Ucp_500 (ban Tieng Viet)

  • November 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Ucp_500 (ban Tieng Viet) as PDF for free.

More details

  • Words: 97,815
  • Pages: 138
LỜI TÁC GIẢ Nền thương mại Quốc tế phát triển mạnh mẽ trên cơ sở các dịch vụ viễn thông, vận tải, bảo hiểm ... Ðặc biệt, Ngân hàng với dịch vụ thanh toán của mình đã tạo được niềm tin của người mua, người bán, góp phần thu hẹp khoảng cách mậu dịch các nước. Trong các phương thức thanh toán quốc tế, phương thức thanh toán Tín dụng Chứng từ là phương thức thông dụng, phổ biến và an toàn nhất. Mọi giao dịch chứng từ đều được chỉ dẫn bởi các qui tắc được tập hợp thành Bản Ðiều Lệ và Thực hành thống nhất. Ðây không phải là Bộ luật Quốc tế mà chỉ là những quy tắc ấn hành bởi Phòng Thương Mại Quốc tế (ICC), một tổ chức phi chính phủ có ảnh hưởng sâu rộng, đặc biệt là trong lĩnh vực Thương mại - Tài chính Ngân hàng thế giới. Kể từ khi được phát hành vào năm 1933, Bản Ðiều Lệ đã qua 6 lần sửa đổi với mục đích theo kịp sự phát triển chung của nền mậu dịch, nền công nghiệp vận tải và truyền thông trên thế giới, ấn phẩm số 500 năm 1993 được coi là bản sửa đổi toàn diện, sâu sắc nhất. Tuy nhiên đó cũng là Bản Ðiều Lệ khó hiểu và khó vận dụng nhất trong tất cả các Bản Ðiều Lệ đã có, đối với người mở, người hưởng và các ngân hàng. Cho đến nay, Bản Ðiều Lệ 500 đã có hiệu lực gần 2 năm. Nhiều bản dịch Tiếng Việt ra đời nhằm tạo sự thuận lợi cho bạn đọc hiểu và vận dụng vào giao dịch. Thực ra bản dịch không quan trọng vì mỗi một chúng ta, khi đã liên quan thì phải đọc hiểu bằng chính ngôn ngữ giao dịch hàng ngày của chính nó. Làm thế nào hiểu rõ, nắm chắc và áp dụng đúng tất cả các điều khoản của Bản Ðiều Lệ vào giao dịch Tín dụng chứng từ? Ðó là điều ta cần quan tâm. Cuốn sách này không bao quát toàn bộ quá trình giao dịch của nghiệp vụ Tín dụng Chứng từ (TDCT), từ khi ký kết hợp đồng thương mại đến khi thu tiền XK theo Tín dụng thư (TDT), mà chỉ giới hạn theo nội dung của Bản Ðiều Lệ. Tuy nhiên muốn thực hiện tốt các giao dịch đó ta phải nắm vững, hiểu sâu từng ý, từng phần các Ðiều khoản của Ðiều lệ 500. Sách được viết dựa trên tài liệu mới nhất của Phòng Thương Mại Quốc tế (ICC), kiến thức và kinh nghiệm của bản thân tác giả, nhằm giúp cho các cán bộ xuất nhập khẩu, nhân viên ngân hàng mới vào nghề, sinh viên các trường ÐH kinh tế sắp ra trường ... những hiểu biết theo chiều sâu của vấn đề dựa trên các tài liệu của ICC, từ đó nắm bắt được bản chất của từng điều khoản, áp dụng vào giao dịch TDCT một cách chính xác và nhuần nhuyễn. Với mục đích đó nội dung của cuốn sách này được trình bày có hệ thống từng Ðiều khoản của Bản Ðiều Lệ 500 gồm 3 phần chính: 1.Nguyên bản tiếng Anh. 2.Bản dịch tiếng Việt gồm lời nói đầu của ông Charles Dil Busto, Trưởng Ban soạn thảo (Working Group) Bản sửa đổi Ðiều Lệ 500 và tất cả 49 điều khoản. Việc dịch thuật được thực hiện theo với nguyên tắc không quá gò bó vào từng từ mà nắm chủ yếu bản chất và ý nghĩa thực tiễn của các điều khoản. 3.Phần cuối cùng bao gồm : • So sánh sự khác biệt giữa Bản Điều lệ 400 và Bản Ðiều lệ 500 của từng điều khoản (Nếu có), nêu rõ nguyên nhân của việc sửa đổi đó. • Giải thích, phân tích từng phần của các điều khoản. • Bình luận, mở rộng và đi sâu vào những điều cốt lõi của vấn đề để người đọc nắm được bản chất của Quy tắc trên cơ sở Thông lệ và Tập quán Quốc tế. • Minh hoạ, dẫn chứng bằng các thí dụ trong thực tế hoặc trong các Tài liệu của Phòng Thương mại Quốc tế, nhằm củng cố thêm phần lý luận, bảo đảm tính Logic và tính hợp pháp của vấn đề nêu ra. 1

Ngoài ra mẫu biểu đối với các chứng từ cần thiết: Vận tải đơn, bảo hiểm, Hối phiếu ... được đính kèm nhằm giúp bạn đọc tra cứu, tham khảo. Lần xuất bản đầu tiên (12/1995) cuốn sách đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Ðể đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, cuốn sách được tái bản với những sửa đổi, bổ sung dựa vào các yêu cầu mới nhất của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC), nhằm cập nhật hoá những kiến thức và kỹ thuật nghiệp vụ Tín dụng chứng từ. Hy vọng cuốn sách sẽ là tài liệu tham khảo & nghiện cứu của những ai liên quan đến hoạt động XNK và giao dịch, thanh toán Quốc tế. TP. Hồ Chí Minh, 6 – 1996 Nguyễn Trọng Thuỳ Firstvina Bank (Ngân hàng liên doanh giữa Vietcombank và Korea First Bank)

LỜI NÓI ĐẦU Tháng 11 - 1989, Uỷ ban về Kỹ thuật và Nghiệp vụ Ngân hàng (CBTP) thuộc Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) được phép sửa đổi Bản Ðiều lệ và Thực hành Thống nhất Tín dụng Chứng từ số xuất bản 400. Yêu cầu của lần sửa đổi này là nêu bật sự phát triển của nền Công nghiệp vận tải và việc ứng dụng công nghệ mới. Sửa đổi này cũng nhằm hoàn thiện chức năng của Bản Ðiều Lệ. Một số nghiên cứu cho thấy khoảng 50% chứng từ xuất trình bị từ chối vì bất hợp lệ. Ðiều này đã vô hiệu hoá Tín dụng Chứng từ và tạo ra những áp lực về tài chính đối với nhà sản xuất. Vấn đề này cũng làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận đối với nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và cả ngân hàng. Sự gia tăng đáng kể về tranh chấp trong giao dịch. TDCT cũng là điều được các nhà soạn thảo Bản sửa đổi quan tâm. Ðể nêu bật những vấn đề này, CBTP đã thành lập Tổ soạn thảo. (WG) để sửa đổi Bản Ðiều lệ 400. WG bao gồm các chuyên gia Ngân hàng Quốc tế, các Giáo sư luật, các luật sư về NH bảo đảm sự đầu tư toàn diện vào các vấn đề nêu ra. Yêu cầu của WG là: • đơn giản hoá Bản Ðiều lệ 400; • tổng hợp mọi hoạt động thực tế của các Ngân hàng Quốc tế cũng như tạo thuận lợi và tiêu chuẩn hoá những thực tiễn đó; • củng cố sự toàn vẹn và độ tin cậy của cam kết tại TDCT bằng nghĩa vụ không hủy ngang và rõ ràng không chỉ của Ngân hàng phát hành mà còn cả Ngân hàng xác nhận; • nêu ra những vấn đề của những điều kiện không cần chứng từ và • lập danh mục chi tiết về những chứng từ vận tải khả dĩ chấp nhận. WG không chỉ xem xét về mặt thực tiễn liên quan đến TDCT mà còn nêu lên những triển vọng phát triển nó. Làm thế nào WG lại có thể nói trước được những quy tắc TDCT nào sẽ đáp ứng được nhu cầu thương mại quốc tế trong tương lai? Những quy tắc đó dựa trên cơ sở thực tế vận dụng các điều khoản đang tồn tại? Chúng dựa trên cơ sở sửa đổi những vấn đề đang phát sinh do hiểu sai và áp dụng không đúng điều lệ? hay trên cơ sở giải thích khác nhau của các bên về TDCT? Cuối cùng sự phân tích của WG đi theo hướng sử dụng nhiều thông tin có giá trị đối với công nghệ Ngân hàng và ngành công nghiệp vận tải, và bằng cách nêu ra những kiến thức cơ bản của việc đổi mới kỹ thuật đang được áp dụng trong các ngành công nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế. Ðể đạt được những nguyên tắc tổng quát hơn là đặc thù, WG đã soạn thảo Bản sửa đổi dựa vào thực tế mà các Uỷ ban Quốc Gia (NC) của ICC nêu ra các quyết định có tính chất pháp 2

lý quốc tế, các ý kiến và quan điểm của Uỷ ban về Ngân hàng (BC) và những vụ việc cần xem xét phát sinh trong 20 năm qua. Do vậy lần sửa đổi này của bản Ðiều lệ thực hiện được mức tối đa về chiều rộng của sự phân tích, xem xét, tranh luận và nhất trí giữa các thành viên trong WG, các thành viên của BC, của NC và của ICC. Những đóng góp nào của những thành viên của các thành viên trong WG giúp trình bày chính xác các Ðiều khoản của Bản lệ 500? Rõ ràng cả trong cuộc sống riêng tư lẫn trong sự nghiệp của mình, chúng tôi đã được qua năm tháng, vì chúng tôi đã tích luỹ và tạo dựng kiến thức và kinh nghiệm. Ðấy chính là sức mạnh và các thành viên của WG huy động vào quá trình soạn thảo Bản Sửa đổi Ðiều lệ. Nó cho phép WG phát triển các quy tắc trung hoà và sinh động nhằm tạo thuận lợi cho mọi nỗ lực của các bên liên quan đến cam kết của TDCT. Ðiều dễ hiểu là không thể trong phạm vi của số XB này mà đi sâu vào chi tiết của sự phân tích súc tích của WG. Cũng không phải mục đích là nêu bật những ưu điểm mà WG đã đạt được, những ai quan tâm đến vấn đề này hãy tìm đến Tài liệu số XB 511 của ICC (TDCT: So sánh giữa bản điều lệ 400 và 500 - phân tích từng Ðiều khoản) được viết với mục đích trên. Chân thành cảm ơn Uỷ ban Quốc gia của ICC và các thành viên của Uỷ ban Ngân hàng về những ý kiến đóng góp chuyên môn và những giải pháp xây dựng góp ý. Xin cảm ơn các nước chưa có Uỷ ban Quốc Gia (chủ yếu tiếp xúc với ICC qua hội đồng về luật Thương Mại Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc) mà những đóng góp và giúp đỡ của họ có giá trị to lớn và quan trọng, cũng như các cơ quan của Liên Hiệp Quốc liên quan đến các thủ tục thương mại quốc tế. Ðể các bạn hiểu rõ những người đã đóng góp vào Bản sửa đổi lần này, tôi xin giới thiệu các thành viên của WG. • Boris Kozolchyk, Giáo sư luật, trường đại học Arizona, Tucson, Arizona, Mỹ; Ðại diện của Hội đồng Mỹ về Tổ chức Ngân hàng Quốc tế New York tại WG. • Salvatore Maccarone, Giáo sư luật, trường đại học Rome, Cố vấn pháp luật, Hiệp hội Ngân hàng Italy, Rome; Phó chủ tịch CBTP của ICC. • Terence J. Mitchell (nay đã nghỉ hưu), Trưởng phòng cấp cao, Phòng TDCT Ngân hàng Lloyds, London, Ðại diện của Hiệp hội của Ngân hàng Anh quốc tại CBTP. • Ferdinand Muller, Phó chủ tịch thứ nhất Ngân hàng Deutch Bank, Frankfuft, Ðại diện và cố cấn kỹ thuật tại CBTP. • Gunnar J. Siebke, phó chủ tịch Cấp cao tại Trung tâm tài trợ Thương mại, Ngân hàng Chrestian,oslo, Norway; Ðại diện tại CBTP. • Dan Taylor, Chủ tịch Hội đồng Mỹ về Tổ chức Ngân Hàng Quốc tế, New York; Ðại diện tại CBTP. • Joachim G. Weichbrodt, Cố vấn pháp luật Ngân hàng Dresdner Bank, Frankfurt; Ðại diện tại CBTP. • Bernand S.Wheble CBE, chủ tịch danh dự CBTP của ICC • Stefan Draszczyk, Trưởng bộ phận thuộc ICC, Paris. Người ký dưới đây hân hạnh được ứng cử đứng đầu WG. Bằng những đóng góp to lớn về kiến thức và thời gian của các vị mà Bản sửa đổi này được hoàn thiện tốt đẹp. Là Chủ tịch CBTP, tôi xin gởi tới các thành viên của WG và cơ quan của họ sự cảm kích sâu sắc về những đóng góp quí giá của các thành viên và những việc làm đầy tình bạn hữu. ICC cảm ơn sự quên mình vì công việc của các vị đối với tác phẩm này. CHARLES DIL BUSTO 3

Chủ tịch, Uỷ ban về Kỹ thuật và Nghiệp vụ Ngân hàng; Phòng Thương mại Quốc tế. Ngày 10 tháng 3 -1993

HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG ĐIỀU LỆ & THỰC HÀNH THỐNG NHẤT TÍN DỤNG CHỨNG TỪ (Bản sửa đổi 1993, số Xuất bản 500 Phòng Thương Mại Quốc Tế) Tái bản, có bổ sung và sửa đổi • • • •

So sánh với bản điều lệ 400 Giải thích, phân tích Bình luận Dẫn chứng & dẫn liệu từng điều khoản

NỘI DUNG A. QUY ĐỊNH CHUNG VÀ ĐỊNH NGHĨA THE UNIFORM CUSTOMS AND PRACTICE FOR DOCUMENTARY CREDITS ĐIỀU LỆ VÀ THỰC HÀNH THỐNG NHẤT TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

QUY ĐỊNH CHUNG VÀ ĐỊNH NGHĨA: ĐIỀU 1: PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA BẢN ĐIỀU LỆ Điều lệ và thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ, bản sửa đổi 1993, số Xuất bản 500 của phòng Thương mại Quốc tế được áp dụng cho tất cả các Tín dụng chứng từ, trong trường hợp có thể áp dụng được, kể cả Tín dụng dự phòng Nếu trong TDT có dẫn chiếu việc áp dụng các điều khoản Bản Điều lệ. Trừ khi tín dụng qui định khác, các Điều khoản này ràng buộc tất cả các bên có liên quan. 1. Bản điều lệ được áp dụng như thế nào ? Điều khoản 1 trả lời câu hỏi này bằng cách quy định rõ là Điều lệ và Thực hành Thống nhất Tín dụng Chứng từ (sau đây gọi tắt là TDT) chừng nào mà TDT ghi rõ câu "TDT này áp dụng theo điều lệ và Thực hành Thống nhất về Tín dụng Chứng từ, bản sửa đổi 1993 Phòng Thương mại Quốc tế, số xuất bản 500". ("This DC is subject to UCPDC 1993 Revision, ICC Pub 500" hoặc là "UCPDC 1993 Rev.ICC.Pub.500 referred"). Ngay cả Tín dụng thư dự phòng nếu được ghi như vậy trong nội dung thì nghiễm nhiên được áp dụng theo Bản Điều lệ 500. 2. Tín dụng thư dự phòng 4

TDT dự phòng theo định nghĩa của Phòng Thương mại Quốc tế (sau đây gọi là ICC), Tài liệu số xuất bản 515" là loại Tín dụng chứng từ hoặc một thoả thuận tương tự, dù được gọi hoặc miêu tả bằng cách nào, theo đó Ngân hàng phát hành cam kết với người hưởng: a. trả khoản tiền mà Người yêu cầu mở TDT đã vay hoặc ứng trước, b. thanh toán khoản nợ của người mở, hoặc c. bồi hoàn về những thiệt hại do người mở không thực hiện được nghĩa vụ của mình." TDT dự phòng là một phương tiện thanh toán thứ yếu mặc dù người ta vẫn nhìn nhận nghĩa vụ thanh toán của Ngân hàng phát hành là chủ yếu. TDT thương mại hoặc TDT dự phòng đều là cam kết của Ngân hàng phát hành về khoản nợ phát sinh đối với từng người hưởng. Nhưng TDT thương mại được coi là khoản tiền thanh toán cho nhà xuất khẩu, trong lúc đó TDT dự phòng có tính chất bảo vệ quyền lợi người hưởng Nếu có vi phạm cam kết của đối tác. Sự ra đời của TDT dự phòng bắt đầu và đang được sử dụng nhiều ở Mỹ và Nhật, nơi mà luật không cho phép Ngân hàng thương mại phát hành bảo lãnh. Nhưng các nước Châu Âu lại ít dùng TDT này mà thay bằng các loại Bảo lãnh thư khác. Ngày nay TDT bắt đầu và đang được phát triển thành 1 công cụ vạn năng được sử dụng trong phạm vi rộng rãi của hoạt động tài chính và thương mại hơn các loại hình bảo lãnh thông thường. Thí dụ: TDT dự phòng phát hành để đảm bảo khoản nợ vay hoặc tạm ứng rút quá số dư ... hoặc bất cứ nghiệp vụ nào mà cần có bảo lãnh của Ngân hàng. 3. Sự khác nhau về TDT dự phòng và Bảo lãnh thư TDT dự phòng và bảo lãnh thư thực chất là sự bảo lãnh của Ngân hàng. Cả hải đều phát huy tác dụng "bảo đảm" của nó khi người yêu cầu bảo lãnh (Principal) vi phạm hoặc không thực hiện đúng cam kết đã thoả thuận. Trường hợp ngược lại TDT dự phòng và Bảo đảm thư tự động hết hiệu lực. Vai trò của Ngân hàng có tính chất "dự phòng" trong tình huống có thể xảy ra. Cách gọi của TDT dự phòng cũng nói lên tính chất của nó. Điểm khác biệt của hai loại hình bảo lãnh là phạm vi áp dụng. TDT dự phòng được thực hiện theo điều lệ và Thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ, còn bảo lãnh thư lại áp dụng Qui tắc về Bảo lãnh - Phòng Thương mại Quốc tế Pari, số xuất bản 458 (Uniform Rules for Demand Guarantee - URDG, ICC Pub.No. 458). Bảo lãnh thư có nhiều tiêu đề khác nhau: Letter of Indemnity, Performance Bond, Performance Guarantee, Tender Guarantee ... Vì bản chất chúng là bảo lãnh nên TDT dự phòng và bảo lãnh thư có thể được dùng thay thế cho nhau tuỳ từng nước và khu vực trên thế giới. 4. Sự ràng buộc về mặt pháp lý của Bản điều lệ 500 đối với các bên liên quan . Đây là phần mà Bản điều lệ 400 không đề cập. Đã chấp nhận TDT mở theo Bản Điều lệ 500 thì các bên liên quan: Người mở, Người hưởng, Ngân hàng phát hành, Ngân hàng thông báo, Ngân hàng xác nhận (nếu có), Ngân hàng chiết khấu ... đều căn cứ vào bản điều lệ mà thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đây là điểm tích cực của Bản Điều lệ 500 so với các Bản Điều lệ trước đó. Điều khẳng định này đã bác bỏ những nhận thức mơ hồ trước đây của người mở TDT, người hưởng ... là Bản Điều lệ chỉ là qui tắc giữa các ngân hàng mà thôi, còn họ thì giải quyết với nhau trên cơ sở hợp đồng và hàng hoá, dựa vào Incoterm. Tuy nhiên, Bản Điều lệ 500 cũng mở ra một cách thức riêng mà các bên liên quan (chủ yếu là người yêu cầu mở TDT và bên thụ hưởng) không muốn quá ràng buộc vào tất cả các điều khoản của Bản Điều lệ 500, "Trừ khi TDT quy định khác", có nghĩa là TDT có thể nói rõ là không áp dụng một hoặc vài điều khoản nào đó của Bản điều lệ 500. Do vậy, các nhà xuất nhập khẩu phải nắm được ý nghĩa quan trọng này để khi ký kết hợp đồng, nhất là khi thương lượng về điều kiện thanh toán, vận dụng linh hoạt UCP 500 nhằm đảm bảo an toàn cho mình. ĐIỀU 2: ĐỊNH NGHĨA TÍN DỤNG THƯ 5

Trong phạm vi của Bản điều lệ 500, các thuật ngữ "Tín dụng chứng từ" và "Tín dụng dự phòng" (sau đây được gọi là "Tín dụng thư - TDT ") nghĩa là bất cứ thoả thuận được gọi hoặc miêu tả như thế nào, theo đó ngân hàng (ngân hàng phát hành) hành động đúng yêu cầu và theo chỉ thị của khách hàng (người yêu cầu mở TDT) hoặc nhân danh cho chính bản thân mình. i. thanh toán cho hoặc theo lệnh của phĩa thứ ba (người hưởng) hoặc chấp nhận và thanh toán hối phiếu do người hưởng ký phát, hoặc ii. uỷ quyền cho ngân hàng khác thanh toán, chấp nhận và thanh toán hối phiếu đó, hoặc iii. cho phép ngân hàng khác chiết khấu chứng từ quy định trong TDT với điều kiện chứng từ phù hợp với tất cả các điều khoản và điều kiện của TDT. Với mục đích của Bản điều lệ 500, các chi nhánh của 1 ngân hàng ở các khác nhau được coi là những ngân hàng khác nhau. 1. Cách gọi hoặc tiêu đề của TDT Tuỳ theo thói quen và thông lệ từng nước mà TDT được gọi với nhiều tên khác nhau: Letter of Credit, Credit, Documentary Credit. Tương tự, ở Việt Nam ta cũng có thể gọi là Tín dụng thư, Tín dụng chứng từ, L/C ... Trước đây, TDT gọi là Tín dụng thương mại (Commercial Letter of Credit) nhưng nay thì từ này không dùng được nữa mà thông dụng nhất là từ "Tín dụng chứng từ" (Documentary Credit) vì nó thể hiện đúng nhất ý nghĩa Tín dụng kèm chứng từ. Dù được gọi như thế nào, diễn tả như thế nào (however named and described) đi nữa, thì bản chất của TDT là sự cam kết của ngân hàng phát hành thanh toán cho người hưởng khi bộ chứng từ được xuất trình hợp lệ, đúng theo nghĩa trong Bản điều lệ này. 2. Hiểu như thế nào về Tín dụng thư • TDT là cam kết của ngân hàng đối với việc thanh toán số tiền cho người thụ hưởng theo đúng các điều khoản của TDT. Bản chất của TDT là bảo đảm của NH về khoản nợ đó (liability). Từ "Arrangement" được dùng với nhiều ý nghĩa. • "Credit " có nghĩa là NH cấp vốn cho khách hàng. Khoản tài trợ này được thương lượng giàn xếp giữa đôi bên để đi đến kết quả là TDT được phát hành. Rõ ràng sự thoả thuận của ngân hàng không phải ngẫu nhiên mà trải qua 1 quá trình bàn thảo có sự cân nhắc, sắp xếp. • "Credit" có nghĩa là sự tín nhiệm. Trong nhiều trường hợp, NH dùng sự tín nhiệm của mình cho người mua "vay" để được người bán giao hàng chứ không phải là cấp vốn bằng tiền. Những trường hợp này, NH chịu nhiều rủi ro Nếu người mua mất khả năng thanh toán hoặc phá sản. Như vậy, việc bảo lãnh cho người mua cũng phải trải qua 1 quá trình thương lượng, cân nhắc và dàn xếp. • Nội dung của TDT cũng thể hiện sự sắp đặt, thoả thuận của ngân hàng để đi đến điều khoản cam kết thanh toán bộ chứng từ. Để nhận được khoản thanh toán từ ngân hàng, người hưởng phải hoàn tất những điều khoản của TDT. Đây là quá trình có tính logic của một vấn đề phát sinh liên quan đến hoạt động và ngân hàng. Thoả thuận này được trình bày rõ trong TDT. Mặc dù nội dung của TDT được diễn tả theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt là điều khoản thanh toán, nhưng TDT phải thể hiện được cam kết của ngân hàng mở: thanh toán hoặc chấp nhận và thanh toán, hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác thực hiện nghĩa vụ này, cho phép NH khác chiết khấu bộ chứng từ xuất trình hợp lệ theo đúng các điều khoản của TDT. Do vậy, kiểm tra TDT xuất khẩu, NH thông báo, NH chiết khấu cũng như công ty xuất khẩu phải quan tâm nhiều đến điều khoản thanh toán. Đó là mục 41D, 42 và 78 mẫu điện 700 (MT700) Nếu TDT được mở bằng SWIFT. Nếu là TDT được mở bằng telex thì điều kiện thanh toán được thể hiện ở phần hối phiếu ký phát và chỉ thị cho ngân hàng chiết khấu. 6

Thí dụ Điều khoản thanh toán được diễn giải: 1. "TDT này có giá trị chiết khấu ở bất cứ NH nào bằng hối phiếu trả ngay (hoặc trả chậm 120 ngày kể từ ngày vận tải đơn) do người thụ hưởng phát hành đòi tiền tại chúng tôi kèm theo các chứng từ sau ..." (... available for negotiation at any bank by beneficiary's sigh draft / nuisance draft of 120b days from B/L date, drawn on us accompanied by the following documents ...) 2. "Chỉ thị cho NH chiết khấu" (instructions to negotiating bank): "Ngay khi / sau khi nhận được chứng từ phù hợp với các điều khoản của TDT, chúng tôi sẽ hoàn trả tiền theo chỉ thị của các ông" (Upon / after receipt of documents which have been complied with, we shall reimburse to you as your instructions). 3.TDT được phát hành nhân danh chính ngân hàng đó (on its own behalf) Điều khoản này của Bản Điều lệ 500 được bổ sung vào một số mục so với bản cũ. NH có thể mở TDT cho chính bản thân mình. Điều này phù hợp với việc sử dụng ngày càng nhiều loại TDT dự phòng mà trong đó NH vừa là người yêu cầu mở, vừa là NH phát hành. Tuy nhiên, ICC đã lưu ý các Phòng Thương mại Quốc gia rằng mặc dù Bản điều lệ 500 cho phép nhưng luật các nước có thể không coi TDT do ngân hàng phát hành cho chính mình là hợp pháp. "Nhưng điều cần thiết là nên chấp thuận phương thức phát hànhTDT theo cách này trong Bản điều lệ, đáp ứng yêu cầu thực tế ngày càng sinh động của thị trường" (Tài liệu ICC số xuất bản 511-trang 5 ). "Nevertheless, in view of market partices, it is prudent to have the UCP reflect and permit this special arrangement". Nghĩa vụ của NH là chấp nhận và thanh toán hối phiếu trả chậm, chứ không thể chỉ chấp nhận hối phiếu trả chậm (không ghi thêm chữ "và thanh toán") như bản Điều lệ 400. Nếu bộ chứng từ xuất trình hợp lệ, NH phải chấp nhận hối phiếu. Đây là thủ tục pháp lý đầu tiên dẫn đến hệ quả đương nhiên là thanh toán vào ngày đáo hạn. Tuy nhiên đã là luật thì phải chính xác, chặt chẽ và logic, nhằm tránh những tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện. Do vậy, điều khoản này của bản điều lệ 500 được ghi rõ "... chấp nhận và thanh toán các hối phiếu đó". 4. Các ngân hàng với các pháp nhân độc lập Phần cuối của điều khoản này quy định " Với mục đích của bản điều lệ 500, những chi nhánh của 1 NH ở các nước khác thì được coi là các NH khác". Mục đích của bản điều lệ này là tạo ra 1 cơ sở pháp lý có tính chất quốc tế để các bên liên quan thực hiện giao dịch tín dụng chứng từ. Do vậy, những NH liên quan phải là những pháp nhân độc lập. Nếu là chi nhánh của NH mở TDT hoạt động tại một nước khác thì về mặt giao dịch Tín dụng chứng từ, đó là một pháp nhân riêng biệt, mặc dù về mặt pháp lý nó là chi nhánh NH mẹ. Do vậy, ban soạn thảo Bản sửa đổi điều lệ (Working Group) sau đây gọi tắt là WG, quyết định áp dụng nguyên lý về quan niệm 1 NH của UNCITRAL (The Unined Nations Commision on International Trade Law: Uỷ ban về luật thương mại quốc tế của LHQ). Theo WG, Nếu chi nhánh (CN) của NH ở nước khác không phải là 1 NH độc lập thì mọi rủi ro về chính trị cũng như kinh tế ảnh hưởng CN đó sẽ được giải quyết theo luật nước đó và / hoặc luật của nước của NH mẹ của CN đó, tùy thuộc vào toà án được lựa chọn và những nguyên tắc của toà về chọn luật trong những trường hợp trên. Do vậy toà án này có thể thừa nhận Luật quản lý ngoại hối của một nước khác hoặc ảnh hưởng về đặc quyền ngoại giao của sự trưng dụng, hoặc tác động của việc xét xử khách hàng mất khả năng thanh toán cho nước ngoài ..., nhưng toà án khác lại có thể không thừa nhận những vấn đề nêu trên. Để tránh những phức tạp có thể xảy ra trong những giao dịch Tín dụng chứng từ, WG ghi rõ: Chi nhánh của 1 NH hoạt động ở các nước khác nhau được coi là những NH độc lập. Như vậy, về 7

luật pháp nó chịu sự quản lý của nước nó hoạt động và không bị lệ thuộc bởi luật pháp của nước của NH mẹ. Từ những thực tế trên, khách hàng là người hưởng có thể yêu cầu chi nhánh của 1 NH nước ngoài đóng tại địa phương mình xác nhận TDT do Hội sở chính của nó hoặc chi nhánh khác ở nước khác phát hành. Thí dụ: Trong trường hợp cần thiết, khách hàng Việt Nam có thể yêu cầu Banque Natioale de Paris (BNP) CN. Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận TDT của BNP, CN tại Braxin phát hành. Trường hợp này nhà xuất khẩu mới bắt đầu làm ăn với khách hàng Braxin, không thể hiểu rõ luật lệ, tập quán của nước đó. Do vậy, việc xác nhận là nhằm ràng buộc trách nhiệm của BNP Thành phố Hồ Chí Minh vào nghĩa vụ thanh toán TDT Nếu có sự tranh chấp của hai bên do 2 hệ thống luật khác nhau của hai nước. Trên cơ sở quy định này, từ "ngân hàng" được sử dụng trong tất cả các Điều khoản của Bản điều lệ nhằm nói về các ngân hàng nói chung, bất kể là ngân hàng nội địa, ngân hàng trung ương, ngân hàng chi nhánh ... phát hành, thông báo, xác nhận, chiết khấu chứng từ TDT ĐIỀU 3: TÍN DỤNG THƯ VÀ HỢP ĐỒNG a. Về bản chất TDT là những giao dịch riêng biệt với Hợp đồng thương mại và các loại Hợp đồng (HĐ) khác mà các HĐ này có thể là cơ sở cho TDT, nhưng các NH bất luận trong trườnghợp nào cũng không liên quan đến, hoặc không hề ràng buộc bởi những hợp đồng đó, ngay cả khi TDT có dẫn chiếu đến HĐ đó. Vì thế cam kết của NH về thanh toán, chấp nhận và thanh toán hối phiếu, hoặc chiết khấu và / hoặc thực thi bất cứ nghĩa vụ nào của TDT không phụ thuộc vào khiếu nại hoặc biện hộ của người mở phát sinh từ mối quan hệ của người mở với NH phát hành hoặc với người hưởng. b. Trong bất cứ trường hợp nào người hưởng cũng không được lợi dụng quan hệ HĐ giữa các NH, hoặc giữa người mở với ngân hàng phát hành TDT. Điều khoản này được soạn thảo xuất phát từ một tập quán có tính chất truyền thống: Các NHTM giao dịch bằng chứng từ. Hiện nay giao dịch này được đa dạng hoá: điện thoại, telex, swift, fax nhưng nó vẫn tồn tại và phát triển trên cơ sở vốn có: - chứng từ . 1. Tính độc lập của TDT TDT hoàn toàn độc lập với HĐ giữa người mở và người hưởng mặc dù TDT cụ thể hoá nghĩa vụ và quyền lợi của hai bên: người mua yêu cầu NH bảo đảm thanh toán, người bán phải giao hàng đúng quy định như HĐ (Có thể chi tiết hàng hoá được đưa vào TDT hoặc không), đúng thời hạn, thiết lập chứng từ hoàn chỉnh và hợp lệ, thông báo cho người mua... và các điều kiện khác đã thoả thuận. Việc đưa những chi tiết nào của HĐ vào TDT là do người mở quyết định, NH không can thiệp. Nếu TDT có ghi những dẫn chiếu đến HĐ nào đó thì chứng từ hàng hoá cũng phải ghi đến hợp đồng đó, mặc dù có rất nhiều chi tiết hàng hoá được mô tả thêm trong hoá đơn. Thí dụ: Phần hàng hoá của TDT ghi "Các chi tiết theo đúng hợp đồng số 0015 ngày 15-2-1995" ("details as per contract No.0015 dated 15 Feb 95"). Hoá đơn xuất trình cho NH có thể mô tả rất nhiều chi tiết về hàng hoá nhưng phải có câu "các chi tiết theo đúng HĐ số 0015 ngày 15-21995". Nếu không có câu này NH sẽ từ chối (mặc dù hàng hoá mô tả đúng như HĐ đó), mà không cần kiểm tra, đối chiếu với HĐ số 0015. Tuy nhiên có trường hợp NH phải ràng buộc với HĐ đó. Thí dụ, TDT ghi "mọi chi tiết hàng hoá theo đúng HĐ số 0015 ngày 15-2-1995 mà nó là một phần không thể tách rời của TDT"("details of goods as per Contract No.0015 dated 15 Feb 95, which form an integrated part of this L/C") . Trường hợp này HĐ đó phải được gửi bằng thư đến cho NH thông báo. Người hưởng phải xuất trình hoá đơn mô tả hàng hoá đúng như HĐ. NH kiểm tra hàng hoá ở HĐ với hoá đơn xuất trình. Tuy nhiên trách nhiệm của NH chỉ kiểm tra số và ngày của HĐ và phần mô tả hàng hoá mà thôi. 8

Hoá đơn tất nhiên phải được ghi thêm câu đã được ghi trong TDT. Nói chung nếu gặp những TDT trong điều kiện này thì người hưởng nên yêu cầu sửa đổi hoặc là ghi đầy đủ chi tiết hàng hoá vào TDT, hoặc chỉ tham chiếu số HĐ mà thôi nhằm tránh những tranh chấp phát sinh. Hơn nữa, TDT kiểu này sẽ làm rối rắm thêm cho các NH khi áp dụng Điều 3 của Bản Điều lệ 500. 2. Vai trò trung gian của Ngân Hàng Cho dù dẫn chiếu Hợp đồng Thương mại vào TDT theo cách này hay cách khác thì trách nhiệm thanh toán của NH không ảnh hưởng, hoặc ràng buộc bởi những tranh chấp, khiếu nại phát sinh từ việc thực hiện HĐ. Do tính chất độc lập của TDT đối với HĐ nên trách nhiệm của NH phát hành hoàn toàn không ảnh hưởng gì bởi khiếu nại của người mở xuất phát từ mối quan hệ làm ăn với người hưởng. Ngay khi quan hệ giữa người mở với NH có những đặc ân nào đó mà sau này phát sinh rủi ro trong việc thanh toán TDT thì NH cũng không được quyền từ chối nghĩa vụ của mình đối với TDT. Hoặc do quan hệ gắn bó giữa mình với NH phát hành, người mở TDT không thể yêu cầu (hoặc bằng cách thuyết phục...) NH này không hoặc hoãn thanh toán chứng từ vì người hưởng vi phạm HĐ. Đây là phần được bổ sung thêm vào Bản Điều lệ 500 do những phát sinh từ thực tiễn mà ICC nhận được từ các phòng thương mại Quốc gia. Phần này khẳng định lại hệ quả bản chất của TDT là: ngăn cản những lợi dụng của người mở. Điểm b của điều khoản này là phần ứng đối của bổ sung trên nhằm cân bằng nghĩa vụ của người hưởng đối với người mở. Việc cấm lợi dụng như trên cũng được áp dụng đối với người hưởng. Người hưởng không thể khẳng định rằng TDT phải được mở bởi thoả thuận giữa NH phát hành và người mở đã được ký hoặc họ không thể đòi hỏi NH loại 1 nào đó ở nước khác mở TDT (vì lý do khả năng thanh toán) mà lại từ chối TDT từ chính NH đó xác nhận chứ không phải phát hành. Người hưởng cũng sẽ bị khi họ hỏi NH phát hành TDT về khả năng thanh toán của người mở (đã ký quỹ đầy đủ hay NH cho vay khi thanh toán?...) vì đây là mối quan hệ giữa NH phát hành và người mở mà người hưởng không được quyền biết. ĐIỀU 4: CHỨNG TỪ ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ /DỊCH VỤ/CÔNG VIỆC KHÁC Trong giao dịch Tín dụng chứng từ, tất cả các bên liên quan chỉ thực hiện căn cứ trên chứng từ chứ không căn cứ vào hàng hoá, các dịch vụ và / hoặc các công việc khác mà các chứng từ đó có thể liên quan. Điều khoản này, so với các lần sửa đổi trước đây hầu như không thay đổi ngoại trừ giới từ "với" (with) được thay cho "trong" (in). Điều này muốn nhấn mạnh rằng: NH chỉ liên quan đến chứng từ, chỉ giao dịch với chứng từ chứ không liên quan đến hàng hoá. Điều khoản này nhất quán, xuyên suốt lịch sử của Điều lệ và Thực hành Thống nhất Tín dụng Chứng từ. Giao dịch của NH theo truyền thống và thông lệ cũng như tập quán kể từ khi nó ra đời đến nay và mãi mãi vẫn là: bằng chứng từ và trên cơ sở chứng từ. Hiện nay giao dịch này được phát triển theo tiến độ phát triển của khoa học kỹ thuật đa dạng và phong phú: bằng telex , bằng fax, bằng điện thoại, máy điện toán...Tất nhiên giữa chứng từ và hàng hoá, dịch vụ TDT có mối quan hệ khăng khít nhưng không có nghĩa là NH vì thế mà ràng buộc giao dịch của mình với hàng hoá hoặc các dịch vụ ngoài NH. Một số doanh nghiệp mới làm xuất nhập khẩu trực tiếp thường ngộ nhận: TDT thường được mở theo HĐ, nhưng hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách... thì sao lại trả tiền cho người bán? - Nghe ra rất hợp lí và lô-gích, nhưng chính nhà nhập khẩu đã hiểu chưa đúng vấn đề. NH mở TDT chỉ ngưng hoặc không thanh toán toàn bộ chứng từ hợp lệ khi có phán quyết của toà án của nước sở tại. Trong trường hợp này người nhập khẩu phải hiểu tình thế là mình chỉ có quyền kiện người xuất khẩu trên cơ sở HĐ thương mại chứ không thể từ chối thanh toán. TDT được mở theo 9

Bản Điều lệ 500 thì "ràng buộc tất cả các bên liên quan" trong đó có người mở TDT. Tuy nhiên trong trường hợp có dấu hiệu hoặc bằng chứng lừa đảo của người bán, căn cứ vào đơn của người bị hại toà án có thể quyết định ngưng thanh toán hoặc không thanh toán trong thời gian vô thời hạn trong phạm vi pháp luật hiện hành, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người mua. Nhưng nếu NH đã thanh toán theo đúng điều khoản của TDT và hợp với bản điều lệ trước khi có phán quyết của toà thì NH miễn trách. Thiệt hại do lừa đảo phía người mở TDT gánh chịu. Tuy thế, mọi việc giải quyết tranh chấp giữa người mở với NH phát hành còn tuỳ thuộc vào luật lệ nước sở tại. ĐIỀU 5: CHỈ THỊ VỀ VIỆC PHÁT HÀNH/ SỬA ĐỔI TÍN DỤNG THƯ A. Những chỉ thị về việc phát hành Tín dụng thư, và bản thân TDT đó, những chỉ thị sửa đổi TDT, và bản thân sửa đổi đó phải đầy đủ và chính xác. Để để phòng mọi sự lẫn lộn và hiểu lầm, các NH nên ngăn cản mọi khuynh hướng: i. đưa quá nhiều chi tiết vào TDT hoặc sửa đổi của nó ii. đưa ra chỉ thị phát hành, thông báo hoặc xác nhận TDT bằng cách dẫn chiếu một TDT đã phát hành trước đó (TDT tương tự) mà TDT trước bao gồm các sửa đổi đã được chấp nhận, và/ hoặc sửa đổi không được chấp nhận B. Tất cả các chỉ thị đối với việc phát hành một TDT và bản thân TDT đó, khi có thể áp dụng được, tất cả các chỉ thị cho một bản sửa đổi và bản thân sửa đổi đó phải nêu chính xác các chứng từ xuất trình mà theo đó việc trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu được thực hiện. 1. Tín dụng thư với quá nhiều chi tiết Về ý kiến không đưa quá nhiều chi tiết vào Tín dụng thư và sửa đổi của nó, các Phòng Thương mại quốc gia (thành viên của ICC) yêu cầu dùng những từ thật mạnh mẽ nhằm ngăn ngừa những trường hợp này. Tuy nhiên WG, đã quyết định vẫn dùng những từ của Bản Điều lệ 400 với lý do không để Bản Điều lệ có những điều trái ngược với luật của các Quốc gia. Nếu WG đưa vào điều khoản này câu "NH không được phát hành TDT ...."(Bank sould not issue credits) hoặc "NH phải từ chối những chỉ thị như vậy ..."(Bank sould reject such instructions...) thì e rằng mâu thuẫn với quy định của một số nước mà theo đó TDT phải được đưa vào đầy đủ chi tiết. Trong trường hợp đó, Luật Quốc gia sẽ làm ảnh hưởng đến việc áp dụng Bản Điều lệ, gây phức tạp cho giao dịch. Do vậy, WG quyết định giữ nguyên cụm từ "NH nên tránh đưa quá nhiều chi tiết ..." (Bank sould...) nhằm vào lời khuyên nhiều hơn là sự bắt buộc, cấm đoán. Đưa quá nhiều chi tiết vào TDT sẽ bất lợi cho cả 2 phía. TDT càng dài, càng chi tiết thì càng dễ bị lỗi, bị nhiễu điện, gây rối rắm, nhầm lẫn cho người hưởng cũng như người mở và cả NH. Có người ngộ nhận là càng có nhiều chi tiết hàng hoá, điều khoản trong TDT càng bảo đảm an toàn cho người mở. Đừng so sánh các điều khoản của HĐ với TDT vì mỗi loại có mỗi đặc thù riêng. Chi tiết hàng hoá ở TDT chỉ được thể hiện đầy đủ, mà chứng từ này lại do người hưởng lập thì không có nghĩa gì về giác độ an toàn của hàng hoá. Tài liệu ICC số XB 516 đề cập tới TDT với quá nhiều chi tiết như sau: "Việc yêu cầu đưa quá chi tiết vào TDT thường do người mở tin tưởng một cách sai lầm là họ có thể bảo vệ được chính mình bằng cách làm đó. Thực ra, hiếm khi được như vậy (NH chỉ có thể thanh toán, chấp nhận hoặc chiết khấu đối với các chứng từ phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT- kẻ lừa đảo sẽ hài lòng khi tạo ra thật nhiều chi tiết của chứng từ, nhằm bảo đảm sự phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT)" "The demand for inclusion of excessive detail is often made in the mistaken belief that the Applicant is thus protecting himself. This is rarely so. (Bank can only pay, accept, or negotiate against compliant documents- and a "rogue" will quite happily produce the"excesssive detail" to ensure compliance with the terms and conditions of the Credit." 10

Người mở cũng không nên yêu cầu các điều khoản không cần thiết. Thí dụ TDT quy định: hoá đơn phải do người hưởng lập, không chấp nhận B/L theo HĐ thuê tầu.. theo Bản Điều lệ 500, Nếu Tín dụng không đề cập có nghĩa là những chứng từ lập như vậy sẽ bị từ chối, do đó không cần quy định trong TDT. 2. TDT phát hành với các chi tiết theo TDT trước đó: Những năm 70 về trước, các NH đôi khi còn phát hành TDT theo kiểu này, nghĩa là dẫn chiếu các điều khoản của TDT trước. Thí dụ: Các chứng từ xuất trình theo đúng các chứng từ của TDT số ...... ngày ...... Nguyên nhân của kiểu phát hành này là do kỹ thuật thông tin và điện toán chưa phát triển, các nhân viên NH phải thực hiện quá nhiều thao tác để soạn thảo văn bản. Hơn nữa, chi phí truyền thông còn cao, cho nên phương pháp này lúc bấy giờ được chấp nhận. Tuy nhiên bản sửa đổi 1983 đã có nêu lên vấn đề loại trừ mở TDT theo loại này. Cho đến nay (1993) kỹ thuật truyền thông phát triển nhảy vọt, đặc biệt là hệ thống SWIFT ra đời buộc các chuyên gia NH tính đến chuyện loại bỏ các TDT mở theo kiểu cũ. Điểm (ii) của điều khoản này sửa đổi lại Điều 13 với mục đích là việc mở TDT trên cơ sở dẫn chiếu một TDT cũ không nên dùng và các ngân hàng cần từ chối các TDT mở, sửa đổi, thông báo theo kiểu này B. HÌNH THỨC VÀ THÔNG BÁO TÍN DỤNG THƯ

HÌNH THỨC VÀ THÔNG BÁO TDT: ĐIỀU 6: TDT HUỶ NGANG VÀ KHÔNG HUỶ NGANG a. Các Tín dụng có thể: • huỷ ngang, hoặc • Không hủy ngang. b. Do vậy TDT cần nêu rõ huỷ ngang hay không huỷ ngang. c. Nếu không ghi như vậy thì TDT được coi là không huỷ ngang Điều khoản này so với Điều 7 của Bản Điều lệ 400 chỉ thay đổi một từ, nhưng lại là một vấn đề lớn. Tất cả các phòng thương mại Quốc gia đều ủng hộ việc thay thế từ "huỷ ngang" bằng từ "không huỷ ngang" ở phần C. Trên thực tế, TDT huỷ ngang gần như không còn tồn tại bởi nó sẽ gây ra hậu quả khó lường cho người hưởng. Do vậy, việc sửa đổi này nhằm tạo ra cho các bên liên quan (NH, người hưởng, người mở) một quan niệm thường trực rằng đã là TDT thì nó luôn là "không huỷ ngang", trừ khi nó có ghi chữ "huỷ ngang". Tuy vậy, Bản Điều lệ vẫn cứ yêu cầu là nên ghi rõ là "huỷ ngang" hay "không huỷ ngang" nhằm nêu rõ ý định của người mở trong giao dịch này. Thế nào là "huỷ ngang" và "không huỷ ngang" ? Theo định nghĩa gốc của tiếng Anh,"Revocable" là có thể huỷ bỏ,và "Irrevocable" thì ngược lại. Nhưng trong Bản Điều lệ, nghĩa của chúng phải được hiểu trên cơ sở giao dịch Tín dụng chứng từ. "Có thể huỷ ngang" (revocable) là khả năng có thể huỷ bỏ TDT đang còn hiệu lực của một phía mà không được sự đồng ý của một/các bên khác. Thí dụ Người mở huỷ bỏ TDT hoặc NH phát hành đơn phương tuyên bố TDT không còn giá trị nữa trong lúc người hưởng và/ hoặc NH thông báo / xác nhận không hề biết trước hoặc không đồng ý. "Không thể huỷ ngang" (Irrevocable) được hiểu theo nghĩa của Bản Điều lệ là "Không được huỷ ngang" có nghĩa là việc huỷ bỏ TDT đơn phương của một phía (như thí dụ trên) là hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Nhưng TDT không thể huỷ ngang không có nghĩa là không thể huỷ bỏ. Trong trường hợp các bên đồng ý huỷ bỏ TDT thì nó sẽ được công nhận không còn giá trị thực hiện. Tuy nhiên, sau khi 11

thoả thuận với Người hưởng về huỷ bỏ TDT, Người mở phải thương lượng với NH phát hành. Ngân hàng này liên lạc với NH thông báo (và NH xác nhận Nếu TDT được xác nhận ) để có liên quan bằng văn bản / điện tín. Do vậy trong giao dịch Tín dụng chứng từ, từ "huỷ ngang / không huỷ ngang " được dùng đúng nghĩa và chính xác hơn từ "huỷ bỏ / không huỷ bỏ " hoặc "khả huỷ/ bất khả huỷ". Khách hàng thường lầm tưởng là chỉ cần Bên mua và Bên bán đồng ý huỷ TDT là được, coi nhẹ vai trò của NH. Rất có thể NH phát hành / NH xác nhận không đồng ý huỷ bỏ TDT vì họ đã cấp Tín dụng cho Người mở, hoặc tài trợ xuất khẩu cho Người hưởng, việc huỷ bỏ TDT dẫn đến thiệt hại cho những NH liên quan. Thông thường, yêu cầu huỷ bỏ TDT phát sinh từ Người mở vì họ cần giải toả tiền ký quỹ tại NH phát hành trước thời hạn hiệu lực. Đối với người hưởng, việc không giao hàng của họ đồng nghĩa với huỷ bỏ TDT. Đó là lý do Người mua yêu cầu Người bán phát hành "Bảo lãnh thực hiện Hợp đồng" (Performance Bond) nhằm tránh những thiệt hại do người bán "huỷ ngang" TDT - nghĩa là không bao giao hoặc không có hàng giao như đã thoả thuận (sẽ được phân tích tại Điều 8) ĐIỀU 7: TRÁCH NHIỆM CỦA NGÂN HÀNG THÔNG BÁO A. TDT có thể được thông báo cho người hưởng thông qua 1 NH khác ("Ngân hàng thông báo") mà không có cam kết gì về phía NH này, nhưng NH thông báo, Nếu quyết định thông báo TDT, phải kiểm tra cẩn thận về tính xác thực bề ngoài của TDT mà nó thông báo. Nếu NH đó quyết định không thông báo TDT thì phải báo ngay cho NH phát hành không được chậm trễ. B. Nếu NH thông báo không thể kiểm tra được sự xác thực bề ngoài như vậy, NH thông báo phải báo lại không được chậm trễ cho NH mà từ đó nó nhận được chỉ thị, rằng nó không thể kiểm tra được tính xác thực của TDT và tuy nhiên Nếu NH quyết định thông báo TDT đó thì phải báo cho người hưởng biết rằng NH không thể kiểm tra được sự xác thực của TDT. So với Điều 8 của Bản Điều lệ 400, Điều 7 của Bản Điều lệ này được bổ sung nghĩa vụ, trách nhiệm của NH thông báo. Nhiệm vụ của NH thông báo là phải xác nhận khoá điện (hoặc chữ ký) của TDT mà không cam kết gì hơn. Tuy nhiên nó cũng có quyền không thông báo TDT vì một lý do nào đó, nhưng phải báo ngay quyết định của mình cho NH phát hành. Như vậy, NH được chọn thông báo không bắt buộc thông báo TDT mà nó không muốn. Đây là điểm khác biệt với Điều 7 của Bản Điều lệ cũ. Tuy nhiên trong thực tế, đã là đại lý của nhau thì các NH không từ chối /bất cứ dịch vụ nào. Tại điểm B của điều khoản này, WG muốn giải quyết một số vướng mắc phát sinh trong thực tế liên quan đến khoá điện hoặc chữ ký trên TDT hoặc các sửa đổi. Trong trường hợp khoá điện/ mẫu chữ ký sai thì trách nhiệm của NH thông báo là thông báo cho NH phát hành tình trạng khoá điện/ mẫu chữ ký của TDT đó/ hoặc các sửa đổi. Trường hợp này, NH không thông báo cho đến khi đã xác định được tính xác thực của TDT (hoặc các sửa đổi). Nhưng Nếu NH, vì một lý do nào đó mà thông báo TDT (hoặc các sửa đổi) đó cho người hưởng thì phải ghi rõ là họ không chịu trách nhiệm về tính xác thực của TDT / sửa đổi vì không thể kiểm tra được tính xác thực. Như vậy trách nhiệm của NH thông báo đã được quy định khá rõ ràng. Tuy nhiên từ "không chậm trễ" không được quy định cụ thể và việc vận dụng lại tùy thuộc vào tập quán của từng địa phương và quy chế của từng nước. ĐIỀU 8: HUỶ BỎ TDT A. Tín dụng thư huỷ ngang có thể được sửa đổi hoặc huỷ bỏ bởi ngân hàng phát hành vào bất kỳ lúc nào và không cần báo trước cho người hưởng. B. Tuy nhiên NH phát hành phải: i. Hoàn trả cho NH mà tại đó Tín dụng thư huỷ ngang đã được thực hiện bằng cách trả tiền ngay, chấp nhận hoặc chiết khấu - đối với bất kỳ khoản thanh toán, chấp nhận hoặc chiết khấu nào đã được thực hiện bởi NH đó - trước khi chấp nhận được thông báo sửa đổi hoặc huỷ bỏ, trên cơ sở các chứng 12

từ mà thể hiện trên bề mặt phù hợp với các điều kiện và điều khoản của TDT. ii. Hoàn trả cho NH khác mà tại đó TDT huỷ ngang đã được thực hiện bằng cách trả tiền sau, Nếu NH đó trước khi nhận được thông báo sửa đổi hoặc huỷ bỏ, đã tiếp nhận các chứng từ mà thể hiện trên bề mặt mà phù hợp với các điều kiện và điều khoản của TDT. Điểm sửa đổi nhỏ được thực hiện: "Chi nhánh" được thay bằng từ "NH khác" nhằm nhất quán với nội dung của Điều khoản 2. 1. Trách nhiệm của Ngân hàng phát hành đối với TDT huỷ ngang Như đã trình bày trên đây, TDT huỷ ngang hầu như không tồn tại trong thương mại quốc tế, song về lý thuyết nó vẫn được phép sử dụng và như vậy cần phải duy trì điều khoản nói về sự huỷ bỏ của TDT được phép huỷ ngang. Tuy nhiên trong phạm vi Bản Điều lệ 500, việc huỷ ngang chỉ có giá trị trước khi chứng từ hàng hoá được xuất trình. Ngược lại, NH phát hành phải thực thi nghĩa vụ của mình về việc thanh toán, chấp nhận và thanh toán hối phiếu phát hành như đối với TDT không huỷ ngang. TDT được phát hành nhằm bảo đảm quyền được trả tiền của người hưởng. Việc huỷ bỏ TDT cũng tất nhiên ảnh hưởng đến quyền lợi này. Do vậy, người ta luôn nêu ra những điều khoản để bảo vệ cho người hưởng và các bên phục vụ cho người hưởng. 2. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng và quyền lợi của người mở TDT Trong trường hợp TDT được phát hành, nhưng người bán (người hưởng) lại không có hàng giao hoặc không được giao hàng, không thể thực hiện TDT đó. Điều này cũng như là sự huỷ ngang TDT của phía người hưởng (người bán). Có biện pháp phát hành nào ngăn cản hoặc buộc người hưởng đền bù những gì mà họ gây ra cho người mở vì không giao được hàng? Khi yêu cầu phát hành TDT người mở phải vay /ký quỹ tại NH phát hành, trả chi phí, nhưng người hưởng lại không thực hiện nghĩa vụ của mình? Người mở có quyền đòi người hưởng đèn bù một số tiền nhất định. Vậy cần xác lập sự đối ứng của tránh nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của hai bên liên quan Sau khi hợp đồng thương mại được kí kết, người mua yêu cầu NH mình mở TDT nhằm đảm bảo việc trả tiền cho người bán, đồng thời người bán cũng yêu cầu NH mình mở "Bảo lãnh thực hiện hợp đồng "(Sau đây gọi là Bảo lãnh thư) nhằm đảm bảo việc trả tiền cho người mua nhận được hàng hoá hoặc dịch vụ theo đúng hợp đồng. Đây là loại bảo lãnh vô điều kiện và không huỷ ngang trong đó NH phát hành cam kết sẽ trả số tiền cụ thể ghi trong Bảo lãnh thư (thông thường là 5-10% trị giá của hợp đồng hoặc TDT) ngay khi nhận được khiếu nại của người được bảo lãnh là người bán hàng (người hưởng TDT) vi phạm cam kết, kèm hoặc không kèm theo các chứng từ liên quan mà hai bên đã thoả thuận.(xem mẫu Bảo lãnh thư Hợp đồng tại phần phân tích ở Điều khoản 1). Như vậy cả người mua (người mở TDT) lẫn người bán (người hưởng TDT) đều có trách nhiệm và nghĩa vụ cũng như quyền lợi như nhau trong một dịch vụ mua bán này, thể hiện 2 giao dịch: TDT và Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Một điều hết sức quan trọng là hiệu lực của 2 giao dịch trên. Có thể bảo lãnh thư được mở trước TDT hoặc ngược lại của TDT & bảo lãnh thư phải cũng đồng thời. Thông thường, bảo lãnh được phát hành trước vì số tiền của bảo lãnh chỉ bằng 5-10% giá trị TDT nên người yêu cầu Bảo lãnh dễ dàng thương lượng với NH trong trường hợp này Bảo lãnh thư chỉ có giá trị khi người hưởng nhận được TDT có giá trị pháp lý đầy đủ các điều khoản hai bên đã thoả thuận mà không cần sửa đổi. Trong thực tế đã có những trường hợp nhà xuất khẩu bị mất tiền của người mua. Nhà xuất khẩu yêu cầu NH của mình phát hành Bảo lãnh thư cho nhà nhập khẩu nhưng bị từ chối vì nhà nhập khẩu chỉ chấp nhận Bảo lãnh đó được NH của mình phát hành. Do vậy NH của nhà xuất khẩu đã yêu cầu NH của nhà nhập khẩu mở một Bảo lãnh thư theo yêu cầu của nhà xuất khẩu trên cơ sở quy tắc thống nhất về Bảo lãnh, số xuất bản 458 của Phòng thương mại quốc tế. Sau khi Bảo lãnh thư được mở và có giá trị ngay, nhà nhập khẩu không mở Tín dụng thư nhưng đã 13

lập lệnh đòi bồi hoàn tại NH Bảo lãnh với lý do nhà xuất khẩu vi phạm cam kết của Hợp đồng đã ký. Vì mất tiền do sự lừa đảo, nhà xuất khẩu phát đơn kiện nhà nhập khẩu nhưng kết quả còn phụ thuộc vào mạng lưới an ninh và pháp luật của nước sở tại trong việc tìm kiếm, điều tra bọn tổ chức lừa đảo này. Thông thường, giao dịch đối ứng trên đây chỉ áp dụng trong trường hợp Hợp đồng thương mại có giá trị lớn và khách hàng mới giao dịch lần đầu, người mở TDT (người mua) muốn tránh những thiệt hại do người hưởng (người bán) không thực hiện cam kết giao hàng hoặc giao hàng chậm bất kể lý do gì. Đối với các đơn vị xuất khẩu Việt nam, ngoài việc xem xét giá trị hiệu lực của hai giao dịch trên, cần quan tâm đến khả năng thực hiện Hợp đồng. Đã phát hành Bảo lãnh thư rồi thì bất cứ lý do nào cũng phải giao hàng và không được chậm trễ. Sự biến động giá cả bất lợi cho người mua dẫn đến việc nhà nhập khẩu nước ngoài từ chối gia hạn giao hàng. Kết quả là việc mua bán bất thành, phát sinh những tổn thất và những hình phạt tài chính. ĐIỀU 9: TRÁCH NHIỆM CỦA NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH VÀ NGÂN HÀNG XÁC NHẬN A. TDT không huỷ ngang là cam kết rõ ràng của NH phát hành một khi các chứng từ quy định xuất trình cho NH được chỉ định hoặc NH phát hành phù hợp với các điều khoản và điều kiện, i. nếu TDT quy định trả tiền ngay - thì phải trả tiền ngay ii. nếu TDT quy định trả tiền sau - thì phải trả vào ngày đáo hạn được xác định theo quy định của TDT iii.nếu TDT quy định chấp nhận: a. bởi NH phát hành - thì chấp nhận hối phiếu do người hưởng ký phát cho NH phát hành và trả tiền vào ngày đáo hạn b. bởi một NH thanh toán khác - thì chấp nhận và trả tiền vào ngày đáo hạn hối phiếu mà người thụ hưởng ký phát cho NH phát hành trong trường hợp NH trả tiền ghi trong TDT không chấp nhận hối phiếu ký phát cho họ, hoặc thanh toán hối phiếu đã được chấp nhận nhưng không được thanh toán khi đến hạn bởi NH được chỉ định nói trên. iv.nếu TDT quy định chiết khấu thì thanh toán không bảo lưu cho người đòi tiền và / hoặc người nắm giữ hối phiếu trung thực, hối phiếu do người hưởng ký phát và / hoặc các chứng từ được xuất trình theo TDT. TDT không được phát hành với các điều kiện hối phiếu đòi tiền tại người mở TDT. Tuy nhiên, Nếu TDT được phát hành như vậy, NH sẽ xem hối phiếu đó chỉ là chứng từ bổ sung. B. Việc xác nhận TDT không huỷ ngang của một NH (NH xác nhận) dựa trên sự uỷ quyền của NH phát hành, tạo nên một cam kết chắc chắn của NH xác nhận, thêm vào sự cam kết của NH phát hành, với điều kiện là các chứng từ quy định được xuất trình cho NH xác nhận hoặc cho bất kỳ NH được chỉ định nào và các điều khoản và điều kiện của TDT phải được thực hiện đầy đủ: i. nếu TDT quy định trả tiền ngay - thì phải trả tiền ngay ii. nếu TDT quy định trả tiền sau thì phải trả vào ngày đáo hạn được xác định theo quy định của TDT iii. nếu TDT quy định chấp nhận a. bởi NH xác nhận - thì chấp nhận hối phiếu do người hưởng ký phát cho NH xác nhận và trả tiền vào ngày đáo hạn. b. bởi một NH thanh toán khác - thì chấp nhận và trả tiền vào ngày đáo hạn hối phiếu mà người hưởng ký phát cho NH xác nhận trong trường hợp NH trả tiền ghi trong TDT không chấp nhận hối phiếu ký phát cho họ, hoặc thanh toán hối phiếu đã được chấp nhận nhưng không được thanh toán khi đến hạn bởi NH được chỉ định nói trên. iv. nếu TDT quy định việc chiết khấu - thì chiết khấu không bảo lưu cho người đòi tiền và / hoặc người nắm giữ hối phiếu trung thực, hối phiếu do người hưởng ký phát và / hoặc các chứng từ được xuất trình theo TDT. TDT không được phát hành với các điều kiện hối phiếu đòi tiền tại người mở TDT. Tuy nhiên, Nếu TDT được phát hành như vậy, NH sẽ xem hối phiếu đó chỉ là chứng từ bổ sung. C.i. Nếu một NH được NH phát hành uỷ quyền hoặc yêu cầu xác nhận TDT nhưng NH đó không muốn làm như vậy thì NH đó phải thông báo ngay cho NH phát hành. 14

ii. Trừ phi NH phát hành quy định khác trong uỷ quyền hoặc yêu cầu NH thôngbáo xác nhận, NH có thể thông báo TDT cho người hưởng mà không ghi thêm sự xác nhận của mình. D.i. Ngoại trừ quy định khác trong điều 48, một TDT không huỷ ngang không thể được sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không có sự đồng ý của NH phát hành, NH xác nhận nếu có và người hưởng. ii. NH phát hành không thể huỷ ngang sự ràng buộc đối với sửa đổi của mình từ lúc phát hành sự sửa đổi đó. NH xác nhận có thể xác nhận một sửa đổi và sẽ ràng buộc không thể huỷ ngang từ lúc thông báo sửa đổi đó. Tuy nhiên, NH xác nhận có thể lựa chọn thông báo sửa đổi cho người hưởng mà không bổ sung xác nhận của mình và nếu như vậy phải thông báo ngay cho NH phát hành và người hưởng. iii.Các điều khoản của TDT gốc (hoặc một TDT bao gồm các sửa đổi được chấp nhận trước đó) sẽ giữ nguyên hiệu lực đối với người hưởng cho tới khi người hưởng tuyên bố chấp thuận sửa đổi với NH đã thông báo sửa đổi đó. Người hưởng phải đưa ra thông báo chấp nhận hoặc từ chối sửa đổi đó. Nếu người hưởng không đưa ra thông báo như vậy, việc xuất trình các chứng từ cho NH được chỉ định hoặc NH phát hành, mà phù hợp với TDT và sửa đổi chưa được chấp nhận, sẽ được xem như là thông báo chấp nhận bởi người hưởng đối với sửa đổi đó và từ đó TDT sẽ được sửa đổi. iv.Không cho phép chấp nhận từng phần sửa đổi đối với nội dung của mỗi thông báo sửa đổi và như vậy, chấp nhận đó sẽ không có giá trị. Trách nhiệm và nghĩa vụ của NH mở và NH xác nhận ở iều 10 Bản Điều lệ 400 vẫn không thay đổi nhưng được nói rõ ràng, chặt chẽ, cụ thể và đầy đủ hơn trong điều khoản này. Nhằm giải quyết một số vướng mắc phát sinh trong thực tế, WG bổ sung thêm một số phần mà nó đã xác nhận. Đặc biệt, là nói thêm về chấp nhận hay từ chối của người hưởng đối với các sửa đổi TDT. Trước tiên ta hãy hiểu xem một số thuật ngữ được dùng trong điều khoản này: • Nghĩa vụ đối với khoản nợ (Liability): sau khi phát hành TDT, NH ràng buộc các khoản thanh toán phát sinh theo TDT đó. Đây là một khoản nợ mà NH phát hành, NH xác nhận (Nếu có) có nghĩa vụ phải trả cho người hưởng theo đúng cam kết của mình. • Phương thức thanh toán ngay(Sight payment/payment at sight): NH sẽ thanh toán cho người hưởng ngay khi nhận được chứng từ và / hoặc hối phiếu xuất trình phù hợp với TDT. Tuy nhiên, "thanh toán ngay" còn phụ thuộc vào thời gian xử lý nghiệp vụ và quy định riêng của từng NH. Với mục đích của Bản Điều lệ 500, phương thức thanh toán ngay được sử dụng để phân biệt với phương thức thanh toán có kỳ hạn và không quá 7ngày làm việc. • Phương thức thanh toán có kỳ hạn (Deferred payment, payment by Ussance draff/Acceptance): Đây là khoản Tín dụng thương mại mà người bán cấp cho người mua bằng hàng hoá. Việc thanh toán sẽ được ấn định vào thời điểm cụ thể trong tương lai, có thể là 30 ngày, 60 ngày, 120 ngày hoặc 360 ngày kể từ ngày giao hàng, ngày xuất trình chứng từ, ngày NH phát hành nhận được chứng từ ... Sự khác biệt của hai thuật ngữ "Deferred payment" và " payment by Ussance draff/Acceptance" là: đối với thuật ngữ thứ nhất, TDT không cần yêu cầu xuất trình hối phiếu. Cách gọi này (Credit available by Deferred payment) được phổ biến ở các NH châu Âu và Bắc Mỹ. Khi chứng từ xuất trình phù hợp với các điều khoản của TDT, NH phát hành sẽ tự động thanh toán vào ngày đáo hạn được xác định trước mà không cần động tác chấp nhận vì không cần hối phiếu. Đối với thuật ngữ thứ hai TDT luôn yêu cầu chứng từ kèm hối phiếu (Usance/time Draft), do vậy thủ tục chấp nhận được NH phát hành thực hiện khi chứng từ xuất trình hợp lệ. TDT với điều khoản chấp nhận hối phiếu trả chậm được dùng phổ biến tại các nước Châu Á. 15

