Tu Tuong Ho Chi Minh

  • November 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Tu Tuong Ho Chi Minh as PDF for free.

More details

  • Words: 104,756
  • Pages: 257
Tư tưởng Hồ Chí Minh

1

Tư tưởng Hồ Chí Minh

Hà Nội 2006 http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

2

Mục Lục Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và về Tôn giáo Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam Tìm hiểu quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khái niệm nhân dân Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất Tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc Một số luận điểm về đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh Quán triệt quan điểm Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, lý luận trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay Vấn đề Đảng của ai trong tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản với các cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

3

Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (3-21969) Tất cả mọi quyền bính đều thuộc về nhân dân Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền ở Việt Nam Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức của cán bộ, đảng viên hiện nay Một nền tư pháp nhân dân Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với khuyết điểm của Đảng và những cán bộ mắc sai lầm “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cán bộ, đảng viên hiện nay” Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng đời sống văn hoá mới Hồ Chí Minh nhà văn hoá của tương lai Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh Đạo đức Hồ Chí Minh- một kiểu mẫu về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh với những vấn đề tâm lý trong công tác tư tưởng văn hoá Khai thác sâu sắc tính nhân văn, đạo đức cách mạng trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh với giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “học để làm việc” một trong bốn trụ cột của giáo dục hiện đại http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

4

Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ Bồi dưỡng, phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh Nghĩ về nét độc đáo trong Tư tưởng Hồ Chí Minh Học tập, quán triệt, làm theo lẽ sống của Bác Hồ Tìm hiểu thực chất và ý nghĩa của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh Suy ngẫm về điều mong muốn cuối cùng của Bác Hồ Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong tình hình hiện nay Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong tình hình mới Bác Hồ với việc chống tham nhũng, lãng phí Hồ Chí Minh với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu Bác Hồ nói về tham nhũng và chống tham nhũng *

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

*

*

Tư tưởng Hồ Chí Minh

5

Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969)

C

hủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là

Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày. Ngày 3-6-1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927). Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

6

Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ). Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn. Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946). Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng. Ngày 19-12-1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

7

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (1954). Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít-Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

8

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền dân tộc Trong các di cảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề quyền dân tộc chiếm một vị trí quan trọng. Tư tưởng về quyền dân tộc được Người nêu ở nhiều thời điểm khác nhau, thể hiện ở nhiều bài viết, bài nói chuyện nhưng nổi bật, tập trung và rõ nét nhất là tuyên bố của Người trong ngày lễ Độc lập của dân tộc.

Đã là người Việt Nam, chắc chắn không ai có thể quên sự kiện lịch sử về lễ Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà tại quảng trường Ba Đình lịch sử mùa thu 1945. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình của Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và toàn thể quốc dân Việt Nam, trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới, khẳng định những quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam và quyết tâm của nhân dân Việt Nam trong bảo vệ những quyền thiêng liêng đó. Sự kiện đó đã đặt một mốc son lịch sử về sự bắt đầu của thời kỳ phát triển mới của dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới đã trở thành một di sản văn hoá bất hủ của dân tộc Việt Nam, đồng thời là văn bản pháp lý khẳng định quyền của dân tộc Việt Nam đứng ngang hàng với các dân tộc trong thế giới đương đại. Khi viết Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã tra cứu và tham khảo bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791- hai bản Tuyên ngôn chứa đựng những tư tưởng tiên tiến của nhân loại về quyền con người. Theo đó xác định rằng, con người ta sinh ra là phải có quyền được sống, bình đẳng về quyền lợi, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Hồ Chí Minh tán thành những tư tưởng bất hủ nói trên và coi đó là điều thiêng liêng, hoàn toàn hợp với lẽ tự nhiên và bất khả xâm phạm: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

9

Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và: “ Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Trích dẫn những lời bất hủ đó, Hồ Chí Minh mặc nhiên khẳng định rằng những con người sống trên đất nước Việt Nam phải được hưởng những quyền cơ bản đó. Nhưng không chỉ có vậy, trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam và phát triển tư tưởng về quyền lợi của con người thành quyền lợi của cả một dân tộc. Người viết “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, đồng thời khẳng định ý chí của dân tộc Việt Nam quyết bảo vệ đến cùng quyền tự do, độc lập ấy: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Cuộc sống lầm than của dân tộc Việt Nam dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp đã thôi thúc người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911, để đến ngày 2/9/1945, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh thay mặt cho dân tộc Việt Nam vạch mặt, chỉ tên tội ác của chủ nghĩa thực dân, và tuyên bố về quyền của dân tộc Việt Nam phải được hưởng như các dân tộc văn minh khác cùng với ý chí quyết giữ vững những gì dân tộc đó đã giành được. Cũng để có lời tuyên bố trước toàn thế giới ngày 2/9 lịch sử ấy, Người đã phải mất hơn hai thập kỷ, và trải qua một cuộc hành trình đầy gian khổ khắp năm châu, bốn biển. Chính trong thời gian đó người đã chứng kiến nỗi thống khổ của các dân tộc ở đủ các loại nước, đến khi gặp được chủ nghĩa Mác – Lênin thì người đã hoàn toàn lý giải được nguồn gốc sinh ra nỗi thống khổ của không chỉ dân tộc Việt Nam mà của cả các dân tộc khác trên toàn thế giới. Dưới ánh sáng của học thuyết Mác - Lênin, trực tiếp là tư tưởng vĩ đại của V.I.Lênin trong “Sơ thảo luận cương các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, Hồ Chí Minh hiểu rằng, nỗi thống khổ của tất cả các dân tộc bị áp bức nảy sinh và tồn tại kể từ khi xã hội loài người xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước, tất cả những http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

10

quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm ấy của con người đã bị một số ít người chà đạp. Mặc dù những kẻ đó chẳng nhân danh cho ai cả, song chúng lại có thể mặc nhiên tước đoạt một cách vô nhân tính quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc không chỉ của quần chúng lao động trong nước, mà còn đối với cả giới cần lao trên toàn thế giới, chỉ vì chúng là những kẻ nắm quyền chi phối đại bộ phận những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nên cũng nắm mọi quyền phân phối những của cải làm ra, đồng thời nắm luôn quyền thống trị và nô dịch người khác. Chính tại nước Mỹ và nước Pháp, quê hương của hai bản Tuyên ngôn với những lời bất hủ đó, nhưng với cả hai nước đó, giới cần lao cũng không có quyền bình đẳng, quyền được sống, tự do mưu cầu hạnh phúc. Song, còn một điều khác tệ hại hơn, đó là chủ nghĩa tư bản Pháp và chủ nghĩa tư bản Mỹ đã nhân danh lá cờ tự do, bác ái để nô dịch, chà đạp tự do của các dân tộc khác ở những xứ thuộc địa và phụ thuộc. Với Hồ Chí Minh, đó là những điều không thể chấp nhận vì quyền tự do, bình đẳng và mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng, không ai được phép xâm phạm. Đây chính là một trong những lý do để Hồ Chí Minh trở thành chiến sĩ cộng sản đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam và sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Theo Hồ Chí Minh, trong một đất nước, quyền lợi của mỗi cá nhân bao giờ cũng gắn liền với quyền lợi của cả dân tộc, đất nước. Nước mất thì nhà tan, nước độc lập thì dân tộc mới độc lập, con người mới có tự do. Trích dẫn những tư tưởng bất hủ trong hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, Hồ Chí Minh muốn khẳng định một điều: tất cả những quyền mà hai bản tuyên ngôn tư sản đó nêu lên đã không tồn tại đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Hơn tám mươi năm bọn thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp nước Việt Nam, áp bức dân tộc Việt Nam. Hành động đó là trái với đạo lý, cũng tức là trái với lẽ tự nhiên như tư tưởng của hai bản tuyên ngôn tư sản đã khẳng định. Vì lẽ đó, dân tộc Việt Nam phải đứng lên, quyết giành lấy những quyền thiêng liêng nhất của con người và của dân tộc và khi đã giành được thì quyết bảo vệ đến cùng. Sau này Người còn có dịp phát triển quyết tâm đó trong lời kêu gọi nhân dân cả nước nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

11

xâm lược: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Cần nói rằng, tư tưởng về giành quyền bình đẳng, được sống, tự do mưu cầu hạnh phúc của một dân tộc trong con người Hồ Chí Minh không phải đến khi viết Tuyên ngôn Độc lập mới xuất hiện, tư tưởng này đã nung nấu trong con người Hồ Chí Minh từ rất lâu, ít nhất cũng là từ trước khi Người ra đi tìm đường cứu nước mùa hè năm 1911, đặc biệt là trong thời kỳ Người đến châu Âu, sống ở Pari cho đến khi gia nhập đảng Xã hội Pháp, những năm 1914 – 1920 ở Hồ Chí Minh đã nung nấu tư tưởng giải phóng dân tộc Việt Nam và giải phóng các “dân tộc thuộc địa”. Đến khi gặp được chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua “ Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, thì tư tưởng đó đã được chắp cánh. Nhờ tiếp cận và nghiên cứu Sơ thảo luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã có bước ngoặt cơ bản về nhận thức chính trị. Người coi đó là “con đường giải phóng”, “con đường cứu sống dân tộc Việt Nam”. Hơn 20 năm tiếp sau cho đến ngày viết Tuyên ngôn Độc lập, là chặng đường lịch sử Hồ Chí Minh đấu tranh không mệt mỏi vì mục tiêu “giải phóng dân tộc Việt Nam”. Trong suốt chặng đường đầy gian khổ đó, lúc tù đầy trong nhà lao đế quốc, khi cháo bẹ, rau măng trong hang núi, để thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng vì độc lập, tự do của Tổ quốc và dân tộc, đồng thời cũng là bước khởi đầu cho một lý tưởng cách mạng lớn lao và vĩ đại hơn - tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại, chưa khi nào ngọn lửa đấu tranh vì quyền lợi của dân tộc Việt Nam trong con người Hồ chí Minh ngừng cháy. Sau này, khi nửa nước đã được giải phóng, với cương vị chủ tịch của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh càng có điều kiện để thực hiện các quyền của dân tộc. Người nhắc nhở Chính phủ chăm lo mọi mặt cho đời sống nhân dân, với tinh thần “nhân dân chỉ cảm nhận được quyền của mình trong một nước độc lập khi ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, mọi người được học hành”. Còn đối với nửa nước chưa được giải phóng, Người tập trung theo dõi, chỉ đạo chặt chẽ phong trào cách mạng miền Nam, hàng ngày, hàng giờ giành tình cảm cho đồng bào miền Nam.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

12

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lợi dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập là bản hùng ca bất diệt của dân tộc Việt Nam - một dân tộc có bề dày truyền thống đấu tranh giành và giữ độc lập, được cất lên trước toàn thế giới tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 biểu hiện ý chí sắt đá về quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy là không gì có thể khuất phục. Còn đối với thế giới đương đại, Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới là hồi kèn thúc giục các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc vùng lên, đặt dấu mốc lịch sử mở đầu trào lưu phi thực dân hoá trong thế giới đương đại và quá trình đó đã diễn ra. Năm 2006, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng mác xít chân chính do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tiến hành đại hội để tiếp tục thực hiện những tư tưởng vĩ đại của Người vì một đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dù trong điều kiện lịch sử mới cách mạng Việt nam còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng nhất định Đảng sẽ lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi những tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền lợi dân tộc.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

13

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và về Tôn giáo Cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trước hết là đoàn kết vì đại nghĩa, đoàn kết trong Đảng để đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Trên cơ sở đó Người kêu gọi mọi người càng đoàn kết nhau lại thành một khối để chống lại kẻ thù chung. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: ''...đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm, hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi''. Đấu tranh nhằm xóa bỏ nỗi nhục mất nước cũng như nỗi nhục nghèo nàn và lạc hậu ở một nước như Việt Nam, Hồ Chí Minh hiểu cần phải thức tỉnh lương tri của tất cả mọi người, tất cả các tôn giáo trên cơ sở đại đoàn kết, tập hợp họ thành một khối thống nhất để dựng nước và giữ nước. Người mong muốn nhân dân của Người dù có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, dù thuộc các tôn giáo khác nhau, đều trước hết thấy mình là con Rồng, cháu Lạc, phải có trách nhiệm với cộng đồng, với những người đã khuất, với tổ tiên.

