Vien Canh Toan Cau

  • June 2020
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Vien Canh Toan Cau as PDF for free.

More details

  • Words: 4,647
  • Pages: 7
Điểm lại viễn cảnh toàn cầu: Trời nhiều mây và có thể xảy ra bão Dẫn nhập Xuất khẩu là nguồn phát triển kinh tế chủ yếu của Việt Nam và đã tăng trưởng hơn 70% từ năm 2000 đến 2004, với kim ngạch tính theo đô-la tăng gấp 12 lần kể từ 1991! Hơn một nửa lượng hàng xuất khẩu này được bán ở các nước giàu (hay nhóm các nước giàu) như Nhật, EU và Mỹ. Trung Quốc và ASEAN cũng là những thị trường quan trọng, như có thể thấy trong bảng 1. Trong khi Việt Nam luôn có khả năng giành được thị phần so với các nước khác, thì điều này sẽ dễ hơn nếu các nước khách hàng của Việt Nam có nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Liệu khả năng này có xảy ra hay không? Có nhiều dự báo tăng trưởng khác nhau và những dự báo này thường được điều chỉnh theo các số liệu và sự kiện mới. Do đó, không nên quá chú trọng vào một tập hợp số liệu nào đó. Hơn nữa, sự bất trắc có khả năng đưa đến những kết cục rất khác nhau nếu có bất kỳ biến cố nào xảy ra. Đơn cử mối quan ngại lớn nhất hiện nay là khả năng giá trị đồng đô-la giảm mạnh. Phần này sẽ được thảo luận ở bên dưới. Những biến cố khác cũng không thể không xét đến, chẳng hạn Trung Quốc bất ngờ phát triển chậm lại, một cuộc tấn công khủng bố gây cản trở hoạt động vận tải biển, hay sự gián đoạn về phía cung dầu lửa trên thế giới. Có thể nói hầu như không thể nào vạch kế hoạch cho những biến cố này, ngoài những thứ như lượng dự trữ các sản phẩm dầu lửa. Cách ứng phó tốt nhất là có một nền kinh tế đa dạng và linh hoạt – đây chính là cái mà Việt Nam đang có. Bảng 1 – Vùng địa lý tiếp nhận hàng xuất khẩu từ Việt Nam năm 2003 US EU* Nhật

20% 20% 14%

ASEAN Trung Quốc + Hồng Kông Úc

15% 10% 7%

Hàn Quốc và Đài Loan Nga, Ukraine, Cuba Nơi khác trên thế giới

4% 1% 9%

*EU gồm cả các thành viên Đông Âu mới gia nhập năm 2004. Số liệu của Trung Quốc không tính một số hoạt động thương mại biên giới.

Triển vọng tăng trưởng trong năm 2005 và 2006 đã trở nên u ám bởi những bất trắc về giá dầu, mà trong phần lớn quí tư năm 2004 đã giao động từ 40 đến 50 đô-la. Nếu giá dầu vẫn giữ nguyên ở mức đó, nó sẽ trì kéo tăng trưởng nhưng chưa hẵn sẽ gây ra suy thoái toàn diện. Còn nếu giá dầu tăng cao hơn mức này và duy trì ở đó, tác động tiêu cực có thể hiện rõ. Có nhiều ý kiến khác nhau về việc giá dầu sẽ tăng cao bao nhiêu và kéo dài trong bao lâu, nhưng nhiều người cho rằng tốc độ tăng trưởng toàn cầu sẽ hơi chậm đi và cung sẽ tăng - nếu OPEC cho phép - để kéo giá dầu xuống thấp hơn 40 đô-la một thùng, mà xét theo các nguyên lý căn bản thì giá dầu phải thấp hơn 35 đô-la một thùng. Ngay lúc này, “yếu tố lo ngại” đã góp phần tăng giá dầu. Viễn cảnh thương mại và tăng trưởng của các nước lớn Theo IMF, ADB và những tổ chức khác, viễn cảnh tăng trưởng xuất khẩu từ các nước đang phát triển sẽ tiếp tục với tốc độ 10 – 12%/năm như đã đạt được kể từ năm 2003, trong khi tăng trưởng thương mại sẽ chậm hơn ở các nước giàu. Nếu đúng như vậy thì