Gọi là Tín dụng thương mại vì đây là những khoản vay, mượn phát sinh giữa công ty thương mại. Tuy nhiên người bán sẽ chiết khấu chứng từ / hối phiếu để được ứng tiền ngay theo TDT. Khoản Tín dụng này được chuyển thành Tín dụng giữa các NH, gọi là Tín dụng ngân hàng. Nghiệp vụ chiết khấu chứng từ / hối phiếu rất thông dụng và phổ biến, được gọi là hình thức tài trợ chắc chắn và tiện lợi cho cả NH lẫn người bán hàng. • Hối phiếu (Draff/Bill of Exchange): "Là một lệnh thanh toán vô điều kiện bằng văn bản do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người được ký phát trả ngay hay vào một thời điểm xác định trong tương lai số tiền cho hoặc theo lệnh của một người khác hoặc cho người cầm hối phiếu" (Tài liệu ICC số xuất bản 515) TDT trả tiền ngay không cần hối phiếu. Tuy nhiên, các NH Châu á thường yêu cầu chứng từ kèm hối phiếu. Đối với phương thức thanh toán trả chậm bằng chấp nhận, hối phiếu được ký hậu xác thực việc chấp nhận của người trả tiền. Hối phiếu đã được NH phát hành chấp nhận được lưu thông trên thị trường Việt Nam, Hối phiếu được coi như là chứng từ phụ trong bộ chứng từ hàng hoá vì không có giá trị lưu thông trên thị trường tài chính, Ngân hàng. Trong thủ tục chiết khấu, người hưởng lập hối phiếu đòi tiền NH quy định trong TDT và ghi rõ: "Yêu cầu trả tiền ngay cho hoặc theo lệnh của NH A" (Please pay at sight to order of Bank A) NH A trả tiền cho người hưởng và ký tên sau đó ghi rõ phía sau hối phiếu: "Đề nghị trả theo lệnh của bất cứ NH hoặc bất cứ Công ty tín khác nào" (Please pay to the order of any Bank or banker, Trust Company) NH này cũng có thể yêu cầu thanh toán theo lệnh của NH phát hành: "Đề nghị trả tiền theo lệnh của NH phát hành " (Please pay to the order of Standard Chartered Bank) Việc ký hậu hối phiếu được tiếp tục cho đến khi người trả tiền (Drawee) là người mở TDT tiếp nhận chứng từ và hối phiếu. Nếu là TDT với phương thức thanh toán bằng hối phiếu có kỳ hạn, NH chiết khấu có thể "mua" và "bán" hối phiếu đó trên thị trường tài chính bằng phương thức ký hậu như trên. Tuy nhiên, không như cổ phiếu, hối phiếu được dễ dàng lưu thông hay không còn tuỳ thuộc vào NH phát hành và thị trường mua bán của nó. • Thanh toán không bảo lưu: Bảo lưu trong giao dịch TDCT là NH trả tiền có quyền yêu cầu người hưởng hoàn lại số tiền đó nếu bộ chứng từ của TDT không được thanh toán vì bất cứ lý do gì. Bảo lưu chỉ áp dụng đối với việc chiết khấu, khi NH ứng tiền cho người hưởng trước khi bộ chứng từ thanh toán với điều kiện là NH này không cam kết gì về khoản chiết khấu trên. Nhưng đã là NH phát hành hoặc NH xác nhận thì họ không được quyền bảo lưu thanh toán hoặc chiết khấu cho người hưởng với mọi rủi ro thuộc về các NH đó. 1. Trách nhiệm và nghĩa vụ của NH phát hành Bản Điều lệ 400, trách nhiệm thanh toán của NH phát hành còn những chỗ không được rõ và kém sức thuyết phục. Do vậy, "Nếu TDT quy định trả tiền ngay - thì phải trả ngay" được ghi rõ ở điều khoản này, không hề có sự lựa chọn khác như: "hoặc làm cho việc trả tiền được thực hiện" mà Điều lệ 400 quy định. Câu này làm cho người hưởng trở nên mơ hồ không hiểu NH hay người mở là người chịu trách nhiệm chính trong việc thanh toán và khi nào NH phát hành buộc phải thanh toán ngay cho người mở. Nhằm làm nổi bật vai trò của NH phát hành hoặc NH xác nhận (nếu có) là NH lãnh chịu trách nhiệm rõ ràng và duy nhất đối với việc thanh toán theo phương thức trả ngay, chấp nhận và thanh toán hối phiếu trả chậm cho người hưởng khi chứng từ xuất trình hợp lệ theo TDT, WG đã quyết định loại 16

bỏ những câu của Bản Điều lệ 400 : " ... hoặc việc thanh toán sẽ được thực hiện", "...hoặc chịu trách nhiệm về việc chấp nhận về thanh toán vào ngày đáo hạn của người mở nếu TDT qui định hối phiếu đòi lại tiền tại người mở", "...hoặc bảo đảm cho việc chiết khấu của một ngân hàng khác". Nhằm nhất quán đối với những sửa đổi trên, WG cũng giới hạn việc ký phát của hối phiếu , Bản Điều lệ 500 đã khẳng định là tất cả các hối phiếu đều đòi tiền tại NH phát hành (hoặc NH trả tiền). Nếu hối phiếu đòi tiền tại người mở thì được coi đơn giản là chứng từ phụ trợ, NH chuyển giao cho người mở mà không hề ảnh hưởng đến nghĩa vụ thanh toán của NH phát hành nói rõ ở phần A của điều khoản này. Việc sửa đổi này phát sinh từ thực tế là có NH ngộ nhận (hoặc cố ý quan niệm sai) là hối phiếu đòi tiền tại người mở thì chỉ khi nào người mở chuyển tiền (hoặc chấp nhận) NH phát hành mới thanh toán (hoặc chấp nhận). Ngược lại, nếu người mở không chuyển tiền hoặc không thanh toán thì NH phát hành cũng từ chối trách nhiệm của mình đối với hối phiếu đó ? Thế nào là chứng từ bổ sung, chứng từ phụ?( additional document)? Như ta đã biết "Hối phiếu (HP) là một lệnh thanh toán vô điều kiện" của Người hưởng lập, đòi tiền tại NH phát hành. Nhưng hối phiếu lập đòi tiền tại Người mở TDT thì bản chất của hối phiếu sẽ bị "biến dạng" vì "lệnh thanh toán vô điều kiện" chỉ có giá trị đối với NH phát hành - là phía chịu trách nhiệm về mọi khoản đòi tiền mà nó cam kết, chứ không có hiệu lực đối với người mở, vì người mở không phải là một đối tác của TDT. Nếu không được sử dụng đúng tính chất, Hối phiếu không thể trở thành công cụ kiểm soát nghĩa vụ thanh toán của NH phát hành theo Tín dụng chứng từ và cũng không thể coi là lệnh thanh toán hoặc chấp nhận và cũng không thể coi là lệnh thanh toán hoặc chấp nhận mà chỉ là "Hối phiếu thủ tục" để NH phát hành dùng như là một công cụ giao dịch với người mở không nằm trong giao dịch TDT . Có người lầm tưởng là "chứng từ bổ sung" sẽ được coi như là "chứng từ bị loại bỏ", nghĩa là NH sẽ bỏ qua chứng từ đó, giống như là chứng từ được đề cập tại Điều 13 (a) (chứng từ không được đề cập trong TDT ). Xin lưu ý là Bản Điều lệ hoàn toàn không hề nói về việc loại bỏ hối phiếu đòi tiền tại người mở, do vậy NH không được quyền loại bỏ mà phải kiểm tra chứng từ theo đúng điều khoản và điều kiện của TDT . Sở dĩ WG bổ sung phần này vào Điều 9 "là nhằm tránh tình trạng người mở, không phải là đối tác trong giao dịch TDT, bằng cách không chấp nhận hối phiếu, có thể gây ảnh hưởng quan hệ giữa các bên của TDT " Dù cho Hối phiếu được lập đòi tiền tại người mở thì nghĩa vụ của NH phát hành cũng không thay đổi.Tài liệu DC của ICC (đã dẫn trên đây) khẳng định: (Nghĩa vụ của NH phát hành không thể được quyết định bởi, hoặc tuỳ thuộc vào việc thanh toán, chấp nhận hay hành động khác của Người trả tiền hối phiếu (Nghĩa là người mở TDT) Như đã phân tích trên, "hối phiếu thủ tục" chỉ là công cụ giao dịch giữa NH phát hành và người mở TDT. Khi nhận được hối phiếu đòi tiền tại người mở, NH chuyển cho người mở và buộc người mở phải chấp nhận thanh toán ngay (Nếu là TDT trả ngay) trong thời gian nhất định. Quá thời hạn đó, nếu người mở không giữ đúng cam kết thì ngân hàng sẽ thanh toán cho Người hưởng. Nếu vì lý do tài chính mà người mở không thanh toán được, NH phát hành phải tự thanh toán cho người hưởng. Ngược lại hối phiếu đòi tiền tại NH phát hành thì NH này sẽ thanh toán mà khôngcần ý kiến của người mở (Nếu chứng từ hợp lệ) đúng trong thời hạn quy định, đồng thời chuyển giao chứng từ cho người mở. 17

Nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của hối phiếu và tránh khập khiễng trong giao dịch TDCT, các NH phát hành nên tránh trường hợp hối phiếu đòi tiền tại Người mở đối với TDT có giá trị chiết khấu, ngay cả khi khách hàng - do chưa nắm rõ nghiệp vụ, yêu cầu như vậy. 2. Những điều kiện của việc xác nhận TDT NH xác nhận là NH ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với việc thanh toán TDT, nếu nó được uỷ quyền thanh toán / chiết khấu hoặc chấp nhận và thanh toán khi người hưởng không tin ở khả năng trả nợ của NH phát hành. Do vậy NH xác nhận thường là ngân hàng loại 1, hoặc ngân hàng của người hưởng có quan hệ tốt với NH phát hành, hoặc là NH có quan hệ tiền gởi, quan hệ Tín dụng với NH phát hành. Để đảm bảo uy tín của mình để tránh những rủi ro có thể, ngân hàng được yêu cầu xác nhận TDT chỉ xác nhận khi : • NH phát hành thể hiện được khả năng thanh toán của mình. Thí dụ: cho phép NH xác nhận thanh toán chứng từ bằng cách ghi nợ tài khoản của mình (trường hợp NH mở có quan hệ tài khoản tiền gửi với NH xác nhận), hoặc • NH phát hành đã ký quỹ đủ số tiền của TDT, hoặc • NH phát hành đã được NH xác nhận cấp Tín dụng thông qua những nghiệp vụ phát hành / xác nhận TDT , họ phải hiểu rõ mọi điều kiện, tình huống như NH phát hành đối với dịch vụ mà họ sẽ thực hiện, theo đó NH phát hành sẽ nhận nợ khi TDT được NH xác nhận thanh toán, hoặc • NH mẹ cấp vốn cho NN chi nhánh. Về lý thuyết, một tín dụng thư có thể được xác nhận bởi một ngân hàng nhưng lại được thông báo bởi ngân hàng khác. Trên thực tế NH xác nhận chính là NH thông báo. Một ngân hàng trước khi xác nhận TDT, họ phải hiểu rõ mọi điều kiện, mọi tình huống như NH phát hành đối với dịch vụ mà họ sẽ thực hiện, từ việc xem xét yêu cầu xác nhận, nghiên cứu khách hàng, đảm bảo thanh toán.. đến kiểm tra các điều khoản của Tín dụng thư đó. Họ giành kiểm tra chứng từ xuất trình và thực hiện vai trò của NH chiết khấu. Tất cả những việc làm này nhằm đảm bảo của vai trò của NH xác nhận trong những giao dịch mà trách nhiệm và trách nhiệm pháp lý của nó ràng buộc việc thanh toán TDT đó. 3. Trách nhiệm và nghĩa vụ của NH xác nhận. Phần B của điều khoản này nói về trách nhiệm và nghĩa vụ của NH xác nhận gần đúng với trách nhiệm và nghĩa vụ của NH phát hành, trừ một số điểm mang tính đặc thù của NH xác nhận. Khi đã đồng ý xác nhận TDT, NH xác nhận cam kết thanh toán, chấp nhận và thanh toán, chiết khấu không bảo lưu (tuỳ theo từng trường hợp) cho người hưởng của TDT nếu bộ chứng từ hợp lệ xuất trình tại nó hoặc tại NH được uỷ quyền. Cam kết này, củng cố, bổ sung thêm vào cam kết của NH phát hành, không qua NH xác nhận hoặc NH chỉ định trong TDT, hoặc bộ chứng từ hợp lệ được xuất trình tại NH xác nhận sau khi TDT đã hết hiệu lực, thì NH xác nhận miễn trách đối với chứng từ đó. Do vậy, việc sửa đổi được thực hiện bằng cách nói rõ thêm " ...với điều kiện là các chứng từ quy định được xuất trình tại NH xác nhận hoặc tại bất cứ NH nào được chỉ định ..." Phần A- iii (b) nói rõ trách nhiệm của NH phát hành đối với những hối phiếu trả chậm bị một ngân hàng được phép thanh toán khác từ chối chấp nhận và thanh toán. Hiện nay, các TDT với điều khoản cho phép đòi tiền tại 1 NH thứ 3 được sử dụng rộng rãi, hợp với thông lệ của TTQT, đặc biệt là tập quán của Mỹ. Thí dụ: Ngân hàng A mở TDT cho công ty X với điều khoản hối phiếu trả chậm đòi tiền tại ngân hàng B (ngân hàng được chỉ định làm đại lý thanh toán TDT, để chấp nhận và thanh toán vào ngày đáo hạn). Nhưng do lý do nào đó, NH B từ chối chấp nhận hối phiếu đó thì ngân hàng A 18

(NH phát hành TDT) phải chấp nhận và thanh toán vào ngày đáo hạn. Hoặc ngân hàng B chấp nhận hối phiếu nhưng lại không thanh toán vào ngày đáo hạn thì ngân hàng A phải thực thi nghĩa vụ của mình là thanh toán đúng thời hạn hối phiếu được chấp nhận trên. Phần B - iii (b) cũng lặp lại nội dung trên nhưng thay NH mở bằng NH xác nhận. Có nghĩa là trách nhiệm thanh toán của 2 ngân hàng này đều như nhau. Với vai trò của mình, NH xác nhận phải chiết khấu không được bảo lưu chứng từ hợp lệ xuất trình tại nó theo TDT mà mình xác nhận. Việc chiết khấu trong trường hợp này tương tự như việc thanh toán, chỉ có sự khác biệt về lãi xuất chiết khấu để phân biệt hành động chiết khấu của NH xác nhận với việc "ứng tiền" cho người hưởng trước khi chứng từ được thanh toán bởi người mở. ICC trong Tài liệu xuất bản số 371 trang 19 quy định "... đối với các chứng từ có giá trị chiết khấu, ngân hàng được chỉ định luôn luôn có quyền bảo lưu, trừ khi nó ghi thêm từ "không bảo lưu" vào hối phiếu và trừ khi nó là NH xác nhận " Với vai trò và nghĩa vụ của mình như đã phân tích trên, một ngân hàng khi được yêu cầu xác nhận đều xem xét mọi khía cạnh để quyết định sự lựa chọn của mình. NH được yêu cầu xác nhận cũng có thể khi thấy yếu tố rủi ro xuất hiện và như vậy họ phải báo cho ngân hàng phát hành biết. Trong thực tế, có ngân hàng đã xác nhận TDT không phải theo yêu cầu của NH phát hành mà của người hưởng.Theo ICC, trong trường hợp này NH xác nhận chịu mọi rủi ro từ phía NH phát hành do bất cứ lý do nào mà nó không được hoàn trả tiền bởi NH phát hành (mất khả năng thanh toán, phá sản, phán quyết không thanh toán của toà án. Nhưng đối với người hưởng, quyền được ngân hành xác nhận trả tiền vẫn không thay đổi. Do vậy, việc xác nhận chỉ theo yêu cầu của người hưởng là nên tránh. Nghĩa vụ đi đôi với quyền lợi. NH xác nhận có thể xác nhận TDT nhưng không xác nhận một sửa đổi gia hạn hiệu lực, tăng tiền, hoặc các sửa đổi về các điều khoản khác mà nó thấy có thể phát sinh rủi ro trong thanh toán. Trong trường hợp này, trách nhiệm của ngân hàng xác nhận được giới hạn. Thí dụ:TDT được xác nhận với số tiền $ 100,000- thời hạn hiệu lực 30.5.92. Sau đó TDT sửa đổi tăng tiền lên $ 150,000- hiệu lực kéo dài đến 30.6.92. Nếu sửa đổi bị NH xác nhận từ chối xác nhận thì ngân hàng này chỉ có nghĩa vụ đối với số tiền là $ 100,000- Nếu chứng từ xuất trình phù hợp với các điều khoản của TDT trước cuối ngày 30.5.92. 4. Quyền chấp nhận hoặc từ chối sửa đổi TDT của người hưởng Việc sửa đổi TDT là thoả thuận giữa người mở, người hưởng và được NH phát hành (và NH xác nhận, Nếu có) chấp thuận. Để tránh những trường hợp người mở tự động sửa đổi, hoặc sửa đổi không đúng giữa hai bên, gây khó khăn cho người hưởng trong việc lập chứng từ đòi tiền, WG đã bổ sung vào điều khoản này phần (iii) quyền từ chối sửa đổi của người hưởng, Nếu từ chối những sửa đổi không đúng thoả thuận, người hưởng phải thông báo ngay cho người mở qua NH mình và đương nhiên TDT đó coi như không được sửa đổi và giữ nguyên giá trị ban đầu. Ngược lại, Nếu đồng ý sửa đổi của TDT, người hưởng có thể thông báo chấp thuận hoặc không thông báo. Sự im lặng coi như chấp nhận sửa đổi đó và được chứng minh bằng việc xuất trình chứng từ phù hợp với các điều khoản cuả TDT đã được sửa đổi. Cho đến nay, đã có nhiều ý kiến của các NH thế giới nêu ra những thắc mắc là làm thế nào để bảo đảm là Người hưởng thông báo chấp nhận hay từ chối sửa đổi, nếu họ từ chối bằng cách xuất trình chứng từ đúng với TDT gốc mà không đúng với sửa đổi, thì NH có coi là đúng quy định không? Cũng có những ý kiến là cần đưa ra thời hạn chấp nhận hoặc là từ chối trong vòng 7 ngày hoặc 10 ngày làm việc cho Người hưởng. Có ý kiến thì phản bác, cho rằng đưa ra thời hạn như vậy là không công bằng đối với người hưởng mà giữ nguyên nội dung của Điều 9 (D,iii) 19

Bản Điều lệ . Đó là những ý kiến rất bổ ích được rút ra từ thực tế giao dịch TDT và là những cơ sở cho bản sửa đổi sau này. Hiện tại, tuỳ từng quy chế của các NH thương mại để đem ra những thông lệ hợp với hoạt động của NH mình và địa phương mà không ngược với Bản Điều lệ. Để tránh sự tranh chấp có thể phát sinh, các NH phát hành nên ghi rõ trong TDT thời hạn cho việc từ chối sửa đổi. Theo các chuyên gia ngân hàng, thời hạn này là 7 ngày làm việc. Sau 7 ngày đó, Nếu NH đó không nhận được phản ứng của NH thông báo thì coi như sửa đổi đã được chấp thuận. Tất nhiên, việc chấp thuận một phần của 1 sửa đổi đều không có giá trị. Trong trường hợp như vậy, người hưởng nên từ chối toàn bộ sửa đổi đó và yêu cầu 1 sửa đổi khác hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn. ĐIỀU 10: CÁC LOẠI TÍN DỤNG THƯ A. Tất cả các TDT phải ghi rõ có giá trị bằng cách trả tiền ngay / trả tiền sau, hay chấp nhận hoặc chiết khấu. B.i. Trừ phi TDT quy định nó chỉ có giá trị thanh toán tại NH phát hành, tất cả các TDT phải chỉ định ngân hàng được uỷ quyền (Ngân hàng được chỉ định) trả tiền, cam kết sẽ trả tiền sau, chấp nhận hối phiếu hoặc chiết khấu. TDT không giới hạn NH chiết khấu, bất kỳ ngân hàng nào cũng được coi là NH chỉ định. Chứng từ phải được xuất trình tại NH phát hành hoặc NH xác nhận Nếu có, hoặc với bất kỳ NH được chỉ định nào . ii. Chiết khấu có nghĩa là NH được uỷ quyền ứng tiền thêo giá trị hối phiếu và/hoặc chứng từ cho người hưởng. Chỉ kiểm tra chứng từ mà không ứng tiền thì không được coi là chiết khấu . C. Trừ phi Ngân hàng được chỉ định là Ngân hàng xác nhận, việc chỉ định của Ngân hàng phát hành không tạo ra bất kỳ cam kết nào về phía NH được chỉ định là phải trả tiền, phải cam kết trả tiền sau, phải chấp nhận hối phiếu, hoặc chiết khấu. Trừ trường hợp NH thông báo có thoả thuận riêng và thông báo cho người hưởng, việc ngân hàng được chỉ định tiếp nhận và /hoặc kiểm tra và / hoặc gửi chứng từ không có nghĩa là ngân hàng đó có trách nhiệm phải trả tiền, phải cam kết sẽ trả tiền sau, phải chấp nhận hối phiếu, hoặc chiết khấu . D. Bằng cách chỉ định một ngân hàng khác, hoặc bằng việc cho phép bất kỳ ngân hàng nào cũng được quyền chiết khấu hoặc bằng uỷ quyền hoặc bằng một ngân hàng khác xác nhận TDT, NH phát hành uỷ quyền ngân hàng đó trả tiền, chấp nhận hối phiếu hoặc chiết khấu, tuỳ từng trường hợp, trên cơ sở các chứng từ mà bề mặt của chúng thể hiện phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT và cam kết hoàn trả cho ngân hàng đó theo đúng những quy định của điều khoản này. Các phương thức thanh toán TDT trả tiền ngay, trả chậm, chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn đã được đề cập ở Điều khoản trước. Điều khoản này muốn định nghĩa rõ về thực chất của chứng từ "chiết khấu " và trách nhiệm và quyền của NH được chỉ định (NH chiết khấu). Điều 11 của Bản Điều lệ cũ được sửa đổi thành Điều 10 của bản Điều lệ 500 dựa vào nhiều kiến nghị của các Phòng thương mại quốc gia. Ta có thể phân loại TDT theo phương diện giao dịch (TDT chuyển nhượng ,TDT giáp lưng), hay theo phương diện nghĩa vụ và trách nhiệm (TDT huỷ ngang, TDT không huỷ ngang, TDT xác nhận ...) hay theo phương diện thanh toán (TDT trả ngay, TDT trả chậm) ... 1. Phân loại TDT Theo Uỷ ban về kỹ thuật và Nghiệp vụ Ngân hàng thuộc ICC (Tài liệu số xuất bản 515) TDT được phân biệt theo 2 dạng: • Phân theo loại hình: *TDT không huỷ ngang *TDT huỷ ngang • Phân theo phương thức sử dụng : *TDT không huỷ ngang có giá trị trực tiếp *TDT không huỷ ngang có giá trị chiết khấu 20

*TDT không huỷ ngang không xác nhận *TDT không huỷ ngang xác nhận *TDT tuần hoàn *TDT với điều khoản đỏ *TDT dự phòng *TDT chuyển nhượng *TDT giáp lưng Các loại TDT trên sẽ được đề cập trong quá trình phân tích, giải thích của cuốn sách này. Điều khoản này chỉ nói về TDT không hủy ngang và có giá trị trực tiếp và TDT với Điều khoản đỏ 2. TDT không hủy ngang có giá trị trực tiếp Thực ra, trong giao dịch thỉnh thoảng ta vẫn gặp loại TDT này nhưng cách gọi thì có vẻ mới lạ. Đây là TDT mà chứng từ được yêu cầu xuất trình trực tiếp để thanh toán tại NH phát hành. Do vậy thời hạn hiệu lực sẽ kết thúc tại NH phát hành. TDT sẽ không thể hiện điều khoản chiết khấu và chỉ định NH chiết khấu. Việc chiết khấu (ứng tiền) là công việc nội bộ giữa NH chuyển chứng từ và người hưởng. Mặc dù, TDT không có giá trị chiết khấu và cam kết thanh toán của NH phát hành chỉ có giá trị duy nhất đối với người hưởng, NH chuyển chứng từ cũng có thể ứng tiền cho khách hàng Nếu chứng từ hoàn toàn không điều chỉnh trách nhiệm của NH phát hành quy định tại Điều 9. Sau khi nhận được chứng từ hợp lệ, NH phát hành phải chuyển trả tiền cho người hưởng theo chỉ dẫn của NH chuyển chứng từ. Vai trò của NH chuyển chứng từ là bảo vệ quyền lợi của người được hưởng và cũng chính la bảo vệ quyền lợi của chính mình nếu họ đã chiết khấu chứng từ theo đúng cam kết trong TDT và phù hợp với Bản Điều lệ 500. Định nghĩa của TDT trực tiếp được ghi trong tài liệu ICC số xuất bản 515: "Nghĩa vụ của NH phát hành trong TDT không huỷ ngang và trực tiếp chỉ có giá trị đối với người hưởng về việc thanh toán hối phiếu / chứng từ và luôn luôn hết hiệu lực tại NH phát hành. Loại TDT này không bao gồm cam kết hoặc nghĩa vụ nào của NH phát hành với bất cứ ai ngoài người hưởng của TDT ". 3. TDT với điều khoản đỏ Từ "Red Clause" ngày nay được dùng bởi nhiều thuật ngữ khác nhau: "Advance Clause" (Điều khoản ứng trước), hoặc "special clause" (Điều khoản đặc biệt). Theo đó, người mở TDT cam kết tài trợ cho nhà XK ngay sau khi TDT được mở. Hai bên đối tác phải có quan hệ làm ăn lâu dài và uy tín. Phía NH phải là công ty lớn và đủ vốn, phía XK có nguồn hàng hoá, sản xuất nhưng thiếu vốn. Với "Điều khoản đỏ", NH phát hành cam kết ứng một số tiền nhất định (30 hoặc 50%) trị giá TDT khi nhận được các chứng từ, thông thường là: • Hối phiếu của số tiền ứng trước • Hoá đơn • Cam kết trả nợ hoặc cam kết giao hàng và các chứng từ khác tùy theo thoả thuận Rất nhiều trường hợp người mở chỉ ứng trước tiền hàng cho Người hưởng dưới sự bảo lãnh của NH người hưởng (Advance Guarantee). Như vậy, Người hưởng sẽ thương lượng với NH mình để phát hành Bảo lãnh trước khi nhận được tiền theo Điều khoản đỏ. Một số người ngộ nhận là với TDT có Điều khoản đỏ, Người hưởng sẽ được NH thông báo cấp tín dụng ngay sau khi nhận được TDT. Điều cần hiểu là tiền ứng trước được lấy từ tài khoản của người mở, nghĩa là Tín dụng thương mại, mà không phải cấp Tín dụng của NH thông báo hay NH phát hành. NH thông báo chỉ thực hiện các thủ tục theo điều khoản của TDT chứ không cam kết hoặc chịu trách nhiệm về số tiền đó. 21

4. NH được chỉ định về chiết khấu chứng từ Thông thường TDT đều quy định: "TDT này có giá trị chiết khấu tại NH ..." hoặc "giới hạn việc chiết khấu của TDT này tại NH ..." nhằm định rõ NH chiết khấu, gọi là NH được chỉ định (Nominated bank), có nghĩa là chứng từ phải được xuất trình tại NH này. Tuy nhiên, một số TDT không ghi quy định có giá trị chiết khấu tại một ngân hàng cụ thể nào. Như vậy phải hiểu là chứng từ của TDT đó có giá trị chiết khấu tại bất cứ ngân hàng nào. NH nào cũng có quyền trở thành NH được chỉ định để chiết khấu bộ chứng từ và có quyền đòi NH phát hành hoàn trả tiền theo đúng điều khoản của TDT. Do vậy, chứng từ phải được xuất trình cho : • NH xác nhận, Nếu là TDT xác nhận, hoặc • NH phát hành, Nếu người hưởng không muốn qua ngân hàng thứ 2, hoặc • NH được chỉ định cụ thể, hoặc bất cứ ngân hàng nào Nếu TDT không ghi rõ NH đó. Trên thực tế, đối với TDT có giá trị chiết khấu ở bất cứ ngân hàng nào, bộ chứng từ luôn được xuất trình tại ngân hàng của người hưởng. Ngân hàng này có quan hệ dịch vụ tiền gửi hoặc tài trợ (Trade Finance) với khách hàng của mình nên họ sẵn sàng chiết khấu bộ chứng từ khi được xuất trình, NH này là đại lý của NH phát hành, có nghĩa vụ thay mặt NH phát hành kiểm tra tính chân thực của toàn bộ chứng từ: chữ ký uỷ quyền, con dấu (Nếu có) của người hưởng, chữ ký có thẩm quyền của những chứng từ do phía thứ 3 lập (vận tải đơn, chứng nhận xuất xứ, kiểm dịch ...). NH phát hành không thể làm được những việc đó vì chứng từ được lập tại một nước khác. Đó là nguyên nhân tại sao chứng từ của người hưởng của một nước khác không thể xuất trình trực tiếp cho NH phát hành để thanh toán mà phải đưa qua ngân hàng của người hưởng nước sở tại, NH chuyển chứng từ (Remitting Bank). Tuy nhiên trên lý thuyết người hưởng có quyền làm như vậy nếu họ bảo đảm những yêu cầu trên. 5. "Chiết khấu" với đúng nghĩa của nó Để tránh lạm dụng từ "chiết khấu" (Negotiation) phần II của Điều khoản này được bổ sung nhằm nói rõ thế nào chiết khấu. Thực tế trước đây có những ngân hàng đòi tiền NH phát hành TDT với câu "... chứng từ đã được chúng tôi chiết khấu ..."(Document negotiation). Nhưng thực ra họ chỉ là NH chuyển chứng từ thay mặt Người hưởng đòi tiền NH phát hành mà không ứng trước tiền cho Người hưởng. Chiết khấu, Tiếng Việt chỉ có một nghĩa, nhưng tiếng Anh hiểu theo nghĩa ban đầu thì phải phân biệt theo 2 từ : • Negotiation: là hành động của người hưởng xuất trình hối phiếu / chứng từ tại ngân hàng để được nhận số tiền ứng trước. Do đó,Negotiation cũng được gọi là thương lượng chứng từ. • Discount: là hành động triết khấu của ngân hàng đối với hối phiếu chứng từ được dùng rộng rãi trong thị trường chứng khoán, tài chính, ngân hàng Quốc tế, chỉ phương thức mua lại tín phiếu, hối phiếu, thương phiếu ... Do vậy, đối với hối phiếu có kỳ hạn được phát hành theo TDT trả chậm, từ "Discount" được dùng nhiều nhất hơn là "Negotiation" nhằm chỉ hành động chiết khấu hối phiếu của NH. Tuy nhiên sự phân biệt trên chỉ có giá trị về mặt ngữ nghĩa mà thôi. Trong thực tế,"Negotiation" là từ duy nhất được dùng trong giao dịch Tín dụng chứng từ để chỉ hành động của Người hưởng và hành động của NH. Chiết khấu là việc ứng một số tiền bằng trị giá danh nghĩa của hối phiếu, sau khi đã trừ đi số lãi, phí liên quan. ở Việt Nam theo tập quán các NH thương mại áp dụng lãi vay, trên cơ sở thời hạn chiết khấu cụ thể (từ ngày ứng tiền đến ngày nhận được tiền nước ngoài thanh toán) đối với số tiền chiết khấu. Lãi suất sẽ được tính sau khi đã hoàn tất việc thanh toán Thí dụ : - Trị giá chiết khấu: 150,000 $ - Kỳ hạn chiết khấu: 15 ngày. - Lãi suất: 9% / năm sô lãi người hưởng phải trả: 22

Lãi suất tính trên cơ sở năm, tức là 360 ngày(chứ không phải 365 ngày). Theo WG, Nếu lãi suất áp dụng cho đồng tiền nào thì cách tính của nước có đồng tiền đó sẽ được áp dụng. Chẳng hạn USD thì theo tập quán của Mỹ là 360 ngày. Tuy nhiên việc tính lãi suất trên cơ sở 360 ngày đang được quốc tế hoá, bất kể đồng tiền nào (Tài liệu ICC số XB 489) . Thực ra kỹ thuật chiết khấu trên chỉ là nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng nguồn trả nợ, không đúng với nghĩa vụ chiết khấu mà các NH ở những nước phát triển áp dụng. NH chiết khấu ấn định thời hạn chịu lãi của số tiền và mức lãi của số tiền và mức lãi suất hiện hành. Sau khi trừ tiền lãi chiết khấu, phí chiết khấu, bưu điện, điện phí ... NH sẽ trả phần còn lại của trị giá Hoá đơn / HP cho người hưởng. Kỳ hạn chiết khấu tuỳ thuộc vào điều khoản thanh toán của TDT, NH phát hành và quốc gia có thuộc vào danh mục nhiều rủi ro hay không? TDT không đòi tiền bằng điện thì thời gian chiết khấu khoảng 15 ngày. Nếu thu được tiền nhanh, NH sẽ được lãi, ngược lại NH chiết khấu sẽ đòi NH phát hành lãi chậm trả, căn cứ vào Điều7- Điều lệ 500 về thời gian xử lý chứng từ của các NH. Dù chiết khấu luôn luôn được bảo lưu, nhưng chiết khấu không thể yêu cầu Người hưởng trả thêm tiền lãi do phía NH phát hành thanh toán NH chậm vì thời hạn chiết khấu là do phía NH ấn định và đã được Người hưởng đồng ý. 6. Phân biệt hai loại TDT trả chậm Hiện nay, các Ngân hàng Hàn Quốc thường phát hành TDT trả chậm có giá trị chiết khấu trả ngay với lãi suất trả chậm tính cho người mở. Mặc dù TDT yêu cầu xuất trình hối phiếu có kỳ hạn nhưng điều khoản thanh toán lại cho phép NH được chỉ định chiết khấu và đòi tiền tại NH thứ ba trên có sở trả tiền ngay. Loại TDT này được gọi là Tín dụng trả chậm của NH để phân biệt với Tín dụng trả chậm cho người bán cấp cho người mua. Với Banker’s usance credit, người hưởng không bị ràng buộc bởi hối phiếu kỳ hạn vì họ được ngân hàng hoàn trả thanh toán ngay sau khi nhận được hối phiếu. Do vậy, khi nhận được TDT trả chậm thuộc kiểu này, nhà xuất khẩu cần kiểm tra điều khoản thanh toán để đảm bảo nhận được tiền ngay sau khi xuất trình chứng từ mà không đợi đến ngày đáo hạn ghi trong hối phiếu. Thực ra, đây chỉ là loại hình tài trợ của Ngân hàng phát hành cấp cho Nhà nhập khẩu. Việc trả chậm chỉ phát sinh giữa người mở và Ngân hàng phát hành TDT. Ngân hàng hoàn trả được phép thanh toán ngay cho Ngân hàng chiết khấu trên cơ sở hối phiếu kỳ hạn và ghi nợ tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản tiền vay, Nếu đã ký thoả thuận Tín dụng với Ngân hàng phát hành 7. Quyền quyết định của NH được chỉ định Ngân hàng được chỉ định trong TDT có thể đồng ý chiết khấu, nhưng cũng có thể từ chối mà chỉ kiểm tra và gửi chứng từ thanh toán, vì họ không muốn ứng tiền trước cho người hưởng. Một nhà xuất khẩu đến ngân hàng xuất trình bộ chứng từ phù hợp với điều khoản của TDT và yêu cầu chiết khấu. Ngân hàng chưa sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của nhà xuất khẩu vì họ còn xem xét các khía cạnh: • Quan hệ của nhà xuất khẩu đối với ngân hàng này, thực trạng hoạt động và khả năng trả nợ nếu bộ chứng từ không được thanh toán • Ngân hàng phát hành và uy tín, khả năng thanh toán của nó 23



Loại hàng hoá của TDT, mức độ rủi ro có thể do biến động giá cả thị trường quốc tế, trị giá bộ chứng từ ... • Người mở Tín dụng thư như thế nào? Quan hệ giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu? Về nguyên tắc bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều khoản của TDT thì người hưởng sẽ được trả tiền. Tuy nhiên trong thực tế không đơn giản như vậy. Ngân hàng chiết khấu có thể không phát hiện ra những sai sót rất nhỏ trên bề mặt chứng từ mà họ cho là hợp lệ. Việc phá sản của NH phát hành TDT không phải là không có (vụ mafia của ngân hàng Bank For Credit & Commerce Inernational, Hongkong năm 1991, hoặc vụ sụp đổ của ngân hàng Baring Anh quốc tháng 2/1995) hoặc NH mở không có khả năng thanh toán ... Tất cả những điều này tạo ra ý thức phòng ngừa đối với ngân hàng khi chấp nhận chiết khấu chứng từ theo TDT.Thông thường, hai yếu tố quan trọng và quyết định đối với ngân hàng để chiết khấu chứng từ là quan hệ giữa NH chiết khấu với người hưởng và thực trạng của bộ chứng từ xuất trình. Theo tổng kết của ICC, chứng từ xuất trình đòi tiền theo TDT phần lớn là bất hợp lệ nhưng rất ít trường hợp bị từ chối hoàn toàn. Do vậy, điều quyết định sự an toàn trong thanh toán vủa giao dịch Tín dụng chứng từ là mối quan hệ của các bên liên quan. Phần C và D của điều khoản này nói rõ vai trò, nghĩa vụ và quyền hạn của NH chiết khấu. Mặc dù được uỷ quyền nhưng NH được chỉ định có toàn quyền quyết định chiết khấu (ứng tiền cho người hưởng) hay chỉ làm dịch vụ thu tiền. Ngân hàng này hoàn toàn không có trách nhiệm gì về thanh toán, chấp nhận và thanh toán hoặc chiết khấu bộ chứng từ xuất trình mặc dù nó đã kiểm tra đầy đủ về mặt giá trị chân thực, sự phù hợp với điều khoản của TDT và gửi chứng từ theo quy định. NH được chỉ định xác nhận sự hợp lệ của chứng từ và yêu cầu NH phát hành thanh toán theo điều khoản của TDT & theo Bản Điều lệ. Nhưng ngân hàng này không chịu trách nhiệm gì nếu với một lý do nào đó mà bộ chứng từ không được thanh toán, kể cả việc nó không phát hiện được sai sót của chứng từ . "Trừ trường hợp NH được chỉ định có thoả thuận riêng và thông báo cụ thể với người hưởng". Đây là trường hợp NH được chỉ định thông báo TDT cho người hưởng, đồng thời cam kết chịu trách nhiệm đối với bộ chứng từ xuất trình của TDT, theo đó sẽ thanh toán trả tiền ngay hoặc chấp nhận hoặc chiết khấu không bảo lưu cho người hưởng khi bộ chứng từ hợp lệ được xuất trình. (Điều này, tương đương với hành động mà người ta thường gọi là Silent Confirmation). Sự cam kết trên xuất phát từ mối quan hệ rất tốt và sự gắn bó của NH cam kết với người hưởng hoặc có thể là NH phát hành TDT là NH mẹ và NH cam kết là chi nhánh hoặc NH liên doanh của NH đó. Bằng sự cam kết như trên NH được chỉ định (trong trường hợp bất cứ NH nào cũng là ngân hàng được chỉ định) sẽ tạo được sức hấp dẫn khách hàng trong dịch vụ NH. Tất nhiên đổi lại NH sẽ thu được một khoản phí không nhỏ. Phần D của điêu khoản này thường được biểu hiện bằng cam kết của NH phát hành trong TDT : Chỉ thị cho NH thanh toán / chấp nhận/chiết khấu : "ngay sau khi nhận bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của TDT, chúng tôi sẽ hoàn trả cho NH chiết khấu theo đúng yêu cầu..." hoặc "sau khi nhận bộ chứng từ hợp lệ, chúng tôi sẽ chấp nhận thanh toán vào ngày đáo hạn theo chỉ thị của quý khách hàng". ĐIỀU 11: TDT ĐƯỢC CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BƯU ĐIỆN VÀ ĐƯỢC SƠ BÁO A.i. Khi NH phát hành TDT chỉ thị cho NH thông báo bằng điện xác thực để thông báo một TDT hoặc sửa đổi TDT thì bức điện sẽ được xem là văn bản TDT có hiệu lực hoặc sửa đổi có hiệu lực mà không cần thư xác nhận. Tuy nhiên nếu thư xác nhận được gửi đi nó sẽ không có giá trị và NH thông báo sẽ không bắt buộc phải kiểm tra thư xác nhận đó với nội dung TDT có giá trị hoặc sửa đổi có hiệu lực mà nó đã nhận được bằng điện. ii. Nếu chuyển điện đi "các chi tiết đầy 24

đủ gửi sau" (hoặc những từ tương tự) hoặc ghi rằng thư xác nhận sẽ là văn bản có hiệu lực đối với TDT và sửa đổi thì điện mở TDT hoặc sửa đổi sẽ không được xem như là văn bản có hiệu lực. NH phát hành phải gởi không chậm trễ văn bản chi tiết có hiệu lực của TDT hoặc của sửa đổi cho NH thông báo. B. Nếu một NH sửdụng các dịch vụ của NH thông báo để thông báo TDT cho người hưởng thì cũng phải sử dụng các dịch vụ của chính NH đó để thông báo sửa đổi. C. Một thông báo sơ bộ về việc phát hành hoặc sửa đổi TDT không huỷ ngang (sơ báo) chỉ được NH phát hành gửi đi Nếu NH này phát hành tiếp theo đó TDT có hiệu lực hoặc tu chỉnh TDT có hiệu lực. Trừ khi trong sơ báo có quy định khác, NH phát hành đã thực hiện một sơ báo như vậy sẽ bị ràng buộc không huỷ ngang việc phát hành hoặc sửa đổi không chậm trễ TDT với các điều khoản phù hợp với bản sơ báo. 1. Thực chất của việc sơ báo và hành động của NH. Điều khoản này có những thay đổi so với điều 12 của Bản Điều lệ 400. Từ "xác thực" (authenticated) được bổ sung nhằm nói rõ điều khoản này chỉ được áp dụng cho những bức điện có xác nhận bằng khoá điện (testkey), ngược lại thì không có giá trị. Do vậy, khi một TDT và / hoặc sửa đổi được thực hiện bằng điện có test thì chúng có giá trị và hiệu lực thi hành. Những xác nhận bằng thư sau đó đối với các bức điện trên không có giá trị và NH không có trách nhiệm kiểm tra sự phù hợp giữa các bức điện đó với các bản gửi bằng thư. Tuy nhiên, nếu có câu "chi tiết cụ thể sẽ gởi sau" hoặc "bản gởi bằng thư có hiệu lực" ("Full details will follow making operative L/C" hoặc "Mail confirmation is the Operative Instrument" thì phải hiểu là bản bằng thư phải được NH phát hành gửi tới nơi và nó là bản TDT (hoặc sửa đổi) chính thức có giá trị thi hành Nếu NH được sơ báo bằng điện như trên, nó sẽ báo lại đúng một nội dung đó cho người hưởng để tránh sự hiểu nhầm trong việc thực hiện TDT. Thông báo ban đầu này là bức điện không có khoá điện và do vậy NH phát hành sẽ miễn trách nhiệm nếu sau đó nó không gửi bản bằng thư như đã nói trong bức điện. Nhưng nếu nó có khoá điện thì NH thông báo sẽ coi đó là sơ báo (Preliminary advice) và sẽ hành động như chỉ dẫn ở phần C của Điều khoản này. Trong trường hợp NH phát hành không đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho TDT (hoặc sửa đổi) chi tiết, nó có thể sơ báo đến NH thông báo về TDT (hoặc sửa đổi) sẽ được thực hiện ngay sau đó, hoặc trong vòng thời gian hợp lý. Điều này đảm bảo cho người hưởng chuẩn bị hàng hoá và các dịch vụ liên quan đến Tín dụng thư (hoặc sửa đổi ) theo đúng tiến độ giao hàng. Tuy nhiên, trong thực tế, có NH chỉ sơ báo mà không phát hành TDT (hoặc sửa đổi) chính thức, gây khó khăn và tổn thất cho người hưởng. Các NH phải hiểu rằng sự sẵn sàng thực hiện một sơ báo về TDT của họ sẽ bị khách hàng (người mua) lợi dụng nhằm chứng minh cho người bán khả năng và ý muốn thực hiện HÐ mua hàng của mình. Nhưng có thể do những lý do không đảm bảo đầy đủ các thủ tục tài chính của NH, hoặc do sự biến động của giá cả hàng hoá bất lợi TDT chính thức không được mở và NH đã sơ báo cũng không chịu trách nhiệm gì về việc làm của mình. Nhằm đảm bảo quyền lợi của người hưởng và các bên liên quan, phần C của điều khoản này nói rõ mỗi khi đã thực hiện sơ báo TDT (hoặc sửa đổi), thì NH phát hành phải thực hiện không huỷ ngang cam kết của mình nêu trong sơ báo. Sơ báo có giá trị ràng buộc đối với tất cả các bên liên quan.Tuy nhiên, NH sơ báo miễn trách nhiệm đối với TDT chính thức không được mở đối với TDT chính thức Nếu có ghi chú trong bức điện sơ báo về giá trị của sơ báo đó. Thí dụ: "Đây chỉ là thông báo đơn thuẫn, không có giá trị thực hiện và do vậy chúng tôi không chịu trách nhiệm Nếu TDT không được mở" hoặc "Xin lưu ý rằng chúng tôi chỉ sơ báo theo yêu cầu của khách hàng, và do vậy không chịu trách nhiệm về TDT được mở hay không" 2. Các giao dịch TDT bằng FACSIMILE Một số vấn đề được các phòng thương mại quốc gia quan tâm và yêu cầu giải đáp là liệu các giao dịch của TDT (phát hành, sơ báo, thông báo, sửa đổi TDT ...) được giao dịch bằng fax có giá trị thực hiện không? - Điều này, Theo WG, tuỳ thuộc 25

vào quy chế, nguyên tắc của từng NH trong giao dịch. Nếu NH đảm bảo xác minh được tính xác thực của các giao dịch đó và an toàn thuận tiện thì sẽ chấp nhận, ngược lại thì chúng chỉ là những thông tin ban đầu không có giá trị thực hiện. ĐIỀU 12: CHỈ THỊ KHÔNG ĐẦY ĐỦ HOẶC KHÔNG RÕ RÀNG Nếu nhận được các chỉ thị không đầy đủ hoặc không rõ ràng để thông báo, xác nhận hoặc sửa đổi TDT thì NH được yêu cầu thực hiện những chỉ thị đó có thể sơ báo cho người hưởng để biết và không chịu trách nhiệm gì. Sơ báo này phải ghi rõ rằng thông báo chỉ cung cấp thông tin tham khảo và NH thông báo được miễn trách. Trong mọi trường hợp, NH thông báo phải báo cáo cho NH phát hành về hành động của mình và yêu cầu NH phát hành cung cấp thông tin cần thiết. NH phát hành phải cung cấp không chậm trễ thông tin cần thiết. TDT sẽ được thông báo, xác nhận hoặc sửa đổi , khi NH thông báo nhận được các chỉ thị đầy đủ và rõ ràng và Nếu nó sẵn sàng thực hiện chỉ thị đó 1. Những chỉ thị không có cơ sở để thực hiện. điều khoản này được bổ sung vào điều 14 của Bản Điều lệ cũ về trách nhiệm của NH mở và NH thông báo trong trường hợp nội dung của chỉ thị thông báo, xác nhận, sửa đổi TDT nhận được không đầy đủ hoặc không rõ ràng. "Không đầy đủ" thường là mất dòng, mất từng đoạn hoặc chỉ nhận được một/ hai phần của bức điện của TDT hoặc thiếu các điều khoản quan trọng như ngày hết hiệu lực, số tiền "Không rõ ràng" có thể do nhiễu loạn không thể đọc được bức điện, hoặc do các điều khoản của TDT / sửa đổi mập mờ, thiếu logic, mâu thuẫn với nhau, ảnh hưởng đến giá trị thực hiện của TDT / sửa đổi. 2. Quyền và hành động của NH thông báo Trong những trường hợp nêu trên NH thông báo có quyền lựa chọn, hoặc: • Yêu cầu NH phát hành xác nhận lại ngay bức điện nhiễu loạn, hoặc những điều khoản TDT không rõ ràng, hoặc: • Sơ báo cho những người hưởng bức điện nhận được với lời ghi chú là nó không chịu trách nhiệm về sơ báo này, đồng thời yêu cầu NH phát hành thực hiện lại bức điện trên để đạt được đầy đủ tính khả thi, hoặc: • Thông báo bình thường cho khách hàng nhưng lưu ý những điểm không rõ ràng và bất hợp lý để sửa đổi TDT Vậy NH được yêu cầu thông báo, xác nhận hoặc sửa đổi TDT có quyền lựa chọn cách làm của mình phù hợp với quy chế của nó và thuận tiện trong hoạt động giao dịch nhưng trách nhiệm của NH này cũng được nói rõ: trong bất cứ trường hợp nào thì NH nhận được những chỉ thị không đầy đủ, không rõ ràng (NH thông báo) đều phải báo ngay cho NH mà nó nhận được chỉ thị (NH phát hành TDT) về việc làm của mình và yêu cầu NH đó xác nhận lại các chỉ thị trên. Nhằm nêu bật nghĩa vụ của NH thông báo đối với NH phát hành, Điều khoản này được bổ sung thêm câu: "Trong bất cứ trường hợp nào, NH thông báo phải báo ngay cho ...". Nếu yêu cầu NH phát hành chuyển lại TDT do các lý do trên, NH thông báo phải nói rõ thực trạng của giao dịch này: đã thông báo chính thức hay chỉ sơ báo "hiện tại, TDT đang được giữ cho đến khi chúng tôi nhận được điện giải nghĩa/ xác nhận của quý hàng". Trong thực tế, nếu đơn giản là NH thông báo thì NH được chỉ định không bao giờ từ chối dịch vụ đó. Nhưng nếu được yêu cầu xác nhận TDT, NH này sẽ xem xét mọi khía cạnh, kể cả trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của NH phát hành TDT trước khi ràng buộc nghĩa vụ của mình vào những giao dịch của NH đó C. NGHĨA VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM 26

ĐIỀU 13: TIÊU CHUẨN KIỂM TRA CHỨNG TỪ A. NH phải kiểm tra tất cả các chứng từ được quy định trong TDT với sự cẩn thận hợp lý để xác định các chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng phù hợp với các điều kiện và điều khoản của TDT. Sự phù hợp như vậy phải được xác định bằng nghiệp vụ NH theo tiêu chuẩn quốc tế, thể hiện trong các điều khoản này. Các chứng từ biểu hiện trên bề mặt của chúng mâu thuẫn với nhau sẽ được xem như không thể hiện trên bề mặt của chúng phù hợp với các điều kiện và điều khoản của TDT. Chứng từ không quy định trong TDT sẽ được NH kiểm tra. Nếu NH nhận được chứng từ như vậy, họ sẽ trả lại cho người xuất trình hoặc chuyển tiếp mà không chịu trách nhiệm gì. B. NH phát hành, NH xác nhận, nếu có, hoặc NH được chỉ định hành động thay mặt họ, mỗi NH như vậy sẽ có một thời gian hợp lý, nhưng không vượt quá 7 ngày làm việc NH tiếp theo ngày nhận chứng từ, để kiểm tra chứng từ và quyết định sẽ nhận hay từ chối chứng từ và thông báo cho bên mà từ đó NH này nhận được chứng từ biết quyết định của mình. C. Nếu TDT bao gồm điều kiện mà không quy định theo đó, chứng từ phải xuất trình phù hợp thì NH sẽ xem như TDT không có điều kiện đó và sẽ bỏ qua. Điều 15 của bản điều lệ 400 được sửa đổi cơ bản nhằm bổ sung thêm những quy tắc về: • Tiêu chuẩn, thời hạn kiểm tra xử lý chứng từ • Chứng từ không yêu cầu xuất trình • Các điều kiện không cần chứng minh bằng chứng từ 1. Thế nào là "trên bề mặt chứng từ " (on their face) ? Như ta đã biết NH chỉ giao dịch bằng chứng từ. Chứng từ được lập ra theo yêu cầu của TDT. Cụm từ "... bảo đảm là chúng nó (chứng từ) được biểu hiện trên bề mặt phù hợp hay không phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT" được sử dụng nhằm nói rõ: việc xác định sự phù hợp của chứng từ được thực hiện trên cơ sở kiểm tra chứng từ của NH, chứ không phải theo nhận thức của người khác. Nói cách khác, NH có phương pháp kiểm tra chứng từ theo đặc thù riêng của nó, không phải theo cách hiểu biết thông thường của những người ngoài cuộc. Thí dụ: • Người hưởng ghi trong TDT là:"Angiang Afiex Company" nhưng khi lập điện thông báo giao hàng cho người mở, nhà xuất khẩu ghi: "thay mặt người hưởng , ký tên: "AFIEXCO" • NH xác định: chứng từ không phù hợp với TDT. • Nhà xuất khẩu không thể lý luận: Cả hai cách gọi đều đúng và ngay hồ sơ doanh nghiệp đã chứng minh được điều này. NH chỉ đưa ra một lý do đơn giản: Tên người hưởng ghi trong bức điện thông báo giao hàng không đúng với tên của người hưởng trong TDT (chứ không phải là không đúng với hồ sơ doanh nghiệp tại NH), đồng thời không phù hợp với tên của người hưởng ghi trên hoá đơn và các chứng từ khác. Đây chính là sự phù hợp trên bề mặt của các chứng từ với các điều khoản và điều kiện được ghi rõ trong TDT. Có những điều mà người hưởng nghĩ rất đơn giản và cảm thấy hoàn toàn hợp lý khi họ xuất trình vận đơn ghi:"port of loading: Saigon, port of discharge: Rotterdam port" Trong khi TDT quy định NH từ chối chứng từ vì : • trên bề mặt vận đơn không chứng minh được là hàng bốc từ một cảng nào của Việt Nam, • các NH trên thế giới không thể biết và cũng không cần biết là cảng Sài Gòn thuộc nước Việt nam mà họ chỉ căn cứ vào chứng từ do người chuyên chở cấp. Do vậy để vận đơn 27

phù hợp với điều kiện giao hàng của TDT, cảng giao hàng phải được ghi "port of loding: Saigon (Vietnam)" Nói chung, việc lập, kiểm tra chứng từ của TDT tương đối máy móc nhưng phải biểu hiện tính logic của vấn đề. Thí dụ khi nhận được TDT bị nhiễu, chi tiết hàng hoá thành "Rate of Circle 3: 45M3" thành "Rate of Circle 3 4953". Nhà xuất khẩu phải hiểu là TDT gốc của NH phát hành vẫn thể hiện đúng . Do vậy, TDT mà họ nhận được cần phải sửa đổi (xác nhận lại) những chi tiết sai lệch đó để chứng từ được lập phù hợp với yêu cầu. Nhưng nếu sửa đổi không kịp mà nhà xuất khẩu phải giao hàng ngay thì chứng từ phải thể hiện đúng chi tiết mà hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng (Rate of Circle 3: 45M3). Ngược lại với quan niệm "đúng theo TDT yêu cầu" một cách máy móc nhà xuất khẩu lập chứng từ với chi tiết "Rate of Circle 3:5953", NH chỉ định có thể chiết khấu vì NH này không thể hiểu nội dung của chi tiết kỹ thuật đó và họ cũng không biết TDT bị nhiễu trong quá trình chuyển điện. Tuy nhiên, NH phát hành có thể từ chối vì sự khác biệt của chi tiết hàng hoá. Ngược lại nếu lập chứng từ đúng theo thoả thuận trong HĐ thì NH chiết khấu có thể từ chối nhưng NH phát hành lại chấp nhận, vì nó phù hợp với hồ sơ TDT mà NH này đang lưu giữ. Trong tình huống trên nhà xuất khẩu phải chọn cách làm hợp với logic và có tấm nhìn chung cho toàn bộ một thương vụ chứ không nên quá máy móc. Họ phải hiểu rằng "chiết khấu" không có nghĩa là đã được trả tiền vì NH chiết khấu luôn bảo lưu hành động "mua "của mình bởi bộ chứng từ có thể bị NH phát hành từ chối thanh toán. Phương pháp kiểm tra chứng từ dựa "trên bề mặt " của chúng nhằm nêu ra nguyên tắc là xác định xem các điều khoản, điều kiện và các yêu cầu của TDT có được biểu hiện đúng trong chứng từ hay không? Do vậy, không nên hiểu máy móc là "mặt phải" hay "mặt trái" của chứng từ, mà là nội dung được diễn đạt bằng từ ngữ trên chứng từ đó. 2. Thế nào là "cẩn thận một cách hợp lý" (reasonable care)? Đây là khái niệm không cụ thể phòng thương mại quốc tế không thể từ bỏ được vì tính nguyên tắc của nó. Theo các chuyên gia NH, sự chính xác từng từ, từng chữ TDT và chứng từ là điều khó có thể. Tuy nhiên, NH phải "hợp lý" khi kiểm tra chứng từ để xác định được "trên bề mặt" các chứng từ này phù hợp với quy định của TDT. Cẩn thận hợp lý là sự kết hợp giữa hiểu biết đúng đắn tập quán giao dịch của ngân hàng và vận dụng chính xác Bản Điều lệ Thống nhất và thực hành Tín dụng Chứng từ. Hành động của ngân hàng phải biểu hiện tính trung thực. Tuy nhiên, trong môi trường cạnh tranh, ngân hàng luôn muốn phát triển dịch vụ, lôi cuốn khách hàng và bảo vệ quyền lợi của họ nhưng ngân hàng cũng không muốn giảm sút uy tín đối với các nh đại lý của mình. Có những tranh chấp giữa 2 phía mà một là người mở và NH phát hành, và một là người hưởng và ngân hàng chiết khấu. Loại trừ trường hợp một trong hai bên giành thắng lợi, có những vụ mà cả hai bên đều đúng và đều sai, vì TDT mở với các điều kiện hiểu theo hai cách khác nhau, nhưng người hưởng lại đơn giản hoá vấn đề mà không yêu cầu sửa đổi. Rốt cuộc, chứng từ xuất trình, NH chiết khấu hiểu theo cách có lợi cho khách hàng của mình thì chứng từ lập đúng nhưng lại bị NH phát hành từ chối vì điều khoản đó được hiểu theo phương diện khác (có lợi cho người mở) thì chứng từ bất hợp lệ. Tất nhiên trường hợp này phần thắng luôn nghiêng về phía NH phát hành vì họ là người quyết định chấp nhận hay từ chối chứng từ.Ngay cả khi Phòng Thương mại khi được hỏi ý kiến cũng giải thích theo 2 cách hiểu trên đều đúng và lời khuyên là: người hưởng nên yêu cầu sửa đổi những điều khoản lập lờ như vậy trước khi giao hàng, hoặc người hưởng nên từ chối những TDT được mở kém hoàn chỉnh (badly issued credits) như vậy. Trong những trường hợp đó, ngân hàng phải thể hiện tính trung thực trong việc xác định sự hoàn hảo của chứng từ. Trong tranh chấp, người nào có lỗi thì người đó phải gánh chịu hậu quả. 28

ngân hàng không thể cố tình hiểu sai sự việc vì mục đích bảo vệ quyền lợi khách hàng. Như vậy, ngân hàng sẽ bị đánh giá thấp trình độ nghiệp vụ và uy tín trên trường quốc tế. Chính sự trung thực là con đẻ của sự kết hợp của 2 yếu tố trên và nó cũng là lực hút của ngân hàng đối với khách hàng và sự quan tâm của các bạn đồng nghiệp trên thế giới. 3. Thế nào là "tiêu chuẩn quốc tế về nghiệp vụ ngân hàng" (intematlonal Standard Banking Practice) ? Mỗi một lĩnh như vực đều có luật riêng của nó, nhằm bảo đảm hoạt động đi đúng hướng. Nghiệp vụ Tín dụng chứng từ của ngân hàng được chi phối bởi "điều lệ và Thực hành Thống nhất Tín dụng chứng từ" mà mỗi một hành động của ngân hàng đều căn cứ vào các điều khoản của Bản Điều lệ này. Đây không phải là luật pháp quốc tế mà chỉ là những qui tắc chung hướng dẫn giao dịch mà bất cứ bên liên quan nào (ngân hàng, người mở, người hưởng) đều phải tuân thủ. Nó đã trở thành tiêu chuẩn cho bất kỳ ai muốn giao dịch về TDT và là cơ sở để bảo vệ quyền lợi của mình trên thương trường quốc tế. Thí dụ : Điều 20 của Bản điều lệ quy định : Nếu là chứng từ gốc (origin) thì chỉ cần đóng dấu "orlginal" lên bề mặt của nó là đủ, bất kể nó được tạo ra bằng sao chụp, bằng máy in điện toán, bằng giấy than... Quy định này đã là tiêu chuẩn cho các ngân hàng trên thế giới áp dụng khi kiểm tra chứng từ của TDT. Bản điều lệ và Thực hành Thổng nhất Tín dụng chứng từ đã định ra tất cả các nguyên tắc, tiêu chuẩn cho ngân hàng trong hoạt động giao dịch Tín dựng chứng từ. Cứ 10 năm, Bản điều lệ lại được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn phong phú và sự phát triển của khoa học công nghệ nhằm hoàn thiện những tiêu chuẩn cho các NHTM trên thế giới. 4. Chứng từ không yêu cầu xuất trình Các chứng từ mà TDT không yêu cầu xuất trình sẽ không được ngân hàng kiểm tra và không ràng buộc gì đối với ngân hàng. Đây là phần bổ sung của điều khoản này nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn: ngân hàng sẽ làm giải quyết khi các chứng từ mà TDT không yêu cầu xuất trình, đặc biệt là các chứng từ này bất hợp lệ? Ngân hàng không kiểm tra các chứng từ như vậy và hoặc họ sẽ trả lại cho người hưởng, hoặc chuyến giao cho người mở theo yêu cầu của người hưởng mà không chịu trách nhiệm về sự phù hợp của chứng từ đó. Trong thực tế, người hưởng muốn chứng minh cho ngân hàng nghĩa vụ đầy đủ mà họ đã thực thi trong thương vụ mua bán đối với người mở TDT bằng các chứng từ mà TDT không yêu cầu (thí dụ chứng nhận xuất xứ, chứng nhận phầm chất, điện báo giao hàng...). Cũng có trường hợp người mở TDT yêu cầu người hưởng gửi thêm cho họ những chứng từ đó nhưng lại không sửa đổi TDT. Tất cả những nhu cầu đó đều phát sinh ngoài giao dịch của TDT và ngân hàng sẽ không cần kiểm tra tính hợp lệ của chúng. Phần bổ sung này nhằm giảm bớt gánh nặng trách nhiệm của ngân hàng trong việc kiểm tra chứng từ và ngăn chặn tính tùy tiện của người hưởng và người mở TDT trong việc xuất trình chứng từ. Ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra chứng từ trong thời gian hợp lý, nhưng không quá 7 ngày làm việc. Bản Điều lệ 400 chỉ nói là trong thời gian hợp lý để rồi các ngân hàng ở các nước khác nhau vận dụng theo cách hiểu của mình và theo quy định của từng nước, gây ra những tranh chấp giữa các bên. Có ngân hàng hiểu là phải trong vòng 10 ngày làm việc, có người đưa ra ý kiến là chỉ cần 3 ngày làm việc là hợp lý. Các nước phát triển có những quy chế về hoạt động của ngân hàng, trong đó có thời hạn kiểm tra chứng từ, nhưng nhiều nước còn thiếu những nguyên tắc này. Nhằm tránh tranh chấp, ngân hàng phát hành TDT trước đây thường ghi rõ trong điều khoản thanh toán thời hạn kiểm tra chứng từ: "Sau 7 ngày làm việc kể từ khi nhận được chứng từ phù 29

hợp, chúng tôi sẽ thanh toán theo chỉ dẫn của quý hàng" (7 working days after our receipt of complied documents, we will pay as your instructions), hoặc : "Ngay sau khi nhận được chứng từ chúng tôi sẽ chuyển tiền theo yêu cầu của ngân hàng chiết khấu với điều kiện các điều khoản của TDT đã được thực hiện đầy đủ (upon receipt of documents we will remit as per negotiating banks request provided that a" terms and conditions of L/C have been fully complied with). Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các Phòng Thương mại Quốc gia và các chuyê n gia ngân hàng, WG đã thống nhất thời hạn kiểm tra chứng từ của ngân hàng là 7 ngày làm việc kể từ khi chứng từ được nhận. Tuy nhiên, không phải khi nào ngân hàng cũng sử dụng hết 7 ngày làm việc để kiểm tra chứng từ mà còn tùy thuộc khối lượng chứng từ, tính chất chứng từ để mà có những thời hạn khác nhau. Có ngân hàng khối lượng chứng từ xuất trình rất nhiều đòi hỏi thời gian dài, có bộ chứng từ rất phức tạp, đòi hỏi tính cẩn thận và mất nhiều thời gian. Nhưng cũng có ngân hàng giao dịch ít hơn hoặc có những bộ chứng từ đơn giản (chỉ có hối phiếu và văn bản đòi tiền (demand) theo Tín dụng thư dự phòng (Standby credit) thì giới hạn này cho trong phạm vi 1 ngày làm việc. Do vậy, "thời gian hợp lý" phải được vận dụng trong từng trường hợp, từng hoàn cảnh cụ thể của từng NH. 5. Quy định về thời gian kiểm tra chứng từ cho các ngân hàng : - NH được chỉ định (ngân hàng chiết khấu): kiểm tra và quyết định nhận hay từ chối chứng từ trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi nó nhận từ người hưởng. - NH xác nhận: quyết định thanh toán hay từ chối chứng từ không quá 7 ngày làm việc kể từ khi nó nhận được chứng từ từ ngân hàng chiết khấu, hoặc từ người hưởng. - NH phát hành quyết định hoàn trả tiền hay từ chối chứng từ trong thời hạn không quá 7 ngày làm việc kể từ khi nó nhận được chứng từ từ ngân hàng xác nhận (trong trường hợp L/C xác nhận và chứng từ được ngân hàng xác nhận thanh toán) hoặc từ NH chiết khấu. Trong thực tế, ngân hàng chiết khấu (ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu) luôn tạo thuận lợi cho khách hàng nên thời gian cho việc kiểm tra, chiết khấu và gửi chứng từ đi trong vòng 1 hoặc 2 ngày làm việc. Đối với ngân hàng phát hành thì thời gian này "rộng rãi" hơn, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể trong quan hệ giữa họ và người mở TDT. Thí dụ: nhận được thông báo chứng từ hợp lệ từ NH phát hành, người mở bắt đấu chuyển đủ số tiền trong một thời gian nhất định, hoặc bắt đầu ký khế ước rút tiền theo khoản tín dụng được ngân hàng dành cho khi mở TDT. Tuy nhiên, bất luận trong trường hợp nào NH phát hành cũng phải thanh toán không quá 7 ngày làm việc theo quy định của Bản Điều lệ. Phần C, Điều 16 của Bản Điều lệ 400 chỉ đề cập đến "thời gian hợp lý" đối với ngân hàng phát hành trong việc kiểm tra chứng từ. Đã không ít những ý kiến của các Phòng Thương mại quốc tế nêu ra: đối với ngân hàng chiết khấu, ngân hàng xác nhận (nếu có) thì thời gian kiểm tra có cần ấn định là bao nhiêu không? Quan điểm của các Phòng Thương mại quốc gia là các ngân hàng liên quan đến giao dịch 1 TDT đều phải có nhiệm vụ kiểm tra chứng từ và đưa ra quyết định của mình trong thời hạn nhất định. phần B của điều khoản này đã đáp ứng đòi hỏi trên và khẳng định NH phát hành, ngân hàng xác nhận và ngân hàng được chỉ định (ngân hàng chiết khấu) là những ngân hàng có nhiệm vụ kiểm tra chứng từ trong thời hạn hợp lý nhưng không quá 7 ngày làm việc, để quyết định nhận hay từ chối các chứng từ xuất trình. Như vậy, một ngân hàng, mỗi khi đã quyết định chấp nhận chứng từ xuất trình tại mình, (ngân hàng được chỉ định), mặc dù nó không hề cam kết gì về trách nhiệm đối với TDT, vẫn phải kiểm tra chứng từ để quyết định trong thời hạn của điều khoản này, nhận hay từ chối chứng từ. Điều này có nghĩa là nếu chứng từ được xác định phù hợp với các điều khoản của TDT thì nó chiết khấu (theo yêu cầu của người hưởng), 30

hay từ chối và chỉ nhận làm ngân hàng thu hộ nếu chứng từ có những bất hợp lệ. Việc kiểm tra chứng từ để xác định sự phù hợp của chúng không chỉ là nghĩa vụ của NH phát hành (hoặc ngân hàng xác nhận, nếu có) mà còn là trách nhiệm của NH mà bộ chứng từ được xuất trình. 6. Điều kiện không yêu cầu chứng từ xuất trình Phần C của điều khoản này khẳng định nếu TDT có các điều khoản mà không cần chứng minh bằng chứng từ xuất trình, thì ngân hàng miễn trách đối với các điều kiện đó. Thí dụ: TDT ghi rõ các điều kiện khác: Sau khi giao hàng, người hưởng phải điện thông báo cho người mở chi tiết về hàng hóa, số tiền, tên tàu, ngày giao hàng...", (Other conditions : - after shipment, beneficiary must cable advise to applicant details of goods shipped, amount, name of vessel, date of delivery...), nhưng lại không yêu cầu xuất trình Bản xác nhận và bản điện thông báo đó của người hưởng.Trong trường hợp này NH không có trách nhiệm kiểm tra điều kiện thông báo giao hàng có được thực hiện hay không. Đây là những vấn đề phát sinh trong giao dịch TDT trước đây. Bản Điều lệ 400 (Điều 22a) chỉ quy định: "mọi chỉ thị mở TDT và bản thân TDT đó, và mọi chỉ thị sửa đổi, Nếu có và bản thân các sửa đổi đó đều phải ghi rõ những chứng từ phải xuất trình để được trả tiền chấp nhận hoặc chiết khấu". Tuy nhiên người mở và NH phát hành cần ghi thêm những điều khoản vào TDT mà không nói rõ chứng từ cần xuất trình khi thanh toán, dẫn đến tranh chấp. Phía mở thư tín dụng lý luận: đã là điều kiện nêu ra trong TDT có nghĩa là NH phải kiểm tra xem người hưởng có thực hiện đầy đủ các điều kiện đó hay không bằng việc yêu cầu xuất trình chứng từ để chứng minh sự thực hiện của người hưởng. Xuất trình chứng từ hay không là tùy thuộc vào ý muốn của người hưởng, ngân hàng không có quyển từ chối thanh toán nếu các chứng từ không yêu cầu TDT không được xuất trình. Rất nhiều trường hợp trên đây được các NH trên thế giới nêu ra yêu cầu ICC giải đáp. Trong cuốn "Case study on documentary credit" (Tài liệu ICC số XB 459) ICC cũng đã nêu quan điểm của mình: Theo Ðiều 3 của Bản điều lệ 400, ngân hàng chỉ giao dịch bằng chứng từ, các điều kiện được nêu trong TDT không yêu cầu chứng từ xuất trình thì ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các điều kiện đó. Để chấm dứt những tranh chấp như vậy, WG đã bổ sung Điều 13 (c) vào Bản Điều lệ 500 nhằm bảo đảm tính chặt chẽ của TDT và do vậy, định rõ vai trò của các ngân hàng trong giao dịch Tín dụng chứng từ 7. Phân biệt giữa "Điều khoản" (term) & "Điều kiện" (condition) Theo giải thích của các chuyên gia của ICC về Điều khoản (term) và điều kiện (condition) (tài liệu ICC số XB 511) trong phạm vi giao dịch của Tín dụng chứng từ thì: Điều khoản (term): là những điều cơ bản tạo thành nội dung của TDT và những sự việc tất yếu phải xẩy ra. Thí dụ: Người hưởng, người mở TDT, số tiền, các chứng từ xuất trình, ngày hết hiệu lực, ngày cuối cùng phải giao hàng... là những Điều khoản (term) Điều kiện (condition): là những điều bổ sung thêm cho hoàn chỉnh các điều khoản và những sự việc trong tương lai chưa chắc sẽ xảy ra. Thí dụ: (1) "Tất cả chứng từ phải được ký bằng tay " (all documents must be manuaily signed) (2) "Sau khi giao hàng, người hưởng phải thông báo bằng điện chi tiết giao hàng cho công ty bảo hiểm theo địa chỉ sau ... " (after Shipment, beneficiary must advise by cable details of shipment to The insurance Co. with address as follows...); hoặc: (3) "Hàng giao trên boong tàu không chấp nhận" (on deck cargoes not acceptable) 31