Vì thế, ngay từ năm 1924, Người đã nói: ''Chủ nghĩa dân tộc là một động lực to lớn của đất nước''. Trong tư tưởng Người, dân tộc được xác định trên lập trường của giai cấp công nhân, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đó là ''Chủ nghĩa dân tộc hướng tới chủ nghĩa Cộng sản”. Ngoài ra, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết còn có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống, từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là truyền thống “Nhiễu điều phủ lấy giá gương; người trong một nước phải thương nhau cùng”. Vì thế, năm 1942, ngay sau khi về nước lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

14

chắc chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập tự do”. Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Đó là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi. Người cho rằng: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lục lượng đoàn kết của nhân dân”. Và “Đại đoàn kết là một lực luợng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lọi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất đánh thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”. Chính vì thế, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (VNDCCH) ra đời, dù bận “trăm công, nghìn việc”, vừa phải lo chống giặc đói, giặc dốt, lại phải lo thắng giặc ngoại xâm, Người rất quan tâm tới các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức tôn giáo. Ngày 3/9/1945, tức chỉ một ngày sau khi tuyên bố độc lập, Người đã có chương trình kế hoạch tiếp các tổ chức đoàn thể (như các báo Việt, Trưng, văn hóa giơi, công giới, thương giới, Công giáo, Phật giáo, nông hội, nhi đồng, thanh niên...). Cũng trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lân thời (bàn về những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước VNDCCH), Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách phải làm, trong đó Người nhấn mạnh vấn đề thứ 6 là: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo (Thiên chúa giáo) và đồng bào Lương (Phật giáo), để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”. Suốt cuộc đời mình, không lúc nào Hồ Chí Minh không chú ý đến những hành vi tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào. Người đã chú ý đến phong tục tập,quán của người dân khi trở về Pắc Bó, thậm chí tự tay vẽ hình ảnh Đức Phật và dựng ngôi chùa để đồng bào không phải đi xa làm lễ. Người cũng gửi nhiều thư và điện đến các vị giám mục, linh mục để vận động tinh thần yêu nước của đồng bào Công giáo. Người cũng còn gửi thư đến các ông lang, ông đại, biểu dương công trạng và tinh thần tham gia kháng chiến của đồng bào miền núi Hòa Bình.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

15

Không chỉ với các đồng bào có đạo và không có đạo, với các đoàn thể, các Đảng dân chủ và xã hội, cũng được Người quan tâm để phát huy tốt vai trò của các tổ chức này trong việc động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến và thực hiện đại đoàn kết toàn dân. Có thể nói rằng, “Hồ Chí Minh đã nhận rõ cơ sở khách quan của khối đại đoàn kết dân tộc và tin tưởng vào đồng bào dù có tôn giáo hay không có tôn giáo. Người kêu gọi phải đoàn kết, không phân biệt tôn giáo, Đảng phái, già ,trẻ, gái trai... “Đoàn kết là chiến lược lâu dài chứ không phải là sách lược tạm thời”. Người là hiện thân, là ngọn cờ của khối đại đoàn kết dân tộc. Người đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự củng cố khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công-nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhằm tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp, mọi Đảng phái, mọi tôn giáo, dân tộc để bao vây, cô lập kẻ thù, phá tan chính sách của chúng, để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Người luôn nhắc nhở: “... đối với các đoàn thể khác cùng dân chúng, chỉ có một chính sách là đại đoàn kết”. Thậm chí, trước lúc đi xa, trong di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Rõ ràng là, tư tưởng về đoàn kết của Hồ Chí Minh một khi trở thành chiến lược của cách mạng Việt Nam đã tạo nên một sức mạnh vô địch để dân tộc ta “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vuợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đó là sức mạnh của đoàn kết toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại để đưa dân tộc tiến tới “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Vì thế, có thể khẳng định rằng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi là một thành công lớn của Hồ Chí Minh. Người đã tập hợp được những tổ chức cách mạng chân chính về một mối, quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc, tranh thủ được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng được tình đoàn kết quốc tế. Đó là kết quả của nhà tổ chức vĩ đại Hồ Chí Minh, biến khẩu hiệu http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

16

nổi tiếng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” thành hiện thực, thành sức mạnh tinh thần, trí tuệ, thành sức mạnh vật chất cực kỳ to lớn đánh thắng những thế lực thù địch hung bạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết mãi là một lực lượng to lớn của dân tộc Việt Nam. Đoàn kết là một lực lượng vô địch.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

17

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam Ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam, giải quyết mối quan hệ giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là một vấn đề lớn, đầy khó khăn phức tạp. Với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, với sức sáng tạo tuyệt vời, tinh tế, Hồ Chí Minh đã khéo chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, đưa ra một mẫu hình chuẩn mực trong việc xử lý mối quan hệ giữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp trong tiến trình cách mạng vô sản. Đến với Cách mạng tháng Mười, tiếp nhận ánh sáng Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kết luận: Con đường giải phóng mọi sự áp bức chỉ có thể là sự nghiệp cách mạng vô sản. Đưa phong trào yêu nước giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo của phong trào cách mạng vô sản thế giới, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc rằng: Con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng: con đường, chiến lược, sách lược cách mạng mỗi nước là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở nước đó quyết định. Nhiệm vụ cốt tử hàng đầu của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương là phải giành cho được độc lập, tự do từ tay thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Sự nghiệp giải phóng dân tộc ấy theo Hồ Chí Minh là hoàn toàn không 1ệ thuộc cách mạng ở chính quốc Pháp. Trong Chánh cương, sách lược vắn tắt do mình khởi thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua, Hồ Chí Minh đã vạch những vấn đề hết sức cơ bản về con đường, chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt Nam. Những nội dung cụ thể của chính cương sách lược đã thể hiện sự sáng tạo rất lớn và rất http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

18

tinh tế của Hồ Chí Minh trong việc xử lý mối quan hệ giữa chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản với điều kiện thực tiễn cụ thể ở Việt Nam. Chánh cương do Hồ Chí Minh trình bày có đoạn: “a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. c) Dựng ra chính phủ công nông binh. d) Tổ chức ra quân đội công nông”. Hồ Chí Minh nhận định: ở Việt Nam bọn tư bản Pháp đã thâu tóm toàn bộ nền kinh tế, nên “... tư bản bản xứ không có thế lực gì, ta không nên nới cho họ đi về phe đế quốc được. Chỉ có bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Như vậy trong tư duy của Hồ Chí Minh để tập trung phân hoá, cô lập kẻ thù, huy động lực lượng ở mức tối đa Người không xếp nhiệm vụ chống giai cấp địa chủ, đưa lại ruộng đất cho nông dân ngang hàng với nhiệm vụ chống đế quốc và bọn đại địa chủ tay sai. Người quan niệm: đánh đổ sự thống trị của đế quốc thực dân Pháp và bè lũ tay sai, giải phóng dân tộc tức là đã thực hiện một phần rất quan trọng cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp. Coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không tách rời phong trào cách mạng của thế giới, Người chỉ rõ: “... trong khi tuyên truyền khẩu hiệu An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất và vô sản giai cấp Pháp”. Tuy nhiên, do những điều kiện quốc tế và trong nước, trong Đảng lúc bấy giờ mà những tư duy nhạy bén, sắc sảo của một tầm cao trí tuệ chưa được hiểu và tiếp nhận một cách đầy đủ. Phải hơn 10 năm sau với những thử thách khốc liệt trong thực tiễn thì những vấn đề cơ bản trong Chánh cương sách lược vắn tắt mới được khẳng định và phát triển. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tháng 5/1941 do Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì 1à mốc đánh dấu sự chuyển hướng trong chỉ đạo chiến lược một cách hoàn chỉnh. (Trước đó Hội nghị Trung ương 6 và 7 đã có đề cập vấn đề này). Phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: Toàn bộ những hoạt động của phong trào cách mạng Đông Dương phải khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để khi thời cơ tới nhanh chóng giành cho được độc lập tự do. Để tập trung nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thực hiện quyền lơi cho quảng đại quần chúng nhân dân 1ao động, Hồ Chí Minh đã nêu lên trong khởi thảo Nghị quyết (được Hội nghị http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

19

Trung ương lần thứ 8 thông qua): Đảng vẫn tạm rút khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ mà đề ra chính sách tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân cày nghèo. Trong “Kính cáo đồng bào” (6/6/1941) Hồ Chí Minh viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết đại đánh đổ bọn đế quốc và bọn việt gian đặng cứu giống nới ra khởi nước sôi lửa bỏng”. Nhằm khơi dậy và phát huy hết khả năng, tinh thần của nhân dân trong mỗi quốc gia dân tộc, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đã đề nghị giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của từng nước trên bán đảo Đông Dương. Người cho rằng ở Đông Dương vì cùng có kẻ thù chung nên không thể một dân tộc này tự giải phóng riêng rẽ được. Nhưng sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết buộc các dân tộc thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc xưa nay vẫn có tinh thần dân tộc riêng của họ. Trong tình hình mà kẻ thù đang tập trung xuyên tạc rằng: Đế quốc An Nam đang xâm lược Lào và Cao Mên để ly gián chia rẽ 3 dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương thì nhận thức và sự chỉ đạo trên đây của Hồ Chí Minh 1à cực kỳ sáng suốt và rất có hiệu quả. Sự phát triển nhanh chóng về lực lượng cách mạng của 3 nước Việt - Lào - Cămpuchia diễn ra trong những năm sau đó đã làm nổi bật thêm tư duy độc lập, đầy tính sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đề nghị của Hồ Chí Minh tách vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của từng quốc gia không những có giá trị chỉ đạo thực tiễn to lớn lúc bấy giờ mà nó còn là một cơ sở hết sức quan trọng để hình thành phát triển chính sách dân tộc hết sức đúng đắn của Đảng ta về sau. Trong suốt 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) những nội dung cơ bản của Chánh cương sách lược vắn tắt và quyết nghị của Hội nghị Trung ương gần thứ 8 (5/1941) đã được vận dụng một cách hết sức linh hoạt trong việc xử lý mối quan hệ giữa kháng chiến với cuộc cách mạng điền địa. Để bồi dưỡng sức dân và huy động đến mức cao nhất lực lượng mọi mặt (kể cả trong giai cấp địa chủ phong kiến), Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện từng bước giảm tô, lấy ruộng đất của địa chủ gian ác, việt gian

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

20

chia cho dân cày. Phải đến gần cuối chiến tranh vấn đề cải cách ruộng đất mới được Đảng ta đặt ra một cách trực tiếp với những bước đi rất thận trọng. Vào lúc đế quốc Mỹ trực tiếp đưa quân ồ ạt vào miền Nam, mở rộng chiến tranh trên quy mô cả nước, một lần nữa dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu toàn dân ta hướng về khẩu hiệu chiến lược: Tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. Đầu năm 1966, tại lớp Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và quân đội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nhiệm vụ: “Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược... chúng ta phải quyết tâm chiến đấu đến cùng giành độc lập dân tộc và thống nhất nước nhà...” Như vậy, tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chí Minh là: Khi đất nước còn nằm dưới sự áp bức của đế quốc và bè lũ tay sai thì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc luôn là một mục tiêu thiêng liêng được đặt lên hàng đầu. Mọi vấn đề như giương cao ngọn cờ lý tưởng, bồi dưỡng sức dân, phân hoá cô lập kẻ thù, tập hợp lực lương cách mạng... trong phạm vi quốc gia và quốc tế trước hết tập trung hướng vào thực hiện nhiệm vụ cao cả đó. Người cho rằng: đưa dân tộc thoát khỏi ách nô địch thuộc địa, giải phóng nhân ta khỏi “kiếp ngựa trâu” của chính quyền đế quốc tay sai là đã tạo tiền đề tiên quyết đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp đi đến thắng lợi hoàn toàn.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

21

Tìm hiểu quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khái niệm nhân dân Việt Nam Việc hiểu đúng khái niệm "nhân dân", thường được sử dụng trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, trong công tác vận động nhân dân… góp phần thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Trong cuộc đời hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh không ít lần nêu ra quan niệm về nhân dân ta. Có lúc Người nói rằng nhân dân ta gồm “gái trai già trẻ” của “năm lớp Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh”. Có lúc Người chỉ rõ rằng: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”. Người còn nhấn mạnh rằng bốn giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước “Đó là nền tảng của quốc dân”. Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh thì nhân dân ta là bộ phận gồm đông đảo những người thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau và chủ yếu là những người lao động trong xã hội. Đó là tầng lớp trí thức (Sỹ); giai cấp nông dân – người sống bằng nghề làm ruộng (Nông); giai cấp công nhân – người lao động chân tay, làm việc cho chủ tư liệu sản xuất công nghiệp hoặc làm việc cho Nhà nước trong các cơ sở công nghiệp (Công); tầng lớp thương nhân hay tầng lớp những người buôn bán (Thương); những người làm việc trong Quân đội Nhân dân hay là quân nhân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Binh). Các tầng lớp, giai cấp nhân dân này “đoàn kết thành một khối” như “năm cánh ngôi sao vàng trên nền đỏ Quốc kỳ Việt Nam” và là “nền tảng của quốc dân Việt Nam”. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

22

Ngoài các tầng lớp, giai cấp lao động đó ra, theo Hồ Chí Minh, dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, “những người khác yêu nước”, cụ thể những nhân sỹ yêu nước (là người trí thức có danh vọng như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Bùi Bằng Đoàn, Luật sư Trịnh Đình Thảo) và những thân sỹ yêu nước (là người có học thức, thuộc tầng lớp trên của xã hội cũ như Cụ Phan Kế Toại) cũng trong địa vị nhân dân. Người dân Việt Nam nào trong địa vị nhân dân Việt Nam là người được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi của một công dân Việt Nam do luật pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quy định. Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân dân Việt Nam thì “quốc dân Việt Nam” hay “người dân trong nước Việt Nam” không đồng nghĩa với “nhân dân Việt Nam”. Bởi vì, trong quốc dân có người trong địa vị nhân dân và có cả những người dân Việt Nam không trong địa vị nhân dân. Những người dân Việt Nam không trong địa vị nhân dân này không được hưởng các quyền công dân như nhân dân; nói cách khác, những người dân Việt Nam mất quyền công dân Việt Nam thì không được trong địa vị nhân dân Việt Nam, nhưng họ vẫn là quốc dân Việt Nam. Cũng theo Hồ Chí Minh, những người Việt Nam trước đây thuộc giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột, buôn dân bán nước, dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nếu họ chấp hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, có quyền công dân thì họ là nhân dân; ngược lại những người Việt Nam trong địa vị nhân dân, nhưng vì lợi nhỏ mà quên nghĩa lớn, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và quyền lợi của toàn dân thì không thuộc nhân dân nữa. Chẳng hạn, Nguyễn Vĩnh Thụy hay Bảo Đại - ông vua bù nhìn cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, tay sai đế quốc Pháp, khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, khi ông ta nộp ấn kiếm cho cách mạng, thề trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Chính phủ cách mạng, rồi làm Cố vấn tối cao của Chính phủ cách mạng lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì lúc đó ông ta là nhân dân; nhưng sau đó ông ta lại theo giặc Pháp, cam tâm buôn dân bán nước, thì lúc này ông ta không trong địa vị nhân dân nữa. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

23

Quan niệm về nhân dân ta như trên được Hồ Chí Minh nêu ra ngay từ những năm tháng đầu tiên của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và quan niệm đó hoàn toàn phù hợp với cách giải nghĩa từ “nhân dân” trong Đại từ điển Tiếng Việt xuất bản lần đầu vào giữa năm 1998. Ngoài hai từ “nhân dân”, Hồ Chí Minh còn gọi nhân dân ta bằng những từ khác nhau. Có lúc Người gọi là “dân” hay “dân ta”; có lúc Người gọi là “dân chúng” (quần chúng nhân dân). Cách gọi nhân dân như vậy đã đúng, lại gần gũi, dễ hiểu. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân dân Việt Nam còn có một nội dung khác nữa cũng rất quan trọng khi phân định mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ta. Nội dung đó là: Trong công tác hay trong cuộc sống hàng ngày, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể trong mối quan hệ cụ thể mà mỗi người, mỗi nhóm người, hay mỗi đơn vị hoặc tổ chức đoàn thể trong nội bộ nhân dân có vị trí cụ thể là nhân dân hay không là nhân dân. Chẳng hạn: Nói hoặc viết một cách bao quát là “nhân dân Việt Nam”, nói hoặc viết như vậy là trong nhân dân có cả Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân Việt Nam; nói hoặc viết “Đảng và nhân dân” – như vậy, trong nhân dân đó có cả cán bộ, đảng viên của Đảng; nói hoặc viết “Chính phủ và nhân dân” – như vậy trong nhân dân đó có cả công chức, viên chức của Chính phủ; cũng có thể hiểu tương tự như vậy, khi nói “cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân”; khi nói “bộ đội và nhân dân”; “công an và nhân dân”...