David Dapice

1

đây là một bức tranh thuận lợi. Mối đe dọa chủ yếu xuất phát từ những cú sốc do các diễn biến ở một số nước cụ thể. Phần tiếp theo sẽ tóm lược bối cảnh chung của các nước khác nhau. Nhật: Những dự báo chuẩn cho thấy tốc độ tăng trưởng là 2% trong năm 2005 và 2006. Tuy nhiên, sản lượng công nghiệp giảm mạnh (-1,6%) trong tháng 10 đã kéo một số dự báo tăng trưởng GDP xuống còn 1% cho năm tới, thậm chí một vài dự báo khác còn đề cập đến khả năng suy thoái. Sự suy giảm trong tháng 10 có thể một phần do các cơn bão và động đất gây ra, nên có tính chất tạm thời. Tăng trưởng chậm hơn ở Trung Quốc và đồng đô-la yếu đi có vẻ như đang trì kéo cầu xuất khẩu. Việc tái cơ cấu các ngân hàng đã giúp cải thiện viễn cảnh kinh doanh, nhưng sự lão hóa dân số, sự thận trọng của doanh nghiệp khi thuê mướn lao động và sự rớt giá bất động sản, đang triệt tiêu một phần sự cải thiện này. Với lãi suất đồng Yên gần bằng 0 và thâm hụt ngân sách ở mức 6-7% GDP, thì khả năng tiếp tục kích thích hiệu quả nền kinh tế là giới hạn trừ khi có nỗ lực mới để giữ đồng Yên không tăng giá so với đô-la. EU: Người ta cho rằng các nước khác nhau trong Liên minh châu Âu sẽ có những kinh nghiệm khác nhau. Vương Quốc Anh với đồng bảng thả nổi, dự kiến sẽ tăng trưởng khoảng 2,5% trong giai đoạn 2004-05. Nước Đức, nạn nhân của các khoản chi nặng gánh cho khu vực Đông Đức cũ và của bộ luật lao động cứng nhắc, được kỳ vọng chỉ tăng trưởng khoảng 1,5% năm 2005 trước khi vực dậy trong năm 2006. Tuy nhiên, nếu đồng Euro tiếp tục mạnh lên, hàng xuất khẩu của Đức sẽ bị thiệt hại nặng hơn. Pháp ước tính tăng trưởng khoảng 2% một năm trong năm 2004 và hơn một chút vào năm 2006, nhưng chỉ cải thiện được tình trạng việc làm một cách khiêm tốn. Nhìn chung, tăng trưởng của EU sẽ cao hơn, từ 1,8% năm 2004 lên 1,9% năm 2005 và có thể là 2,5% năm 2006, tùy vào diễn biến của đồng tiền chung và giá dầu. Tuy nhiên, thất nghiệp sẽ vẫn đeo đẳng ở mức 8-9%. Mỹ: Mức tăng trưởng 4,4% trong năm 2004 sẽ giảm mạnh còn khoảng 3,5% trong giai đoạn 2005-06, vẫn còn cao hơn mức tăng trưởng dài hạn. Thị trường lao động tiến triển chậm chạp và tăng trưởng việc làm kém có thể khiến chi tiêu tiêu dùng giảm. Các doanh nghiệp có lợi nhuận cao và tiền mặt để đầu tư, nhưng khả năng lãi suất dài hạn tăng mạnh do đồng đô-la đang giảm giá sẽ hạn chế đầu tư kinh doanh trong khi gây cản trở nghiêm trọng cho ngành xây dựng, vốn được xem là nguồn sức mạnh trong thời gian gần đây. Qui mô thâm hụt ngân sách cũng rất đáng ngại, mặc dù mức ước tính từ 3% đến 4% GDP trong năm tài khóa hiện nay vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên thâm hụt tài khoản vãng lai lại rất lớn (hơn 5% GDP) và ngày càng tăng. Vấn đề trên có thể chuyển thành khủng hoảng nếu đồng đô-la tiếp tục suy yếu nhanh chóng. (Xem phần kế tiếp). Trung Quốc: Mức tăng trưởng hơn 9% trong cả hai năm 2003 và 2004 sẽ chậm lại còn 8 - 8,5% một năm trong 2005 và 2006. Sự gia tăng lãi suất gần đây, những biện pháp hạn chế đầu tư quá mức hay theo kiểu đầu cơ, cùng với sự trì kéo do giá dầu tăng cao hơn, sẽ là nguyên nhân của mức tăng trưởng chậm hơn này. Hơn nữa, tình trạng thiếu năng lượng và khan hiếm lao động ở một số tỉnh sẽ có tác động cản trở phía cung. Câu hỏi lớn nhất nhắm vào các quyết định liên quan tới đồng nội tệ. Nếu Trung Quốc vẫn giữ chính sách chốt giá hiện nay (tỉ lệ cố định theo đồng đô-la), nước này sẽ phải tích lũy lượng lớn trái