Thí dụ (1) và (2) là n'hững điều bổ sung thêm nhằm bảo đảm sự hoàn thiện và chặt chẽ cho TDT, còn thí dụ cuối cùng là việc có thể không xẩy ra vì chủ hàng có thể không bao giờ giao hàng trên boong tàu. 8. Những Điều kiện cần và những Điều kiện không cần chứng từ Một điều đơn giản các ngân hàng, người mở và người hưởng TDT đều phải hiểu là có những trường hợp ngay bản thân các chứng từ thông thường mà TDT yêu cầu (hóa đơn, vận đơn, chứng từ đóng gói. .) đã thỏa mãn các điều kiện của TDT. Thí dụ thứ nhất trên đây các chứng từ phải ký bằng tay (chứ không được ký bằng con dấu làm sẵn, hoặc bản ký tạo ra qua máy fax/photocopy) sẽ được minh chứng bằng các chứng từ xuất trình cho ngân hàng, không cần phải có chứng từ nào khác. Tương tự, TDT có điều kiện: tất cả các chứng từ đều phải ghi số TDT thì bản thân các chứng từ khi xuất trình đều phải thỏa mãn điều kiện này. Nhưng ở thí dụ (2), bản thân các chứng từ thông thường mà TDT, yêu cầu đều không thể thỏa mãn điều kiện về việc thông báo giao hàng của người hưởng cho công ty bảo hiểm. Người mở và NH phát hành TDT phải hiểu điều này để yêu cầu người hưởng xuất trình thêm các chứng từ riêng biệt (bản xác nhận và/hoặc bức điện thông báo đó). Trong khuôn khổ Bản Điều lệ, WG không thể phân rõ những điều kiện nào cần và những điều kiện nào không cần chứng từ riêng biệt phải xuất trình, nhưng các bên liên quan trong giao dịch Tín dụng chứng từ phải có sự hiểu biết thông thường (common sense) để quyết định yêu cầu hay không yêu cầu những chứng từ xuất trình để thỏa mãn các điều kiện của TDT. Không làm được như vậy, ngân hàng sẽ miễn trách và đương nhiên hậu quả xảy ra sẽ do phía mở TDT gánh chịu. ĐIỀU 14: CHỨNG TỪ BẤT HỢP LỆ VÀ THÔNG BÁO A. Khi Ngân hàng Phát hành cho phép một ngân hàng khác thanh toán hay cam kết thanh toán sau, chấp nhận hối phiếu, hoặc chiêt khấu trên cơ sở các chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT, thì Ngân hàng Phát hành và Ngân hàng Xác nhận (Nếu có) phải: i. hoàn trả cho Ngân hàng được chỉ định khi ngân hàng này đã thanh toán, cam kết thanh toán sau, chấp nhận hối phiếu hoặc chiết khấu, ii. tiếp nhận các chứng từ. B. Khi tiếp nhận chứng từ, NH phát hành và / hoặc Ngân hàng xác nhận, Nếu có, hoặc Ngân hàng được chỉ thị hành động thay mặt họ, phải xác định chỉ trên cơ sở các chứng từ mà thôi, có thể hiện trên bề mặt của chúng là phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT hay không. Nếu các chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng không phù hợp với các, điều khoản và điều kiện của TDT thì các ngân hàng nói trên có thể từ chối chứng từ. C. Nếu ngân hàng phát hành xác định rõ rằng chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng không phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT, ngân hàng này có thể theo ý kiến riêng của mình tiếp xúc người mở TDT về việc chấp nhận bất hợp lệ. Tuy nhiên điều này cũng không vượt quá thời hạn nêu trong Điều 13(b). D. i. Nếu Ngân hàng phát hành và/hoặc Ngân hàng xác nhận, nếu có, hoặc một Ngân hàng được chỉ định hành động thay mặt các Ngân hàng này quyết định từ chối chứng từ thì phải gửi thông báo về quyết định này bằng viễn thông hoặc, nếu không thể được, thì bằng các phương tiện nhanh chóng nhất, không chậm trễ nhưng cũng không chậm hơn 7 ngày làm việc của ngân hàng kể từ ngày nhận chứng từ. Thông báo đó sẽ được gửi cho ngân hàng mà từ đó nó nhận được chứng từ hoặc gửi cho người hưởng, Nếu nó nhận được chứng từ trực tiếp từ người này ii Thông báo đó phải nêu tất cả những điểm bất hợp lệ mà theo đó ngân hàng từ chối các chứng từ và cũng phải ghi rõ NH đang giữ bộ chứng từ để tùy quyền định đoạt của người xuất trình hay trả chúng lại cho người xuất trình. 32

iii Ngân hàng phát hành và/hoặc NH xác nhận;Nếu có, sẽ được quyển đòi NH đã chuyển chứng từ, hoàn trả mọi khoản tiền mà nó đã chuyển trả cho NH đó cùng với lãi suất phát sinh. E. Nếu Ngân hàng phát hành và/hoặc Ngân hàng xác nhận nếu có, không hành động đúng theo các quy định của điều khoản này và/hoặc không giữ chứng từ lại để tùy quyền định đoạt của người xuất trình hoặc trả lại cho người xuất trình, Ngân hàng phát hành và/hoặc Ngân hàng xác nhận, nếu có, sẽ bị mất quyền khiếu nại là các chứng từ không phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT. F. Nếu ngân hàng chuyển chứng từ lưu ý NH phát hành và/hoặc Ngân hàng xác nhận, nếu có, về bất kỳ điểm bất hợp lệ trong chứng từ hoặc thông báo cho các ngân hàng đó rằng mình đã thanh toán, đã cam kết thanh toán sau, đã chấp nhận hối phiếu, hoặc đã chiết khấu với sự bảo lưu hoặc với bảo đảm về điểm bất hợp lệ, NH phát hành và/hoặc Ngân hàng xác nhận, nếu có, sẽ không vì thế mà được miễn bất cứ các nghĩa vụ nào của họ đối với bất cứ qui định nào của Điều khoản này. Sự bảo lưu hoặc bảo đảm như vậy chỉ có liên quan đến mối quan hệ giữa ngân hàng chuyển chứng từ và người được bảo lưu hoặc với người đứng ra đảm bảo hay người được người khác thay mặt mình đứng ra bảo đảm. Điều khoản này được viết lại từ Điều 16 của bản Điều lệ 400 nhằm làm rõ thêm, cụ thể và chính xác : - Trách nhiệm và nghĩa vụ. - quyền quyết định của các ngân hàng liên quan, đặc biệt là NH phát hành (và NH xác nhận nếu có) trong việc xử lý chứng từ xuất trình theo TDT. 1. NH phát hành xác nhận đối với chứng từ hợp lệ Trách nhiệm và nghĩa vụ của NH phát hành và NH xác nhận (nếu có) là: • hoàn trả cho ngân hàng được ủy quyển (ngân hàng chiết khấu) số tiền mà ngân hàng này đã trả, hoặc cam kết sẽ trả cho người hưởng, trên cơ sở chứng từ xuất trình phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT, hoặc trả tiền cho Người hưởng nếu chứng từ được xuất trình trực tlếp từ Người hưởng cho NH phát hành ( hoặc NH xác nhận) nhận bộ chứng từ Như vậy, nghĩa vụ của NH phát hành và ngân hàng xác nhận được nêu rõ ràng và xác thực hơn đối với bộ chứng từ xuất trình hợp lệ theo TDT. Phần B nhắc lại và nhấn mạnh nguyên tắc định đoạt bộ chứng từ đã được để cập trong Điều 13 của các ngân hàng llên quan là: trên bề mặt chứng từ và chỉ trên bề mặt chứng từ mà thôi, các điều khoản và điều kiện của TDT được thực thi đầy đủ và chính xác hay không. Điều 16 Bản Điều lệ 400 chỉ đề cập đến nghĩa vụ của NH phát hành kiểm tra sự hợp lệ của chứng từ. Nhằm phù hợp nội dung của các điều khoản khác, WG đã quy định bổ sung nghĩa vụ và trách nhiệm này đối với NH xác nhận và NH ủy quyền (ngân hàng chiết khấu). NH xác nhận được để cập trong Bản điều lệ này, về mặt nghĩa vụ,trách nhiệm và quyền lợi luôn ngang hàng với NH phát hành TDT. Ta thường gặp cách nói "NH phát hành và/hoặc NH xác nhận, nếu có... " (the issuing bank and/or confirming bank, if any...) để diễn đạt ý nghĩa là nếu TDT được 1 ngân hàng khác xác nhận, thì ngân hàng này sẽ ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi như NH phát hành. 2. Sự mâu thuẫn giữa các loại chứng từ Ngân hàng được chỉ định (NH chiết khấu) thay mặt NH phát hành để kiểm tra và định đoạt chứng từ. Nó phải có nghĩa vụ đối với người xuất trình là trong thời gian quy định, quyết định chấp nhận hay từ chối bộ chứng từ trên cơ sở bề mặt của chúng. Khi đã quyết định chấp nhận chứng từ, nó sẽ chiết khấu, nghĩa là ứng tiền cho người hưởng và đòi lại từ NH phát hành. Do 33

vậy, nghĩa vụ của NH chiết khấu là phải xác định rõ ràng chứng từ hợp lệ và chấp nhận chúng. Các loại chứng từ (hóa đơn. vận đơn, chứng từ xuất xứ...) được lập, theo yêu cầu của TDT, phải phù hợp với tất cả các điều khoản và điều kiện của TDT và đương nhiên không thể giữa các loại chứng từ trên có những bất đồng nhất hoặc mâu thuẫn với nhau. Ngược lại các NH liên quan sẽ coi chúng là những chứng từ không hợp lệ. Sự nhất quán trong nội dung được diễn đạt trên bề mặt chứng từ là một trong những tiêu chuẩn của NH để kiểm tra chứng từ. Tuy nhiên các nhà xuất khẩu (người hưởng) thường mắc những lỗi trong khi lập chứng từ trên cơ sở tiêu chuẩn này mà theo họ, đấy không phải là bất hợp lệ. Thí dụ : Vận tải đơn, TDT yêu cầu ghi "lập theo lệnh của chủ hàng" ( made out to the order of shipper), do vậy mục "Consignee"sẽ được ghi "consignee : to shippers order". Nhưng ở "chứng nhận xuất xứ" (certificate of origin) mục "consignee" lại được ghi "consignee : ABC Co.,Ltd. " (tức là người mở TDT). Xét về bản chất sự việc, người hưởng lập chứng từ đúng vì người nhận hàng là người nhập khẩu (tức là người mở TDT). Như ta đã đề cập ở Điều 13, ngân hàng có phương pháp kiểm tra chứng từ mang tính chất đặc thù không như suy luận của người khác. Vận tải đơn và chứng nhận xuất xứ, trên bề mặt biểu hiện sự mâu thuẫn. Do vậy, ngân hàng sẽ từ chối chúng. Để khắc phục sự mâu thuẫn này, chứng nhận xuất xứ phải ghi: "Consignee: to shippers order" mà không ghi đích danh người nhận là ABC Co..LTD 3. Quyền của NH phát hành định đoạt chứng từ bất hợp lệ Phần C của điều khoản này nói rõ quyền quyết định của ngân hàng phát hành đối với chứng từ bất hợp lệ xuất trình theo TDT. TDT là cam kết của NH phát hành đối với người hưởng về việc thanh toán bộ chứng từ xuất trình phù hợp với tất cả các điều khoản và điều kiện của TDT. Khi đã được NH phát hành TDT, người hưởng chỉ biết NH trong việc thanh toán, chứ không cần liên hệ đến người mở. Cũng như vậy, NH phát hành chỉ biết đến nghĩa vụ phải thanh toán mà không thể viện dẫn lý do từ người mở TDT. Nghĩa vụ đi đôi với quyền lợi, NH có quyền từ chối thanh toán bộ chứng từ bất hợp lệ. Người hưởng sẽ mất quyền khi họ không thực thi nghĩa vụ của mình (lập chứng từ không đúng theo TDT yêu cầu). Tuy nhiên, NH phát hành TDT cũng được quyền tiếp xúc với người mở để chấp nhận những bất hợp lệ của chứng từ. "Bằng quyết định riêng của mình, nó có thể tiếp xúc với người mở TDT để chấp nhận những bất hợp lệ" (lt may in its sole judgment approach the Applicant...) Mục đích của phát hành TDT là bảo đảm thanh toán đối với thương vụ mua bán/dịch vụ giữa 2 khách hàng. Hơn nữa dịch vụ là một trong những hoạt động chính của NH. NH đã phát hành TDT theo yêu cầu của khách hàng thì cũng sẽ làm như thế đối với bộ chứng từ bất hợp lệ. Tuy nhiên, tùy theo từng hoàn cảnh của điều khoản và tình huống để ngân hàng phát hành quyết định từ chối hay tiếp xúc với người mở để chấp nhận chứng từ bất hợp lệ. Nếu NH phát hành chỉ làm dịch vụ đơn thuần trong giao dịch TDT (người mở đã bảo đảm đủ tiền để thanh toán) thì việc chấp nhận chứng từ bất hợp lệ là việc của người mở. Rủi ro phát sinh từ sự bất hợp lệ của chứng từ do người mở gánh chịu. Nếu NH phát hành đã cấp Tín dụng cho khách hàng mình (bằng nhiều cách khác nhau) thì việc định đoạt chứng từ bất hợp lệ được giải quyết theo 2 trường hợp : NH sẽ tiếp xúc với người mở để chấp nhận hay từ chối chứng từ bất hợp lệ nếu hoạt động kinh doanh của người mở vẫn bình thường. 34

NH sẽ từ chối chứng từ bất hợp lệ mà không cần có ý klến của người mở nếu khách hàng có dấu hiệu thua lỗ, phá sản, mất khả năng thanh toán... Ngân hàng dùng quyền được phép của mình để tránh những hậu quả xấu phát sinh từ khách hàng. Là một trong các bên liên quan trong giao dịch TDT, người mở cũng ràng buộc bởi Bản điều lệ này. Do vậy, chứng từ bất hợp lệ thì không chỉ NH phát hành có quyền từ chối mà người mở, khi được NH hỏi ý kiến cũng có quyền từ chối và không thanh toán. NH phát hành phải kiểm tra chứng từ nếu có những bất hợp lý, hoặc từ chối hoặc tiếp xúc với người mở để chấp nhận chứng từ. Tuy nhiên, NH phát hành không được quyền chấp nhận chứng từ bất hợp lệ nếu người mở không đồng ý. Đây là một nhận thức quan trọng đối với các nhà nhập khẩu trong giao dịch TDT khi phát hiện những dấu hiệu xấu từ phía người giao hàng (chất lượng, số lượng hàng không đúng quy định...), nhằm tránh những rủi ro trong kinh doanh. Người mua cũng có thể lợi dụng sự không hợp lệ của chứng từ buộc người bán giảm giá khi giá hàng nhập khẩu bị giảm trên thị trường, hoặc vì mục đích kiếm lợi nhuận thêm trong thương vụ này mặc dù người bán không vi phạm hợp đồng. Đây là những trường hợp do người mua thiếu thiện chí không trung thực, có nghĩa là người bán chọn nhầm đối tượng. Quan điểm của WG là trong trường hợp chứng từ không phù hợp với điều khoản và điều kiện của TDT, NH phải thể hiện tính độc lập của mình, phải là con nợ bình đẳng và có uy tín. NH phát hành không nên hướng dẫn người mở tìm cách từ chối thanh toán trong mọi trường hợp. Đặc biệt là khi hàng hóa đã được người mở nhận trên cơ sở vận tải đơn gốc gửi theo hàng hoá đúng như điều khoản của TDT. Ngược lại, NH phát hành phải thuyết phục để người mở chấp nhận và thanh toán chứng từ vì họ đã chiếm hữu hàng hóa, nhằm tránh những kiện tụng phát sinh giữa bên mua và bán có thế dính líu đến NH. NH phát hành không bị loại trừ quyền tiếp xúc với người hưởng (trực tiếp hoặc qua ngân hàng chiết khấu) yêu cầu sửa chữa, bổ sung những khiếm khuyết của chứng từ trong thời gian cho phép. Điều này nói lên độ tin cậy của lời cam kết trong TDT và uy tín của NH phát hành. Quan điểm của các chuyên gia NH là TDT là phương tiện để thanh toán chứ không phải để từ chối" ( The Documentary Credit is meant to be an instrument. not of non-payment - DCl Vol.2 No.1/Winter 1 996 - ICC) Mọi việc tiếp xúc với người mở để chấp nhận bất hợp lệ của chứng từ đều được thực hiện trong vòng 7 ngày làm việc, theo đúng của Điều 13(b). Quy định này nhằm ngăn ngừa những trường hợp NH phát hành cố tình kéo dài quyết định thanh toán hay từ chối vì những bất hợp lệ chứng từ. 4. Thông báo bất hợp lệ và hành động tiếp theo của NH phát hành Phần D quy định rõ về trách nhiệm thông báo sự bất hợp lệ của chứng từ của NH phát hành và/hoặc NH xác nhận (nếu có) hoặc NH được chỉ định (ngân hàng chiết khấu) cho ra xuất trình chứng từ. NH chiết khấu (được ủy quyền của NH phát hành) phải thông báo cho người hưởng; NH phát hành và/hoặc NH xác nhận (nếu có) phải thông báo cho NH chuyển giao chứng từ (có thể là NH chiết khấu hoặc NH xác nhận, hoặc NH gửi chứng từ theo yêu cầu của người hưởng) sự bất hợp lệ của chứng từ, bằng điện tín (telex. swift) trong vòng 7 ngày làm việc kể từ ngày nó nhận được chứng từ. Nội dung thông báo đó phải gồm tất cả các bất hợp lệ được phát hiện, xác nhận chứng từ bị từ chối và đang giữ (Ngân hàng phát hành khống chế, kiểm soát chứng từ) tùy sự định đoạt và rủi ro thuộc về NH chiết khấu (Ngân hàng chuyển chứng từ). Ngân hàng phát hành đang tiếp xúc với người mở TDT để chấp nhận những bất hợp lệ trên. 35

Bức điện này phải được gởi đi trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi ngân hàng mở nhận được chứng từ. Các bất hợp lệ nói trên là toàn bộ và cuối cùng, có nghĩa là ngân hàng mở không được bổ sung thêm bất hợp lệ khác, mặc dù sau này nó mới phát hiện ra. Trong thực tế có những trường hợp NH phát hành thông báo bất hợp lệ cho NH chiết khấu nhưng những bất hợp lý đó không đúng và bị NH chiết khấu phủ nhận. Sau đó, NH phát hành lại thông báo tiếp các bất hợp lệ khác. Điều này đã gây ra những tranh cãi giữa hai NH liên quan vì bản Điều lệ 400 chỉ nói chung chung là "thông báo đó phải nói rõ những bất hợp lệ mà theo đó NH phát hành từ chối chứng từ ..." Các bất đồng nêu trên được tham khảo ý kiến của ICC. Do vậy trong "Case Study on Documentary credit" s XB 459, ICC nói rõ quan điểm của mình : - NH phát hành không có quyền nêu thêm những bất hợp lệ sau đó, nếu giả sử các bất hợp lệ đã nêu trước đó trở nên không có giá trị để từ chối chứng từ. - Nếu NH phát hành từ chối chứng từ và chỉ nêu rõ 1 điểm bất hợp lệ nhưng sau đó lại nêu thêm các điểm bất hợp lệ khác nhằm mực đích từ chối chứng từ, thì điều này rõ ràng trái với điều lệ và Thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ. ( An issuing bank would not be entitled to raise subsequently any further discrepancies if the discrepancies in its first notice turneđ out to be inadequate grounds for rejection of the documents. - lf therefore, the issuing bank rejects the documents and states only one discrepancy but later tries to raise other discrepancies for the purpose of refusing the documents, obviously this is contrary to UCP 1983 and also contrary to what would be fair treatment of the beneficiary...) Để khắc phục những khiếm khuyết của Bản điều lệ cũ, WG đã quyết định ghi rõ thêm phần thông báo bất hợp lệ của NH phát hành: "Thông báo đó phải nói rõ tất cả các bất hợp lệ...". Trong ngữ cảnh này, các NH phải hiểu là tất cả các bất hợp lệ phải được nói rõ ở thông báo cho phía xuất trình chứng từ (người hưởng, hoặc NH chiết khấu/NH xác nhận). Đây là thông báo đầu tiên cũng là thông báo cuối cùng về các bất hợp lệ và phải được thực hiện trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi NH đó nhận được chứng từ. Nếu tự quyết định từ chối mà không cần ý kiến của người mở thì NH phát hành phải nói rõ đã gởi trả lại chứng từ. Ngược lại, nó phải thông báo về tình trạng chứng từ mà nó nhận được (đang giữ với quyền định đoạt của phía xuất trình và không chịu mọi rủi ro). Nếu từ chối chứng từ bất hợp lệ thì NH phát hành (hoặc NH xác nhận) không thanh toán tiền. Nhưng một khi nó đã hoàn trả tiền trước đó theo bộ chứng từ bị từ chối cho NH chiết khấu thì nó có quyền đòi lại cả gốc lẫn lãi. Chỉ có 2 trường hợp NH phát hành NH (hoặc NH xác nhận) đòi lại tiền từ NH chiết khấu nếu bộ chứng từ bất hợp lệ đó bị từ chối: - NH phát hành cho phép NH chiết khấu (NH dược chỉ định) đòi tiền bằng hối phiếu tại một NH thứ 3 là NH tiền gửi của mình (gọi là NH hoàn trả (reimbursing bank), bộ chứng từ được gửi trực tiếp cho NH phát hành (hoặc NH xác nhận). - NH phát hành NH TDT cho phép NH chiết khấu đòi tiền bằng điện, gọi là phương thức TTR (telegraphic transfer), ngay sau khi nó xác định chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT, đồng thời gửi chứng từ cho NH phát hành. Nhận được điện đòi tiền từ NH chiết khấu, NH phát hành hoặc NH thứ 3 được uỷ quyền của NH phát hành, sẽ căn cứ vào điện hoặc hối phiếụ đòi tiền này mà chuyển trả tiền cho NH chiết khấu. Cả 2 trường hợp trên, NH phát hành nhận được chứng từ sau khi ngân hàng chiết khấu nhận được tiền. Nếu NH phát hành (hoặc NH xác nhận) quyết định từ chối và gửi toàn bộ chứng từ vì bất hợp lệ thì sẽ đòi lại số tiền đã trả và lãi suất kể từ ngày thanh toán đến ngày được trả lại. Lãi suất liên quan thông thường là lãi tiền vay cộng phụ phí ngân hàng (Thí dụ: Libor + 1.5%/năm). 36

Tuy nhiên cũng có những ngân hàng tính lãi cao hơn lãi vay tại địa phương/nước của ngân hàng đó. Hai phương thức đòi tiền trên có lợi cho nhà xuất khẩu (người hưởng) vì thu tiền được dễ dàng nhanh chóng nhưng không có ý nghĩa đối với ngân hàng chiết khấu, thậm chí nó là con dao hai lưỡi. Nếu NH chiết khấu kiểm tra chứng từ sơ sài, không phát hiện những bất hợp lệ dù là nhỏ nhất mà đòi tiền tại NH thứ 3 (NH hoàn trả) hoặc đòi tiền bằng điện tại NH phát hành (hoặc NH xác nhận), họ sẽ nhận được tiền và trả cho người hưởng. Bất hợp lệ bị phát hiện, chứng từ bị từ chối, NH chiết khấu phải trả lại tiền và lãi trong khi người hưởng đã sử dụng hết tiền? Khi TDT cho phép đòi tiền bằng điện, người hưởng thông thường không chiết khấu mà họ chỉ cần vài ba ngày là được thanh toán. Do vậy, điều quan trọng và cần thiết đối với NH chiết khấu là bất luận điều khoản thanh toán như thế nào thì cũng phải kiểm tra chứng từ chặt chẽ để xác định tính phù hợp của chúng. Trong những trường hợp các điều kiện và điều khoản TDT không rõ ràng, hoặc hiểu theo 2 cách đều đúng thì có thể từ chối chiết khấu nhằm tránh những rủi ro có thể. 5. Trường hợp NH phát hành/xác nhận mất quyển từ chối chứng từ bất hợp lệ Phần E khẳng định dứt khoát: nếu NH phát hành (hoặc NH xác nhận, nếu là TDT xác nhận) không thực thi đúng điều khoản này thì nó sẽ mất quyền từ chối chứng từ bất hợp lệ. Như vậy, đương nhiên nó phải : thanh toán cho người hưởng và nhận bộ chứng từ. NH phát hành (hoặc NH xác nhận) mỗi khi từ chối thanh toán thì phải trả lại chứng từ cho phía xuất trình hoặc hành động theo lệnh của phía xuất trình. Nó không được chiếm hữu chứng từ vì chứng từ là hàng hoá, hoặc giao cho bất cứ ai không phải là người xuất trình. NH phát hành (hoặc NH xác nhận) phải trả lại cho NH chiết khấu; hoặc chuyển giao chứng từ cho phía thứ 3 theo lệnh của NH chiết khấu. Lấy lại bộ chứng từ từ ngân hàng phát hành, người hưởng sẽ: hoặc tiếp nhận hàng hóa của mình để bán cho một khách hàng khác, hoặc bán bộ chứng từ đó cho phía thứ 3 bằng cách ký hậu. Trong trường hợp NH phát hành (hoặc NH xác nhận) không thực hiện đúng điều khoản này như: - Thông báo từ chối nhưng không nói rõ sự bất hợp lệ của chứng từ, hoặc bất hợp lệ này bị NH chiết khấu bác bỏ và trở nên không có giá trị hoặc - Thông báo những bất hợp lệ và từ chối chứng từ vượt quá 7 ngày làm việc của NH, hoặc thông báo không bằng những phương tiện nhanh nhất (telex, fax...) do vậy gây chậm trễ, hoặc - Đã chuyển giao chứng từ cho người mở, hoặc làm mất không trả lại chứng từ cho phía xuất trình toàn bộ chứng từ nguyên vẹn như khi nó nhận, hoặc không giao chứng từ đó cho người thứ 3 do phía xuất trình chỉ định. Một trong những thiếu sót trên của NH phát hành (hoặc NH xác nhận) sẽ đánh mất quyền của mình và do vậy nó phải thanh toán và nhận bộ chứng từ bất kể sự hợp lệ của chúng. 6. Nghĩa vụ thanh toán không thuộc về NH được chỉ định Một điều cầu lưu ý là việc loại trừ quyền từ chối trên không áp dụng cho NH chiết khấu (NH được chỉ định). Quy định này dựa trên cơ sở là trách nhiệm và nghĩa vụ thanh toán chứng từ hợp lệ và quyền từ chối chứng từ bất hợp lệ thuộc về NH phát hành và/hoặc NH xác nhận TDT. NH chiết khấu (NH được chỉ định) có quyền thực thi hoặc từ chối sự ủy nhiệm của NH phát hành, tùy theo từng hoàn cảnh và điều kiện. Nếu chứng từ bất hợp lệ, hoặc xét thấy mức độ rủi ro lớn, NH này sẽ từ chối chiết khấu mà chỉ gởi chứng từ thanh toán. Lúc này nó sẽ là NH chuyển chứng từ (remitting bank). Nghĩa vụ của NH được chỉ định thay mặt NH phát hành là kiểm tra chứng từ và thông báo những bất hợp lệ nếu có, cho người xuất trình và hoàn toàn không chịu 1 hình phạt nào áp đặt theo bản 37

điều lệ trừ khi nó là NH xác nhận), Nếu nó không thực hiện đúng những quy định tại Điều khoản này. WG đã nói rõ quan điểm của mình "Bản Điều lệ này (500) không thể áp đặt bất cứ nghĩa vụ trực tiếp hay gián tiếp đối với NH được chỉ định (trừ khi nó là NH xác nhận) mà nó đóng vai trò đơn thuần là NH thông báo và không cam kết bất cứ nghĩa vụ nào về trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu". (The UCP can not impose any direct or indirect obligation on a nominated bank (unless " it is the confirming bank) that acted solely as an advising bank and undertook no. obligation" (ICC Doc. Pub.No. 51 1, page 47). Do vậy, việc ngân hàng được chỉ định không thực hiện đúng Điều khoản 13 và 14 của Bản điều lệ này hoàn toàn không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của NH phát hành (hoặc NH xác nhận). Có thể NH được chỉ định (hoặc nó là NH chiết khấu, hoặc nó là NH chuyển chứng từ) không kiểm tra tốt chứng từ, hoặc không thông báo các bất hợp lệ cho người hưởng đúng thời hạn, hoặc không giữ lại chứng từ bất hợp lệ mà gửi đi NH phát hành để thanh toán... thì không vì thế mà NH phát hành (hoặc NH xác nhận) mất quyền từ chối chứng từ bất hợp lệ và từ chối thanh toán, miễn là nó vẫn hành động đúng Điều 13 và 14. "Tương tự việc NH được chỉ định không thực thi đúng các điều kiện tại Điều 13 và 14 của Bản đlều lệ (trừ khi nó là NH xác nhận) không ràng buộc một cách tự động, theo các Quy tắc của Bản điều lệ này. NH phát hành hoặc NH xác nhận nếu có, đối với người xuất trình về các chứng từ bất hợp lệ nếu chúng không được kiểm tra và thông báo từ chối bởi NH được chỉ định cho người xuất trình trong thời gian quy định (Tài liệu ICC số XB 511 trang 48). "Similarly, the failure of the nominated bank (unless it's the confirming bank) to act according to the condition in UCP 500 Article 13 & 14 could not automatically BMD, under the UCP rules, the issuing bank or the confirming bank if any, to the presenter of discrepant documents if such documents were not examined and if notice of refusal was not given by the nominated bank to the presenter within the prescribed period" (ICC Doc. Pub. No. 51 1, page 48). Tuy nhiên, ngân hàng được chỉ định phải hành động đúng những Quy tắc đã nêu trong Điều 13 và 14 nhằm bảo đảm quyền lợi của khách hàng (người hưởng) và bảo đảm uy tín của ngân hàng. 7. Ảnh hưởng của chiết khấu bảo lưu đối với các NH liên quan và người mở TDT Phần cuối cùng của điều khoản này cơ bản giữ nguyên điểm E của Điều 16 Bản Điều lệ cũ. Vì mối quan hệ của mình và khách hàng (người hưởng) NH được chỉ định cụ thể chiết khấu chứng từ bất hợp lệ trên cơ sở bảo đảm, cam kết của người hưởng (sẽ hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng nếu chứng từ bị từ chối) hoặc có sự bảo lãnh của NH hay tổ chức tài chính khác. Đây là việc riêng của phía xuất khẩu, không liên quan đến phía nhập khẩu, đặc biệt là NH phát hành. Nếu NH chiết khấu có ghi chú điều này vào chỉ thị trả tiền cho NH phát hành thì không vì thế mà NH phát hành mất đi quyền từ chối chứng từ bất hợp lệ và nghĩa vụ phải hành động đúng những Quy tắc của Điều 13, 14 và tất cả các điều khoản khác cuả Bản điều lệ này. Người mở được quyền từ chối chứng từ bất hợp lệ bất kể NH được chỉ thị đã chiết khấu chúng trên cơ sở bảo lưu từ Người hưởng hay bảo đảm từ phía thứ ba. Đối với các NH phục vụ nhà xuất khẩu, điều này có nghĩa là họ sẵn sàng cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu, hoặc đã nắm được nguồn tài sản thế chấp để chuyển sang tiền trả nợ hoặc yêu cầu phiá bảo lãnh hoàn trả, khi chứng từ bất hợp lệ bị từ chối. Việc ghi chú chiết khấu bảo lưu như đã nói trên đây hoàn toàn không có ý nghĩa bảo đảm mà chỉ là lưu ý cho NH phát hành (hoặc NH xác nhận về Điều khoản 14 được áp dụng trong trường hợp như vậy. 8. Chứng từ bất hợp lệ thì Người hưởng sẽ xuất trình trên cơ sở nào? WG cho rằng đã là TDT, mọi giao dịch đều tuân thủ các Quy tắc của Bản Điều lệ. Do vậy dù là bất hợp lệ chứng từ cũng không nên gởi trên cơ sở nhờ thu (on collection) vì như vậy chúng từ 38

đó sẽ được xử lý theo Quy tắc thống nhất về nghiệp vụ nhờ thu, số XB 522, Bản sửa đổi 1995, Phòng Thương Mại Quốc tế, có hiệu lực từ 1.1.1996 (The Uniform Rules for Collection, ICC Pub.No.522, 1995 Revision ) gọi tắt là URC 522. Hơn nữa, nếu áp dụng URC, có nghĩa là chứng từ mất quyền được đảm bảo bởi bản điều lệ 500 mà theo đó, NH phát hành phải thực hịên đúng điều 13 VÀ 14. "URC cho phép NH phát hành hoặc NH xác nhận có thể không cần kiểm tra chứng từ, hoặc thông báo những bất hợp lệ vượt thời hạn quy định cho phía xuất trình mà chỉ hành động đúng các điều khoản của URC. Điều này hoàn toàn ngược với TDT quy định áp dụng theo Điều lệ Thống nhất và Thực hành Tín dụng chứng từ. Bản sửa đổi 500, và trái với tập quán quốc tế về giao dịch tín dụng chứng từ (Application of the URC to such a transaction, however, means the loss of the UCP protection. This protection ensures not only a greater degree of diligence by the Issuing Bank, but also the lssuing Banks inability to raise discrepancies beyond the period required by UCP 500 Articles 13 and 14. Thus, it should clearly be the Beneficiary' s choice whether he wishes the remittance of discrepant documents to the lssuing Bank or confirming bank, if any, to be governed by the UCP or the URC Rules". (ICC. Doc. Pub. No.51 11) Do vậy, nếu chứng từ bất hợp lệ. người hưởng yêu cầu chuyển chứng từ trên cơ sở chấp nhận thanh toán (on approval) và ghi rõ áp dụng theo điều lệ và Thực hành Thống nhất TDCT, Bản sửa đổi số 500 của Phòng Thương mại quốc tế (Documents are remitted on approval subject to The Uniform Customs and Practice for Documentary Credits, 1993 Revision ICC Publication No. 500). Tuy nhiên. quyền chọn gửi chứng từ thanh toán theo phương thức nào là của người hưởng. Thông thường, nhà xuất khẩu hoặc không rõ. hoặc ít chú ý đến nghiệp vụ này nên vai trò quyết định thuộc về NH chuyển chứng từ (NH được chỉ định) nhằm hành động đúng theo tập quán Quốc tế và bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Thực ra thuật ngữ "Nhờ thu", "Chiết khấu", nêu ra nhằm phân biệt việc từ chối hay ứng tiền cho người hưởng của NH được chỉ định. Nếu không ứng tiền cho người hưởng, thì NH được chỉ định sẽ là NH chuyển chứng từ (Remitting Bank) thay mặt người hưởng gửi chứng từ để thanh toán tại NH phát hành/NH xác nhận (on approvai). Ngược lại nó sẽ là NH chiết khấu khấu (Negotiating Bank) hành động với chức năng của một bên trong nghiệp vụ TD chứng từ mà nghĩa vụ và quyền lợi được nói rõ trong bản điều lệ 500. Ở trường hợp nào NH này cũng phải kiểm tra chứng từ trong thời hạn cho phép nhằm xác định sự hợp lệ của chúng theo đúng quy định của Bản điều lệ 500. 9. Sự mâu thuẫn giữa TDT với UCP 500 Trong thực tế vẫn có những TDT được mở với điều khoản trái ngược, mâu thuẫn với quy định của Bản điều lệ 500 và thực tiễn. Nguyên nhân là do người mở và NH phát hành thiếu cẩn thận hoặc không nắm vững nghiệp vụ. Gặp những trường hợp trễ, người hưởng và NH sẽ xử lý thế nào? Không thể đem ra một nguyên tắc chung mà tùy với từng tình huống cụ thể để quyết định áp dụng quy định của TDT hay Bản Điều lệ. Thí dụ TDT yêu cầu xuất trình VĐ đa phương thức mà lại cấm chuyển tải, trái với thực tiễn vận tải hàng hóa. Điều 26 của Bản Điều lệ đã khẳng định "Ngay cả khi TDT không cho phép chuyển tải, NH sẽ chấp nhận chứng từ VTĐPT có ghi việc chuyển tải.." Như vậy, Người hưởng có quyền áp dụng Điều 26 mà bỏ qua việc cấm chuyển tải. Tương tự VĐ hàng không phải được xuất trình toàn bộ (full set) cho NH theo quy định của TDT. Điều này không thể được vì trái với thực tế là chủ hàng chỉ được Người chuyên chở cấp cho một bản gốc duy nhất. Điều 27 bác bỏ yêu cầu của TDT. 39

Tuy nhiên, cần lưu ý là các điều khoản của Bản Điều lệ luôn luôn ghi "trừ khi có quy định khác", có nghĩa là TDT có thể điều chỉnh các quy tắc bằng cách ghi rõ thỏa thuận giữa Người mở và người hưởng. Do vậy NH sẽ căn cứ vào điều khoản TDT để kiểm tra chứng từ chứ không thể vận dụng máy móc Bản điều lệ. Thí dụ : TDT quy định Hóa đơn lập cho một bên không phải là Người mở TDT, chứng từ phải xuất trình trong vòng 10 ngày kể từ ngày VĐ đều phải thực hiện đúng. `ĐIỀU 15 : MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM VỀ GIÁ TRỊ HIỆU LỰC CỦA CHỨNG TỪ NH không có nghĩa vụ hoặc chịu trách nhiệm về hình thức, sự hoàn thiện, tính chính xác tính chân thực, sự giả mạo hoặc hiệu lực pháp lý của bất cứ chứng từ nào hoặc về những điều kiện chung và/hoặc riêng được quy định trong các chứng từ đó hoặc được ghi thêm; NH cũng không chịu trách nhiệm gì về sự mô tả hàng hoá, số lượng, trọng lượng, chất lượng, trạng thái, bao bì), việc giao hàng, trị giá hoặc sự tồn tại của hàng hóa được đại diện bởi các chứng từ, hoặc về thiện chí hoặc về hành vi, và/hoặc về những khiếm khuyết, khả năng thanh toán, việc thực thi nghĩa vụ hoặc sự tín nhiệm của người gởi hàng, người chuyên chở, người giao nhận, người nhận hàng, hoặc người bảo hiểm hàng hóa hay của bất cứ người nào khác. Điều khoản này gần như giữ nguyên điều 17 của Bản Điều lệ 400, ngoại trừ từ "Người giao nhận, người nhận hàng" được thêm vào danh mục các bên liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến giao dịch Tín dụng thư. Đúng như tựa đề của điều khoản, WG muốn nêu thành nguyền tắc quan điểm của giới nhà băng về giá trị hiệu lực, tính pháp lý của chứng từ xuất trình theo TDT. Quan điểm của WG là Bản điều lệ không nên cố gắng để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ hoạt động tín dung chứng từ. Đặc biệt WG ủng hộ mọi ý kiến, các lập luận của các chuyên gia, các Phòng Thương mại quốc gia đã được nêu ra thành Quy tắc trong Bản điều lệ 500 là Bản Điều lệ không nhằm điều chỉnh quan điểm của ngân hàng nếu có những vụ lừa đảo được phát hiện liên quan đến hàng hóa, dịch vụ của chứng từ giao dịch trong TDT. "NH không chịu trách nhiệm và nghĩa vụ gì về hình thức, sự hoàn thiện, chính xác, tính chân thực, sự giả mạo hoặc giá trị Pháp lý của những chứng từ mà họ nhận được từ phía xuất trình. Nếu NH kiểm tra với "sự cẩn thận một cách hợp lý"mà không thể phát hiện được sự gian lận của chứng từ như: chữ ký, con dấu, mẫu chứng từ giả ... thì NH được miễn trách. Nhưng nếu NH do bất cẩn mà không nhận ra sự giả mạo trên thì chịu trách nhiệm những hậu quả xảy ra. Đó là trường hợp giả mạo chữ ký của người cấp vận đơn nhưng không đúng theo mẫu chữ ký tại hồ sơ ngân hàng. Vận đơn này phải bị ngân hàng từ chối. NH được miễn trách đối với những điều kiện chung và riêng ghi trong các chứng từ, hoặc đọc ghi thêm. Đó là những điều kiện ghi ở vận đơn ("Terms and Conditions of Mutimodal Transport Bill of Lading", "Conditions of carriage" ...) hoặc là các điều kiện cụ thể như : "cước phí đã trả" (freight prepaid), "đã bốc" (on board)... hoặc các điều khoản (clauses) thể hiện trong Bảo hiểm đơn và các điều khoản bảo hiểm cụ thể như: "institute cargo clause" (all risk), institute..., những chứng từ do người khác ghi thêm (chứ không phải người phát hành) nhưng không thể phát hiện được thì NH không chịu trách nhiệm. Thí dụ : Bảo hiểm đơn chỉ ghi điều khoản bảo hiểm là WPA nhưng người xuất trình tự ghi thềm điều kiện "all risk" vào nhằm đảm bảo tính hợp lệ của chứng từ của TDT. Ngân hàng không thế phát hiện sự bổ sung này mặc dù đã kiểm tra với "sự cẩn thận hợp lý" thì trách nhiệm không thuộc về ngân hàng. NH không chịu trách nhiệm về sự mô tả hàng hóa bao gồm: tên, chủng loại hàng hóa. số lượng, trọng lượng, chất lượng, tình trạng hàng hóa, bao bì đóng gói ... miễn rằng chúng nó được mô tả 40

theo đúng quy định của TDT và không mâu thuẫn với nhau, phù hợp với các điều khoản của Bản điều lệ 500. Thí dụ : Chứng từ giao hàng (shipping documents) mô tả hàng hóa: áo jacket mới, 500 chiếc/carton, tổng cộng 50,000 chiếc, 500 carton. Sự thể hiện này đúng với yêu cầu của TDT và được NH chấp nhận bất kể số lượng, chất lượng áo (mới hay cũ), có được giao đúng như vậy hay không, carton có bền hay dễ vỡ, trọng lượng có đủ hay không... NH không cần bết đến thiện chí, hành vi, sự tín nhiệm của người giao hàng, khả năng thanh toán của người mua, việc thực hiện bổn phận của người chuyên chở, nhà bảo hiểm người nhận hàng hoặc bất cứ ai liên quan đến giao dịch hàng hóa theo TDT. Điều này hoàn toàn phù hợp với bản chất của Tín dụng chứng từ được nêu ra tại Điều 3 và 4 của Bản điều lệ 500. Mọi hành vi giả mạo, lừa đảo, nếu NH, mặc dù đã "cẩn thận ở mức hợp lý" vẫn không phát hiện ra thì ngân hàng được miễn trách về những hậu quả phát sinh. Ai sẽ phải chịu hậu quả là do tòa án quyết định. Thí dụ: Người mở TDT (người mua) biết đích xác là hàng không được giao nhưng bộ chứng từ giả mạo đã được xuất trình đòi tiền tại NH. Người mua kháng nghị, yêu cầu NH không thanh toán và đem sự vụ ra toà án. Lúc này, phán quyết của Tòa án ràng buộc tất cả các bên liên quan. Nếu NH đã thanh toán trên cơ sở chứng từ hoàn toàn hợp lệ, sau đó mới nhận được lệnh của toà án. Vậy NH có được miễn trách hay không dựa trên Bản điều lệ này? Điều này tùy thuộc vào luật của mỗi nước và cách nhìn nhận vấn đề của toà án. Tuy nhiên, một vấn đề mà các NH phải hiểu là Bản điều lệ Thống nhất và Thực hành Tín dụng Chứng từ chỉ là thỏa ước có tính chất quốc tế mà một ai muốn giao dịch đều phải tuân thủ, chứ không phải là một bộ luật. "Một điều cần thừa nhận là việc viện dẫn bản điều lệ vào TDT không ngăn cản tòa án áp dụng luật của nước họ" (Tài liệu số xuất bản 511 của ICC. trang 2) (However, it must be recognized that incorporation of the UCP into the Documentary Credit does not prevent a court from applying its country's national law _Doc. ICC. Pub. No. 511). Để lưu ý các ngân hàng trên thế giới về những trường hợp kiện tụng giữa khách hàng và ngân hàng, ICC đã cảnh báo: "... Những năm qua đã phát sinh rất nhiều tranh chấp pháp luật, đặc biệt là những vụ việc dường như có sự mâu thuẫn giữa điều lệ Thực hành Thống nhất Tín dụng Chứng từ và Luật pháp Quốc gia. Ban soạn thảo kết luận rằng những vấn đề pháp lý như vậy không thể nêu ra trong các Quy tắc và Bản điều lệ không thể tạo ra luật lệ của các quốc gia. Những vấn đề đó tốt nhất là hãy để cho tòa án nhìn nhận và giải quyết (Tàl liệu ICC số xuất bản 511) ("Over the years, there have been disputes on the jurisdiction, especially in those cases when there seems to be a conflict between the UCP and the national law. The WG concluded that such legal issues cannot be addressed in the rules and that the UCP cannot legislate nation laws. Such matters are best left for the court to hear and resolve" (ICC Pub. No. 511). Từ quan điểm và tình thế trên, các NH phải chọn khách hàng để giao dịch, nhằm tránh dính líu vào những kiện tụng pháp luật và tổn thất uy tín và tiền bạc của mình. Đồng thời, mỗi nước cũng cần có một quy chế về giao dịch Tín dụng Chứng từ và việc áp dụng Bản điều lệ Thực hành và thống nhất tín dụng chứng từ cho hoạt động của hệ thống NH Thương mại trong phạm vi quốc gia. Quy chế này cần định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền hạn của các bên liên quan trong giao dịch TDT dựa vào thông lệ Quốc tế và Luật của nước sở tại. Như vậy sẽ tạo thuận lợi cho Tòa án Kinh tế trong xét xử các vụ việc tranh chấp, và các NH Thương mại yên tâm để quyết định những vấn đề trong giao dịch TDT có liên quan yếu tố Pháp luật quốc gia. ĐIỀU 16: MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM TRONG VIỆC CHUYỂN GIAO THƯ TỪ ĐIỆN TÍN 41

NH không có nghĩa vụ và không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh do sự chậm trễ và/hoặc mất mát trong quá trình chuyển giao điện tín, thư từ hoặc chứng từ hoặc sự chậm trễ, cắt xén hoặc do (những) sai sót khác xảy ra trong liên lạc viễn thông. NH không có nghĩa vụ và trách nhiệm về các sai sót trong dịch thuật và/hoặc giải thích các thuật ngữ chuyên môn, và giành quyền chuyển mà không cần dịch thuật các Điều khoản TDT. So với Bản điều 400. Điều 16 không có thay đổi gì ngoại trừ việc thêm vào từ "và" (and) nhằm khẳng định cả việc dịch thuật lẫn giải nghĩa không cần kết hợp làm một để tạo ra trách nhiệm của NH mà mỗi một hành động đó có thể có một cách riêng của chính nó hoặc có cùng chung hành động. 1. Những rủi ro phát sinh ngoài tầm kiểm soát của NH Trong giao dịch TDT chứng từ, có những vấn đề gây trở ngại như: điện bị nhiễu loạn do thời tiết, chứng từ gửi đi bị chậm trễ hoặc mất mái, bản fax nhận bị nhòe, mờ,... tất cả những trục trặc ngoài ý muốn của các bên liên quan, kể cả NH. Do vậy, NH miễn trách về những hậu quả phát sinh từ những trục trặc trên. Rủi ro thuộc về ai thì bên đó phải chịu. Thí dụ: chứng từ NH chiết khấu gửi đi cho NH phát hành để thanh toán bị mất dọc đường (do nguyên nhân bất khả kháng) thì NH phát hành phải thanh toán và tất nhiên là người mở chứ không phải ai khác gánh chịu hậu quả rủi ro này. Trong Tài liệu ICC số xuất bản 434 nói rõ quyết định của uỷ ban NH (Banking commission): "rủi ro chuyển từ người hưởng sang NH phát hành khi chứng từ hợp lệ đã được NH được chỉ định chấp nhận" (The risk passed from beneficiary to the issuing bank when conforming documents were accepted by the nominated bank). Bổ sung thêm quy định này, Tài liệu số xuất bản 469 cũng khẳng định : "Trong trường hợp chứng từ, kể cả hối phiếu đòi tiền tại người mở, bị mất trên đường bưu điện vận chuyển, ngân hàng chuyển chứng từ có quyền được hoàn trả tiền vào thời hạn tương đương với ngày mà nó phải được thanh toán nếu chứng từ không bị mất. NH phát hành có trách nhiện nhận thức rằng việc thanh toán không được để chậm trễ " (In the event of documents, including a draft On the applicant, being lost in the post, the remitting bank is entitled to be reimbursed on the approximate date on which it could have expected to have been reimbursed if the documents arrived safety. The issuing bank has a responsibility to see that the payment is not unduly delayed ICC. Doc. Pub. No.469). Tất nhiên người mất chứng từ là người mở TDT vì NH phát hành làm theo yêu cầu của người mở và mọi rủi ro thuộc về người mở. Trả lời thắc mắc của ngân hàng Bank of China (Tianjin Branch) về vấn đề trên, Uỷ ban NH đã nêu quan điểm: "Đối với vấn đề hoàn hảo của chứng từ bị mất, chừng nào những bất hợp lệ không được phát hiện, chứng từ coi như hoàn hảo với các điều khoản và điều kiện của TDT. Do vậy, ngân hàng được chỉ định có quyền được thanh toán trong trường hợp chứng từ bị mất dọc đường. Sau đó, nếu chứng từ tìm lại được, ngân hàng phát hành áp dụng các điều khoản của Bản điều lệ và đòi lại từ ngân hàng được chỉ định số tiền đã trả .... Tuy nhiên, thực tế không có câu trả lời chung nào cả bởi mỗi một trường hợp đều được xem xét trên mỗi giá trị của chính nó. (Tài liệu ICC SỐ XB 494) (... as long as discrepancies "'ere not discovered the documents were deemed to be compliant with the Terms of the Credit. Therefore the nominated bank " was entitled to be reimbursed in case of loss of the documents. If the document re-appeared, the issuing bank could use Article 16 UCP and claim refund of the reimbursed amount. However no general answer can be given, since each case must be considered on its own merits ' ICC Doc. Pub. No. 494) Tuy nhiên, điều cần lưu ý là NH được chỉ định phải thực hiện đúng điều kiện của TDT trong việc gửi chứng từ, ngược lại nó phải gánh chịu. 42

Ví dụ: TDT yêu cầu chứng từ được gửi làm 2 lần cách nhau 3 - 4 ngày bằng DHL cho NH phát hành. Nhưng NH chiết khấu chỉ gửi một lần và bị mất. Trường hợp này NH phát hành có cơ sở để từ chối thanh toán vì chứng từ bị mất do NH chiết khấu không thực hiện đúng điều kiện gởi chứng từ. Nếu bộ chứng từ được gởi 2 lần (lần đầu 2/3 hoặc 3/4 của từng loại, lần sau còn lại) thì không bao giờ cả 2 lần đều bị mất. NH phát hành sẽ nhận được chứng từ tuy bị thiếu. Cho nên một số TDT vẫn yêu cầu chứng từ được gửi làm 2 lần là nhằm mục đích như vậy 2. Ngân hàng đối với việc dịch thuật, giải nghĩa NH có thể dịch, giải thích các điều khoản, điều kiện, thành ngữ... của TDT theo hoặc không theo yêu cầu của khách hàng. Nhưng không ai buộc NH phải làm như vậy nếu như ngân hàng không muốn làm hoặc không có khả năng làm. NH làm không vì lợi nhuận mà vì sự giúp đỡ đối với khách hàng. Do vậy, họ hoàn toàn không ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ về những sai sót nếu nó mắc phải. Nhận được điện bị nhiễu loạn, cắt xén, NH thông báo lưu ý với người hưởng và thông báo đúng như nó nhận được. NH thông báo có thể yêu cầu NH phát hành TDT chuyển lại, xác thực những lỗi của bức điện nhưng không có nghĩa vụ phải làm như vậy. Đó là việc của người hưởng yêu cầu người mở tiếp xúc với NH phát hành để phát lại bức điện. NH phát hành càng không có lỗi vì nó phát telex tốt và nó sẽ phát lại theo yêu cầu và hoàn toàn không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ do nhiễu loạn điện tín như trên ĐIỀU 17 : TRƯỜNG HỢP BẤT KHẢ KHÁNG NH không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh do việc gián đoạn nghiệp vụ vì thiên tai, rối loạn, dân biến, nổi dậy, chiến tranh hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng, hoặc do bất cứ các cuộc đình công hay bế xưởng. Trừ khi được phép rõ ràng, vào lúc bắt đầu hoạt động kinh doanh trở lại, NH sẽ không thanh toán, không cam kết trả tiền sau, chấp nhận hối phiếu hoặc chiết khấu theo Tín dụng thư mà đã hết hiệu lực trong thời kỳ hoạt động của NH bị gián đoạn như trên. Đây là Điều khoản cơ bản vẫn giữ nguyên Điều 19 của Bản đlều lệ 400, nhằm khẳng định ngân hàng được miễn trách về những hậu quả phát sinh do nguyên nhân bất khả kháng. Nó phù hợp với thực tiền thông thường đối với những thoả thuận có tính chất quốc tế mà TDT là 1 thỏa thuận. Một số bản Quy tắc có tính chất quốc tế do Phòng Thương mại ấn hành đều có nói đến trường hợp bất khả kháng. Trong các hợp đồng thương mại giữa người mua và người bán/ người cung cấp đều có tính đến điều khoản bất khả kháng. Đối với Điều lệ và Thực hành Thống nhất Tín dụng Chứng từ có riêng Điều khoản, nói rõ những trường hợp nào được coi là bất khả kháng. Đối với các nhà băng, Nếu phải ngưng hoạt động do một trong những sự việc được nêu ra trong điều khoản này đều được miễn trách nhiệm đối với chứng từ của TDT mà ngày xuất trình hoặc ngày hết hiệu lực rơi đúng vào ngày ngân hàng ngưng hoạt động, bất kể chứng từ đó sau khi ngân hàng làm việc trở lại, có được xuất trình hay không. Tuy nhiên, câu thứ 2 của Điều khoản này cũng cần được chú ý. Rủi ro do những bất khả kháng thuộc về ai thì bên đó phải chịu tổn thất. NH được chỉ định chỉ chiết khấu chứng từ hợp lệ xuất trình theo TDT mà ngày hết hiệu lực đúng vào thời kỳ hoạt động của ngân hàng bị gián đoạn do nguyên nhân bất khả kháng, nếu được ngân hàng phát hành chấp thuận. Cũng như vậy, NH phát hành chỉ cho phép NH được chỉ định trả tiền cho người hưởng khi người mở đồng ý. Nhưng nếu chứng từ đã được xuất trình tại NH xác nhận, mà do nguyên nhân trên (nguyên nhân được nêu trong Điều 17 này) NH này chưa kịp thanh toán cho người hưởng thì sau khi làm việc trở lại, NH xác nhận vẫn ràng buộc nghĩa vụ của mình đối với chứng từ đã xuất trình hợp lệ. Theo cá chuyên gia NH của ICC, trường hợp ngày hết hiệu lực đúng vào ngày NH được chỉ 43

định, hoặc NH xác nhận ngưng hoạt động do nguyên nhân của Điều 17, người hưởng nên tìm mọi cách xuất trình chứng từ hợp lệ trực tiếp cho NH phát hành ("in a case in which the confirming bank is closed for Article 19 reason (UCP 400), the beneficiary should endeavor to make presentation direct to the issuing bank - ICC. Doc. Pub. No. 459) NH phát hành sẽ không có quyền từ chối chứng từ mặc dù chứng từ không được xuất trình như quy định của TDT. ĐIỀU 18 : TỪ BỎ TRÁCH NHIỆM VỀ HÀNH ĐỘNG CỦA BÊN ĐƯỢC CHỈ THỊ A. Khi sử dụng các dịch vụ của một hay nhiều NH khác để thực hiện chỉ thị của người mở TDT, Ngân hàng đều làm việc đó với phí tổn và rủi ro do người mở chịu. B. NH không chịu trách nhiệm nếu những chỉ thị do họ truyền đạt không được thực hiện, ngay cả khi bản thân họ chủ động lựa chọn ngân hàng đó. C. i. Bên chỉ thị cho phía bên kia thực hiện các dịch vụ phải có nghĩa vụ thanh toán mọi phí tổn, bao gồm hoa hồng, chi phí, tổn thất phát sinh mà phía được chỉ thị gánh chịu do việc thực hiện các chỉ thị đó. ii. Khi TDT quy định các chi phí đó do phía khác trả chứ không phải là bên chỉ thị, mà các chi phí đó không thể thu được, thì cuối cùng bên ra chỉ thị vẫn có bổn phận thanh toán các chi phi đó. D. Người mở TDT bị ràng buộc và chiu trách nhiệm bồi thường cho các ngân hàng về những hậu quả có thể xảy ra do mọi nghĩa vụ và trách nhiệm được áp đặt bởi luật pháp và tập quán nước ngoài. Điều 18 của Bản điều lệ này được điều chỉnh, sửa đổi từ Điều khoản 20 của Bản điều lệ 400 bổ sung thêm một phần nói về trách nhiệm của phía chỉ thị đối với những phí tổn liên quan đến việc thực hiện chỉ thị đó. 1. Người mở TDT phải trả các khoản chỉ phí phát sinh Giao dịch TDT bắt đầu từ yêu cầu của người mở và kết thúc ở người hưởng. Ngân hàng phát hành chỉ thị ngân hàng đại lý của mình (ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận) thực hiện các dịch vụ của TDT hoàn toàn theo lệnh và vì mục đích của người mở. Các ngân hàng liên quan đều thu phí dịch vụ ngân hàng (hoa hồng) từ phía chỉ thị. Ngân hàng thông báo sẽ thông báo TDT cho người hưởng, ngân hàng xác nhận sẽ xác nhận TDT và thu phí này từ ngân hàng phát hành nếu TDT không nói gì khác. Ngân hàng phát hành sẽ trả dịch vụ phí cho các ngân hàng và thu lại từ tài khoản của người mở. Mọi rủi ro do các nguyên nhân nói ở Điều 16, 17 và 18 nếu có đều do người mở gánh chịu. Đây là Thông lệ đã có từ khi ra đời Điều lệ và thực hành thống nhất TDCT và nhận được sự tán đồng của tất cả các ngân hàng. Các nhà xuất nhập khẩu, các công ty dịch vụ phải nhận thức được rằng ngân hàng chỉ làm dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Do vậy, họ phải thu phí và hoàn toàn không chịu tổn thất do những nguyên nhân đã được Bản điều lệ nêu ra. Nếu chứng từ giả mạo được xuất trình theo TDT, ngân hàng được chỉ định nếu không phát hiện ra mặc dù đã "cẩn thận một cách hợp lý" trong việc kiểm tra, sẽ chiết khấu và yêu cầu ngân hàng phát hành hoàn trả. Số tiền thanh toán chứng từ trên sẽ được ghi nợ tài khoản của người mở. Như vậy, rủi ro do bị lừa đảo cuối cùng người mở gánh chịu, cả chi phí ngân hàng lẫn tiền hàng hóa/dịch vụ, vì người mở chứ không phải là ngân hàng đã chọn nhầm đối tác để kinh doanh. 2. Quyền lựa chọn NH giao dịch Đối với phần b của điều khoản này, người mở TDT cảm thấy bị đối xử không công bằng. Tại sao ngân hàng phát hành được miễn trách khi ngân hàng của họ (ngân hàng thông báo) không thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để hậu quả người mở gánh chịu? 44

Mỗi một ngân hàng đều có nghĩa vụ và trách nhiệm như nhau và đã được Luật quy định và Thông lệ quốc tế chấp nhận. Ngân hàng nào phạm luật thì ngân hàng đó sẽ bị phạt. Nếu ngân hàng thông báo do bất cẩn trong việc thông báo TDT gây hậu quả xấu đối với người hưởng sẽ bị kiện trước toà. Người hưởng không thể khiếu nại người mở TDT vì người mở đã thực hiện đúng điều kiện hợp đồng. Người mở cũng không vì khiếu nại của người hưởng mà kiện ngân hàng phát hành vì ngân hàng này chứng minh là không có lỗi. Nhưng nếu ngân hàng phát hành có lỗi thì tùy theo mức độ của hậu quả và quan hệ của 2 bên, người mở có quyền kiện ngân hàng ra tòa. Đến đây, phán quyết của tòa án sẽ ràng buộc với tất cả các bên liên quan. Ngân hàng phát hành cũng miễn trách "ngay cả khi bản thân họ chủ động lựa chọn NH đó". Khi mở TDT, người mở có quyền chọn ngân hàng thông báo (căn cứ vào yêu cầu của người hưởng).Tuy nhiên, ngân hàng phát hành cũng có quyền chọn ngân hàng thông báo khác nếu nó không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu trên. Trên thế giới có hàng vạn ngân hàng thương mại nhưng mạng lưới quan hệ đại lý của ngân hàng phát hành không thể bao phủ toàn cầu. Nếu ngân hàng được người mở chỉ định không nằm trong danh mục ngân hàng đại lý hoặc ngân hàng phát hành không thể thiết lập khoá điện để mở TDT tới ngân hàng thông báo, thì ngân hàng phát hành sẽ tự chọn ngân hàng khác với mục đích là thực hiện yêu cầu của người mở. Càng rất khó đáp ứng được yêu cầu của người mở nếu TDT được xác nhận bởi ngân hàng do người hưởng đề nghị. Xác nhận TDT là sự ràng buộc trách nhiệm thanh toán của ngân hàng thứ 3, hoàn toàn khác với thông báo TDT mà bất kỳ ngân hàng đại lý nào khác cũng có thể sẵn sàng. Qua sự phân tích trên, việc ngân hàng phát hành tự chọn các ngân hàng khác để thực thi các chỉ thị của người mở TDT hoàn toàn không điều chỉnh nghĩa vụ và trách nhiệm của người mở được nói ở phần B của Điều khoản này. Trong trả lời thắc mắc của 1 ngân hàng về vấn đề tương tự nêu trên, ICC đã lu ý rằng "đây là vấn đề đã được để cập trong Bản điều lệ ít nhất là một phần tư thế kỷ" (".. But it should be remembered that this is something which has been in the UCP for at least a quarter of a century" - ICC. Doc. Pub. No. 459, page 63). 3. Các bên chỉ thị và nghĩa vụ thanh toán chi phí Phần C được bổ sung nhằm giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong thực tế giữa các ngân hàng và giữa ngân hàng phát hành với người mở liên quan đến chi phí và hoa hồng ngân hàng phát sinh trong giao dịch TDCT. Phía chỉ thị (instructing party) và phía được chỉ thị (instructed party) được dùng nhằm nói lên phạm trù rộng lớn về người ủy nhiệm (principal) và các đại lý ra lệnh và nhận chỉ thị trong dịch vụ ngân hàng. Dịch vụ phí là một trong những nguồn chính tạo nên lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại. Do vậy, biểu phí (Terms and Conditions) của ngân hàng quy định rất chi tiết các khoản mà ngân hàng sẽ thu của khách hàng khi làm dịch vụ. Chi phí đuợc nêu ra trong điểm (i) trên bao gồm: phí ngân hàng, phí trong thông tin liên lạc (phí swift/telex, fax, bưu phí DHL..., lãi suất chiết khấu của ngân hàng và tất cả các chi phí khác nếu có) đều do người ra lệnh trả. Người chỉ thị có thể là người mở TDT, ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo thứ nhất... Người thực hiện lệnh đó cũng có thể là ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng chuyển chứng từ..., tùy theo từng trường hợp cụ thể. Thí dụ: TDT được hàng A phát hành theo lệnh của công ty X cho công ty Y qua ngân hàng B (ngân hàng đại lý của ngân hàng A) và thông báo qua ngân hàng C (ngân hàng của công ty Y) và được ngân hàng B xác nhận. Nếu TDT không quy định khác thì phí ngân hàng và các chi phí phát sinh của TDT sẽ được thu như sau: 45

- Ngân hàng C sẽ yêu cầu ngân hàng B thu từ ngân hàng A phí thông báo (lần 2). - Ngân hàng B sẽ thu của ngân hàng A: phí thông báo (lần 1), phí xác nhận và phí của ngân hàng C (lần 2) và tất cả chỉ phí khác: điện phí, bưu phí... - Ngân hàng A (ngân hàng phát hành) sẽ thu của người mở: phí mở TDT, điện phí (telex/swift. fax...) của mình và các khoản chi phí của ngân hàng B, C. Ngân hàng B và ngân hàng C (ngân hàng được chỉ thị) đòi lại các khoản chi phí từ ngân hàng A (phía chỉ thị). Cuối cùng là người mở TDT - phía ủy nhiệm (principal) và là phía khởi điểm của mọi chỉ thị, phải thanh toán hết tất cả các chi phí phát sinh từ giao dịch TDT trên. Nếu TDT không ghi điều khoản về phí ngân hàng và các chi phí phát sinh thì các ngân hàng, người mở và người hưởng phải hiểu là phí này do người mở trả. Do vậy, người mua và người bán phải đề cập điều khoản phí ngân hàng trong giao dịch TDT vào hợp đồng thương mại. Ngược lại, người mua khi mở TDT có quyền nói rõ chỉ phí phát sinh ngoài ngân hàng phát hành do người hưởng chịu, đúng như tập quán Quốc tế đang phổ biến và được công nhận như là sự công bằng cho cả 2 phía. Nhưng nếu điều khoản phí như vậy bị người hưởng từ chối thì giải quyết thế nào ? Đây là vấn đề được nhiều Phòng Thương mại quốc gia để cập trong những thắc mắc, yêu cầu ICC giải đáp. Điểm (ii) của phần c đã được nêu lên nhằm quy chế hóa nghĩa vụ của người chỉ thị (người uỷ nhiệm) nhằm giảm bớt những trục trặc về phí ngân hàng trong giao dịch TDCT. Trở lại thí dụ trên, nếu TDT ghi: tất cả phí phát sinh ngoài ngân hàng phát hành do phía người hưởng trả, ngân hàng sẽ yêu cầu ngân hàng C thu phí thông báo (lần 1) và phí xác nhận từ công ty Y. Nếu ngân hàng B và C sau khi đã hoàn thành mọi nghĩa vụ của mình đối với chỉ thị của ngân hàng A mà vẫn không được người hưởng trả vì bất cứ lý do gi, thì họ có quyền đòi ngân hàng A (ngân hàng phát hành) trả các chi phí đó. Ngay cả trường hợp thanh toán, chiết khấu, chấp nhận chứng từ, nếu ngân hàng thanh toán, ngân hàng chiết khấu không thể trừ tiền phí vào trị giá hối phiếu/ hóa đơn vì nhiều lý do (quy chế của người hưởng, hối phiếu không được thanh toán vào ngày đáo hạn do các bên liên quan đồng ý bù trừ hợp đồng thương mại nào đó...), thì ngân hàng phát hành phải thanh toán lại cho các ngân hàng trên. Dĩ nhiên, ngân hàng A sẽ thu lại những phí đã trả cho các ngân hàng B và C từ tài khoản người mở TDT. Trước đây, tại Việt nam, 1 chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường báo TDT cho công ty xuất nhập khẩu qua 1 ngân hàng nội địa, yêu cầu ngân hàng này thu hộ (collection) phí thông báo (lần 1). Đơn vị xuất khẩu chỉ đồng ý trả 1 lần phí thông báo vì lý do người mua đã mở TDT qua 2 ngân hàng tại Việt nam, không đúng với quy định của hợp đồng thương mại. Ngân hàng Việt nam đương nhiên phải thu cho mình trước. Ngân hàng nước ngoài khiếu nại ngân hàng Việt nam và yêu cầu ngân hàng này trả phí thông báo. Trong Bản Điều lệ 400 không có chi tiết này, nên giữa 2 ngân hàng đã thương lượng để giải quyết vấn đề trên cơ sở quan hệ các ngân hàng đại lý. Tuy nhiên, xét về góc độ pháp lý cũng như logic của sự việc, ngân hàng nước ngoài không có quyền khiếu nại ngân hàng Việt nam vì 2 lý do : - Phí thông báo (lần 1) được thu trên cơ sở nhờ thu từ người hưởng. Kết quả như thế nào là tùy thuộc vào thiện chí của khách hàng. Hơn nữa, TDT không quy định chỉ thông báo TDT khi người hưởng đã trả đủ phí thông báo (lần 1)". Do vậy, ngân hàng Việt Nam không được quyền giữ TDT cho đến khi phí trên được trả, mà phải thông báo ngay đồng thời yêu cầu trả phí. Ngân hàng Việt nam làm đúng theo yêu cầu của phía chỉ thị, hoàn toàn không có trách nhiệm gì về phí thông báo (lần 1) nếu khách hàng từ chối. 46

- Người mà Ngân hàng nước ngoài khiếu nại đòi thanh toán phí thông báo là ngân hàng phát hành TDT (phía chỉ thị) chứ không phải là ngân hàng Việt nam. Thậm chí, ngân hàng nước ngoài phải có trách nhiệm thu lại phí thông báo (lần 2) từ ngân hàng phát hành cho ngân hàng Việt nam nếu người hưởng từ chối. Một nhận thức thông thường (common sense) mà ngân hàng nước ngoài phải hiểu là họ làm dịch vụ theo yêu cầu của ngân hàng phát hành thì ngân hàng này phải trả phí chứ không thể đòi từ ngân hàng mình yêu cầu làm dịch vụ. Nghĩa vụ phải trả phí đó của phía chỉ thị là thứ cấp, song họ bị ràng buộc trách nhiệm trong suốt quá trình chi phí đó chưa được trả mặc dù TDT yêu cầu người hưởng (hoặc bất cứ phía thứ 3 nào) phải trả. Qua sự việc trên, ta càng cần hiểu vấn đề dễ gây nhầm lẫn: ngân hàng phát hành TDT có quyền chọn ngân hàng đại lý thuận tiện để phát hành TDT và yêu cầu ngân hàng này thông báo qua ngân hàng của người hưởng vì ngân hàng thứ 2 không có quan hệ giao dịch và tài liệu kiểm soát (khóa điện, mẫu chữ ký...).Tuy nhiên, những chi phí phát sinh do khó khăn về mạng lưới đại lý của ngân hàng phát hành không thể chuyển sang người hưởng. Phí thông báo lần 1 nói trên bị từ chối là hợp lý. Phí xác nhận hoàn toàn khác với phí thông báo, chiết khấu. thanh toán... về mặt nghĩa vụ trả nợ. Phí này tỷ lệ thuận với số tiền và thời hạn hlệu lực của TDT. Đây là phí trách nhiệm đúng bằng phí phát hành TDT. Do vậy khi được yêu cầu xác nhận, ngân hàng thông báo chỉ thực hiện chỉ thị nếu phí này đã được trả đầy đủ, tuy về lý, ngân hàng xác nhận được quyền từ đòi phí từ ngân hàng yêu cầu xác nhận nếu TDT quy định người hưởng thanh toán nhưng bị từ chối. 4. Sự ràng buộc về trách nhiệm đối với pháp luật và tập quán nước ngoài Phần D của điều khoản này giữ nguyên phần C của Điều 20 Bản Điều lệ 400. Khi thực hiện những thương vụ buôn bán quốc tế, cả hai bên mua và bán/dịch vụ đều phải hiểu luật lệ, tập quán, quy định, chế độ về xuất nhập khẩu, hối đoái, hải quan... của phía đối tác, tránh rủi ro có thể xảy ra. Ngược lại, họ phải chịu hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp phát sinh từ những giao dịch trên. Ngân hàng vì thực hiện chỉ thị của người mở mà bị thiệt hại về danh dự, uy tín hoặc tổn thất vật chất do luật pháp và thông lệ nước ngoài thì người mở phải chịu trách nhiệm và nghĩa vụ đền bù. Luật pháp và tập quán nước ngoài (Foreign Law & Usage) chứ không phải là luật lệ và tập quán của nước sở tại, (nơi ngân hàng liên quan đang hoạt động), mà họ phải nắm và tuân thủ. Nhưng các ngân hàng được bảo vệ (bằng chính điều khoản này) khi dính líu vào vấn đề pháp luật của nước khác trong giao dịch TDT theo yêu cầu của khách hàng. Bởi vì chính người yêu cầu mở TDT có lỗi, chứ không phải các ngân hàng liên quan, trong việc nghiên cứu, tiếp cận thị trường, họ phải chịu mọi tổn thất về tinh thần và vật chất. ĐIỀU 19: THỎA THUẬN VỀ HOÀN TRẢ LIÊN HÀNG A. Nếu ngân hàng phát hành cho phép ngân hàng thanh toán, ngân hàng chấp nhận hoặc ngân hàng chiết khấu ("ngân hàng đòi tiền") đòi tiền từ phía thứ 3 ("ngân hàng hoàn trả) thì ngân hàng phát hành phải cung cấp cho ngân hàng hoàn trả kịp thời những chỉ thị thích hợp hoặc ủy quyền cho ngân hàng đó thực thi các đòi tiền như vậy. B. NH phát hành không được yêu cầu ngân hàng đòi tiền xác nhận cho ngân hàng hoàn trả về sự phù hợp của chứng từ với các điều khoản và điều kiện của TDT. C. NH phát hành không được miễn trừ bất cứ nghĩa vụ nào của mình về việc bồi hoàn nếu và khi NH đòi tiền không nhận được số tiền thanh toán từ ngân hàng hoàn trả. D. NH phát hành sẽ phải chịu trách nhiệm với ngân hàng đòi tiền mọi thiệt hại về tiền lãi nếu số tiền thanh toán không được ngân hàng hoàn trả thực hiện ngay khi nhận được đòi tiền đầu tiên, hoặc như quy định khác trong TDT, hoặc như đã thỏa thuận, tùy trường hợp. 47