Xin được nêu dẫn chứng sau đây: khi viết về “vấn đề cán bộ”, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Trong câu này

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

24

của Hồ Chí Minh, trước dân chúng, thì cán bộ của Đảng và Chính phủ không trong “tập hợp nhân dân” nữa. Một dẫn chứng nữa: khi viết về bệnh hẹp hòi của cán bộ, đảng viên của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Có nhiều đồng chí tự tôn, tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác. Biết được vài câu lý luận đã cho mình là giỏi, không xem ai ra gì, tưởng mình là hơn hết. Đó là bệnh hẹp hòi hạng nặng. Họ quên rằng: Chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ quên rằng: so với số nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một người đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết. Vì vậy ta cần phải hợp tác với những người ngoài Đảng. Ta không được khinh rẻ họ, chê bai họ. Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”. Trong lời dạy, Hồ Chí Minh muốn nói tới quan hệ giữa nhân dân và Đảng ta, giữa quần chúng nhân dân và đảng viên của Đảng. Trong các mối quan hệ cụ thể này, trước nhân dân Đảng không ở trong “tập hợp nhân dân”. Như vậy, một cán bộ hay một đảng viên của Đảng, tuỳ theo vị trí cụ thể của mình trong quan hệ công tác hay trong một việc cụ thể, có lúc là người dân, có lúc không trong “tập hợp nhân dân”./.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

25

Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất Vào những ngày này, đồng bào, đồng chí cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, bằng những việc làm cụ thể để thiết thực kỷ niệm 115 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, Người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam; Người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tức Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Người sáng lập, lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất, Người chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực và Người bạn thân thiết của các dân tộc đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.

Năm nay, nhân dân ta tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm lần thứ 115 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Mình để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với Người. Kỷ niệm Ngày sinh của Người chính là dịp để chúng ta tiếp tục khẳng định ý chí sắt đá của toàn dân tộc đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, tiếp tục giương cao ngọn cờ Hồ Chí Minh, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, học tập tư tưởng, đạo đức, tác phong, lề lối làm việc của Người, vững bước đi theo con đường mà Người đã chỉ ra, ra sức phấn đấu để hoàn thành sự nghiệp lớn lao mà Người đã truyền lại, biến “ham muốn tột bậc" và hoài bão lớn lao của Người thành hiện thực. Một trong những tài sản vô giá mà Người để lại cho dân tộc ta, cho thế hệ chúng ta và các thế hệ mai sau là Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống những quan điểm toàn diện, nhất quán và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là từ cách mạng dân tộc, dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa; là độc http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

26

lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là cuộc cách mạng thuộc địa từ giải phóng dân tộc đến giải phóng xã hội, giải phóng con người... Trong hệ thống những quan điểm đó nổi tên Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất. Tư tưởng thấm đượm truyền thống văn hóa dân tộc và nhân văn sâu sắc đó đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng nhất, bảo đảm thắng lợi của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ 20 và sẽ trường tồn với thời gian. Nghiên cứu lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến một nhận định: ''Sử ta dạy cho ta bài học này. Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn". Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, kết hợp nhuần nhuyễn luận điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng'' của chủ nghiã Mác - Lê-nin với tư tưởng “dân là gốc'' của ông cha, Người đã đưa ra một chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, vì đại nghĩa dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh - biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, linh hồn của tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đã luôn luôn phấn đấu cho chân lý đó. Nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy: Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể là cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, song tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn là tư tưởng cơ bản, nhất quán, là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Người.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

27

Trong lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, thay mặt Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm tám chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” Theo quan điểm của Người, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết “mọi người mang trong mình dòng máu con Lạc, cháu Hồng”, là đoàn kết “mọi con dân đất Việt”, đoàn kết “mỗi một người con Rồng, cháu Tiên”. Đây không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà cũng là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, vì nó là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển hóa những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Và chính Người đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp đó. Nghiên cứu những bài viết, bài nói của Người, ta thấy hầu như không bài nào vắng bóng những từ đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Trên cương vị và uy tín của mình, Người đã dành khá nhiều thời gian viết thư gửi nam, phụ, lão, ấu, đồng bào các dân tộc, công nhân, nông dân, bộ đội, nhân sĩ, trí thức, giới công thương, Việt kiều, đồng bào các tôn giáo, v.v. nhằm duy trì và mở rộng khối đại đoàn kết. Đối với đồng bào các dân tộc, Người kêu gọi: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay E-đê, Xê Đăng hay Ba

Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.

Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu giây liên lạc, hai là vì có kẻ xúi giục để chia rẽ chúng ta.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

28

Ngày nay, nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta” ( Trích thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền nam tại PLây Cu ngày 19-41946) Và chính vì thế mà trên thế giới này hiếm có quốc gia nào đồng bào các dân tộc lại coi lãnh tụ của mình là ''Cha già dân tộc" lúc còn sống cũng như khi đã qua đời như dân tộc Việt Nam đối với Bác Hồ. Muốn đoàn kết rộng rãi phải biết khoan dung độ lượng. Khoan dung, độ lượng là phẩm chất cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là điều kiện quan trọng đề tập hợp hết thảy mọi lực lượng mà Người đã rêu ra.

Điều đó được nêu trong bức thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 31-5-1946: ''Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi! Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vì vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang...” Trong thư gửi các linh mục và đồng bào công giáo Việt Nam ngày 25-12- 1945, Hồ Chủ tịch viết: ''Trong lịch sử Việt Nam ta, lần này là lần đầu mà đồng bào

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

29

công giáo ta làm lễ Nô- en một cách vui vẻ sung sướng trong nước Việt Nam độc lập, tự do. Người tin rằng: “Đồng bào công giáo quyết một lòng với nhân dân toàn quốc để giữ vững nền tự do độc lập đó”. Gửi thư cho Hội Phật tử Việt Nam ngày 30-8-1947, Người cảm ơn sự đóng góp của đồng bào phật tử trong cuộc kháng chiến cứu nước và mong đồng bào đoàn kết, cố gắng thêm, cố gắng mãi cho đến ngày trường kỳ kháng chiến thắng lợi, thống nhất và độc lập thành công. Gặp gỡ Việt kiều ở Pháp năm 1946, Bác căn dặn mọi người đoàn kết, giúp nhau tiến bộ, cố gắng học một nghề gì có ích để phục vụ dân tộc. Một sáng tạo lớn, một cống hiến quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam cho dân tộc, cho giai cấp, cho phong trào giải phóng dân tộc, phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, là việc thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất. Trong tư duy cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Dân tộc thống nhất là cái cốt vật chất, là điều kiện tiên quyết giúp cho việc chuyển hóa đại đoàn kết dân tộc từ sức mạnh tinh thần tiềm ẩn thành sức mạnh vật chất hiện thực, thành lực lượng có tổ chức.

75 năm trước đây, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, ngày 18-11-1930 Hội Phản đế đồng minh, hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất ở nước ta ra đời theo tư tưởng Hồ Chí Minh, do Đảng Cộng sản Đông Dương khởi xướng và lãnh đạo, đã đánh dấu sự phát triển về chất phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta. Kế tục sự nghiệp vẻ vang của Hội Phản để đồng minh (1930-1936) và của Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939), Mặt trận Việt Minh do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập (19-5-1941) đã tập hợp các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và các tổ chức cứu quốc, đoàn kết, động viên toàn dân nổi dậy http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

30

giành chính quyền, đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn kết trong Mật trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng một nửa đất nước. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc, trong Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ hòa bình Việt Nam, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước. Cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, Mặt trận Dân tộc thống nhất đã không ngừng củng cố, mở rộng, với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, phù hợp với nhiệm vụ cách mạng của mỗi thời kỳ. Mặt trận Dân tộc thống nhất đã có những cống hiến xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc và trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng... Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ quan điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được cụ thể hóa bằng Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trương: “Đoàn kết rộng rãi, đoàn kết mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, trong nước hay ở nước ngoài, đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất vì ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đoàn kết giữa nhân dân ta với nhân dân các nước trên thế giới, kết hợp sức

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

31

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là nhiệm vụ lịch sử nặng nề nhưng rất vẻ vang của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của mọi người Việt Nam yêu nước, thương nòi”. Mỗi lần kỷ niệm Ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh là một dịp để nhân dân ta, trước hết là cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập để quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người. Đây là một việc làm rất quan trọng. Song điều quan trọng hơn, cấp bách hơn đối với tất cả chúng ta lúc này là vận dụng tư tưởng, đạo đức, tác phong và lề lối làm việc của Người vào cuộc sống hiện nay. Hãy phát huy cao sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì sự phồn vinh của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

32

Tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Giữa thế kỷ XIX, nhân dân Việt Nam điêu đứng trong cảnh ngộ mất nước, bị xóa tên trên bản đồ thế giới, bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hóa, bị đày đọa trong đói rách và bệnh tật. Toàn xã hội Việt Nam đặc biệt là tầng lớp lao động lâm vào số phận bi thảm, quyền sống và mọi quyền con người bị chà đạp. Khát vọng giải phóng được ấp ủ từ lâu trong dân tộc Việt Nam càng thêm nung nấu và trở thành vấn đề sống còn. Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những người Việt Nam nhiệt thành yêu nước, đã từng ao ước hướng vào các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân và chống thuế ở Trung kỳ…, đã từng hy vọng vào ngọn cờ của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… nhưng đau xót thay mọi sự nỗ lực gắng gỏi của các thế hệ tiền bối đều không đi đến kết quả. Đối với Hồ Chí Minh, mặc dù khi đó chưa lý giải được thấu đáo nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX song Người đã nhận thấy ở các nhà ái quốc tiền bối còn có những lầm lẫn, mơ hồ trong việc phân biệt bạn thù, trong việc tập hợp lực lượng, xây dựng phong trào cách mạng ... Hồ Chí Minh trân trọng mọi công phu tìm kiếm, khâm phục tâm huyết của các bậc tiền bối, nhưng thấy rõ tất cả các con đường đã được chọn đều không có hiệu quả. Vì vậy, Người quyết định xuất dương để xem xét thế giới, quan sát cuộc sống của các dân tộc, nghiên cứu cách làm của các nước, cốt tìm ra con đường cho dân tộc Việt Nam tự giải phóng mình. Những năm tháng bôn ba ở nước ngoài để tìm chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã thâm nhập sâu sắc đời sống và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước TBCN, của các dân tộc bị áp bức bóc lột ở thuộc địa. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn đã giúp Người nhận thức một sự thật: giới cần lao và các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

33

thắng lợi, bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước “chính quốc”, chưa có tổ chức. Từ nhận thức khoa học này, Hồ Chí Minh đã làm tất cả từ tuyên truyền, thức tỉnh, đến vận động, đến tổ chức dể làm xây dựng một chiến lược đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trên con đường hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh tiếp tục tìm tòi, kiểm nghiệm những cơ sở lý luận thực tiễn trên một quy mô, phạm vi rộng lớn để dần dần xây dựng những luận điểm đầu tiên về đại đoàn kết đó là những luận điểm về sự cần thiết phải kết hợp cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, về sự cần thiết phải có một chính đảng của giai cấp công nhân để đoàn kết các lực lượng yêu nước, cách mạng ở thuộc địa và cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa thực dân; về vai trò của liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Những luận điểm này được phản ánh trong các bài viết của Người đăng trên Tạp chí Cộng sản (bản tiếng Pháp) số 18, 19 năm 1921, trên các báo “ Le Pari” (Người cùng khổ), “Luymanitê” (Nhân đạo), tạp chí “Thư tín quốc tế”, “Đời sống công nhân”…, trong các bài tham luận của Người tại Đại hội Nông dân quốc tế (1923), (trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp) Người viết: “Đối với tôi câu trả lời được rõ ràng: trở về nước đi vào quần chúng thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”, Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924) Người đã tuyên bố rõ: “lao động tất cả các nước! đoàn kết lại”. Nhận thức được sức mạnh đoàn kết, vai trò của đại đoàn kết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng hình thành một mặt trận đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân lao động ở các nước có bọn thực dân đi xâm lược với nhân dân các dân tộc bị xâm lược, Người coi khối liên minh đó là một trong những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.