David Dapice

2

phiếu kho bạc mệnh giá đô-la, để rồi tự đặt mình trước nguy cơ tổn thất nếu đồng đô-la mất giá nghiêm trọng. Còn nếu Trung Quốc thay đổi tỉ giá và củng cố đồng nội tệ, thì e rằng hàng xuất khẩu sẽ bị thiệt hại và sẽ xuất hiện các dòng vốn đầu cơ gây bất ổn các ngân hàng vốn đã yếu kém. Sẽ có khả năng điều chỉnh đồng tiền, chẳng hạn sử dụng rổ tiền tệ, nhưng còn khá lâu. Đồng Đô-la Mỹ đang có thâm hụt tài khoản vãng lai lớn, ngày càng tăng và đã đến lúc không thể duy trì được. Khoản thâm hụt sẽ hơn 600 tỉ đô-la năm 2004 và cao hơn trong năm 2005. Nguồn tiết kiệm từ các hộ gia đình là gần bằng 0, vì giai đoạn lãi suất thấp đã khiến nhiều chủ nhà tái vay thế chấp nhà ở với số lượng lớn hơn khoản vay ban đầu, mà thực chất là họ đang tiêu dùng phần giá trị tăng thêm của ngôi nhà. Chính phủ liên bang cũng đang phải gánh khoản thâm hụt 3-4% GDP, đó là chưa kể phần thặng dư quỹ an sinh xã hội (dùng để mua nợ đặt biệt của chính phủ) không được tính như một phần thâm hụt (mà lẽ ra phải được tính1). Trong vài năm tới khi số lao động về hưu tăng lên cao, các khoản tiết kiệm an sinh xã hội sẽ ít đi và thậm chí sẽ phải ăn dần vào phần tiết kiệm tích lũy. Lúc đó sẽ hiện rõ áp lực giảm phúc lợi, tăng thuế, và/hoặc cắt giảm những khoản chi tiêu khác của liên bang. Những điều chỉnh qui mô lớn như thế sẽ rất khó khăn. Trong khi các khoản thâm hụt tài khoản vãng lai tương đối lớn của năm 2000 đã được các dòng vốn tư nhân tài trợ, thì trong những năm gần đây nhờ thiện ý của các ngân hàng trung ương châu Á đã mua những khoản nợ bằng đô-la, nên đồng đô-la mới không bị rớt giá nhanh chóng so với những đồng tiền khác. Hiện có nguy cơ các dòng vốn tư nhân rút khỏi tài sản Mỹ, các ngân hàng trung ương ngần ngại mua thêm nợ đô-la hoặc chuyển sang loại tiền khác, và mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ ngày càng tăng. Nếu các nguy cơ này đồng loạt xảy ra, đồng đô-la sẽ đột ngột giảm giá mạnh và kéo theo những sự sụp đổ. Lãi suất Mỹ theo đó sẽ tăng mạnh, khiến cả đầu tư lẫn giá nhà ở giảm và tiếp đến là tiêu dùng. (Các khoản vay thế chấp sẽ bằng hoặc lớn hơn giá trị nhà ở, do đó người tiêu dùng sẽ chi tiêu ít hơn để gây dựng lại của cải). Suy thoái ở Mỹ có thể sẽ lan sang các nước khác, vì hàng xuất khẩu của các nước này sang Mỹ sẽ bị thiệt hại do đồng đô-la mất giá cũng như thu nhập của dân Mỹ giảm đi. Để tránh được kết cục này đòi hỏi phải kiểm soát ngay sự trượt dốc của đồng đô-la, cùng với quyết tâm cắt giảm thâm hụt của chính phủ và gia tăng nguồn tiết kiệm tư nhân. Những điều này có thể xảy ra trong một chừng mực nào đó nhưng có lẽ sẽ không đạt được qui mô cần thiết. Yếu tố dân số Phần lớn EU và Nhật đều có mức sinh thấp trong một thời gian dài, và chẳng bao lâu nữa dân số và lực lượng lao động của các nước này sẽ thực sự sụt giảm. Dù không có nhiều kinh nghiệm về điều này nhưng các nhà kinh tế e rằng các nước này sẽ có mức tăng trưởng và đổi mới thấp. Khi tuổi thọ gia tăng và ngày càng có nhiều người sống tới tuổi 90, thì độ tuổi trung bình ở những nước này sẽ tăng lên, đặc biệt khi mức sinh vẫn duy trì 1

