Xu Huong Dv Phan Phoi O Vn

  • November 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Xu Huong Dv Phan Phoi O Vn as PDF for free.

More details

  • Words: 3,439
  • Pages: 6
XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM Cam kết quốc tế đối với dịch vụ phân phối Cho đến tháng 3 năm 2005, nước ta đã có cam kết về mở cửa thị trường phân phối cho hai nước là Mỹ (BTA) và Nhật Bản (Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt-Nhật), Việt Nam cũng đang tiến hành đàm phán về mở cửa thị trường phân phối trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO và trong 1-2 năm tới, nước ta cũng sẽ tham gia đàm phán về dịch vụ phân phối trong khuôn khổ các Khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối tác (ASEAN Cộng). Phạm vi cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) (có hiệu lực từ ngày 10/12/2001) về dịch vụ phân phối bao gồm 4 phân ngành chính của dịch vụ phân phối là bán buôn, bán lẻ, đại lý và nhượng quyền thương mại. Trong BTA, Việt Nam không cam kết về việc pháp nhân Mỹ được mở đại lý phân phối, dịch vụ nhượng quyền thương mại thực hiện cam kết theo tiến trình xây dựng pháp luật và quy định về nhượng quyền thương mại trong nước. Phương thức: Không cam kết Phương thức 1 (đồng nghĩa với việc kiểm soát phân phối theo đơn đặt hàng qua mạng) và 4 (không cam kết về việc công dân Mỹ vào Việt Nam để phân phối hàng độc lập). Không hạn chế Phương thức 2. Phương thức 3 có 3 mốc quan trọng: 10/12/2004: Cho phép thành lập liên doanh với vốn góp không vượt quá 49% 10/12/2007: Cho phép thành lập liên doanh với vốn góp trên 49% nhưng chưa được 100%. 10/12/2008: Cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Việc mở thêm điểm bán lẻ ngoài điểm bán lẻ đầu tiên sẽ được xem xét cấp phép trên cơ sở từng trường hợp. Đến thời điểm này, có thể nói mức độ cam kết về dịch vụ phân phối dành cho các nhà đầu tư Nhật Bản trong Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt-Nhật của nước ta là cao nhất, thậm chí còn cao hơn cam kết trong BTA. 3 mức vốn cam kết là 49%, hơn 49% và 100% sẽ được cho phép vào thời điểm Việt Nam cho phép bất kỳ nhà đầu tư của nước thứ 3 nào hoặc thời điểm cam kết của Việt Nam với bất kỳ nước thứ 3 nào có hiệu lực, tùy thời điểm nào diễn ra trước. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà phân phối Nhật hiện nay được phép vào Việt Nam với sự đối xử tương đương như với các Tập đoàn phân phối Pháp, Đức, Malaysia đã vào Việt Nam. Danh mục loại trừ bao gồm dầu mỏ, sản phẩm dầu mỏ, khí đốt, phân bón, thuốc trừ sâu, bia, rượu, thuốc lá điếu và xì gà, dược phẩm, kim loại và đá quý, chất nổ, gạo và bột mỳ (tổng cộng chỉ có 13 mặt hàng thấp hơn số lượng 18 mặt hàng loại trừ hoàn toàn