Các nhà yêu nước tiền bối chưa thấy được số phận của các dân tộc bị áp bức khác cũng đau khổ, tủi nhục như nhau, có chung một nguyện vọng là phấn đấu http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

34

cho tự do, độc lập của dân tộc mình. Hồ Chí Minh từ những năm 20 đã thấy rõ điều đó và Người đã nỗ lực phấn đấu để góp phần tích cực xây dựng mặt trận đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc bị áp bức để chông kẻ thù chung. Hội Liên hiệp thuộc địa (ở Pháp), “Hội các dân tộc bị áp bức” của các nước châu á, mà chính Người đã tham gia sáng lập. Trước Hồ Chí Minh trên thế giới chưa bao giờ hình thành một khối liên minh ấy. Hầu hết các nhà yêu nước tiền bối đều dựa vào tầng lớp trên làm nòng cốt cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, coi quần chúng nhân dân chỉ đóng vai trò thứ yếu. Hồ Chí Minh trong khi lấy “công nông là gốc của cách mạng” lại vẫn sẵn sàng mở rộng cửa đón tiếp những người thuộc tầng lớp trên có tinh thần yêu nước vào Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc vì độc lập tự do của tổ quốc. Mặt trận Việt minh (1941), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sau này chính là biểu hiện của tinh thần ấy. Là người quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo những luận điểm của MacLênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú những luận điểm ấy trong thời đại mới. Người đã rút ra một kết luận quan trọng là: “trong điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng của thời đại ngày nay, bất cứ một dân tộc nào dù nhỏ, nhưng nếu đoàn kết chặt chẽ và kiên quyết chiến đấu theo đường lối chính trị và quân sự đúng đắn lại được sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe XHCN và của nhân dân cách mạng thế giới thì có thể đánh thắng bất cứ bọn đế quốc nào, kể cả tên đầu sỏ là đế quốc Mỹ ”. Kết luận nổi tiếng ấy của Người được nêu ra trong lúc đế quốc Mỹ đang ào ạt đưa hàng chục vạn quân và hàng triệu tấn vũ khí vào miền Nam Việt Nam, loài người đang hồi hộp lo lắng cho số phận của dân tộc Việt Nam trước sự xâm lược của tên đế quốc đầu sỏ, lại càng có ý nghĩa trọng đại. Nó chẳng những củng cố niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của các dân tộc bị bọn đế quốc xâm lược, mà còn nêu lên một chân lý có tính thời đại về sự chiến đấu để bảo vệ thiêng liêng quyền dân tộc mình.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

35

Tự nhận lấy trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử trước đất nước, dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh vô cùng thấm thía giá trị của đại đoàn kết. Sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước năm 1941 trở về Cao Bằng, Hồ Chí Minh trong tay không có vũ khí, không có quân đội nhưng Người đã một cẩm nang thần kỳ, cống hiến cho dân tộc. “Dân ta muốn sống chỉ có một đường là đoàn kết lại để đánh Tây, đuổi Nhật” và truyền cẩm nang đó qua một trong nhiều phương tiện như báo Việt Nam độc lập số 102. Ngay từ số báo đầu tiên Bác đã khẳng định rõ: “Mau mau đoàn kết cùng nhau

Để đánh Tây, đánh Nhật, để lo tự cường”. Một lời kêu gọi thiết tha như thấy từ sâu thẳm đáy lòng yêu nước của Người. “Đoàn kết lại đồng bào ta ơi!

Trước thời cứu nước sau thời cứu dân.” Không một số báo Việt Nam độc lập nào trong những năm 1941- 1942 lại không có những lời kêu gọi, căn dặn, yêu cầu, mong mỏi, hướng dẫn, vận động toàn dân đoàn kết xung quanh Hội Việt Minh. Đoàn kết trong một tổ chức, trong một mặt trận đó là vũ khí mạnh nhất, không vũ khí nào, không ai thắng nổi. Không chỉ có kêu gọi, mà Hồ Chí Minh còn viết hàng loạt thơ ca như: Hòn đá, Dân cày, Công nhân, Phụ nữ, Ca binh lính, Ca sợi chỉ, Con Cáo và tổ Ong v.v… với tinh thần cốt lõi là kêu gọi toàn dân ta: “Đoàn kết vững bền như khối sắt

Để cùng nhau cứu nước Nam ta”. Với tư tưởng đó của Hồ Chí Minh được thể hiện rất đậm nét trong bài diễn ca Lịch sử nước ta, với hơn 200 câu lục bát truyền thống của dân tộc. Hồ Chí Minh đã tái hiện lại dòng lịch sử dân tộc, làm sống lại trong lòng người dân đất Việt những mốc son chói lọi; nêu cao những chiến công hiển hách của cha anh, khơi

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

36

dậy lòng tự hào dân tộc, đồng thời động viên lớp lớp cháu con noi gương các bậc tiền bối đứng lên đánh đuổi giặc thù: “…Bất kỳ nam nữ nghèo giầu

Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn Người giúp sức, kẻ giúp tiền Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta…” Hồ Chí Minh còn dùng những hình ảnh sinh động có thực, với lý lẽ sắc bén, phân tích những đúng, sai, lợi, hại nhằm tuyên truyền giáo dục, thuyết phục lôi cuốn tập hợp quần chúng cách mạng lên đường tranh đấu. Vì thế, Hồ Chí Minh luôn nghĩ rằng: trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân nên toàn dân ta đồng tình đồng sức, đồng lòng sẽ tạo nên sức mạnh kỳ diệu và hùng hậu, thành phong trào cách mạng sôi sục để đánh đuổi Nhật - Pháp cứu nước, cứu nhà. Sức mạnh đó đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong bài thơ Nhóm lửa viết năm 1941. Và đúng như lời tiên đoán của Người chỉ 4 năm sau, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân ta đã tập hợp thành lực lượng to lớn trong Mặt trận Việt Minh giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Bằng tinh thần quyết chiến, quyết tháng, vượt qua bao khó khăn, thử thách, nhân dân ta đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám long trời lở đất, đưa dân tộc ta từ kiếp lầm than nô lệ sang kỷ nguyên độc lập tự do và CNXH. Đầu năm 1951, phát biểu tại Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công.” Như vậy, theo Hồ Chí Minh đoàn kết càng rộng rãi, đoàn kết càng chặt chẽ thì thắng lợi càng to, thành tích càng lớn. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng chứng minh sự khẳng định này của Người là hoàn toàn đúng.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

37

Cách mạng tháng Tám thành công, 9 năm kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hơn 20 năm chống Mỹ cứu nước toàn thắng, góp phần cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở á, Phi, Mỹ Latinh. Tất cả những chiến công lịch sử phi thường ấy của nhân dân ta không thể không kể đến công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh- Người anh dùng kiệt xuất của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bởi lẽ trong suốt quá trình đấu tranh, nhất là vào những lúc diễn ra bước ngoặt của cách mạng thì tầm nhìn xa, trông rộng của Hồ Chí Minh; tư tưởng bất tử: “Không có gì qúy hơn độc lập tự do” của Người; những chủ trương quyết đoán và sáng suốt của Người; tài năng động viên và tổ chức tuyệt vời của Người; phương pháp cách mạng vừa sắc bén vừa mềm dẻo, linh hoạt với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người, thực sự là những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng là hạt nhân đoàn kết của các dân tộc bị áp bức, đã thúc đẩy cuộc giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX giành thắng lợi, đã từng mơ ước “Bốn phương vô sản đều là anh em”. Tinh thần đoàn kết đó không bó hẹp trong một nước Việt Nam. Người lấy mục tiêu hoà bình, tự do, bình đẳng, bác ái, ấm no, hạnh phúc cho tất cả những Người lao động và tiến bộ thuộc mọi giống nòi, không phân biệt màu da, chủng tộc làm điểm tương đồng để thực hiện sự liên minh thống nhất đoàn kết quốc tế. Người đã rút ra bài học lớn: “đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đoàn kết quốc tế để thế giới ủng hộ, giúp đỡ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng”. Và Người luôn luôn khẳng định: “lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng Người đã để lại bản Di chúc cho toàn Đảng, toàn dân ta. Người nhấn mạnh về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Những dòng cuối cùng của Di chúc Người viết: “điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

38

Đó là những bài học quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo thành công mang ý nghĩa thực tiễn để góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bó đuốc soi đường, dẫn lối cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ miền Nam đến miền Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, từ trong nước đến nước ngoài tiến lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt với đại thắng mùa xuân 1975 đã mở ra một kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất và tiến lên CNXH. Ba mươi năm đã trôi qua kể từ thắng lợi vẻ vang đó, đất nước Việt Nam độc lập thống nhất đã tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử, giành những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Ngày nay, tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang vẫy gọi chúng ta tiếp tục vững bước tiến lên để thực hiện bằng được “mục tiêu chung là củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN” mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương VII khoá IX đã chỉ rõ.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

39

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc Yêu nước, thương nòi và đoàn kết gắn bó với nhau là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam, là cái cốt lõi có sức sống trường tồn của nền văn hoa Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó được bồi đắp và phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh, gắn liền với tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Người. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; về tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường; về Đảng và Nhà nước; về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về phương pháp cách mạng... đều thấy sâu đậm tư tưởng đại đoàn kết được hòa quyện trong đó. Vĩnh biệt chúng ta, Bác Hồ để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một bản Di chúc lịch sử. Đó là những lời căn dặn cuối cùng của Người, là tình cảm và niềm tin yêu tha thiết của Người đối với các thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Trong Di chúc thiêng liêng đó, toát lên tư tưởng đại đoàn kết mà Người đã dày công vun đắp và thắp sáng cả về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta. Bản Di chúc không dài, Bác đã sử dụng tám lần từ “đoàn kết”. Một nhóm tác giả nghiên cứu tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố trong toàn bộ 1.921 bài viết, bài nói in trong toàn tập Hồ Chí Minh, đã có tới 839 bài đề cập vấn đề đại đoàn kết (chiếm 43,6% tổng số bài) và đã sử dụng từ “đoàn kết” và “đại đoàn kết” tới 1.809 lần trong các trang sách.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

40

Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc bao gồm đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công thành công, đại thành công”. Trong Di chúc Người căn dặn trước hết là phải củng cố sự đoàn kết trong Đảng. Trong Đảng phải đặt “đoàn kết” lên hàng đầu, và “điều mong muốn cuối cùng” của Người vẫn là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết. Học tập tư tưởng đại đoàn kết trong Di chúc của Bác Hồ càng thấy ý nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, nhằm phát huy mạnh mẽ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Muốn phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, trước hết phải “củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người đã khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lại này đến thắng lợi khác”. Vì vậy Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Một yếu tố quan trọng để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân lộc là “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”, “mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Chỉ có như vậy, chúng ta mới mở rộng dân chủ xã hội; môi trường tư tưởng văn hóa trong xã hội mới đồng thuận và lành mạnh, đây là cơ sở để phát triển bền vũng đất nước và nuôi dưỡng cho sức mạnh đại đoàn kết - sức mạnh trường tồn của dân tộc Việt Nam. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp việc thực hiện đại đoàn kết và sinh hoạt dân chủ trong xã hội. Bác Hồ đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế và văn hóa là nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người còn quan tâm chính sách cụ thể đối với từng tàng lớp nhân dân lao động ở miền xuôi cũng như miền núi, chính http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

41

sách với nông dân, với gia đình có công với nước, với lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong, với phụ nữ, với thế hệ trẻ và cả đối với những người từng phục vụ trong chế độ cũ... Ý chí quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam là yếu tố rất quan trọng đã bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn đang ở thời kỳ khó khăn ác liệt, Di chúc của Bác đã dự báo và khẳng định “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”... Sáu năm sau, dự báo ấy, ý chí và niềm tin tất thắng ấy đã trở thành hiện thực (tháng 5-1975). Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã bắt tay ngay vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhưng thành tựu to lớn, toàn diện và rất quan trọng. Đất nước đã ra khối khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, vai trò của Mặt trận và khối đại đoàn kết toàn dân do Đảng lãnh đạo được củng cố và tăng cường, vị thế của dân tộc ta, đất nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy vậy, so với những lời căn dặn và mong muốn trong Di chúc của Bác Hồ, chúng ta tự thấy việc thực hiện còn nhiều thiếu hụt và khuyết điểm. Kinh tế phát triển chưa tương xứng với khả năng, sức cạnh tranh còn yếu. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng viên chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đời sống nhân dân, nhất là ở miền núi còn nhiều khó khăn, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân có mặt giảm sút, vai trò của Mặt trận và đoàn thể nhân dân cả về nhận thức và thực hành chưa được thể hiện trên thực tế ở nhiều cấp. Đoàn kết và dân chủ trong Đảng và trong xã hội chưa được phát huy đầy đủ.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

42

Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng quan tâm và dày công xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Người là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh và 36 năm ngày công bố Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (10-5-1969 - 10-5-2005), ghi nhớ lời thề danh dự trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Hết lòng hết sức giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Toàn Đảng, toàn dân, và toàn quân nguyện biến lời thề đó thành hành động thực tế, ra sức củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững mạnh, không ngừng mở rộng và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu quý.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

43

Một số luận điểm về đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh Tháng 9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt dần dần đi đến đầu hàng, nhưng nhân dân Việt Nam không chịu khuất phục đã nổi dậy đấu tranh quyết liệt chống lại bọn cướp nước và bè lũ bán nước. Song, tất cả các phong trào đấu tranh của nhân dân ta đều bị thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa có đường lối đúng đắn của giai cấp tiên tiến lãnh đạo. Chính trong bối cảnh ấy, tháng 6-1911, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Khác với mục đích ''cầu viện'' dựa vào sự giúp đỡ nước ngoài để đánh Pháp giành độc lập cho dân tộc như Phan Bội Châu và một số nhà yêu nước khác. Với Hồ Chí Minh, như Người đã nói: ''Tôi muốn đi ra ngoài xem nưởc Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta''. Trên cơ sở nhận thức thời đại mới được mở đầu bằng cách mạng tháng Mười Nga 1917, vượt qua sự hạn chế của chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng đương thời, Người đã sớm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức. Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người chỉ rõ: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''; xác định rõ các mối quan hệ mới của cách mạng Việt Nam: quan hệ với cách mạng vô sản, quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc. Theo Người, muốn thực hiện đoàn kết quốc tế điều đầu tiên là phải xác lập vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Mỗi một quốc gia, dân tộc không thể phát triển được nếu như không mở rộng quan hệ với thế giới bên ngoài. Vậy muốn

