Tư tưởng Hồ Chí Minh
I. II.
III.
IV.
V.
Nội dung cơ bản của Nho giáo Thân thế Hồ Chí Minh và thời đại của Người Nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh Sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với Tư tưởng Hồ Chí Minh Kết luận
1.
Chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội:
Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: Quân thần: ("Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" nghĩa là: dù vua có bảo cấp dưới chết đi nữa thì cấp dưới cũng phải tuân lệnh, nếu cấp dưới không tuân lệnh thì cấp dưới không trung với vua)Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ. Phụ tử: ("phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến con chết, con không chết thì con không có hiếu) Phu phụ: ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là: chồng nói ra, vợ phải theo)
2. Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có:
Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
3. Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo:
Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha. Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng. Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.
4. Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có: Công: khéo léo trong việc làm. Dung: hòa nhã trong sắc diện. Ngôn: mềm mại trong lời nói. Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
Đạt đạo. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè", tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi". Biết thi, thư, lễ, nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "thi, thư, lễ, nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo:
Nhân
trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành".
1.
Thân thế
Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung. Sinh ngày 19/5/1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Thân phụ là ông phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho có tư tưởng tiến bộ, giàu lòng nhân ái và rất yêu nước. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Bác có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm(tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (tên khi mới lọt lòng là Xin). Bác theo cha vào Huế học hai lần vào các năm 1901 và 1906. Tháng 9 năm 1907, Người vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ.
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết, dạy chữ Hán và chữ quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của hội Liên Thành. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, Người nghỉ dạy và vào Sài Gòn. Tại đây, Người theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Ở đây, Người chỉ học ba tháng rồi quyết định lên đường ra nước ngoài.
Từ đây, ta có thể thấy quá trình học tập của Hồ Chí Minh từ khi là một đứa trẻ cho đến lúc ra đi tìm đường cứu nước. Quá trình ấy gắn bó sâu sắc với nền giáo dục Nho giáo, một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tư tưởng của Người sau này.
2.
Bối cảnh thời đại Bối cảnh xã hội Việt Nam khi ấy: nho giáo đã suy tàn và văn hoá phương Tây bắt đầu xâm nhập nước ta. Để củng cố bệ đỡ tư tưởng cho chính quyền chuyên chế, nhà Nguyễn thi hành chính sách độc tôn Nho giáo, phục hồi Nho giáo vốn đã bị suy đồi trong những thế kỉ trước. Nhà Nguyễn thi hành những biện pháp cấm đoán gắt gao Thiên Chúa Giáo Những yếu tố mới xâm nhập, tàn dư một thời vàng son của Nho giáo vẫn còn đã tác động song song với nhau hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.
Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi người. Đạo đức là gốc của người cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người. Đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng. Đối với Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện.
2.
3.
Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Trung với nước, hiếu với dân Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư Tinh thần quốc tế trong sáng Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới: Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức Xây đi đôi với chống Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh đã tiếp thu từ Nho giáo trên phương diện là một môn khoa học về đạo đức và phép ứng xử, tư tưởng triết lí hành động, lí tưởng về 1 xã hội bình trị. Tuy nhiên cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp quân tử và tiểu nhân, chỉ đề cao nghề đọc sách. Hồ Chí Minh không chỉ biết đề cao vai trò nhân dân mà còn biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Hồ Chí Minh đã dung hòa được: lễ trị và pháp trị, dung cả nhu cả cương trong chiến lược hành động của mình; và dung hòa mâu thuẫn trong sự dân chủ.
“Tam cương , ngũ thường” là những điều cốt lõi của Nho giáo. HCM đã đưa mối quan hệ vua-tôi mà cụ thể trong thời đại HCM là mối quan hệ giữa những người lãnh đạo với nhân dân. Về mặt tu thân: Hồ Chí Minh đề cao việc tự rèn luyện bản thân, không ngừng hoàn thiện và tu dưỡng suốt đời. Cũng như Nho giáo, tư tưởng HCM nhấn mạnh đến vai trò của đạo đức, mà về mặt bản chất chính là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Ngũ thường vậy. Về mặt hành đạo: Hồ Chí Minh luôn đi theo phương pháp “nhân trị” với tấm lòng nhân đạo bác ái, yêu con người, vạn vật và đề cao sự chính danh, chính trực.
Bên cạnh những yếu tố như Chủ nghĩa Mác Lênin, nhân tố chủ quan hay truyền thống dân tộc, Nho giáo đóng một vai trò quan trọng đối với tư tưởng Hồ Chí Minh còn giá trị đến tận không chỉ ngày nay mà còn nhiều thời đại sau.