Khoản thâm hụt cộng thêm nợ anh sinh xã hội là 560 tỉ đô-la vào năm ngoái và trong một vài năm tới sẽ là 4% đến 5% GDP. Đây là mức cao so với nhu cầu chi trả cho những người về hưu sinh ra trong thời kỳ “bùng nổ dân số”. David Dapice

3

ở mức thấp hơn 1,5 con cho mỗi cặp vợ chồng. Các nước này sẽ có tỷ lệ người lao động trên số người về hưu thấp, do đó việc chi trả các khoản lương hưu và phúc lợi y tế như đã cam kết sẽ rất khó khăn. Đây chủ yếu là những vấn đề dài hạn nhưng đã bắt đầu được cảm nhận ở một chừng mực nhất định, và sẽ trở nên rõ rệt hơn trong một hoặc hai thập niên tới. Nhập cư có thể phần nào giảm nhẹ những vấn đề này, nhưng các quan điểm hiện nay có xu hướng từ chối giải pháp này2. Nhìn chung, yếu tố này có khả năng trì kéo tăng trưởng kinh tế của EU, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. Trung Quốc cũng có khả năng rơi vào tình trạng này sau năm 2030. Mỹ sẽ ít có khó khăn hơn do mức sinh của mỗi cặp vợ chồng xấp xỉ 2 con và số lượng nhập cư lớn hơn. Khía cạnh thú vị của sự biến động dân số này là hiện tượng thuê ngoài, một vấn đề rất được quan tâm hiện nay và bị chỉ trích ở các nước tương đối giàu, nhưng có thể được coi là một cứu cánh. Khi lực lượng lao động giảm và người già đòi hỏi có nhiều dịch vụ hơn, thì khả năng thuê nước ngoài làm một số công việc được xem là một phản ứng cần thiết cho phép các công ty hoạt động với chi phí hợp lý. Các cú sốc từ Trung Quốc và những nơi khác Một số nhà phân tích cho rằng Trung Quốc sẽ gặp những khó khăn nghiêm trọng do thiếu năng lượng, chi phí môi trường, những khó khăn tài chính (ngân hàng yếu kém), hay đơn giản là bất ổn xã hội vì tham nhũng và bất bình đẳng. Nếu tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc giảm mạnh hoặc nếu sản lượng giảm, các nước láng giềng bán hàng sang thị trường phát triển nhanh chóng này sẽ cảm nhận được ngay. Chính những nước này sẽ bị thiệt hại nếu các nhà máy ở Trung Quốc, do cầu trong nước không còn bình thường, bắt đầu bán rẻ sản phẩm và làm tê liệt sản xuất nội địa của các nước khác. Mặc dù chắc chắn những diễn biến trên có thể xảy ra, Trung Quốc vẫn có thể tránh được hầu hết những vấn đề thật sự tồi tệ nhờ sự quản lý tài tình, đầu tư tăng thêm và sự phối hợp các biện pháp thị trường và hành chính. Xác suất xảy ra một cú sốc tích cực từ sự tăng giá đồng nhân dân tệ so với đô-la cũng tương tự như xác suất xảy ra cú sốc tiêu cực. Trong trường hợp đó, nước láng giềng nào có thể giữ nội tệ cố định so với đồng đô-la sẽ có ưu thế về chi phí so với Trung Quốc. Nhưng xét rộng hơn thì chính khả năng chuyển đổi sản xuất từ hàng hóa này sang hàng hóa khác của các doanh nghiệp Việt Nam mới là sự bảo hiểm tốt nhất trước các cú sốc khác nhau. Hơn nữa, nếu Việt Nam có thể thu hút nhiều FDI hơn, kèm theo công nghệ sản xuất, những kết nối với thị trường và hệ thống quản lý tốt, thì tổn thất từ thị trường này sẽ được bù lại bằng lợi ích thu được ở thị trường khác. Ví dụ, hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng từ 1,1 tỉ lên gần 4 tỉ đô-la giai đoạn 2001 đến 2003, chiếm gần 60% tổng tăng trưởng xuất khẩu của giai đoạn này. Nhật và ASEAN nhập khẩu từ Việt Nam trong cùng thời kỳ chỉ tăng 8% mỗi năm, trong khi thị trường EU tăng 13% một năm. Tuy nhiên trong năm 2004, khi tăng trưởng nhập khẩu vào thị trường Mỹ của Việt Nam giảm còn