E. Các chi phí của ngân hàng hoàn trả sẽ được tính cho ngân hàng phát hành. Tuy nhiên trong những trường hợp mà các chi phí được tính cho môt bên khác, thì trách nhiệm của ngân hàng phát hành là ghi rõ điều đó trong TDT và trong ủy quyền hoàn trả Trong trường hợp mà các chi phí của ngân hàng hoàn trả được tính cho một bên khác chúng sẽ được thu từ ngân hàng đòi tiền khi việc hoàn trả tiền được thực hiện. Nếu TDT không phát sinh thanh toán, các chi phí của ngân hàng hoàn trả vẫn thuộc nghĩa vụ của ngân hàng phát hành. Điều khoản này được viết lại từ Điều 21 Bản điều lệ 400, rõ ràng, cụ thể hơn, đặc biệt là phần lãi phát sinh do chậm trễ trong việc hoàn trả tiền. Trước khi đi vào phân tích vấn đề, ta hãy nói qua từ hoàn trả (reimbursement) được đề cập phổ biến trong Bản Điều lệ này. Reimbursement là sự hoàn trả 1 số tiền nào đó của 1 ngân hàng, với trách nhiệm của chính mình, hoặc theo ủy quyền của ngân hàng khác, tổ chức tài chính khác, cho ngân hàng đòi tiền với mọi rủi ro thuộc về ngân hàng ủy nhiệm. Như vậy, reimbursement trong điều khoản này là các giao dịch hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo TDT. Đây là cách thanh toán đã có từ lâu trên thế giới mà xuất phát từ Mỹ. Tháng 6/81, Hội đồng Quốc gia về Những Vấn đề Ngân hàng Quốc tế (The Nationai Association of Councils on informational Banking) đã thông qua Quy chế "Quy tắc và Thực hành thông nhất về Hoàn trả tiền giữa các Ngân hàng theo Tín dụng chứng từ tại Mỹ (U.S Uniform Practices & Procedures Govemmg Bank to bank Reimbursements under Letters of Credit). Chính Hội đồng Quốc gia về TDT của Mỹ đã yêu cầu WG sửa đổi điều khoản này, nhằm phù hợp với luật Mỹ. Hơn nữa, qua 10 năm áp dụng Bản điều lệ 400, những vấn đề nảy sinh từ việc hoàn trả giữa các ngân hàng, phí và lãi phát sinh... cũng đã được ICC tiếp nhận từ các phòng thương mại quốc gia. Đó là những lý do mà WG quyết định sửa đổi điều khoản hoàn trả giữa các ngân hàng dựa trên quy chế của Mỹ. Năm 1995, ICC đã phát hành "Quy tắc thống nhất hoàn trả tiền hàng theo tín dụng chứng từ" ( The Uniform Rules for Bank-to-Bank Reimbursement under Doc Credit ) số XB 525 - 1995 (URR 525) có hiệu lực từ 01/07/96 nhằm chi tiết hóa và cụ thể hóa nghiệp vụ hoàn trả liên hàng tại Điều 19 của Bản Điều lệ. Bản Quy tắc gồm 17 Điều, quy định rõ ràng nghĩa vụ trách nhiệm, các thủ tục nghiệp vụ của các NH liên quan trong giao dịch hoàn trả theo TDCT. Nếu không có bản quy tắc này, giao dịch TDCT và việc hoàn trả tiền giữ các NH theo TDCT sẽ khó khăn hơn, chi phí cao hơn và mất nhiều thời gian hơn. Nếu những Quy tắc này cải thiện được trình tự hiện nay, tạo ra một cơ sở có tổ chức cho việc xử lý và giúp người sử dụng hiểu được, có nghĩa là Bản Quy tắc đó đã phục vụ tốt cho toàn bộ cộng đồng" (Lời tựa của Dan Tylor, Chủ tịch ICC ). Để hiểu thêm chi tiết, hãy tìm đọc cuốn "Tìm hiểu về quy tắc thống nhất hoàn trả liên hàng theo TDCT & Quy tắc Thống nhất về Nghiệp vụ Nhờ thu" - Nhà XB Thống kê 1996 1. Những thủ tục hoàn trả tiền giữa các NH Trên thế giới, các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng tại Mỹ áp dụng điều khoản về hoàn trả giữa các ngân hàng theo TDT theo 2 trường hợp sau : - Ngân hàng mở TDT cho phép ngân hàng chiết khấu đòi tiền tại ngân hàng thứ 3 - là ngân hàng đại lý tiền gửi (Depository Bank) của mình tại nước khác. Nếu đồng tiền thanh toán là US Dollar thì việc hoàn trả phần lớn từ ngân hàng tại Mỹ, là DM thì từ ngân hàng tại Đức, là FFR thì từ ngân hàng tại Pháp. Đây là trường hợp phổ biến nhất của các ngân hàng thương mại trên thế giới. Ngân hàng phát hành TDT đạt được một thoả tuận tín dụng (Credit line) với 1 ngân hàng Mỹ bằng USD (hoặc với bất cứ NHTM nào và bằng ngoại tệ nào) với mục đích sử dụng thanh toán hàng nhập khẩu vào nước mình, hoặc bán sang Mỹ. Với thỏa thuận này, mọi khoản rút vốn được 48

ngân hàng cấp vốn thực hiện trên cơ sở đòi tiền của ngân hàng chiết khấu theo TDT do ngân hàng vay vốn phát hành trong giới hạn số tiền của thỏa thuận tín dụng. Ngân hàng chiết khấu được yêu cầu gửi toàn bộ chứng từ giao hàng (shipping documents) cho ngân hàng phát hành và gởi hối phiếu kèm chỉ thị chuyển tiền của mình (hoặc điện đòi tiền) cho ngân hàng hoàn trả tiền. Nhận được đòi tiền trên, ngân hàng được ủy quyền sẽ trả tiền theo sự ủy nhiệm của ngân hàng phát hành, đồng thời ghi nợ tài khoản tiền gởi hoặc tài khoản tiền vay (tùy theo từng trường hợp) của ngân hàng phát hành. Mọi thủ tục về Uỷ quyền, đòi tiền, chuyển trả, thông báo, phí NH... đều phải theo đúng quy định của URR 525. Theo phần B của Điều khoản này, ngân hàng phát hành không yêu cầu ngân hàng đòi tiền xác nhận với ngân hàng hoàn trả về tính hợp lệ của chứng từ mà chỉ cần thông báo với ngân hàng phát hành là chứng từ hoàn toàn phù hợp, đã đòi tiền tại ngân hàng thứ 3 theo quy định của TDT. Tuy nhiên, cũng có ngân hàng yêu cầu lệnh đòi tiền phải xác định rõ với NH hoàn trả là chứng từ hoàn toàn phù hợp với điều kiện của TDT. Nếu được yêu cầu như vậy, dù không đúng tập quán quốc tế, ngân hàng chiết khấu cũng phải thực hiện tốt yêu cầu này, tránh những chậm trễ có thể xảy ra do ngân hàng hoàn trả từ chối chuyển tiền. 2. Nghĩa vụ của NH phát hành đối với việc hoàn trả từ NH thứ 3 Phần C và D của điều khoản này khẳng định lại nghĩa vụ và trách nhiệm của ngân hàng phát hành đối với việc hoàn trả tiền cho ngân hàng chiết khấu. Trường hợp ngân hàng hoàn trả, vì lý do nào đó, không chuyển tiền cho ngân hàng đòi tiền thì nghĩa vụ này vẫn thuộc về ngân hàng phát hành. Trong thực tế, có trường hợp ngân hàng phát hành cho phép đòi tiền tại ngân hàng tiền gởi hoặc ngân hàng cấp tín dụng, nhưng lại không đủ số dư hoặc đã rút hết vốn vay. Có trường hợp ngân hàng hoàn trả không nhận được ủy quyền của ngân hàng phát hành. Tất cả những trường hợp trục trặc này (có thể là do nhầm lẫn, sơ suất), ngân hàng phát hành phải có nghĩa vụ trả tiền, kể cả lãi suất chậm trả, điện phí liên quan cho ngân hàng đòi tiền, tính từ ngày đầu tiên của việc đòi tiền đến ngày số tiền được trả. Luật của Mỹ rất chặt chẽ và được tuân thủ nghiêm ngặt. Trong các giao dịch hoàn trả tiền giữa các ngân hàng trên đây, Nếu ngân hàng phát hành có lỗi, họ phải chịu lãi và phí phát sinh. Ai sẽ trả phí hoàn trả tiền hàng? Như đã nói ở Điều 18, theo thông lệ tất cả chi phí phát sinh trong giao dịch TDT đều do phía người mở trả. Nhưng người mua và người bán có thể thỏa thuận riêng. Hiện nay, phần lớn các TDT cho phép đòi tiền tại ngân hàng thứ 3 đều quy định phí hoàn trả tiền được khấu trừ từ tiền thanh toán, kể cả điện phí nếu có. Trường hợp này, ngân hàng phát hành phải chỉ thị rõ trong ủy quyền của mình cho ngân hàng hoàn trả và quy định trong TDT: "all banking commissions and charges including reimbursement fee outside... are for account of beneficiary". Ngược lại ngân hàng hoàn trả sẽ thu phí này từ ngân hàng ủy quyền (có nghĩa là thu từ Người mở TDT) và đương nhiên ngân hàng đòi tiền sẽ nhận trọn vẹn trị giá chứng từ. Điều này cũng tương tự như TDT không đề cập đến điều khoản phí ngân hàng và các chi phí khác, ngân hàng phát hành và các ngân hàng liên quan sẽ thu từ người mở TDT. URR525 đã quy định rõ phí hoàn trả liên hàng tại Điều 16. Ngân hàng chiết khấu chỉ được phép đòi tiền ngân hàng hoàn trả khi chứng từ hợp lệ. Ngược lại, ngân hàng chiết khấu gửi thẳng chứng từ hối phiếu trên cơ sở chấp thuận (on approval) đến ngân hàng phát hành, ghi rõ chứng từ bất hợp lệ, không thực hiện đòi tiền theo quy định của TDT. Từ đấy, việc thanh toán như thế nào, từ ngân hàng nào hoặc bằng cách nào do ngân hàng phát hành quyết định sau khi được người mở TDT chấp thuận nếu nó không quyết định đơn phương từ chối. 49

TDT do các ngân hàng thương mại Việt nam mở đều không cho phép đòi tiền tại ngân hàng thứ 3 (ngân hàng tiền gởi) như Điều 19 này. Đây là đặc thù của Việt nam xuất phát từ những nguyên nhân khách quan: - Các NHTMVN duy trì số dư tiền gửi thanh toán tại nước ngoài không lớn. Để tránh tình trạng rút quá số dư (overdraft) hoặc việc đòi tiền không được thực hiện, ngân hàng chỉ quyết định dùng tiền tại đâu và như thế nào khi nhận được đòi tiền của nước ngoài theo TDT nhập khẩu. Hơn nữa, cho phép ngân hàng chiết khấu đòi tiền tại ngân hàng tiền gửi của mình, ta phải có nghiệp vụ điều hành vốn (funding) hoàn hảo vừa đảm bảo số dư trên tài khoản, không gây phiền hà cho ngân hàng tiền gửi và ngân hàng đòi tiền. Một số NHTMVN vẫn chưa đủ bề dày kinh nghiệm để đảm bảo nghiệp vụ này. Lệnh cấm vận kinh tế (trong đó có cấm vận tài chính ngân hàng) của Mỹ đối với Việt nam chỉ được bãi bỏ từ 3/2/1994. Trước đây, việc thanh toán USD với Việt Nam vô cùng khó khăn và không ít tiền USD ra vào Việt nam bị giam giữ tại Cục Ngân khố Mỹ. Do vậy, việc mở TDT cho phép ngân hàng chiết khấu đòi tiền tại ngân hàng tiền gởi USD của Vietcombank, Eximbank. Sài Gòn Bank,.. là hoàn toàn không thể được. Thời kỳ "hậu cấm vận" mới chưa đầy 2 năm, thật quá sớm để các ngân hàng Việt nam hòa nhập hoàn toàn vào tập quán quốc tế (đặc biệt là của Mỹ) về phương thức hoàn trả tiền theo TDT. Cũng quá sớm để các ngân hàng ta có được những khoản tín dụng từ các ngân hàng thương mại Mỹ để hỗ trợ nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu hàng hóa của Mỹ. Tuy nhiên, về lâu dài, các ngân hàng Việt nam sẽ phải áp dụng hoàn thiện Điều 19 của Bản Điều lệ này vì đây là thông lệ hết sức phổ biến và được hầu hết các ngân hàng trên thế giới thực hiện

CHỨNG TỪ ĐIỀU 20: NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÔNG RÕ NGHĨA VỀ NGƯỜI LẬP CHỨNG TỪ A. Không nên dùng các từ như "hạng nhất", "nổi tiếng"có đủ phẩm chất, "độc lập", "Chính thức", "có thẩm quyền", "nội hạt" và những từ tương tự để miêu tả tư cách của người lập các chứng từ xuất trình theo TDT. Nếu những thuật ngữ trên được đưa vào TDT, ngân hàng sẽ chấp nhận các chứng từ đó như xuất trình, với điều kiện là chúng thể hiện trên bề mặt phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT và không phải là do người hưởng phát hành. B. Trừ khi quy định khác trong TDT, ngân hàng cũng sẽ chấp nhận như là bản chính, những chứng từ độc lập hoặc thể hiện là được lập: i. bằng phương pháp sao chụp, tự động hoặc điện toán; ii. bằng bản giấy than với điều kiện là chúng được đánh dấu là bản gốc và khi cần thiết chứng từ phải được ký. Chứng từ có thể được ký bằng tay, bằng chữ ký tạo bởi hệ thống máy FAX, bằng dấu chữ ký đục lỗ (perforated signature), bằng con dấu, bằng ký hiệu hoặc bằng bất cứ phương pháp chứng thực nào của máy móc hoặc điện tử. C i Trừ khi có quy định khác trong TDT, ngân hàng sẽ chấp nhận là bản sao, chứng từ được đánh dấu là bản sao hoặc không được đánh dấu là bản gốc - bản sao không cần được ký. ii. TDT yêu cầu chứng từ được làm thành nhiều bản như "làm thành hai bản", gấp hai lần , "hai bản" và những từ tương tự, sẽ được thỏa mãn bằng việc xuất trình một bản gốc và số lượng còn lại là các bản sao, trừ khi bản thân chứng từ ghi khác. D.Trừ khi có quy định khác, TDT yêu cầu chứng từ được xác thực, làm cho có hiệu lực, hợp pháp hóa, được thị thực, được chứng nhận, hoặc yêu cầu tương tự, sẽ được thỏa mãn bằng bất 50

cứ chữ ký, dấu hiệu, con dấu hoặc nhãn hiệu nào trên chứng từ đó mà trên bề mặt của nó thoả mãn với điều kiện nêu ra. Chứng từ của TDT trừ TDT dự phòng, được gọi chung là chứng từ giao hàng (shipping documents). Chúng bao gồm các loại chứng từ đã xác định người phát hành (hóa đơn, vận đơn, bảo hiểm) được đề cập trong Điều khoản 21 và chứng từ chưa xác định người cấp phát (chứng nhận xuất xứ, chứng nhận phẩm chất...). ICC yêu cầu không dùng từ chỉ phẩm chất, năng lực, tư cách của người cấp phát, mà phải ghi rõ đích danh. Thí dụ: không nên ghi: Chứng nhận xuất xứ do đơn vị độc lập cấp (Certificate of origin issued by an independent authority) hay: chứng nhận phẩm chất do công ty kiểm nghiệm Việt nam loại một cấp (Certiticate of quality issued by first-class Vietnam inspection company) mà phải yêu cầu: - Certificate of origin issued by Chamber of Commerce & Industrial of Vietnam - Certificate of quality issued by Saigon inspection Co.,Ltd. Ngân hàng không thể xác nhận ai là "well-known"ai là "independent". Tiêu chuẩn nào để đánh giá "first class" hay "qualified"? Những từ này chung chung, mơ hồ, không có cơ sở để bảo đảm tính hợp lý của chứng từ. Trong những trường hợp TDT có những từ ngữ trên, người hưởng có thể yêu cầu người phát hành chứng từ ghi thêm chữ "là đơn vị độc lập" (as the independent authority) ngay sau tên của họ. Ngân hàng chấp nhận chứng từ như xuất trình, với bất cứ ai là người phát hành, miễn là không phải bản thân người hưởng. Quy định "các chứng từ đó không phải do Người hưởng lập" phải hiểu như thế nào để khỏi bị sai nhầm lẫn. Người hưởng chỉ không được phép phát hành chứng từ mà TDT yêu cầu người lập là "hạng một", "đủ phẩm chất", "Độc lập".... còn các chứng từ khác thì không bị cấm. Thí dụ: TDT yêu cầu xuất trình Bản xác nhận đã gửi một bộ chứng từ copy trực tiếp cho người mở kèm Biên lai bưu điện nhưng lại không ghi rõ do ai lập. Trường hợp này phải áp dụng Điều 21 của Bản Điều lệ, chấp nhận chứng từ do bất cứ ai lập, kể cả người hưởng. 1. Chứng từ được lập bằng nhiều phương tiện Taị phần B, WG vẫn giữ lại nguyên tắc: tận dụng lợi thế và đơn giản hóa thông tin liên lạc bằng truyền thông điện tử trong hoạt động ngân hàng, tài chính và thương mại. Do vậy, đã chấp nhận các chứng từ được lập bằng hệ thống vì tính, điện tử, sao chụp... thì cũng chấp nhận chữ ký bằng các phương pháp đó. Phần bổ sung nói về "chữ ký"trong điều khoản này nhằm hoàn thiện thủ tục pháp lý của chứng từ xuất trình theo TDT mà Bản điều lệ 400 chưa đề cập. Tại một số nước Châu Á, người ta hay sử dụng chữ ký được khắc dấu (chop mark) đóng lên chứng từ. Đây là kiểu xác thực chứng từ phát hành. Hoặc chữ ký trên bản fax sẽ được chấp nhận nếu ta chấp nhận bản fax đó là chứng từ hợp lệ. Hoặc bất cứ các phương tiện điện tử nào tạo ra chữ ký hoặc có giá trị xác thực (electronic method of authentication) như chữ ký, nếu TDT không quy định khác. 2. Chữ ký được tạo bằng hệ thống máy Fax. Có nhiều người lầm tưởng rằng chữ ký được tạo bằng hệ thống máy facsimile (signed byfacsimile signature ) là chữ ký bằng tay nhưng nhận được qua phương tiện liên lạc bằng máy fax. Facsimile signature là chữ ký được tạo bởi hệ thống máy fax trên cơ sơ chữ ký mẫu đã được cài lập vào bộ nhớ của máy vi tính. Từ "facslmile" phải được hiểu theo nghĩa rộng, đó là hệ thống 51

tạo lập bằng phương pháp in laser hoặc bằng vi tính, điện tử chứ không phải máy fax dùng trong thông tin liên lạc. Do vậy, Điểm (b) của điều khoản này không thể được hiểu là chứng từ với chữ ký nhận được từ máy fax sẽ được coi là "origin". Trong cuốn "case Studies on Documentary Credit under UCP500", số XB535, vấn đế "facsimile signature" được giải thích như sau: "Chữ ký bằng máy fax" nghĩa là việc tạo lập lại của bản fax bằng máy in laser hoặc các phương pháp điện tử khác. Nó không thể được giải thích là chữ ký đuợc chuyển qua hệ thống liên lạc bằng máy fax. Chữ ký đó phải là chữ ký gốc được tạo bởi phương pháp của hệ thống máy fax, mà không phải là photocopy" ( The words "Facsimile signature" mean the reproducing in facsimile as by a laserprinter or other computerized or mechanical means of reproduction. They are not to be interpreted to include a signature that is teletransmitted via facsimile, i.e by fax machine. lt must be an original signature produced by a method of facsimile reproduction, not a photocopy) - ICC Doc Pub.No.535. Ở Việt nam, phương pháp ký bằng hệ thống điện tử chưa được sử dụng nên thuật ngữ "Facsimile signature" còn khá trừu tượng, do vậy gây ra những hiểu ngầm. Hy vọng sự giải thích của tài liệu trên sẽ cho ta khái niệm hoàn chỉnh của "chữ ký qua fax" 3. Phân biệt bản chính và bản phụ * Chứng từ gốc (origin): là bản được sản xuất bầng bất cứ phương tiện nào (bằng hệ thống vi tính, bằng sao chụp, bằng máy chữ, bằng fax...) nhưng phải được đóng dấu "ORlGIN" Bản gốc có cần được ký? "Khi cần" (where necessary) thì phải được ký ? ở đây phải hiểu là những chứng từ cần được ký và những chứng từ không cần. Hóa đơn không cần ký (Điều 37), chứng từ Vận tải và chứng từ Bảo hiểm phải được ký. Điều lưu ý là từ Reprographic (sao chụp) được hiểu là chứng từ được lập bằng sao chụp (photocopy) hoặc tạo bằng bất cứ phương pháp kỹ thuật nào, nhưng phải được ký bằng tay, (manually signed), Nếu được đóng dấu (marked) là "origin" thì sẽ được NH chấp nhận là bản gốc. Nếu chứng từ đã được ký nhưng chụp lại bằng photocopy thì không thể là bản "gốc" dù có dấu "origin" * Bản sao copy: cũng được tạo ra theo phương pháp của chứng từ gốc nhưng có đóng thêm dấu "COPY" (hoặc in sẵn trên mặt mẫu chúng từ), hoặc không có dấu "ORlGIN". Thông thường một bộ Vận đơn (VĐ) gồm nhiều bản, trong đó 3 bản gốc (first original, second orignal, third orignal" và nhiều bản copy. Bản gốc ghi đầy đủ các điều khoản, điều kiện về chuyên trở,trách nhiệm của các bên liên quan ở mặt sau. Bản copy để trống và không được ký. Cũng có loại VĐ chỉ được đóng thêm dấu 'Origin" và "Copy" để phân biệt chứng từ gốc và bản sao. Một loại chứng từ gồm 2 bản trở lên nhưng TDT không nói rõ mấy bản gốc và mấy bản sao thì chỉ cần 1 bản gốc (có dấu "original") còn lại là bán sao (không có dấu "Original / copy , hoặc có dấu copy) là được ngân hàng chấp nhận. Việc cần thiết phải nói rõ thế nào là bản gốc, bản copy và các chứng từ nhiều bản thì xử lý thế nào, xuất phát từ thực tế quan trọng của giao dịch Tín dụng chứng từ mà ngân hàng là người quyết định chấp nhận hay từ chối. Đồng thời, quy định này cũng nhằm tránh những tranh chấp phát sinh từ những quy định mập mở về bản chính, bản phụ của TDT mà bản điều lệ 400 không đề cập. Trong thực tế, các nhà xuất khẩu nói chung và các công ty xuất nhập khẩu Việt nam nói riêng ít chú ý hoặc cố tình bỏ qua các quy định bản gốc-bản sao. TDT yêu cầu 3 bản hóa đơn, họ xuất trình 3 bản giống nhau trên bể mặt, miễn là được ký bằng tay và đóng dấu. Hoặc 1 bản gốc, 2 bản sao họ cũng xuất trình như trên. Sẽ sai lầm nếu nghĩ rằng TDT yêu cầu 1 bản chính, 2 bản phụ thì xuất trình 3 bản gốc lại càng giá trị hơn. Hoặc "3 copies"có người hiểu là 3 bản phụ, và 52

cứ thế xuất trình không bản nào có đúng dấu "Onginain" "Copy" khi là danh từ thì là "bản", nếu tính từ đó là bản sao, bản phụ. 4. Chứng từ có sự chứng thực Ở phần cuối của điều khoản này WG muốn giải thích rõ sự xác minh trên bề mặt chứng từ phù hợp với bản chất của giao dịch TDT những yêu cầu xác thực bằng thi thực, hợp pháp hóa, chứng nhận... sẽ được thỏa mãn nếu chứng từ được ký, đóng dấu đúng theo yêu cầu. Thí dụ: TDT yêu cầu: "Chứng nhận xuất xứ phải được thị thực bởi Tổng lãnh sự quán Ấn độ" (Certificate of orign should be visaed by India Consulate General" thì cơ quan nào phát hành cũng được chấp nhận, miễn là chứng từ này được Tổng lãnh sự quán Ấn độ ký tên, đóng dấu và ghi ngày tháng. Mục đích của WG là củng cố các tiêu chuẩn của Thông lệ và Tập quán quốc tế trong giao dịch ngân hàng phù hợp với những quy định được nói ở Điều 13 của Bản điều lệ này. ĐIỀU 21: KHÔNG NÓI RÕ NGƯỜI PHÁT HÀNH HOẶC NỘI DUNG CHỨNG TỪ Khi yêu cầu xuất trình các chứng từ, ngoại trừ chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm và hoá đơn thương mại, TDT phải quy định những chứng từ đó do ai phát hành và nội dung hoặc dữ liệu của chúng. Nếu TDT không ghi rõ như vậy, ngân hàng sẽ chấp nhận các chứng từ đó như xuất trình, miễn là nội dung dữ liệu của chúng không mâu thuẫn với các chứng từ khác. Điều khoản này được viết lại từ Điều 23 của Bản điều lệ 400 nhưng ngắn gọn, cô đọng và dễ hiểu hơn. Ngoài hóa đơn, chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm đã được Bản điều lệ này quy định người phát hành, các chứng từ khác người lập chưa được xác định. Vậy TDT phải nói rõ người phát hành là ai, nội dung của chúng thế nào. Nếu hàng hóa là thiết bi, máy móc hiện đại thì thường Chứng nhận Xuất xứ phải cho Phòng Thương mại và Công nghiệp lập, ghi rõ model, quy cách, kỹ thuật, tính năng... Ngược lại, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ này do nhà sản xuất cấp, có hoặc không ghi model, tính năng... với điều kiện nó không có những điều gì miêu tả mâu thuẫn, trái ngược với nội dung miêu tả của hóa đơn, chứng từ đóng gói. Nếu chứng từ này phải gồm những điều kiện cần thiết để làm thủ tực nhận hàng, và các thủ tục hành chính khác, hoặc cần có những thuật ngữ, hoặc cần ngôn ngữ la-tinh... để tra cứu sử dụng, thì người mở và ngân hàng phát hành phải yêu cầu trong Tín dụng thư. Đây là những đặc thù trong giao dịch ngân hàng và thương mại quốc tế người mua cần biết và chú ý tránh những tranh cãi và khó khăn khi nhận và sử dụng hàng hoá. Như vậy, trừ Hóa đơn, chứng từ vận tải và bảo hiểm, NH sẽ chấp nhận tất cả các chứng từ khác với bất cứ ai là Người lập, với nội dung diển đạt được rút gọn miễn là không mâu thuẫn với tất cả các chứng từ khác và đúng quy định của TDT. ĐIỀU 22: NGÀY PHÁT HÀNH CHỨNG TỪ VÀ NGÀY TÍN DỤNG THƯ Trừ khi quy định khác trong TDT, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ có ngày pháthành trước ngày phát hành TDT, với điều kiện là chứng từ đó phải được xuất trình trong thời hạn quy định của TDT và những Điều khoản của Bản điều lệ. 1. Mối quan hệ giữa ngày lập chứng từ và ngày TDT WG quyết định giữ nguyên điều 24 của Bản điều lệ 400. Thời hạn của ngày lập chứng từ chỉ được nói rõ ở chứng từ bảo hiểm. Các chứng từ khác nói chung cho phép lập trước khi TDT được phát hành. Nguyên tắc này được giữ nguyên từ 1974 (ICC số xuất bản 299) trên cơ sở thực tế khá phổ biến trong thương mại quốc tế. Đó là trường hợp người bán cần giao hàng ngay cho kịp chuyến tàu vận tải, người mua cần hàng ngay tránh rớt giá trên thị trường hoặc phẩm chất giảm sút... Ngay sau khi ký hợp đồng, hàng được giao, các chứng từ được lập như TDT được mở 53

sau đó vì phải qua thủ tục nhà băng. Tuy nhiên giới hạn thời gian này nằm trong thời hạn xuất trình chứng từ. Các chứng từ phải được xuất trình trong thời hạn quy định của TDT hoặc không quá 21 ngày kể từ ngày giao hàng nếu TDT không ghi rõ thời hạn xuất trình. Do vậy, nếu TDT mở quá muộn (thí dụ vượt 21 ngày sau khi giao hàng), mà lại Giao hàng trước khi mở TDT, người bán có thể gặp rủi ro nếu người mua không chân thực, không dám chấp nhận rủi ro trong thương mại. Do vậy, việc giao hàng trước khi nhận được TDT chỉ dành cho những hợp đồng với khách hàng đã hiểu biết nhau qua quá trình kinh doanh, hoặc những mặt hàng ít giá trị. 2. Mối quan hệ về ngày phát hành của các chứng từ : Ngày phát hành của các chứng từ có liên quan với nhau như thế nào? Điều này không được để cập trong Bản điều lệ, có nghĩa là ngày phát hành của các chứng từ không quan trọng và sẽ được chấp nhận, miễn là chúng được lập theo đúng quy định của Tín dụng thư và Bản điều lệ 500. Tuy nhiên việc lập các chứng từ thông thường theo tuần tự sau: - chứng từ giao hàng: hóa đơn, đóng gói, chứng nhận phẩm chất, xuất xứ, kiểm dịch... - chứng từ vận tải: vận tải đơn đường biển/đường hàng không... - chứng từ khác: biên lai gởi chứng từ copy của người hưởng cho người mở TDT, điện báo giao hàng... - hối phiếu (nếu TDT yêu cầu) Tuy nhiên, trật tự trên có thể đảo lộn mà ngân hàng không được quyền từ chối. Hối phiếu có thể được lập cùng hoặc trước ngày Hóa đơn, chứng từ đóng gói có thể sau ngày hóa đơn, chứng từ xuất xứ có thể sau hoặc cùng ngày vận đơn miễn rằng nội dung diển đạt của chúng phù hợp với các chứng từ khác và đúng quy định của TDT, được xuất trình trong thời hạn cho phép. Tuy nhiên cũng có những điều phải được hiểu theo logic trên cơ sở hiểu biết thông thường (common sense). Thí dụ: không thể ngày phát hành chứng từ lại sau ngày xuất trình. Ngày phát hành vận đơn lại trước ngày hàng hóa được bốc lên tàu (On board date). "Các loại chứng từ về phẩm chất, chất lượng hàng hóa như inspection Certificate, Phytosanitary Certificate, Certificate of quality, quantity and weight... thì phải ghi ngày phát hành trước hoặc chậm nhất phải cùng ngày bốc hàng vì việc kiểm nghiệm hàng hoá phải được thực hiện trước thời điểm hàng hóa được bốc lên tàu. Trường hợp ngày phát hành sau ngày bốc hàng được ngân hàng chấp nhận với điều kiện chứng từ đó phải xác nhận việc kiểm nghiệm hàng hóa (date of inspection) thực hiện trước khi hàng được bốc lên tàu. Tài liệu ICC số XB 535 trang 124 đã khẳng định "Chứng từ kiểm nghiệm hàng hóa phải ghi ngày phát hành, hoặc phải thể hiện rõ trong nội dung của nó là hàng hóa được kiểm nghiệm, trước khi chúng được bốc lên tàu để chuyển giao" ( An inspection certificate must bear an lssuance date showing or otherwise clearly indicating that goods were inspected prior to the goods being loaded on board for shipment). Riêng chứng nhận hun trùng (fumigation ceítilicate) đối với hàng nông sản (gạo, sắn, bắp:..) thì có thể cùng /trước ngày vận đơn hoặc có thể sau vì hun trùng chỉ thực hiện khi hàng hóa đã lên tàu (on board) và vận đơn có thể được cấp cùng/ trước ngày hun trùng hoặc có thể hun trùng xong vận đơn mới được cấp. Đối với chứng từ này, không có một tiêu chuẩn nào về thời gian phát hành cũng như mối Quan hệ về ngày phát hành với các chứng từ khác. Một điều quan trọng làviệc xác định tính hợp lệ của thời gian phát hành của các chứng từ phải được đặt trong hoàn cảnh và điều kiện cụ thể về hàng hoá và loại chứng từ liê n quan. Đây là nguyên nhân để WG không thể đem ra một quy định chung cho thời hạn phát hành của tất cả các loại chứng từ (trừ chứng từ bẵo hiểm) mà phải dựa vâo thực tiễn phát sinh để quyết định.

54

Hãy tham khảo trường hợp tranh chấp giữa 2 bên (ngân hàng phát hành và ngân hàng chiết khấu) được nêu ra tại "Case 170", Tài liệu ICC số Xuất bản số 489 (1991) 'More case studies on Documentary Credits. Ngày 30/4/87 ngân hàng được chỉ định đã thanh toán toàn bộ số tiền cho người hưởng với bộ chứng từ xuất trình ghi ngày: - 23/2/87 đối với Hối phiếu - 10/2/87 đối với Hoá đơn - 28/4/87 đối với Biên lai nhận hàng - 27/2/87 đối với Chứng từ kiểm nghiệm hàng hóa - 23/2/87 đối với Chứng từ đóng gói Hàng hoá là thực phẩm có ghi ngày chế biến (date-marked food products). Theo người hưởng & SGS General Superintendance Co. (là người phát hành Chứng th kiểm nghiệm hàng hoá) thì ngày của chứng từ này là ngày chế biến thực phẩm trên. Ngân hàng phát hành từ chối chứng từ vì những bất hợp lệ: - Hoá đơn ghi ngày 10 (thay cho ngày 23/2) - Chứng từ kiểm nghiệm hàng hóa 27/2/87 nhưng giao hàng là 28/4/87 Tranh chấp trên được chuyển đến ICC nhằm tìm giải pháp. Kết luận của Hội đồng Ngân hàng thuộc ICC là: "Do không có nguyên tắc chặt chẽ, cụ thể về ngày phát hành của các chứng từ trong mối quan hệ của chúng nên chứng từ nêu trên phải được coi là hợp lệ. Chứng từ cũng được xuất trình trong thời hạn hiệu lực của TDT. Những điểm ngân hàng phát hành nêu ra không phải là những bất hợp lệ". . (" Since there is no hard-and-fast rule on the lssuance dates of documents in relation to each other ; the Documents must be regarded as compliant. They were also presented within the lifetime of the Credit" - UCP. Doc. Pub. No.489) ĐIỀU 23 : VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN A. Nếu TDT yêu cầu vận đơn "cảng đến cảng", ngân hàng sẽ, trừ khi quy định khác trong TDT, chấp nhận chứng từ dù được gọi như thế nào: i. thể hiện trên bề mặt tên Người chuyên chở và được ký hoặc được xác thực bởi: - Người chuyên chở hoặc đại lý đích danh thay mặt hay nhân danh người chuyên chở hoặc: - thuyền trưởng hoặc đại lý đích danh thay mặt hay nhân danh thuyền trưởng Bất kỳ chữ ký hoặc sự xác thực nào của Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng phải được nhận dạng là của Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng, tùy từng trường hợp. Một đại lý ký tên hoặc xác thực cho Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng phải ghi rõ tên và quyền hạn của bên đó, có nghĩa là Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng, mà đại lý đó làm đại diện và ii. thể hiện hàng hóa đã được bốc lên, hoặc xếp trên một tàu đích danh 55

Việc bốc hàng lên hoặc xếp hàng trên con tàu đích danh có thể được biểu thị bằng chữ in sẵn trên vận đơn là hàng hóa đã được bốc lên tàu đich danh hoặc xếp trên tàu đích danh, trong trường hợp này, ngày phát hành của vận đơn sẽ được coi là ngày bốc hàng lên tàu và là ngày giao hàng. Trong mọi trường hợp khác, việc bốc hàng và ngày bốc hàng lên tàu đích danh phải được chứng minh bằng cách ghi chú trên vận đơn, trong trường hợp này, ngày bốc hàng sẽ được coi là ngày giao hàng. Nếu vận đơn có ghi chữ "tàu dự định" hoặc một từ tương tự về con tàu, thì việc bốc hàng lên con tàu đích danh phải được chứng minh bằng cách ghi rõ trên vận đơn là hàng đã được bốc lên tàu, và ngoài việc ghi ngày mà hàng hóa đã được bốc lên tàu phải ghi thêm tên con tàu mà hàng hóa được bốc lên, ngay cả khi chúng đã được bốc lên đúng con tàu được ghi là "tàu dự định". Nếu Vận đơn ghi nơi nhận hàng hoặc nhận để gởi khác với cảng bốc, thì ngoài việc ghi chú hàng đã bốc lên tàu còn phải ghi thêm tên cảng bốc hàng được quy định trong TDT và tên con tàu mà hàng hóa được bốc lên, dù chúng đã được bốc lên con tàu ghi đích danh trên vận đơn. Điều khoản này cũng được áp dụng ngay cả khi việc bốc hàng lên tàu đã được in sẵn trên vận đơn, và iii ghi rõ cảng bốc hàng và cảng dỡ hàng như quy định trong TDT, bất kể vận đơn: a. ghi nơi nhận hàng để gởi khác với cảng bốc hoặc ghi nơi đến cuối cùng khác với cảng dỡ và/hoặc b. có từ "dự định" hoặc từ tương tự nói về cảng bốc và/hoặc cảng dỡ, miễn là vận đơn có ghi cảng bốc và/hoặc cảng dỡ nêu trong TDT. iv. bao gồm một bản vận đơn gốc duy nhất, hoặc nếu phát hành nhiều hơn một bản gốc thì trọn bộ bản chính được phát hành v. thể hiện toàn bộ các điều khoản và điều kiện chuyên chở, hoặc một số các điều khoản và điều kiện như thế bằng cách dẫn chiếu đến một nguồn hay một chứng từ không phải bản thân vận đơn (vận đơn rút gọn hoặc vận đơn trắng lưng), ngân hàng sẽ không kiểm tra nội dung các điều khoản và điều kiện đó và vi. không ghi chú là chứng từ này phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu và/hoặc không thể hiện là con tàu chở hàng chỉ chạy bằng buồm và vii tất cả các điểm khác đáp ứng mọi yêu cầu của TDT 56

B. Với mục đích của Điều khoản này, chuyển tải có nghĩa là dỡ hàng từ một con tàu và bốc lên một tàu khác trong quá trình chuyên chở trên biển từ cảng bốc hàng đến cảng dỡ hàng quy định trong TDT. C.Trừ khi TDT không cho phép chuyển tải, ngân hàng sẽ chấp nhận vận đơn ghi rõ hàng hóa sẽ được chuyển tài, miễn là toàn bộ viềc chuyên chở đường biển được sử dụng bởi một và cùng một vận đơn. D. Ngay cả khi TDT không cho phép chuyển tải, ngân hàng sẽ chấp nhận vận đơn: i. ghi rõ việc chuyển tải sẽ xảy ra trong chừng mực mà hàng hóa liên quan được gởi bằng (các) công-ten-nơ, moóc, sà lan Lash như đã chứng minh trong vận đơn, miễn là toàn bộ việc chuyên chở đường biển được sử dụng bởi một và cùng một vận đơn, và/hoặc ii. có các điều khoản in sẵn quy định rằng Người chuyên chở có quyền chuyển tải.

Thay đổi cơ bản và quan trọng nhất của Bản điều lệ 500 so với các Bản điều lệ trước là phần nói về chứng từ vận tải. Rất nhiều vấn đề nảy sinh trong giao dịch Tín dụng chứng từ liên quan đến chứng từ vận tải theo Bản điều lệ 400. Cụ thể, Tài liệu số xuất bản 457 (Case studies on Documentary Credits) nêu 35 trường hợp, Tài liệu số 489 nêu 19 trường hợp và Tàl liệu số 494 nêu 3 trường hợp. ICC đã cố giải thích, nêu ra giải pháp theo quan điểm của mình, phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, bất đồng vẫn là mối trở ngại lớn khiến các Phòng Thương mại quốc gia yêu cầu ICC có biện pháp nêu ra điều luật cụ thể cho chứng từ vận tải, theo từng phương thức chuyên chở nhằm giảm bớt tranh chấp giữa các bên liên quan. Có 8 loại chứng từ vận tải được nêu thành Quy tắc ở 8 điều khoản (từ Điều 23 đến 30) trong lúc đó chỉ có 3 loại được để cập trong Bản điều lệ 400. Đây là một nỗ lực lớn, là một cố gắng và tiến bộ của WG trong việc soạn thảo Điều luật nhằm đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn hoạt động thương mại và dịch vụ trên thế giới. Mỗi loại chứng từ vận tải có những chức năng và đặc thù riêng của nó. oôs gắng của WG LÀ phân loại chứng từ vận tải nhằm hạn chế việc hiểu sai và áp dụng không đúng những chứng từ này, như đã từng phát sinh trong thời kỳ Bản điều lệ 400 đang còn có giá trị. Nếu không làm được như vậy có nghĩa là vẫn thừa nhận sự mập mờ trong TDT về những phương thức vận tải được chấp nhận trên thế giới. Điều khoản 23 chỉ dành riêng cho loại vận đơn (VĐ) đường biển, được viết lại từ Điều 26 Bản Điều lệ 400 bao gồm 2 loại vận đơn được đề cập. 57

Vận đơn đường biển (Marine/Ocean Bill of lading) đúng như tiêu đề của nó, là chứng từ vận tải, thể hiện quá trình vận tải từ cảng đến cảng. Nghĩa là chỉ có phương tiện vận tải là tàu thủy. chứ không phải là tàu hoả, máy bay..., bắt đầu từ 1 cảng biển và kết thúc cũng tại 1 cảng biển. Hiểu điều này của vận đơn đường biển để ta phân biệt với chứng từ vận tải hỗn hợp (Combined/ Multimodal transport documents) và các loại khác sẽ đề cập ở các điều khoản sau. Vận đơn đường biển có 3 chức năng: - Vận đơn là bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên chở đã được ký kết, thực hiện và chỉ rõ nội dung của Hợp đồng đó. Đồng thời nó xác định quan hệ pháp lý giữa Người chuyên chở với chủ hàng, đặc biệt là giữa Người chuyên chở và Người nhận hàng. - Vận đơn là biên lai của Người chuyên chở xác nhận đã nhận hàng để chở (nếu vận đơn "đã bốc" nó còn xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoá). Người chuyên chở chỉ giao hàng cho ai xuất trình trước tiên vận đơn hợp lệ (có chữ ký chuyển nhượng, xác thực của ngân hàng...) mà họ ký phát tại cảng bốc hàng. - Vận đơn là chứng từ xác thực quyển sẽ hữu đối với hàng hóa miêu tả trong vận đơn. Do vậy, nó là chứng từ có giá trị lưu thông (negotiable), được dùng mua bán, cầm cố, chuyển nhượng. Do các Luật và văn bản dưới Luật về kinh tế của Việt nam còn thiếu và chưa đồng bộ nên không có văn bản nói về nguyên tắc chuyển nhượng, lưu thông các chứng từ có giá (hối phiếu, vận đơn...) và trách nhiệm pháp lý của các bên liên quan nên đã hạn chế chức năng của vận đơn đường biển. Chưa có công ty nào dám mua hàng nhập khẩu của phía đối tác theo vận đơn gốc được chuyển giao từ ngân hàng trong khi hàng chưa đến cảng, bằng phương thức ký hậu chuyển nhượng. Vận đơn lúc này chỉ là bằng chứng về sở hữu hàng hóa của nhà nhập khẩu mà thôi. Các ngân hàng thương mại tận dụng chức năng thứ 3 của vận đơn đường biển nhằm bảo vệ cho chính họ. Ngân hàng khống chế vận đơn, tức là kiểm soát hàng hóa cũng có nghĩa là nắm tiền. Trong bất luận trường hợp nào, vận đơn chỉ được giao cho người mở TDT sau khi đã thanh toán bộ chứng từ xuất trình đòi tiền. Nhưng nó là 1 loại chứng từ phức tạp nhất, dễ bị bất hợp lệ nhất và dễ phát sinh tranh chấp nhất. A. Những quy định của vận đơn đường biển: 1. Vận đơn ghi tên Người Chuyên chở – Hãng Vận tải Nếu TDT yêu cầu xuất trình vận đơn đường biển ("Marine" hoặc "Ocean B/L") thì ngân hàng sẽ chấp nhận vận đơn với những tiêu đề (Letter head) khác nhau. "However named": "với tên gọi như thế nào", tức là với tiêu đề như thế nào được ghi trên vận đơn, miễn là nội dung được miêu tả của nó thoả mãn với các yêu cầu của điều khoản này và quy định của TDT.

58

Tiêu đề thực ra không quan trọng vì nó chưa mô tả được thực chất của cuộc hành trình hàng hóa. Mỗi hãng tàu có tiêu đề riêng cho mẫu vận đơn của mình. Có mẫu vận đơn chỉ ghi "Bill of lading" không thôi, nhưng áp dụng cho cả phương thức vận tải đường biển lẫn vận tải liên hợp, vì nó có cả phần ghi vận tải trên biển (port of loading), vận tải đường bộ (onward iniand routing). Có vận đơn với tiêu đề "Direct or with transshipment combined transport Bill of lading" hoặc "Bill of lading for Multimodal transport or port-to-port" hoặc 'Bill of lading for Multimodal transport or port-to-port".. Điều này có nghĩa là các mẫu vận đơn này được dùng hoặc như là vận đơn đường biển, hoặc như là vận đơn hỗn hợp tùy theo yêu cầu và thực tế chuyên chở. Trong thực tế ta hay gặp mẫu vận đơn có tiêu đề "Bill of Lading for Combined Transport or Portto-Port Shipment"? Hãy lấy 5 mẫu vận đơn sau để minh họa cho sự phân tích sau đây. 1 . Liner Bill of lading (for Combined Transport or Port-to-Port Shipment" (Mẫu số 1) 2. Bill of lading (Mẫu số 2) 3. Bill of Lading for combined transport shipment or port - to - port shipment (Mẫu số 3) 4. Ocean Bill of Lading (Mẫu số 4) 5. Through Bill of Lading (Mẫu số 5) 6. Charter party Bill of lading (Mẫu số 6) Các vận đơn này phải được ghi rõ tên của người chuyên chở, tức là công ty vận tải, người phát hành vận đơn. Đây là yêu cầu rất cơ bản mà Bản điều lệ cũ không đề cập tới. Tất cả 5 mẫu vận đơn trên đều được in tên công ty vận tải: MẪU 1 : SCHIFFAHRT HANDEL + LOGISTlK GmbH MẪU 2 : WORLD CLASS FRELGHT, INC. MẪU 3 : NZ - ORlENT LINE C.V. MẪU 4 : SPECARGO SEABRLDGE LINE MẪU 5 : VISA FRELGHT SERVICES PTE LTD (Riêng Mẫu số 6, vận đơn không thể hiện tên người chuyên chở: Carrier) 2. Việc thể hiện chức năng của phía ký phát vận đơn 59

Điều 26 của Bản điều lệ 400 chỉ cho phép 2 đối tượng được ký: người chuyên chở (công ty vận tải) hoặc đại lý của nó. Do vậy đã nảy sinh tranh chấp khi vận đơn do thuyền trưởng (master) ký (mẫu đơn số 6). Việc nhìn nhận vấn đề này của từng ngân hàng khác nhau. Loại vận đơn in sẵn chữ"For master" nếu thuyền trưởng ký mà không ghi"As agent" (theo đúng Bản điều lệ 400) thì bị ngân hàng từ chối. Thậm chí có những ngân hàng từ chối những vận đơn được ghi đầy đủ như vậy. Nhưng ICC giải thích là không cần phải ghi thêm"As agent" vận đơn trên vẫn được chấp nhận, Nếu không phải là vận đơn giao nhận-Forwarder's Bill of lading (Tài liệu ICC số xuất bản 489 – trang 74, 75, 76, số xuất bản 494 – trang 28). Điều này thể hiện những khiếm khuyết của các Bản điều lệ cũ và sự không đồng nhất của Quy tắc ngân hàng và tập quán vận tải quốc tế. Theo Luật Vận tải Quốc tế, vận đơn cơ bản được thuyền trưởng ký. Nhưng, trong thực tế giao dịch, thuyền trưởng không thường xuyên ký mà đại lý của người vận tải (carrier) hợp với chiều hướng phát triển của vận tải đường biển. Tuy nhiên khi ký vận đơn, thuyền trưởng luôn hành động nhân danh và vì lợi ích của công ty vận tải / người ký hợp đồng chuyên chở. Vậy Bản điều lệ 500 quy định 2 đối tượng chính được ký vận đơn đường biển(Ocean/Marine Bill of lading), đó là : - Người chuyên chở. - Thuyền trưởng của con tàu chở hàng. Đối tượng thứ 3 sẽ là: - Đại lý của người chuyên chở hoặc của thuyền trưởng. Trong thực tế, đại đa số vận đơn được ký bởi các đại lý của hãng tàu / công ty vận tải vì nó phù hợp và thuận tiện trong thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính khác, kể cả thủ tục của ngân hàng các nước sở tại. Bất cứ ai ký vận đơn ngoài việc ghi tên công ty đầy đủ hoặc tên của thuyền trưởng, đều phải ghi rõ: - Là người chuyên chở. Hoặc : - Là thuyền trưởng Nếu vận đơn được ký bởi đại lý của hãng tàu hoặc của thuyền trưởng, thì phải ghi rõ : - Tên của hãng tàu, hoặc của thuyền trưởng (mà nó làm đại lý), và - Quyền hạn của hãng tàu, hoặc của thuyền trưởng (mà nó là đại lý). 60

Thí dụ : 1. Vận đơn do người chuyên chở (hãng vận tải) ký: 2. Vận đơn do thuyền trưởng ký: 3. Vận đơn do Đại lý của hãng vận tải ký: 4. Vận đơn do Đại lý của thuyền trưởng ký: Trong khi đó, theo Bản điều lệ 400, vận đơn được chấp nhận khi chỉ cần ký và ghi: Qua phân tích và thí dụ trên ta thấy được sự chặt chẽ và đầy đủ về pháp lý của quy định khi lập vận đơn của Bản điều lệ 500. Điều lưu ý là nếu vận đơn đã in sẵn chữ "CARRIER" để thể hiện chức năng của hãng / công ty vận tải là "Người chuyên chở" thì khi ký cấp vận đơn, đại lý tàu biển không cần ghi lại tên của hãng vận tải đó nữa. Thí dụ mẫu vận đơn đã in: Carrier : Mitsui O.S.K.Line thì Vietfracht khi ký cấp vận đơn chỉ cần ghi"As agent for the Carrier" (mà không cần ghi thêm tên công ty vận tải), hoặc "As agent for Misui O.S.K.Line" (mà không cần ghi thêm "the Carrier"). Tuy nhiên phần lớn các loại vận đơn đều không in sẵn chữ"Carrier" do vậy lúc ký vận đơn, nhà xuất khẩu cần kiểm tra và yêu cầu đại lý tàu biển phải lập đúng theo quy định của Điều khoản này. 3. "Hàng đã bốc" được thể hiện trên bề mặt vận đơn như thế nào? Nói chung TDT đều yêu cầu xuất trình vận đơn đường biển "đã bốc". Đây là một thông lệ đối với vận tải và thương mại quốc tế. Khi hàng đã được bốc lên tàu hoặc đã ở trên boong tàu, người chuyên chở mới chịu trách nhiệm pháp lý đối với hàng hóa đó. Đồng thời người bán cũng chứng minh được nghĩa vụ của mình đối với hợp đồng thương mại đã ký với người mua. Thuật ngữ "đã bốc" tùy theo từng mẫu vận đơn, tùy theo trường hợp giao nhận và chuyên chở, được thể hiện trên bề mặt vận đơn theo 3 trường hợp sau: -Vận đơn đã in sẵn"shipped on board" thì đương nhiên chỉ được người chuyên chở/ thuyền trưởng/ đại lý cấp khi hàng đã được bốc lên tàu. Như vậy không cần ghi gì thêm trên vận đơn để chứng minh là hàng đã được bốc. Loại vận đơn này, ngày phát hành của chính là ngày hàng bốc lên tàu, có nghĩa là ngày giao hàng. Vận đơn mà "sipped on board" được in sẵn thường được thể hiện bằng diễn đạt: -"Shipped on board the above named ship in apprent..." hoặc 61

-"Shipped at the port of ladding in apparent good order..." Hiện nay mẫu đơn này càng ít được dùng vì tính kém linh hoạt và ít đa dạng của nó trong giao nhận, vận tải quốc tế. Các mẫu vận đơn còn lại gọi là vận đơn "nhận để bốc", được biểu hiện bằng các thuật ngữ sau: -"Taken in charge in appearance good order and condition...,at the place of receipt..." "Receipt by the carrier the goods..." Bản thân vận đơn với các biểu hiện những từ ngữ như vậy hoàn toàn không thoả mãn được yêu cầu của TDT là phải xuất trình vận đơn đã bốc. Người bán chưa thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ của mình theo hợp đồng đã ký. Hãng vận tải/ đại lý chỉ mới "nhận để bốc" chứ chưa bốc hàng lên boong tàu. Muốn trở thành vận đơn đã bốc phải được người ký cấp vận đơn ghi thêm vào trên vận đơn, đồng thời ghi ngày tháng. Như vậy, ngày của "hàng lên tàu" chính là ngày giao hàng. Tất cả các mẫu vận đơn đều có các ô ghi các phần về: - Những phương tiện vận tải tham gia chuyên chở hàng hóa. - Nơi nhận và cảng bốc lên tàu của hàng hóa. - Cảng dỡ hàng và nơi đến cuối cùng. Phương thức chuyên chở, vận tải trên thế giới ngày càng phát triển và đa dạng. Hàng được nhận một nơi là cảng nằm sâu trong nội địa được chuyên chở bằng con tàu nhỏ tới cảng biển để bốc lên tàu vượt đại dương. Quá trình này có thể gồm 2 tàu liên quan đều thể hiện hiện trên vận đơn: Thí dụ: Trong trường hợp này, thuật ngữ "on board" sẽ được ghi trên vận đơn, gồm cả ngày tháng và tên tàu mặc dù thực sự hàng đã được bốc lên tàu "Med Marseille" Nguyên tắc ghi "on board" này được áp dụng cho tất cả các mẫu vận đơn, kể cả loại đã in sẵn "on board" Hãy phân tích ở góc độ đa dạng hơn của phương thức vận tải biển để hiểu rõ trường hợp thứ 3: Giả sử Điều khoản giao hàng của TDT : "Shipment from Ben Nghe port (Hochiminh City) to P.S.A Container port, East Lagoon (Singapore)". Hàng được tập kết và được hãng tàu nhận tại Tân cảng chở tới Bến Nghé bằng tàu Sông Đà, để bốc lên tàu biển Bremen Express đi Singapore. Như vậy, quá trình này liên quan 2 cảng đi (Tân cảng và Bến Nghé), cảng đến (Singapore) và 2 tàu chuyên chở : Sông Đà và Bremen Express, được thể hiện trên vận đơn: 62

Vậy "on board" phải được ghi rõ trên vận đơn ngư sau: " shipped on board M/V BREMEN EXPRESS at BEN NGHE Port on 20 may 1997 " Mặc dù hàng được nhận tại Tân cảng (taken in charge at New port) nhưng vẫn giao đúng cảng Bến Nghé (port of loading) theo quy định của TDT. Cảng Bến Nghé mới là nơi giao hàng (port of shipment/shipment from BEN NGHE) vì tại nơi này hàng thực sự mới được "on board" tàu BREMEN EXPRESS (tàu đi biển). Tân cảng chỉ là nơi hàng được nhận, chứ chưa biết được hàng đó sẽ được bốc lên tàu nào (có thể là một tàu theo dự kiến: intended vessel), ngày nào, ở đâu. Tàu Sông Đà không phảỉ là tàu đi biển và chuyên chở chính. Tàu dự kiến BREMEN EXPRESS (intended vessel) là con tàu thực sự bốc hàng, là tàu biển (ocean vessel), tức là phương tiện chuyên chở có hành trình cảng đến cảng (port to port carrier) phải được minh chứng bằng cách ghi rõ như vậy trên vận đơn. Nguyên tắc này áp dụng cho tất cả các mẫu vận đơn, kể cả các mẫu vận đơn, kể vả vận đơn đã in sẵn "on board". điều này cũng dễ hiểu, vì chỉ ghi "on board" chung chung, không ai có thể xác định được hàng bốc lên tàu nào, cảng nào và có đúng ngày của vận đơn không. 4. Xác thực "shipped on Board"/"On board" không cần phải ký/ký tắt và đóng dấu. Một điều cần lưu ý là Bản điều lệ 500 không yêu cầu "on board" khi được ghi thêm phải ký thường hoặc ký tắt (trừ khi TDT bắt buộc). Cho đến nay, các công ty xuất khẩu đều yêu cầu đại lý/ hãng tàu/ thuyền trưởng ký vào phần này trên vận đơn, điều này không cần thiết. Để đi đến quyết định loại bỏ việc ký xác thực vào "on board" trên vận đơn, WQ đã nhận được 2 loại ý kiến trái ngược nhau của các Phòng Thương mại quốc gia. Các vấn đề được đem ra phân tích và xem xét theo 2 hướng sau: - "On board" có thể được ký bởi một người có thẩm quyền nhưng không phải là người ký cấp vận đơn. hoặc có thể là một người nhưng chỉ ký tắt hoặc 2 chữ ký của 1 người lại không giống nhau… Tất cả những phát sinh như vậy gây ra khó khăn cho ngân hàng khi xác minh chữ ký của vận đơn xuất trình. Nếu người ký tắt ở phần "on board" không có trong hồ sơ kiểm soát của ngân hàng (thí dụ người này chỉ là cán bộ cấp dưới (junior officer) nhưng lại được uỷ quyền), hoặc chữ ký ở 2 nơi trên vận đơn không giống nhau thì liệu ngân hàng từ chối không? Và từ chối trên cơ sở nào?… Trách nhiệm của ngân hàng càng thêm nặng và ở một lúc nào đó, có thể gây phiền hà cho người hưởng trong vấn đề thanh toán. Quan điểm của WQ thì gánh nặng này không thể do ngân hàng chịu.

63

- Tầm quan trọng của sự miêu tả "on board" có thể tương đương với "freight prepaid" / "freight to collect" /" freight to be paid at destination"… Thế nhưng thuật ngữ sau lại không cần xác thực bằng chữ ký? WQ quyết định bãi bỏ yêu cầu ký hoặc ký tắt xác thực ghi chú "on board" ở vận đơn. 5. Cảng bốc, Cảng dỡ - Nơi nhận hàng, nơi đến cuối cùng Phần iii của Điều khoản này sẽ được giải thích bằng tình huống giao hàng ở thí dụ trên. Vận đơn xuất trình bao gồm các chi tiết : - Cảng nhận hàng : Tân cảng, khác với cảng bốc : Bến Nghé. - Nơi đến cuối cùng, khác với cảng dỡ: Singapore - Tàu dự kiến (bốc hàng): BREMEN EXPRESS đều được chấp nhận là hợp lệ. Hiện nay vẫn còn một số mẫu vận đơn có ghi các phần: "Cảng bốc theo dự kiến" và "Cảng dỡ theo dự kiến", tuy rất ít gặp. Các ô này khi được sử dụng để ghi tên cảng thì ngân hàng vẫn chấp nhận với điều kiện vận đơn cũng phải ghi rõ cảng thực sự bốc và dỡ hàng. Vận đơn phải được ghi thêm : Quy định này nhằm tránh những trường hợp đã xảy ra là một số hãng vận tải đã không bốc và dỡ hàng ở các cảng theo như hợp đồng đã ký kết, bằng cách nêu ra "Các Cảng dự định" mà không phải là cảng thực sự bốc, dỡ hàng. Do vậy, vận đơn với cảng "dự kiến" sẽ không đáp ứng được điều kiện vận tải Cảng - Cảng nếu không ghi rõ cảng bốc và cảng dỡ hàng thực sự. 6. Bộ vận đơn đầy đủ được xuất trình Như đã phân tích trên, vận đơn là chứng từ quan trọng nhất trong các chứng từ giao hàng nên phải được kiểm soát bởi ngân hàng để không chế hàng hoá, đổi lấy việc thanh toán và nhận hàng. Điều IV yêu cầu phải xuất trình bản độc nhất của vận đơn hoặc toàn bộ vận đơn được cấp. Thông thường vận đơn được lập 3 bản (bản 1, bản 2, và bản 3). Ba bản có giá trị ngang nhau. Một trong chúng được sử dụng để nhận hàng thì các bản còn lại hết giá trị. Tuy nhiên cũng có hãng tàu cấp 2 bản, thậm chí chỉ 1 bản duy nhất cho một lô hàng. Cách diễn giải chặt chẽ của Điểm này nhằm bổ sung những phần mà Bản điều lệ 400 không đề cập. Nhân đây xin đề cập đến điều khoản về xuất trình vận đơn theo TDT: 64

Tín dụng thư không nên quy định cụ thể các bản chính vận đơn (thí dụ 3/3 bản) mà chỉ cần nói một bộ đầy đủ là được. Như thế sẽ không gây trở ngại cho người hưởng nếu họ được cấp một bản duy nhất hoặc 2/2 bản gốc vận đơn. Tuy nhiên Nếu người mở yêu cầu cụ thế số bản gốc vì mục đích nào đó, thì cần ghi rõ trong TDT, chẳng hạn: Toàn bộ vận đơn gốc 3/3. Một bản vận đơn được gửi theo hàng hoá đến cảng dỡ để người mở TDT nhận hàng, các bản còn lại được xuất trình tại ngân hàng. Điều này sẽ có lợi, có hại cho ai? Trong thực tiễn buôn bán quốc tế, không ít trường hợp hàng đến cảng trước khi người mua nhận được chứng từ vận tải. Đó là những giao dịch giữa khách hàng của 2 nước gần nhau: các nước trong ASEAN, hoặc Việt Nam với Thái Lan, Singapore...Tàu thủy chỉ đi trong vòng 2- 3 ngày, trong lúc đó chứng từ phải soạn thảo, qua thủ tục 2 ngân hàng, gởi qua bưu điệnẳ sẽ không dưới 1 tuần từ người hưởng đến người mở TDT. Để thuận tiện cho việc nhận hàng mà không cần bảo lãnh của ngân hàng, người mở TDT yêu cầu 1 bản vận đơn gốc được gửi theo hàng hóa hoặc được Người Bán gửi trực tiếp cho Người Mua. Chứng từ gốc sẽ được sử dụng để nhận hàng thay cho chứng từ qua ngân hàng. Nếu chứng từ được ngân hàng xác định là bất hợp lệ trong khi người mở TDT đã nhận hàng bằng chính bản vận đơn gốc gởi theo tàu vận tải, lại từ chối không thanh toán? Trong trường hợp này, trách nhiệm thanh toán thuộc về người mở TDT, hay ngân hàng phát hành? Về góc độ pháp lý, ngân hàng miễn trách nhiệm vì ngân hàng chỉ liên quan và giao dịch bằng chứng từ không liên quan đến hàng hóa, các dịch vụ khác (Điều 4). Chứng từ, theo nghĩa của Bản điều lệ, là chứng từ xuất trình tại ngân hàng, chứ không phải chứng từ gửi theo hàng hóa, ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm nếu không nắm giữ, hoặc trả lại cho người hưởng những chứng từ mà nó nhận được từ phía xuất trình (Điều 14). TDT được phát hành dựa trên sự thỏa thuận giữa 2 bên mua và bán. Ngân hàng thực hiện chỉ thị của người mở TDT và đương nhiên sẽ không chịu trách nhiệm Nếu người mở có hành động thiếu thiện chí, không chân thực, thậm chí lừa đảo. Rủi ro thuộc về người hưởng vì họ không nắm chắc nghiệp vụ và chọn nhầm đối tác. Tài liệu ICC số xuất bản 459 (1989), nói vấn đề này như sau : "Trường hợp TDT quy định 1 bản vận đơn gốc gửi trực tiếp cho người mở, hoặc chuyển giao cho thuyền trưởng để người mở có điều kiện nhận hàng trước khi TDT được thanh toán, Tiểu ban Ngân hàng khẳng định rằng chính người hưởng - người đã chấp nhận TDT đó sẽ phải chấp nhận rủi ro phát sinh" Tất nhiên trong quan hệ làm ăn, phải tính đến yếu tố tin tưởng lẫn nhau. Có thể rủi ro xảy ra ngoài ý muốn của 2 phía. Năm 1989, một đơn vị xuất nhập khẩu Việt Nam xuất sắt phế liệu cho công ty Hồng Kông. TDT cũng yêu cầu 1 bản vận đơn gốc gửi theo tàu. Bộ chứng từ bất hợp lệ, ngân hàng phát hành từ chối, trả lại cho phía Việt Nam. Một kết cục không tốt đẹp đối với đơn vị xuất nhập khẩu là người mua bị phá sản, tài sản được thanh lý theo luật trong đó có lô sắt phế 65

liệu xuất khẩu của Việt Nam vì hàng hóa được chứng minh là của người mua bằng vận đơn gửi theo tàu (vận đơn lập theo lệnh). Khi nhận được TDT có điều khoản một bản vận đơn gốc gửi theo hàng như trên, nhà xuất khẩu cần lưu ý: - Phải xem xét các yếu tố: uy tín và khả năng của người mở TDT, mối quan hệ làm ăn, khả năng xấu nhất có thể xảy ra (người mua vỡ nợ, phá sản... ) trị giá, phẩm chất hàng hóa (hàng dễ biến chất theo thời gian hay hàng lâu bền... ), mức độ biến động giá cả hàng hóa, tình hình giao nhận, chuyên chở.. để quyết định chấp nhận hay yêu cầu sửa đổi TDT nhằm khống chế, kiểm soát hàng hóa. - Nếu chấp nhận yêu cầu của người mở thì nhất thiết vận đơn phải được lập theo lệnh của ngân hàng phát hành. Trường hợp này, người mở TDT nhận được bản vận đơn gởi theo tàu nhưng không thể nhận được hàng nếu không được ngân hàng phát hành đồng ý (bằng cách ký vào vận đơn và ghi " To order of...Co. Ltd"). Ngân hàng sẽ phải thanh toán bất chấp tình trạng của chứng từ xuất trình khi họ chấp thuận cho người mở TDT nhận hàng. Vận đơn lập theo lệnh ngân hàng hoàn toàn bảo đảm an toàn cho chủ hàng (người hưởng) mà không gây khó khăn cho người nhận hàng (người mở). Do vậy, không có lý do gì để người mở từ chối điều khoản vận đơn lập theo lệnh ngân hàng. Vận đơn, với tính lưu thông nên nó có giá trị chuyển nhượng. Do vậy, đại đa số TDT yêu cầu xuất trình vận đơn theo lệnh, ít khi ghi tên đích danh người nhận hàng. Nếu ghi đích danh thì vận đơn không chuyển nhượng được và chỉ có người được ghi tên được quyền nhận hàng. Muốn trở thành biên lai nhận hàng, tất cả vận đơn đều phải được ký hậu (ngoài chữ ký của người phát hành) bởi chủ hàng - tức là người xuất khẩu, hoặc bởi ngân hàng được chỉ đích danh/ ngân hàng chiết khấu... tùy theo từng trường hợp. Việc ký hậu là một tập quán quốc tế nhằm đảm bảo tính lưu thông của các chứng từ (hối phiếu, vận đơn... ), đồng thời xác định trách nhiệm pháp lý của người ký, minh chứng sự chuyển nhượng của mình cho người kế tiếp. Thí dụ : TDT yêu cầu vận đơn lập theo lệnh ngân hàng VIETCOMBANK - Nếu Vietcombank là ngân hàng phát hành, thì sẽ ký hậu vận đơn, ghi (hoặc không ghi) "To order of..." . Công ty A sẽ nhận hàng bằng vận đơn đó nhưng cũng có thể bán hàng bằng cách ký hậu chuyển nhượng vận đơn mặc dù hàng chưa đến cảng, cho công ty B. Cứ thế vận đơn có thể được bán cho nhiều người khác. Đến người cuối cùng muốn nhận hàng thì họ phải ghi hoặc ký tên. - Nếu Vietcombank là ngân hàng chiết khấu, Vietcombank sẽ ký hậu ghi hoặc không ghi (tùy theo yêu cầu của TDT): "To order of Misubishi Bank". Nếu Vietcombank ký và ghi đích danh 66

Misubishi Bank thì ngân hàng này sẽ ký hậu tiếp, ghi (hoặc không ghi): "To order of...Co.Ltd" (Người mở TDT/ người nhận hàng). Có công ty xuất nhập khẩu do không nắm vững nguyên tắc này, đã ký vào vận đơn theo lệnh Ngân hàng trước khi xuất trình. Tuy không đúng với thông lệ quốc tế song việc ký hậu vày không ảnh hưởng đến việc thanh toán vì 2 lý do : - TDT không cấm chủ hàng ký hậu vào vận đơn theo lệnh ngân hàng. - Việc ký hậu này không có giá trị đối với việc chuyển nhượng và cũng không điều chỉnh tính pháp lý của vận đơn. Do vậy, ngân hàng không có quyền từ chối vận đơn được lập theo lệnh ngân hàng mà chủ hàng ký hậu. Khi đã ký hậu như trên, ngân hàng phát hành đã đồng ý chuyển nhượng quyền sở hữu vận đơn (cũng chính là quyền sở hữu hàng hóa) cho người mở thì có nghĩa là họ "bán" hàng hóa đó cho người mở TDT và do vậy ngân hàng phát hành không được quyền từ chối chứng từ dù có những bất hợp lệ. Vận đơn theo lệnh trống "To order", hoặc bất cứ theo lệnh của ai mà không phải là ngân hàng, thì ngân hàng không cần ký thêm, người mua cũng có thể chiếm hữu hàng hóa bằng việc ký hậu của chính mình hoặc của những bên có liên quan. 7. Một bản vận đơn ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng Nếu ngân hàng phát hành khi được khách hàng yêu cầu mở TDT với một vận đơn gốc gửi theo tàu thì nên quyết định như thế nào? - Với vai trò là dịch vụ, phát hành TDT với số tiền ký quỹ đầy đủ, ngân hàng sẽ đồng ý những điều kiện mà người mở đưa ra, kể cả một vận đơn gốc gửi theo tàu hàng để nhận hàng, được lập theo lệnh trống hoặc theo lệnh của người mở (chứ không phải theo lệnh của ngân hàng). Nếu đã nhận hàng người mở vẫn cứ từ chối thanh toán chứng từ (vì bất hợp lệ) do hàng thiếu, kém phẩm chất, không đúng mẫu mãẳ hoặc bất cứ lý do nào khác) thì người hưởng chịu tổn thất, ngân hàng không cần biết việc tranh chấp, kiện tụng sau đó giữa bên mua và bên bán. - Đối với TDT trả chậm hoặc trả ngay nhưng mới ký quỹ một phần (20,30,50%) của giá trị thì nên quy định vận đơn theo lệnh ngân hàng phát hành, toàn bộ vận đơn gốc phải xuất trình cho ngân hàng. Hãy phân tích một tình huống có thế xảy ra trong thực tế: Sau khi TDT được mở, ngân hàng phát hành dấu hiệu thua lỗ, mất khả năng thanh toán, nguy có phá sản... của người mở. Để đảm bảo an toàn, nhận được chứng từ ngân hàng sẽ kiểm tra kỹ và từ chối ngay khi có bất kỳ bất hợp lệ nào. Như vậy, ngân hàng miễn trách nhiệm dù cho toàn bộ hoặc 2/3 vận đơn gốc được người hưởng xuất trình thanh toán. 67