trong BTA) Như vậy, với các cam kết quốc tế, Việt Nam sẽ từng bước mở cửa thị trường dịch vụ phân phối cho các nước, trước hết là Mỹ và Nhật Bản, sau đó là các thành viên khác của WTO (sau khi gia nhập). Mặc dù hiện nay Việt Nam chưa trở thành thành viên WTO, nhưng bức tranh toàn cảnh về hệ thống phân phối trong nước đã rất sôi động, nổi bật là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các nhà phân phối nước ngoài. Làn sóng các nhà phân phối nước ngoài Thời gian gần đây đã xuất hiện một làn sóng các nhà phân phối nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam-một thị trường năng động, dân số đông và trẻ hứa hẹn nhu cầu tiêu dùng lớn. Và cuộc đua kiểm soát kênh phân phối giữa các nhà phân phối trong và ngoài nước đã bắt đầu nhen nhóm và đã nổi lên trên hai lĩnh vực: dược phẩm và hàng tiêu dùng. Về dược phẩm, sau sự kiện Zuellig Pharma Việt Nam (ZPV), bất chấp hàng loạt chế tài mới và cam kết của các doanh nghiệp dược nước ngoài tại Việt Nam, giá thuốc lại rục rịch tăng. Các đại gia phân phối thuốc chuyển sang chiến lược tăng giá từ từ, mỗi ngày một ít. Điều này chứng tỏ, các biện pháp mạnh tay của Bộ Y tế đã chưa hoàn toàn phát huy tác dụng. Về hàng tiêu dùng, Bộ Kế hoạch và đầu tư đã cấp phép cho ba Tập đoàn kinh doanh siêu thị nước ngoài là Metro Cash & Carry (Đức), Big C (Pháp) (Big Customer), Parkson (tập đoàn Lion Group-Malaysia). Metro mới được cấp phép kinh doanh bán buôn, Big C đã được cấp phép bán lẻ tại 4 siêu thị và Big C Thăng Long trở thành siêu thị bán lẻ lớn nhất Việt Nam với tổng số vốn đầu tư 12 triệu USD. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu của người dân sử dụng các loại hình phân phối hiện đại văn minh ở các thành phố lớn có xu hướng tăng lên, dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu các loại hình phân phối và các nhà phân phối nước ngoài đã nhanh chóng nắm bắt và đáp ứng được xu thế này. Người dân đã chán phong cách bán hàng nhỏ lẻ manh mún, chất lượng, giá cả không ổn định ở các điểm bán hàng nhỏ và các chợ và họ sẽ đổ xô đến các siêu thị lớn để mua hàng với cơ sở hạ tầng hiện đại, hàng hóa đa dạng, chất lượng giá cả ổn định và có nhiều hình thức khuyến mãi. Số lượng các điểm phân phối nhỏ lẻ sẽ giảm dần và được thay thế bằng các hình thức phân phối mới như siêu thị, trung tâm thương mại. Một câu hỏi được đặt ra về sự tồn tại của các chợ, cửa hàng quy mô nhỏ bán hàng tiêu dùng nội địa. Tuy nhiên, trong vòng 10 năm tới, hình thức phân phối nhỏ lẻ vẫn giữ được vai trò của mình ngay cả trong các thành phố lớn do tập quán tiêu dùng của người Việt Nam và vị trí nằm sát khu vực có nhiều dân cư sinh sống do đó có thể bán hàng trực tiếp cho các hộ tiêu dùng.