2

Một khả năng “xuất khẩu” của các nước nghèo có thể là hình thành những thị trấn an dưỡng cho người nước ngoài cao tuổi. Ngoại hối từ những đối tượng này rất được hoan nghênh và họ có thể thuê mướn nhiều lao động địa phương. David Dapice

4

dưới 10%, thì các thị trường khác đã bù vào phần giảm sút này và nhìn chung tăng trưởng xuất khẩu đã thật sự được cải thiện. Tương tự, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đã bắt đầu được đa dạng hóa, từ một số ít nguyên liệu thô, quần áo may sẵn và giày dép cho đến những mặt hàng khác như điện tử, nội thất, phần mềm, thủ công mỹ nghệ, thủy sản và than đá. Sự gia tăng của mặt hàng cà phê từ năm 1995 nhanh đến mức đã kéo giá cà phê thế giới xuống! Khi có thêm nhiều hàng xuất khẩu thì có nghĩa là Việt Nam không quá phụ thuộc vào một thị trường nào, cũng giống như Trung Quốc hiện nay. Chính phủ không cần lên kế hoạch cho tất cả hoặc thậm chí phần lớn những điều chỉnh này. Thông qua việc tạo điều kiện dễ dàng cho hoạt động kinh doanh (một phần nhờ Luật Doanh nghiệp), có được quyền sử dụng đất, vay vốn, thuê mướn lao động đồng thời tự do xuất nhập khẩu, Việt Nam đang tạo điều kiện để nhiều sản phẩm và doanh nghiệp có thể đáp ứng những cơ hội thị trường mới. Điều đó không hề loại bỏ vai trò phải tập trung hơn nữa vào việc đào tạo, tiếp thị, khảo sát công nghệ hay cơ sở hạ tầng đối với một số ngành "mũi nhọn", mà nó cho thấy rằng những biện pháp bao quát thuận lợi cho hoạt động kinh doanh sẽ tiến rất xa để hướng tới mục tiêu gia tăng tính linh hoạt. Giá dầu cao và không ổn định Phần lớn ở châu Á đều có vấn đề đặc biệt liên quan đến giá dầu cao và không ổn định. Đa số các nước trong khu vực này lệ thuộc vào dầu lửa và dễ bị thiệt hại. Tuy nhiên, với lượng dự trữ quốc tế đầy đủ, lạm phát thấp, tỉ phần thu nhập chi tiêu cho dầu lửa thấp hơn so với thập niên 80 và đà phát triển mạnh, mối đe dọa này là không nghiêm trọng xét theo các mức giá và những điều kiện hiện nay. Miễn là cung vẫn có sẵn như từ trước đến nay, thì vấn đề dầu lửa vẫn còn trong tầm kiểm soát.3 Trong trường hợp Việt Nam, giá dầu cao thật ra không phải là vấn nạn. Việt Nam sản xuất dầu nhiều gấp đôi số lượng tiêu dùng trong nước, do đó giá dầu cao – đối với người tiêu dùng là gánh nặng – cũng là nguồn tăng thêm ngân sách cho chính phủ. Thật vậy, “vấn nạn” giá dầu cao với Việt Nam là khá mơ hồ. Người ta thường nói đến “lời nguyền của tài nguyên” xuất phát từ thực tế đơn giản rằng nhiều nước xuất khẩu dầu có kết quả tăng trưởng và phát triển chung rất kém (Nigeria, Venezuela, Công Gô, và có lẽ là Ecuador. Ả rập Saudi cũng từng có hai thập niên tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người âm). Nguyên nhân là khá phức tạp nhưng có thể qui thành hai vấn đề. Một là khu vực xuất khẩu hàng hóa không phải dầu lửa thường không phát triển nếu dầu là mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Rõ ràng Việt Nam không gặp phải vấn đề này. Hai là tâm lý phân chia của cải sẽ lấn át tâm lý tạo ra của cải. Điều đó được mô tả giống như sự khác biệt về ý thức hệ giữa “những người nông dân và những tên cướp biển”. Có nghĩa là bọn cướp biển tìm kiếm kho báu cất giấu và tranh nhau để giành phần chia. Nông dân thì đầu tư vào đất đai, máy cày, hạt giống, kiến thức v.v. và nhận thức được rằng của cải xuất phát từ lao 3

