng gây ô nhiễm chưa Trang 10
được đủ mạnh. Công cụ thuế thường có mức thu cao, tính pháp lý và cưỡng chế thực hiện có tác động rất mạnh mẽ tới đối tượng gây ô nhiễm nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu lượng phát thải ô nhiễm môi trường. Vì vậy, việc nghiên cứu và áp dụng phù hợp công cụ thuế hay phí để bảo vệ môi trường đối với từng đối tượng chất thải gây ô nhiễm môi trường là cần thiết. Kinh nghiệm thực tiễn áp dụng thuế, phí bảo vệ môi trường của các nước trên thế giới, đã chỉ ra rằng không có riêng một loại thuế bảo vệ môi trường để áp dụng chung đối với tất cả các loại chất thải (rắn, lỏng, khí). Để xử lý đối với từng loại chất thải, cần sử dụng các công cụ phù hợp, cụ thể như sau: Đối với các chất thải rắn và chất thải lỏng, thường là dễ xác định đối tượng phát thải (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân), địa điểm phát thải và thu gom. Bằng các quy định hành chính, buộc các đối tượng phát thải phải xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường. Vì thế, đối với các chất thải rắn, chất thải lỏng, hiện nay các nước trên thế giới đều áp dụng thu phí nhằm bù đắp trực tiếp chi phí. Đối với chất thải khí do đặc điểm các nguồn phát thải di động hoặc khó xác định được lượng khí thải, nồng độ các chất độc hại, vì thế việc xác định cụ thể các đối tượng và căn cứ thu phí là rất khó. Hiện nay, chưa thể tính toán xác định được các chi phí cho việc xử lý khắc phục các chất thải khí, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến khắc phục các tác hại của khí thải tới môi trường và sức khoẻ con người. Vì vậy, không thể quy định mức thu phí để bù đắp chi phí xử lý đối với khí thải, mà chỉ có thể áp dụng thu thuế nhằm tác động đến ý thức và hành vi của đối tượng phát thải, từ đó ngăn ngừa và hạn chế lượng khí thải ô nhiễm môi trường không khí. Hơn nữa, phạm vi tác động làm ô nhiễm môi trường của các khí thải là rộng lớn từ phạm vi một thành phố, vùng, quốc gia đến toàn cầu. Vì thế, cộng đồng quốc tế đã và đang tìm kiếm các chính sách và giải pháp nhằm xử lý vấn đề này, trong đó đã có các Công ước Quốc tế Kyoto, Công ước Montreal, Công ước Bonn về chương trình hạn chế và cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính với sự cam kết tham gia của nhiều nước trên thế giới. Các nước phát triển thuộc khối OECD đang nghiên cứu xây dựng thuế bảo vệ môi trường không khí đối với khí thải và được gọi là “Thuế các bon”, nhằm tác động vào ý thức và hành vi của các đối tượng phát thải. Thuế bảo vệ môi trường không khí – “Thuế các bon”, được áp dụng để giảm thiểu lượng khí thải CO2, các loại khí thải từ sử dụng các thiết bị điện lạnh (như điều hoà, tủ lạnh....) và các chất bụi không khí gây hiệu ứng nhà kính, làm trái đất nóng lên. Thuế các bon là một bộ phận cấu thành lên giá bán nhiên liệu xăng dầu, than, các nhiên liệu chất đốt khác, các thiết bị điện lạnh nên đã có tác dụng ngăn ngừa và hạn chế lượng khí thải vào môi trường không khí, thông qua việc khuyến khích ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nhiên liệu chất đốt, sử dụng các dạng năng lượng “sạch” khác như thuỷ điện, năng lượng mặt trời, năng lượng gió tự nhiên, năng lượng nguyên tử… B- NHÓM GIẢI PHÁP TÁI SỦ DỤNG VÀ TÁI CHẾ RÁC THẢI: Trên thế giới ngày nay có rất nhiều phương pháp nhằm tái chế và tận dụng rác thải. Do khuôn khổ nhỏ gọn của bài viết, chúng tôi chỉ xin trình bày ba phương pháp phổ biến nhất hiện nay: 1. BIẾN RÁC THÀNH NGUYÊN LIỆU: Trang 11