Phân phối qua mạng cũng đang thu hút được sự quan tâm vì những tiện ích đáng kể của nó. Hiện nay ở Việt Nam đang có một làn sóng phân phối trực tuyến vừa chính thức vừa ngầm nhưng rất mạnh mẽ, có vô số trang web tiếng Việt khác nhau thực hiện các giao dịch trên mạng. Nhượng quyền thương mại (franchising) cũng có nhiều tiềm năng phát triển với Trung Nguyên và Kinh Đô là 2 nhà tiên phong, mặc dù các nhà kinh doanh trong nước cũng chưa nhận thức được đầy đủ tính hai mặt của hình thức phân phối này. Nhìn chung, đối với những loại hình phân phối hiện đại, hiển nhiên đây là một thế mạnh của các nhà phân phối nước ngoài. Gần đây, tuy các nhà phân phối Việt Nam có nhiều động thái củng cố lại hệ thống của mình để chống lại áp lực cạnh tranh từ các nhà phân phối nước ngoài, nhưng đây có thể là một cuộc đua không cân sức vì các tập đoàn phân phối nước ngoài đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường các nước đang phát triển, nguồn vốn rất lớn; họ lại tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường, tổ chức kinh doanh, thậm chí vận động hành lang rất bài bản và đưa ra giá bán buôn thấp hơn nhiều so với các nhà bán buôn trong nước, các dịch vụ bán hàng thuận tiện và các chương trình khuyến mại hấp dẫn. Việc thu hút số lượng lớn các khách hàng của các siêu thị và trung tâm thương mại có thể dẫn đến tình trạng phá sản dây chuyền của hàng triệu hộ cá thể buôn bán nhỏ lẻ, đe dọa đời sống của người dân. Sự mở rộng của hệ thống các siêu thị có thể dẫn tới các vấn đề về môi trường vì siêu thị là nơi tập trung các phương tiện đi lại của người dân nhất là vào các dịp cuối tuần. Sự phụ thuộc vào các Tập đoàn phân phối nước ngoài cũng có thể sẽ phải trả một giá đắt vì nó đe dọa cuộc sống của người nông dân và các hộ buôn bán nhỏ. Các siêu thị thường đưa ra các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và chất lượng rất cao đối với người nông dân, nếu đáp ứng thì họ sẽ mua với khối lượng khổng lồ. Để đáp ứng được yêu cầu rất cao của các siêu thị, người nông dân phải đầu tư máy móc thiết bị, giống, phương pháp canh tác, nhưng họ lại không có vốn và phải đi vay ngân hàng, nếu các nhà phân phối nước ngoài không mua hàng, họ sẽ bị rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Điều này không dễ dàng gì so với trước đó khi họ chỉ phải chuyển tất cả các nông sản làm ra với các hình thức khác nhau tới các chợ. Đối với hàng gia dụng và trang trí là mặt hàng có thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, các tập đoàn phân phối nước ngoài thường áp dụng mức giá cao trong các đơn đặt hàng các sản phẩm gia công đồng thời cũng đặt ra các quy định ngặt nghèo về thời hạn giao hàng, sử dụng lao động, nguồn nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ. Có đối tác lo đầu ra, các doanh nghiệp nhỏ chỉ phải tập trung sản xuất, không phải lo các khâu bao bì, thiết kế, makerting, xây dựng hệ thống phân phối và tạo dựng thương hiệu nên họ rất ham. Lúc đầu, các nhà sản xuất

ăn theo còn ăn nên làm ra, nhưng sau đó, phía nước ngoài càng giảm giá đặt hàng, các nhà sản xuất trong nước bị lỗ nặng. Tiền vốn đổi mới công nghệ theo yêu cầu của nhà phân phối nước ngoài lại là vay của ngân hàng, không bán được hàng nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản. Với vốn đầu tư lớn, mặt bằng kinh doanh rộng, hệ thống quản lý bán hàng, lưu kho, vận chuyển có tính ưu việt, các khâu logistics được thực hiện với độ chuyên nghiệp cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước; các tập đoàn phân phối nước ngoài sẽ dần khống chế hệ thống phân phối nội địa. Tuy nhiên, việc tham gia của các tập đoàn phân phối quốc tế lớn trên thị trường Việt Nam cũng mang lại một số lợi ích. Sự xuất hiện của các đại siêu thị góp phần vào việc giải quyết tình trạng lao động trình độ trung bình dư thừa ở các thành phố lớn. Đặc biệt là ngành bán lẻ là một ngành tuyển dụng rất nhiều lao động nên có thể giảm bớt gánh nặng về công ăn việc làm cho chính quyền địa phương. Ngươi tiêu dùng sẽ được hưởng lợi từ các chương trình khuyến mại, được sử dụng hàng hóa có chất lượng ổn định, đảm bảo vệ sinh an toàn, các nhà phân phối trong nước có thể học hỏi được các kinh nghiệm quản lý điều hành tiên tiến từ nước ngoài. Nhà nước nhà quan sát hay trọng tài? Có thể nói, ngành phân phối là ngành rất nhạy cảm trong nền kinh tế nước ta vì nó ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người bán hàng và hàng chục triệu người tiêu dùng, đặc biệt là hệ thống phân phối của một số mặt hàng thiết yếu. Ngay cả một số quốc gia có trình độ phát triển kinh tế cao như Nhật Bản, Ấn Độ cũng có xu hướng bảo hộ ngành phân phối của mình rất chặt chẽ. Ví dụ, hệ thống phân phối ở Nhật Bản được tổ chức theo kiểu khép kín giữa nhà sản xuất và các nhà bán buôn bán lẻ và có xu hướng bài ngoại, hàng hóa Nhật Bản xuất hiện khắp nơi trên thế giới nhưng hàng của các nước khác rất khó khăn để có thể len chân vào hệ thống phân phối của Nhật Bản. Mô hình quản lý hệ thống phân phối của các nước này có những ưu điểm mà ta có thể học tập vận dụng một cách chọn lọc. Ở trong nước, tốc độ tăng chóng mặt của chỉ số giá tiêu dùng kể từ đầu năm 2004 đến nay do có “đóng góp” của các “dịch sốt giá” của các mặt hàng nhạy cảm như thép xây dựng, xi măng, dược phẩm, thực phẩm đã đánh động các cơ quan chức năng cũng như Chính phủ. Các Bộ chuyên ngành, các Tổng công ty đã có nhiều động thái tích cực để xốc lại hệ thống phân phối nhằm bình ổn giá. Gần đây, Chính phủ còn có những biện pháp mạnh, kể cả đưa ra chế tài kỷ luật Lãnh đạo các Tổng Công ty phụ trách các mặt hàng thiết yếu, nhưng đây mới chỉ là các biện pháp tình thế vì chính các Tổng Công ty này cũng chưa thể kiểm soát được hệ thống phân phối của mình. Bộ Thương mại cũng đã tổ chức một số hội thảo, tọa đàm nhằm tìm biện pháp tổ chức lại hệ thống phân phối trong nước, tuy nhiên kết quả đạt được chưa rõ. Trên nguyên