Nhưng chứng từ hoàn toàn không phù hợp mà người mở lại nhận hàng bằng một bản vận đơn gốc gửi theo tàu không thông qua ngân hàng? Khả năng chi trả phần còn lại chưa ký quỹ của TDT là không hiện thực? Hoặc hàng hóa được chứng minh là của người mở theo vận đơn bị tòa án tịch thu áp dụng theo luật phá sản? Nhưng Nếu ngân hàng kiểm soát toàn bộ chứng từ thì họ có quyền sở hữu hàng hóa đó vì họ đã/ sẽ phải thanh toán tiền hàng theo TDT cho phía bán hàng. Rõ ràng sự an toàn của ngân hàng ở trường hợp này phụ thuộc vào sự vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, tính thận trọng và cả yếu tố kinh nghiệm. 8. Các Điều khoản và Điều kiện của vận đơn Điều 26(b-ii) Bản điều lệ 400 chỉ nói một cách không dứt khoát là ngân hàng có thể không từ chối vận đơn dẫn đến hợp đồng thuê tàu bằng một nguồn hay một chứng từ không phải bản thân chứng từ vận tải. Nhưng Điều khoản này lại không nói rõ việc chấp nhận vận đơn với đầy đủ điều khoản và điều kiện của các bên liên quan trong vận tải. Bản Điều lệ 500 đã khẳng định: vận đơn phải bao gồm tất cả các điều khoản, các điều kiện vận tải, quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên quan. Ngân hàng cũng chấp nhận loại vận đơn rút gọn hoặc vận đơn trắng lưng. Mẫu vận đơn này là loại chỉ ghi tóm tắt điều khoản chính, những nội dung chủ yếu của chuyên chở và giao nhận, còn những nội dung khác liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người chuyên chở và người gửi hàng được dẫn chiếu ở một nguồn hay một chứng từ khác. (Công ước quốc tế về chuyên chở: International Brussels Convention 1924, 1968). Loại mẫu vận đơn rút gọn/ trống lưng này cũng được áp dụng vận đơn theo hợp đồng thuê tàu. Vận đơn này có in chữ "to be used with charter parties". Nhưng vận đơn theo hợp đồng thuê tàu không được chấp nhận (trừ khi nói rõ trong TDT) trong khi vận đơn rút gọn/ trống lưng không bị từ chối ? Rõ ràng Điều khoản này còn có sự khập khiễng cần được khắc phục. Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu dẫn chiếu những điều kiện của hợp đồng thuê tàu. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền của ngân hàng phát hành vì bản chất của TDT là độc lập với các loại hợp đồng (Điều 3). Đó là lý do mà ICC không chấp nhận vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, trừ khi có quy định rõ trong TDT. Trong thời đại phát triển khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong ngành vận tải biển, việc chuyên chở bằng thuyền buồm vượt biển không an toàn và mâu thuẫn với các phương tiện kỹ thuật tiên tiến mà bản điều lệ này đề cập. Trong nhiều luật biển và tập quán thương mại đều ngăn cản vận tải trên biển bằng thuyền buồm. Do vậy WG vẫn duy trì nguyên tắc này, hợp với thông lệ và tập quán quốc tế hiện nay. 9. Phù hợp với các quy định của Tín dụng thư Muốn đạt được sự hoàn hảo, vận đơn phải lập theo đúng quy định của Điều khoản này đồng thời phải thỏa mãn mọi yêu cầu của TDT. 68

Các điều kiện của Bản điều lệ này, thường có diễn đạt : "trừ khi TDT quy định khác" có nghĩa là người mở và người hưởng có thể đồng ý với nhau những quy định riêng, hoặc có thể loại bỏ một vài đặc điểm trong điều khoản, hoặc một và điều kiện của Bản điều lệ, nhằm phù hợp với thực tiễn và tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai phía. Do vậy, Điều 23 quy định chi tiết về vận đơn đường biển nhưng khi TDT có những yêu cầu riêng (thí dụ : vận đơn chỉ do đại lý của người chuyên chở cấp) thì vận đơn phải được lập đúng, có nghĩa vừa tuân thủ điều khoản 23 vừa thực hiện đúng quy định của TDT. TDT quy định : "đã bốc lên tàu" phải được ký bởi người cấp vận đơn thì vận đơn phải lập đúng như vậy, bất kể Điều 23 cho phép không cần ký xác thực. Tóm lại, nhà xuất khẩu cần căn cứ vào quy định của TDT và Nếu không có quy định nào đặc biệt thì căn cứ vào Bản điều lệ 500 để yêu cầu hàng tàu lập vận đơn, nhằm đạt được sự hoàn hảo tuyệt đối của nó theo TDT. B. Chuyển tải Định nghĩa về chuyển tải được nói rõ trong phần B của điều khoản này. Tùy theo phương thức vận tải, hành động chuyển tải và hệ quả tiếp theo của nó ở các phương thức đều khác nhau. Quy tắc về chuyển tải này chỉ áp dụng cho phương thức chuyển tải cảng đến cảng, dựa vào ý kiến của hãng vận tải các Hiệp hội chuyên chở đường biển. Vận đơn cho suốt chuyến hành trình từ cảng bốc hàng đến cảng dỡ hàng được cấp tại cảng SaiGon. Đến Singapore (nơi chuyển tải) các đại lý của người chuyên chở (hãng tàu) sẽ làm thủ tục giao, nhận cho nhau bằng chứng từ và danh mục hàng hóa. Nếu hàng hóa trên liên quan đến 2 hãng tàu biển thì có thể người ta phát hành vận đơn địa hạt cho từng chặng đường, thay cho Manifest. Cả hai loại chứng từ này chỉ có giá trị như là biên lai giao nhận hàng hóa giữa các đại lý hoặc giữa người chuyên chở, không phải là chứng từ sở hữu hàng hóa như vận đơn đã được giao cho chủ hàng (shipper) . Chủ hàng cũng không cần biết đến các chứng từ này vì chúng thuộc nội bộ của giao dịch của nghiệp vụ vận tải biển. Thực tế của ngành Công nghiệp vận tải thường gặp là hàng hóa có thể được chuyên chở từ cảng A trực tiếp đến cảng B, nhưng đôi khi hàng được dỡ từ tàu lớn sang tàu bé hơn, có khả năng dễ dàng cập cảng chính, hay cảng khu vực sâu trong đất liền, thường xảy ra đối với tàu Container, tàu Lash quá đồ sộm cập cảng khó khăn. Trường hợp này, theo quan điểm của các nhà chuyên chở, không thể coi là chuyển tải. Ngân hàng phải tôn trọng thực tiễn này và chấp nhận khi vận đơn có ghi thêm sự bảo lưu của người vận tải quyền chuyển tải Nếu cần. Một điều lưu ý là Bản Điều lệ cho phép người mở và người hưởng TDT lựa chọn, loại bỏ Điều khoản nào mà thấy bất tiện cho cả hai bên. Do vậy, Nếu người mở cứ nhất thiết là cấm tất cả các loại hình chuyển tải thì họ có thể ghi rõ trong TDT là không áp dụng phần B của Điều 23. ĐIỀU 23 : VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN A. Nếu TDT yêu cầu vận đơn "cảng đến cảng", ngân hàng sẽ, trừ khi quy định khác trong TDT, chấp nhận chứng từ dù được gọi như thế nào: i. thể hiện trên bề mặt tên Người chuyên chở và được ký hoặc được xác thực bởi: 69

- Người chuyên chở hoặc đại lý đích danh thay mặt hay nhân danh người chuyên chở hoặc: - thuyền trưởng hoặc đại lý đích danh thay mặt hay nhân danh thuyền trưởng Bất kỳ chữ ký hoặc sự xác thực nào của Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng phải được nhận dạng là của Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng, tùy từng trường hợp. Một đại lý ký tên hoặc xác thực cho Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng phải ghi rõ tên và quyền hạn của bên đó, có nghĩa là Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng, mà đại lý đó làm đại diện và ii. thể hiện hàng hóa đã được bốc lên, hoặc xếp trên một tàu đích danh Việc bốc hàng lên hoặc xếp hàng trên con tàu đích danh có thể được biểu thị bằng chữ in sẵn trên vận đơn là hàng hóa đã được bốc lên tàu đich danh hoặc xếp trên tàu đích danh, trong trường hợp này, ngày phát hành của vận đơn sẽ được coi là ngày bốc hàng lên tàu và là ngày giao hàng. Trong mọi trường hợp khác, việc bốc hàng và ngày bốc hàng lên tàu đích danh phải được chứng minh bằng cách ghi chú trên vận đơn, trong trường hợp này, ngày bốc hàng sẽ được coi là ngày giao hàng. Nếu vận đơn có ghi chữ "tàu dự định" hoặc một từ tương tự về con tàu, thì việc bốc hàng lên con tàu đích danh phải được chứng minh bằng cách ghi rõ trên vận đơn là hàng đã được bốc lên tàu, và ngoài việc ghi ngày mà hàng hóa đã được bốc lên tàu phải ghi thêm tên con tàu mà hàng hóa được bốc lên, ngay cả khi chúng đã được bốc lên đúng con tàu được ghi là "tàu dự định". Nếu Vận đơn ghi nơi nhận hàng hoặc nhận để gởi khác với cảng bốc, thì ngoài việc ghi chú hàng đã bốc lên tàu còn phải ghi thêm tên cảng bốc hàng được quy định trong TDT và tên con tàu mà hàng hóa được bốc lên, dù chúng đã được bốc lên con tàu ghi đích danh trên vận đơn. Điều khoản này cũng được áp dụng ngay cả khi việc bốc hàng lên tàu đã được in sẵn trên vận đơn, và iii ghi rõ cảng bốc hàng và cảng dỡ hàng như quy định trong TDT, bất kể vận đơn: a. ghi nơi nhận hàng để gởi khác với cảng bốc hoặc ghi nơi đến cuối cùng khác với cảng dỡ và/hoặc b. có từ "dự định" hoặc từ tương tự nói về cảng bốc và/hoặc cảng dỡ, miễn là vận đơn có ghi cảng bốc và/hoặc cảng dỡ nêu trong TDT. 70

iv. bao gồm một bản vận đơn gốc duy nhất, hoặc nếu phát hành nhiều hơn một bản gốc thì trọn bộ bản chính được phát hành v. thể hiện toàn bộ các điều khoản và điều kiện chuyên chở, hoặc một số các điều khoản và điều kiện như thế bằng cách dẫn chiếu đến một nguồn hay một chứng từ không phải bản thân vận đơn (vận đơn rút gọn hoặc vận đơn trắng lưng), ngân hàng sẽ không kiểm tra nội dung các điều khoản và điều kiện đó và vi. không ghi chú là chứng từ này phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu và/hoặc không thể hiện là con tàu chở hàng chỉ chạy bằng buồm và vii tất cả các điểm khác đáp ứng mọi yêu cầu của TDT B. Với mục đích của Điều khoản này, chuyển tải có nghĩa là dỡ hàng từ một con tàu và bốc lên một tàu khác trong quá trình chuyên chở trên biển từ cảng bốc hàng đến cảng dỡ hàng quy định trong TDT. C.Trừ khi TDT không cho phép chuyển tải, ngân hàng sẽ chấp nhận vận đơn ghi rõ hàng hóa sẽ được chuyển tài, miễn là toàn bộ viềc chuyên chở đường biển được sử dụng bởi một và cùng một vận đơn. D. Ngay cả khi TDT không cho phép chuyển tải, ngân hàng sẽ chấp nhận vận đơn: i. ghi rõ việc chuyển tải sẽ xảy ra trong chừng mực mà hàng hóa liên quan được gởi bằng (các) công-ten-nơ, moóc, sà lan Lash như đã chứng minh trong vận đơn, miễn là toàn bộ việc chuyên chở đường biển được sử dụng bởi một và cùng một vận đơn, và/hoặc ii. có các điều khoản in sẵn quy định rằng Người chuyên chở có quyền chuyển tải.

Thay đổi cơ bản và quan trọng nhất của Bản điều lệ 500 so với các Bản điều lệ trước là phần nói về chứng từ vận tải. Rất nhiều vấn đề nảy sinh trong giao dịch Tín dụng chứng từ liên quan đến chứng từ vận tải theo Bản điều lệ 400. Cụ thể, Tài liệu số xuất bản 457 (Case studies on Documentary Credits) nêu 35 trường hợp, Tài liệu số 489 nêu 19 trường hợp và Tàl liệu số 494 nêu 3 trường hợp. ICC đã cố giải thích, nêu ra giải pháp theo quan điểm của mình, phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, bất đồng vẫn là mối trở ngại lớn khiến các Phòng Thương mại quốc gia yêu cầu ICC có biện pháp nêu ra điều luật cụ thể cho chứng từ vận tải, theo từng phương thức chuyên chở nhằm giảm bớt tranh chấp giữa các bên liên quan. 71

Có 8 loại chứng từ vận tải được nêu thành Quy tắc ở 8 điều khoản (từ Điều 23 đến 30) trong lúc đó chỉ có 3 loại được để cập trong Bản điều lệ 400. Đây là một nỗ lực lớn, là một cố gắng và tiến bộ của WG trong việc soạn thảo Điều luật nhằm đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn hoạt động thương mại và dịch vụ trên thế giới. Mỗi loại chứng từ vận tải có những chức năng và đặc thù riêng của nó. oôs gắng của WG LÀ phân loại chứng từ vận tải nhằm hạn chế việc hiểu sai và áp dụng không đúng những chứng từ này, như đã từng phát sinh trong thời kỳ Bản điều lệ 400 đang còn có giá trị. Nếu không làm được như vậy có nghĩa là vẫn thừa nhận sự mập mờ trong TDT về những phương thức vận tải được chấp nhận trên thế giới. Điều khoản 23 chỉ dành riêng cho loại vận đơn (VĐ) đường biển, được viết lại từ Điều 26 Bản Điều lệ 400 bao gồm 2 loại vận đơn được đề cập. Vận đơn đường biển (Marine/Ocean Bill of lading) đúng như tiêu đề của nó, là chứng từ vận tải, thể hiện quá trình vận tải từ cảng đến cảng. Nghĩa là chỉ có phương tiện vận tải là tàu thủy. chứ không phải là tàu hoả, máy bay..., bắt đầu từ 1 cảng biển và kết thúc cũng tại 1 cảng biển. Hiểu điều này của vận đơn đường biển để ta phân biệt với chứng từ vận tải hỗn hợp (Combined/ Multimodal transport documents) và các loại khác sẽ đề cập ở các điều khoản sau. Vận đơn đường biển có 3 chức năng: - Vận đơn là bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên chở đã được ký kết, thực hiện và chỉ rõ nội dung của Hợp đồng đó. Đồng thời nó xác định quan hệ pháp lý giữa Người chuyên chở với chủ hàng, đặc biệt là giữa Người chuyên chở và Người nhận hàng. - Vận đơn là biên lai của Người chuyên chở xác nhận đã nhận hàng để chở (nếu vận đơn "đã bốc" nó còn xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoá). Người chuyên chở chỉ giao hàng cho ai xuất trình trước tiên vận đơn hợp lệ (có chữ ký chuyển nhượng, xác thực của ngân hàng...) mà họ ký phát tại cảng bốc hàng. - Vận đơn là chứng từ xác thực quyển sẽ hữu đối với hàng hóa miêu tả trong vận đơn. Do vậy, nó là chứng từ có giá trị lưu thông (negotiable), được dùng mua bán, cầm cố, chuyển nhượng. Do các Luật và văn bản dưới Luật về kinh tế của Việt nam còn thiếu và chưa đồng bộ nên không có văn bản nói về nguyên tắc chuyển nhượng, lưu thông các chứng từ có giá (hối phiếu, vận đơn...) và trách nhiệm pháp lý của các bên liên quan nên đã hạn chế chức năng của vận đơn đường biển. Chưa có công ty nào dám mua hàng nhập khẩu của phía đối tác theo vận đơn gốc được chuyển giao từ ngân hàng trong khi hàng chưa đến cảng, bằng phương thức ký hậu chuyển nhượng. Vận đơn lúc này chỉ là bằng chứng về sở hữu hàng hóa của nhà nhập khẩu mà thôi. Các ngân hàng thương mại tận dụng chức năng thứ 3 của vận đơn đường biển nhằm bảo vệ cho chính họ. Ngân hàng khống chế vận đơn, tức là kiểm soát hàng hóa cũng có nghĩa là nắm tiền. Trong bất luận trường hợp nào, vận đơn chỉ được giao cho người mở TDT sau khi đã thanh toán 72

bộ chứng từ xuất trình đòi tiền. Nhưng nó là 1 loại chứng từ phức tạp nhất, dễ bị bất hợp lệ nhất và dễ phát sinh tranh chấp nhất. A. Những quy định của vận đơn đường biển: 1. Vận đơn ghi tên Người Chuyên chở – Hãng Vận tải Nếu TDT yêu cầu xuất trình vận đơn đường biển ("Marine" hoặc "Ocean B/L") thì ngân hàng sẽ chấp nhận vận đơn với những tiêu đề (Letter head) khác nhau. "However named": "với tên gọi như thế nào", tức là với tiêu đề như thế nào được ghi trên vận đơn, miễn là nội dung được miêu tả của nó thoả mãn với các yêu cầu của điều khoản này và quy định của TDT. Tiêu đề thực ra không quan trọng vì nó chưa mô tả được thực chất của cuộc hành trình hàng hóa. Mỗi hãng tàu có tiêu đề riêng cho mẫu vận đơn của mình. Có mẫu vận đơn chỉ ghi "Bill of lading" không thôi, nhưng áp dụng cho cả phương thức vận tải đường biển lẫn vận tải liên hợp, vì nó có cả phần ghi vận tải trên biển (port of loading), vận tải đường bộ (onward iniand routing). Có vận đơn với tiêu đề "Direct or with transshipment combined transport Bill of lading" hoặc "Bill of lading for Multimodal transport or port-to-port" hoặc 'Bill of lading for Multimodal transport or port-to-port".. Điều này có nghĩa là các mẫu vận đơn này được dùng hoặc như là vận đơn đường biển, hoặc như là vận đơn hỗn hợp tùy theo yêu cầu và thực tế chuyên chở. Trong thực tế ta hay gặp mẫu vận đơn có tiêu đề "Bill of Lading for Combined Transport or Portto-Port Shipment"? Hãy lấy 5 mẫu vận đơn sau để minh họa cho sự phân tích sau đây. 1 . Liner Bill of lading (for Combined Transport or Port-to-Port Shipment" (Mẫu số 1) 2. Bill of lading (Mẫu số 2) 3. Bill of Lading for combined transport shipment or port - to - port shipment (Mẫu số 3) 4. Ocean Bill of Lading (Mẫu số 4) 5. Through Bill of Lading (Mẫu số 5) 6. Charter party Bill of lading (Mẫu số 6) Các vận đơn này phải được ghi rõ tên của người chuyên chở, tức là công ty vận tải, người phát hành vận đơn. Đây là yêu cầu rất cơ bản mà Bản điều lệ cũ không đề cập tới. Tất cả 5 mẫu vận đơn trên đều được in tên công ty vận tải: 73

MẪU 1 : SCHIFFAHRT HANDEL + LOGISTlK GmbH MẪU 2 : WORLD CLASS FRELGHT, INC. MẪU 3 : NZ - ORlENT LINE C.V. MẪU 4 : SPECARGO SEABRLDGE LINE MẪU 5 : VISA FRELGHT SERVICES PTE LTD (Riêng Mẫu số 6, vận đơn không thể hiện tên người chuyên chở: Carrier) 2. Việc thể hiện chức năng của phía ký phát vận đơn Điều 26 của Bản điều lệ 400 chỉ cho phép 2 đối tượng được ký: người chuyên chở (công ty vận tải) hoặc đại lý của nó. Do vậy đã nảy sinh tranh chấp khi vận đơn do thuyền trưởng (master) ký (mẫu đơn số 6). Việc nhìn nhận vấn đề này của từng ngân hàng khác nhau. Loại vận đơn in sẵn chữ"For master" nếu thuyền trưởng ký mà không ghi"As agent" (theo đúng Bản điều lệ 400) thì bị ngân hàng từ chối. Thậm chí có những ngân hàng từ chối những vận đơn được ghi đầy đủ như vậy. Nhưng ICC giải thích là không cần phải ghi thêm"As agent" vận đơn trên vẫn được chấp nhận, Nếu không phải là vận đơn giao nhận-Forwarder's Bill of lading (Tài liệu ICC số xuất bản 489 – trang 74, 75, 76, số xuất bản 494 – trang 28). Điều này thể hiện những khiếm khuyết của các Bản điều lệ cũ và sự không đồng nhất của Quy tắc ngân hàng và tập quán vận tải quốc tế. Theo Luật Vận tải Quốc tế, vận đơn cơ bản được thuyền trưởng ký. Nhưng, trong thực tế giao dịch, thuyền trưởng không thường xuyên ký mà đại lý của người vận tải (carrier) hợp với chiều hướng phát triển của vận tải đường biển. Tuy nhiên khi ký vận đơn, thuyền trưởng luôn hành động nhân danh và vì lợi ích của công ty vận tải / người ký hợp đồng chuyên chở. Vậy Bản điều lệ 500 quy định 2 đối tượng chính được ký vận đơn đường biển(Ocean/Marine Bill of lading), đó là : - Người chuyên chở. - Thuyền trưởng của con tàu chở hàng. Đối tượng thứ 3 sẽ là: - Đại lý của người chuyên chở hoặc của thuyền trưởng. Trong thực tế, đại đa số vận đơn được ký bởi các đại lý của hãng tàu / công ty vận tải vì nó phù hợp và thuận tiện trong thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính khác, kể cả thủ tục của ngân hàng các nước sở tại. 74

Bất cứ ai ký vận đơn ngoài việc ghi tên công ty đầy đủ hoặc tên của thuyền trưởng, đều phải ghi rõ: - Là người chuyên chở. Hoặc : - Là thuyền trưởng Nếu vận đơn được ký bởi đại lý của hãng tàu hoặc của thuyền trưởng, thì phải ghi rõ : - Tên của hãng tàu, hoặc của thuyền trưởng (mà nó làm đại lý), và - Quyền hạn của hãng tàu, hoặc của thuyền trưởng (mà nó là đại lý). Thí dụ : 1. Vận đơn do người chuyên chở (hãng vận tải) ký: 2. Vận đơn do thuyền trưởng ký: 3. Vận đơn do Đại lý của hãng vận tải ký: 4. Vận đơn do Đại lý của thuyền trưởng ký: Trong khi đó, theo Bản điều lệ 400, vận đơn được chấp nhận khi chỉ cần ký và ghi: Qua phân tích và thí dụ trên ta thấy được sự chặt chẽ và đầy đủ về pháp lý của quy định khi lập vận đơn của Bản điều lệ 500. Điều lưu ý là nếu vận đơn đã in sẵn chữ "CARRIER" để thể hiện chức năng của hãng / công ty vận tải là "Người chuyên chở" thì khi ký cấp vận đơn, đại lý tàu biển không cần ghi lại tên của hãng vận tải đó nữa. Thí dụ mẫu vận đơn đã in: Carrier : Mitsui O.S.K.Line thì Vietfracht khi ký cấp vận đơn chỉ cần ghi"As agent for the Carrier" (mà không cần ghi thêm tên công ty vận tải), hoặc "As agent for Misui O.S.K.Line" (mà không cần ghi thêm "the Carrier"). Tuy nhiên phần lớn các loại vận đơn đều không in sẵn chữ"Carrier" do vậy lúc ký vận đơn, nhà xuất khẩu cần kiểm tra và yêu cầu đại lý tàu biển phải lập đúng theo quy định của Điều khoản này. 3. "Hàng đã bốc" được thể hiện trên bề mặt vận đơn như thế nào?

75

Nói chung TDT đều yêu cầu xuất trình vận đơn đường biển "đã bốc". Đây là một thông lệ đối với vận tải và thương mại quốc tế. Khi hàng đã được bốc lên tàu hoặc đã ở trên boong tàu, người chuyên chở mới chịu trách nhiệm pháp lý đối với hàng hóa đó. Đồng thời người bán cũng chứng minh được nghĩa vụ của mình đối với hợp đồng thương mại đã ký với người mua. Thuật ngữ "đã bốc" tùy theo từng mẫu vận đơn, tùy theo trường hợp giao nhận và chuyên chở, được thể hiện trên bề mặt vận đơn theo 3 trường hợp sau: -Vận đơn đã in sẵn"shipped on board" thì đương nhiên chỉ được người chuyên chở/ thuyền trưởng/ đại lý cấp khi hàng đã được bốc lên tàu. Như vậy không cần ghi gì thêm trên vận đơn để chứng minh là hàng đã được bốc. Loại vận đơn này, ngày phát hành của chính là ngày hàng bốc lên tàu, có nghĩa là ngày giao hàng. Vận đơn mà "sipped on board" được in sẵn thường được thể hiện bằng diễn đạt: -"Shipped on board the above named ship in apprent..." hoặc -"Shipped at the port of ladding in apparent good order..." Hiện nay mẫu đơn này càng ít được dùng vì tính kém linh hoạt và ít đa dạng của nó trong giao nhận, vận tải quốc tế. Các mẫu vận đơn còn lại gọi là vận đơn "nhận để bốc", được biểu hiện bằng các thuật ngữ sau: -"Taken in charge in appearance good order and condition...,at the place of receipt..." "Receipt by the carrier the goods..." Bản thân vận đơn với các biểu hiện những từ ngữ như vậy hoàn toàn không thoả mãn được yêu cầu của TDT là phải xuất trình vận đơn đã bốc. Người bán chưa thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ của mình theo hợp đồng đã ký. Hãng vận tải/ đại lý chỉ mới "nhận để bốc" chứ chưa bốc hàng lên boong tàu. Muốn trở thành vận đơn đã bốc phải được người ký cấp vận đơn ghi thêm vào trên vận đơn, đồng thời ghi ngày tháng. Như vậy, ngày của "hàng lên tàu" chính là ngày giao hàng. Tất cả các mẫu vận đơn đều có các ô ghi các phần về: - Những phương tiện vận tải tham gia chuyên chở hàng hóa. - Nơi nhận và cảng bốc lên tàu của hàng hóa. - Cảng dỡ hàng và nơi đến cuối cùng. Phương thức chuyên chở, vận tải trên thế giới ngày càng phát triển và đa dạng. Hàng được nhận một nơi là cảng nằm sâu trong nội địa được chuyên chở bằng con tàu nhỏ tới cảng biển để bốc lên tàu vượt đại dương. Quá trình này có thể gồm 2 tàu liên quan đều thể hiện hiện trên vận đơn: Thí dụ: 76

Trong trường hợp này, thuật ngữ "on board" sẽ được ghi trên vận đơn, gồm cả ngày tháng và tên tàu mặc dù thực sự hàng đã được bốc lên tàu "Med Marseille" Nguyên tắc ghi "on board" này được áp dụng cho tất cả các mẫu vận đơn, kể cả loại đã in sẵn "on board" Hãy phân tích ở góc độ đa dạng hơn của phương thức vận tải biển để hiểu rõ trường hợp thứ 3: Giả sử Điều khoản giao hàng của TDT : "Shipment from Ben Nghe port (Hochiminh City) to P.S.A Container port, East Lagoon (Singapore)". Hàng được tập kết và được hãng tàu nhận tại Tân cảng chở tới Bến Nghé bằng tàu Sông Đà, để bốc lên tàu biển Bremen Express đi Singapore. Như vậy, quá trình này liên quan 2 cảng đi (Tân cảng và Bến Nghé), cảng đến (Singapore) và 2 tàu chuyên chở : Sông Đà và Bremen Express, được thể hiện trên vận đơn: Vậy "on board" phải được ghi rõ trên vận đơn ngư sau: " shipped on board M/V BREMEN EXPRESS at BEN NGHE Port on 20 may 1997 " Mặc dù hàng được nhận tại Tân cảng (taken in charge at New port) nhưng vẫn giao đúng cảng Bến Nghé (port of loading) theo quy định của TDT. Cảng Bến Nghé mới là nơi giao hàng (port of shipment/shipment from BEN NGHE) vì tại nơi này hàng thực sự mới được "on board" tàu BREMEN EXPRESS (tàu đi biển). Tân cảng chỉ là nơi hàng được nhận, chứ chưa biết được hàng đó sẽ được bốc lên tàu nào (có thể là một tàu theo dự kiến: intended vessel), ngày nào, ở đâu. Tàu Sông Đà không phảỉ là tàu đi biển và chuyên chở chính. Tàu dự kiến BREMEN EXPRESS (intended vessel) là con tàu thực sự bốc hàng, là tàu biển (ocean vessel), tức là phương tiện chuyên chở có hành trình cảng đến cảng (port to port carrier) phải được minh chứng bằng cách ghi rõ như vậy trên vận đơn. Nguyên tắc này áp dụng cho tất cả các mẫu vận đơn, kể cả các mẫu vận đơn, kể vả vận đơn đã in sẵn "on board". điều này cũng dễ hiểu, vì chỉ ghi "on board" chung chung, không ai có thể xác định được hàng bốc lên tàu nào, cảng nào và có đúng ngày của vận đơn không. 4. Xác thực "shipped on Board"/"On board" không cần phải ký/ký tắt và đóng dấu. Một điều cần lưu ý là Bản điều lệ 500 không yêu cầu "on board" khi được ghi thêm phải ký thường hoặc ký tắt (trừ khi TDT bắt buộc). Cho đến nay, các công ty xuất khẩu đều yêu cầu đại lý/ hãng tàu/ thuyền trưởng ký vào phần này trên vận đơn, điều này không cần thiết. 77

Để đi đến quyết định loại bỏ việc ký xác thực vào "on board" trên vận đơn, WQ đã nhận được 2 loại ý kiến trái ngược nhau của các Phòng Thương mại quốc gia. Các vấn đề được đem ra phân tích và xem xét theo 2 hướng sau: - "On board" có thể được ký bởi một người có thẩm quyền nhưng không phải là người ký cấp vận đơn. hoặc có thể là một người nhưng chỉ ký tắt hoặc 2 chữ ký của 1 người lại không giống nhau… Tất cả những phát sinh như vậy gây ra khó khăn cho ngân hàng khi xác minh chữ ký của vận đơn xuất trình. Nếu người ký tắt ở phần "on board" không có trong hồ sơ kiểm soát của ngân hàng (thí dụ người này chỉ là cán bộ cấp dưới (junior officer) nhưng lại được uỷ quyền), hoặc chữ ký ở 2 nơi trên vận đơn không giống nhau thì liệu ngân hàng từ chối không? Và từ chối trên cơ sở nào?… Trách nhiệm của ngân hàng càng thêm nặng và ở một lúc nào đó, có thể gây phiền hà cho người hưởng trong vấn đề thanh toán. Quan điểm của WQ thì gánh nặng này không thể do ngân hàng chịu. - Tầm quan trọng của sự miêu tả "on board" có thể tương đương với "freight prepaid" / "freight to collect" /" freight to be paid at destination"… Thế nhưng thuật ngữ sau lại không cần xác thực bằng chữ ký? WQ quyết định bãi bỏ yêu cầu ký hoặc ký tắt xác thực ghi chú "on board" ở vận đơn. 5. Cảng bốc, Cảng dỡ - Nơi nhận hàng, nơi đến cuối cùng Phần iii của Điều khoản này sẽ được giải thích bằng tình huống giao hàng ở thí dụ trên. Vận đơn xuất trình bao gồm các chi tiết : - Cảng nhận hàng : Tân cảng, khác với cảng bốc : Bến Nghé. - Nơi đến cuối cùng, khác với cảng dỡ: Singapore - Tàu dự kiến (bốc hàng): BREMEN EXPRESS đều được chấp nhận là hợp lệ. Hiện nay vẫn còn một số mẫu vận đơn có ghi các phần: "Cảng bốc theo dự kiến" và "Cảng dỡ theo dự kiến", tuy rất ít gặp. Các ô này khi được sử dụng để ghi tên cảng thì ngân hàng vẫn chấp nhận với điều kiện vận đơn cũng phải ghi rõ cảng thực sự bốc và dỡ hàng. Vận đơn phải được ghi thêm : Quy định này nhằm tránh những trường hợp đã xảy ra là một số hãng vận tải đã không bốc và dỡ hàng ở các cảng theo như hợp đồng đã ký kết, bằng cách nêu ra "Các Cảng dự định" mà không 78

phải là cảng thực sự bốc, dỡ hàng. Do vậy, vận đơn với cảng "dự kiến" sẽ không đáp ứng được điều kiện vận tải Cảng - Cảng nếu không ghi rõ cảng bốc và cảng dỡ hàng thực sự. 6. Bộ vận đơn đầy đủ được xuất trình Như đã phân tích trên, vận đơn là chứng từ quan trọng nhất trong các chứng từ giao hàng nên phải được kiểm soát bởi ngân hàng để không chế hàng hoá, đổi lấy việc thanh toán và nhận hàng. Điều IV yêu cầu phải xuất trình bản độc nhất của vận đơn hoặc toàn bộ vận đơn được cấp. Thông thường vận đơn được lập 3 bản (bản 1, bản 2, và bản 3). Ba bản có giá trị ngang nhau. Một trong chúng được sử dụng để nhận hàng thì các bản còn lại hết giá trị. Tuy nhiên cũng có hãng tàu cấp 2 bản, thậm chí chỉ 1 bản duy nhất cho một lô hàng. Cách diễn giải chặt chẽ của Điểm này nhằm bổ sung những phần mà Bản điều lệ 400 không đề cập. Nhân đây xin đề cập đến điều khoản về xuất trình vận đơn theo TDT: Tín dụng thư không nên quy định cụ thể các bản chính vận đơn (thí dụ 3/3 bản) mà chỉ cần nói một bộ đầy đủ là được. Như thế sẽ không gây trở ngại cho người hưởng nếu họ được cấp một bản duy nhất hoặc 2/2 bản gốc vận đơn. Tuy nhiên Nếu người mở yêu cầu cụ thế số bản gốc vì mục đích nào đó, thì cần ghi rõ trong TDT, chẳng hạn: Toàn bộ vận đơn gốc 3/3. Một bản vận đơn được gửi theo hàng hoá đến cảng dỡ để người mở TDT nhận hàng, các bản còn lại được xuất trình tại ngân hàng. Điều này sẽ có lợi, có hại cho ai? Trong thực tiễn buôn bán quốc tế, không ít trường hợp hàng đến cảng trước khi người mua nhận được chứng từ vận tải. Đó là những giao dịch giữa khách hàng của 2 nước gần nhau: các nước trong ASEAN, hoặc Việt Nam với Thái Lan, Singapore...Tàu thủy chỉ đi trong vòng 2- 3 ngày, trong lúc đó chứng từ phải soạn thảo, qua thủ tục 2 ngân hàng, gởi qua bưu điệnẳ sẽ không dưới 1 tuần từ người hưởng đến người mở TDT. Để thuận tiện cho việc nhận hàng mà không cần bảo lãnh của ngân hàng, người mở TDT yêu cầu 1 bản vận đơn gốc được gửi theo hàng hóa hoặc được Người Bán gửi trực tiếp cho Người Mua. Chứng từ gốc sẽ được sử dụng để nhận hàng thay cho chứng từ qua ngân hàng. Nếu chứng từ được ngân hàng xác định là bất hợp lệ trong khi người mở TDT đã nhận hàng bằng chính bản vận đơn gốc gởi theo tàu vận tải, lại từ chối không thanh toán? Trong trường hợp này, trách nhiệm thanh toán thuộc về người mở TDT, hay ngân hàng phát hành? Về góc độ pháp lý, ngân hàng miễn trách nhiệm vì ngân hàng chỉ liên quan và giao dịch bằng chứng từ không liên quan đến hàng hóa, các dịch vụ khác (Điều 4). Chứng từ, theo nghĩa của Bản điều lệ, là chứng từ xuất trình tại ngân hàng, chứ không phải chứng từ gửi theo hàng hóa, ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm nếu không nắm giữ, hoặc trả lại cho người hưởng những chứng từ mà nó nhận được từ phía xuất trình (Điều 14). TDT được phát hành dựa trên sự thỏa thuận giữa 2 bên mua và bán. Ngân hàng thực hiện chỉ thị của người mở TDT và đương nhiên sẽ không chịu trách nhiệm Nếu người mở có hành động thiếu 79

thiện chí, không chân thực, thậm chí lừa đảo. Rủi ro thuộc về người hưởng vì họ không nắm chắc nghiệp vụ và chọn nhầm đối tác. Tài liệu ICC số xuất bản 459 (1989), nói vấn đề này như sau : "Trường hợp TDT quy định 1 bản vận đơn gốc gửi trực tiếp cho người mở, hoặc chuyển giao cho thuyền trưởng để người mở có điều kiện nhận hàng trước khi TDT được thanh toán, Tiểu ban Ngân hàng khẳng định rằng chính người hưởng - người đã chấp nhận TDT đó sẽ phải chấp nhận rủi ro phát sinh" Tất nhiên trong quan hệ làm ăn, phải tính đến yếu tố tin tưởng lẫn nhau. Có thể rủi ro xảy ra ngoài ý muốn của 2 phía. Năm 1989, một đơn vị xuất nhập khẩu Việt Nam xuất sắt phế liệu cho công ty Hồng Kông. TDT cũng yêu cầu 1 bản vận đơn gốc gửi theo tàu. Bộ chứng từ bất hợp lệ, ngân hàng phát hành từ chối, trả lại cho phía Việt Nam. Một kết cục không tốt đẹp đối với đơn vị xuất nhập khẩu là người mua bị phá sản, tài sản được thanh lý theo luật trong đó có lô sắt phế liệu xuất khẩu của Việt Nam vì hàng hóa được chứng minh là của người mua bằng vận đơn gửi theo tàu (vận đơn lập theo lệnh). Khi nhận được TDT có điều khoản một bản vận đơn gốc gửi theo hàng như trên, nhà xuất khẩu cần lưu ý: - Phải xem xét các yếu tố: uy tín và khả năng của người mở TDT, mối quan hệ làm ăn, khả năng xấu nhất có thể xảy ra (người mua vỡ nợ, phá sản... ) trị giá, phẩm chất hàng hóa (hàng dễ biến chất theo thời gian hay hàng lâu bền... ), mức độ biến động giá cả hàng hóa, tình hình giao nhận, chuyên chở.. để quyết định chấp nhận hay yêu cầu sửa đổi TDT nhằm khống chế, kiểm soát hàng hóa. - Nếu chấp nhận yêu cầu của người mở thì nhất thiết vận đơn phải được lập theo lệnh của ngân hàng phát hành. Trường hợp này, người mở TDT nhận được bản vận đơn gởi theo tàu nhưng không thể nhận được hàng nếu không được ngân hàng phát hành đồng ý (bằng cách ký vào vận đơn và ghi " To order of...Co. Ltd"). Ngân hàng sẽ phải thanh toán bất chấp tình trạng của chứng từ xuất trình khi họ chấp thuận cho người mở TDT nhận hàng. Vận đơn lập theo lệnh ngân hàng hoàn toàn bảo đảm an toàn cho chủ hàng (người hưởng) mà không gây khó khăn cho người nhận hàng (người mở). Do vậy, không có lý do gì để người mở từ chối điều khoản vận đơn lập theo lệnh ngân hàng. Vận đơn, với tính lưu thông nên nó có giá trị chuyển nhượng. Do vậy, đại đa số TDT yêu cầu xuất trình vận đơn theo lệnh, ít khi ghi tên đích danh người nhận hàng. Nếu ghi đích danh thì vận đơn không chuyển nhượng được và chỉ có người được ghi tên được quyền nhận hàng. Muốn trở thành biên lai nhận hàng, tất cả vận đơn đều phải được ký hậu (ngoài chữ ký của người phát hành) bởi chủ hàng - tức là người xuất khẩu, hoặc bởi ngân hàng được chỉ đích danh/ ngân hàng chiết khấu... tùy theo từng trường hợp.

80

Việc ký hậu là một tập quán quốc tế nhằm đảm bảo tính lưu thông của các chứng từ (hối phiếu, vận đơn... ), đồng thời xác định trách nhiệm pháp lý của người ký, minh chứng sự chuyển nhượng của mình cho người kế tiếp. Thí dụ : TDT yêu cầu vận đơn lập theo lệnh ngân hàng VIETCOMBANK - Nếu Vietcombank là ngân hàng phát hành, thì sẽ ký hậu vận đơn, ghi (hoặc không ghi) "To order of..." . Công ty A sẽ nhận hàng bằng vận đơn đó nhưng cũng có thể bán hàng bằng cách ký hậu chuyển nhượng vận đơn mặc dù hàng chưa đến cảng, cho công ty B. Cứ thế vận đơn có thể được bán cho nhiều người khác. Đến người cuối cùng muốn nhận hàng thì họ phải ghi hoặc ký tên. - Nếu Vietcombank là ngân hàng chiết khấu, Vietcombank sẽ ký hậu ghi hoặc không ghi (tùy theo yêu cầu của TDT): "To order of Misubishi Bank". Nếu Vietcombank ký và ghi đích danh Misubishi Bank thì ngân hàng này sẽ ký hậu tiếp, ghi (hoặc không ghi): "To order of...Co.Ltd" (Người mở TDT/ người nhận hàng). Có công ty xuất nhập khẩu do không nắm vững nguyên tắc này, đã ký vào vận đơn theo lệnh Ngân hàng trước khi xuất trình. Tuy không đúng với thông lệ quốc tế song việc ký hậu vày không ảnh hưởng đến việc thanh toán vì 2 lý do : - TDT không cấm chủ hàng ký hậu vào vận đơn theo lệnh ngân hàng. - Việc ký hậu này không có giá trị đối với việc chuyển nhượng và cũng không điều chỉnh tính pháp lý của vận đơn. Do vậy, ngân hàng không có quyền từ chối vận đơn được lập theo lệnh ngân hàng mà chủ hàng ký hậu. Khi đã ký hậu như trên, ngân hàng phát hành đã đồng ý chuyển nhượng quyền sở hữu vận đơn (cũng chính là quyền sở hữu hàng hóa) cho người mở thì có nghĩa là họ "bán" hàng hóa đó cho người mở TDT và do vậy ngân hàng phát hành không được quyền từ chối chứng từ dù có những bất hợp lệ. Vận đơn theo lệnh trống "To order", hoặc bất cứ theo lệnh của ai mà không phải là ngân hàng, thì ngân hàng không cần ký thêm, người mua cũng có thể chiếm hữu hàng hóa bằng việc ký hậu của chính mình hoặc của những bên có liên quan. 7. Một bản vận đơn ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng Nếu ngân hàng phát hành khi được khách hàng yêu cầu mở TDT với một vận đơn gốc gửi theo tàu thì nên quyết định như thế nào? 81

- Với vai trò là dịch vụ, phát hành TDT với số tiền ký quỹ đầy đủ, ngân hàng sẽ đồng ý những điều kiện mà người mở đưa ra, kể cả một vận đơn gốc gửi theo tàu hàng để nhận hàng, được lập theo lệnh trống hoặc theo lệnh của người mở (chứ không phải theo lệnh của ngân hàng). Nếu đã nhận hàng người mở vẫn cứ từ chối thanh toán chứng từ (vì bất hợp lệ) do hàng thiếu, kém phẩm chất, không đúng mẫu mãẳ hoặc bất cứ lý do nào khác) thì người hưởng chịu tổn thất, ngân hàng không cần biết việc tranh chấp, kiện tụng sau đó giữa bên mua và bên bán. - Đối với TDT trả chậm hoặc trả ngay nhưng mới ký quỹ một phần (20,30,50%) của giá trị thì nên quy định vận đơn theo lệnh ngân hàng phát hành, toàn bộ vận đơn gốc phải xuất trình cho ngân hàng. Hãy phân tích một tình huống có thế xảy ra trong thực tế: Sau khi TDT được mở, ngân hàng phát hành dấu hiệu thua lỗ, mất khả năng thanh toán, nguy có phá sản... của người mở. Để đảm bảo an toàn, nhận được chứng từ ngân hàng sẽ kiểm tra kỹ và từ chối ngay khi có bất kỳ bất hợp lệ nào. Như vậy, ngân hàng miễn trách nhiệm dù cho toàn bộ hoặc 2/3 vận đơn gốc được người hưởng xuất trình thanh toán. Nhưng chứng từ hoàn toàn không phù hợp mà người mở lại nhận hàng bằng một bản vận đơn gốc gửi theo tàu không thông qua ngân hàng? Khả năng chi trả phần còn lại chưa ký quỹ của TDT là không hiện thực? Hoặc hàng hóa được chứng minh là của người mở theo vận đơn bị tòa án tịch thu áp dụng theo luật phá sản? Nhưng Nếu ngân hàng kiểm soát toàn bộ chứng từ thì họ có quyền sở hữu hàng hóa đó vì họ đã/ sẽ phải thanh toán tiền hàng theo TDT cho phía bán hàng. Rõ ràng sự an toàn của ngân hàng ở trường hợp này phụ thuộc vào sự vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, tính thận trọng và cả yếu tố kinh nghiệm. 8. Các Điều khoản và Điều kiện của vận đơn Điều 26(b-ii) Bản điều lệ 400 chỉ nói một cách không dứt khoát là ngân hàng có thể không từ chối vận đơn dẫn đến hợp đồng thuê tàu bằng một nguồn hay một chứng từ không phải bản thân chứng từ vận tải. Nhưng Điều khoản này lại không nói rõ việc chấp nhận vận đơn với đầy đủ điều khoản và điều kiện của các bên liên quan trong vận tải. Bản Điều lệ 500 đã khẳng định: vận đơn phải bao gồm tất cả các điều khoản, các điều kiện vận tải, quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên quan. Ngân hàng cũng chấp nhận loại vận đơn rút gọn hoặc vận đơn trắng lưng. Mẫu vận đơn này là loại chỉ ghi tóm tắt điều khoản chính, những nội dung chủ yếu của chuyên chở và giao nhận, còn những nội dung khác liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người chuyên chở và người gửi hàng được dẫn chiếu ở một nguồn hay một chứng từ khác. (Công ước quốc tế về chuyên chở: International Brussels Convention 1924, 1968). Loại mẫu vận đơn rút gọn/ trống lưng này cũng được áp dụng vận đơn theo hợp đồng thuê tàu. Vận đơn này có in chữ "to be used with charter parties". Nhưng vận đơn theo hợp đồng thuê tàu không được chấp nhận (trừ khi nói rõ trong TDT) trong khi vận đơn rút gọn/ trống lưng không bị từ chối ? Rõ ràng Điều khoản này còn có sự khập khiễng cần được khắc phục. 82

Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu dẫn chiếu những điều kiện của hợp đồng thuê tàu. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền của ngân hàng phát hành vì bản chất của TDT là độc lập với các loại hợp đồng (Điều 3). Đó là lý do mà ICC không chấp nhận vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, trừ khi có quy định rõ trong TDT. Trong thời đại phát triển khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong ngành vận tải biển, việc chuyên chở bằng thuyền buồm vượt biển không an toàn và mâu thuẫn với các phương tiện kỹ thuật tiên tiến mà bản điều lệ này đề cập. Trong nhiều luật biển và tập quán thương mại đều ngăn cản vận tải trên biển bằng thuyền buồm. Do vậy WG vẫn duy trì nguyên tắc này, hợp với thông lệ và tập quán quốc tế hiện nay. 9. Phù hợp với các quy định của Tín dụng thư Muốn đạt được sự hoàn hảo, vận đơn phải lập theo đúng quy định của Điều khoản này đồng thời phải thỏa mãn mọi yêu cầu của TDT. Các điều kiện của Bản điều lệ này, thường có diễn đạt : "trừ khi TDT quy định khác" có nghĩa là người mở và người hưởng có thể đồng ý với nhau những quy định riêng, hoặc có thể loại bỏ một vài đặc điểm trong điều khoản, hoặc một và điều kiện của Bản điều lệ, nhằm phù hợp với thực tiễn và tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai phía. Do vậy, Điều 23 quy định chi tiết về vận đơn đường biển nhưng khi TDT có những yêu cầu riêng (thí dụ : vận đơn chỉ do đại lý của người chuyên chở cấp) thì vận đơn phải được lập đúng, có nghĩa vừa tuân thủ điều khoản 23 vừa thực hiện đúng quy định của TDT. TDT quy định : "đã bốc lên tàu" phải được ký bởi người cấp vận đơn thì vận đơn phải lập đúng như vậy, bất kể Điều 23 cho phép không cần ký xác thực. Tóm lại, nhà xuất khẩu cần căn cứ vào quy định của TDT và Nếu không có quy định nào đặc biệt thì căn cứ vào Bản điều lệ 500 để yêu cầu hàng tàu lập vận đơn, nhằm đạt được sự hoàn hảo tuyệt đối của nó theo TDT. B. Chuyển tải Định nghĩa về chuyển tải được nói rõ trong phần B của điều khoản này. Tùy theo phương thức vận tải, hành động chuyển tải và hệ quả tiếp theo của nó ở các phương thức đều khác nhau. Quy tắc về chuyển tải này chỉ áp dụng cho phương thức chuyển tải cảng đến cảng, dựa vào ý kiến của hãng vận tải các Hiệp hội chuyên chở đường biển. Vận đơn cho suốt chuyến hành trình từ cảng bốc hàng đến cảng dỡ hàng được cấp tại cảng SaiGon. Đến Singapore (nơi chuyển tải) các đại lý của người chuyên chở (hãng tàu) sẽ làm thủ tục giao, nhận cho nhau bằng chứng từ và danh mục hàng hóa. Nếu hàng hóa trên liên quan đến 2 hãng tàu biển thì có thể người ta phát hành vận đơn địa hạt cho từng chặng đường, thay cho Manifest. Cả hai loại chứng từ này chỉ có giá trị như là biên lai giao nhận hàng hóa giữa các đại lý hoặc giữa người chuyên chở, không phải là chứng từ sở hữu hàng hóa như vận đơn đã được giao cho chủ hàng (shipper) . Chủ hàng cũng không cần biết đến các chứng từ này vì chúng thuộc nội bộ của giao dịch của nghiệp vụ vận tải biển. 83

Thực tế của ngành Công nghiệp vận tải thường gặp là hàng hóa có thể được chuyên chở từ cảng A trực tiếp đến cảng B, nhưng đôi khi hàng được dỡ từ tàu lớn sang tàu bé hơn, có khả năng dễ dàng cập cảng chính, hay cảng khu vực sâu trong đất liền, thường xảy ra đối với tàu Container, tàu Lash quá đồ sộm cập cảng khó khăn. Trường hợp này, theo quan điểm của các nhà chuyên chở, không thể coi là chuyển tải. Ngân hàng phải tôn trọng thực tiễn này và chấp nhận khi vận đơn có ghi thêm sự bảo lưu của người vận tải quyền chuyển tải Nếu cần. Một điều lưu ý là Bản Điều lệ cho phép người mở và người hưởng TDT lựa chọn, loại bỏ Điều khoản nào mà thấy bất tiện cho cả hai bên. Do vậy, Nếu người mở cứ nhất thiết là cấm tất cả các loại hình chuyển tải thì họ có thể ghi rõ trong TDT là không áp dụng phần B của Điều 23. ĐIỀU 24 : VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN KHÔNG LƯU THÔNG A. Nếu TDT yêu cầu vận đơn cảng đến cảng không có giá trị lưu thông (sau đây gọi là vận đơn không lưu thông) ngân hàng sẽ, trừ khi quy định khác trong TDT, chấp nhận chứng từ dù được gọi như thế nào : i/. Thể hiện trên bề mặt tên Người chuyên chở và được ký hoặc được xác thực bởi : - Người chuyên chở hoặc đại lý đích danh thay mặt hay nhân danh người chuyên chở hoặc; - Thuyền trưởng hoặc đại lý đích danh thay mặt hay nhân danh thuyền trưởng. Bất kỳ chữ ký hoặc sự xác thực nào của Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng phải được nhận dạng là của Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng, tùy từng trường hợp. Một đại lý ký tên hay xác thực cho Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng phải ghi rõ tên và quyền hạn của bên đó, có nghĩa là Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng, mà đại lý đó làm đại diện. ii/. Thể hiện hàng hóa đã được bốc lên hoặc xếp trên một tàu đích danh : Việc bốc hàng lên hoặc xếp hàng trên con tàu đích danh có thể được biểu thị bằng chữ in sẵn trên vận đơn là hàng hóa đã được bốc lên tàu đích danh hoặc xếp trên tàu đích danh, trong trường hợp này, ngày phát hành của vận đơn sẽ được coi là ngày bốc hàng lên tàu và là ngày giao hàng. Trong mọi trường hợp khác, việc bốc hàng và ngày bốc hàng lên tàu đích danh phải được chứng minh bằng cách ghi chú trên vận đơn, trong trường hợp này, ngày bốc hàng sẽ được coi là ngày giao hàng. Nếu vận đơn có ghi chữ tàu "tàu dự định" hoặc một từ tương tự về con tàu, thì việc bốc hàng lên con tàu đích danh phải được chứng minh bằng cách ghi chú trên vận đơn là hàng được bốc lên tàu, và ngoài việc ghi ngày mà hàng hóa được bốc lên tàu, phải ghi thêm tên con tàu mà hàng hóa đã được bốc lên con tàu, ngay cả khi chúng đã được bốc lên đúng con tàu được ghi là "tàu dự định" Nếu vận đơn ghi nơi nhận hàng hoặc nhận để gửi khác với cảng bốc, thì ngoài việc ghi chú hàng đã bốc lên tàu còn phải ghi thêm tên cảng bốc hàng được quy định trong TDT và tên con tàu mà hàng hóa được bốc lên, dù chúng ta đã được bốc lên con tàu ghi đích danh trên vận đơn. Điều khoản này cũng được áp dụng ngay cả khi việc bốc hàng lên tàu đã được in sẵn trên vận đơn và ghi rõ cảng bốc hàng và cảng dỡ hàng như quy định trong TDT, bất kể vận đơn : và iii. ghi rõ cảng bốc hàng và cảng dỡ hàng như quy định trong TDT, bất kể vận đơn a. Ghi nơi nhận hàng để gửi khác với cảng bốc hoặc ghi nơi đến cuối cùng khác với cảng dỡ. b. Có từ "dự định" hoặc từ tương tự nói về cảng bốc và /hoặc cảng dỡ, miễn là vận đơn có ghi cảng bốc và/ cảng dỡ nêu trong TDT. iv/. Bao gồm một bản vận đơn gốc duy nhất hoặc Nếu phát hành nhiều hơn một bản gốc thì trọn bộ bản chính được phát hành. 84

vi/. Thể hiện toàn bộ các điều khoản và điều kiện chuyên chở, hoặc một số các điều khoản và điều kiện như thế bằng cách dẫn chiếu đến một nguồn hay một chứng từ không phải bản thân vận đơn (vận đơn rút gọn hoặc vận đơn trắng lưng); ngân hàng sẽ không kiểm tra nội dung các điều khoản và điều kiện đó. vii/. Không ghi chú là chứng từ này phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu và/ hoặc không thể hiện là con tàu chở hàng chỉ chạy bằng buồm. viii/. Tất cả các điểm khác đáp ứng mọi yêu cầu của TDT. B. Với mục đích của Điều khoản này, chuyển tải có nghĩa là dỡ hàng từ một con tàu và bốc lên một con tàu khác trong quá trình chuyên chở trên biển từ cảng bốc hàng đến cảng dỡ hàng quy định trong TDT. C. Trừ khi TDT không cho phép chuyển tải, ngân hàng sẽ chấp nhận vận đơn ghi rõ hàng hóa sẽ được chuyển tải, miễn là toàn bộ việc chuyên chở đường biển được sử dụng bởi một và cùng một vận đơn. D. Ngay cả khi TDT không cho phép chuyển tải, ngân hàng sẽ chấp nhận vận đơn: i. Ghi rõ việc chuyển tải sẽ xảy ra trong chừng mực mà hàng hóa liên quan được gửi bằng các Container, Moor, sà lan Lash như đã chứng minh trong vận đơn, miễn là toàn bộ việc chuyên chở đường biển được sử dụng bởi một và cùng một vận đơn. ii.Có các điều khoản in sẵn quy định rằng Người chuyên chở có quyền chuyển tải. Trên thế giới hiện nay có chiều hướng sử dụng vận đơn đường biển không có giá trị lưu thông (gọi tắt là vận đơn không lưu thông). ở các khu vực châu ÂU, Mỹ, Nam Mỹ, Scandinavia và một số vùng tại Viễn Đông, vận đơn không lưu thông ngày càng trở thành phổ biến. Để theo kịp sự phát triển của kỹ thuật vận tải quốc tế, WB đã quyết định dành riêng một Điều khoản nói về vận đơn không lưu thông. Quan điểm đã được Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên Hiệp Quốc ủng hộ, và được coi là sự phát triển quan trọng đối với nền mậu dịch thế giới. Đấy là lý do mà Điều khoản 24 được bổ sung vào Bản điều lệ 500. Điều khoản 23 và Điều khoản này hoàn toàn giống nhau về mọi phương diện (Nội dung, cách diễn đạt, nguyên tắc áp dụng của chứng từ vận tải... ). Điều khác biệt duy nhất là Điều khoản 23 dành cho vận đơn đường biển cảng đến cảng nhưng không có giá trị trong lưu thông. Do vậy, mọi sự giải thích, bình luận của Điều khoản 23 được áp dụng cho Điều khoản này, từ phần nói về TÍNH LƯU THÔNG của vận đơn đường biển. Ở một số nước trong khối EC hoặc các nước trong khu vực Nam Mỹ, cảng biển giữa hai nước rất gần, thời gian vận chuyển ngắn, dẫn đến tình trạng hàng đến cảng, nhưng chứng từ qua ngân hàng chưa đến kịp, gây chậm trễ ách tắc trong việc nhận hàng. Vận đơn không lưu thông ra đời nhằm giải quyết vấn đề này. Non- Negotiable Sea Waybill không bao gồm tất cả các chức năng của vận đơn đường biển thông thường như tên gọi của vận đơn truyền thống. Do vậy, ta có thể gọi nó là phiếu gửi hàng hoặc biên lai giao nhận không có giá trị lưu thông, chuyển nhượng. Nó được sử dụng trước tiên như là chứng từ chứng minh việc nhận hàng từ con tàu chuyên chở và là bằng chứng về hoạt động chuyên chở giữa hãng vận tải và chủ hàng. Hàng sẽ được giao cho người nhận hàng ghi trong hồ sơ vận tải khi họ được xác thực mà không cần xuất trình chứng từ gốc của vận đơn đường biển. Điều này cũng tương tự việc gửi hàng bằng đường bưu điện. Khách hàng được thông báo xuất trình chứng từ để chứng minh mình là người được quyền nhận hàng thì sẽ được giao hàng. ĐIỀU 25 : VẬN ĐƠN THEO HỢP ĐỒNG THUÊ TÀU A. Nếu TDT yêu cầu hay cho phép xuất trình vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, ngân hàng sẽ, trừ khi quy định khác, chấp nhận chứng từ dù là tên gọi như thế nào. i. Thể hiện là nó phụ thuộc vào 85

hợp đồng thuê tàu ii.Thể hiện trên bề mặt được ký hoặc được xác thực bởi :
Không có chuyển tải, dù ở dạng nào, và là tàu chuyến được thuê chở hàng từ cảng bốc đến cảng dỡ cuối cùng. 3. Hợp đồng thuê tàu: Và nguyên tắc, vận đơn thưo HĐTT muốn có tác dụng đầy đủ phải có đính kèm HĐTT. Do vậy một số tín dụng thư yêu cầu vận đơn kèm HĐTT. Trong trường hợp đó, ngân hàng sẽ phải kiểm tra HĐTT như các chứng từ khác? Không có tiêu chuẩn, nguyên tắc nào đề ta cho ngân hàng trong việc kiểm tra HĐTT. Việc ngân hàng kiểm tra HĐTT là không hợp lý và là gánh nặng cho ngân hàng thương mại khi họ được phép không liên quan đến việc thực hiện các loại hợp đồng dẫn chiếu trong tín dụng thư (Điều 3). Hơn nữa hình thức và nội dung của hợp đồng thuê tàu được soạn thảo trên cơ sở luật vận tải biển quốc tế, được cộng đồng người chuyên chở chấp nhận và hai bên ký kết hợp đồng nhất trí. Do vậy, WG quyết định nói rõ là "Ngân hàng sẽ không kiểm tra HĐTT, chỉ chuyển giao chứng từ mà không chịu trách nhiệm gì." ĐIỀU 26: CHỨNG TỪ VẬN TẢI ĐA PHƯƠNG THỨC A. Nếu tín dụng thư yêu cầu xuất trình chứng từ vận tải gồm ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau (vận tải đa phương thức) ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ dù được gọi như thế nào, trừ khi được qui định khác trong tín dụng thư.
1. Thế nào là vận tải đa phương thức (VTĐPT) Phương thức vận tải này được gọi dưới những tên khác nhau : vận tải đa phương thức, vận tải hỗn hợp, vận tải liên hợp, …Tiếng Anh dược diễn đạt bằng các từ: Multimodel transport, combined trasport, inter-model transport. Do tính đa dạng của cách gọi, WB đã chấp nhận những chứng từ VTĐPT có bất cứ tiêu đề như thế nào: • Mẫu 1: LINER BILL OF LADDING • Mẫu 3: COMBINED OR PORT-TO-PORT OCEAN BILL OF LADDING • Mẫu 7: NEGOTIABLE FIATA MULTIMODEL TRANSPORT BILL OF LADDING • Mẫu 8: COMBINED TRANSPORT BILL OF LADDING • Mẫu 9: MULTIMODEL TRANSPORT BILL OF LADDING Miễn là chúng nó phải thể hiện được ít nhất là hai phương thức vận tải. Chúng có thể liên quan các phương thức vận tải: • Đường không - Đường biển. • Đường sắt - Đường bộ - Đường biển • Đường biển - Đường không - Đường bộ. Tiêu đề của Điều khoản này có tên " chứng từ vận tải" chứ không phải vận đơn như các điều khoản trước. Cách gọi này thể hiện được tính chính xác và nội dung bao quát của chứng từ này. Khi nói vận đơn, người ta nghĩ đến chứng từ vận tải liên quan đến hàng hóa chuyên chở bằng tàu biển. Chứng từ vận tải thể hiện được tính khái quát của nó, nói lên quá trình vận tải từ nơi đến nơi cuối cùng, với sự tham gia của nhiều phương tiện, nhiều phương tiện, nhiều loại hình vận tải qua nhiều nơi khác nhau. Dùng tiêu đề nào hay nhất: Multimodel transport document hay là combined transport document, hay là inter-transport document. Sau các cuộc thảo luận trong các Ban chuyên trách của ICC, tham khảo ý kiến của Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD), thuật ngữ Multimodel transport document được WG chọn làm tiêu đề cho Điều khoản này. VTĐPT được áp dụng trong vài chục năm. Thực tế này đã thể hiện sự phát triển mạnh mẽ trong ngành công nghiệp vận tải trên thế giới, đơn giản hóa thủ tục cho chủ hàng, tránh những ách tắc, chậm trách trong chuyên chở hàng hóa. Nhận thức được tầm quan trọng của phương thức VTĐPT, Uỷ ban về Vận tải của UNCTAD đã chỉ thị cho Ban thư ký của UNCTAD hợp tác chặt chẽ với các cơ quan Quốc tế, các tổ chức thương mại soạn thảo Quy tắc chung về Chứng từ vận tải hỗn hợp trên cơ sở quy tắc Hague và quy tắc Hague Visby. Ban thư ký UNCTAD đã làm việc với các tổ chức liên quan và thiết lập một nhóm công tác hỗn hợp giữa UNCTAD và ICC nhằm soạn thảo bản quy tắc mới. "Quy tắc của UNCTAD/ ICC về chứng từ vận tải đa phương thức" số xuất bản 481 ICC có hiệu lực ngày 01/ 01/ 1992, thay thế "Quy tắc Thống nhất về Chứng từ Vận tải hỗn hợp của phòng thương mại Quốc tế" số xuất bản 298. 2. Các bên được quyền ký cấp chứng từ VTĐPT Ngoài đối tượng đã nêu trong Điều 23 (vận đơn đường biển) là người chuyên chở và thuyền trưởng, đối tượng thứ 3 là Người điều hành PTVTĐPT được quyền ký cấp chứng từ VTĐPT. Tất nhiên các đối tượng này có thể uỷ quyền cho đại lý của mình ký thau mặt/ nhân danh, Nếu cần thiết.