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

44

quan hệ được trước hết phải làm cho thế giới hiểu biết Việt Nam. Vì lúc này, thực dân Pháp đã bưng bít, xoá tên Việt Nam trên bản đồ thế giới. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến Hội nghị ''hoà bình'' Vecxay ''Bản yêu sách của nhân dân An Nam'' trong đó có điểm yêu sách là: Người Việt Nam có quyền tự do xuất ngoại và đi du lịch nước ngoài. Phải nói đây là lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc xuất hiện trên vũ đài quốc tế và Người đã sát cánh cùng các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho sự bình đẳng, hợp tác quốc tế. Sự kiện này đã gây tiếng vang lớn, hướng sự chú ý của thế giới vào Việt Nam. Qua việc đưa yêu sách không chỉ Pháp, các nước tham dự Hội nghị và nhiều nước khác đã biết đến Việt Nam. Cũng từ đây đã làm cho vị trí Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng củng cố và phát triển. Chính Hồ Chí Minh là người đã mở cửa Việt Nam ra thế giới đặt nền móng cho mối quan hệ đoàn kết quốc tế. Từ rất sớm Người đã tìm thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của phong trào Việt Nam trước khi Đảng ra đời là ''nhân dân ta không hiểu tình hình thế giới''. Người còn chỉ rõ tình hình biệt lập, khép kín không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn là tình trạng chung của những nước phương Đông. Những nhận thức trên rút ra từ quá trình gần 20 năm vận động, kiểm nghiệm trên nhiều nước. Năm 1924 trong thư gởi đại diện quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh nêu: ''Tôi đã ngẫm nghĩ từ lâu về nguyên nhân đầu tiên đã dẫn tới sự suy yếu của các dân tộc phương Đông đó là sự biệt lập''. Ngoài nhận thức trên, Người cũng đã sớm xác định, cuộc đấu tranh của chúng ta là bộ phận của cách mạng thế giới. Như vậy, từ lời phát biểu đầu tiên tại Đại hội Tua (12- 1920) trở về sau, Người luôn khẳng định cuộc cách mạng của các dân tộc bị áp bức đều có quan hệ với nhau. Thứ hai, tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh đòi hỏi phải định rõ đoàn kết với ai, chống lại ai, đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến thắng lợi của cách mạng.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

45

Như ta đều biết, trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đi nhiều nước thuộc địa cũng như nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực, khốn cùng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Từ đó Người đã đưa ra kết luận quan trọng: Ở đâu, dù ở các nước thuộc địa, phụ thuộc hay chính quốc, những người lao động đều bị bóc lột, áp bức nặng nề, ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác. Người nêu ra: ''Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản''. Kết luận trên cực kỳ quan trọng, đây là khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh đoàn kết với những người lao khổ cần lao trên thế giới. Từ kết luận trên, Người đã phân biệt rõ bọn thực dân đế quốc với nhân dân lao động ở chính quốc. Người nêu lên: thực dân đế quốc là kẻ thù chung của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính quốc. Bởi vậy, đòi hỏi sự đoàn kết liên minh nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc để chống lại kẻ thù chung. Trong lời kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa Pháp, Người đã nêu: ''Những người gây ra sự lầm than cho các bạn và giữ các bạn trong cảnh khổ đó để lợi dụng chỉ là một số ít, chúng có quyền hành vì chúng giàu. Chúng tôi là số đông và đang đấu tranh chống lại chúng vì chúng tôi cũng như các bạn là nạn nhân của sự tàn bạo của chúng, mối quan hệ giữa chúng tôi với các bạn, sẽ là những mối quan hệ đoàn kết và liên minh''. Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa Người nêu: ''Hỡi các bạn bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp tư sản trong nước các bạn đã lừa dối các bạn, dùng các bạn làm công cụ đi xâm lược đất nước chúng tôi. Ngày nay, vẫn dùng các chính sách quỷ quyệt ấy, giai cấp tư sản nước các bạn lại định dùng chúng tôi để đàn áp mọi cố gắng tự giải phóng của các bạn. Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc quyền lợi của chúng ta là thống nhất, các bạn hãy nhớ lời kêu gọi của Các Mác: ''Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại''. Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên hình tượng chủ nghĩa tư bản là con đỉa hai vòi. Một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Muốn giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu chỉ cắt một vòi thì vòi còn lại tiếp tục hút máu và http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

46

vòi bị cắt tiếp tục mọc ra. Điều đó cho chúng ta thấy nhiệm vụ chống chủ nghĩa tư bản đánh đổ chúng là nhiệm vụ của nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải đoàn kết cả hai lực lượng nói trên. Về sự liên minh đoàn kết đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc hiện tại đặt nền móng trên sự bóc lột hàng triệu người lao động ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Bởi thế, nó chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ được nền móng đó của lâu đài đế quốc chủ nghĩa. Vì lẽ đó, các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì chỉ bằng cách đoàn kết chặt chẽ để chống kẻ thù chung. Là người dân thuộc địa Người thấy được khả năng tiềm tàng tin tưởng vào sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi cuộc đấu tranh của họ. Thứ ba, nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản và công nhân ở chính quốc. Để thực hiện sự đoàn kết giữa nhân dân lao động chính quốc và nhân dân lao động thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đòi hỏi các Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân ở chính quốc phải có hiểu biết đúng về thuộc địa và có sự giúp đỡ thiết thực đối với những người anh em thuộc địa. Trên tinh thần đó, Người đã nghiêm khắc phê phán một số Đảng Cộng sản chưa có chính sách và hành động tích cực giúp đỡ các thuộc địa. Thứ tư, xác định lập trường của đoàn kết quốc tế. Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng được khối đoàn kết quốc tế phải dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Ngay từ năm 1923, Người đã chỉ ra: ''Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui hoà bình hạnh phúc, tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cách những người lao động trên thế http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

47

giới hiểu nhau và yêu thương nhau''. Như vậy, chỉ có đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin thì mới đảm bảo sự đoàn kết thực sự chân chính. Thứ năm, tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh còn chỉ ra những điều kiện, nguyên tắc, hình thức tập hợp lực lượng. Muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế phải có chính Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân lãnh đạo. Bởi lẽ, chỉ có Đảng mới vạch ra được đường lối và có khả năng tập hợp lực lượng, chịu trách nhiệm thực hiện được đoàn kết rộng rãi lực lượng trong nước cũng như quốc tế. Làm được điều đó vì Đảng được vũ trang bằng lý luận khoa học tiên tiến nhất, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Xem xét đối tượng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh xác định rất rõ ràng. Đó là các lực lượng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; lực lượng phong trào giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc; phong trào hoà bình và tiến bộ trên thế giới. Tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh không những để giải phóng dân tộc mình mà còn giải phóng cho các dân tộc bị áp bức mang lại tự do bình đẳng thật sự cho dân tộc quốc tế. Bởi vậy, đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nguyên tắc này sẽ giúp chúng ta giải quyết nhiều mối quan hệ chồng chéo phức tạp để đi đến đoàn kết, đó là giữa các Đảng Cộng sản với nhau, giữa dân tộc này với dân tộc khác... Để có được đoàn kết quốc tế phải thông qua hoạt động thực tiễn và gắn liền với các hình thức tổ chức thích hợp nhằm tập hợp lực lượng. Chính vì lẽ đó trong thời gian ở nước ngoài, Người đã tham gia tích cực phong trào cách mạng của công nhân Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc... từng bước xây dựng nhiều tổ chức quốc tế như: Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông (1925)... là nhà cách mạng hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp, quốc tế III, các quốc tế nông dân, thanh niên, phụ nữ… thường xuyên mở rộng với nhiều chính khách, các nhà hoạt động xã hội... tất cả mọi hoạt động nói trên của Ngưới đều hướng vào mục tiêu thêm bạn cho cách mạng Việt Nam. Thứ sáu, mối quan hệ dân tộc và quốc tế. Nhận thức đúng đắn thời đại mới - thời đại cách mạng vô sản, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới; cách mạng Việt Nam chỉ thắng lợi một khi nó hoà http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

48

chung vào làn gió thời đại, hoà chung vào dòng chảy tiến trình phát triển của nhân loại. Cách mạng Việt Nam phải có trách nhiệm và bước phát triển chung của nhân loại. Muốn góp phần vào bước tiến của cách mạng thế giới, cách mạng mỗi nước nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải hoàn thành tốt những yêu cầu của cách mạng nước mình. Việc kết hợp giữa dân tộc và quốc tế trước hết là phục vụ mục tiêu độc lập tự do cho Tổ quốc. Trên đây là một số luận điểm về đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta đã vận dụng và phát triển và đã trở thành một trong những nhân tố dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

49

Quán triệt quan điểm Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, lý luận trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác tư tưởng, lý luận của Đảng và thường xuyên nhấn mạnh công tác quan trọng này phải dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn cách mạng của Đảng, của dân tộc. Những luận điểm quan trọng của Người về vị trí, vai trò nội dung công tác tư tưởng, lý luận; nguyên tắc, phương châm công tác tư tưởng, lý luận là cơ sở để Đảng ta đề ra nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Về công tác tư tưởng, Hồ Chí Minh chú trọng chỉnh huấn tư tưởng trong cán bộ, đảng viên. Thực tế trong Đảng, bên cạnh đa số đảng viên gương mẫu, tận tâm, tận lực phục vụ cách mạng, vẫn còn một bộ phận không nhỏ mắc sai lầm, khuyết điểm như không làm đúng chủ trương, chính sách của Đảng, chủ nghĩa cá nhân, hữu khuynh, tả khuynh trong công tác... Mặc dù khuyết điểm nhiều, ít, to, nhỏ khác nhau, nhưng nguyên nhân chính dẫn đến khuyết điểm là “vì trình độ lý luận thấp, vì không thật thà nghiêm khắc tự phê bình”, đã gây ảnh hưởng không nhỏ trong công tác. Vì thế, cán bộ cần phải được chỉnh huấn, trong đó phải hết sức coi trọng chỉnh huấn tư tưởng. Người chỉ rõ: Đảng cần phải giáo dục và yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận, mở rộng tự phê bình và phê bình, đấu tranh với những tư tưởng “phi vô sản” để nâng cao tư tưởng cách mạng, củng cố lập trường, rửa gột khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Có hai thứ vũ khí sắc bén để giúp cán bộ, đảng viên cải tạo tư tưởng: cố gắng học tập lý luận gắn liền với thực hành; thật thà tự phê bình và phê bình. Trong phê bình và tự phê bình phải đảm bảo dân chủ. Với tinh thần đó, tất cả các đảng viên của Đảng “phải đào cho đến tận gốc rễ những sai lầm”.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

50

Một trong những yêu cầu quan trọng của Đảng cách mạng chân chính là phải có những cán bộ Đảng hiểu biết lý luận cách mạng, gắn chặt lý luận với thực hành. Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể về nội dung, phương pháp và nguyên tắc giáo dục lý luận Mác-Lênin. Nội dung giáo dục lý luận phải xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng từ trình độ và năng lực thực tiễn của cán bộ trong từng thời kỳ cách mạng. Người nêu rõ sự cần thiết phải học tập lý luận CNXH khoa học và đường lối xây dựng CNXH ở Việt Nam. “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đảng viên và cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản thật vững chắc, giác ngộ về chủ nghĩa xã hội cao... rửa sạch ảnh hưởng của những tư tưởng của giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện chủ nghĩa tập thể... khắc phục các bệnh quan liêu và cô độc hẹp hòi để liên hệ chặt chẽ với quần chúng, do đó mà phát huy được đầy đủ tính sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn thế, phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, phải tổ chức học tập lý luận trong Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán của Đảng. Về phương pháp học tập lý luận, Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu “...chỉ đem tý luận khô khan nhét cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích”; do đó, “... trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo. Thế là lý luận thiết thực, có ích”. Việc giáo dục lý luận cho cán bộ, đảng viên phải đảm bảo tuân theo một số nguyên tắc cơ bản: thiết thực, chu đáo; giáo dục từ dưới lên trên; gắn lý luận với thực tiễn; nhằm đúng nhu cầu; chú trọng cải tạo tư tưởng. Một trong những nguyên tắc được Hồ Chí Minh nhấn mạnh là lý luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, nói đi đôi với làm. “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Thực tiễn không có lý luận http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

51

hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Hồ Chí Minh đề cao nguyên tắc “Phải biết tự động học tập”, ra sức học tập, học tập cái mới, tìm tòi cái mới và thực hiện cái mới với thái độ học tập lý luận đúng đắn, nghiêm túc. Thái độ học tập lý luận khiêm tốn thật thà, tránh kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn; tự nguyện, tự giác, coi học tập lý luận là nhiệm vụ cơ bản của cán bộ, đảng viên; nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng; bảo vệ chân lý; thật sự đoàn kết, thật thà tự phê bình và mạnh dạn phê bình, giúp nhau tiến bộ. Một điều Hồ Chí Minh lưu ý trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng là không nên chỉ chú trọng nội dung, phương pháp, nguyên tắc giáo dục tư tưởng, lý luận cho cán bộ, đảng viên mà còn phải chú ý đến đông đảo quần chúng nhân dân, củng cố nâng cao tư tưởng, tình cảm tốt đẹp của nhân dân với nhiệm vụ xây dựng đất nước, với chế độ XHCN. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng và công tác lý luận của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng. Hai mặt tư tưởng và lý luận trong Đảng phải gắn liền thống nhất với nhau, không xem nhẹ hoặc quá coi trọng một mặt nào. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, lý luận trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn xác định công tác tư tưởng, lý luận là một trong những hoạt động trọng yếu nhất nhằm xác lập, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng mà cốt yếu là hệ tư tưởng XHCN. Đây là lĩnh vực tác động trực tiếp đến công tác xây dựng, củng cố và phát triển Đảng, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới. Cần nhấn mạnh một số điểm sau: - Công tác tư tưởng, lý luận là bộ phận hữu cơ trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, đảm bảo cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững vai trò tiên phong, nâng cao đạo đức, trí tuệ, có đủ năng lực hoạch định đường lối, chiến lược, sách lược đúng đắn, sáng tạo, đưa cách mạng Việt Nam vững bước tiến lên. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