Việt Nam có thể đối phó bằng cách sử dụng nguồn khí LPG hiện có trong nước cho ô tô như Bangkok đã làm. Chỉ cần một điều chỉnh nhỏ trong động cơ, sẽ giúp giảm ô nhiễm và dành dầu mỏ cho thị trường xuất khẩu có lợi hơn. Từ đó tránh sự cạnh tranh giữa các nguồn cung ứng hạn hẹp về nhiên liệu lỏng dùng cho nhiều loại xe cộ. David Dapice

5

động chứ không phải do cướp bóc hay bòn rút chính trị. Ở mức độ nhất định thì Việt Nam đang gặp vấn đề này. Trong bất kỳ trường hợp nào, khi có nhiều tiền trong tay nhờ giá dầu cao, chưa rõ là những cải cách mang tính nhạy cảm có dễ thực hiện hay không. Đôi khi chỉ trong khốn khó mới có được những chọn lựa đúng đắn. Khủng bố Cho đến nay, đa số các cuộc tấn công khủng bố đều nhắm vào các nước giàu, và chúng được thiết kế vì mục đích gây tiếng vang và tàn sát cũng như thiệt hại kinh tế cơ bản. Tuy nhiên, những tuyên bố gần đây cho thấy có sự chuyển hướng sang các mục tiêu kinh tế. Một số tàu chở hóa chất đã bị đánh cắp gần Singapore để xem người ta điều hành cảng cập bến như thế nào, không giống như cướp biển thông thường. Một quả “bom bẩn” gồm những nguyên liệu phóng xạ thông dụng bọc quanh một khối thuốc nổ sẽ đễ dàng gây thiệt hại lớn nếu phát nổ trong khu cảng gần một thành phố lớn. Các tàu chở khí nitơ lỏng cũng từng được đề cập như những mục tiêu khả dĩ, vì chúng có thể tạo ra một vụ nổ lớn trong những điều kiện nhất định. Sau cùng, những mục tiêu đơn giản như các nhà máy lọc dầu, đường ống dẫn dầu, các trạm biến điện, v.v. có thể gây ra những hậu quả lớn, đặc biệt nếu đó là những nước xuất khẩu dầu lớn. Việt Nam ít có khả năng là mục tiêu của những vụ tấn công trực tiếp nhưng đó có thể là Nhật, EU, Úc hay Mỹ. Hoạt động thương mại thông thường có khả năng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Người ta đã tìm thấy các phần tử cực đoan ở Indonesia, Thái Lan, Malaysia và thậm chí ở Singapore. Do đó vấn đề này vừa mang tính khu vực vừa mang tính toàn cầu. Những vụ tấn công ngoài lãnh thổ Việt Nam sẽ làm gián đoạn thương mại thế giới và từ đó phương hại triển vọng kinh tế của Việt Nam. Có khả năng công nghệ giám sát tàu và công-ten-nơ sẽ được cải tiến theo thời gian, và cho phép đảm bảo an ninh tốt hơn với chi phí thấp hơn. Tuy nhiên, nếu các nước vùng vịnh giảm mạnh xuất khẩu dầu, giá dầu sẽ tăng rất cao. Trước mắt có thể sử dụng nguồn dầu dự trữ khẩn cấp nhưng thế giới vẫn cần có thêm trữ lượng ở nhiều nơi khác nhau để nguồn cung được đảm bảo hơn. Liên quan đến hạ tầng năng lượng, việc thực hiện những bước tương tự để ít phụ thuộc hơn vào những nhà máy