Loại rác chiếm đất chôn lấp lớn nhất hiện nay là rác thực phẩm từ các hộ gia đình, chợ, siêu thị…, chiếm đến 65%-90%. Đã có một thời người ta đặt vấn đề xử lý số rác này làm phân hữu cơ, thế nhưng một nghiên cứu khoa học của thành phố đã chứng minh loại rác ấy chứa rất nhiều vụn thủy tinh, mảnh nhựa, đất, đá… không đủ “sạch” để làm phân. Cách “đối xử” duy nhất hiện nay đối với loại rác có nhiều tạp chất như vậy là ủ, tạo khí phát điện và tham gia chương trình mua bán khí CO2. Rác thực phẩm sẽ được ủ, tạo khí và phát điện như loại rác hỗn tạp hiện nay ở thành phố. Tuy nhiên, sau khi hết khí, thay vì được chôn lấp, rác thực phẩm sẽ được đưa đi chế biến thành phân hữu cơ dùng để cải tạo đất. Điều này có nghĩa là sẽ không một thứ gì bị bỏ đi và thành phố sẽ không tốn đất để chôn lấp rác. Các loại rác còn lại cũng sẽ được phân loại và tái chế. Nếu dự án phân loại rác từ nguồn được thực hiện nghiêm túc, thì sẽ giảm được tới 50% lượng rác phải chôn lấp. 2. BIẾN RÁC THÀNH ĐIỆN: Mô hình xử lý rác thải thành điện sinh hoạt lần đầu tiên trên cả nước được ứng dụng thành công tại bãi rác Gò Cát (TP.HCM) và đã phát điện được sản xuất từ rác lên lưới điện quốc gia. Đây có thể coi là một bước tiến quan trọng trong việc xử lý rác thải đô thị và mở ra hướng đi mới cho công nghệ xử lý rác của Việt Nam… Dự án này ứng dụng công nghệ xử lý chôn lấp rác hợp vệ sinh, theo công nghệ và thiết bị của Hãng Balast Nedam Việt Nam (Hà Lan) tại bãi Gò Cát. Theo đó, rác thải sẽ được chôn trong các ô chôn lấp có chiều sâu hơn 7m so với mặt đất, có lót vật liệu chống thấm HDPEmột loại nhựa có độ bền hơn 50 năm và không ảnh hưởng tới môi trường. Nước rỉ rác trong ô chôn được thu gom bằng hệ thống ống thu đặt dưới đáy và bơm về trạm xử lý nước trước khi thải ra môi trường tự nhiên. Khí gas sinh ra từ quá trình phân hủy rác được thu gom bằng các giếng thu đứng, dẫn về trạm thu gas và qua một công đoạn tách nước vì gas sinh ra từ rác thải sinh hoạt có lượng hơi nước rất cao. Một hệ thống xử lý dây chuyền khép kín, hiện đại. Thậm chí, ngay trong bãi chứa rác thải mà không hề có mùi hôi như các bãi rác thường gặp, dù đây là một trong những bãi rác lớn của thành phố. Gas sạch sau khi thu được sẽ được dẫn đến máy chiết xuất và máy thổi khí nén trước khi được bơm vào hệ thống động cơ nổ để chạy máy phát điện. Điện sinh ra được đưa qua máy biến thế để tăng áp và hoà vào lưới điện quốc gia. Do lượng gas sinh ra còn ít nên hiện thời chỉ có một tổ máy phát có công suất 750 KW hoạt động trong 3 tổ máy của hệ thống. Trong thời gian tới, sau khi đưa vào sử dụng cả 3 tổ máy, tổng công suất điện thu được sẽ hơn 2.430 KW/h, mỗi năm sẽ thu được gần 21.287 ngàn KW”, tương đương với số tiền hơn 13 tỷ đồng/năm. Trạm phát điện từ rác được đầu tư số vốn hơn 3 triệu USD, với công nghệ của hãng Balast Nedam. Toàn bộ khối máy phát điện được thiết kế theo khối container có thể dễ dàng di chuyển. Sau khi lượng gas tại đây được đốt hết, bãi rác được đưa vào sử dụng cho mục đích khác thì các tổ máy này có thể di chuyển đến các địa điểm khác để sử dụng. Được biết các dự án phát điện từ rác thải đã được xây dựng và hoạt động thành công tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Trang 12