52

- Tiến hành công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới nhằm củng cố niềm tin, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. - Đẩy mạnh công tác tư tưởng, lý luận là không ngừng củng cố vững chắc nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lao động để thống nhất nhận thức và quyết tâm đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội về chính trị, phản động, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, bảo vệ chế độ XHCN. - Vai trò quan trọng và sụ phát triển của lý luận ngày nay đòi hỏi Đảng ta phải đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ lý luận có năng lực, có trình độ cao, có khả năng phát hiện và sáng tạo trong công tác. Cần đầu tư nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để tìm ra nguyên nhân của việc chống suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, lãng phí... còn kém hiệu quả. Trong mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện thành công đổi mới, chỉnh đốn Đảng, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của Đảng trong giai đoạn hiện nay, thì việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của Đảng có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, mang ý nghĩa quyết định. Đảng tiến hành đổi mới về tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, đổi mới về nội dung, phương thức tiến hành công tác tư tưởng, lý luận đổi mới gắn liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tu tưởng, lý luận đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

53

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận dụng tư tưởng của Người trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với sự đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cách mạng cũng như những con người Việt Nam mới luôn là vấn đề thời sự, thể hiện tính cần thiết, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục đào sâu suy nghĩ, kiên trì phấn đấu và noi theo. Đó là sự nghiệp của toàn Đảng, của hệ thống chính trị, nhằm góp phần xây dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

1 - Vị trí của vấn đề đạo đức trong văn hóa nói chung Văn hóa, theo định nghĩa chung nhất, là những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo nên trong tiến trình lịch sử. Còn theo cách hiểu thông thường nhất, đó là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm cả tư tưởng xã hội, tri thức xã hội, đạo đức xã hội, đời sống và lối sống xã hội... Không phải đến bây giờ, mà ngay từ lâu, khi Đảng ta mới thành lập và khi nhà nước cách mạng mới ra đời, Bác Hồ đã khẳng định rằng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, "văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Có nghĩa, đạo đức chỉ là một bộ phận của văn hóa chứ không phải là toàn bộ nền văn hóa. Tuy nhiên, đó là bộ phận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi lẽ, khi xem xét trình độ văn hóa của một xã hội, người ta không thể không nói đến con người trong xã hội, mà nói đến con người thì không thể không nói đến đạo đức. Tư tưởng xã hội và đạo đức xã hội đều có vai trò quyết định đối với hành vi của con người trong xã hội. Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc sống và hành động được dư luận xã hội thừa nhận. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc đó quy định, điều chỉnh hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Như vậy, đạo đức cũng http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

54

chính là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đó mà có. Trong các quan hệ xã hội, những vấn đề thuộc về dân tâm, dân ý, dân trí, dân quyền, và dân sinh ..., đều thuộc về và là sự biểu hiện của văn hóa một xã hội, mà mức độ biểu hiện cao hay thấp tùy thuộc một phần quan trọng vào đạo đức. 2 - Vị trí của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh Đại hội IX của Đảng ta đã đưa ra một mệnh đề cấu thành định nghĩa rất chuẩn xác về tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam". Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cần được nghiên cứu không phải dưới góc độ những ý kiến, những suy nghĩ riêng lẻ, cụ thể, mà trong sự tổng hợp có tính hệ thống, tức là nghiên cứu dưới góc độ một học thuyết chính trị cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận của tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa lại là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương tiêu biểu, một mẫu mực tuyệt vời về đạo đức, không chỉ đạo đức của con người xã hội mà còn là đạo đức của một lãnh tụ cách mạng, suốt đời hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là nghiên cứu những phẩm chất cao quý thể hiện trong cuộc sống của Người, mà còn là nghiên cứu những quan điểm của Người về đạo đức, những quan điểm đó đã, đang và sẽ còn chỉ đạo dài lâu cho sự nghiệp của Đảng ta xây dựng văn hóa dân tộc nói chung và xây dựng văn hóa trong Đảng nói riêng. Xuyên suốt các tác phẩm của Người, từ "Đường Cách mệnh" (1927), "Sửa đổi lối làm việc" (1947), "Cần, kiệm, liêm, chính" (1949) cho đến "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" (1969) và bản Di chúc của Người (1969), ta thấy toát lên tinh thần và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

55

Khái niệm đạo đức, được Hồ Chí Minh tập trung đề cập trong các tác phẩm của Người là đạo đức của xã hội mới, cao hơn nữa là đạo đức cách mạng, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Những phẩm chất đạo đức cao quý chung nhất, cơ bản nhất mà Người nêu lên đối với cán bộ cách mạng: Một là: trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Không phải một lần mà rất nhiều lần, không phải đối với một số đối tượng nhất định mà đối với rất nhiều đối tượng khác nhau, Người luôn luôn nhắc nhở rằng, điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, là trung với nước, hiếu với dân. Hai là: nhân, nghĩa, trí, dũng. Nhân là thật thà yêu thương, giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn sàng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không ngại cực khổ, không sợ uy quyền. Nghĩa là ngay thẳng, không có tà tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Trí là đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng, biết xem người, xét việc,... Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm có gan sửa chữa; cực khổ khó khăn có gan chịu đựng; có gan chống lại vinh hoa phú quý không chính đáng; nếu cần, có gan hy sinh cả tính mạng mình... Ba là: cần, kiệm, liêm, chính. Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm; thấy rõ lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta... Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân mình, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù... Liêm là luôn luôn tôn trọng, gìn giữ của công và của dân; phải trong sạch, không tham lam; không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

56

mình... Chính "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa chữa điều dở... Đối với người thì không nịnh hót cấp trên, không xem khinh người dưới; luôn luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà... Cần, kiệm, liêm, chính luôn luôn đi liền với chí công, vô tư, tức là hết lòng chăm lo công việc chung, không tơ hào, tư lợi. Trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư đều là những khái niệm vốn có từ Nho học và đạo đức từ lâu đời của ông cha ta, song đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đổi mới và phát triển, thậm chí có những khái niệm đổi mới hẳn về nội dung, như xưa kia là trung với vua, hiếu với cha mẹ, nay là trung với nước, hiếu với dân. Do đó, những phẩm chất đạo đức được Người nêu lên chính là những phẩm chất của đạo đức mới, của con người mới và nền văn hóa mới. Nó là sự kết hợp tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn có tầm sâu rộng hơn, vượt qua khuôn khổ quốc gia để tạo nên sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, xem "bốn phương vô sản đều là anh em"... 3 - Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng ta nêu rõ rằng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: đưa các nhân tố văn hóa, tinh thần thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị quyết Trung http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

57

ương 5, khóa VIII, ghi rõ: "Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước..." và khẳng định rằng: "Từ nay đến năm 2000, đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình". Nghị quyết Đại hội IX của Đảng một lần nữa yêu cầu: "Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân". Kết luận của Hội nghị Trung ương 10, khóa IX, nhấn mạnh: Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước. Trong Diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Đảng vừa qua, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cũng yêu cầu phải phấn đấu để mỗi tổ chức đảng và đoàn thể, mỗi cơ quan nhà nước đều là "một tấm gương văn hóa trong xã hội". Nhắc lại các nghị quyết nói trên để thấy rõ tính bức bách của nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay; cũng là để thấy rõ rằng muốn xây dựng được tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết phải xây dựng được các phẩm chất đó trong các tổ chức của Đảng và bộ máy của Nhà nước... Đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức mà chúng tôi vừa đề cập, ta càng thấy rõ vai trò quan trọng biết dường nào của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung, và xây dựng văn hóa trong Đảng nói riêng. Không phải ngẫu nhiên trong Di chúc Người nói về Đảng và đặc biệt nhấn mạnh vấn đề đạo đức: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân". Những lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng, đối với Đảng ta, đối với mỗi cán bộ, đảng viên, ngày nay vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi; nhất là những http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

58

phẩm chất trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, về cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, về đảng viên đi trước, làng nước theo sau... là không bao giờ cũ. Nếu có cái gì gọi là cũ thì đó chính là nhận thức của chúng ta về các lời dạy của Bác không đến nơi, đến chốn, không thật đầy đủ và nhuần nhuyễn, nhất là chúng ta nói mà không đi đôi với làm, hoặc nói nhiều làm ít, khiến cho đời sống văn hóa trong Đảng, nhất là đời sống về đạo đức, có những biểu hiện suy thoái nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, đòi hỏi phải khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, một căn bệnh nguy hiểm đang đục khoét cơ thể sống của Đảng ta. Trong cuộc chiến đấu sinh tử này, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta càng phải đề cao trách nhiệm tu dưỡng và thực hành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

59

Vấn đề Đảng của ai trong tư tưởng Hồ Chí Minh Vấn đề Đảng, vấn đề hệ trọng nhất đối với giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam thu hút nhiều nhất công sức, trí tuệ của Hồ Chí Minh. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập cách đây 75 năm. Những thay đổi toàn diện, sâu sắc của đất nước và con người Việt Nam từ ngày có Đảng đã chứng minh vai trò lịch sử, sự vĩ đại của Đảng, tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng. Tuy nhiên, sự nghiệp đổi mới đang đòi hỏi chúng ta phải đào sâu suy nghĩ, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng. Trong điều kiện mới, câu hỏi về Đảng của ai vẫn được đặt ra. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Theo quan điểm Mác xít thì Đảng Cộng sản là tổ chức tiên tiến, cao nhất của giai cấp công nhân. Mác, Ăng ghen viết trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản: '' Vậy là về mặt thực tiễn những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản'''.Theo Lê nin Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân, không thể ''trở thành Đảng của quần chúng" . Tuy nhiên Mác, Ăng ghen không chỉ khẳng định những người cộng sản ''tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản'' mà còn vạch rõ: ''Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số mưu lợi ích cho khối đại đa số''. Trong quan niệm của Mác, Ăngghen lợi ích của những người cộng sản, gắn bó chặt chẽ với lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích dân tộc chân chính. Hai ông đòi hỏi ''giai cấp vô sản

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

60

mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc''. Đến Lênin sự gắn bó giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân, với dân tộc, toàn dân đã trở nên rõ nét, chặt chẽ hơn. Cách đây hơn 100 năm, năm 1901 , Lê nin đã chỉ rõ những người dân chủ - xã hội cách mạng phải dồn sức để giải thích không chỉ cho giai cấp công nhân mà cả nông dân, sinh viên, trí thức hiểu rõ họ có người đồng minh tin cậy. Lê nin nhấn mạnh: "Chúng ta chỉ có thể hoàn thành được vai trò người chiến sĩ tiên phong đấu tranh cho tự do khi nào giai cap công nhân được sự lãnh đạo của Đảng chiến đấu cách mạng, không phút nào lãng quên vai trò đặc biệt của họ trong xã hội hiện đại, không lãng quên những nhiệm vụ đặc biệt có tính chất lịch sử toàn thế giới của họ là giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ về kinh tế, đồng thời giương cao ngọn cờ của toàn dân đấu tranh cho tự do''. Nhấn mạnh đảng cộng sản tiêu biểu cho lợi ích của nhân dân, Lênin vạch rõ chỉ có nhân danh đảng của giai cấp công nhân mới có thể tập hợp được tất cả những người lao động, những người bị áp bức bóc lột, bị đè nén, đau khổ đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân, những người lao động và toàn dân tộc. Lê nin đòi hỏi ''Chúng ta phải thu hút quần chúng ngày càng rộng rãi tham gia vào tất cả những công việc của Đảng, thường xuyên đưa họ từ thái độ thờ ơ chính trị đi đến sự phản kháng và đấu tranh, từ tinh thần phản kháng chúng đi đến chấp nhận một cách có ý thức các quan điểm dân chủ xã hội, từ sự chấp nhận những quan điểm này đi đến việc ủng hộ phong trào, từ sự ủng hộ phong trào đi đến việc gia nhập vào tổ chức đảng. Trong tư tưởng Lê nin Đảng cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân, nhưng đảng viên của đảng không nhất thiết chỉ là những người xuất thân từ giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định lợi ích của những người cộng sản gắn bó với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của Đảng, nhà nước cách mạng. Cách đây đúng 100 năm, năm 1905 trong tác phẩm Quân đội cách mạng và chính phủ cách mạng, Lê nin viết: ''Chính phủ cách mạng cần phái ra sức dựa vào các tầng lớp dưới trong nhân dân, dựa vào quần chúng công nhân và nông dân, không làm được điều này thì chính phủ sẽ không

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

61

thể tồn tại được. Không có sự chủ động cách mạng của toàn dân thì chính phủ sẽ chỉ là con số không, tệ hơn con số không''' . Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị hợp nhất 3.2.1930 viết: '' Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp'', ''Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản''. Tư tưởng trên tiếp tục được Hồ Chí Minh thắt lại trong những năm 50, 60 của thế kỷ trước. Năm 1953 Hồ Chí Minh viết: '' Đảng lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao''. Tháng 4/1960 trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân chuẩn bị hướng tới Đại hội lần thứ III của Đảng, trong bài Một cách thảo luận dự thảo Điều lệ Đảng, Hồ Chí Minh viết: '' Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân gồm những người giác ngộ, tiên tiến, gương mẫu, dũng cảm và hy sinh nhất''. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, ''Giai cấp vô sản'' ''Đạo quân vô sản'' ''Giai cấp cần' lao'' '' Giai cấp công nhân'' là những từ có cùng ý nghĩa. Vì Đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, nên vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam thuộc về giai cấp công nhân và Đảng của nó. Hồ Chí Minh rất nhiều lần đề cập tới những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung, Cách mạng Tháng Tám nói riêng. Tư tưởng nhất quán của Người là: Cách mạng Tháng tám đã thành công vì có ba điều kiện không thể thiếu được đối với bất cứ cuộc cách mạng phản đế nào ở một nước thuộc địa: đó là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự thành lập mặt trận phản đế rộng rãi, khởi nghĩa vũ trang'''. Vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, được Hồ Chí Minh nói tới không chỉ trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà suốt cả quá trình cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: ''Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiền http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