88

Theo "Quy tắc của UNCTAD/ ICC về chứng từ vận tải đa phương thức", Người Điều hành PTVTĐPT là bất cứ ai ký kết hợp đồng VTĐPT và chịu trách nhiệm về việc chuyên chở như là Người chuyên chở. Người chuyên chở là người thực sự thực hiện hoặc cam kết việc chuyên chở hay một phần công việc đó, dù người ấy có phải là Người điều hành PTVTĐPT hay không. Như vậy Người điều hành PTVTĐPT có thể đảm nhận chuyên chở thực sự bằng các phương tiện vận tải của chính mình nhưng cũng có thể thuê các hãng chuyên chở hàng hoá theo hợp đồng đã ký với chủ hàng. Ở trường hợp thứ nhất, Người chuyên chở hoặc thuyền trưởng, hãng vận tải hoặc đại lý sẽ ký phát, tùy theo từng trường hợp. Trong suốt chặng đường, chủ hàng sẽ được cấp một chứng từ vận tải từ nơi gửi hàng đến nơi cuối cùng. Giữa từng chặng đường chuyên chở, các hãng vận tải hoặc các đại lý sẽ làm thủ tục giao nhận cho nhau nguyên tắc vận tải liên hợp mà chủ hàng không cần biết. Việc thể hiện tên, chức năng của người ký phát chứng từ VTĐPT tương đương việc thể hiện vận tải đường biển (Điều 23). A Đường sắt B Đường biển C Đường bộ D - Từ A đến B (đường sắt): Nếu nơi nhận là A thì chứng từ vận tải sẽ do Người Điều hành PTVTĐPT hoặc Người chuyên chở hoặc đại lý giao nhận ký phát cấp cho chủ hàng. - Từ B đến C (đường biển): Nếu nơi nhận hàng là cảng biển tại B thì có thể Người điều hành hoặc Người chuyên chở, hoặc Thuyền trưởng tàu chở hàng, hoặc đại lý của họ ký chứng từ vận tải cấp cho chủ hàng. - Từ C đến D (đường bộ): Nơi đến cuối cùng là D. Phần lớn trong vận tải liên hợp. Người điều hành PTVTĐPT hoặc Người chuyên chở đều uỷ quyền cho đại lý giao nhận của mình ký phát chứng từ vận đơn. Đại lý giao nhận cũng có thể là Người điều hành PTVTĐPT hoặc là Người chuyên chở (sẽ nói rõ ở Điều 30). 3. Những mô tả về địa điểm giao hàng, nơi bốc hàng, nơi dỡ hàng, điểm giao hàng cuối cùng trên chứng từ VTĐPT: Chứng từ VTĐPT phải biểu hiện tối thiểu hai chặng đường của hai phương tiện vận tải. Hãy xét 2 thí dụ sau để hiểu nội dung hành trình được mô tả trong chứng từ VTĐPT Thí dụ : Công ty A của Lào bán hàng cho công ty B của Bỉ. Tín dụng thư quy định là giao hàng từ Viên Chăn đến Brusserl, xuất trình chứng từ VTĐPT hàng hóa được chuyên chở trên các tuyến đường sau: Viên Chăn _________Đà Nẵng__________Anwerpt__________Brusserl. Từ Viên Chăn đến Đà Nẵng: Vận tải bằng xe tải. Từ Đà Nẵng đi Anwerpt: Vận tải bằng tàu biển. Từ Anwerpt đến Brusserl: Vận tải bằng tàu hỏa. Vận đơn hỗn hợp được thể hiện như sau: Nếu ngày nhận đơn và ngày cấp chứng từ cùng một thì không cần ghi thêm ngày tháng ở phần này. ngược lại, ngày 20/ 06/ 1995 được coi là ngày giao hàng. Như vậy vận đơn này thể hiện hai phương tiện chuyên chở là xe tải và tàu biển. Nơi giao hàng theo quy định của tín dụng thư là Viên, khác với nơi bốc hàng (Đà Nẵng), nơi đến cuối cùng theo quy định của tín dụng thư là Brusserl, khác với cảng dỡ hàng (Anwerpt). Khác với vận đơn thường, chứng từ VTĐPT cho phép ghi tàu chở hàng theo dự kiến mà không cần ghi "đã bốc" lên tàu đó. Nơi cấp chứng từ vận tải là Viên Chăn, nên con tàu bốc hàng tại Đà Nẵng chỉ là dự kiến (theo hợp đồng VTĐPT). Có thể đúng tàu đó nhưng cũng có thể là con tàu khác bốc hàng.Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn của phương thức vận tải liên hợp. 89

Thí dụ 2: *TDT qui định : +Combined Transpost documents +Shipment from HCM City to Antwerp * VĐ đa phương thức được xuất trình ghi rõ: Port of loading: HCM City Port pf discharge: Amsterdam Place of Final destination: Antwerp Như vậy từ cảng TPHCM đến Amsterdam, hàng được vận chuyển bằng tàu biển, chặng tiếp theo sẽ được vạn tải bằng phương tiện khác đến nơi giao hàng cuối cùng là Amsterdam đúng theo qui định của TDT. Điều lưu ý phương thức vận tải liên hợp là bao hàm sự chuyển tải do vậy TDT sẽ cho phép chuyển tải (hoặc không ghi cấm chuyển tải ) Ở thí dụ 2, nếu TDT qui định VĐ đường biển (Ocean B/L) thì NH sẽ từ chối vì cảng dỡ hàng (Port of discharge) là Amsterdam, khác với TDT yeu cầu là Antwerp, dù cho chuyển tải được phép. Nội dung phần IV, V, VI, VII của Điều 23 và 26 được thể hiện tương tự 4. Chuyển tải trong vận tải đa phương thức: Đã là vận tải đa phương thức thì đương nhiên là phải chuyển tải. Do vậy điều khoản này loại này trừ phần định nghĩa về chuyển tải và khẳng định dù cho tín dụng thư cấm chuyển tải, người điều hành phương tiện vận tải đa phương thức vẫn có quyền chuyển tải. Chứng từ VTĐPT, Nếu có ghi quyền chuyển tải như vậy vẫn không bị coi là bất hợp lệ. Đây là điều mà các ngân hàng phát hành tín dụng thư phải lưu ý để tránh sự mâu thuẫn trong các điều khoản và không để cho tín dụng thư bị coi là bất hợp lệ. ĐIỀU 27 : CHỨNG TỪ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG A. Nếu tín dụng thư yêu cầu chứng từ vận tải hàng không (vận tải hàng không), ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ dù được gọi như thế nào, trừ khi quy định khác trong tín dụng thư. i. Thể hiện trên bề mặt ghi tên Người chuyên chở và được ký hoặc được xác thực bởi : - Người chuyên chở. - Đại lý đích danh thay mặt hay nhân danh Người chuyên chở. Bất kỳ chữ ký hay xác thực nào của Người chuyên chở cũng phải được chấp nhận diện là Người chuyên chở. Đại lý ký hoặc xác thực cho Người chuyên chở cũng phải ghi rõ tên và chức năng của phía này, nghĩa là Người chuyên chở mà đại lý đó làm đại diện.
việc chuyển tải sẽ có hoặc có thể xảy ra miễn là toàn bộ quá trình chuyên chở chỉ được sử dụng cùng một chứng từ vận tải hàng không. 1. Đặc thù của chứng từ vận tải hàng không : Thật là khuyết điểm Nếu không bổ sung Điều khoản nói về chứng từ vận tải hàng không (CTVTHK) trong giao dịch tín dụng thư. Bản điều lệ 400 hoàn toàn không đề cập đến chứng từ vận tải hàng không. Vậy điều kiện nào để chấp nhận chứng từ hàng không, dựa trên chức năng đặc thù nào của nó ? Về cơ bản CTVTHK có chức năng như Vận đơn thông thường trong vận tải đường biển. Tuy nhiên do những đặc điểm đặc thù riêng, CTVTHK không có chức năng sở hữu hàng hóa, không có giá trị lưu thông . hàng hoá đượcchuyển giao cho người nhận hàng khi họ chứng minh được điều đó.Nghĩa là về chức năng CTVTHK tương đương khi vận tải đường biển không lưu thông Đặc thù này xuất phát từ thực tế là hàng hoá vận chuyển bằng máy bay bao giờ cũng về đến đích trước chứng từ phải qua xử lý của ngân hàng, bưu điện ....Người chuyên chở lập VĐHK gồm nhiều bản. • Đại lý vận tải giữ • Giao cho người nhận hàng tại nơi đến • Giao cho người gửi tại nơi đi . • Các bản còn lại dùng bổ sung thêm cho các bên liên quan, thường gọi là : Người xuất khẩu sau khi giao hàng, nhận bản 3 trình cùng với các chứng từ khác để thanh toán tiền theo Tín dụng thư. Do vậy sẽ không thể có "Full set of Airway Bills " Nếu giao hàng bằng máy bay. Đây là những lỗi mà những nhà nhập khẩu trước đây mắc phải khi yêu cầu mở Tín dụng thư với điều kiện trình toàn bộ VĐHK để thanh toán. Chứng từ vận tải hàng không có những tiêu đề khác nhau. Ngân hàng sẽ chấp nhận tất cả các tiêu đề đó miễn là chúng nó áp dụng đầy đủ yêu cầu của điều khiển này: • * Mẫu 10: House Airway Bill • issued by Jarding Dynamic Freight Services • * Mẫu 11: Airway Bill (Air Consignment note) – MAWB • issued by KUEHNE & NAGEL (HK) LTD • * Mẫu 12: Airway Bill • issued by LEP INT’L (FAR EAST LTD) tất cả các AWB trên đều có chữ "not negotiable", đúng theo bản chất của chúng. 2. Nội dung được thể hiện trên CTVTHK • Người chuyên chở hoặc đại lý của nó sẽ ký CTVTHK và đều phải ghi rõ tên, chức năng của mình trên chứng từ • Nếu ở vận đơn ở đường biển phải được ghi "đã bốc" thì VĐHK chỉ cần ghi (thường được in sẵn) : "đã nhận hàng để chuyên chở" là đủ. Do đặc thù của VTHK nên không thể yêu cầu CTVTHK ghi như vài trường hợp trước đây của số ngân hàng phát hành tín dụng thư. • Ngày giao hàng (hoặc gởi hàng) được thể hiện trên CTVTHK như thế nào? • "Nhận hàng để chuyên chở" có thể là ngày hàng được gởi đi cũng thể là không phải vì thủ tục hàng không có thể mất một thời gian hoặc chờ đủ một lượng hàng cho một chuyến máy bay. • Nếu Tín dụng thư yêu cầu ngày gửi hàng đi thực sự thì hàng vận tải (hay đại lý giao nhận) sẽ ghi cụ thể ngày đó và chỉ cấp CTVTHK đúng ngày đó mà thôi mặc dù hàng đã 91

được chuyển giao trước đó. Trường hợp này, ngày giao hàng ghi trong TDT là ngày hàng thực tế gửi đi. • Nếu TDT không quy định như trên thì ngày ký CTVTHK chính là ngày giao hàng. Mối liên quan này tương tự như mối liên quan giữa ngày "on board" và ngày ký vận đơn ở điều 23 và 24. • Khác với các vận đơn đường biển CTVĐHK có thêm phần dành riêng ghi những dữ liệu kiểm soát và điều hành có tính chất nội bộ giữa các hãng vận tải hay đại lý. Đó là ô nhỏ được in màu đậm có hay không có tiêu đề "chỉ dành cho người chuyên trở sử dụng" . Các ô này được ghi số chuyến bay và / hoặc ngày bay .Ngân hàng không cần biết nội dung của mục này vì chuyến bay ngày bay không dược coi là ngày giao hàng theo quy định của TDT và không điều chỉnh sửa đổi những thông tin khác của chính bản chứng từ đó. • Như đã phân tích ở phần đầu CTVTHK hay nói cụ thể là VĐHK được lập ít nhất là 3 bản gốc Bản 2 đươcj gửi theo hàng hoá đến sân bay dỡ hàng gaio cho người nhận hàng. Thông thường tên địa chỉ đầy đủ của người nhạn hàng được ghi trong mục"Consinee's name & address"... cơ quan chức năng sẽ thông báo cho người nhận hàng làm mọi thủ tục pháp lý minh chứng tư cách của mình để nhận hàng. Nếu ngân hàng phát hành TDT muốn kiểm soát hàng hoá bằng cách giữ bộ chứng từ? Do VĐHK là chứng từ không có giá trị lưu thông, về lý thuyết nó được phát hành ghi đích danh người nhận hàng mà không phải chứng từ "theo lệnh". Tuy nhiên trong thực tế ngân hàng phát hành có thể yêu cầu VĐHK theo lệnh mình nhằm đảm bảo quyền định đoạt hàng hoá. Người mở TDT phải xuất trình VĐHK để ngân hàng ký xác thực giá trị pháp lý của mình là người nhận hàng và cũng là biểu hiện sự chấp thuận của ngân hàng đối với việc chuyển giao hàng hoá. • Nhà xuất khẩu trong trường hợp giao hàng bằng máy bay nên lưu ý điều này nhằm bảo đảm là người mua không được nhận hàng Nếu chứng từ chưa được thanh toán. Do vậy TDT phải quy định VĐHK phải được lập theo lệnh của ngân hàng phát hành. • Một số VĐHK có thể ghi đầy dủ điều khoản, điều kiện (mẫu số 1&2) hoặc dẫn chiếu nguồn tài liệu khác(mẫu số 3) • " Các bên đã thoả thuận là hàng hoá miêu tả trong chứng từ này được chấp nhận trong điều kiện vàvtình trạng bên ngoài tốt (trừ khi có ghi chú riêng) để chuyên trở theo đúng các điều kiện ghi phía sau hợp đồng. • Cũng như các chứng từ vận tải khác, VĐHK được thiết lập theo đúng quy địnhcủa các điều khoản này và phù hợp với yêu cầu của TDT. 3. Chuyển tải hàng trong CTVTHK Hàng hoá hoá vận tải bằng hàng không có thể chuyển tải hoặc không cần chuyển tải. Do vậy cần phải định nghĩa rõ về chuyển tải. Nói chung chứng từ trong vận tải biển cũng như chứng từ vân tải hàng không thủ tục và nguyên tắc chuyển tải đều giống nhau. Vấn đề chuyển tải trong chuyên trở hàng không được tranh luận nhiều trong WG . Sau khi tham khảo ý kiến của các ban, ngành trong ICC sự nhìn nhận thực tiễn về công nghệ vận tải hàng không đã được thống nhất. Khả năng chuyển tải của hành trình hàng không quốc tế từ sân bay nội địa nước này đến sân bay nội địa nước khác là hoàn toàn có thể thí dụ một chuyến bay từ Madrid (Tây Ban Nha) đến Houston (Mĩ) thông thường được thực hiện bởi hãng Iberia Airlines từ Madrid đến New york và chuyển tải đến Houston qua hãng hàng không khác. Tương tự hàng hoá Mĩ đến Trung Đông có thể bắt đầu từ New york Frankfurt bằng hãng hàng không Lufthansa airlines (Đức) nhưng sau đó được chuyển sang máy bay khác để từ Frankfurt đến sân bay cuối 92

cùng. Cụ thể hơn ta thấy rằng những chuyến bay từ úc đến Việt Nam (và ngược lại) đã có chuyến bay trực tiếp nhưng vẫn có những chuyến bay được chuyển tải qua Hong Kong hay Bangkok. Do vậy Nếu TDT yêu cầu chứng từ vận tải hàng không ngân hàng sẽ chấp nhận VĐHK có ghi " chuyển tải sẽ hoặc có thể sảy ra" bất kể chuyển tải được phép hay không, miễn là việc giao hàng thể hiện trên duy nhất một VĐHK mà TDT quy định. Điều này phù hợp với kỹ thuật và tập quán của ngành công nghiệp vận tải hàng không hiện đại. Tuy nhiên, khi người mua nhất thiết chỉ chấp nhận hàng hoá trở trên một máy bay duy nhất và đi thẳng thì TDT có thể loại trừ Điều khoản 27 (c). ĐIỀU 28: CHỨNG TỪ VẬN TẢI ĐƯỜNG BỘ, ĐƯỜNG SẮT HAY ĐƯỜNG SÔNG A. Nếu TDT yêu cầu chứng từ vận tải đường bộ đường sắt hay đường sông, ngân hàng sẽ, trừ quy định khác trong TDT chấp nhận chứng từ theo yêu cầu, dù được gọi như thế nào. i. Thể hiện trên bề mặt tên người chuyên trở và được ký hay xác thực bởi người chuyên trở hay đại lý đích danh thay mặt nhân danh người chuyên trở và/ hoặc có dấu hiệu biên nhận hay sự thể hiện khác của người chuyên trở hay đại lý đích danh thay mặt nhân danh người chuyên trở. Bất cứ chữ ký, sự chứng thực dấu biên nhận hay sự thể hiện khác của người chuyên trở phải được nhận dạng trên bề mặt là của người chuyên trở. Đại lý ký tên hay xác thực nhân danh người chuyên trở phải ghi rõ tên của người kia tức là người chuyên trở mà nó làm đại lý, và ii. Ghi rõ hàng hoá đã được nhận để bốc, gửi đi hay chuyên trở hoặc những từ tương tự. Ngày phát hành sẽ được coi là ngày giao hàng trừ khi chứng từ vận tải có dấu biên nhận sẽ được coi là ngày giao hàng, và iii. ghi rõ nơi bốc hàng và nơi đến quy định trong TDT, và iv. tất cả các điều khoản khác đáp ứng mọi quy định trong TDT. B. Nếu chứng từ vận tải không ghi rõ số bản được phát hành ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ vận tải xuất trình như là chọn một bộ chuyển tải đầy đủ. Ngân hàng sẽ chấp nhận chuyển tải vận tải là bản gốc cho dù chúng có được ghi là bản gốc hay không. C. Với mục đích của điều khoản này chuyển tải có nghĩa là dỡ hàng từ phương tiện vận tải và bốc sang phương tiện vận tải khác, theo những phương thức vận tải khác nhau trong quá trìng chuyên trở từ nơi dỡ hàng đến nơi quy định trong TDT. D. Ngay cả khi TDT cấm chuyển tải ngân hàng vẫn chấp nhận chứng từ vận tải bằng đường bộ đường sắt, đường sông có ghi là chuyển tải sẽ hoặc có thể xảy ra miễn là chỉ có một chứng từ vận tải duy nhất, bằng và cùng một phương thức vận tải được sử dụng cho toàn bộ hành trình. Những chứng từ vận tải cơ bản thông thường đã được đề cập ở điều 23,24,25,26 và 27.Điều khoản này đề cập đến chứng từ vận tải khác ít thông dụng hơn trong buôn bán quốc tế của Việt Nam đó là chứng từ vận tải đường bộ đường sắt, đường sông mà các điều khoản trước không đề cập. Trong mậu dich quốc tế giữa các nước láng giềng, việc vận tải hàng hoá bằng xe lửa, xe vận tải, ca nô rất thông dụng vì nhanh chóng và thuận tiện. Thí dụ: Các nước có chung biên giới đất liền ở Châu Âu (khối EC), ở Châu Á (Mông Cổ, Trung quốc, Lào, Thái Lan...). vùng Đông Nam Á vị trí địa lý không cho phép các nước phát triển loại hình vận tải trên mà chủ yếu là vận tải biển. Tại Việt Nam sau khi có đường sắt và đường bộ xuyên quốc gia: Việt Nam – Campuchia - Thái lan, Việt Nam - Lào, các loại hình vận tải nói trên sẽ đóng vai trò chính trong chuyên trở hàng hoá giữa các nước liên quan. Các nhà xuất khẩu, nhập khẩu và các ngân hàng thương mại sẽ có điều kiện tiếp xúc và làm quen qua thực tế với các loại chứng từ vận tải này. 93

Điều khoản này chỉ phác thảo những đặc thù của chứng từ vận tải của các loại hình vận tải và các điều kiện riêng gắn với việc phát hành chứng từ vận tải. Nét cơ bản của điều khoản này là: • Phân biệt rõ nhà chuyên trở / Người ký phát chứng từ. • Nhận thức được thực tế là đối với các loại hình vận tải trên "bộ chứng từ đầy đủ" không được sử dụng trong buôn bán và do vậy không được phát hành bởi nhà chuyên trở. 1. Nhà chuyên trở và người ký phát chứng từ. • Nếu hàng hoá được chuyên trở bằng phương tiện nào thì yêu cầu xuất trình chứng từ vận tải của phương tiện đó. Thí dụ: Chứng từ vận tải đường bộ nếu chuyên trở bằng xe tải, chứng từ vận tải đường sông Nếu hàng hoá được chuyên trở bằng ca nô, xà lan, tàu pha sông biển... dù nó có những tiêu đề khác nhau. Chứng từ vận tải có thể được gọi: - Đối với vận tải đường bộ: Truck Bill of ladding, Waybill, Road Consignment Note... - Đối với vận tải đường sắt: Raiway Consignment Note, Railwaybill... - Đối với vận tải đường sông: Inland Waterway Bill of Lading, Waybill, Consignment Note... Đều được chấp thuận miễn là trên bộ mặt của chúng thể hiện đúng theo quy định của điều khoản này. Cũng như các loại chứng từ vận tải khác, CTVT đường bộ, đường sắt, đường sông đều được ghi rõ tên của người chuyên trở và / hoặc có đóng dấu đã nhận hàng hoặc những biểu hiện khác của việc nhận hàng của người chuyên trở. Đặc thù của loại hình vận tải trên chỉ có người chuyên trở (có thể là các hãng vận tải, có thể là chủ phương tiện vận tải) được quyền ký cấp các CTVT. Trên thực tế phần lớn việc ký phát các CTVT đều được đại lý uỷ quyền ký thay mặt và nhân danh người chuyên trở. Cũng như các điều khoản nói về chứng từ vận tải điều khoản này yêu cầu người ký phát phải ghi rõ tên quyền hạn, chức năng của mình. • CTVT đường bộ, đường sắt, đường sông phải ghi hàng hoá đã được nhận ở điểm bốc, điểm gửi đi, điểm chuyên trở. Điều này có vẻ mâu thuẫn với một thực tế là bản thân các loại chứng từ này đều không thể hiện đại tính trên vì đơn giản là mọi nghĩa vụ quyền lợi của các bên liên quan đựơc ghi rõ trong "Hiệp định quốc tế về vận tải hàng hoá bằng đường sắt" và "Hiệp định về Hợp đồng Vận tải Hàng hoá Quốc tế bằng Đường bộ". Do vậy yêu cầu này không thể đáp ứng Nếu người chuyên trở hoặc đại lý không ghi thêm vào CTVT "nhận để bốc" "nhận để chuyển giao", "nhận để gửi đi". Nhưng để thuận tiện người mở và ngân hàng phát hành có thể loại bỏ các biểu hiện như vậy trong TDT. Theo WG điều khoản này thực chất cho phép ngân hàng chấp nhận chứng từ vận tải phát hành theo các quy ước quốc tế nhưng việc thể hiện các từ ngữ "nhận để bốc" vẫn cứ phải thoả mãn. (Tài liệu ICC số XB 511) Ngày giao hàng theo TDT được biểu hiện bằng ngày cấp CTVT. Tuy nhiên, nếu có dấu nhận hàng có in ngày của mỗi người chuyên trở thì ngày này chính là ngày giao hàng mà TDT quy định. 2. Bản chính và bản phụ. Khác với vận đơn liên hợp, vận đơn đường biển, các chứng từ vận đơn đường bộ, đường sắt đường sông không có giá trị lưu thông và biểu hàng hoá nên không cần thiết phải ghi tổng số bản phát hành và không cần đóng dấu bản gốc. Do vậy ngân hàng sẽ chấp nhận bất cứ bao nhiêu bản xuất trình và là bản gốc nếu chứng từ đó không đóng dấu "copy" bất kể TDT có quy định khác. 3. Vấn đề chuyển tải trong vận tải đường bộ, đường sắt, đường sông. Trên thực tế vận tải bằng các loại hình kể trên việc chuyển tải là có thể xảy ra. Thí dụ trong quá trình vận tải bằng đường bộ từ nước này qua biên giới để vào nước khác, hải quan của nước nhập khẩu có thể cấm 94

không cho xe tải đó chuyển thẳng hàng vào nội địa nước mình. Do vậy hàng phải dỡ và bốc sang các xe tải của người chuyên trở khác chuyển đến nơi cuối cùng nằm trong nội địa nhà nhập khẩu. Tương tự, hàng được vân chuyển bằng xe lửa từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu có thể phải chuyển tải tại biên giới 2 nước sang loại xe lửa của nước nhập khẩu có kích thước đường ray lớn hoặc nhỏ hơn hệ thống đường ray của nước xuất khẩu. Do vậy WG đã dành phần cuối của điều khoản này nhằm nêu ra nguyên tắc chuyển tải trong chuyên trở bằng đường bộ, đường sắt, đường sông và khẳng định quyền được phép chuyển tải ở một số trường hợp (như ở thí dụ trên) của nhà chuyên trở mặc dù TDT không cho phép. Điều này tương tự nói về chuyển tải của loại hình vận tải bằng máy bay và hợp với thông lệ và thực tiễn kỹ thuật vận tải quốc tế. ĐIỀU 29: BIÊN LAI CHUYỂN PHÁT NHANH VÀ BIÊN LAI BƯU ĐIỆN A. Nếu TDT yêu cầu Biên lai bưu điện hay giấy chứng nhận gửi hàng bưu điện thì ngân hàng sẽ, trừ khi quy định khác trong TDT, chấp nhận Biên lai bưu điện hay giấy chứng nhận gửi hàng bưu điện, i. thể hiện trên bề mặt và được đóng dấu hoặc xác thực và được ghi ngày tại nơi mà TDT quy định hàng hoá được gửi đi và ngày đó được coi là ngày bốc hàng hay giao hàng và ii. tất cả các điểm khác đáp ứng mọi yêu cầu của TDT. B. Nếu TDT quy định chứng từ do hãng chuyển phát nhanh hay dịch vụ gửi hàng bưu chính phát hành, thể hiện hàng đã được nhận để giao thì ngân hàng sẽ, trừ khi quy định khác trong TDT, chấp nhận chứng từ dù được gọi như thế nào, i. thể hiện trên bề mặt tên của hãng/ dịch vụ chuyển phát nhanh và được đóng dấu, ký tên hay được xác thực bởi hãng/ dịch vụ chuyển phát nhanh đích danh đó, (trừ khi TDT quy định rõ là chứng từ được phát hành bởi một hãng/ dịch vụ chuyển phát nhanh cụ thể, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ do bất cứ hãng/ dịch vụ chuyển phát nhanh nào phát hành), và ii. chỉ rõ ngày đóng gói hàng hay ngày nhận hàng hay những từ tương tự, ngày đó được coi là ngày xếp hàng hay ngày giao hàng, và iii. tất cả mọi điểm khác đáp ứng yêu cầu cầu TDT. Hàng hoá có thể được chuyên trở qua đường bưu điện: hàng nhẹ, hàng mẫu.. các chứng từ liên quan đến việc chuyên trở này không được gọi là chứng từ vận tải mà được gọi cụ thể là "Biên lai bưu điện" "Giấy chứng nhận gửi hàng qua bưu điện". Trong bản điều lệ 400 quy định về chứng từ giao hàng qua bưu điện được đề cập tại Điều 30 nhưng chưa cụ thể và đầy đủ. ĐK này được viết lại, bổ sung thêm việc giao hàng bằng "Chuyển phát nhanh" (CPN): Carrier và "Biên lai dịch vụ gửi hàng bưu chính". Xét về mặt chức năng các loại chứng từ trên chỉ là biên nhận của các cơ quan Bưu chính hoặc các hãng vận tải (gọi chung là người chuyên trở: Carrier) xác thực việc tiếp nhận hàng hoá từ người gửi để chuyển giao cho người nhận. Chúng là loại không có giá trị lưu thông, hàng hoá được giao tận tay, đúng tên, đúng địa chỉ thể hiện trong chứng từ và được người nhận xác thực việc nhận hàng và ghi ngày tháng. Người chuyên trở (người phát hành Biên lai) sẽ giao cho người gửi 1 bản để làm chứng từ thanh toán hoặc lưu trữ hồ sơ. Bản Biên lai này chỉ nhằm chứng minh nghĩa vụ của người bán đối với người mua theo ĐK của hợp đồng và quy định của TDT, không có giá trị để nhận hàng hoặc quyền sở hữu hàng hoá như các loại CTVT khác (vận đơn đường biển, CTVT liên hợp...). Người mở TDT, vì chứng từ bất hợp lệ từ chối thanh toán trong khi vẫn nhận hàng. Điều này hoàn toàn có thể sảy ra Nếu người mua có hành vi không tốt. 95

1. Biên lai bưu điện và giấy chứng nhận gửi hàng bưu điện. Đặc thù của các chứng từ do Bưu điện cấp là luôn luôn có dấu in ngày tháng nhận hàng, hoặc có xác thực bằng chữ ký và ghi ngày thàng của cơ quan bưu điện. Ngày thể hiện trên chứng từ đó được coi là ngày giao hàng. 2. " Biên lai chuyển phát nhanh " và " Biên lai dịch vụ gửi hàng bưu chính" Là 2 loại chứng từ của cơ quan chuyên ngành về vận tải hàng hoá bưu chính. Hiện nay tại Việt Nam đang có mặt các hãng chuyển phát nhanh (CPN) như: DHL (singapore), Tomas National Transport (TNTAustralia), airborne epxpress (USA) Federal epxpress (USA) United Parcel Service (UPS-USA). Đặc điểm của các loại chuyển phát nhanh là nhanh chóng thuận tiện. Bất cứ tài liệu hàng hoá nào cũng có thể qua các hãng PCN như trên miễn là không bị cấm. Các hãng PCN như DHL có chi nhánh đại diện của mình hầu như ở tất cả các nước trên thế giới. Hàng hoá tài liệu của DHL sẽ được gửi theo bất cứ chuyến bay nào muộn nhất. Người vận chuyển PCN nhận hàng bất cứ tại đâu theo yêu cầu của người gửi, làm mọi thủ tục hải quan (nếu cần) tại nước đi và nước đến giao tận tay người nhận hàng. Mọi thông tin về việc nhận hàng (ngày giờ, nơi nhận, cá nhân ký nhận...) Nếu yêu cầu sẽ được cung cấp cho người gửi. Tuy nhiên cước phí chuyển phát nhanh rất đắt nên chủ yếu tài liệu, chứng từ (có trọng lượng nhỏ) được gửi theo cách này. Nhưng một số hàng hoá mậu dịch quý hiếm mà trọng lượng không lớn cũng được gửi chuyển phát nhanh. Cho nên, việc đưa vào điều khoản này phần nói về 2 loại chứng từ của phương thức giao hàng bằng chuyển phát nhanh là điều cần thiết đáp ứng được thực tiễn đa dạng của các phương tiện giao hàng trong mậu dịch quốc tế. Khi TDT yêu cầu xuất trình các chứng từ"Carrier receipt"hay "Expedited delivery service receipt" thì ngân hàng sẽ chấp nhận bất cứ tiêu đề nào (however named) được ghi trên các biên nhận đó: - International Express Bill (by Airbone Express) - International Airway Bill (by Federal Express) - Shipment Airway Bill (by DHL) miễn là chúng nó thể hiện việc nhận hàng để gửi của người phát hành biên lai. 3. Ngày giao hàng của TDT được thể hiện trên các Biên lai. Tất cả các loại Biên lai của các hãng chuyển phát nhanh đều phải ghi tên của người chuyên trở hoặc hãng dịch vụ và được đóng dấu ký tên hay được xác minh bằng cách nào đó của hãng chuyển phát nhanh. Ngày đóng gói hoặc ngày nhận hàng hoặc cách diễn đạt mà biểu hiện được ngày chuyển giao hàng: date of shipment, date and authorized signature... được coi là ngày TDT quy định. Người mở có thể chỉ định đích danh hãng chuyển phát nhanh để vận chuyển hàng bằng cách quy định trong TDT. Ngược lại ngân hàng sẽ chấp nhận bất cứ hãng nào miễn là chứng từ "Carier" hay là Expedited delivery service Receipt" được xuất trình đúng theo yêu cầu của TDT. Cũng như các loại chứng từ vận tải đã nói trước đây các chứng từ giao hàng qua bưu điện bằng phương thức chuyển phát nhanh đều phải thoả mãn đầy đủ quy định của TDT. Ngược lại sẽ bị ngân hàng từ chối mặc dù xuất trình đúng theo điều khoản này của bản điều lệ 500. ĐIỀU 30: CHỨNG TỪ VẬN TẢI DO NGƯỜI GIAO NHẬN PHÁT HÀNH Trừ khi TDT cho phép ngân hàng chỉ chấp nhận chứng từ vận tải do người giao nhận phát hành Nếu nó thể hiện rõ trên bề mặt: i. tên người giao nhận với tư cách là người chuyên trở hay người điều hành PTVTĐPT và được ký tên hay xác thực bởi người giao nhận với tư cách là người chuyên trở hay người điều hành PTVTĐPT hoặc 96

ii. tên người chuyên trở hay người điều hành PTVTĐPT và được ký tên hay xác thực bởi người giao nhận với tư cách là đại lý đích danh thay mặt nhân danh người chuyên trở hoặc người điều hành PTVTĐPT. Về cơ bản điều khoản này giữ nguyên quy định về CTVT được cấp bởi công ty giao nhận (CTGN) được đề cập ở điều 25 (d) và điều 26 (c) của bản điều lệ 400. FIATA là Liên đoàn quốc tế các nhà giao nhận FIATA uỷ quyền cho các Liên đoàn hành viên của mình cho phép các thành viên riêng lẻ được sử dụng bản quyền của Hiệp hội. Bằng cách đó các Liên Đoàn giao nhận quốc gia phải có trách nhiệm xem xét khả năng tài chính của các thành viên của mình. Nếu xét thấy cần thiết sử dụng các phương thức bảo hiểm để đảm bảo khả năng đền bù cho những tổn thất trong từng loại hình chuyên trở của các thành viên. CTVT của FIATA được dùng dưới tiêu đề: NEGOTIABLE FIATA MULTIMODEL TRANSPORT BILL OF LADDING (used subject to UNCTAD/ICC Rules for Multimodel Transport Document (ICC publication No.481)) (Xem mẫu FIATA FB) Như đã nói ở điều khoản 26 UNCTAD đã phối hợp với ICC phát hành " Quy tắc UNCTAD/ ICC và CTVTĐPT" số xuất bản có hiệu lực từ ngày 01/01/1992 trong đó thừa nhận mẫu vận đơn liên hợp (đa phương thức) của Liên Đoàn các nhà Giao nhận như là người chuyên trở hay là người điều hành PTVTĐPT. Vận đơn FIATA với biểu tượng (logo) của ICC ở góc trên bên phải và biểu tượng của FIATA ở giữa là chứng từ được thoả thuận giữa 2 tổ chức trên. Vận đơn của FIATA tạo nên một hợp đồng chuyên trở về phía người giao nhận ký phát như là pháp nhân chính chứ không phải là đại lý đối với chủ hàng, để thực hiện toàn bộ hợp đồng đó và chịu trách nhiệm và nghĩa vụ đối với các điều khoản về tổn thất, mất mát sảy ra trong suốt chặng hành trình. Do vậy, về bản chất FIATA FBL là chứng từ của người chuyên trở chứ không phải là Chứng từ của đại lý giao nhận hay "Chứng thư vận tải của đại lý giao nhận". Các chứng thư này không phải là CTVT vì không xác định được sự giao hàng thực sự mà chỉ là nhận hàng của người giao nhận mà thôi. Do vậy, nếu TDT không nói khác thì ngân hàng sẽ từ chối FCR và FCT được xuất trình như là chứng từ vận tải. 1. Hãng giao nhận là người chuyên trở hoặc người điều hành PTVTĐPT. CTVT do các hãng giao nhận cấp được sử dụng như là vận đơn đường biển cảng - cảng hoặc là vận đơn liên hợp. Ngày nay, ta thường gặp CTVT của FIATA hơn là của các hiệp hội khác. Tuy nhiên, bản điều lệ này chấp nhận tất cả CTVT do các công ty giao nhận độc lập, hoặc thành viên của FIATA, NVOCC hoặc bất cứ hiệp hội khác trên thế giới cấp, với điều kiện họ là: - Người chuyên trở, hoặc - Người điều hành phương tiện vận tải liên hợp chứ không phải là đại lý giao nhận Cũng như các loại VĐ khác CTVT của Công ty giao nhận phải ghi tên của, và được ký bởi họ, với tư cách là Người chuyên trở, hoặc người điều hành phương tiện vận tải Liên hợp. Cách biểu hiện như vậy trên CTVT tương tự ở các trường hợp VĐ cảng- cảng, VĐ đường biển không có giá trị lưu thông, VĐ liên hợp... 2- Hãng giao nhận là Đại lý của Người Chuyên Chở hoặc người điều hành PTVTĐPT: Các Công ty giao nhận độc lập hoặc thành viên của các Hiệp Hội nói trên có thể là Người Chuyên Chở / Người điều hành PTVTĐPT, có thể chỉ là Đại lý của hai đối tượng trên, hoặc cũng có thể bao gồm cả hai chức năng. Nếu là đại lý được uỷ quyền của Người Chuyên Chở 1 Người 97

điều hành PTVTĐPT, hãng giao nhận sẽ thay mặt / nhân danh 2 đối tượng này ký phát CTVT. Trong trường hợp này họ phải dùng mẫu CTVT có ghi tên của Người Chuyên Chở hoặc người điều hành PTVTĐPT (Các hãng mà họ làm Đại lý cấp cho người giao hàng. Chữ ký của họ phải ghi rõ: Ký bởi hãng giao nhận (tên công ty cụ thể), là Đại lý của Người Chuyên Chở, hoặc Người điều hành PTVTĐPT. 3- Ngân hàng phải kiểm tra tính pháp lý của chứng từ vận tải Khi chứng từ vận tải (CTVT) được cấp cho chủ hàng có nghĩa là hàng hoá đã được chuyển giao cho người mua và việc thanh toán được tiến hành theo thông lệ. Vai trò của NH là "mua" chứng từ đó để "bán" lại cho người mở TDT. Do vậy, NH phải kiểm tra tính xác thực của chứng từ đó. CTVT, trong phần lớn các trường hợp đều do Đại lý được uỷ quyền tại nơi giao hàng ký phát. Do vậy, các NH tại các nước xuất khẩu đều thuận tiện trong việc kiểm tra tính xác thực của chúng bằng hồ sơ do các Đại lý Hãng tàu cung cấp (Mẫu chữ ký, mẫu vận đơn.....). Nếu chứng từ vận tải được Thuyền trưởng, Chủ tàu hoặc Người chuyển chở, Người điều hành Phương tiện Vận tải đa chức năng ký phát thì phải được xác thực của hãng đại lý. Về lý thuyết, nếu là TDT tự do (Free Negotiation), Người hưởng được phép xuất trình chứng từ ở bất cứ NH nào trên thế giới. Nhưng các NH chỉ chịu trách nhiệm xác minh các CTVT được ký phát tại nước của mình nên chứng từ sẽ bị từ chối chiết khấu khi được xuất trình tại NH nước khác. Tài liệu ICC số xuất bản 489 khẳng định: "NH kiểm tra vận đơn theo TDT phải nắm được yêu cầu pháp lý đối với chữ ký thẩm quyển của vận đơn đó tại nước của NH đó chứ không phải tại nước khác. Do vậy, NH kiểm tra chứng từ phải có trách nhiệm xác định chữ ký với đầy đủ giá trị pháp lý của nó" (A bank checking Bills of Lading under Documentary Credits is expected to know the legal requirements governing the form of signatures on Bills of Lading in its own country but not in other countries. Therefore, the Experts world say that a bank checking documents does have responsibility for verifying that a Bill issued in its own country is signed in a legally valid form) Đối với các chứng từ hàng hoá khác (Hoá đơn, chứng từ đóng gói, chứng nhận xuất xứ kiểm dịch.....), NH phải xác minh giá trị pháp lý trước khi quyết định "mua" chúng. Điều này là lẽ thông thường (common sense) nên không cần nêu thành quy tắc trong Bán Điều lệ này. ĐIỀU 31: "TRÊN BONG", "CHỦ HÀNG TÍNH VÀ ĐẾM", TÊN NGƯỜI GỬI HÀNG Trừ khi qui định khác trong TDT, ngân hàng sẽ chấp nhận CTVT: i .không nêu rõ hàng hóa, trong trường hợp chuyên chở bằng đường biển hay bằng nhiều phương tiện vận tải, trong đó có phương tiện vận tải biển, được xếp, hoặc sẽ được xếp trên boong. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ chấp nhận một CTVT có điều khoản là hàng hóa có thể được chuyên chở trên boong, miễn là nó không nêu rõ là hàng được xếp hoặc sẽ được xếp trên boong và / hoặc . ii. Có điều khoản thể hiện bề mặt CTVT như "chủ hàng xếp và đếm" hoặc "người gửi khai gồm có" hoặc những từ tương tự và/ hoặc iii. ghi rõ người gửi hàng là một bên khác không phải là Người Hưởng của TDT. ĐK này là sự sửa đổi và viết lại của Điều 28, 32 và 33 của Bản điều Lệ 400, nhằm xác định pháp lý theo đó ngân hàng được quyền chấp nhận hay từ chối các Điều khoản, Thuật ngữ ghi trên Vận Đơn. "on board", "on deck" chỉ liên quan đến các loại Vận đơn đường biển (ocean / marine B/L, Nonnegotiable Seaway Bill...) và Vận đơn hỗn hợp mà thôi. TDT sẽ không có giá trị thực hiện nếu 98

yêu cầu xuất trình VĐ hàng không, CTVT đường bộ, đường sắt, đường sông có ghi "on board" hoặc "On deck". Điều này đã thể hiện ở nội dung các ĐK nói về các CTVT. 1) Các thuật ngữ chỉ việc giao nhận hàng hoá "On board", "on deck" hiểu theo nghĩa gốc là "Trong khoang tàu", "Trên boong tàu". Nhưng trong thực tế của kỹ thuật Vận Tải Biển và giao dịch ngân hàng, thuật ngữ này được hiểu với nghĩa rộng hơn. "On board" chỉ hàng động Người Chuyên Chở nhận lãnh trách nhiệm vận chuyển hàng hóa Trên Con Tàu, để phân biệt với hành động "Received for shipment" hoặc "taken in charge". Vận đơn "on board" chứng minh chủ hàng đã giao hàng Trên Tàu theo đúng yêu cầu của hợp đồng và TDT. Do vậy, ngay khi các container được đặt lên boong tàu, thì Người chuyên trở vẫn cấp VĐ "on board" đối với hàng hoá đó. Mặc dù từ chối VĐ đường biển có ghi cụ thể, rõ ràng là hàng đặt trên boong (That goods are or will be loaded on deck) nhưng chấp nhận các VĐ có ghi Điều khoản cho phép Người Chuyên Chở, trong những trường hợp hoàn cảnh nào đó, được chở hàng trên boong (may be carried on deck). Đây là những trường hợp hàng hóa được Chuyên chở bằng phương thức Vận Tải Liên Hợp hành trình bắt đầu từ phương tiện vận tải không phải bằng đường biển: Xe tải, xe lửa... CTVT liên hợp sẽ ghi "Taken in charge" hoặc "Received for shipment" chứ không phải "on board". Do vậy, người chuyên chở khi chuyển hàng từ phương tiện tàu hỏa sang tàu biển, tuỳ theo điều kiện thực tế mà xếp hàng trong khoang (on board) hay trên boong tàu (on deck). Vận đơn đường biển, như đã nói tại Điều 26, đều được sử dụng cho hai loại hình vận tải: cảng đến cảng và đa phương thức và hầu hết ghi Điều khoản "on deck cargo": "hàng hoá được miêu tả dù được chứa trong Container hay không, có thể được xếp trên boong hay trong khoang Tàu mà không cần thông báo cho chủ hàng" "Goods of the descriptions whether containerized or not may be stowed on or under deck without notice to the Merchant... " Ngoài hàng hoá được chở bằng Container phải xếp trên boong, chủ tàu có thể và có quyền xếp các mặt hàng khác như hàng tươi sống (Livestock), hàng cồng kềnh (cần cầu, máy móc hoặc xe tải đặc chủng, đường ray) trên boong tàu khi chuyên chở, dựa trên công ước Quốc tế Hague (Hague Rules): Công ước Quốc tế thống nhất một số Quy tắc về vận đơn (International Convention for The Unification of Certain Rules relating to Bill of Lading -Brussel 1924)-và Hague Visby Rules, là bản sửa đối của Hague Rules 1924 được ký tại Brussel này 23/02/1968. 2) Người chuyên chở không liên quan đến nội dung và bản chất của hàng hoá Hàng được chuyên chở bằng Container, palet, bao kiện.. hiện nay rất phổ biến và thông dụng. Trong nghiệp vụ giao nhận hàng hoá giữa hai bên, người chuyên chở nhận hàng bằng các Container, palet..và giao hàng với số lượng đó với tình trạng hàng nguyên đai, nguyên kiện, nguyên dấu xi mà không cần biết nội dung trong đó mặt hàng gì, số lượng và trọng lượng bao nhiêu. Tất cả các nội dung đó đều do chủ hàng (người gửi hàng) khai báo và được thể hiện trên vận đơn. Để miễn trách trách nhiệm của mình về hàng hoá đựng trong Container, palet, bao kiện. Người chuyên chở được phép ghi chú những câu, chữ biểu hiện thực tế của việc giao nhận hàng: "Chủ hàng xếp và tính, đếm" (Shipper's load and count) "Người gởi khai gồm. . . " (said by shipper to contain..) 'Nội dung, trọng lượng, số lượng không được biết " (content, weigh and quantlty unknown" Thí dụ: 99

One container said to contain: 2,345kg & 14,562M &22,065PRS, shipper's load and count hoặc Two (2) pallets shipper's load, stow and count said to contain 58, OOOM of Thomal Transfer Ribbon Jumbo Roll TRX- 1 0 H43 hoặc One (01) container said by shipper to contain 740 CTNs each CTN consits of 25 pairs of sport shoes. "Content, weigh and quantity unknown" Những diễn đạt này của người chuyên chở hoàn toàn không ảnh hưởng đến sự hợp lệ của vận đơn vì nó không đến cập đến khiếm khuyết thể trạng của hàng hoá. Cho nên, vận đơn, dù có những ghi chú như trên đều vẫn được coi là chứng từ vận tải hoàn hảo (sẽ nói ở Điều khoản sau) và được ngân hàng chấp nhận. 3. Chứng từ vận tải của phía thứ 3 (third party Bill of Lading acceptable) Phần 3 của Điều khoản này thực chất nêu ra một định nghĩa thế nào là "third party bill of lading". Thường người hưởng TDT là người bán, tức là người giao hàng, được thể hiện ở vận đơn là Consignor hay Shipper. Tuy nhiên trong trường hợp chuyển nhượng TDT người hưởng xuất trình bộ chứng từ với hoá đơn và hối phiếu do mình ký phát, nhưng vận đơn và các chứng từ khác thể hiện người giao hàng lại là phía thứ ba (tức là người được chuyển nhượng/ người hưởng thứ 2). ' Vận đơn ghi tên người giao hàng là phía thứ 3 trong trường hợp người hưởng TDT xuất khẩu uỷ thác cho chủ hàng trên cơ sở giấy phép của phía ủy thác. Hợp đồng ủy thác qui định mọi nghĩa vụ về giao hàng thuộc về người yêu cầu ủy thác, người xuất khẩu chịu trách nhiệm về ký kết hợp đồng đối ngoại, chứng từ thanh toán và được hưởng tỷ lệ phần trăm trên trị giá hoá đơn. Vận đơn với chức năng sở hữu hàng hoá có thể được chuyển nhượng, bán cho người khác bằng cách ký hậu, trao tay, điều khoản này tạo thuận lợi cho chủ hàng sử dụng vận đơn cùng với các chứng từ hàng hóa khác với chức năng trên mà không bị ngăn cản bởi thủ tục thanh toán ngân hàng. Điều cần lưu ý là Điều khoản này chỉ nói về chứng từ vận tải của phía thứ 3 (third party bill of ladding), không liên quan đến các loại chứng từ hàng hoá khác (shipping documents) như chứng từ đóng gói, chứng nhận xuất xứ, chứng nhận kiểm dịch, chứng nhận phẩm chất... Tuy nhiên Điều 21 chấp nhận bất cứ ai lập chứng từ (trừ hoá đơn, chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm) thì có nghĩa là chấp nhận chứng từ do phía thứ 3 cấp. Nếu nhận được TDT có điều khoản "third party document acceptable" thì phải hiểu là vận đơn và các chứng từ giao hàng khác được phép ghi tên người gởi hàng không phải là người hưởng chứ không liên quan đến người ký phát chứng từ. Việc lập chứng từ theo đúng Điều khoản 21 và các quy định của TDT. ĐIỀU 32: CHỨNG TỪ VẬN TẢI HOÀN HẢO A. Chứng từ vận tải hoàn hảo là chứng từ không có Điều khoản hay ghi chú nào nêu rõ ràng về tình trạng khuyết tật của hàng hoá và / hoặc bao bì. B. Ngân hàng sẽ không chấp nhận chứng từ vận tải có những Điều khoản hay ghi chú như vậy trừ khi TDT qui định rõ những điều khoản hay ghi chú như vậy có thể được chấp nhận. C. Ngân hàng sẽ coi chứng từ vận tải có ghi "đã bốc hoàn hảo" (clean on board) phù hợp với yêu cầu trong TDT nếu chứng từ vận tải đó đáp ứng được các yêu cầu của Điều khoản này và các Điều 23, 24, 25, 26,27, 28 hay 30. 100

Sửa đổi lớn nhất của Điều 34 (Bản điều lệ 400) để trở thành Điều khoản này là từ "được ghi thêm" (superimposed) bị loại trừ. Mục đích lược bỏ này nhằm bảo đảm sự chặt chẽ của Qui tắc. Bản điều lệ cũ đề cập "điều khoản bổ sung hoặc ghi chú thêm" (superimposed clause or notation) nhưng nếu chúng không phải là "bổ sung" hay "ghi thêm" mà là "vốn có "nghĩa là một phần diễn giải trên vận đơn thì sao? Điều này gây ra sự hiểu sai và rắc rối cho các bên liên quan. Do vậy WG quyết định bất cứ một Điều khoản hoặc ghi chú nào nói về khuyết tật của hàng hoá và/hoặc là bao bì thì coi như là chứng từ vận tải không hoàn hào. Thực ra không cần định nghĩa thế nào là"clean" mà chỉ cần đem ra quy định vận đơn nếu được ghi chú bất cứ điểm nào về khuyết tật của hàng hóa hoặc bao bì là bị từ chối. "Clean". hiểu theo nghĩa trong Bản Điều lệ này là hoàn hảo và hợp lệ, nghĩa là không có bất kỳ sự ghi chú nào như vậy trên bề mặt vận đơn. Thí dụ. Vận đơn không hoàn hảo có những ghi chú sau: Some cartons Where torn and 3 pallets were broken hoặc The goods have bad smell A part of goods are found wet Tất cả những Điều khoản trên đây đều thể hiện phẩm chất, trạng thái hàng hoá, bao bì không tốt, trái với qui định của TDT. Do vậy vận đơn sẽ bị từ chối. Tuy nhiên, một số ghi chú không biểu hiện trạng thái kém phẩm chất của hàng hoá hoặc bao bì như: "bao bì dùng lại" (second hand bags), hoặc "thùng cũ" "old palle". Để tránh những tranh cãi do cách hiểu của từng bên khác nhau, người mở và người hưởng TDT nên quy định rõ trong TDT chấp nhận hay không các ghi chú đó. Trong thực tế, một số ngân hàng phát hành TDT thường yêu cầu xuất trình vận đơn đã bốc hoàn hảo (clean shipped on board Bill of Lading). Thực ra trong tiếng Anh, "Clean shipped on board", với cách hiểu theo Bản điều lệ, cũng tương tự "on board" mà thôi. Đưa từ "clean" vào chỉ thêm phức tạp và tạo nên một số thói quen không hợp tập quán trong giao dịch chứng từ. Do vậy WG khẳng định: một chứng từ sẽ được coi là "clean on board" khi nó đáp ứng được yêu cầu "on board" của điều khoản vận tải mà nó liên quan trong Bản Điều lệ 500, bất kể có hay không chữ "clean" ĐIỀU 33: CHỨNG TỪ VẬN TẢI CƯỚC PHẢI TRẢ/CƯỚC TRẢ TRƯỚC A. Trừ khi qui định khác trong TDT, hay có sự mâu thuẫn với bất cứ chứng từ nào được xuất trình theo TDT, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ vận tải có ghi cước hay phívận tải (sau đây được gọi lá "cước" ) vẫn còn phải được thanh toán. B. Nếu TDT quy định chứng từ phải ghi rõ là cước đã được trả hay được trả trước, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ ghi rõ là cước được trả hay được trả trước bằng cách đóng dấu hoặc việc thanh toán đó được biểu thị bằng những cách khác nhau. Nếu TDT quy định cước phí bưu điện phải được trả hay được trả trước thì ngân hàng cũng sẽ chấp nhận chứng từ vận tải được phát hành bởi một hãng vận tải CPN hoặc Dịch vụ gởi hàng bưu chính thể hiện các phí vận chuyển do một bên khác, không phải là người nhận hàng thanh toán. C. Những từ "cước phải được trả trước "hay cước sẽ phải được trả trước" hay những từ tương tự, nếu thể hiện trên các chứng từ vận tải, sẽ không được chấp nhận như là bằng chứng của việc đã thanh toán cước phí. D. Ngân hàng sẽ chấp nhận các chứng từ vận tải có dẫn chiếu bằng cách đóng dấu hay bằng cách khác, về phụ phí ngoài cước như các khoản chi có liên quan đến việc bốc dỡ hàng hoặc 101

những nghiệp vụ tương tự, trừ khi các Điều khoản của TDT ghi rõ không chấp nhận các dẫn chiếu như vậy. Bản điều lệ 500 bổ sung thểm điều 29 nói về vận tải bằng Courier hoặc bằng Expedited Delivery Service nên điều khoản này viết lại Điều 31 của Bản Điều lệ 400 và bổ sung thêm phần cước phí phát sinh theo phương thức giao hàng đó. 1) Những thể hiện về thanh toán cước phí chuyên chở. • Trong thực tế vận tải, ngoài cước phí chuyên chở, có thể phát sinh các phụ phí như: phí lau chùi chuyển trả lại (đổi lại) các Container, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ vận tải có ghi "cước phí vận còn phải trả" (Freight have still to be paid) với điều kiện TDT này không cấm và CTVT không mâu thuẫn với những thể hiện trên các chứng từ khác. • Ngân hàng phát hành luôn yêu cầu vận đơn phải ghi rõ "cước đã trả trước"hoặc "cước đã trả" ('Freight prepaid"or "Freight has been paid / freight paid") với điều kiện giao hàng giá CFR hoặc ClF (cảng đến). Những điều khoản về cước phí ràng buộc trách nhiệm của các bên liên quan. Vận đơn ghi như trên thì người nhận hàng không trả thêm phí chuyên chở. Ngược lại "phí sẽ trả tại nơi đến" (Freight to be paid/payable at destination) thì người nhận hàng phải trả cước phí nơi được nhận hàng. • Việc thể hiện các điều khoản về cước phí vận tải được thực hiện bằng con dấu (stamp) đóng lên chứng từ, hoặc bằng máy chữ nhưng thông dụng hơn là bằng hệ thống vi tính. Ngân hàng sẽ chấp nhận bất cứ cách nào miễn là nó thể hiện là cước phí đã được thanh toán trước khi vận đơn được cấp cho người gởi hàng. • Cước phí vận chuyển bằng Courier theo tập quán là do người gởi hàng trả khi giao hàng. TDT thông thường quy định giá CFR hoặc ClF (nơi đến) mà không yêu cầu chứng từ vận tải (Courier Receipt/ Expedited Delivery Service Receipt" phải ghi "Cước phí đã trả". Tuy nhiên, nếu có yêu cầu điều khoản cước phí như vậy thì ngân hàng sẽ chấp nhận Biên lai chuyển phát nhanh (CPN) hay Dịch vụ gởi hàng bằng bưu chính ghi rõ là phí chuyên chở do phía khác chịu chứ không phải là người nhận hàng. • Điều quan tâm cuả người hưởng là khi nhận hàng, gởi hàng đường CPN là họ có trả phí vận chuyển không? Nếu hợp đồng quy định phí này do người bán trả thì dù biên lai ghi thế nào đi nữa đều được chấp nhận. Quy định này của ngân hàng nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế về phương thức gởi hàng bằng CPN và bằng Dịch vụ gởi hàng bưu chính đang phổ biến đối với mặt hàng gọn nhẹ. 2) Không dùng những thuật ngữ không rõ nghĩa Đối với cước vận tải, chỉ có 2 cách thể hiện trên chứng từ: hoặc đã được trả khi giao hàng (Freight paid / Freight prepaid) hoặc sẽ được trả nơi đến (Freight payable/ to be paid at destination). Những diển giải "Cước phí phải được trả trước" (Freight prepayable) hay "cước phí sẽ trả trước "rất mập mờ không thể hiện việc thanh toán cước phí đã được thực hiện hay chưa? Do vậy không thể coi là bằng chứng của "cước phí đã trả". Nếu bán bằn giá CFR hay ClF, các nhà xuất khẩu lưu ý điều khoản cước phí ghi trên vận đơn phù hợp với thông lệ Thương mại Quốc tế và Bản Điều lệ này, nhằm bảo đảm tính hợp lệ của chứng từ. 3) Chi phí phát sinh trong quá trình chuyên chở Thế nào là phụ phí của phí vận tải, các chi phí liên quan đến việc bốc, dỡ hay các dịch vụ tương tự? Trên hành trình, người chuyên chở có thể chịu những chỉ phí phát sinh như: phí bốc dỡ lại hàng do những trường hợp đột xuất, phí sắp xếp lại hàng hoá trên boong, khoang tàu do có sự cố nào 102

đó, phí lau chùi, chuyển đổi container.. người chuyên chở có quyền thu lại phụ phí đó từ người nhận hàng bằng cách ghi rõ trên vận đơn. Tuy nhiên, những Điều khoản như vậy ghi trên vận đơn gây ra sự suy luận và hành động khác nhau của các bên liên quan đặc biệt là ngân hàng. Trong Tài liệu số xuất bản 494, ICC đã nêu ra trường hợp phụ phí phát sinh trên suốt chặng hành trình và chuyển tải. Điều khoản về phụ phí được ghi trên bản đính kèm vận đơn và là một phần không thể tách rời của vận đơn: Trong trường hợp có phát sinh chi phí của người chuyên chở và / hoặc rủi ro chiến tranh, người chuyên chở bảo lưu quyền thu lại từ khách hàng mà không cần báo trước. Phụ phí này có thể áp dụng ở bất kỳ thời điểm nào của hành trình và ngay cả trong trường hợp người chuyên chở quyết định thay đổi hành trình theo ý của mình. (In the events of the Carriers cost increasing and / or the war risk increasing, the carrier reserves the right without prior notice to the merchant to impose a surcharge. This surcharge may be applied at any time during the voyage and will also apply in the event the carrier may decide to route the vessel via an alternative route.) Một số ngân hàng Anh quốc chấp nhận Điều khoản này (nếu TDT không cấm) theo Điều 31, Bản Điều lệ 400, mặc dù không hoàn toàn thỏa mãn, nhưng tất cả ngân hàng Mỹ tại Luân Đôn thì từ chối. Sự khác biệt về quan điểm của các ngân hàng xuất phát từ thực tế là không có bất cứ hướng dẫn hay giải thích nào về viêc áp dụng Điều 31, Bản Điều lệ 400. Có ngân hàng còn nêu ra quan điểm là điều khoản 31 (d) hình như không hợp với thực tế về nghĩa vụ của người chuyên chở và người giao hàng, người nhận hàng. Quan điểm của tiểu ban NH trong cuộc hợp vào ngày 23/04/91 nhất trí với ý kiến của ông Muller là vận đơn đường biển được xuất trình theo TDT với điều kiện CFR hoặc ClF mà có điều kiện phụ phí trên đây không thể coi là phù hợp với quy định của TDT, bất kể TDT có cho phép hay không. Tuy nhiên trường hợp này không áp dụng cho TDT giao hàng theo điều kiện FOB vì cước phí vận tải do người nhận hàng (người mua) trả tại nơi đến. Như vậy, điều 33 (d) Bản điều lệ 500 vần giữ nguyên phần (d) của điều 31 bản Điều lệ cũ chưa tạo một hiệu qủa cao trong việc sửa đổi. Sự mập mờ về việc chấp nhận hay không những điều khoản về phụ phí ghi trên vận đơn như trường hợp trên không được giải quyết tại sao WG không sửa đổi cho hợp với quan điểm của mình là nếu giao hàng theo giá CFR / CLF thì không chấp nhận Điều khoản đó nhưng giá FOB thì là không từ chối ? Nếu áp dụng Điều 32 (d) (Điều lệ 500) thì những câu dưới đây ghi trên vận đơn được chấp nhận (nếu TDT không cấm): "Phí dỡ hàng, mọi hành động về dỡ hàng sẽ do công nhân bốc dỡ thực hiện với rủi ro và chi phí thuộc về hàng hoá (Nghĩa là do người nhận hàng gánh chịu) (Tài liệu ICC số XB 489. (Free-out / Discharging operations to be effected by ship's stevedores at good risks and expenses hoặc "Mọi chi phí tại cảng đó cho đến khi bốc laij những container rỗng do người nhận hàng trả (Tài liệu ICC số XB 489) (All expenses at port of discharge until reloading of empty containers included to remain for receiver's account). Tuy nhiên trong thực tế, sự nhìn nhận vấn đề và áp dụng theo cách hiểu của các ngân hàng khác nhau nên rủi ro vẫn thuộc về người hưởng.

103

Do vậy, tránh những tranh chấp có thể, cách tốt nhất đối với người mua và người bán là ghi rõ trong hợp đồng và TDT: phụ phí phát sinh ngoài quy định thông thường (như các trường hợp nêu trên) do ai chịu. Trường hợp cần thiết ghi rõ trong TDT: không áp dụng Điều khoản 32 (d), Bản điều lệ 500. ĐIỀU 34: CHỨNG TỪ BẢO HIỂM A. Chứng từ bảo hiểm phải thể hiện trên bề mặt được phát hành và ký tên bởi Công ty bảo hiểm hay Người bảo hiểm hay đại lý của họ. B. Nếu chứng từ bào hiểm thể hiện là được phát hành nhiều hơn một bản gốc thì tất cả các bản gốc phải được xuất trình trừ khi TDT quy định khác. C. Phiếu bảo hiểm do Nhà môi giới bảo hiểm cấp sẽ không được chấp nhận, trừ khi TDT cho phép D. Ngoại trừ qui định khác trong TDT, ngân hàng sẽ châp nhận Giấy bảo hiểm hay Phiếu bảo hiểm ngỏ được ký tên trước bởi Công ty bảo hiểm hay Người bảo hiểm hay Đại lý của họ. Nếu TDT yêu cầu Giấy chứng nhận bảo hiểm hay Phiếu bảo hiểm ngỏ, ngân hàng sẽ chấp nhận Bảo hiểm Đơn thay thế E. Trừ khi qui định khác trong TDT, hay trừ khi chứng từ bảo hiểm có hiệu lực chậm nhất là từ ngày bốc hàng lên tàu hay ngày gởi hàng đi hoặc ngày nhận hàng để gởi, ngân hàng sẽ không chấp nhận chứng từ bảo hiểm có ngày phát hành trễ hơn ngày bốc hàng lên tàu hoặc gởi hàng đi hoặc ngày nhận hàng để gởi ghi trên chứng từ vận tải F. i. Trừ khi qui định khác trong TDT, loại tiền bảo hiểm ghi trong chứng từ bảo hiểm phải là loại tiền của TDT. ii. Trừ khi qui định khác trong TDT, số tiền đền bù tối thiểu mà bảo hiểm phải ghi là trị giá ClF (giả hàng), phí bảo hiểm và cước (cảng đến) hay ClP (phí chuyên chở và phí bảo hiểm trả đến (nơi đến) của giá trị hàng hoá, tùy từng trường hợp, cộng 10%, nhưng chỉ khi giá ClF hoặc ClP có thể được xác định trên bề mặt chứng. Nếu không, ngân hàng sẽ chấp nhận một số tiền tối thiểu là 110% trên số tiền phải thanh toán, chấp nhận hay chiết khấu theo TDT hay 110% tổng số tiền gộp của hoá đơn, số tiền nào lớn hơn sẽ được chọn. 1) Tính lưu thông của chứng từ bảo hiểm Chứng từ bảo hiểm là một trong những chứng từ quan trọng của TDT với điều kiện giao hàng theo giá ClF hay giá ClP. Người hưởng phải xuất trình Bảo hiểm đơn hoặc Chứng nhận bảo hiểm hoặc bản khai theo Bảo hiểm ngõ để chứng minh nghĩa vụ của mình đối với hợp đồng thương mại và đáp ứng yêu cầu của TDT. Cũng như vận đơn đường biển hoặc vận đơn đa phương thức, chứng từ bảo hiểm là chứng từ có tính lưu thông (negotiable) và có giá tri chuyển nhượng (assignable instrument). Với hợp đồng bán hàng giá ClF hoặc giá ClP người bán phải mua bảo hiểm hàng hoá đến đích cuối cùng, thuê phương tiện vận tải nhưng rủi ro hàng hoá thuộc về người mua kể từ khi người bán giao hàng qua khỏi lan can tàu hoặc giao cho người chuyên chở (tùy từng trường hợp). Người bán là người được bảo hiểm (The issured) sẽ chuyển nhượng quyễn đòi bồi thường bảo hiểm cho người mua bằng cách ký hậu chuyển nhượng chứng từ bảo hiểm. Người mua được quyền đòi bồi thường nếu có tổn thất hàng hoá. 1. Bảo hiểm là nghiệp vụ kinh doanh của các cơ quan chức năng gọi chung là Nhà bảo hiểm (The issurer). Tiếng Anh "Underwriter" tương đương "Insurer"chỉ Nhà bảo hiểm có tư cách pháp nhân. 104

Như ta đã biết, lich sử bảo hiểm ra đời tại Anh Quốc Thế kỷ 16 với các nghiệp vụ được tiến hành tại các quán cafê. Từ "Underwriter" ra đời và đựơc dùng rộng rãi cùng với "Insurer". Chứng từ bảo hiểm phải do các Công ty bảo hiểm hoặc Đại lý ủy quyền của họ ký phát. Mỗi Công ty bảo hiểm có Mẫu chứng từ bảo hiểm khác nhau, với tiêu đề, tên, địa chỉ của nó. Khi ký phát chứng từ bảo hiểm, công ty phải ghi rõ tên của mình, hoặc đại lý phải ghi rõ tên của mình và thay mặt ai để ký phát. Điểm khác biệt duy nhất của điểm a, Điều khoản này với điểm a điều khoản 35 (điều lệ 400) là không có sự lựa chọn "và / hoặc" (and / or) được nêu ra mà phải ghi rõ "Chứng từ bảo hiểm phải được phát hành và ký... " (to be lssued and signed by) Chứng từ bảo hiểm không chỉ được phát hành (cấp cho người mua bảo hiểm) mà còn được ký (xác nhận nghĩa vụ và quyển lợi pháp lý) bởi công ty bảo hiểm hoặc đại lý ủy quyền ... 2) Tất cả các bán gốc phải được xuất trình Chứng từ bảo hiểm có được tính như vận đơn đường biển và vận đơn đa phương thức là tính lưu thông và giá trị chuyển nhượng (Assignable form) và cũng được phát hành nhiều bản có giá trị như nhau. Trên các chứng từ bảo hiểm, người phát hành đều ghi số bản. "Số Bảo hiểm đơn phát hành: hai" BẢN GỐC - Bản hai không có giá trị thanh toán" BẢN HAI - Bản gốc không có giá trị thanh toán" (Number of policy issued : two ORlGINAL - Duplicate unpaid DUPLICATE - Original unpaid) Khác với VĐ là có thể gởi một bản gốc theo hàng hoá cho người nhận hàng, chứng từ bảo hiểm phải được xuất trình toàn bộ (Full set) hoặc 1 bản duy nhất (a sole orlginal) cho ngân hàng. Chứng từ bảo hiểm không cần phải gửi theo hàng hoá vì nó không liên quan đến việc nhận hàng mà chỉ cần thiết cho việc lập chứng thư khiếu nại đòi bồi thường. Do vậy, người được bảo hiểm phải nắm giữ toàn bộ (các) bản gốc nhằm sử dụng nó như là công cụ để bảo vệ quyền lợi của mình. Bản Điều lệ 400 không để cập đến qui định này nên gây ra tranh chấp do sự nhìn nhận và suy luận của từng phía liên quan. Các TDT (phát hành theo Bản Điều lệ cũ) yêu cầu xuất trình 3 bản gốc Bảo hiểm đơn nhưng hãng bảo hiểm lại cấp 2 bản gốc, hoặc TDT yêu cầu 2 bản gốc nhưng người hưởng lại cấp 3 bản gốc, do vậy chỉ có hai bản được xuất trình. Tất cả những khập khiễng này gây trở ngại cho người hưởng TDT khi xuất trình chứng từ. Điểm b điều khoản này được bố sung nhằm bảo đảm sự chặt chẽ và thống nhất giữa nghiệp vụ bảo hiểm và ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho người hưởng TDT trong việc xuất trình chứng từ 3) Các loại chứng từ bảo hiểm Hiện nay có 3 loại chứng từ bảo hiểm đang được sử dụng trong bảo hiểm quốc tế và được cộng đồng chấp nhận. - Chứng nhận bảo hiểm (insurance Certificate): Chứng từ này được nhà bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm trên cơ sở một hợp đồng bảo hiểm bao, với mỗi chuyến hàng cụ thể. Về pháp lý Chứng nhận Bảo hiểm không có giá trị bằng Bảo hiểm đơn vì nó có những mặt hạn chế khi ra trước toà. Do vậy người mua ClF / ClP thường không chấp nhận Chứng nhận bảo hiểm mà phải là bảo hiểm đơn. Tuy nhiên ở Mỹ cả hai loại Chứng từ bảo hiểm này được coi có giá trị như nhau. 105

- Phiếu bảo hiểm ngõ (Declaration under open cover): Bảo hiểm ngõ được dùng không phải cho từng chuyến hàng mà toàn bộ các lô hàng được giao trong một thời hạn xác định (thường là 2 tháng), hoặc không thời hạn nhưng giá trị từng chuyến hàng được giới hạn theo một số tiền nhất định. Khi thực hiện bảo hiểm cho từng chuyến hàng, người bảo hiểm cấp phiếu bảo hiểm theo bảo hiểm ngõ đã ký phiếu bảo hiểm chỉ có giá trị hiệu lực cùng với giấy cam kết của công ty bảo hiểm là sẽ cấp bảo hiểm đơn cho người bảo hiểm. Loại chứng từ này được sử dụng trong TDT tuần hoàn mà các hàng hoá giao theo thời vụ và ổn định - Bảo hiểm đơn (Insurance Policy): Đây là chứng từ bảo hiểm do người bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm để thừa nhận một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết và xác nhận các điều khoản của hợp đồng. Bảo hiểm đơn chứng minh việc trả phí bảo hiểm và do vậy ràng buộc mọi nghĩa vụ của người bảo hiểm đối với hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực. Bảo hiểm đơn thể hiện được tất cả các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy nếu có kiện tụng toà án chỉ cần căn cứ vào bảo hiểm đơn để xét xử chứ không cần hợp đồng bảo hiểm. So với 2 loại chứng từ bảo hiểm trên, bảo hiểm được sử dụng phổ biến hơn vì nó hoàn chỉnh và có giá trị nhất đặc biết khi xét xử tranh chấp. Do vậy nếu TDT yêu cầu cụ thể xuất trình chứng nhận bảo hiểm hoặc phiếu bảo hiểm ngõ thì ngân hàng có quyền chấp nhận bảo hiểm đơn xuất trình thay thế TDT chỉ quy định "chứng từ bảo hiểm" mà không nói rõ cụ thể loại nào thì ngân hàng sẽ được phép chấp nhận chứng nhận bảo hiểm hoặc bảo hiểm ngõ được ký trước bởi công ty bảo hiểm hoặc đại lý của họ. Do vậy khi mở TDT người mua cần quy định cụ thể loại chứng từ bảo hiểm nhằm đảm bảo giá trị của nó. - Phiếu bảo hiểm (cover note): là chứng từ bảo hiểm tạm thời cấp cho người được bảo hiểm, do người môi giới bảo hiểm ký phát trong khi chờ tập bảo hiểm đơn. Phiếu bảo hiểm chỉ là sự xác thực thoả thuận bảo hiểm chứ không có giá trị lưu thông, không có giá trị pháp lý đối với toà án, do vậy bị ngân hàng từ chối nếu TDT không quy định cụ thể. 4. Thời điểm hiệu lực của chứng từ bảo hiểm. Ngày hiệu lực của chứng từ bảo hiểm thông thường sẽ là ngày phát hành (tức là ngày ký). Ngày này không thể sau ngày giao hàng, vì với giá CIF/CIP người mua chịu mọi rủi ro, sau khi hàng giao qua lan can tàu (CIF) hoạc giao cho người chuyên chở(CIP) Nhưng nếu có tổn thất về hàng hoá người mua sẽ yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường vì bảo hiểm đã có hiệu lực trước hoặc cùng ngày đó. Ngược lại chứng từ được ký sau ngày "on board" hoặc sau ngày ... thì người mua sẽ chịu rủi ro nếu có tổn thất hàng hoá vào đúng thời gian bảo hiểm (BH) chưa có hiệu lực công ty BH sẽ không cấp chứng từ BH để BH số hàng hoá mà họ đã biết là đã có tổn thất. Do vậy Nếu TDT không nói khác chứng từ BH ký phát sau ngày giao hàng sẽ bị ngân hàng từ chối. Tuy nhiên ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ BH ký phát sau ngày giao hàng nhưng có điều khoản ghi rõ giá trị hiệu lực của nó bắt đầu từ ngày giao hàng. Trường hợp này có thể xảy ra do thủ tục lập BH đơn trên cơ sở hợp đồng BH bị chậm trễ nhưng người BH kam kết bồi hoàn nếu có tổn thất vào thời điểm hàng đã được giao lên tàu trước ngày cấp BH đơn. Ngoại trừ điều khoản được thể hiện trên chứng từ BH ngân hàng sẽ không chấp nhận bất cứ sự thể hiện khác về giá trị hiệu lực của chúng kể cả những điều khoản được dùng trong nghiệp vụ bảo hiểm như: - Điều khoản "bảo hiểm kho đến kho" ("Warehouse to warehouse" clause) hoặc - Điều khoản "tổn thất hay không tổn thất" ("lost or not lost" clause) 5. Loại tiền và số tiền được bảo hiểm. 106



Đồng tiền được bảo hiểm phải là đồng tiền của TDT thực ra đây là thông lệ của thị trường bảo hiểm quốc tế mà ngân hàng phải chấp nhận. Nếu đồng tiền bảo hiểm khác với đồng tiền của TDT ngân hàng sẽ không biết chính xác tổng giá trị bảo hiểm có đạt đúng quy định hay không, vì sẽ có khác biệt trong tỷ giá hối đoái. • Số tiền bảo hiểm được tính bằng trị giá hàng hoá CIF hoặcCIP (nơi đến) cộng với 10% là quy định của nghiệp vụ bảo hiểm quốc tế. Tuy nhiên 2 bên liên quan cũng có thể thoả thuận khác ví dụ số tiền bảo hiểm có thể là 115 hay 120 % của trị giá hoá đơn... trường hợp này có thể áp dụng với những trường hợp đặc biệt, quý hiếm và tất nhiên phí bảo hiểm sẽ cao hơn. • Hoá đơn thương mại phải ghi rõ số tiền trong đại đa số trường hợp là trị giá hàng hoá Tuy nhiên có trường hợp số tiền đó lại bao gồm nhiều giá trị khác nhau, Thí dụ là hoá đơn ghi số tiền là USD 350.000 – nhưng lại bao gồm cả lãi trả chậm 6 tháng. Trường hợp này ngân hàng không xác định cụ thể giá trị hàng hoá là bao nhiêu để tính tiền bảo hiểm (110%). Do vậy để tránh phức tạp trong việc tính trị giá bảo hiểm, người hưởng nên lập hoá đơn ghi chính xác giá trị hàng hoá, số tiền khác nếu có phải được ghi tách biết hoặc có hoá đơn riêng. • Nếu không xác định được trị giá hàng hoá, ngân hàng được phép tính số tiền bảo hiểm 110% số tiền trên hoá đơn xuất trình để thanh toán theo TDT. Với thí dụ trên, số tiền bảo hiểm là $350.000x110%= $385.000, mặc dù thực tế giá trị hàng hoá nhỏ hơn $350.000 6. Một số điểm cần lưu ý về chứng từ bảo hiểm. • Do tính năng của nó chứng từ bảo hiểm luôn được yêu cầu lập trên cơ sở chuyển nhượng. Với TDT mà hàng hoá tính bằng giá CIF/CIP (nơi đến), người hưởng phải cung cấp chứng từ bảo hiểm cho người được bảo hiểm để bảo đảm quyền được bồi thường tổn thất, người hưởng ký hậu để chuyển nhượng chứng từ này cho người mở TDT. Do vậy mặc dù TDT không ghi rõ việc ký hậu nhưng người hưởng phải nắm rõ nguyên tắc này để bảo đảm tính pháp lý của chứng từ bảo hiểm. • Tuy nhiên, chứng từ bảo hiểm đích danh (ghi rõ tên người được bảo hiểm), không thể áp dụng cho phiếu bảo hiểm ngỏ. Chứng từ bảo hiểm này được phát hành cho người cầm phiếu nghĩa là ai cầm phiếu bảo hiểm cũng sẽ được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do vậy, nó không cần ký hậu chuyển nhượng vẫn có giá trị đối với người mỏ TDT. • Bảo hiểm đơn và chứng từ bảo hiểm cũng có thể lập cho người cầm chứng từ nhưng không phổ biến. • Nếu TDT không quy định khác, hoặc ghi rõ số tiền bảo hiểm là 110% trị giá CIF/CIP, chứng từ bảo hiểm với số tiền vượt hơn (115 hoặc 120%) cũng bị từ chối, bất kỳ số tiền trên có lợi cho người mở TDT. Trường hợp này đã được diễn dẫn trong tài liệu ICC số xuất bản 459. TDT phải quy định rõ loại chứng từ bảo hiểm nào. Ngược lại ngân hàng sẽ chấp nhận một trong 3 loại nói trên. Thông dụng nhất là 2 loại bảo hiểm đơn và chúng nhận bảo hiểm. ĐIỀU 35: LOẠI HÌNH BẢO HIỂM A. TDT phải quy định loại hình bảo hiểm và nếu có những rủi ro bổ sung được bảo hiểm. Những từ mơ hồ như "những rủi ro thông thường" hay "những rủi ro theo tập quán" không được dùng, Nếu chúng được dùng thì ngân hàng chấp nhận chứng từ bảo hiểm như đã xuất trình và không chịu trách nhiệm về những rủi ro không được bảo hiểm. B. Nếu không quy định rõ ràng trong 107