Dự kiến sau khi dừng việc tiếp nhận rác và đóng bãi vào năm 2006, các tổ máy sẽ bắt đầu đi vào hoạt động hết công suất liên tục trong vòng khoảng 15 năm. Rác sau khi được phân huỷ hoàn toàn sẽ được dùng làm phân bón hữu cơ cho nông nghiệp và mặt bằng của bãi rác sẽ được xây dựng thành công viên, khu vui chơi… 3. PHÂN LOẠI RÁC TẠI NGUỒN Hiện nay, theo tính toán thì lượng rác thực phẩm (có xuất xứ từ nhà dân và các chợ, siêu thị) chiếm từ 65 đến 90% tổng khối lượng rác tại các bãi chôn lấp. Nếu được phân loại ngay từ đầu thì lượng rác này là nguồn nguyên liệu vô tận cho công nghệ xử lý rác. Nhưng trên thực tế, đối với loại rác "hầm bà lằng" thì không thể sử dụng vào bất cứ mục đích gì. Nếu làm phân thì không đủ sạch, vì lẫn nhiều tạp chất. Còn nếu đưa vào tái chế thì không có thứ máy móc nào có thể phân loại đối với loại rác hỗn hợp này. Chỉ còn một cách duy nhất để xử lý là chôn. Với chương trình phân loại rác tại nguồn, phần rác có thể tái chế đã có một lực lượng đông đảo các cơ sở thu mua phế liệu bao tiêu, mà không cần đến vai trò của Nhà nước. Còn lại rác hữu cơ, loại rác này sẽ được đưa vào chôn tại các bãi rác, sau đó thu hồi khí để phát điện (cách làm hiện nay ở bãi rác Phước Hiệp). Sau khi thu hồi hết khí, rác thải cũng đã hoai mục hoàn toàn, sẽ được dùng để chế biến thành phân vi sinh (compost). Như vậy, từ những loại rác thải thông thường, nếu được phân loại ngay từ đầu có thể tận dụng và biến rác thành một loại tài nguyên vô tận.
Mục tiêu: Tách rác ra làm hai thành phần riêng biệt nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động xử lý tiếp theo.
Biện pháp thực hiện - Các hộ dân tự phân rác tại hộ gia đình theo 2 loại: + Rác hữu cơ và rác tái sinh được đựng trong hai loại túi xốp khác nhau nhằm dễ phân biệt cho người thu gom rác. Ví dụ: Túi xốp màu đen được sử dụng rác hữu cơ, rác tái sinh được sử dụng trong túi xốp khác màu với màu đen nhằm dễ phân biệt. Hiện tại túi xốp này đang được bán rộng rãi trên thị trường hoặc nhân dân có thể tận dụng túi rác sau mỗi lần đi chợ. - Các công ty dịch vụ môi trường bố trí 2 xe lấy rác riêng biệt để thu 2 loại rác, thu gom đúng giờ qui định, rác sau khi thu gom được vận chuyển về bãi rác để xử lý. Thành lập tổ chuyên trách tại các phường để quản lý, giám sát, hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc mô hình hoạt động. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả công tác quản lý và xử lý rác, cần phải thực hiện đồng bộ từ khâu thu gom, vận chuyển cho đến xử lý rác. Do đó, việc phân loại rác tại nguồn mang lại lợi ích to lớn cho xã hội cũng như đối với các hộ dân, tuy nhiên đây là công việc mới mẻ, cần tuyên truyền rộng rãi để nhân dân có thể hiểu và thực hiện. Thực hiện công tác giáo dục cộng đồng như: tuyên truyền, vận động chặt chẽ, phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể đặc biệt là hội phụ nữ ở phường. Đồng thời gắn với phong trào xây dựng khu phố văn hoá ở địa phương.
Trang 13
Ban chỉ đạo, ban chuyên trách thực hiện mô hình là lực lượng nòng cốt làm công tác vận động tuyên truyền, kiểm tra, hướng dẫn cho các hộ dân thực công tác thu gom và phân loại rác.