tắc, trong nền kinh tế hàng hóa, Nhà nước không thể quản lý hệ thống phân phối bằng các mệnh lệnh hành chính. Trước mắt, các cơ quan quản lý Nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý công bằng, tạo điều kiện cho các nhà phân phối thuộc mọi thành phần kinh tế (trong đó có tư nhân và đầu tư nước ngoài) hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tránh tình trạng xuất hiện những nhà phân phối độc quyền cả trong nước và nước ngoài thao túng, lũng đoạn thị trường. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có một số ưu đãi về cho thuê đất, thuế ... để hỗ trợ cho các nhà phân phối trong nước, nắm cổ phần chi phối trong hệ thống phân phối của các mặt hàng thiết yếu với đời sống xã hội như xi măng, sắt thép, xăng dầu, dược phẩm, ... Các doanh nghiệp vừa nhỏ vốn chiếm đa số trong số các doanh nghiệp nước ta cần hoạch định chính sách phân phối tự chủ, không nên chỉ phụ thuộc vào một nhà phân phối nước ngoài để phân tán rủi ro. Hướng phát triển dịch vụ phân phối trong thời gian tới: Có thể đánh giá, ngành dịch vụ phân phối ở nước ta trong thời gian tới sẽ phát triển theo hướng sau: 1/ Các rào cản về việc gia nhập và rút khỏi hệ thống phân phối sẽ dần được loại bỏ theo lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế (WTO, BTA, Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt-Nhật, ASEAN Cộng) và các cải cách của chính phủ nhằm tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài. 2/ Sự thâm nhập ngày càng nhiều các Tập đoàn phân phối đa quốc gia trên thị trường Việt Nam, ngoài Big C, Metro Cash & Carry, Cora; nhiều khả năng sẽ có thêm Wal-mart của Mỹ, Carrefour của Pháp, các tập đoàn phân phối của Nhật, Trung Quốc, ... tạo nên một bức tranh đa dạng trong hệ thống phân phối trong nước. Hệ thống phân phối không còn là mảnh đất đặc quyền của các doanh nghiệp trong nước, buộc các doanh nghiệp trong nước phải động não chủ động tham gia nếu không muốn bị loại “ra rìa” 3/ Quá trình tích tụ và tập trung sẽ diễn ra mạnh mẽ giữa các nhà phân phối trong nước tạo thành các chuỗi liên kết với các nhà sản xuất, các ngân hàng để tăng cường sức cạnh tranh (đại lý phân phối độc quyền cho thương hiệu Việt Nam, đặt các điểm giao dịch, máy ATM tại các siêu thị, chợ...). Một số nhà phân phối có tiềm lực sẽ mở rộng hoạt động phân phối ra nước ngoài thông qua liên doanh, liên kết với các tập đoàn phân phối nước ngoài hoặc thông qua các trung tâm giới thiệu sản phẩm, trung tâm thương mại của Việt Nam ở nước ngoài. Lực lượng người Việt Nam kinh doanh ở Nga và các nước Đông Âu cũng sẽ trở thành những mắt xích quan trọng trong hệ thống dây phân phối hàng “made in Viet Nam” nhưng mang thương hiệu quốc tế thay vì hàng Trung Quốc như hiện nay. Nhiều doanh nghiệp, các hộ nông