TDT ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ bảo hiểm như đã xuất trình mà không chịu trách nhiệm gì về những rủi ro không được bảo hiểm. C. Trừ khi được quy định khác trong TDT, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ bảo hiểm có ghi rõ bảo hiểm có mức miễn bồi thường hoặc tỷ lệ tổn thất được khấu trừ. Điều khoản này là sự kết hợp của điều 38 và điều 40 trong bản điều lệ 400 với sự điều chỉnh không đáng kể về cách diễn đạt. 1) Các điều kiện bảo hiểm chính. Trong kỹ thuật nghiệp vụ bảo hiểm quốc tế hiện nay có 3 điều kiện bảo hiểm chính: - Bảo hiểm miễn tổn thất riêng gọi tắt là FPA. Với điều kiện này, người được bảo hiểm chỉ nhận bồi thường những tổn thất chung mà không bồi thường những tổn thất riêng. Tuy nhiên, trong thực tế các tổn thất riêng cũng được bồi thường, điều kiện FPA của Anh, ngoài các tổn thất riêng được bồi thường do tàu hoặc xà lan bị mắc cạn, cháy, đắm người bảo hiểm còn nhận bồi thường trong các trường hợp : kiện hàng bị mất trong khi bốc, chuyển tải hoặc dỡ hàng; tổn thất bộ phận hàng do thiên tai gầy lên do tàu mắc cạn, đâm phải đá ngầm, bị đắm trong hành trình; tổn thất do tai nạn bất ngờ trên biển, do thời tiết xấu... - Bảo hiểm có tổn thất riêng viết tắt là WA hoặc WPA. Theo WPA, người bảo hiểm phải bồi thường tổn thất chung và những tổn thất riêng khi những tổn thất riêng lên đến tỷ lệ % nhất định. Bằng hoặc dưới mức quy định tức là mức miễn bồi thường, tổn thất không được bồi thường mà không miễn trừ, được quy định rõ trong điều kiện bảo hiểm hàng hoá của hội những người bảo hiểm London, đã và đang được các công ty bảo hiểm áp dụng rộng rãi cho các bảo hiểm đơn. - Bảo hiểm mọi rủi ro là điều kiện bảo hiểm rộng nhất, gồm tổn thất riêng (WPA) và một số loại bảo hiểm phụ (sẽ nói cụ thể ở điều 36) Ngoài 3 điều khoản trên, các điều khoản khác được áp dụng như bảo hiểm chiến tranh, đình công. Hai bên có thể thoả thuận các điều khoản bảo hiểm phụ bảo đảm bồi thường các rủi ro cá biệt: rò rỉ, thiếu hụt trọng lượng, rủi ro do vỡ hoặc rách bao bì... tuỳ theo đặc tính của hàng hoá. 2) Điều kiện bảo hiểm (ĐKBH) phải quy định cụ thể rõ ràng TDT khi yêu cầu xuất trình chứng từ bảo hiểm phải ghi rõ điều kiện BH và các điều kiện phụ nếu có. Đây là điều rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến tỷ lệ bồi thường tổn thất. Trong 3 ĐKBH trên, loại FPA có phạm vi bảo hiểm hạn chế nhất và dĩ nhiên phí cũng thấp nhất với hợp đồng bán hàng giá CIF/CIP nếu không quy định rõ trong hợp đồng thương mại và trong TDT, người bán có quyền chọn ĐKBH có lợi cho mình miễn là cung cấp chứng từ bảo hiểm cho người mua. Trường hợp này, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ bảo hiểm với bất kỳ ĐKBH nào. Bảo hiểm với "rủi ro thông thường" hoặc "các rủi ro theo tập quán" không được dùng trong nghiệp vụ bảo hiểm vì nó không nói rõ mức độ rủi ro, điều kiện bồi thường. Ngược lại ngân hàng không ràng buộc bởi những từ mơ hồ như vậy và không chịu trách nhiệm nếu các rủi ro nào đó (theo quan niệm của người mở TDT) không được bảo hiểm. Điều kiện bảo hiểm có tổn thất riêng (WPA) luôn quy định tỷ lệ miễn giảm. Thông thường người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất riêng khi thiệt hại đạt đến một tỷ kệ nhất định của trị giá giá trị bảo hiểm luôn quy định tỷ lệ miễn giảm. Thông thường người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất riêng khi thiệt hại đạt đến một tỷ lệ nhất định của trị giá giá trị bảo hiểm luôn quy định tỷ lệ miễn giảm. Thông thường người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất riêng khi thiệt hại đạt đến một tỷ lệ nhất định của trị giá của đối tượng bảo hiểm, gọi là tỷ lệ miễn giảm, được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Tỷ lệ này phụ thuộc vào loại hàng và dao động 3-5%. Đôi khi 2 bên thoả thuận ĐKBH "khấu trừ", tức là tỷ lệ tổn thất sẽ được bồi thường sau khi đã khấu trừ tỷ lệ % quy định. ( điều kiện này ở Mỹ gọi là ...) thí dụ: tỷ lệ khấu trừ 3% mức tổn thất 15% trị giá của đối tượng bảo hiểm, mức bồi thường sẽ là 12%. 108

Tuy những bồi thường tổn thất thuộc điều kiện FPA và AR không có tỷ lệ miễn giảm nhưng người mua và bán có thể nhất trí với nhau về điều khoản này. Do vậy, nếu TDT không quy định khác, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ bảo hiểm diễn giải về việc khấu trừ, miễn giảm bởi đây là tập quán quốc tế về bảo hiểm. ĐIỀU 36: BẢO HIỂM MỌI RỦI RO Nếu TDT quy định "bảo hiểm mọi rủi ro", ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ bảo hiểm thể hiện điều kiện "mọi rủi ro", dù có hay không tiêu đề "mọi rủi ro", ngay cả khi chứng từ bảo hiểm có quy định loại trừ một số rủi ro, mà không chịu trách nhiệm về những rủi ro không được bảo hiểm. Điều khoản này giữ nguyên điều 39 bản điều lệ 400, ngoại trừ các từ "ngay cả khi chứng từ bảo hiểm ghi rõ" (even if the insurance document indicates) được thêm vào làm câu văn chặt chẽ hơn. Trong 3 điều kiện bảo hiểm thông dụng đã được đề cập ở điều 35, "all risks" có phạm vi bảo hiểm rộng rãi nhất, bảo đảm cao nhất quyền của người được bảo hiểm, bao gồm các tổn thất riêng (WPA) và một số bảo hiểm phụ. Do vậy "all risks" được khách hàng sử dụng nhiều nhất, và trở thành mốt cho các doanh nghiệp. Không phải ngẫu nhiên mà WG lại soạn thảo riêng một điều khoản nói về bảo hiểm mọi rủi ro. Tuy nhiên "mọi rủi ro" không có nghĩa là tất cả. "All risks" chỉ bảo đảm cho những tổn thất từ nguyên nhân bên ngoài: thiên tai sự cố bất ngờ, tổn thất trong bốc dỡ chuyển tải... người bảo hiểm không bồi thường những khuyết tật vốn có của hàng hoá hay tính chất tự nhiên, hoặc bốc dỡ chậm. Những rủi ro về chiến tranh, đình công, bãi công... cũng không được bồi thường vì đã có điều kiện bảo hiểm riêng. Hiện nay, điều khoản "all risks" được thể hiện trong bảo hiểm đơn, bằng điều khoản A trong đó quy định mọi rủi ro. Do vậy Nếu TDT yêu cầu ĐKBH là "all risks" thì ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ bảo hiểm có ghi điều khoản A, mà không cần phải có tiêu đề "tất cả các rủi ro" (all risks). Ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm khi chứng từ bảo hiểm ghi ĐKBH là "tất cả các rủi ro" (all risks) cho loại rủi ro nào, ngân hàng không cần biết, vì nó thuộc lĩnh vực khác, được miễn trách nhiệm đối với ngân hàng. Chỉ cần trên bề măt chứng từ ghi ĐKBH đúng như TDT quy định là được ngân hàng chấp nhận. ĐIỀU 37: HOÁ ĐƠN THƯƠNG MẠI A. Trừ khi quy định khác trong TDT, hoá đơn thương mại: i. Phải thể hiện trên bề mặt là được phát hành bởi người hưởng ghi trong TDT (trừ trường hợp ghi trong điều 48), và ii. Phải được lập cho người mở TDT (trừ trường hợp ghi trong điều 48), và iii. Không cần được ký B. Trừ khi có quy định khác trong TDT, ngân hàng có thể từ chối các hoá đơn thương mại được phát hành quá số tiền TDT cho phép. Tuy nhiên, nếu một ngân hàng được phép thanh toán, cam kết trả tiền sau, chấp nhận hối phiếu, hay triết khấu thêm TDT, chấp nhận một hoá đơn như vậy, thì quyết định của ngân hàng đó không thanh toán, không cam kết trả chậm, không chấp nhận hối phiếu hay triết khấu số tiền vượt quá số tiền TDT cho phép. C.Việc mô tả hàng hoá trong hoá đơn thương mại phải phù hợp với mô tả hàng hoá trong TDT. Trong tất cả các chứng từ khác, hàng hoá có thể được mô tả một cách chung chung mà không khác với hàng hoá mô tả trong TDT. Điều khoản này được sửa đổi từ Điều 41 Bản Điều lệ 400 và bổ sung quy định về chữ ký của hoá đơn. 1) Hoá đơn - chứng từ không thể thiếu của TDT Hoá đơn là một chứng từ cơ bản của TDT. Đã là tín dụng chứng từ thì phải có chứng từ nhưng loại chứng từ số lượng thì khác nhau tuỳ theo 109

TDT. Nếu TDT thương mại thì bao gồm: hoá đơn, vận đơn, chứng từ đóng gói,chứng nhận phẩm chất, chứng từ xuất xứ..., TDT về dịch vụ thì chỉ cần hoá đơn, biên bản nghiệm thu hoặc bản xác thực. Nếu là tín dụng dự phòng thì sẽ có "Letter of demand" và "Statement". Như vậy trừ TDT dự phòng dùng "Letter of demand" thay cho hoá đơn, còn lại các TDT thông thường đều có hoá đơn ghi rõ số tiền thanh toán. Hoá đơn chứng minh quyền được trả tiền mà người hưởng đã thực hiện nghĩa vụ trong HĐTM. Ký phát hoá đơn phải là người bán hàng, tức là người hưởng (hoặc là người hưởng thứ hai trong TDT chuyển nhượng) và người đứng tên là người mua (người mở TDT). Phần bổ sung trong điều khoản này là việc quy định hoá đơn không cần ký, Nếu TDT không yêu cầu. Trước đây quan niệm của các bên liên quan là hoá đơn phải được người phát hành ký, dù TDT có quy định hay không. Theo WG thì đây là một quan niệm không đúng và cần phải sửa đổi (Tài liệu ICC số xuất bản 511, trang 100). Hơn nữa việc bổ sung quy định này nhằm tạo thuận tiện cho việc soạn thảo chứng từ, tài liệu kỹ thuật vi tính, điện tử chỉ khi cần thiết mới dùng chữ ký theo truyền thống. 2) Quyền quyết định của NH đối với số tiền giao vượt giá trị TDT TDT, bao giờ cũng ấn định một số tiền cụ thể để người hưởng giao hàng. Trừ khi tỷ lệ giao dịch được ghi rõ, người hưởng không được giao vượt quá số tiền đó vì nó không phù hợp với điều khoản của TDT. Tuy nhiên không phải lúc nào chứng từ đó cũng bị từ chối. Do vậy, từ "ngân hàng có thể từ chối" diễn tả 2 khả năng của 1 hành động. Quyết định thanh toán hay từ chối là do ngân hàng , tuỳ từng trường hợp cụ thể. " Nếu một ngân hàng được phép thanh toán, cam kết trả tiền sau... chấp nhận hoá đơn như vậy..", có nghĩa là khi ngân hàng thấy việc thanh toán là phù hợp với bản điều lệ. Tài liệu số xuất bản 489, trang 92 của ICC khẳng định "Như đã nói trong điều khoản này (điều khoản 41 bản điều lệ 400) việc chấp nhận hay từ chối hoá đơn mà số tiền vượt quá giá trị của TDT tuỳ thuộc vào ngân hàng". Thí dụ: Xe vận tải $85,000x3 chiếc= $255,000 nhưng do người bán giao thêm phụ tùng (không ghi trong hoá đơn) nên hoá đơn có số tiền là 265,000- tất cả các chứng từ đã phù hợp với các yêu cầu của TDT, trừ hoá đơn vượt $10,000. Có thể có 2 trường hợp xảy ra : • Ngân hàng sẽ từ chối chứng từ vì hoá đơn không phù hợp với TDT, hoặc • Ngân hàng sẽ thanh toán $255,000 theo đúng quy định và chuyển giao chứng từ cho người mở. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về số tiền vượt còn lại ($10,000). Việc thanh toán là đúng theo quy định của TDT và hợp lý, do vậy ràng buộc với các bên: người mở, người hưởng và các ngân hàng có liên quan. Tuy nhiên trong thực tế các ngân hàng đều từ chối hoá đơn ghi vượt số tiền. Do vậy, với ví dụ trên, người hưởng nên lập riêng hoá đơn của số tiền vượt và nhờ thu. Như vậy sẽ không còn bất hợp lệ chứng từ và ngân hàng phải thanh toán số tiền $255,000. Việc lập hoá đơn riêng cho số tiền vượt quá TDT không phải trường hợp nào cũng áp dụng được. Nếu TDT với mặt hàng có riêng giá cho từng loại , quy định số lượng cụ thể thì hoá đơn vượt quá số tiền thì có nghĩa hàng giao vượt số lượng hoặc vượt đơn giá. Hàng giao vượt số lượng chỉ được chấp nhận khi người hưởng lập 2 bộ chứng từ riêng đầy đủ các loại cho 2 lô hàng của một TDT trên một con tàu. Bộ chứng từ với số tiền theo quy định sẽ được thanh toán ngay, bộ chứng từ còn lại với số tiền vượt thì sẽ gửi theo phương thức "chấp nhận". Tuy nhiên việc cấp 2 bộ vận đơn cho một lô hàng là không dễ. Do vậy ngân hàng có thể từ chối cả 2 bộ chứng từ vì sự mâu thuẫn về số lượng hàng giữa vận đơn và các chứng từ khác. Thí dụ: 110



Nếu TDT yêu cầu hàng giao một chuyến 32.500 kg tôm đông lạnh, đơn giá USD 5,9/1kg, tổng trị giá USD 191,750 không có dung sai. • Hàng giao thực tế 34.000kg, số tiền USD200,600 • Nếu hàng vượt (1500 kg) được xếp riêng container thì có thể lập được 2 bộ chứng từ với 2 bộ vận đơn riêng biệt. Việc thanh toán có thể thực hiện. Nếu toàn bộ hàng được xếp trong một container thì rất khó được cấp 2 vận đơn riêng. Với 2 bộ chứng từ riêng lẻ lại chung một vận đơn thì có thể bị từ chối cả hai và cũng có thể chấp nhận một số tiền đúng theo quy định của TDT, tuỳ thuộc vào quy định của từng ngân hàng đây chính là mặt trái của bản điều lệ gây ra sự tuỳ tiện của ngân hàng mà phần lớn nghiêng về bảo vệ quyền lợi của khách hàng mình. Ngân hàng có được phép thanh toán hoá đơn ghi số tiền nhỏ hơn trị giá TDT hay không? Bản điều lệ, không đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên cần phải hiểu theo lẽ thông thường là Nếu TDT không ghi điều khoản dung sai và không cho phép giao hàng từng phần thì số tiền thể hiện trong hoá đơn phải đúng số tiền ghi trong TDT. 3) Sự mô tả hàng hoá của Hoá đơn Một trong những nét nổi bật trong tranh chấp giữa 2 phía của TDT và cũng là sự khác biệt nhiều nhất trong nhận thức và yêu cầu của TDT là vấn đề chi tiết hàng hoá quy định trong TDT và mô tả hàng hoá trong hoá đơn và các chứng từ khác. Trong các tài liệu của ICC, thắc mắc về vấn đề trên chiếm tỷ lệ cao nhất trong những bất đồng được đưa ra ICC giải quyết. Tài liêu "More case studies on d.c" số xuất bản 489 nêu ra 8 trường hợp đều xoay quanh nhận thức về điều khoản 41 (c) bản điều lệ 400. Hiểu thế nào từ "Correspond with" quả là vấn đề không đơn giản. Ngay cả ICC cũng có những ý kiến không đồng nhất. Trong cuốn... của ICC số 415 nói rõ khi kiểm tra chứng từ "sự mô tả hàng hoá phải chính xác như trong TDT" . Nhưng trong tài liệu "More case studies on D.C" thì quan điểm của ICC là : từ "tương xứng" tại điều khoản 41 (c) không nhất thiết phải đồng nghĩa với từ "đồng nhất" nhưng phải hiểu là rất gần nghĩa với từ đồng nhất. ý kiến sau là chính xác và hợp lý. "chính xác" hay "đồng nhất" nghĩa là không được thêm hay bớt bất cứ một từ nào trong mô tả hàng hoá. Nhưng "tương xứng" hay "phù hợp" được hiểu là sự mô tả ở mức tương đương với yêu cầu của TDT, không làm thay đổi tên gọi, tính năng, tác dụng, bản chất của hàng hoá. Ðiều này cho phép hoá đơn phải ngoài ghi đúng chi tiết hàng hoá trong TDT, còn được ghi thêm vào những chi tiết như: đặc tính, kỹ thuật, ký hiệu... Nếu như chi tiết này không làm thay đổi bản chất, tính năng, cấu trúc của hàng hoá và không mâu thuẫn với hàng hoá của TDT. Tài liệu ICC xuất bản số 489 (trang 95) cũng khẳng định các ký hiệu viết thêm sẽ được chấp nhận Nếu chúng không mâu thuẫn với các điều khoản của TDT. Thí dụ: - TDT ghi: "second hand textile machine, consists of 1 set of second hand stenter and 1 set second hand rapid dyeing machine" - Hoá đơn có thể miêu tả thêm các chi tiết kỹ thuật, tính năng, đặc tính mà vẫn được chấp nhận: 1) Second hand stenter, one set made in Germany - Band : Artos - Year of production : 1980 Working speed : MAX 60m/mia - Type : combined pin type 2) Second hand Rapid Dyeing machine, one set: - Brand : - Year of production : - Capacity : Tuy nhiên, từng ngân hàng có cách nhìn nhận khác nhau, do vậy có trường hợp ngân hàng này cho là hợp lệ, nhưng ngân hàng khác thì từ chối. Do vậy, muốn khẳng định sự hoàn thiện của chứng từ cần căn cứ vào trường hợp cụ thể và trên cơ sở nhận thức chung và kinh nhiệm thực tế. Theo ICC thì "điều 41(c) không cấm 111

hoá đơn ghi thêm các chi tiết đó gồm nhiều khác biệt với trạng thái của sự diễn tả hàng hoá trong TDT". (Tài liệu ICC số xuất bản 459, trang 113). Thí dụ: - Trường hợp 263 được đưa ra trong tài liệu ICC số xuất bản 489: TDT yêu cầu chi tiết hàng hoá : "100 % coton, grey carded sheeting woven on Automatic loóm with 1/4 or 3/5 inch tape selvage plain 1x1 weaver. First quality, 63 inch wide, 60x60, yarns 20/20, export packing seaworthy sale". Hoá đơn ghi đầy đủ chi tiết trên và thêm: " Warp: 24 Weft:24 " a. Ngân hàng chiết khấu chấp nhận hoá đơn với lý do: - " Warp 24, Weft 24 "Chỉ số sợi chỉ trên 1cm2 tương đương 60x60 trên một inch vải. Do vậy, nó chỉ là chi tiết bổ sung của sự mô tả hàng hoá và không mâu thuẫn với điều 41(c) vì toàn bộ sự diễn đạt về hàng hoá ghi trong TDT được thể hiện đầy đủ trong hoá đơn. b. Ngân hàng phát hành từ chối hoá đơn vì cho rằng TDT không yêu cầu thêm " Warp 24, Weft 24 ". c. Ý kiến của ICC là từ bổ sung này tác động trực tiếp đến cấu trúc thành phần hàng hoá của TDT nên không thể chấp nhận được. Tài liệu của ICC cũng nêu trường hợp tương tự đã được đem ra toà án giải quyết, Bank Meli Iran kiện Barclays Bank về sự sai biệt chứng từ của TDT. Chứng từ theo quy định của TDT phải ghi rõ là hàng hoá mới nhưng khi xuất trình chứng thư lại ghi lại ghi là "mới, tốt". Thẩm phán Mc Nair khẳng định "mới" và "mới tốt" không thể cùng nghĩa. Do tính chất phức tạp của điều khoản 41(c), một số phòng thương mại quốc gia đã nêu ý kiến thay chữ "Correspond" bằng chữ "Identical" đối với sự mô tả hàng hoá trong hoá đơn. Nhưng WG cảm thấy như vậy quá hạn chế và tạo ra gánh nặng không hợp lý với các bên liên quan, càng gia tăng sự bất hợp lệ của chứng từ. Quan điểm của WG vẫn là "đôi khi một số chi tiết có tính chất thông tin được ghi thêm vào sự mô tả của hàng hoá trên hoá đơn. Những chi tiết bổ sung này không có thể coi là hoặc mâu thuẫn với yêu cầu của TDT, do vậy sẽ được chấp nhận" (tài liệu ICC xuất bản số 511 trang 100). (At times additonal information is supplied in the discription of the Marchandise appearing in the commercial invoice. Thí additional information may not be considered detrimential or in consistent with the requirements in the credit and therefore it's acceptable- ICC pub.No.511, page 100) Tuy nhiên như đã phân thích trên, các chi tiết nào được bổ sung, ghi thêm như thế nào vào hoá đơn đều tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, cách nhìn vnhận vấn đề và cả những quy định của ngân hàng. Do vậy, để bảo đảm sự hoàn chỉnh của chứng từ yêu cầu sửa đổi TDT theo cách diễn giải trên hoá đơn là giải pháp tốt nhất. 4) Sự mô tả hàng hoá ở các chứng từ khác. Hàng hoá là máy móc thiết bị, đòi hỏi rất nhiều chi tiết kỹ thuật, quy cách phẩm chất cần diễn tả đầy đủ trên hoá đơn nhằm cung cấp dữ liệu cho người mua. Nhưng trên các chứng từ khác: chứng nhận xuất xứ, chứng nhận chất lượng sản phẩm của nhà máy, chứng từ đóng gói thì không cần, có những trường hợp không thể ghi đầy đủ như hoá đơn mà TDT yêu cầu. Phòng thương mại cấp chứng từ xuất xứ thì họ chỉ xác thực thiết bị đó được sản xuất tại nước họ mà thôi, chứ chi tiết kỹ thuật và tính năng đều do người bán hàng cung cấp, họ không thể biết được. Do vậy chỉ cần ghi chi tiêt chính của thiêt bị đó là đủ, miễn là không mâu thuẫn với yêu cầu của TDT và các chứng từ khác. Tương tự hãng vận tải chỉ nhận chuyên chở các thiết bị đó, còn chi tiết thế nào họ không cần biết. Hơn nữa vận đơn không thể diễn tả hết các chi tiết kỹ thuật như hoá đơn mà chỉ cần ghi tên hàng hoá và một số chi tiết chính, nếu cần. Hãy lấy ví dụ về phần trên về 2 máy dệt nhuộm. Nếu TDT yêu cầu cụ thể các chi tiết kỹ thuật mà hoá đơn đã thể hiện thì các chứng từ khác đặc biệt là vận đơn, chỉ cần ghi: 112

"Second hand textile machine, consists of 1 set of second hand stenter and 1 sets of second hand rapid dyeing machine" Vậy tên hàng số lượng hàng đúng theo TDT và phần hoá đơn nhưng có phần mô tả chi tiết về tính năng, công dụng, chất lượng ... Tuy nhiên, hiểu và vận dụng "những từ ngữ chung" (general terms) như thế nào cho đúng là vấn đề không đơn giản Nếu hàng hoá được diễn tả bằng những từ ngữ chung mà làm thay đổi tên gọi, bản chất, tính năng của hàng hoá thì không thể chấp nhận. Hàng hoá là thiết bị kỹ thuật máy móc, Nếu được diễn tả theo cách trên dễ bị "biến dạng" và sẽ mâu thuẫn với hàng hoá quy định trong TDT và hoá đơn. Do vậy, tuỳ vào trường hợp và hoàn cảnh cụ thể để quy định diễn tả hang hoá trong các chứng từ nhằm đảm bảo sự hoàn hảo của chúng. Đây là các kiến thức mà nhân viên ngân hàng cần phải có để đẩm bảo hợp lệ chứng từ chiết khấu, hỗ trợ tốt cho khách hàng là xuất khẩu thu tiền nhanh chóng đầy đủ. Điều dễ hiểu là chứng từ càng nhiều chi tiết diễn giải càng dễ sai sót. Do vậy, nhà xuất khẩu phải hiểu dữ liệu nào cần và dữ liệu nào không cần đưa vào chứng từ giao hàng để đơn giản hoá chứng từ nhưng đảm bảo hợp lệ của chúng. Tâm lý của những người không nắm vững Nghiệp vụ là thà thừa là còn hơn thiếu nên dẫn đến sai sót đơn giản mà lẽ ra không có, do có qua nhiều chi tiết thừa trong các chứng từ. <START="5" 5) Sửa chữa trên các chứng từ phải được xác thực. Việc lập chứng từ không thể không có những lỗi về chính tả, hoặc do hiểu sai vấn đề. Do vậy chứng từ được sửa chữa thêm bớt... để xuất trình đúng theo quy định TDT. Tài liệu ICC xuất bản số 459 đã nêu ý kiến của hội đông NH thuộc ICC như sau: " Mọi sửa chữa phải được xác thực bằng dấu và chữ ký hoặc ít nhất là ký tắt mặc dù đôi khi sửa chữa trên chứng từ phải được đóng dấu". Tài liệu ICC470/505 cũng đề cập: " Việc sửa chữa trên chứng từ vận tải phải được xác thực bằng con dấu cũng như chữ ký hoặc ký tắt. Điều này nhằm làm rõ ai là người sửa chứng từ và sửa chữa với tư cách gì. Những chứng từ đó chỉ được chấp nhận khi thủ tục trên được tuân thủ. Nhưng ý kiến của ICC chỉ đề cập đến các chứng từ vận tải mà thôi, còn các chứng từ khác thì sao? Điều trở thành lẽ thông thường là đã là chứng từ có chữ ký của người phát hành, bất kể đó là chứng từ gì, đều phải có xác thực bằng con dấu, chữ ký, ký tắt vào những nơi sửa chữa ,thêm bớt, gạch xoá (Nếu có). Ngược lại NH sẽ từ chối chứng từ đó. Đây là điều cần lưu ý đối với các đơn vị xuất khẩu khi lập chứng từ giao hàng. Thói quen của các đơn vị Việt Nam là chỉ đóng dấu sửa (dấu ruồi) vào nơi sửa chữa, thêm bớt... mà không ký tắt. Trên thế giới người ta coi trọng chữ ký hơn là con dấu nhưng ở Việt Nam thì ngược lại. Nếu chứng từ không cần ký như hoá đơn (điều 37), mà có sửa chữa thì có cần xác thực như trên không? Thực ra chứng từ không cần ký thì bất cứ ai lập cũng được và đương nhiên bất cứ ai sửa cũng được. Thế thì việc sửa chữa có cần xác thực bằng con dấu và chữ ký như các chứng từ được ký không? Không có quy tắc nào được nêu ra mà vấn đề ở đây tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận và quyết định của các bên liên quan. Do vậy người hưởng phải căn cứ vào tình huống cụ thể để xử lý những phát sinh trong việc thiết lập chứng từ giao hàng. ĐIỀU 38: CÁC CHỨNG TỪ KHÁC Nếu TDT yêu cầu chứng nhận hay xác thực trọng lượng trong trường hợp chuyên chở không phải bằng đường biển, ngân hàng sẽ chấp nhận con dấu trọng lượng hay lời khai về trọng lượng được người chuyên trở hay đại lý của người được chuyên trở ghi lên chứng từ vận tải, trừ khi 113

TDT quy định rõ là việc chứng nhận hay xác thực trọng lượng phải được lập bằng chứng từ riêng biệt. Điều khoản này giữ nguyên điều 42 của bản điều lệ 400 tuy tiêu đề của điểu khoản này là "các chứng từ khác" nhưng chỉ có 2 loại chứng từ được nêu ra "bản xác thực" và "giấy chứng nhận trọng lượng". Các chứng từ khác như chứng nhận xuất xứ, chứng nhận kiểm dịch thực vật, chứng nhận chất lượng... không có những nét đặc thù nên chỉ được khái quát ở các điều 20, 21 và 22. Trong vận tải đường biển, trọng lượng, khối lượng hàng hoá phải được người chuyên chở hoặc thuyền trưởng ghi đầy đủ trên vận đơn. Do vậy điều khoản này không áp dụng cho các chứng từ vận tải đường biển hay chứng từ vận tải đa phương thức trong đó có đường biển. Các phương thức vận tải: đường không, đường bộ, đường sắt... trong lượng hàng hoá có thể được người chuyên chở hay đại lý xác thực lên chứng từ vận tải hoặc ghi thêm xác nhận trọng lượng hàng hoá đã được nhận để chuyên chở. Như vậy người chuyên chở ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm với hàng hoá đó. Không cần thiết người chuyên chở cấp riêng "bản xác thực" hoặc giấy chứng nhận trọng lượng", vì cả 2 cách xác nhận trọng lượng có tính pháp lý như nhau. Tuy nhiên nếu người mở cần xác nhận trọng lượng hàng hoá phải được thành lập chứng từ riêng thì phải được ghi rõ trong TDT. Ngược lại, ngân hàng sẽ chấp nhận chứng từ này đúng như tập quán của các phương tiện vận tải đó. Với mục đích của điều khoản này, các bên liên quan sẽ hiểu là "bản xác thực" hay "giấy chứng nhận trọng lượng" phải do nhà chuyên chở cấp. Tuy nhiên điều 21 lại cho phép bất cứ ai phát hành chứng từ này cũng được, nếu TDT không quy định cụ thể. Do vậy người mở TDT phải ghi rõ người phát hành 2 loại chứng từ này Nếu họ muốn xác thực trọng lượng hàng hoá bằng chứng từ riêng biệt.

E. NHỮNG QUY ĐỊNH KHÁC ĐIỀU 39: DUNG SAI VỀ SỐ TIỀN, SỐ LƯỢNG VÀ ĐƠN GIÁ CỦA TDT A. Những từ "vào khoảng", "khoảng chừng", hoặc những từ tương tự được dùng để nói về số tiền của TTD hoặc số lượng của đơn giá ghi trong TTD thì phải được hiểu là dung sai cho phép hơn / kém không quá 10% so với số tiền hoặc số lượng hoặc đơn giá mà những từ ấy nói đến. B. Trừ khi TTD quy định là số lượng hàng hoá không được vượt quá hay ít hơn, có thể cho phép dung sai 5% hoặc hơn kém luôn luôn với điều kiện là tổng số tiền phải trả không vượt quá số tiền của TTD. Dung sai này không được áp dụng khi TTD quy định số lượng tính bằng con số các đơn vị bao kiện hoặc bằng số đơn vị chiếc. C. Trừ khi TTD thư không cho phép giao hàng từng phần có quy định khác, hoặc trừ khi phần (b) nói trên được áp dụng, dung sai 5% kém hơn so với số tiền thanh toán sẽ được chấp nhận, miễn là TTD quy định số lượng hàng hoá thì số lượng hàng hoá phải được giao đầy đủ, và Nếu TTD ghi rõ đơn giá thì đơn giá đó không được giảm xuống. Điều mục này không được áp dụng Nếu các từ ghi trong phần (a) của điều khoản này được sử dụng trong TTD. Điều khoản này được sửa đổi từ điều khoản 43 của bản điều lệ 400. Đặc biệt phần (c) được bổ sung nhằm hoàn thiện quy tắc của bản điều lệ về những vấn đề mà trong thực tế thương mại quốc tế đã và đang phát sinh. 1) Dung sai tăng/ giảm 10% trị giá/đơn giá/ số lượng của TTD. Phần a vẫn giữ nguyên nội dung của bản điều lệ cũ, ngoại trừ "xấp xỉ" được bổ sung. Trong giao dịch Tín dụng chứng từ cần lưu ý một điều là áp dụng dung sai (xê dịch) hợp lý cho số tiền lẫn số lượng hàng hoá và đơn giá (Nếu cần), nhằm tránh sự mâu thuẫn giữa 3 phần trên. Thí dụ: TTD quy định : Số tiền : USD 2.100.000(+/-10%) 114

Số lượng hàng : USD 10.000 MT (+/-10%) Đơn giá : USD 210/MT Trường hợp này dung sai 10% phải áp dụng cho cả số tiền và số lượng hàng. Ngược lại chứng từ giao hàng sẽ bất hợp lệ. Nếu TTD ghi rõ được phép cộng trừ 5% cho số lượng hàng được ấn định thì số tiền cũng phải có dung sai như vậy. Sự thay đổi của một số lượng trong phép nhân ắt hẳn sẽ dẫn đến tích số tăng giảm tương đương. Tài liệu ICC số xuất bản 489, trang 102 dẫn chiếu một trường hợp xuất trình chứng từ bị ngân hàng từ chối do những mâu thuẫn trong áp dụng dung sai. Số tiền $ 3.003.000 Hàng hoá 56.000 MT (+/-10%) Đơn giá $ 48,75/MT Giao hàng một lần Chứng từ giao hàng trị giá $ 2,269,682.50 bị ngân hàng từ chối vì: "trị giá đòi tiền thiếu" Ngay số tiền $3,003,000 cũng ngụ ý áp dụng dung sai 10% chi trị giá TDT nhưng cách nói đó không thuyết phục được ngân hàng. Số tiền trên phải là $2,730,000 (+/-105), tương đương số tiền được phép giao dịch không quá 10% là $3,003,000 hoặc TDT thêm chữ "cho đến" $3,003,000 là đủ bảo đảm sự hợp lệ của chứng từ. Tuy quan điểm của các chuyên gia ICC là ngân hàng không thể từ chối chứng từ với số tiền nằm trong khoảng giới hạn $3,003,000 – nhưng người thắng cuộc vẫn là ngân hàng phát hành vì họ không sai. 2) Áp dụng dung sai cộng trừ 5% Một số mặt hàng như than đá, dầu lửa, quặng, phân bón chuyên chở dạng rời dung sai 5% áp dụng cho số lượng hàng hoá và số tiền với điều kiện là số tiền thanh toán không được vượt quá quy định. Các mặt hàng trên với khối lượng hàng lớn bốc hàng khá phức tạp nên trong thực tế rất khó chính xác như TDT quy định. Tuy nhiên, để đảm bảo việc giao hàng, Số tiền TDT thường cho phép tăng 5% trị giá. Thí dụ: TDT quy định 1000 MT phân bón hạng rời Đơn giá USD 185/MT Trị giá USD 194,250 Ta sẽ hiểu là hàng giao từ 950 MT đến 1050 MT, số tiền thanh toán rõ ràng không thể vượt USD 194,250. Nhưng nếu TDT ghi rõ số tiền là USD 185,000 thì người hưởng chỉ được giao từ 950 đến 1000 MT mà thôi. Tuy nhiên, nếu người mở yêu cầu số lượng hàng giao phải chính xác thì TDT phải ghi rõ không cho phép xê dịch số lượng hàng hoá. Như vậy phần b của điều khoản này sẽ không có giá trị. Việc áp dụng dung sai trên đây tuỳ theo từng mặt hàng và đặc thù của chúng. Các mặt hàng mà số lượng được xác định bằng đơn vị đóng gói như thùng, hòm... và từng đơn vị riêng lẻ như cáctông, chiếc, đôi... thì không được áp dụng dung sai 5% như trên. 3) Áp dụng dung sai giảm 5%. Phần 3 của điều khoản này nêu ra một thực tế trong buôn bán quốc tế tương đối mới mẻ và năng động cần được nêu thành quy tắc. Trong thương mại TDT không được mở cho một số tiền ước định do một nguyên nhân thương mại hợp lý mà hai bên đều chấp nhận. Cũng có thể TDT giao hàng theo điều kiện CFR hoặc CIF/ CIP với giá ước tính hoặc có tính chất giả thuyết trên cơ sở cước phí bảo hiểm và vận tải có thể thay đổi. Chứng từ xuất trình với hoá đơn ghi số tiền thực tế của cước bảo hiểm và vận tải đã được giảm so với giá gốc. Do việc WG chấp nhận giảm tổng trị giá xuất trình theo TDT ở mức 5% là hợp lý vì cước phí bảo hiểm không thể giảm vượt mức nêu trên. Các yếu tố khác về giao hàng như đơn giá, số lượng hàng nếu được ghi cụ thể trong TDT thì không được thay đổi. 115

Tất nhiên nếu TDT đã cho phép tăng giảm 10% (điều 39-a) hoặc mặt hàng đã được phép xê dịch (điều 39-b) thì không thể áp dụng điều 39-c. 4) TDT không cho phép giao hàng nhiều lần, nhưng lại nói khác? Đây là trường hợp chỉ gặp ở một số TDT có mặt hàng đăc thù riêng. TDT quy định chỉ giao hàng một lần, nhưng lại thêm điều khoản đặc biệt. "Hàng phải đúng đủ container 400 feet. Chấp nhận giao hàng thiếu chừng nào container không chứa hết" ĐIỀU 40: GIAO HÀNG/THANH TOÁN TỪNG PHẦN A. Thanh toán và giao hàng từng phần được phép, trừ khi quy định khác trong TDT. B. Chứng từ vận tải thể hiện trên bề mặt là việc giao hàng đã được thực hiện trên cùng một phương tiện vận tải và cùng một hành trình miễn là chúng thể hiện cùng một nơi đến, sẽ không được coi là giao hàng từng phần ngay cả khi chứng từ vận tải ghi cùng các ngày tháng giao hàng và / hoặc những cảng bốc hàng, nơi nhận hàng để gửi hay nơi giao hàng khác nhau. C. Giao hàng bằng bưu điện hay bằng dịch vụ chuyển phát nhanh sẽ không được coi là giao hàng từng phần Nếu biên lai bưu điện hay chứng nhận gửu hàng bưu điện hoặc biên lai của dịch vụ chuyển phát nhanh hay giấy thông báo gửi hàng thể hiện là đã được đóng dấu, ký tên hay được xác thực tại nơi mà TDT quy định là hàng hoá phải được gửi đi từ đó và trong cùng một ngày. Điều khoản 44 của bản điều lệ 400 được sửa đổi cho súc tích hơn, đồng thời kết hợp với các điều khoản khác. 1) Thực chất của giao hàng và thanh toán từng phần. • Phần a được giữ nguyên nhằm đảm bảo giá trị áp dụng của nó cho tất cả các loại hình TDT , đặc biệt là TDT dự phòng. Nếu TDT không đề cập đến việc giao hàng thì phải hiểu là được phép giao hàng nhiều lần và đương nhiên sẽ thanh toán nhiều lần tương đương. Thực ra các TDT ghi thêm điều khoản "cho phép giao hàng nhiều lần" là không cần thiết. Cần lưu ý các diễn đạt của điều 40(a) này: cho phép thanh toán từng phần và/ hoặc giao hàng từng phần. Loại bỏ chữ "và" ra còn lại liên từ "hoặc" ta hiểu là TDT không giao hàng từng phần nhưng vẫn được thanh toán từng phần. Đó là các TDT về dịch vụ hoặc TDT dự phòng được phát hành dựa trên hợp đồng về dịch vụ hay đảm bảo cho việc thực hiện các hợp đồng thương maị. Với những TDT này, việc thanh toán vẫn được thực hiện bình thường theo thông lệ của nó là Nếu TDT không quy định khác thì người hưởng được phép xuất trình chứng từ đòi tiền nhiều lần trong giới hạn về trị giá và hiệu lực của TDT. Thí dụ một TDT dự phòng phát hành bảo đảm khoản nợ gồm nhiều kỳ hạn. Quá hạn người chủ nợ không trả nợ thì người cho vay lập thủ tục đòi tiền ngân hàng phát hành TDT và cứ thế các khoản nợ được thu hồi nhiều lần theo TDT cho đến hết. Rõ ràng TDT không giao hàng nhiều lần nhưng vẫn được phép đòi tiền nhiều lần. • Hiểu như thế nào về thực chất của giao hàng từng phần? Theo cách hiểu chung, giao hàng làm nhiều đợt, nhiều lần trong thời điểm khác nhau thì được gọi là giao hàng từng phần. Nhưng đối với nhà nhập khẩu thì số hàng được nhận một lần trên một con tàu tại một nơi thì không thể coi là giao hàng từng phần. Quan điểm này được hoan ngênh vì kết quả cuối cùng của việc chuyển giao hàng hoá là việc nhận hàng của người mua. Nếu đứng về phía nhà nhập khẩu thì dù cho hàng hoá được giao bằng cách nào, thời điểm nào, phương tiện nào cũng được chấp nhận, miễn là hàng hoá phải được chuyên chở trên một con tàu đến một nơi quy định cùng một thời gian. Thực tiễn giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế đã cho phép ICC duy trì quy tắc này nhằm đảm bảo sự thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong giao hàng. Thí dụ: 116

Nhà xuất khẩu cần giao một lô hàng 10.000MT gạo đến Châu phi ngày 15/04 tàu nhận hàng tại cảng Cần Thơ 3.000 tấn. Sau đó 3 ngày tàu nhận tiếp số hàng còn lại tại cảng Sài Gòn. Kết thúc bốc hàng ,tàu đi thẳng đến Châu phi để dỡ hàng. Theo quy định của TDT, thuyền trưởng tàu cấp 2 bộ vận đơn ứng với 2 lần nhận hàng. Ngày bốc hàng ghi trên vận đơn cấp sau tại cảng Sài Gòn được coi là ngày giao hàng thực tế của TDT. Bộ chứng từ hợp lệ mặc dù TDT không cho phép giao hàng từng phần. Bản điều lệ 400 chỉ cho phép áp dụng việc giao hàng trên đây cho vận tải biển hoặc vận tải liên hợp mà thôi. Bản sửa đổi này không nêu giới hạn do vậy bất kể loại hình vận tải nào cũng có thể áp dụng phần (B) điều 40 để đảm bảo sự phù hợp của chứng từ vận tải. 2) Giao hàng từng phần trong chuyên chở qua bưu điện. Với đặc thù của giao hàng bằng đường bưu điện, nhà xuất khẩu có thể giao hàng tại các trung tâm bưu chính thuận tiện nhất của nơi giao hàng theo quy định của TDT. Mạng lưới bưu điện của một tỉnh, thành phố hàng ngày tập trung các chứng từ, hàng hoá, bưu kiện tại hội sở chính để chuyển giao qua phương tiện vận tải: máy bay, xe tải chuyên dùng, tàu hoả... như vậy dù hàng gửi tại nhiều trung tâm bưu chính khác nhau trong một thành phố nhưng vẫn có thể chuyển đi trong cùng mộtchuyến hành trình. Do vậy, ngân hàng sẽ không coi là giao hàng từng phần nếu việc giao hàng được chứng minh bằng biên lai bưu điện. Giấy chứng nhận gửi hàng bưu điện, kể cả biên lai chuyển phát nhanh... được ghi cùng một ngày tại địa điểm mà TDT quy định. ĐIỀU 41: GIAO HÀNG/ THANH TOÁN LÀM NHIỀU LẦN Nếu việc thanh toán và/ hoặc giao hàng làm nhiều lần trong những thời kì nhất định được quy định trong TDT và một lần nào đó không thanh toán và/ hoặc không giao hàng trong thời gian ấn định thì TDT không có giá trị đối với lần đó và đối với những lần tiếp theo, trừ khi có quy định khác trong TDT. Giao hàng nhiều lần bằng nhau khác với giao hàng nhiều chuyến (partial shipment). Với cách giao hàng thứ nhất, TDT sẽ nói rõ kỳ hạn nhất định và số lượng hàng được giao. Ngược lại với cách giao hàng lần thứ 2 người bán được phép giao ít nhất 2 chuyến mà không cần ranh giới, thời gian và số lượng hàng. Trong thực tiễn mậu dịch quốc tế, có những hợp đồng mà 2 bên đồng ý giao hàng từng đợt với số tiền số hàng và kỳ hạn nhất định. Thí dụ: TDT yêu cầu 300MT nhựa tổng hợp trị giá USD 450,000, giao hàng 3 chuyến đều nhau, giữa các tháng 5,6,7. Việc giao hàng này nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất của nhà máy nhằm tránh đọng vốn, tồn kho trong thời gian trên. Nếu người bán không thể giao chuyến đầu tiên vào tháng 5, thì TDT coi như không còn hiệu lực cho việc giao hàng tháng 5 và phần còn lại. Ðiều kiện này đưa ra nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà nhập khẩu đối với việc vi phạm cam kết của nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, nhà nhập khẩu có thể xem xét hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để quyết định có mua hay không mặt hàng đó. Nếu cần họ sẽ sửa đổi TDT để người xuất khẩu tiếp tục giao hàng. Cần biết nguyên tắc này với bản chất của TDT tuần hoàn. Với yêu cầu giao hàng như ví dụ trên người hưởng của TDT tuần hoàn sẽ được phép giao 200MT vào giữa tháng 6 Nếu tháng 5 không có hàng giao, với điều kiện là TDT cho phép tích luỹ. Nếu là "không tích luỹ", nhà xuất khẩu cũng được phép giao lô hàng thứ 2 là 100MT vào giữa tháng 6, (thí dụ về TDT tuần hoàn này chỉ đề cập đến tuần hoàn về thời gian chứ không tuần hoàn về giá trị). Tương tự điều 40, cách diễn đạt "và/ hoặc" của điều khoản này cho ta hiểu là có thể đòi tiền từng phần đối với các TDT dự phòng hay TDT dịch vụ, không liên quan đến việc giao hàng. Như đã phân tích ở điều 1, TDT dự phòng bảo đảm việc thực thi hợp đồng của người cung cấp hàng hoá đối với người mua. Do vậy, việc đòi tiền là phụ thuộc vào việc hoàn thành nghĩa vụ đó. 117

Nếu hợp đồng thực hiện theo từng giai đoạn thì trong bất cứ giai đoạn nào mà người cung cấp không thực hiện đúng kam kết, người mua có quyền đòi tiền theo TDT mà không cần viện dẫn đến các giai đoạn trước đó có đòi được tiền hay không. Vậy, Nếu áp dụng điều khoản 41 thì sẽ bị "khập khiễng" giữa bản điều lệ và thực tiễn. Để khắc phục nhược điểm này, WG đưa ra lời khuyên cho các ngân hàng khi phát hành TDT dự phòng theo yêu cầu của người mở: Tuỳ theo từng hoàn cảnh mà quyết định loại trừ điều khoản 41, bản điều lệ 500 ra khỏi phạm vi áp dụng của TDT dự phòng (tài liệu ICC số xuất bản 511, trang 108). ĐIỀU 42: NGÀY HẾT HIỆU LỰC VÀ NƠI XUẤT TRÌNH CHỨNG TỪ A. Tất cả các TDT đều phải quy định ngày hết hiệu lực, nơi xuất trình chứng từ để thanh toán, chấp nhận hay, trừ trường hợp không giới hạn nơi chiết khấu, ngân hàng mà bộ chứng từ sẽ được xuất trình. Ngày hết hiệu lực được quy định cho việc thanh toán, chấp nhận hay chiết khấu sẽ được hiểu là giới hạn cuối cùng cho việc xuất trình chứng từ. B. Trừ trường hợp nêu trong điều khoản 44(a), chứng từ phải được xuất trình cùng hoặc trước ngày hết hạn TDT. C. Nếu ngân hàng phát hành quy định TDT có hiệu lực trong thời gian "1 tháng", "6 tháng" hoặc cách thể hiện tương tự, nhưng không chỉ rõ thời hạn đó tính từ ngày nào thì ngày phát hành TDT sẽ được coi là ngày bắt đầu thời hạn hiệu lực. Ngân hàng không nên quy định thời hạn hiệu lực của TDT theo cách như vậy. So với điều 46 cũ, điều khoản này có sự thay đổi cơ bản nhưng chỉ liên quan đến phần a nói về thời hạn thanh toán, chấp nhận hoặc khiết khấu của TDT. 1) Thời hạn hiệu lực của TDT ấn định cho việc xuất trình chứng từ. Điều 46 của bản điều lệ 400 không khó hiểu, nhưng thực tế lại phát sinh quá nhiều rối rắm trong việc vận dụng giữa các ngân hàng. Chỉ riêng tài liệu ICC số xuất bản 489 đã nêu ra 8 trường hợp tranh chấp giữa ngân hàng với khách hàng. Điểm nổi bật của các mâu thuẫn này là 1 số ngân hàng (chủ yếu là ngân hàng phát hành TDT) coi thời hạn quy định tại điều khoản 46 (a) bản điều lệ 400 là thời hạn mà việc chiết khấu, hoặc chấp nhận, hoặc thanh toán phải được thực hiện xong. ICC cũng đã nhận được yêu cầu của các phòng thương mại quốc gia về việc sửa đổi lại điều khoản 46 nhằm đưa ra quy định cụ thể, rõ ràng với thời hạn xuất trình chứng từ, và hiệu lực, tránh mọi tranh chấp 2 bên. Nhận thức về thời hạn nêu ra tại điều khoản 46 (a) mà theo đó việc khiết khấu chấp nhận hay thanh toán phải được thực hiện xong cùng hoặc trước đó là sai về lý thuyết lẫn thực tế. Người hưởng chỉ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình bằng những hành động họ có thể kiểm soát và khả năng của họ. Sau khi xuất trình chứng từ, hành động còn lại là của ngân hàng, ngoài tầm kiểm soát của người hưởng. Ngân hàng sẽ kiểm tra chứng từ trong thời gian 7 ngày làm việc (điều 13) hay trong 2 ngày là quy chế riêng của từng ngân hàng. Quy định về thời gian kiểm tra , gửi chứng từ , thông báo bất hợp lệ... về thời gian thanh toán, hoặc chấp nhận hoặc chiết khấu...không thể gắn với hiệu lực của L/C. Nhằm đảm bảo công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi của người hưởng, WG quy định rõ thêm về phần a của điều khoản này là Nếu TDT vẫn cứ ghi ngày hiệu lực cuối cùng cho việc thanh toán chấp nhận hoặc chiết khấu thì ngân hàng phải coi đó là thời hạn mà chứng từ phải xuất trình. Thí dụ: TDT quy định: "Việc chiết khấu được thực hiện không được chậm quá ngày 31/7" hoặc "chứng từ xuất trình để chiết khấu chậm nhất là 31/7" ("Negotiation is effected not later than 31 July "or "Document are presented for negotiation latest 31 July") Ta phải hiểu là ngày hết hiệu lực của TDT và là ngày cuối cùng cho việc xuất trình chứng từ là 31/7. Việc chiết khấu của ngân hàng được chỉ định hoăc việc thanh toán của ngân hàng phát hành 118

ngân hàng có thể được thực hiện trong vòng 7 ngày kể từ ngày 31/7. Nếu TDT có giá trị chiết khấu, ngân hàng gửi chứng từ phải xác nhận ngân hàng cho phát hành là chứng từ được xuất trình trong vòng hiệu lực của TDT (Vấn đề này sẽ được đề cập đến trong điều khoản 44 của bản điều lệ). Thời hạn hiệu lực bao giờ cũng ghi rõ trong TDT nhằm giới hạn việc xuất trình chứng từ để thanh toán, chấp nhận hay chiết khấu. Nói chung thời hạn của TDT không nên ghi theo cách thể hiện ở ví dụ trên. Tuy nhiên, một số nhà nhập khẩu khi mở TDT trả chậm thường ngộ nhận là ngày hết hiệu lực phải sau ngày thanh toán của kỳ hạn trả chậm là 60 ngày, 90 ngày, thậm chí 360 ngày. Thực ra nếu hiểu theo nhận thức chung thì không sai, nhưng hiểu theo nghĩa của bản điều lệ thì không đúng vì ngày hết hiệu lực chỉ giới hạn cho việc xuất trình chứng từ, còn việc chấp nhận, thanh toán sau đó là việc của ngân hàng , là hệ quả tiếp theo của giao dịch chứng từ (như đã phân tích ở trên). Do vậy bất kể thời hạn thanh toán của một TDT trả chậm là bao lâu thì ngày hết hiệu lực của nó muộn nhất không quá 21 ngày kể từ ngày giao hàng. Việc xuất trình chứng từ không được bản điều lệ 400 đề cập, do vậy, cách hiểu thông thường của các ngân hàng là tại ngân hàng chiết khấu, trừ khi TDT ghi rõ là tại ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận (Nếu có). Nhằm cụ thể và rõ ràng mọi chi tiết của giới hạn này, bản điều lệ 500 quy định bát buộc phải ghi rõ nơi xuất trình chứng từ. Trong thực tế cách thể hiện quy định này của tưng ngân hàng khác nhau. Nếu dùng mẫu của SWIFT thì TDT sẽ ghi: "ngày và nơi hết hiệu lực". Theo mẫu thống nhất của ICC thì TDT được ghi: "ngày hết hiệu lực" (expiry date) "nơi xuất trình chứng từ " (place for presentation) Hai cách thể hiện trên đều phải được hiểu như nhau. "Nơi hết hiệu lực" có nghĩa là nơi chứng từ phải xuất trình. Cách thứ 2 chuẩn xác và dễ hiểu, đúng theo quy định của điều khoản này. 2) TDT có giá trị thanh toán tại NH phát hành Thỉnh thoảng ta gặp TDT với điều khoản: "...có giá trị thanh toán tại NH phát hành bằng việc xuất trình hối phiếu và chứng từ tại chúng tôi cùng hoặc trước ngày hết hiệu lực". Như vậy không có NH được chỉ định vì TDT này không có giá trị chiết khấu mà chỉ có NH chuyển chứng từ, thay mặt người hưởng, đòi tiền NH phát hành. Đây là loại TDT thanh toán trực tiếp cho người hưởng - để phân biệt với TDT có giá trị chiết khấu, theo đó " nghĩa vụ của NH phát hành chỉ ràng buộc với người hưởng về việc thanh toán hối phiếu/ chứng từ và luôn hêt hiệu lực tại NH phát hành: loại TDT này không thể hiện cam kết hay nghĩa vụ của NH phát hành đối với những ai, trừ người hưởng của TDT-Tài liệu ICC số xuất bản 511. Đối với TDT này, người hưởng phải lưu ý thời gian chứng từ được gửi từ NH chuyển đến NH phát hành, sao cho chứng từ phải đến cùng hoặc trược ngày hết hiệu lực của TDT. Việc thanh toán có thể trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi NH phát hành nhận được chứng từ, và có thể sau ngày hết hiệu lực của TDT. Như vậy, TDT đã thoả mãn yêu cầu nơi xuất trình chứng từ. Nhưng nếu là TDT có giá trị chiết khấu không hạn chế với điều khoản "tại bất cứ ngân hàng nào", hoặc "không hạn chế việc xuất trình chứng từ" thì nơi xuất trình chứng từ cũng không hạn chế. Do vậy với các TDT này, không cần ghi nơi xuất trình chứng từ để chiết khấu, hoặc ghi hết hiệu lực tại ngân hàng chiết khấu. 3) Cơ sở để tính thời hạn hiệu lực. TDT với điều khoản hiệu lực, giả sử "sau 1 tháng" hầu như không gặp ở các TDT thông thường. Tuy nhiên trong thực tế TDT dự phòng vẫn được sử dụng 119

với giá trị hiệu lực tự phục hồi. Thí dụ TDT dự phòng quy định: giá trị hiệu lực 3 tháng kể từ ngày phát hành. Sau ngày hết hạn, TDT tự động phục hồi thêm 3 tháng nữa trừ khi TDT có quy định khác. Trường hợp này TDT phải quy định cụ thể là hiệu lực 3 tháng tính từ ngày nào. Ngược lại, ngân hàng sẽ lấy ngày phát hành TDT làm ngày thứ nhất của thời hạn 3 tháng. Để phù hợp với phần a của điều khoản này là TDT phải ghi rõ ngày hết hiệu lực, WG khuyến cáo các ngân hàng không nên sử dụng cách diễn tả hiệu lực của TDT như vậy, kể cả TDT dự phòng. ĐIỀU 43: GIỚI HẠN NGÀY HẾT HIỆU LỰC A. Ngoài quy định ngày hết hiệu lực cho việc xuất trình chứng từ, TDT khi yêu cầu chứng từ vận tải , phải quy định thời hạn kể từ sau ngày giao hàng, việc xuất trình chứng từ vận tải phải được thực hiện phù hợp với những điều khoản và điều kiện của TDT. Nếu không có quy định về thời hạn như vậy ngân hàng sẽ không chấp nhận các chứng từ được xuất trình quá 21 ngày sau ngày giao hàng. Trong mọi trường hợp chứng từ phải được xuất trình không trễ hơn ngày hết hiệu lực của TDT. B. Trong trường hợp mà điều 40(b) được áp dụng , ngày giao hàng được coi là ngày giao hàng chậm nhất được ghi trên chứng từ vận tải xuất trình. Điều 47 của bản điều lệ 400 đề cập quá dài dòng, chưa chính xác về giới hạn hiệu lực của TDT gây khó khăn trong việc nắm bắt nội dung, ý nghĩa cơ bản của quy tắc. Bản điều lệ này đã khắc phục được nhược điểm trên và hợp với nguyên tắc chung của tất cả các điều khoản. 1) Ý kiến của các Phòng thương mại quốc gia Trong quá trình chuẩn bị cho bản điều lệ 500 ra đời, WG đã nhận được các ý kiến của các phòng thương mại quốc gia đề cập đến vấn đề kỳ hạn xuất trình chứng từ. Các ý kiến trên được tập trung trong 3 điểm chính: - Giảm kỳ hạn xuất trình chứng từ 21 ngày xuống 15 ngày kể từ ngày giao hàng. Quan điểm của WG là bản điều lệ quy định TDT phải nói rõ kỳ hạn xuất trình chứng từ cho ngân hàng. Do vậy giới hạn 21 ngày sẽ không có giá trị Nếu TDT thực hiện đúng điều này. Việc giảm bớt như trên là không cần thiết đối với một quy định có tính chất dự phòng. - Trường hợp giao hàng bằng máy bay thì kỳ hạn 21 ngày thì quả là quá lâu và chứng từ sẽ được coi là "mất hiệu lực". WG khẳng định: Bản chất của AWB chỉ là bằng chứng cho việc giao hàng của người bán mà thôi, hoàn toàn không có giá trị lưu thông. Nhưng nếu xét cần thiết người mở quy định trong TDT kỳ hạn xuất trình chứng từ nhằm tránh cái gọi là "stale" (lưu ý "stale" là từ cổ hiện nay ít được sử dụng trong giao dịch quốc tế). - Nếu TDT dự phòng có yêu cầu bản copy chứng từ vận tải, việc áp dụng điều khoản này như thế nào? Đối với TDT dự phòng, bản copy đó chỉ để chứng minh cho việc giao hàng được xuất trình cùng với các chứng từ chính: tuyên bố vi phạm cam kết, yêu cầu thanh toán. Do vậy nó không có giá trị đối với điều khoản này vì không thể căn cứ vào ngày giao hàng không nàm trong phạm vi bảo đảm của TDT để xác định thời hạn xuất trình chứng từ. Tuy nhiên nếu gặp những TDT dự phòng như vậy ngân hàng nên quy định không áp dụng điều khoản 43(a) tránh những tranh chấp có thể. 2) Giới hạn cho việc xuất trình chứng từ. Trong điều khoản này "ngày phát hành" được đổi thành "ngày giao hàng" nhằm phù hợp với cách diễn đạt trong điều khoản 44 và các điều khoản về chứng từ vận tải, đồng thời khẳng định "chứng từ phải được xuất trình phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TDT" Giới hạn của việc xuất trình được tính từ sau ngày giao hàng nên những TDT không quy định xuất trình chứng từ vận tải (TDT về dịch vụ, TDT dự phòng) đều được loại ra khỏi phạm vi áp dụng.