Lợi ích: Mỗi ngày có thêm 1 tỉ đồng Thực ra, giải pháp này từ lâu đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Một trong những ý nghĩa quan trọng của việc phân loại rác từ nguồn chính là đẩy mạnh công tác tái sinh, tái chế nhằm hạn chế tối đa lượng rác phải chôn xuống lòng đất, kéo giảm được những tác hại môi trường. Theo điều tra của Sở TN-MT, lượng chất hữu cơ trong rác sinh hoạt dao động ở tỉ lệ 65% đến 90%, vốn là nguồn nguyên liệu quý cho việc sản xuất phân bón. Chỉ cần làm một phép tính nhỏ, mỗi tấn chất hữu cơ được bán cho các nhà máy phân bón với giá từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng thì ít nhất mỗi ngày ngân sách TP có thêm 1 tỉ đồng. Mặt khác, không chỉ có rác hữu cơ mới mang lại lợi ích kinh tế mà các loại rác còn lại cũng được phân loại để thực hiện việc tái chế. Theo tính toán, nếu dự án hoạt động hoàn thiện thì chỉ khoảng 5% lượng rác không thể tái chế hoặc độc hại mới cần đến công nghệ chôn lấp, đốt... Đây chính là con số có ý nghĩa rất lớn vì hiện nay, mỗi tấn rác tốn từ 220.000 đồng đến 330.000 đồng để xử lý. Ngoài ra chỉ với hình thức đơn giản là phân loại rác tại nguồn, theo tính toán của các chuyên gia trong chương trình, nếu thực hiện triệt để thì có thể tiết kiệm tới 50% diện tích đất quy hoạch làm các bãi chôn lấp rác. Và những lợi ích khác của việc phân loại rác từ nguồn •Góp phần cải thiện môi trường đô thị. •Giúp cho việc quản lý rác tốt hơn, hạn chế sự ô nhiễm môi trường do rác. •Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nước. •Tiết kiệm năng lượng. •Giảm thiểu ô nhiễm môi trường nhờ giảm lượng khí metan và CO2 phát sinh từ các bãi chôn lấp vốn là những khí gây hiệu ứng nhà kính. •Giảm tối đa khối lượng nước rác rò rỉ đồng thời nước rò rỉ được xử lý dễ dàng hơn. •Giảm gánh nặng ngân sách chi cho công tác vệ sinh đường phố, vận chuyển và xử lý Đem lại hiệu quả rất lớn về mặt kinh tế xã hội. Mặc dù để đầu tư một hệ thống phân loại rác tại nguồn “đến nơi đến chốn” sẽ rất tốn kém, vì vốn ban đầu là rất lớn và còn một số khó khăn nhất định. (Trang thiết bị tồn trữ và phân loại trong nhà ít nhất phải có một thùng chứa hữu cơ, 1 thùng chứa vô cơ, bao PE. Đó là chưa kể đến chi phí tuyên truyền rất cao để thay đổi thói quen của cộng đồng dân cư). Song với một lợi ích to lớn về mặt kinh tế xã hội như vậy, tin rằng đây sẽ là một trong những giải pháp khả thi để giải quyết vấn đề rác thải của nước ta trong thời gian sắp tới. IV. KẾT LUẬN
Trang 14
Việt Nam đang đứng trước một cơ hội rất lớn để có thể đuổi kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới; Nhất là khi chúng ta đang có khả năng rất lớn để gia nhập WTO vào cuối năm nay (mặc dù đi kèm với nó cũng có không ít những thách thức). Tuy nhiên, song hành với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế sẽ luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ về huỷ hoại môi trường sống, mà vấn đề rác thải (gồm cả chất thải sinh hoạt và cả chất thải công nghiệp,..) là một trong những vấn đề nổi cộm nhất. Ở các nước được mệnh danh là “Quốc gia xanh” của thế giới như Singapore, Australia,… công tác bảo vệ môi trường đã được chú trọng từ rất nhiều năm trước đây. Đặc biệt, họ giải quyết rất tốt vấn đề rác thải và ý thức về bảo vệ môi trường của công dân nước họ cũng rất cao cho nên công cuộc phát triển kinh tế của họ cũng thuận lợi hơn rất nhiều. Trong khi ở Việt Nam, vấn đề này chỉ mới được đặt ra trong những năm gần đây và hiệu quả của các chính sách giải quyết môi trường cũng chưa cao. Nếu như chúng ta không có chính sách phát triển kinh tế hợp lý gắn với việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, thì cho dù chúng ta có thể phát triển nhanh, chúng ta cũng sẽ không thể thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác. Bởi lẽ không những chúng ta phải đối mặt với việc thiếu nghiêm trọng nguồn tài nguyên để sản xuất, mà với việc hủy hoại môi trường và không ngăn chặn được hiểm họa rác thải, không sớm thì muộn, Việt Nam sẽ trở thành “Bãi rác lớn” với nguy cơ của rất nhiều loại bệnh dịch nguy hiểm và gây ra nhiều vấn đề kinh tế xã hội khác. Chính vì thế, ngay từ bây giờ chúng ta cần nhanh chóng tìm ra các giải pháp để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường nói chung và vấn đề rác thải nói riêng. Để giải quyết được bài toán này, VN cấn học tập kinh nghiệm từ các nước tiên tiến trên thế giới, đồng thời đẩy nhanh hơn nữa những giải pháp hữu hiệu với tình hình riêng của đất nước. Có như vậy, chúng ta mới có thể phát triển bền vững và VN mới có thể vươn lên ngang tầm với các nước phát triển trên thế giới./.
Trang 15