62

phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam''. Khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta thuộc về giai cấp công nhân Việt Nam, ngay từ khi giai cấp này còn nhỏ bé, chưa tập trung cao là một đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh giai cấp công nhân lãnh dạo cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam không mâu thuẫn mà có mối liên hệ khăng khít với nhau. Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ giai cấp công nhân, giai cấp cần lao lãnh đạo cách mạng thông qua đảng của mình, đảng cộng sản là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, giai cấp cần lao. Năm 1951, quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng có sự phát triển Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng, tháng 2-1951, do Hồ Chí Minh trình bày có đoạn: '' Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là một. Chính vì vậy Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của cả dân tộc Việt Nam''. Quan điểm nêu trên của Hồ Chí Minh cũng được thể hiện trong báo cáo về Luận cương cách mạng Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày. Báo cáo viết:: "Đảng Lao động Việt Nam không phải chỉ là đội tiên phong và bộ tham mưu của giai cấp công nhân mà thôi. Nó cũng là đội tiên phong, bộ tham mưu của nhân dân lao động, mà chính vì thế nó là đội tiên phong của cả dân tộc Việt Nam nữa''. Chắc chắn Đại hội II của Đảng đã thảo luận kỹ quan điểm đảng của nhân dân lao động, của cả dân tộc Việt Nam. Qua thảo luận Đại hội đã đi đến thống nhất và ghi vào điều lệ Đảng" Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam''. Quan điểm tại Đại hội II, 1951 tiếp tục được Hồ Chí Minh bổ sung. Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người viết: '' Đảng ta có chục vạn đảng viên ở các cấp chính quyền, ở trong bộ đội, ở các xí nghiệp, các trường học, các nông thôn, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

63

đảng đều liên hệ chặt chẽ với quần chúng như chân tay, ruột thịt. Ở Trung ương thì có những đồng chí nhiều kinh nghiệm, giàu quyết tâm một lòng phục vụ giai cấp và nhân dân. Vì vậy Đảng ta là Đảng của giai cấp lao động mà cũng là Đảng của toàn dân''. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong của cả dân tộc. Tháng 10- 1957, Hồ Chí Minh nói: '' Đảng là đội tiền phong của nhân dân lao động mà trước hết là giai cấp công nhân'' hoặc ''Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc''. Tư tưởng hai ''tiền phong'' của Đảng được Hồ Chí Minh thể hiện đậm nét cách đây gần 50 năm. Tư tưởng đó tiếp tục được Người phát triển trong những năm 60. Nói chuyện tại hội nghị bồi dưỡng cán bộ do Trung ương tổ chức, tháng l. 1965 Hồ Chí Minh chỉ rõ: ''Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc''. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng của ai chúng tôi thấy nổi lên mấy vấn đề: Thứ nhất, quan điểm nhất quán của Người là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng ta, Đảng của chúng ta là Đảng của giai cấp công nhân, giai cấp cần lao, giai cấp lao động. Thứ hai, trong những trường hợp khi Người đề cập đến Đảng của nhân dân, của dân tộc, của toàn dân thì trước đó phải là của giai cấp công nhân hoặc trước hết là giai cấp công nhân. Trừ trường hợp đặc biệt 1945, khi Đảng tuyên bố tự giải tán, còn lại không một lần nào Hồ Chí Minh chỉ nói Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của nhân dân, của dân tộc, của toàn dân. Trong khi đó nhiều lần Hồ Chí Minh chỉ nói Đảng là Đảng của giai cấp công nhân, giai cấp cần lao.

Thứ ba, theo suy nghĩ của chúng tôi sau khi nói Đảng của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh thêm Đảng của nhân dân, của dân tộc, của toàn dân, Người muốn nhấn mạnh hai ý: Một là, đảng đại diện, tiêu biểu cho lợi ích của dân tộc, của http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

64

toàn dân. Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ ngoài lợi ích của giai cấp công nhân của nhân dân, dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III ( 1960) viết: ''Đảng ta không những là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân Việt Nam mà đồng thời còn là đại biểu trung thành cho lợi ích chân chính của nhân dân lao động và của dân tộc. Điều đó cũng giải thích vì sao công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác ở nước ta thừa nhận Đảng ta là Đảng của họ, một lòng một dạ tin tưởng và ủng hộ Đảng ta''' . Hai là, đảng viên của Đảng không chỉ là những người tiên tiến, ưu tú xuất thân từ giai cấp công nhân mà còn từ tất cả các giai cấp, tầng lớp khác trong dân tộc. Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua đã viết: Công nhân, thợ thủ công, dân cày, binh lính, học sinh và các giai cấp khác tin theo chủ nghĩa cộng sảng, chương trình Đảng và quốc tế cộng sản, hăng hái đấu tranh, phục tùng mệnh lệnh Đảng, đóng đảng phí và chịu phấn đấu trong một tổ chức Đảng thì được vào Đảng. Năm 1960 Hồ Chí Minh nói Đảng ta là con nòi. Thứ tư, Hồ Chí Minh có những cách tiếp cận khác nhau trong khi trả lời câu hỏi Đảng của ai nhưng Đảng cộng sản Việt Nam thực chất là Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng mácxít lê nin nít cách mạng chân chính. Bởi vì, Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác- Lê nin, Đảng giác ngộ giai cấp công nhân rành mạch, lập trường giai cấp công nhân dứt khoát, tác phong giai cấp công nhân đúng đắn, tư tưởng của Đảng là tư tưởng của giai cấp công nhân. Mối quan hệ dân tộc - giai cấp đã được Hồ Chí linh kết hợp một cách hết sức nhuần nhuyễn cả trong việc xác định đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới cũng như trong việc trả lời câu hỏi Đảng của ai. Sự kết hợp đó là một trong những sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố hàng đầu tạo nên sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

65

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản với các cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đại hội VII Đảng thông qua đã xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động... Điều đó cũng có nghĩa là, tư tướng Hồ Chí Minh là một bộ phận trong hệ tư tưởng của Đảng, vì thế sự nghiệp xây dựng CNXH của Đảng và nhân dân ta phải trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thành tựu mà Đảng giành được trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong 75 năm qua quả vô cùng lớn lao; Đảng luôn thể hiện vai trò tiên phong và tính cách mạng triệt để, luôn trung thành với lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Tuy vậy, trong bối cảnh và tình hình mới, trong Đảng đang nẩy sinh một số mặt yếu kém, bất cập, nếu điều đó không được khắc phục sẽ làm yếu sức chiến đấu của Đảng, suy giảm lòng tin của nhân dân. Nhận thức sâu sắc mối nguy hại ấy, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII đã ra Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng” Từ đó cho đến nay, sự nghiệp lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc bởi những phẩm chất và năng lực mới của Đảng, thế nhưng: “Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (lần 2) chưa đạt được yêu cầu, chưa tạo được những chuyển biến cơ bản, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí”. Vì vậy, việc quán triệt sâu sắc những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt tư tưởng của Người về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trở thành vấn đề tiên quyết, nhằm đẩy mạnh “cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII. 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh đốn Đảng http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

66

Trong toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về Đảng Cộng sản là một trong những bộ phận quan trọng nhất. Tư tưởng ấy được thể hiện ở những luận điểm chủ yếu: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam, là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam Đảng phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới. Ngay từ năm 1925, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, trình bày vai trò to lớn về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng, thì tư tưởng về chỉnh đốn Đảng của Hồ Chí Minh cũng được hình thành; từ đó tư tưởng này tiếp tục được phát triển, trở thành một trong các luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận điểm ấy chính là sản phẩm được Người chắt lọc trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, được trải nghiệm trong thực tiễn hoạt động cách mạng sôi động, phong phú; đồng thời là những lời tâm huyết Người để lại cho toàn Đảng trước lúc đi xa: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên. Điều đó xuất phát từ vị thế, vai trò của Đảng, bởi “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. nghĩa là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền. lãnh đạo Nhà nước để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; Đảng cầm quyền, nhưng dân là chủ. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng một mặt. khẳng định sức mạnh quyền lực to lớn của Đảng trong cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới đối với các lĩnh vực đời sống xã hội; mặt khác, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền lực vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, dẫn tới lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

67

Chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không ngoài mục đích nào khác là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, đường lối chính trị, bản lĩnh chính trị của Đảng luôn đúng đắn, vững vàng; là tư tưởng cách mạng triệt để, đấu tranh không khoan nhượng với các trào lưu cơ hội, xét lại, giáo điều; là tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh cùng với đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn tu dưỡng về phẩm chất, năng lực, mẫu mực về lối sống: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vưa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”?

Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta “vừa là đạo đức, vừa là văn minh” là người khởi xướng và lãnh đạo mọi sự đổi thay của đất nước qua các giai đoạn lịch sử của cách mạng. Muốn vậy, trước hết Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn là khẳng định sự vận động nội tại của Đảng cầm quyền trong quá trình lãnh đạo cách mạng; là sự nhận diện đúng quy luật vận động, phát triển của Đảng, đồng thời dự báo những “kẻ thù” nội sinh và ngoại sinh trong sự vận động, phát triển ấy. Với ý nghĩa ấy, tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng trở thành vấn đề tiên quyết để Đảng vượt qua mọi thử thách mới, với những “kẻ thù mới” như: “kiêu ngạo cộng sản”, “nạn mù chữ, “nạn hối lộ”. Tất cả điều đó trở thành nguy cơ, là lời cảnh báo cho những người cộng sản khi trở thành Đảng cầm quyền, mà điều đó nhờ có nhân dân nhưng lại xa rời nhân dân. Chỉ có tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng mới chiến thắng được các loại “kẻ thù” ấy, mới giữ trọn niềm tin tuyệt đối của nhân dân, mới loại bỏ được các nguy cơ huỷ hoại sự nghiệp của Đảng.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh đốn Đảng với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

68

- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên phải tăng cường học tập đạo đức Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong suốt”. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn rèn giũa mình để trở thành người có đạo đức cách mạng. Theo đó, Người đã làm giàu truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam bằng sự kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo đức nhân loại; tấm gương đạo đức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã nêu cho Người như một mẫu mực về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ. Người đã học tập và hành động bởi các tấm gương ấy, với nếp sống giản dị, coi khinh mọi sự xa hoa, yêu lao động, đồng cảm sâu sắc với người cùng khổ, hưởng cuộc đấu tranh của mình, của dân tộc mình vào công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh cũng đồng nghĩa với việc làm giàu những phẩm chất chung. cơ bản nhất của đạo đức cách mạng: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng. Trong đó, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất thường trực trong cuộc sống hàng ngày, phải trở thành giá trị bất biến trong mọi môi trường, mọi hoàn cảnh, mọi cơ chế kinh tế của người cộng sản. Điều đó cũng lý giải vì sao sự suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay có nguyên nhân chủ yếu từ sự suy thoái ở phẩm chất này. Do vậy, học tập đạo đức Hồ Chí Minh mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải không ngừng tu dưỡng đạo đức suốt đời; lời nói phải đi đôi với việc làm: phải nêu gương về đạo đức trở thành tấm gương sáng để quần chúng noi theo.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

69

- Quán triệt sâu sắc các nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản trong quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Trung thành với các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh đã xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh và tự giác; đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng. Các nguyên tắc ấy đều hướng đến xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, tăng cường sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng và hiệu quả sinh hoạt Đảng. Trong các nguyên tắc trên cần đặc biệt chú trọng nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, nguyên tắc này là nguyên tắc tổ chức cơ bản làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng thông qua mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung, bởi: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung”. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung nguyên tắc sinh hoạt của Đảng bằng tự phê bình và phê bình, vì: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Tự phê bình và phê bình trở thành quy luật phát triển của Đảng. Khi các nguyên tắc này bị vi phạm thì uy tín và sức chiến đấu của Đảng sẽ giảm sút, Đảng không thể “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, cũng không còn “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Hoàn thiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản vừa là thành viên của hệ thống chính trị, vừa là lực lượng xã hội lãnh đạo hệ thống chính trị và các tổ chức chính trị-xã hội. Do vậy, đổi mới hệ thống chính trị nước ta hiện nay, về thực chất “là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

70

Nội dung và các giải pháp đổi mới hệ thống chính trị nước ta, hiện nay cần tập trung vào đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; cải cách bộ máy Nhà nước, làm cho bộ máy này thật sự trong sạch, vững mạnh; đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Mọi sự đổi mới ấy phải hướng vào mục đích mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá tinh thần; nâng cao chất lượng dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tự quản. Với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, cần đặc biệt quan tâm đến quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc kiểm tra và giám sát các hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước; phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh chống tiêu cực, các tệ nạn xã hội, tệ quan liêu, tham nhũng ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, để định hướng đúng và nâng cao chất lượng, hiệu quả các quyền ấy của công dân cần phải tăng cường giáo dục, nâng cao trình độ văn hoá dân chủ cho nhân dân phù hợp với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước. Dân chủ không tách rời với kỷ luật, kỷ cương, pháp luật. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản là cơ sở lý luận để xây dựng Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh đủ sức hoàn thành sứ mệnh “bộ tham mưu của giai cấp vô sản và nhân dân lao động”? Trong từng luận điểm, từng nội dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chỉnh đốn Đảng đều có sức cảm hoá, lôi cuốn bởi chính đạo đức và trí tuệ của Người. Vì vậy, ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cần được soi sáng trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay ./.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

71

Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (3-2-1969) Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta. Trải qua 39 nǎm đấu tranh oanh liệt, làm Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến lần thứ nhất thắng lợi và ngày nay vừa chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhân dân ta tin tưởng rằng: Đảng ta lãnh đạo rất sáng suốt đã đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong lịch sử đấu tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hằng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang. Đảng ta đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng, gái cũng như trai, rất hǎng hái, dũng cảm trong mọi công tác. Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân ta và Đảng ta rất tự hào có những người con xứng đáng như thế. Song bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém.

Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo "mình vì mọi người" mà chỉ muốn "mọi người vì mình".