dân, ngư dân, các làng nghề truyền thống do không đủ khả năng xây dựng hệ thống phân phối riêng sẽ tìm cách vươn ra thị trường thế giới bằng hình thức giao dịch điện tử. 4/ Phương thức phân phối truyền thống, mua đứt bán đoạn vẫn tồn tại song song với các hình thức phân phối hiện đại nhưng sẽ dần thu hẹp và suy yếu, các nhà phân phối trong nước sẽ trưởng thành và học hỏi được nhiều kinh nghiệm tổ chức quản lý và hiện đại hóa hệ thống của các nhà phân phối nước ngoài để tự củng cố hệ thống của mình. Người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ những cải cách này. Trước mắt, các Tập đoàn phân phối nước ngoài sẽ tập trung vào mở các siêu thị bán buôn và bán lẻ, nhưng dân dần họ sẽ mở rộng sang các hình thức bán lẻ không có cửa hàng, chuyên kinh doanh bán hàng qua catalogue, điện thoại, internet, máy bán hàng và giao hàng tận nhà... Các hình thức này sẽ được du nhập, từng bước hình thành và phát triển ở nước ta. Các công ty sản xuất trong nước, đặc biệt là các công ty sản xuất và xuất khẩu nông thủy sản sẽ phân phối qua thị trường nước ngoài dưới các hình thức mới như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng chọn ... Tóm lại, hệ thống phân phối ở nước ta đang chuyển mình theo hướng hiện đại hóa nhưng vẫn còn mang nặng đặc điểm của một nền thương nghiệp quy mô nhỏ. Cùng với quá trình thực hiện các cam kết quốc tế và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, trên “sân chơi” sẽ xuất hiện nhiều “gã khổng lồ” đến từ nước ngoài, các loại hình phân phối cũng sẽ phát triển đa dạng. Trong bối cảnh đó, yếu tố sống còn quyết định sự tồn tại của hệ thống phân phối quốc gia là ý thức liên kết của các doanh nghiệp và vai trò hỗ trợ của Nhà nước. Sự liên kết giữa các nhà sản xuất, các nhà phân phối trong nước cộng với ý thức thay đổi trong phương thức kinh doanh tập hợp thành một khối, đủ sức làm đối trọng với các nhà phân phối nước ngoài. Nhà nước bên cạnh việc tìm biện pháp tổ chức lại hệ thống phân phối bán lẻ, cần phải có những quyết sách ưu đãi về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tập hợp các nguồn lực nhỏ lẻ thành hệ thống nhất quán, có chiều sâu. Nhưng hơn hết, Nhà nước cần phải khẳng định vai trò điều tiết thị trường theo hướng lành mạnh hóa, tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà phân phối không phân biệt thành phần kinh tế, đồng thời nắm các nhà phân phối lớn để có thể chủ động trước những biến động của thị trường.

Related Documents

Xu Huong Dv Phan Phoi O Vn
November 2019 2
Chinh Sach Phan Phoi
November 2019 12
Chien Luoc Phan Phoi
November 2019 22
Phan Phoi 6 2006 Suadoi
November 2019 0
Huong Dan Phan Vung O Cung
November 2019 4