sản xuất tập trung cao có thể là một cách đối phó cần thiết khác. Các máy phát điện tiết kiệm năng lượng hoặc (xa hơn nữa) pin nhiên liệu cỡ nhỏ và trung bình đang được phát triển và có thể được sử dụng nếu hiểm họa này gia tăng. Nếu may mắn thì những hiểm họa này sẽ bị đẩy lùi và hoạt động sản xuất trở lại bình thường. Còn không thì sẽ có đầu tư lớn hơn vào những nguồn năng lượng an toàn và phân tán. Kết luận: Vẫn tiếp bước nhưng phải sẵn sàng Rất khó, nếu không nói là không thể, hoạch định để đối phó với tất cả những khó khăn khả dĩ, và ngay cả việc thử làm điều đó cũng sẽ vô cùng tốn kém. Những dự báo kinh tế chính đưa ra mức tăng trưởng thương mại thế giới tương đối nhanh (10%/năm hoặc hơn cho các nước đang phát triển) và tăng trưởng GDP khiêm tốn ở đa số các nước giàu. Nhìn chung không khác gì mấy so với thập niên vừa qua. Mọi thứ gần với kết quả này đều rất có lợi cho Việt Nam. Đất nước vẫn đang dựa vào khả năng của mình để gia tăng thị phần thương mại thế giới bằng cách thu hút đầu tư và công nghệ, hơn là dựa vào khả năng của

David Dapice

6

mình để thúc đẩy phát triển thương mại chung. Vì qui mô xuất khẩu của Việt Nam còn quá nhỏ, nên chiến lược này là khả thi, và tiếp tục còn khả thi trong một thập niên nữa hoặc lâu hơn. Tuy nhiên, rất có khả năng là các dự báo chính sẽ bị một số biến cố lớn không nằm trong các dự báo “thông thường” làm cho sai lệch. Nếu điều đó xảy ra, nhiều nền kinh tế sẽ phải điều chỉnh. Do Việt Nam có khả năng điều chuyển con người và nguồn lực, từ một giống cây trồng hay sản phẩm này sang các loại khác một cách nhanh chóng, nên có điều kiện phản ứng tốt hơn trước bất kỳ những thách thức nào so với các nước khác ít có ngoại thương và cứng nhắc hơn. Nói cách khác, câu chuyện thành công tuyệt vời về xuất khẩu và những kỹ năng kèm theo đó không chỉ giúp Việt Nam duy trì hay thúc đẩy tăng trưởng trong một tình huống “chính”, mà còn có thể tránh được các cú sốc trong một tình huống có xác suất xảy ra thấp hơn. Việc xây dựng một kế hoạch nào đó để đối phó với những cú sốc này là điều đáng mong muốn (chẳng hạn như tăng thêm dự trữ nhiên liệu), nhưng vì rất khó để dự báo chính xác những cú sốc này, nên cũng không đáng để hạn chế thương mại hay đầu tư nhiều vào bất kỳ một kịch bản bất lợi nào. Thay vào đó, việc cải thiện giáo dục, đào tạo và sự dễ dàng tạo công ăn việc làm trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể mang lại sự đảm bảo chắc chắn hơn nhờ cải thiện được tính linh hoạt và khả năng phản ứng toàn diện trong nền kinh tế.

David Dapice

7

Related Documents