120

TDT phải ghi rõ thời hạn mà chứng từ phải được xuất trình, có thể 5,7,10... ngày kể từ ngày giao hàng, (có thể là ngày nhận hàng để bốc/ ngày chuyển giao hàng/ ngày bốc lên tàu...) tuỳ theo từng phương tiện vận chuyển. Sau ngày đó người hưởng nhận được chứng từ vận tải và họ có một thời gian để chuẩn bị đầy đủ bộ chứng từ giao hàng. Do vậy việc tính thời hạn xuất trình chứng từ từ ngày giao hàng là hợp lý. Nếu TDT không quy định thời hạn đó, các bên liên quan phải hiểu theo tinh thần của điều khoản này là người hưởng được quyền xuất trình chứng từ không quá 21 ngày sau ngày giao hàng. 3) Tương quan giữa thời hạn hiệu lực và thời hạn xuất trình chứng từ. Ngày hết hiệu lực và ngày xuất trình chứng từ phải tương xứng. TDT quy định thời hạn xuất trình chứng từ là 10 ngày thì ngày giao cuối cùng cộng thêm 10 ngày nữa để có ngày hết hiệu lực. Thí dụ: Ngày giao hàng cuối cùng 31/8/94 Thời hạn xuất trình chứng từ 10 ngày Ngày hết hiệu lực 10/9/94 Nhưng nếu thời hạn là 15 ngày thì ngày giao hàng là 31/8/94, người hưởng cũng không thể xuất trình vào ngày 11/9 vì ngày hết hiệu lực là ngày 10/9, mà sau đó TDT hết giá trị cho việc xuất trình chứng từ. Việc xuất trình chứng từ là tuỳ thuộc vào từng trường hợp quy định cụ thể của TDT theo đó người hưởng yêu cầu sửa đổi cho hợp thực tế trong tầm kiểm soát của mình. TDT mà ngày giao hàng và ngày hết hiệu lực cùng một ngày thì phải bảo đảm thời hạn xuất trình chứng từ theo điều khoản 43. Ngược lại phải yêu cầu người mở sửa đổi TDT. Tài liệu ICC số xuất bản 489 đề cập đến các lần xuất trình của một bộ chứng từ trong thời hạn quy định của TDT. Theo đó người hưởng có thể sửa chữa, thay thế làm lại các chứng từ không hợp lệ trong một bộ chứng từ xuất trình cho ngân hàng được chỉ định. Các chứng từ đó phải hoàn chỉnh và xuất trình lại cho ngân hàng chậm nhất vào ngày cuối cùng của thời hạn xuất trình trong TDT, hoặc ngày cuối cùng của hiệu lực TDT. Ngân hàng gửi chứng từ (ngân hàng chiết khấu) sau khi nhận được thông báo bất hợp lệ của ngân hàng phát hành có quyền yêu cầu người hưởng lập lại các chứng từ đó, gửi cho ngân hàng đang nắm giữ chứng từ nhằm thay thế những bản bất hợp lệ. Tất nhiện, Ngân hàng phát hành chỉ chấp nhận bổ sung đó trong thời hạn hiệu lực hay trong giới hạn xuất trình của TDT, theo điều 43 (a) bản điều lệ 500. Điều dễ hiểu là điều khoản này chỉ cấm chứng từ xuất trình ngoài giới hạn TDT quy định và/ hoặc khi TDT đã hết hiệu lực (tuỳ theo từng trường hợp) mà không cấm chứng từ hợp lệ được xuất trình nhiều lần cho một lần thanh toán trong phạm vi của điều khoản 43. 4) Một chuyến hàng với nhiều ngày giao hàng khác nhau. Điều khoản 40 (b) minh hoạ bằng thí dụ cụ thể cho trường hợp một chuyến hàng với 2 ngày giao hàng tại 2 địa điểm. Theo đó ngày bốc hàng ghi trên vận đơn thứ 2 cấp tại cảng Sài Gòn được coi là ngày giao hàng thực tế và làm cơ sở để tính kỳ hạn cho việc xuất trình chứng từ, mặc dù bộ vận đơn thứ nhất được cấp tại Cần Thơ ghi ngày trước đó. Do vậy, điều 43 (b) quy tắc hoá các trường hợp đã đang và sẽ phát sinh trong thực tiễn buôn bán quốc tế. ĐIỀU 44: GIA HẠN NGÀY HẾT HIỆU LỰC A. Nếu ngày hết hiệu lực của TDT và/ hoặc ngày cuối cùng của việc xuất trình chứng từ TDT quy định hoặc được áp dụng theo tinh thần của điều khoản 43 là ngày mà ngân hàng nơi chứng từ xuất trình vì những lý do không phải là những nguyên nhân nêu trong điều 17, thì ngày hết 121

hiệu lực được quy định đó và/ hoặc ngày cuối cùng của thời hạn xuất trình chứng từ tính từ ngày giao hàng, tuỳ trường hợp sẽ được gia hạn đến ngày làm việc tiếp theo đầu tiên của ngân hàng. B. Ngày giao hàng cuối cùng không được kéo dài với lý do của việc gia hạn hiệu lực và thời hạn xuất trình chứng từ nói ở điều khoản 44 (a) trên đây. Nếu ngày giao hàng chậm nhất không được quy định trong TDT hay trong các sửa đổi của TDT thì ngân hàng sẽ không chấp nhận chứng từ vận tải ghi ngày giao hàng trễ hơn ngày hết hiệu lực quy định trong TDT hay các sửa đổi TDT. C. Ngân hàng mà chứng từ được xuất trình vào ngày làm việc đầu tiên sau ngày đóng cửa như vậy, phải nói rõ bằng văn bản là các chứng từ được xuất trình trong phạm vi thời hạn quy định theo điều 44 (a) của bản điều lệ và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ. Bản sửa đổi 1993, phòng thương mại quốc tế, số xuất bản 500. Điều khoản này được viết lại điều khoản 48 bản điều lệ cũ và dễ hiểu hơn nhưng nội dung ý nghĩa không thay đổi. 1) Kéo dài ngày hết hiệu lực và/ hoặc ngày xuất trình chứng từ. Người ta thường nói một TDT có 2 ngày giá trị. Ngày thứ nhất là ngày hết hiệu lực , ngày thứ 2 là giới hạn xuất trình chứng từ . Cả 2 ngày hoặc một trong 2 ngày đó rơi vào ngày nghỉ (cuối tuần, chủ nhật), ngày lễ quốc tế (lễ giáng sinh, quốc tế lao động...), ngày nghỉ truyền thống dân tộc (tết cổ truyền, ngày quốc khánh...) thì việc xuất trình chứng từ được tự động kéo dài sang ngày làm việc đầu tiên sau đó. Thí dụ: Ngày cuối cùng của thời hạn xuất trình chứng từ của TDT là 30/4 thì người hưởng được quyền xuất trình chứng từ vào ngày 02/5 vì ngày 30/4 và ngày 1/5 là 2 ngày nghỉ tại Việt Nam. Nhưng nếu ngày hết hiệu lực cũng là ngày cuối cùng để xuất trình chứng từ của TDT là ngày ngân hàng được chỉ định không làm việc vì nhân viên đình công hoặc do hoả hoạn hoặc do bất cứ nguyên nhân bất khả kháng nào nói trong điều 17 của bản điều lệ, thì ngân hàng được chỉ định có quyền từ chối chứng từ xuất trình trong và sau ngày đó. Rủi ro này thuộc về người hưởng. 2) Quy định kéo dài ngày hết hiệu lực không áp dụng cho việc giao hàng. Hoạt động bốc dỡ hàng hoá tại cảng đặc biệt là tàu hàng container không có ngày nghỉ. Do vậy, Nếu ngày giao hàng cuối cùng là ngày chủ nhật, ngày lễ... vẫn được coi là ngày làm việc bình thường và đương nhiên không được kéo dài sang ngày tiếp theo như ngày hết hiệu lực của TDT. Nếu không quy định ngày giao hàng cuối cùng trong TDT. TDT phải ghi rõ thời hạn giao hàng và hiệu lực. Tuy nhiên, TDT có thể không ghi ngày giao hàng cuối cùng. Nếu vậy người hưởng phải hiểu là được giao hàng bất cứ lúc nào miễn là ngày giao hàng (nhận để bốc, đã bốc) thể hiện trên chứng từ vận tải phải cùng hoặc trước ngày hết hiệu lực của TDT. Trong thực tế trường hựp này rất ít gặp. Tuy nhiên có những trường hợp chúng ta phải vận dụng suy luận trên cơ sở nhận thức chung. Thí dụ: TDT không ghi ngày giao hàng cuối cùng. Ngày hết hiệu lực của TDT là ngày 30/4 thì chứng từ sẽ được xuất trình vào ngày 02/5 tức là sau 2 ngày nghỉ lễ 30/4 và 1/5 là giới hạn cuối cùng được phép theo điều khoản 44 (b) bản điều lệ này. Cần lưu ý là điều khoản 44 (a) không áp dụng cho việc giao hàng với điều kiện TDT phải ghi rõ ngày giao hàng cuối cùng. Nếu không ghi như vậy ngày giao hàng cuối cùng cũng chính là ngày hết hiệu lực của TDT, bất kể ngày này có được kéo dài như điều 44 (a) quy định hay không. Do vậy, ngày giao hàng cũng có thể được kéo dài qua ngày 1/5 hoặc thậm chí 2/5 đồng thời với thời hạn xuất trình chứng từ. 3) Xác thực của NH chuyển chứng từ về thời hạn xuất trình. Thông thường ngân hàng phát hành uỷ quyền cho một ngân hàng đại lý của mình hoặc bất cứ ngân hàng nào nhận và chiết khấu 122

chứng từ. Nếu ngân hàng được chỉ định chấp nhận chứng từ trong hoàn cảnh trên, thì ngân hàng này phải nói rõ trường hợp áp dụng điều 44 (a) bản điều lệ 500. Quy định nhằm tránh 2 quyết định khác nhau của 2 ngân hàng. Ngân hàng phát hành chỉ căn cứ ngày ghi trên "bản gửi chứng từ" của ngân hàng chuyển chứng từ để xác định ngày xuất trình chứng từ. Nếu ngày đó sau ngày hết hiệu lực hoặc sau ngày cuối cùng xuất trình chứng từ thì ngân hàng phát hành sẽ từ chối. Do vậy ngân hàng được chỉ định phải ghi rõ là chứng từ được xuất trình theo điều 44 (a) nhằm đảm bảo sự hợp lệ của chúng. Bản xác thực như vậy cũng có thể áp dụng khi mà chứng từ xuất trình vào ngày cuối cùng của thời hạn hoặc hiệu lực của TDT nhưng ngân hàng chiết khấu được phép gửi chứng từ sau khi kiểm tra và làm các thủ tục khác không quá 7 ngày làm việc theo điều 13 (d). "Chúng tôi xin xác nhận chứng từ được xuất trình vào ngày hết hiệu lực của TDT" Như đã phân tích ở điều khoản 42 (a), thời hạn xuất trình chứng từ được đề cập ở điều 42,43,44 chỉ liên quan đến hành động của người hưởng. Chứng từ được xuất trình vào ngày cuối cùng của ngày quy định là người hưởng hết trách nhiệm. Công việc còn lại do ngân hàng chiết khấu thực hiện trong các ngày tiếp theo, sẽ vượt quá thời hạn hiệu lực của TDT, có thể là trong vòng 7 ngày theo điều 13 (b). Tuy nhiên, trong thực tế ngân hàng chiêt khấu thường ghi ngày gửi hoặc ngày xuất trình mặc dù chứng từ được gửi sau 1-2 ngày nhằm tránh rủi ro bị từ chối. ĐIỀU 45: GIỜ XUẤT TRÌNH CHỨNG TỪ Ngân hàng không có nghĩa vụ tiếp nhận chứng từ xuất trình ngoài giờ làm việc của mình Không có thay đổi về điều khoản 49 của bản điều lệ cũ. Thực ra WG muốn nêu ra một phạm trù thời gian tính bằng giờ trong ngày làm việc chứ không nói thời gian chung chung. Ở mỗi nước, mỗi khu vực thậm chí mỗi ngân hàng tuỳ theo vị trí địa lý mà có giờ làm việc trong ngày khác nhau. Ngay tại Việt Nam các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn thời gian làm việc thông thường từ 7h30’ đến 16h30’ thời gian nghỉ giữa thường từ 12 đến 13h. Ở các địa phương khác, giờ làm việc thường được chia làm 2 buổi, nghỉ trưa 2 giờ đồng hồ. Ngay tại thành phố HCM các ngân hàng thương mại cũng có lịch làm việc khác nhau, các ngân hàng nước ngoài nghỉ thứ bảy, nhưng ngân hàng Việt Nam vẫn làm việc bình thường. Khách hàng phải biết thời gian làm việc của từng ngân hàng để tiện giao dịch đặc biệt là những trường hợp khẩn cấp, chứng từ được xuất trình trong thời hạn cho phép nhưng phải trong giờ làm việc. ICC, trong tài liệu số xuất bản 511 gợi ý các ngân hàng tuỳ theo từng hoàn cảnh, từng loại TDT mà có thể ghi chú về thời gian làm việc của mình cho người hưởng tiện việc xuất trình chứng từ từ 10h đến 14h trong ngày... Tuy nhiên vấn đề này không thể nêu thành nguyên tắc. ĐIỀU 46: NHỮNG DIỄN TẢ KHÔNG CỤ THỂ ĐỐI VỚI NGÀY GIAO HÀNG A. Trừ khi có quy định khác trong TDT, từ "giao hàng" được dùng để quy định ngày giao hàng sớm nhất và/ hoặc trễ nhất sẽ được hiểu là bao gồm cả những từ "giao hàng lên tàu", "gửi hàng", "nhận để chở", "ngày biên lai bưu điện", "ngày đóng gói hàng" và những từ tương tự và trong trường hợp TDT yêu cầu chứng từ vận tải đa phương thức thì "giao hàng" sẽ bao gồm cả từ "nhận để gửi" B. Những từ như "nhanh chóng", "ngay lập tức ","càng sớm càng tốt" và những từ tương tự không được sử dụng. Nếu chúng được dùng thì ngân hàng sẽ bỏ qua . C. Nếu từ "vào ngày ","vào khoảng" hoặc những từ tương tự được sử dụng thì ngân hàng sẽ giải thích là việc giao hàng được ấn định trong thời gian từ 5 ngày trước đến 5ngày sau ngày quy định, kể cả ngày đầu tiên và ngày cuối cùng . Về nội dung , Điều 50 Bản điều lệ 400 vẫn được giữ nguyên nhưng cách viết mở rộng và chặt chẽ hơn ở điều khoản này, nhằm phù hợp với sự thay đổi chung của Điều lệ và thực hành Thống nhất Tín dụng Chứng từ . 123

1) Giao hàng phải được thể hiện chính xác hơn "Giao hàng" trong điều 46 (a) được nói rõ thêm cho các phương tiện vận tải đề cập ở các điều 23,24..."Giao hàng" là sự chuyển giao của chủ hàng cho người chuyên chở và từ thời điểm đó, chứng từ vận tải được cấp cho chủ hàng. Theo INCOTERM, trách nhiệm và nghĩa vụ của người bán kết thúc ở thời điểm chuyển giao hàng hoá cho người chuyên chở, tuỳ từng phương tiện vận tải , được thể hiện trên chứng từ vận tải. Nếu TDT yêu cầu hàng hoá vận tải tàu biển thì "giao hàng" có nghiã là hàng hoá "đã được bốc "lên tàu". Nếu giao hàng bằng đường không, đường bộ , đường sắt ,đường thuỷ thì ngày giao hàng có nghĩa là ngày người chuyên chở gh i"nhận để giao hàng " (received for delivery), "chấp nhận để chuyên chở" (accepted for carriage).. Đối với những chứng từ vận tải hỗn hợp (Multimodel transport document) thì "ngày giao hàng " qui định trong TDT là ngày chủ hàng chuyển giao cho người vận tải đầu tiên / phương tiện vận tải đầu tiên. Nếu hành trình chuyên chở bắt đâù bằng phương tiện không phải bằng tàu biển thì đó sẽ là ngày "nhận để bốc"(received for shipment, taken in charge). 2) Không dùng những từ không cụ thể chỉ thời gian Khác với điều 50 (b) Bản Điều lẹ 400 mà ICC chỉ gợi ý không nen dùng các từ "tức thì"(prompt) "ngay lập tức" (immediately), "càng sớm càng tốt" (as soon as possible)...,Điều 46 (b) đã nhấn mạnh việc ngăn chặn sử các từ ngữ trên bằng cách ghi rõ: Ngân hàng sẽ bỏ qua các từ đó nếu chúng được dùng trong TDT. Các từ ngữ trên không định hạn rõ rệt nên mỗi bên hiểu một cách . Trong tài liệu số xuất bản 459, trang 125, ICC giải thích : "Nói chung, ngay lập tức có nghĩa là bức điện phải gởi đi càng sớm càng tốt sau khi đã có những thông tin cần thiết. Cái phải được làm "ngay lập tức" là cái phải tiến hành nhanh hơn cả yêu cầu "không chậm trễ " Điều 50 (c) Bản Điều 400 vẫn chấp nhận các từ như vậy trong TDT với sự giải thích của ICC là "trong vòng 30 ngày kể từ ngày phát hành TDT". Điều này hoàn toàn không đúng với nghĩa thông thường của các từ "prompt", "immediately", "as soon as possible" được nêu ra trong các từ điển phổ thông. Người mở TDT phải biết việc giao hàng được tiến hành vào thời điểm cụ thể và phải qui định rõ trong TDT. Đó là những lý do ICC quyết định loại bỏ những từ diễn tả về thời gian giao hàng trên đây trong giao dịch Tín dụng chứng từ. Đúng ra WG cũng nên yêu cầu không dùng những từ "vào ngày" (on) hoặc "vào khoảng"(about) để chỉ thời hạn giao hàng trong TDT. Các từ này cũng không rõ ràng cụ thể và việc ấn định thêm bớt 5 ngày cũng không dựa trên cơ sở nào. Trên thực tế ta ít gặp các TDT có qui định thời hạn giao hàng được diễn tả với các từ "on" hoặc "about". Nếu TDT qui định: Giao hàng khoảng 30/4/1995 Thì người hưởng được quyền giao từ ngày 25/4/1995 đến ngày 5/5/1995, kể cả ngày 25/4/95 và ngày 05/5/1995. Thông thường nếu yêu cầu người bán giao hàng trong khoảng thời gian nhất định, người mua thường ghi rõ trong TDT là "giao hàng từ ngày x đến ngày y" hoặc "không sớm hơn... và không muộn quá..." ĐIỀU 47: THUẬT NGỮ CHUNG CHỈ THỜI HẠN GIAO HÀNG A.Từ "đến", "cho đến", "từ" và những từ tương tự được dùng để nói về bất cứ ngày hay thời hạn nào trong TDT liên quan đến việc gởi hàng sẽ được hiểu là tính cả ngày đó. B. Từ "sau" sẽ được hiểu là không kể ngày được nói đén 124

C.Những từ "nữa đầu""nữa cuối" của một tháng sẽ được hiểu tương tự từ ngày 1 đén ngày 15 và từ ngày 16 đến ngày cuối cùng của tháng đó , kể cả ngày đầu và cuối . D.Những thuật ngữ "đầu", "giữa", "cuối" của một tháng sẽ được hiểu tương tự là từ ngày 1 đến ngày 10, từ ngày 11 đến ngày 20 và từ ngày 21 đến ngày cuối của tháng đó, bao gồm cả ngày đầu và cuối. 1) Các giới từ về thời gian chỉ áp dụng cho việc giao hàng Sửa đổi nhỏ những quan trọng đối với Điều 51, Bản điều lệ 400 là từ "bất cứ thời hạn nào trong TDT"(any date term in the credit) được viết lại bằng từ "ngày hoặc thời hạn trong TDT đề cập đến việc giao hàng " (any date or period in the credit referring to shipment). Sửa đổi các từ này nhằm giới hạn các từ "đến", "cho đến", "từ" (to, untill, till, from) chỉ áp dụng cho thời hạn giao hàng chứ không phải cho ngày hết hiệu lực, ngày thanh toán, ngày chiết khấu, ngày chấp nhận ...như bản điều lệ 400 đã qui định. Vậy nếu cần phải qui định thời hạn thanh toán, người mở TDT nên ghi rõ cách tính kỳ hạn đó, dựa trên điều khoản này Thí dụ : -Hối phiếu kỳ hạn 90 ngày từ ngày giao hàng, ngày giao hàng được tính là 1 -Trả chậm 180 ngày sau ngày bốc hàng, ngày giao hàng được tính là không -Việc thanh toán sẽ được thực hiện trong vòng 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bộ chứng từ hợp lệ. Cách tính cụ thể kỳ hạn thanh toán như trên sẽ tránh được những tranh chấp giữa hai bên liên quan. Thực ra các từ "to, untill, till..." cũng được hiểu theo tinh thần của từ "latest" hoặc "not late than", nghĩa là cũng bao gồm các ngày đã được nêu ra. "From" và "after" tiếng Việt cũng được tương tự tiếng Anh. "Từ ngày" phải bao gồm ngày được nêu ra, nhưng "sau ngày" được hiểu là không tính ngày đó. Thí dụ : Giao hàng từ ngày 10 đến ngày 20/5 Giao hàng sau ngày 31 tháng 5 Người hưởng không được phép giao hàng ngày 31/5 mà phải bắt đầu từ ngày 01/6 2) Các danh từ chỉ khoảng thời gian "Nửa đầu" (first half) và "nửa cuối" (second half) đều được hiểu là sự phân chia thời gian ra làm 2 khoảng đều nhau của 1 tháng. Do vậy "nửa đầu" được hiểu là từ 1 đến 15 của tháng đó, bất kể tháng đó là 28, 29, 30 hay 31 ngày. Tương tự "đầu"," giữa", hay cuối (begining, middle, end) của 1 tháng cũng là những tháng đó chia ra làm 3 khoảng đều nhau, bắt đầu từ 1 đến 10, từ 11 đến 20 và từ 21 đến ngày cuối cùng của tháng , bất kể tháng đó thiếu ,đủ hay thừa ngày. WG thấy cần thiết phải giữ lại các Điều khoản 52, 53 của Điều lệ 400 nhằm đáp ứng tập quán của một số khu vực trên thế giới vẫn hay dùng cách diễn đạt trên (first half, second half..) để giới hạn việc giao hàng trong TDT. Nhưng nhìn chung các ngân hàng phát hành càng ít dùng các qui định trên mà giới hạn bằng ngày tháng cụ thể. F.TÍN DỤNG THƯ CHUYỂN NHƯỢNG ĐIỀU 48: TDT CHUYỂN NHƯỢNG A. TDT chuyển nhượng là TDT mà theo đó, Người hưởng (Người hưởng thứ nhất) có quyền yêu cầu ngân hàng được quyền thanh toán, cam kết trả sau, chấp nhận hay chiết khấu ("Ngân hàng chuyển nhượng") hoặc trong trường hợp TDT chuyển nhượng tự do chiết khấu, ngân hàng được uỷ quyền ghi rõ trong TDT là Ngân hàng chuyển nhượng, chuyển nhượng cho một hay nhiều người hưởng khác ((những) người hưởng thứ hai) được sử dụng toàn bộ hay một phần TDT. B. TDT có thể được chuyển nhượng chỉ khi ngân hàng phát hành ghi rõ "có thể chuyền nhượng". 125

Những từ "có thể chia nhỏ", "có thể chia làm nhiều phần", "có thể nhượng" và "có thể chuyển" không làm cho TDT có giá trị chuyển nhượng. Nếu những từ đó được dùng, chúng sẽ bị bỏ qua. C. Ngân hàng chuyển nhượng không có nghĩa vụ phải thực hiện việc chuyển nhượng trừ khi ngân hàng này đồng ý về mức độ và cách chuyển nhượng. D. Khi yêu cầu chuyển nhượng và trước khi chuyển nhượng TDT, người hưởng thứ nhất phải cung cấp chỉ thị không huỷ ngang cho ngân hàng chuyển nhượng thông báo sửa đổi TDT cho (những) người hưởng thứ hai. Nếu ngân hàng chuyển nhượng chấp thuận việc chuyển nhượng theo những điều kiện đó, ngân hàng phải, vào lúc chuyển nhượng, thông báo cho người hưởng thứ hai chỉ thị của người hưởng thứ nhất về vấn đề sửa đổi TDT . E. Nếu một TDT được chuyển nhượng cho nhiều hơn một người hưởng thứ hai thì việc từ chối sửa đổi của một hay nhiều người hưởng thứ hai sẽ không vô hiệu hoá sự chấp thuận của người hưởng thứ hai khác mà đối với họ TDT sẽ được sửa đổi. Đối với (những) người hưởng thứ hai từ chối chấp nhận sửa đổi thì TDT vẫn coi như không được sửa đổi. F. Phí Ngân hàng Chuyển Nhượng bao gồm phí chuyển nhượng, điện phí, bưu khí hoặc các chi phí khác liên quan đến việc chuyển nhượng, do người hưởng thứ nhất trả, trừ khi có thoả thuận khác. Nếu ngân hàng chuyển nhượng đồng ý chuyển nhượng TDT thì ngân hàng naỳ sẽ không có nghĩa vụ chuyển nhượng cho đến khi các phí đó được trả. G. Trừ khi TDT nói khác, một TDT chuyển nhượng chỉ có thể chuyển nhượng một lần. Vì vậy, TDT không thể chuyển nhượng theo yêu cầu của người hưởng thứ hai cho bất cứ người hưởng thứ ba nào. Với mục đích của điều khoản này, việc chuyển nhượng lại cho người hưởng thứ nhất không bị cấm. Trị giá được chia ra của TDT chuyển nhượng ( tổng công không vượt quá số tiền của TDT ) có thể được chuyển nhượng riêng rẽ, miễn là việc giao hàng/ thanh toán từng phần không bi cấm và toàn bộ những lần chuyển nhượng như vậy sẽ được xem là một lần chuyển nhượng. H. TDT chỉ có thể chuyển nhượng theo những điều khoản và điều kiện quy định trong TDT gốc, ngoại trừ: - Số tiền, - Đơn giá - Ngày hết hiệu lực, - Ngày cuối xuất trình chứng từ theo Điều khoản 43, Thời hạn gởi hàng của TDT , bất cứ điểm nào hay tất cả các điểm trên đây đều có thể được giảm xuống hay điều chỉnh. Tỷ lệ phần trăm của bảo hiểm có thể được tăng lên tương tự để đạt đến số tiền bảo hiểm được quy định trong TDT gốc hay trong các Điều khoản của Bản điều lệ này. Ngoài ra tên người hưởng thứ nhất có thể được thay thế cho người mở TDT nhưng nếu TDT gốc yêu cầu ghi tên người mở trên các chứng từ khác ngoài hoá đơn thì yêu cầu đó phải được thực hiện. I. Người hưởng thứ nhất có quyền thay thế hoá đơn và hối phiếu của người hưởng thứ hai bằng hoá đơn và hối phiếu của mình đối với những số tiền không vượt quá số tiền gốc được quy định trong TDT và cho đơn giá gốc nếu TDT có ghi đơn giá và khi thay thế hoá đơn và hối phiếu như vậy, người hưởng thứ nhất có thể được thanh toán theo TDT khoản tiền chênh lệch (nếu có) giữa hoá đơn của mình với hoá đơn người hưởng thứ hai. Khi một TDT đã được chuyển nhượng và người hưởng thứ nhất phải cung cấp hoá đơn và hối phiếu của mình để thay thế cho hoá đơn và hối phiếu của người hưởng thứ hai nhưng không thực hiện việc này khi được yêu cầu, ngân hàng chuyển nhượng có quyền chuyển cho ngân hàng phát hành những chứng từ nhận được theo TDT được chuyển nhượng bao gồm cả hoá đơn và hối phiếu của người hưởng thứ hai mà không chịu trách nhiệm gì đối với người hưởng thứ nhất. J. Người hưởng thứ nhất có thể yêu cầu thanh toán hay chiết khấu cho người hưởng thứ hai tại nơi mà TDT chuyển nhượng đến cho đến ngày và kể cả ngày hết hiệu lực của TDT, trừ khi TDT gốc quy định rõ là TDT không có giá trị thanh toán hay chiết khấu tại một nơi khác với quy định 126

trong TDT. Điều này không có ảnh hưởng đến quyền của người hưởng thứ nhất thay thế hoá đơn hay hối phiếu của người hưởng thứ hai bằng hoá đơn và hối phiếu của mình và được hưởng khoản tiền chênh lệch đó. TDT chuyển nhượng là phương thức thanh toán cho một hợp đồng mua bán hàng qua trung gian. Trong giao dịch Quốc tế tất cả các lĩnh vực, chuyển nhượng được biểu hiện bằng hai thuật ngữ: - Assignment: là sự chuyển nhượng ("assign" hoặc "transfer") quyền được hưởng lợi về số tiền, tài sản... của một người cho một người khác. Thí dụ: chuyển nhượng hối phiếu trong giao dịch ngân hàng, chuyển nhượng quyền được bồi thường rủi ro trong giao dịch bảo hiểm, quyền được nhận hàng trong bảo hiểm hàng hoá...Với mục đích của Bản điều lệ này, Assignment là việc người hưởng chuyển nhượng quyền được hưởng một số tiền mà người đó có thể hay có quyền được hưởng theo TDT cho người hưởng thứ hai (Assignment sẽ được nói rõ ở điều 49). Transfer: là sự dịch chuyển, chuyển nhượng hoặc chuyển giao nói chung. Thí dụ: chuyển tiền bằng điện (payment by telegraphic transfer) hoặc chuyển giao kỹ thuật (transfer of technology) hoặc di chuyển rủi ro (transfer of risks)...Với mục đích của Bản Điều lệ, Transfer là sự chuyển nhượng quyền thực hiện TDT từ người hưởng thứ nhất cho người hưởng thứ hai. Đây chính là nội dung của Điều khoản 48, Bản điều lệ 500. 1) Định nghĩa TDT chuyển nhượng, TDT chuyển nhượng được thực hiện trong trường hợp nào? Một công ty có thị trường tiêu thụ hàng rất lớn, nhưng hiện tại họ không đủ hàng hoặc thậm chí không có hàng để cung ứng cho người mua. Họ quyết định tìm nguồn hàng đó tại thị trường trong nước hoặc ở nước ngoài. Sau khi khảo sát thực tế, họ đồng ý trên nguyên tắc với nhà xuất khẩu là sẽ mua hàng để bán cho nhà nhập khẩu ở nước ngoài trên cơ sở TDT chuyển nhượng. Nếu đạt được hợp đồng như vậy, công ty này ký với người mua nước ngoài Hợp đồng thương mại với Điều khoản thanh toán bằng TDT chuyển nhượng. Như vậy, công ty thương mại trên đã trở thành một trung gian của giao dịch mua và bán hàng mà không cần vốn. Việc chuyển nhượng có thể thực hiện cho người hưởng thứ hai trong hoặc ngoài nước. • Người hưởng thứ hai ở trong cùng một nước Ngân hàng sẽ được yêu cầu chuyển nhượng TDT trực tiếp hoặc qua Ngân hàng thứ ba cho người hưởng thứ hai. Do vậy, việc xuất trình chứng từ cũng có thể trực tiếp cho ngân hàng chuyển nhượng hoặc cho ngân hàng của người hưởng thứ hai. • Người hưởng thứ hai ở nước ngoài: Ngân hàng được yêu cầu chuyển nhượng (thường là ngân hàng thông báo) chuyển nhượng TDT cho người hưởng thứ hai qua ngân hàng đại lý nước ngoài. Ngân hàng này thông báo việc chuyển nhượng TDT đó cho khách hàng của mình. Việc xuất trình chứng từ đương nhiên phải qua các ngân hàng thông báo đó vì người hưởng thứ hai ở một quốc gia khác không thể trực tiếp xuất trình cho ngân hàng chuyển nhượng. TDT chuyển nhượng ghi rõ ngân hàng được uỷ quyền chiết khấu (ngân hàng được chỉ định) thì người hưởng thứ nhất sẽ yêu cầu ngân hàng này chuyển nhượng. Ngược lại, nếu TDT có giá trị tại bất cứ ngân hàng nào (available at any bank/tree negotiation) thì ngân hàng phát hành phải ghi rõ tên ngân hàng chuyển nhượng. Đây là một khác biệt giữa uỷ quyền chuyển nhượng với uỷ quyền chiết khấu/ thanh toán chứng từ nêu ở Điều 10(b), theo đó bất cứ ngân hàng nào cũng là ngân hàng được chỉ định (nominated bank) nếu TDT không giới hạn ngân hàng chiết khấu (unrestricted negotiation). TDT cần thiết phải ghi rõ ngân hàng được phép chuyển nhượng và chỉ ngân hàng đó được quyền mà thôi. Về vấn đề này, quan điểm của Phòng Thương mại các quốc gia là " tránh nhiều lần 127

chuyển nhượng của cùng một TDT và do vậy nhiều lần chiết khấu của cùng một bộ chứng từ " (The NCs considered it prudent to require on whom can act as a Transfering Bank to prevent transfers, resulting in negotiations and multiple, nogotiations against the same set of documents – ICC. Doc. Pub. No.511,page 125). TDT có thể được chuyển nhượng một phần hay toàn bộ giá trị, tuỷ theo từng thương vụ. Có những trường hợp 2,3 nhà xuất khẩu cùng cung ứng một lô hàng cho một khách hành và theo đó TDT được chuyển nhượng cho từng khách hàng theo số lượng và giá trị đã thoả thuận. Có thể người bán không đủ hàng giao phải chuyển nhượng phần còn lại cho một hoặc nhiều người thứ hai. Trong thực tế, ta thường gặp vụ mua bán " tay ba", theo đó TDT được người tiêu thụ mở cho người trung gian (middleman) với chức năng môi giới, hưởng hoa hồng. Do vậy, người trung gian chuyển nhượng toàn bộ trị giá TDT cho người cung ứng hàng hoá. Điều 54 (b), Bản điều lệ 400 không nêu một giải pháp dứt khoát cho việc sử dụng các từ "có thể chia nhỏ" (divisible) "có thể chia nhiều phần" (tractional), "có thể chuyển" (transmissible)...Do vậy, một số TDT vẫn dùng các từ không rõ ràng, không phản ánh đúng tinh thần của chuyển nhượng. Điều 48 (b) khẳng định các thuật ngữ trên không được dùng để thay thế cho từ CHUYỂN NHƯỢNG (transferable). Ngược lại, chúng sẽ được coi là không có giá trị thực hiện (if such terms are used they shall be disregarded). 2) Quyền yêu cầu và quyền chuyển nhượng thuộc về hai phía khác nhau Người hưởng sau khi nhận được TDT sẽ làm thủ tục yêu cầu chuyển nhượng cho phía thứ ba. Đó là quyền của người hưởng. Đổi lại, ngân hàng có quyền từ chối chuyển nhượng nếu nó không muốn. Ngân hàng thực ra không có trách nhiệm gì về hệ quả phát sinh do hành động chuyển nhượng của mình vì đơn giản nó chỉ là ngân hàng được chỉ định. Ngân hàng này không bị ràng buộc về việc thanh toán,chấp nhận Ngân hàng hay chiết khấu chứng từ của người hưởng thứ hai xuất trình tại nó. Do vậy, trong các thông báo chuyển nhượng, ngân hàng chuyển nhượng nói rõ vị trí của mình: "theo lệnh của...và không cam kết gì về phía chúng tôi, chúng tôi chuyển nhượng TDT này số..." (by order .. of..and without any engagement from our part, we hereby transfer the Letter of Credit No...) Tuy vậy, các ngân hàng được yêu cầu chuyển nhượng vẫn được quyền từ chối chuyển nhượng. Tại sao và trong trường hợp nào ngân hàng được yêu cầu lại từ chối chuyển nhượng? Về trách nhiệm và nghĩa vụ (liability and responsibility) được miễn trách nhưng thực tế giao dịch sẽ có những phát sinh phức tạp mà ngân hàng chuyển nhượng có thể liên quan trong lúc mức phí chuyển nhượng lại rất thấp. Hơn nữa ngân hàng phải xem xét tính chất của vụ chuyển nhượng về mặt pháp lý: luật quản lý ngoại hối, quy chế của địa phương.. Nội dung của TDT phải được kiểm tra ký các điều khoản, Điều kiện nhằm bảo đảm việc chuyển nhượng có giá trị thực hiện. TDT có những điều kiện bất hợp lý, không logic hoặc gây khó khăn cho việc thực hiện thì ngân hàng không sắn sàng chuyển nhượng hoặc chỉ chuyển nhượng khi TDT đã được sửa đổi. Thí dụ, TDT với điều kiện giao hàng C&F nhưng người hưởng yêu cầu chuyển nhượng với Điều kiện FOB. Tài liệu ICC số xuất bản số 489, nêu trường hợp ngân hàng được yêu cầu đã từ chối chuyển nhượng chỉ vì TDT với Điều khoản thanh toán 90% trả ngay, 10% còn lại theo yêu cầu của người mở TDT. Trong thực tế giao dịch, nói chung các ngân hàng đều sẵn sàng chuyển nhượng TDT vì đây là dịch vụ và là nghiệp vụ của ngân hàng thương mại đối với khách hàng. 3) Người chuyển nhượng phải nói rõ ý định của nình về các sửa đổi TDT.

128

Khi yêu cầu chuyển nhượng, người hưởng thứ nhất phải nói rõ ý định của mình đối với ngân hàng chuyển nhượng thông báo các sửa đổi của TDT cho người hưởng thứ hai. Quyết định này là không thể huỷ ngang và phải được ngân hàng chuyển nhượng ghi rõ trong thông báo của mình. Đây là phần bổ sung liên quan đến vấn đề ai yêu cầu sửa đổi TDT và trên cơ sở nào? WG xem xét tính chất thường xuyên của việc yêu cầu sửa đổi TDT, đã quyết định nêu rõ vấn đề này bằng quy tắc. Việc sửa đổi TDT như đã phân tích ở điều 11, được thực hiện trên cơ sở thoả thuận giữa người mở và người hưởng TDT . Nhưng với TDT chuyển nhượng có hai người hưởng liên quan. Trong thức tế, người hưởng thứ hai không thể yêu cầu trực tiếp người mở sửa đổi TDT mà phải thương lượng với người hưởng thứ nhất. Trường hợp này sửa đổi sẽ được thông báo cho người hưởng thứ hai. Đó là các sửa đổi liên quan phẩm chất quy cách hàng hoá, đóng gói, ký mà hiệu, thời gian giao hàng...Nhưng có thể người mở và người hưởng thứ nhất thoả thuận điều chỉnh tăng hoặc giảm giá và số tiền ở mức nhất định do biến động của thị trường, hoặc Điều khoản thanh toán của TDT gốc, hoặc điều khoản đặc biệt giữa hai phía được sửa đổi mà không liên quan và ảnh hưởng đến nghĩa vụ và quyền lợi của người hưởng thứ hai. Những sửa đổi như vậy không cần phải thông báo cho người cung cấp hàng hoá. Chúng ta phải phân biệt quyền cho phép hay từ chối việc thông báo sửa đổi TDT cho người hưởng thứ hai trong nhiều trường hợp khác nhau của người hưởng thứ nhất. - Quyền lưu giữ sửa đổi TDT (with retainment of right on amendments). Người hưởng thứ nhất có thể giữ lại hoặc chuyển giao sửa đổi TDT cho người hưởng thứ hai. Ngân hàng chuyển nhượng chỉ thông báo sửa đổi đó cho người được chuyển nhượng khi có yêu cầu. - Quyền chuyển giao một phần sửa đổi TDT (with partial waives of right on amendments). Trường hợp này ngân hàng sẽ được phép thông báo tất cả các sửa đổi của TDT chuyển nhượng cho người hưởng thứ hai trừ sửa đổi (1) tăng tiền và/ hoặc (2) kéo dài hiệu lực (hoặc một trong hai điều kiện đó phải được chấp thuận của người hưởng thứ nhất). - Quyền được thông báo tất cả các sửa đổi TDT cho người hưởng thứ hai (with waives of right on amendments). Với trường hợp này, người hưởng thứ nhất nêu rõ trong yêu cầu chuyển nhượng là tất cả sửa đổi theo TDT chuyển nhượng bất kể liên quan đến số tiền ngày hiệu lực đều được thông báo cho người hưởng thứ hai. Đây là trường hợp người hưởng thứ nhất chuyển nhượng TDT không vì mục đích lợi nhuận mà vì không có hàng cung cấp. Người hưởng thứ hai (chủ hàng) sau khi nhận được TDT chuyển nhượng có ghi rõ quyền quyết định thông báo hay từ chối như trên thì phải hiểu được tình thế của mình là người được hưởng lợi thực sự của bộ chứng từ giao hàng nhận thức được những rủi ro có thể trong phương thức buôn bán tay ba để quyết định từ chối hay chấp thuận điều khoản như vậy. 4) Mối liên quan với ngững người hưởng thứ hai với các sửa đổi bị từ chối. TDT có thể được chuyển nhượng cho nhiều chủ hàng (nhiều người hưởng thứ hai) Khi sửa đổi TDT được thông báo cho họ theo điều 9 (d), người hưởng thứ hai có thể chấp nhận hay từ chối sửa đổi. Việc từ chối của một hoặc nhiều người hưởng không làm ảnh hưởng đến việc chấp nhận của một hoăc nhiều người hưởng khác. Trong thực tế có những sửa đổi chỉ phù hợp với một hoặc nhiều người hưởng thứ hai, các chủ hàng còn lại không có nhu cầu sửa đổi như vậy, hoặc không thể xuất trình chứng từ theo sửa đổi đó. Thí dụ sửa đổi yêu cầu chứng nhận xuất xứ phải có xác nhận của tổng lãnh sự nước người mua. Ở đây WG muốn nêu bật một ý nghĩa là mỗi khi người hưởng chuyển quyền thực hiện TDT cho phía thứ ba thì người được chuyển nhượng sẽ toàn quyền thực hiện đúng các điều khoản và điều 129

kiện của TDT gốc và được áp dụng điều 9 (d) để chấp nhận hay từ chối những sửa đổi tiếp theo. Mỗi chủ hàng được quyền chuyển nhượng TDT trong giới hạn trợ giá có nghĩa vụ và quyền lợi độc lập với nhau trong cùng một TDT. Việc từ chối TDT của người hưởng này không ảnh hưởng tới việc chấp nhận của người khác và ngược lại. Vấn đề sửa đổi TDT chuyển nhượng nhiều phần được tranh luận giữa các thành viên của hội đồng ngân hàng và các phòng thương mại quốc gia trong mấy năm qua. Cuối cùng WG quyết định bổ sung điều 48 (e) Nhằm đảm bảo quyền lợi của người chuyển nhượng. Tuy nhiên để cân bằng ý kiến giữa các thành viên của mình, WG đưa ra gợi ý có tính thực tiễn là "Nếu ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận, néu có không cho phép việc chấp nhận hay từ chối riêng lẻ của từng người hưởng thứ hai đối với các sửa đổi thì họ phải quy định rõ trong TDT là mọi sửa đổi phải được tất cả người hưởng thứ hai thực hiện. Điểm F của điều khoản này cơ bản vẫn giữ nguyên điều 54 (d) bản điều lệ 400, dựa trên nguyên tắc của điều 18 (c): người yêu cầu dịch vụ là người trả tất cả khoản chi phí phát sinh. Do vậy ngân hàng chỉ chuyển nhượng TDT khi các phí đó đã được trả hoặc có thoả thuận riêng giữa hai bên. 5) Sự khác biệt về chuyển nhượng và hoàn trả TDT. Trong thực tế đã xảy ra những trường hợp người được chuyển nhượng không thể thực hiện TDT và yêu cầu hoàn trả TDT cho người chuyển nhượng. Người hưởng thứ nhất yêu cầu ngân hàng chuyển nhượng TDT đó cho một người hưởng khác. Tài liệu ICC số xuất bản 489, đưa ra trường hợp trên cùng với các ý kiến của các chuyên gia ngân hàng. Dựa vào thực tế đó WG quyết định đưa thêm định nghĩa về chuyển nhượng lại. Với trường hợp nêu trên đây Tài liệu ICC số 489 phân tích: Người hưởng thứ hai vì không thực hiện được TDT yêu cầu ngân hàng hoàn trả cho người thứ nhất. Rốt cuộc không có hành động chuyển nhượng xảy ra, sau khi ngân hàng hoàn trả lại TDT cho người hưởng thứ nhất. Ngân hàng có thể chuyển nhượng lại TDT đó. Theo yêu cầu của người hưởng thứ nhất cho người hưởng thứ hai khác. Đây được coi là lần chuyển nhượng thứ nhất. Tài liệu ICC số xuất bản 511 cũng nêu rõ điều 48(g) vẫn cấm người hưởng thứ hai chuyển nhượng TDT cho người hưởng thứ ba như quy định tại điều 54 (e) bản điều lệ 400 nhưng nói thêm là người hưởng thứ hai nêu không chấp nhận TDT chuyển nhượng và thông báo cho ngân hàng chuyển nhượng thì người hưởng thứ nhất sẽ sử dụng lại tự động và lập tức quyền chuyển nhượng đó. Việc chuyển nhượng như vậy không coi là không được phép. 6) TDT được chia nhiều phần và chuyển nhượng nhiều lần. Nếu TDT chuyển nhượng được phép giao hàng nhiều lần người hưởng thứ nhất có quyền chuyển nhượng từng phần cho từng phía thứ ba riêng biệt theo tiến độ giao hàng với điều kiện tổng trị giá của các lần chuyển nhượng đó không vượt số tiền của TDT. Nguyên tắc này cơ bản vẫn giữ nguyên quy định của điều 54 (e) bản điều lệ cũ nhưng được viết lại rõ ràng và logic hơn. Thí dụ: TDT chuyển nhượng trị giá 300.000 - giao hàng nhiều lần. Người hưởng A căn cứ hợp đồng và tiến độ giao hàng chuyển nhượng lần đầu cho chủ hàng B số tiền USD 100.000- Sau đó chuyển nhượng hai lần cho chủ hàng B hoặc chủ hàng C số tiền là USD 50.000 và tiếp tục theo tiến độ giao hàng chuyển nhượng cho hết giá trị của TDT trong thời hạn cho phép. Việc chuyển nhượng như vậy được coi là chuyển nhượng một lần theo đúng điều khoản 48(g), bản điều lệ 500. 7) Những sửa đổi TDT trước khi được chuyển nhượng. Điểm H của điều khoản này được viết lại rõ ràng, cụ thể nhằm giúp người đọc nắm bắt dễ dàng nguyên tắc và thủ tục quan trọng trong nghiệp vụ chuyển nhượng TDT. 130

Lợi nhuận của người trung gian qua thương vụ mua bán tay ba là khoản chêng lệch của hợp đồng thứ nhất và hợp đồng thứ hai. TDT được người mở dựa trên hợp đồng thứ nhất, được chuyển nhượng cho người cung cấp với giá thấp hơn hợp đồng thứ hai. Hàng hoá được người cung cấp chuyển thẳng đến người mở TDT, chứng từ được xuất trình qua ngân hàng chuyển nhượng. Để đảm bảo các nguyên tắc này tất cả các 2, ngoại trừ một hoặc tất cả các điểm sau được người hưởng thứ nhất "chế biến" trước khi chuyển nhượng: - Số tiền được giảm xuống theo trị giá hợp đồng thứ hai. - Đơn giá hàng (nếu có) cũng được giảm tương đương với số tiền. - Ngày hết hiệu lực: có thể được giữ nguyên hoặc rút ngắn so với ngày hiệu lực của TDT gốc - Ngày xuất trình cuối cùng: có thể được giữ nguyên hoặc xuống tương ứng với thời hạn hiệu lực, tuỳ từng trường hợp. Thí dụ: Hai TDT với 2 điều kiện khác nhauđược phát hành cho khách hàng Hongkong: • Thời hạn hiệu lực đến 31/3 tại Hong kong, xuất trình chứng từ tại ngân hàng chuyển nhượng trong vòng 15 ngày kể từ ngày giao hàng. • Thời hạn hiệu lực đến 31/3 tại ngân hàng phát hành, xuất trình chứng từ tại ngân hàng phát hành trong vòng 15 ngày kể từ ngày giao hàng. Hai TDT được chuyển nhượng cho khách hàng tại Việt Nam. Trường hợp thứ nhất, thời hạn hiệu lực có thể được giữ nguyên tắc rút ngắn. Như vậy, người hưởng thứ hai phải tính đến thời gian gửi chứng từ cho ngân hàng tại Việt Nam đến ngân hàng chuyển nhượng sao cho không trễ hạn. Trường hợp thứ hai, trước khi chuyển nhượng, TDT được rút ngắn hai thời hạn nói trên, sao cho việc xuất trình chứng từ tại ngân hàng Việt Nam, gửi đền ngân hàng chuyển nhượng, thay thế hoá đơn, hối phiếu (Nếu có) và gửi tiếp đến ngân hàng phát hành trước ngày 31/3. Đồng thời từ ngày giao hàng đến khi chứng từ đến ngân hàng phát hành không quá 15 ngày. - Thời gian giao hàng: Nói chung thời gian giao hàng trong TDT được chuyển nhượng không thay đổi so với TDT gốc, vì hàng được chủ hàng giao thẳng đến người mở TDT.Tuy nhiên trong thực tế hàng được gửi cho người hưởng thứ nhất. Từ đây hàng sẽ được chuyển giao cho người mở theo quy định của TDT. Trường hợp này thời gian giao hàng phải rút ngắn sao cho người hưởng thứ nhất nhận hàng và giao hàng cho người mở đúng thời gian quy định. - Tỷ lệ bảo hiểm: Phần lớn các TDT được chuyển nhượng theo giá CIF, người hưởng thứ nhất mua bảo hiểm để bảo đảm cho trị giá hàng hoá ghi trên hoá đơn được dùng thay thế hoá đơn của người hưởng thứ hai. Nếu người hưởng thứ hai mua bảo hiểm thì thì số tiền được bảo hiểm thấp hơn số tiền được ngân hàng thanh toán. Như vậy, chứng từ sẽ bất hợp lệ. Nhưng nếu việc đó xảy ra thì người hưởng thứ nhất phải bổ sung chứng từ bảo hiểm cho phần chênh lệch giá trị nhằm bảo đảm yêu cầu về điều khoản bảo hiểm của TDT gốc. Như vậy sẽ có hai chứng từ bảo hiểm do hai công ty bảo hiểm cấp cho một lô hàng xuất trình để thanh toán tại ngân hàng phát hành. Điều này được chấp thuận hay không là do thương lượng giữa người mở TDT và người hưởng thứ nhất để dưa vào điều khoản của TDT. Trường hợp này rất ít gặp trong TDT chuyển nhượng. 8) Tên của người hưởng thứ nhất hay tên của người mở TDT được ghi trên chứng từ Về nguyên tắc người hưởng thứ hai khi lập chứng từ sẽ ghi tên người mua tức là người mở TDT . Tuy nhiên người chuyển nhượng có thể yêu cầu người hưởng thứ hai ghi tên của mình vào các chứng từ đó như là người mở TDT. Người hưởng thứ hai phân vân là liệu việc hay đổi tên người trả tiền như vậy có vi phạm nguyên tắc lập chứng từ của TDT chuyển nhượng, hoặc có làm thay đổi nghĩa vụ của người mở hoặc có làm ảnh hưởng đến việc thanh toán? Điều khoản 48(h) đảm bảo cho việc thay đổi tên như vậy trên các chứng từ nhằm tạo thuận lợi cho người hưởng thứ nhất nhưng không ảnh hưởng đến quyền lợi của người hưởng thứ hai. Tuy 131

vậy mỗi khi người mở quy định rõ trong TDT là tên của mình phải được thể hiện trên các chứng từ thì người hưởng thứ nhất không được yêu cầu thay thế như vậy. Ngược lại tất nhiên chứng từ sẽ bị từ chối. Thực ra hoá đơn không được người hưởng quan tâm vì chúng sẽ bị thay thế tại ngân hàng chuyển nhượng. 9) Quyền lợi của người chuyển nhượng TDT. Là người trung gian trong giao dịch mua bán tay 3 người hưởng thứ nhất có quyền hưởng trọn số tiền chênh lệch giữa "mua rẻ, bán mắc" bằng cách thay thế hoá đơn và hối phiếu của mình để được thanh toán số tiền đúng theo quy định của TDT gốc. Tuy nhiên trong thực tế không phải bất kỳ TDT chuyển nhượng đều có sự thay đổi hối phiếu, hoá đơn như vậy. Nếu người hưởng thứ nhất vì lý do không có/ thiếu hàng hoá, họ có thể chuyển nhượng TDT cho phía thứ 3. Đây là lý do năng lực thực hiện chứ không phải lý do lợi nhuận nên TDT này sẽ không có sự thay đổi hoá đơn, hối phiếu. Người hưởng thứ hai được trọn quyền giao hàng và sử dụng số tiền ghi trong TDT chuyển nhượng. Việc thay thế các chứng từ trên phải được thực hiện ngay khi nhận được yêu cầu của ngân hàng chuyển nhượng. Quy định này nhằm tránh sự chậm trễ về phía người hưởng thứ nhất có thể kéo dài các thủ tục ngân hàng sau đó. Chứng từ chỉ được phép lưu lại ngân hàng chuyển nhượng một thời gian rất ngắn. Ngược lại có thể việc đòi tiền bị chậm trễ, chứng từ đến ngân hàng phát hành vượt quá thời hạn hiệu lực hoặc quy định tại điều 43, và bị từ chối... Do vậy nhằm đảm bảo quyền lợ các bên liên quan trong TDT chuyển nhượng, đặc biệt là của người hưởng thứ hai điều 48 (i) cho phép ngân hàng chuyển nhượng chuyển giao toàn bộ chứng từ nhận từ người hưởng thứ hai cho ngân hàng phát hành nếu người hưởng thứ nhất không đáp ứng yêu cầu về thời gian trong việc thay thế hối phiếu và hoá đơn. Đây là điều người chuyển nhượng cần lưu ý khi lập chứng từ thay thế. 10) Chiết khấu chứng từ của TDT chuyển nhượng. TDT chuyển nhượng có những điều kiện bất lợi cho người hưởng thứ hai (sẽ nói ở phần sau) do vậy việc chiết khấu thường bị ngân hàng từ chối. Bất kể thực tiễn đó người hưởng thứ nhất muốn tạo thuân lợi cho chủ hàng bằng cách ghi thêm yêu cầu của mình trong chỉ thị chuyển nhượng là chứng từ có thể được chiết khấu tại ngân hàng của người hưởng thứ hai (ngân hàng chuyển chứng từ). Tuy nhiên nếu TDT gốc không cho phép như vậy mà lại quy định cu thể chiết khấu tại ngân hàng chuyển nhượng hoặc thanh toán tại ngân hàng phát hành thì yêu cầu của người hưởng thứ nhất không được ngân hàng chấp nhận. Việc chiết khấu hay thanh toán của bất ký ngân hàng nào đối với bộ chứng từ đều không ảnh hưởng đến quyền được hưởng khoản tiền chênh lệch nói trên của người hưởng thứ nhất. 11) Những bất lợi đối với nhà xuất khẩu khi bán hàng qua trung gian. Ngoại trừ những lợi thế có được nhà xuất khẩu phải đương đầu với những rủi ro rất có thể xảy ra trong việc thanh toán chứng từ theo TDT chuyển nhượng. Hợp đồng bán hàng ký với một đối tác (trung gian) lại không phải là người chịu trách nhiệm thanh toán mà hoàn toàn phụ thuộc vào người nhận hàng (người mở TDT) Làm thế nào mà nhà xuất khẩu biết được người mở TDT thiện chí hoặc là doanh nghiệp có tầm cỡ. Rất có thể chứng từ bị từ chối khi có một lỗi rất nhỏ. Nếu hàng xuống giá trên thị trường khả năng tiêu thụ khó khăn hoặc người mở TDT có dấu hiệu thua lỗ... mặc dù chủ hàng đã thực thi đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng. Nhà xuất khẩu không thể khiếu nại hoặc kiện người ký hợp đồng hoặc ngân hàng chuyển nhượng vì họ làm đúng theo quy định của TDT và bản điều lệ 500. Người trung gian sẽ kiện người mở TDT và ngân hàng phát hành TDT? Điều này còn phụ thuộc vào thiện chí của người trung gian và kết quả đạt được còn phụ truộc vào rất nhiều yếu tố. Trước mắt nhà xuất khẩu sẽ bị thiệt hại. 132

Về mặt thủ tục thanh toán, người hưởng thứ hai không thể chủ động hoàn toàn mà con tuỳ thuộc hành động của phía người hưởng thứ nhất và ngân hàng chuyển nhượng. Mặc dù nhà xuất khẩu hoàn chỉnh tuyệt đối bộ chứng từ giao hàng nhưng chỉ theo quy định của TDT được chuyển nhượng mà thôi. Làm sao mà nhà xuất khẩu biết được nội dung của TDT được chuyển nhượng và TDT gốc đều như nhau khi mà người hưởng thứ nhất có quyền không thông báo các sửa đổi TDT cho người hưởng thứ hai? Do vậy bộ chứng từ xuất trình theo TDT chuyển nhượng là hoàn hảo chưa hẳn phù hợp hoàn toàn với các điều khoản, điều kiện của TDT gốc. Hơn nữa hoá đơn, hối phiếu của người hưởng thứ nhất lập để thay thế không hoàn chỉnh sẽ bị ngân hàng từ chối. đó là chưa kể bộ chứng từ được lưu giữ tại ngân hàng chuyển nhượng bao lâu và thời gian đó có ảnh hưởng tới thời gian xuất trình tại ngân hàng phát hành theo quy định của TDT và điều 41 hay không? Tất cả những vấn đề trên đều ngoài tầm kiểm soát của người hưởng thứ hai. Mọi lỗi lầm thiếu thận trọng của người trung gian sẽ là hậu quả mà nhà xuất khẩu phải gánh chịu. Trong lúc đó người trung gian thiệt hại không đáng kể hoặc đôi khi vô hại mặc dù họ chịu trách nhiệm đối với thị trường tiêu thụ hàng hoá. Với những rủi ro như vậy các ngân hàng sẽ từ chối chiết khấu chứng từ. Điều này gây khó khăn về vốn cho nhà xuất khẩu nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 12) TDT chuyển nhượng theo cách hiểu của ngân hàng. Ngoại trừ ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận (Nếu có) mà nghĩa vụ không bị điều chỉnh, các ngân hàng khác (ngân hàng chuyển nhượng, ngân hàng chiết khấu) đều bị ảnh hưởng về mặt trách nhiệm. Điều 48 không hề đề cập đến trách nhiệm của ngân hàng chuyển nhượng do đó ta phải hiểu là ngân hàng hết nghĩa vụ khi đã chuyển nhượng TDT theo yêu cầu của người hưởng thứ nhất. Tuy nhiên để rõ ràng hơn bao giờ ngân hàng cũng ghi cụ thể "chúng tôi chuyển nhượng TDT dưới đây theo yêu cầu của công ty A mà không chịu nghĩa vụ và trách nhiệm gì" Điều khoản thanh toán ngân hàng sẽ ghi rõ " chứng từ sẽ được nhận và chuyển tiếp cho ngân hàng phát hành. Sau khi nhận được tiền thanh toán chúng tôi sẽ hoàn trả các ông" Tuy nhiên Nếu ngân hàng chuyển nhượng xác nhận TDT đó thì họ phải thanh toán sau khi nhận được bộ chứng từ hợp lệ. Ngân hàng chuyển nhượng thường không chiết khấu bộ chứng từ mà chỉ chuyển tiền khi được ngân hàng phát hành thanh toán. Tài liệu ICC số xuất bản 489 dẫn chiếu trường hợp ngân hàng chuyển nhượng từ chối chiết khấu. ICC khẳng định: "một ngân hàng chuyển nhượng mà không xác nhận TDT không có nghĩa vụ chiết khấu chứng từ" Ngân hàng đó không bị buộc phải chiết khấu bởi chỉ đơn giản nó chỉ là ngân hàng được chỉ định. Còn ngân hàng của người hưởng thứ hai? Nếu TDT được chuyển nhượng cho người hưởng thứ hai tại nước thứ ba thì sẽ có ngân hàng chuyển chứng từ của nhà xuất khẩu. Với ngững rủi ro có thể xảy ra trong việc thanh toán chứng từ theo TDT chuyển nhượng theo phân tích trên đây thì ngân hàng này hoàn toàn hiểu được tình thế của họ và từ chối chiết khấu.. Việc chiết khấu của TDT chuyển nhượng chủ yếu tuỳ thuộc mối quan hệ của ngân hàng với khách hàng (người hưởng). Yếu tố ngân hàng phát hành với người mở TDT chỉ là thứ yếu. 13) Sự khác biệt giữa TDT chuyển nhượng với TDT giáp lưng. Về bản chất và đứng trên góc độ thương mại mà nói, 2 loại TDT chuyển nhượng và TDT giáp lưng đều là phương thức thanh toán cho thương vụ mua bán hàng qua trung gian. Nhưng về phương diện ngân hàng 2 giao dịch hoàn toàn khác nhau. Trong TDT giáp lưng, người hưởng tức là người trung gian căn cứ váo TDT nhận được yêu cầu ngân hàng của mình phát hành TDT thứ 2 cho người cung cấp hàng hoá. TDT thứ tư gọi là TDT gốc TDT sau gọi là TDT giáp lưng. Điều khác biệt cơ bản và quan trọng nhất so với nghiệp vụ 133

chuyển nhượng là ngân hàng phát hành TDT giáp lưng hoàn toàn chịu trách nhiệm thanh toán chứng từ hợp lệ xuất trình theo TDT của mình. Nói cách khác nghĩa vụ và trách nhiệm của 2 ngân hàng phát hành hai TDT hoàn toàn độc lập nhau. Do vậy người cung cấp hàng hoá tức là người hưởng TDT giáp lưng hoàn toàn yên tâm về mặt thanh toán. Người mở TDT gốc trở thành người mở TDT giáp lưng nên họ phải thực hiện nghiêm ngặt về mặt ký quỹ, thế chấp của ngân hàng. Về nguyên tắc TDT gốc sẽ là vật thế chấp, hoặc sự bảo đảm cho việc thanh toán TDT giáp lưng. Trách nhiệm phải trả nợ theo TDT giáp lưng cũng chính là quyền được đòi tiền theo TDT gốc. Nếu hàng không giao tức là việc thanh toán cả hai TDT đều không phát sinh. Tuy nhiên do việc thanh toán cho chủ hàng được thực hiện trước, ngân hàng phát hành TDT giáp lưng phải tài trợ cho người mở trong thời gian chưa được ngân hàng phát hành TDT gốc thanh toán. Sẽ có rủi ro nếu ngân hàng phát hành từ chối CT do bất hợp lệ, hay do bất cứ nguyên nhân nào. Do vậy trong thực tế không phải ngân hàng nào cũng coi TDT gốc là rất bảo đảm để phát hành TDT giáp lưng. Thủ tục bảo đảm thanh toán như thế tuỳ thuộc mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng và tuỳ từng tình huống cụ thể. TDT giáp lưng mở trên cở sở điều chỉnh, thay thế một số điều khoản của TDT như nguyên tắc chuyển nhượng TDT: số hàng đơn giá, ngày giao hàng hiệu lực nơi giao hàng... chứng từ giao hàng thường dẫn chiếu số tham chiếu TDT gốc nhằm tạo thuận lợi cho người mở TDT gốc nhận hàng và tra cứu. Đôi khi người trung gian yêu cầu chủ hàng không ghi bất cứ một số liệu hay dẫn chiếu hay tên ngân hàng của TDT giáp lưng vào chứng từ hàng hoá nhằm đảm bảo bí mật thông tin về thị trường cung ứng. Sau khi thanh toán cho người hưởng người mở TDT giáp lưng dùng bộ chứng từ đó thay thế những chứng từ cần thiết (tương tự nghiệp vụ của TDT chuyển nhượng) xuất trình đòi tiền ngân hàng phát hành TDT gốc. Trong nghiệp vụ TDT giáp lưng cái lợi của nhà cung cấp hàng hoá chính là cái bất lợi của nhà trung gian, ngược lại với TDT chuyển nhượng. Do vậy người trung gian luôn muốn thực hiện TDT chuyển nhượng và ngược lại nhà xuất khẩu lại muốn bảo đảm thanh toán bằng TDT giáp lưng. Quyết định lựa chọn TDT nào là tuỳ thuộc sự thương lượng giữa 2 bên và tình huống cụ thể. Nhưng đối với nhà xuất khẩu nếu nhượng bộ thì nên yêu cầu TDT chuyển nhượng phải được ngân hàng chuyển nhượng xác nhận. Trong thực tế có những TDT mặc dù được phép chuyển nhượng nhưng không đáp ứng được yêu cầu chuyển nhượng về thương mại theo điều 48 này. Người hưởng không thể bảo đảm cung cấp hàng phải mua từ phía thứ mà khách hàng lại không chấp nhận TDT chuyển nhượng. Tình thế đó buộc người hưởng phải mở TDT giáp lưng. Điều lưu ý là mặc dù được gọi là TDT giáp lưng nhưng TDT sẽ không có tiêu đề như vậy "giáp lưng" được hiểu trên tổng thể của một giao dịch thương mại mua bán trung gian bằng 2 TDT khác nhau. 14) TDT đối ứng. Đây là TDT không được ICC đưa vào danh mục của các loại hình tín dụng bởi những nét đặc thù của nó. TDT loại này, chỉ tồn tại trong quan hệ thương mại giữa 2 khách hàng có mối quan hệ đặc biệt: Công ty mẹ và công ty con, nhà cung cấp nguyên liệu và nhà gia công ở 2 nước khác nhau. Đúng như tên gọi của nó (đối ứng) nghiệp vụ này luôn tồn tại song song 2 TDT mà người mở của TDT này là người hưởng của TDT kia. Điều kiện để thực hiện nghiệp vụ này thông thường: - Chỉ có 2 khách hàng, vừa là người mua, vừa là người bán của nhau. - Hai NH phát hành cũng là hai NH được chỉ địng (NH chiết kkhấu) của hai TDT. - TDT thứ nhất (mua sản phẩm) trả ngay, TDT thứ hai (mua NL) trả chậm. Giá trị TDT thứ nhất bao giờ cũng lớn hơn TDT thứ hai, phần chênh lệch là tiền lãi gia công. - Việc thanh toán của TDT thứ hai chỉ được thực hiện khi việc TDT thứ nhất đã được thanh toán. Do 134

vậy, NH phát hành TDT thứ hai cam kết chỉ trả tiền cho người hưởng với điều kiện như vậy Đặc điểm nổi bật của TDT đối ứng là điều khoản thanh toán. TDT được phát hành với điều khoản đặc biệt: Việc chấp nhận và thanh toán của TDT nay chỉ có hiệu lực sau khi ngân hàng phát hành nhận được số tiền theo TDT số... ngày... do... phát hành" Việc chấp nhận hối phiếu trả chậm cũng phụ thuộc vào điều khoản đặc biệt này. Điều cơ bản nhất của TDT là sự bảo đảm của ngân hàng phát hành. TDT đối ứng xét về bản chất, chỉ là "một nửa TDT" do sự cam kết có điều kiện của NH. Đây là lý do tại sao TDT đối ứng chỉ tồn tại trên thế giới trong giao dịch NH ở những năm 70 về trước. Tuy nhiên tại Việt Nam phương thức thanh toán này vẫn được thực hiện giữa các nhà cung cấp NL chủ yếu từ Hàn Quốc để nhận lại sản phẩm xuất khẩu sang Tây Âu từ các xí nghiệp gia công tại Việt Nam các mặt hàng giày dép, quần áo, túi xách... Khi đã chấp nhận TDT này nhà cung cấp NL nước ngoài phải chấp nhận những rủi ro có thể người sản xuất gặp khó khăn ngoài ý muốn (hoả hoạn, đình công...) hoặc thiếu thiện chí (bán sản phẩm cho khách hàng khác, không sản xuất đúng những mặt hàng của hợp đồng...) Họ không thể khiếu nại tại ngân hàng phát hành TDT đối ứng Nếu TDT của họ mở không được giao hàng và dẫn đến việc TDT đối ứng không được thanh toán. Mỗi khi đã chấp nhận giao hàng theo TDT đối ứng, người hưởng (nhà cung cấp NL) phải hiểu rõ điều khoản thanh toán và những rủi ro có thể xảy ra TDT là sự bảo đảm thanh toán của ngân hàng phát hành nếu người mở không có khả năng trả nợ nhưng nó có thể quy định khác với bản điều lệ 500 ở bất cứ điều khoản nào miễn rằng tất cả các bên liên quan kể cả ngân hàng phát hành đồng ý cũng như việc chấp nhận một sửa đổi của TDT quy định tại điều 9(IV) của bản điều lệ 500, người hưởng không thể chấp nhận một phần của TDT đối ứng. Giải pháp an toàn nhất cho nhà cung cấp NL theo TDT đối ứng là chọn đúng đối tác kinh doanh hoặc không chấp nhận điều khoản thanh toán của TDT đối ứng. Đối với các ngân hàng lớn và luôn coi trọng uy tín họ sẽ từ chối phát hành loại TDT "một nửa" như vậy. Do sự hạn chế về nghĩa vụ của ngân hàng phát hành nên TDT đối ứng ít được người hưởng chấp nhận và không được ICC thừa nhận là một trong những loại hình tín dụng chứng từ. Do vậy hiện nay loại TDT nay chỉ tồn tại ở một số nước trên thế giới và ở những thời kỳ nhất định của sự phát triển kinh tế. Đôi khi nó được phát hành mang tính hình thức vì luật ngoại hối quốc gia buộc phải thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ. Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam TDT đối ứng được sử dụng như là phương thức tốt giúp các xí nghiệp gia công hàng xuất khẩu hoạt động mà không cần vốn tạo thuận lợi cho họ trong quá trình tích luỹ tư bản tiến tới chủ động mua NL và sản xuất hàng theo ý đồ chiến lược của mình. G. CHUYỂN NHƯỢNG TIỀN HÀNG XUẤT KHẨU ĐIỀU 49: CHUYỂN NHƯỢNG TIỀN HÀNG TDT không chuyển nhượng sẽ không ảnh hưởng đến quyền của người hưởng chuyển nhượng một khoản tiền mà người hưởng sẽ nhận hay có quyền nhận theo TDT đó phù hợp với những quy định của luật pháp hiện hành. Điều khoản này chỉ liên quan đến việc chuyển nhượng tiền hàng xuất khẩu chứ không phải quyền thực hiện TDT. Điều khoản này chỉ có một khác biệt nhỏ so với điều 55 của bản điều lệ 400. Câu cuối cùng bổ sung nhằm phân biệt giữa chuyển nhượng tiền hàng xuất khẩu với chuyển nhượng thực hiện TDT

135

Thực ra điều khoản này tuỳ thuộc vào luật quản lý ngoại hối hoặc quy chế chuyển nhượng tiền hàng của từng nước. WG chỉ nêu ra quy tắc chung còn việc thực hiện như thế nào thì tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Chuyển nhượng tiền hàng xuất khẩu được áp dụng trong trường hợp người hưởng mua hàng của phía thứ 3 để giao theo TDT. Hợp đồng mua bán nội địa sẽ được ký cùng với "yêu cầu chuyển nhượng không huỷ ngang" để người hưởng xuất trình cho ngân hàng chiết khấu. Điều này sẽ làm an tâm chủ hàng vì lệnh chuyển nhượng tiền hàng đã được giao nộp ngân hàng và không thể huỷ bỏ cho đến khi ngân hàng nhận được tiền hàng xuất khẩu. Ở Việt Nam việc xuất khẩu uỷ tác cũng có thể áp dụng phương thức chuyển nhượng như trên và được luật ngoại hối hiện hành nước ta cho phép. Điều lưu ý là việc ký yêu cầu chuyển nhượng phải ký đồng thời với hợp đồng xuất khẩu uỷ thác và không được huỷ ngang và được giao cho ngân hàng chỉ định (ngân hàng chiết khấu) ngay sau khi ký kết. Thực ra điều này chỉ áp dụng khi mà nhà xuất khẩu chưa được chủ hàng tin tưởng tuyệt đối. Phần lớn trong các trường hợp xuất khẩu uỷ thác ngân hàng sẽ trả tiền vào tài khoản người hưởng và căn cứ hợp đồng uỷ thác và lệnh của người hưởng chuyển trả cho chủ hàng. Cần phân biệt "chuyển nhượng tiền hàng xuất khẩu" của điều khoản này và "chuyển nhượng quyền thực hiện TDT" được đề cập ở điều 48, theo đó người được chuyển nhượng toàn quyền thực hiện TDT và xuất trình chứng từ đòi tiền ngân hàng phát hành theo đúng các điều khoản của TDT và phù hợp với Bản Điều lệ 500.

136

THAY LỜI KẾT LUẬN Chúng ta đã đi qua 49 điều khoản của điều lệ và thực hành thống nhất TDCT, bản sửa đổi 1993 số xuất bản 500 của phòng thương mại quốc tế. Điều cốt lõi của vấn đề là hiểu rõ bản chất của các quy tắc để áp dụng chính xác hợp lý vào giao dịch TDT. Có như vậy ta mới giảm đến mức thấp nhất những rủi ro hạn chế những trục trặc nảy sinh trong kỹ thuật nghiệp vụ nhằm đạt được lợi nhuận tối đa có thể. Tuy nhiên bản điều lệ chỉ dành cho những đối tác chân thực, lành mạnh luôn đề cao chữ tín, nó sẽ chẳng có nghĩa lý gì thậm chí còn bị lợi dụng đối với những cá nhân thiếu đạo đức, những doanh nghiệp tồi, những tổ chức Mafia nhằm thực hiện những vụ lừa đảo quốc tế. Năm 1974 Xomali mua 10.000 tấn đường bằng phương pháp đấu thầu, do sai lầm trong việc nghiên cứu điều tra đối tác nhà nhập khẩu Xomall chọn người cung cấp từ Singapore mà không biết rằng họ chỉ có nguồn vốn vỏn vẹn 2 Dollar. TDT đựoc mở trị giá USD 6 triệu để thanh toán số đường trên giao từ Thailand đến Xomall. Tháng 6/1974 bọn lừa đảo xuất trình chứng từ giả tại ngân hàng chiết khấu và được thanh toán vì chứng từ hoàn toàn phù hợp. Điều khó cho ngân hàng chiết khấu trong việc kiểm tra chữ ký ủy quyền và mẫu vận đơn là hàng được ghi nhận là giao tại Thailand nhưng chứng từ lại xuất trình tại Singapore. Cuối cùng người mua Xomali phát hiện là vận đơn giả mạo vì hàng chỉ được bốc là 687 tấn chứ không phải là 10.000 tấn. Năm 1993 tại Việt Nam vụ lừa đảo quốc tế mà nạn nhân là TEXTIMEX với USD 1,026,000 đổi lấy bộ chứng từ giả đã và đang là bài học đắt giá cho những doanh nghiệp kể cả các ngân hàng đang hoạt động tại Việt Nam. Trong vận tải biển không phải là không có những chủ tàu chở hàng nhưng không giao đúng địa điểm đã ghi trên vận đơn mà chở đến một thị trường khác bán hết hàng rồi nguỵ trang thay hình đổi dạng con tàu nhằm trốn tránh pháp luật. Trên thế giới việc giao hàng giả hàng kém chất lượng, hàng không đúng tính năng kỹ thuật.. theo TDT có tính chất lừa đảo vẫn thường xảy ra. Với những trường hợp này luật pháp của các nước sẵn sàng can thiệp nhằm bảo vệ lợi ích của công dân mình, nếu được phát hiện kịp thời. Tài liệu "Documentary Credit Insight" ICC Vol1, No.3 1995 đã đăng vụ đấu giá tài sản theo QĐ của toà án Haikou (Trung quốc) như sau: ngày 3/6/94 Bank ofchina, chi nhánh Haikou phát hành TDT trả chậm 90 ngày theo yêu cầu của Hainan Provincial overseas chinese goods & materials crop.., Haikou, người hưởng là int’l Holding & Financing Co.., Ltd.., Brussels để mua 10.000 tấn thép xây dựng của Ukraine có hiệu lực đến ngày 15/8/94 tại Brussels ngày 1/8/94 chứng từ hàng hoá hoàn toàn hợp lệ được gửi đến ngân hàng phát hành sau khi đã xuất trình tại một ngân hàng Brussels sau đó ngân hàng này đã chiết khấu chứng từ căn cứ vào điện chấp nhận thanh toán vào ngày đáo hạn (30/11/94) Số tiền USD 2.637.875,04 của ngân hàng phát hành. Theo số liệu ghi trong VĐ,9689,07 tấn thép được bốc lên tàu... vào ngày13/7/94 tàu đến Haikou vào ngày 7/9/94 và bắt đầu dỡ hàng vào ngày 19/9/94. Trong lúc hàng đang được dỡ người mở TDT khởi kiện tại toà án hàng hải Haikou và toà đã ra lệnh phong toả toàn bộ hàng hoá, tàu Alycia kể cả việc thanh toán TDT do chất lượng, số lượng các lô hàng không đúng với số liệu ghi trong VĐ trình tại ngân hàng việc thẩm định được tiến hành và xác nhận là lô hàng bị thiếu hụt 60,01 tấn. Sau khi chủ tàu đặt cọc số tiền bảo lãnh con tàu được phóng thích. Ngày 30/9/94 ngân hàng phát hành thông báo cho ngân hàng chiết khấu việc thanh toán TDT trên đã bị phong toả từ 27/9/94 đến 26/3/95 theo phán quyết của toà hàng hải Haikou. Để có đủ tài liệu cho toà 2 bản của VĐ trên được chủ tàu xuất trình. Mặc dù số liệu của vận đơn giống nhau nhưng VĐ bản 2 ghi ngày 25/7/94. Rõ ràng là người hưởng TDT đã giả mạo VĐ để xuất trình thanh toán tại ngân hàng. Kết luận của toà là người hưởng có hành vi lừa đảo và phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại từ 137

phía người mua. Tháng 1/95 toàn bộ hàng hoá được phát mãi theo lệnh của toà án. Ngày 18/4/95 người mua (người mở TDT) được hưởng USD 1,270,000 để bù đắp những thiệt hại và án phí cho vụ kiện. Số tiền USD468.378,19 được trừ từ khoản thanh toán TDT và phần còn lại được lấy từ tiền ký quỹ bảo đảm của chủ tàu. Ta không bình luận phán quyết trên là quá đáng và nghiêng về phía người mua mà chỉ lưu ý khía cạnh là cơ quan pháp luật quốc tế sẵn sàng ra tay để bảo vệ quyền lợi chính đáng của khách hàng mình khỏi sự lừa đảo quốc tế. Trên cơ sở pháp luật hiện hành của họ Các doanh nghiệp Việt Nam hãy tỉnh táo và có những biện pháp kịp thời nhằm loại trừ những rủi ro trong kinh doanh quốc tế. Thực ra trong mọi lĩnh vực đều có kẻ lừa đảo nhưng lĩnh vực thương mại quốc tế là mảnh đất màu mỡ cho những con sâu bọ đó. Như ta đã phân tích và bình luận trên đây bản điều lệ 500 chỉ là các quy ước có tính chất quốc tế mà mỗi ai vào cuộc đều ràng buộc. Nó sẽ là con dao 2 lưỡi đối với những người không biết cách chơi. Điều quan trọng và cơ bản nhất đối với cả người bán và người mua là chọn đúng đối tác để kinh doanh. Ngược lại người mua có thể gánh chịu hậu quả tương đương 2 vụ lừa đảo trên hoặc người bán sẽ bị từ chối thanh toán chỉ một lỗi rất nhỏ thậm chí sai một chữ cái của một từ trong bộ chứng từ giao hàng. Trong buôn bán hãy chọn con người trước khi chọn mặt hàng, chất lượng, giá cả.. của người đó. Sẽ là ấu trĩ và sai lầm, nếu ai tin rằng TDT sẽ là tấm chắn an toàn tuyệt đối cho người bán. TDT sẽ là giấy tờ loại không hơn không kém nếu ngân hàng phát hành thua lỗ, mất khả năng thanh toán hay phá sản. Trong trường hợp này người mua có uy tín sẽ sẵn sàng gánh chịu rủi ro trả tiền cho người bán. Ngân hàng chỉ căn cứ vào chứng từ nhưng chứng từ thì có thể làm giả? Mà chứng từ bẩn thì luôn luôn làm "sạch"? Đây chính là mặt trái của vấn đề. TDT không hoàn toàn tạo ra một khả năng bảo vệ quyền lợi của người mau khi người bán là kẻ lừa đảo. Tuy nhiên TDT bảo vệ cho người bán tránh được những rủi ro những nguyên nhân bất khả kháng, ngoài ý muốn, hoặc những nguyên nhân không phải lừa đảo... từ phía đối tác. Đây là tính ưu việt của TDT so với các phương thức thanh toán nhờ thu, chuyển tiền... TDT sẽ là những thanh toán thuận tiện và an toàn nhất đối với những ai hiểu rõ bản chất của bản điều lệ 500 và vận dụng nó chính xác linh hoạt vào thực tiễn giao dịch tín dụng chứng từ . Tp Hồ Chí Minh Tháng 9-1995

138

Related Documents

Vhdl Tieng Viet
November 2019 19
Tieng Viet Cho Web
October 2019 11
Ccna Tieng Viet
November 2019 15
Vhdl Tieng Viet
November 2019 13