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

72

Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khǎn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩamà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm. Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tǎng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ. Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ. Đó là một cách thiết thực để kỷ niệm ngày thành lập Đảng ta, Đảng vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân anh hùng của chúng ta. Đó cũng là một việc làm cần thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều tiến bộ, góp sức nhiều hơn nữa cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

73

Tất cả mọi quyền bính đều thuộc về nhân dân Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta hôm nay, sáng chói quan điểm lấy dân làm gốc, cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và công nghiệp hoá, hiện đại hóa muốn "xây đài thắng lợi" đều phải dựa trên "nền nhân dân". Nhưng để nền tảng ấy được vững bền, Người khuyên: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân"... Tại cuộc Hội thảo "Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành tư pháp" vừa qua tại Nghệ An, các nhà khoa học đã tập trung thảo luận về vấn đề này.

Nhân dân là quý nhất!

Đến từ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư Hoàng Văn Hảo cho rằng: ''Truyền thống chính trị lấy dân làm gốc là nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhân quyền''. Trong quan niệm của Người, nhân dân là ''những người lao khổ'', là nhân dân lao động, những người sáng tạo ra của cải vật chất và ''trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân''. Giáo sư Hảo khẳng định: ''Người trực tiếp kế thừa và phát triển truyền thống chính trị ''lấy dân làm gốc'' của dân tộc, truyền thống nhân ái và khoan dung. Truyền thống đó hình thành và phát triển trong suốt lịch sử dân tộc từ ''Hội nghị Diên Hồng" đến ''chở thuyền, lật thuyền cũng là dân'' rồi thành nền tảng vững chắc ''lấy dân làm gốc''. Về sau, tư tưởng độc đáo ấy của Người còn được chính Người diễn đạt bằng những câu ca đơn giản, mộc mạc: "Dễ mười lần không dân cũng chịu/Khó trăm lần dân liệu cũng xong''. Với cách tiếp cận tổng thể, toàn diện vấn đề quyền con người, Hồ Chí Minh không chỉ đòi quyền tự do cho cá nhân như thường diễn ra ở nhiều nước phương Tây mà còn đòi quyền cho cả dân tộc, đòi nhân quyền cho cả dân tộc, quyền tự quyết dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc. Và ngay sau khi giành được http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

74

chính quyền, Bác chỉ đạo chuyển khẩu hiệu chiến lược một cách mau lẹ và tự nhiên là ''chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm''. Và Giáo sư Hảo kết luận ''Với cách tiếp cận nhân quyền này thì chắc chắn nhân quyền gắn liền với phát triển và do đó gắn với hợp tác quốc tế". Giải phóng và bình quyền cho phụ nữ Tiến sĩ Trần Văn Quảng - Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Cán bộ (Bộ Tư pháp) thì đi sâu nghiên cứu, phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ngành Tư pháp. Theo ông, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã gắn liền cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc với cuộc đấu tranh cho bình đẳng, tự do và phát triển của phụ nữ; đặt vấn đề giải phóng phụ nữ trong mối quan hệ chặt chẽ với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Về điểm này, Hồ Chí Minh viết: ''Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người, nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa'' và ''nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng cả''. Tiến sĩ Quảng nhận xét: ''Tư tưởng thực hiện nam nữ bình đẳng của Người xuất phát từ lòng thương và cảm thông sâu sắc với những nỗi thống khổ, thiệt thòi của người phụ nữ Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai; từ sự nhận thức, đánh giá đúng về vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước''. Với vai trò là người trực tiếp tham gia và các hoạt động xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật, phụ nữ tư pháp vừa là người thụ hưởng quyền bình đẳng do pháp luật quy định vừa là người góp phần quan trọng tạo lập, thực thi và hoàn thiện môi trường pháp luật vì sự bình đẳng, tiến bộ của giới mình. Theo Tiến sĩ Quảng, trong ngành Tư pháp, đội ngũ công chức nữ chiếm 28,8% trong tổng số hơn 23.000 cán bộ, công chức của cơ quan-bộ, các cơ quan thi hành án và các đơn vị tư pháp địa phương; trong đó, tỷ lệ công chức nữ ở cơ quan Bộ chiếm tới 48,9%. Phần lớn công chức nữ của ngành có trình độ từ đại học trở lên, nhiều chị đã có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ. Hơn một nửa số công chức nữ có độ tuổi dưới 40 và

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

75

nhiều chị đang giữ các chức vụ lãnh đạo trong các đơn vị và các chức danh chuyên môn, nghiệp vụ chủ chốt của ngành. Nhà nước của dân, do dân, vì dân Theo GS.Song Thành - nguyên Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh- thì khái niệm trên được Bác Hồ dùng lần đầu tiên vào đầu năm 1927, thời kỳ ở Quảng Châu, khi Người nói đến ý tưởng của nhà cách mạng Tôn Trung Sơn muốn ''thành lập Trung Quốc một chính phủ của dân, do dân, vì dân''. Khi nói đến luận điểm này, hầu hết các chuyên gia, các nhà khoa học đều tâm đắc với những gì Bác Hồ đã thể hiện trong Hiến pháp 1946: "Tất cả mọi quyền bính đều thuộc về nhân dân", ''Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia do nhân dân phán quyết'' và đặc biệt là ''nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ ''. ''Nhà nước của dân là Nhà nước do dân làm chủ''. Trong Nhà nước dân chủ, dân là chủ còn cán bộ nhà nước, từ chức Chủ tịch nước trở xuống đều là ''công bộc'' của dân" - Người dạy. Thế nào là Nhà nước do dân? GS.Song Thành trả lời: ''Nhà nước ta do dân xây dựng, ủng hộ, đóng thuế cho Nhà nước hoạt động; do dân phê bình, kiểm soát, bãi miễn nếu nó không đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của dân''. Thế còn Nhà nước vì dân? ''Đó là một Nhà nước không có đặc quyền, đặc lợi, trung thành, tận tụy vì quyền lợi của dân, trong sạch, chí công vô tư. Nói như Hồ Chí Minh, phải thi hành một nền chính trị liêm khiết, kiên quyết đấu tranh vì 3 thứ ''giặc nội xâm'' là tham nhũng, lãng phí, quan liêu'' GS.Song Thành khẳng định. Từ việc nghiên cứu, am hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiều chuyên gia, nhà khoa học tập trung làm rõ những giá trị tư tưởng của Người tình hình thực tiễn hiện nay. ''Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là đúng nhưng tại sao mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và nhà nước lại chưa thật bền chặt và đang đứng trước thách thức mới? Ai đã làm mất lòng dân? Chính là những cán bộ có chức, có quyền tha hóa biến chất, mắc vào các vụ tham ô lớn, nêu gương xấu trong dân; sau đó là những cán bộ quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Trong thi hành công vụ, thi hành chính sách và pháp luật, những công chức hành http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

76

chính trực tiếp với dân ở xã, phường, những cán bộ trong các ngành Công an, Hải quan Tư pháp, Địa chính...'' - GS Song Thành nêu vấn đề thực tế. Ông nói: ''Ngay sau khi ta mới có chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết hàng chục bài báo chỉ để nhắc nhở một câu ''Sao cho được lòng dân'', vì mất lòng dân là mất tất cả. Nay ta cũng cần mở lại chiến dịch này, xây dựng lại từ gốc văn hoá cầm quyền, "văn hóa công sở''. Trước thực trạng nền hành chính nhà nước còn những rơi rớt của thời kỳ bao cấp, GS.Song Thành một mặt khẳng định tầm quan trọng của việc cải cách hành chính, cải cách thể chế nhưng mặt khác, ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của con người - tức đội ngũ cán bộ, công chức, những ''công bộc của dân'' . Thể chế chặt chẽ sẽ góp phần ràng buộc con người nhưng có vận hành theo thể chế hay không cũng là do con người. Nếu họ không được giáo dục, đào tạo tốt theo tinh thần Hồ Chí Minh: Cán bộ nhà nước là công bộc của dân, phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thiếu các gốc đó thì thể chế nào rồi cũng sẽ bị vô hiệu hóa...''. Thật vậy, tư tưởng vì con người, nhân dân lao động, lấy nhân dân làm nền tảng của Nhà nước, pháp luật và xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng ngày càng chứng tỏ những giá trị ưu việt, bất biến. Tư tưởng và những lời dạy giản dị mà sâu sắc, nhẹ nhàng mà thấm thía của Người đã và sẽ còn là ngọn đèn soi đường cho mỗi chúng ta...

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

77

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền ở Việt Nam Thấy rõ sức mạnh của cách mạng là ở nhân dân, Hồ Chí Minh đồng thời khẳng định nguồn tập trung sức mạnh của nhân dân phải có đảng lãnh đạo. Đó là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau, thiếu một mặt không thể tạo nên sức mạnh và cách mạng không thể thành công. Đó cũng là chân lý đã được cụ thể hoá và được Hồ Chí Minh vận dụng rất sáng tạo và thành công trong hoàn cảnh cách mạng nước ta. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một dân tộc đại bộ phận là nông dân, chưa qua giai đoạn phát triển CNTB, lại phải tiến hành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức sức mạnh tạo nên động lực cách mạng ở nước ta là ở nhân dân. Khái niệm nhân dân theo Hồ Chí Minh là “bốn giai cấp bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước khác. Nhân dân phải giành lấy chính quyền là khẩu hiệu của Hồ Chí Minh. Người khẳng định rất sớm rằng: “cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”, phải đoàn kết toàn dân, tuyệt đối tránh chia rẽ, bè phái làm cho sức dân chúng yếu đi như “đũa mỗi chiếc mỗi nơi”. Xuất phát từ yêu cầu phải có đảng lãnh đạo cách mạng mới thành công triệt để, đồng thời nói rõ lập trường cách mạng của mình đối với một đảng cách mạng chân chính, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên hệ với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

78

không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam... Bây giờ, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Như vậy là, một mặt, Hồ Chí Minh khẳng định vị trí của giai cấp công nhân và vai trò của nhân dân, coi nhân dân là nhân tố quyết định sự nghiệp cách mạng và đòi hỏi nhân dân phải giành lấy chính quyền, mặt khác, Người khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản (ĐCS), coi sự lãnh đạo của ĐCS là nhân tố quyết định đảm bảo thành công của sự nghiệp cách mạng.

Điều này có vẻ hơi khác với những ý kiến của Mác, Ăngghen khi các ông nói về vị trí của giai cấp vô sản (GCVS) mỗi nước phải giành lấy chính quyền, phải tự mình trở thành dân tộc. Nhưng, nói khác mà không trái, trái lại, chính ý kiến Hồ Chí Minh mới thực sự phù hợp với thực tế lịch sử xã hội Việt Nam, nơi ở đó hơn 90% dân số là nông dân, nơi đó nhân dân lao động nói chung phải chịu sự áp bức, bóc lột cùng cực của chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến; ở đó động lực cách mạng không chỉ tập trung vào giai cấp công nhân (GCCN) mà chủ yếu là ở phong trào cách mạng của nông dân trên mọi miền của đất nước. Chính những điều Hồ Chí Minh nói tuy có hơn khác với Mác, Ăngghen, Lênin, nhưng không trái ấy đã thể hiện tinh thần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin của Người. Người đề cao vị trí, vai trò của nhân dân nhưng không hạ thấp vị trí, vai trò của GCVS, nhất là vai trò lãnh đạo của ĐCS. Trái lại, Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng chỉ có sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của đảng cách mạng chân chính của GCCN thì cách mạng mới thành công, cách mạng mới “đến nơi”, để nhân dân không phải làm một cuộc cách mạng khác nữa. Cho nên, khi nói đến xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã từng nói : “Nay tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

79

quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”, sau đó một lần nữa, Người tuyên bố trước Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ hai, rằng: “Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam”. Đến khi đổi tên ĐCS thành Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh còn nói rõ hơn: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.

Nói rằng ĐCS là đảng của dân tộc, đảng của nhân dân, mọi công dân Việt Nam đều có thể đứng trong hàng ngũ của Đảng, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài, thì hình như không đúng với điều nói về ĐCS của Mác, Ăngghen và Lênin, bởi lẽ, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn nhấn mạnh tính GCCN của đội tiền phong của GCCN. Rõ ràng, Hồ Chí Minh không bao giờ không thừa nhận tính đúng đắn có ý nghĩa nguyên tắc trong việc xây dựng ĐCS. Chính Người vẫn thường nói Đảng ta là Đảng của GCCN hay đội tiền phong của GCCN. Nhưng, với một đảng ra đời trong hoàn cảnh một đất nước đại bộ phận là nông dân, một đất nước thuộc địa nửa phong kiến, nghèo nàn, lạc hậu như nước ta, Hồ Chí Minh không thể máy móc và giáo điều khi xây dựng ĐCS Việt Nam theo tiêu chí của một ĐCS ra đời trong xã hội công nghiệp phát triển như ở châu Âu. Tức là nếu theo tiêu chí đó thì ở nước ta sẽ không thể xây dựng được một ĐCS. Và, điều đó cũng đồng nghĩa với việc không thể hình thành một đường lối cách mạng theo lập trường GCVS lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng, kim chỉ nam của hành động. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương phải mở rộng những điều kiện vào Đảng, coi bản chất của ĐCS Việt Nam không nhất thiết chỉ ở thành phần xuất thân mà chủ yếu là mục tiêu lý tưởng và đường lối cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể, mặc dù Người không hề coi nhẹ thành phần xuất thân là GCCN. Cho nên, Người coi ĐCS Việt Nam là đảng của GCCN và nhân dân lao động. Nói đến vai trò của Đảng khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh thấy rất sớm vấn đề xây dựng nhà nước kiểu mới. Quan niệm của Hồ Chí Minh về việc xây dựng nhà nước kiểu mới xuất hiện từ trong tác phẩm Đường cách mệnh, ra đời năm 1927, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

80

khi Người phê phán những nhà nước tư sản của Mỹ và Pháp đồng thời đề cao Nhà nước Nga sau Cách mạng tháng Mười năm 1917. Nhưng, phải đến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh mới bắt tay vào việc xây dựng chính quyền của dân và hoàn thiện về quan niệm nhà nước kiểu mới, tức nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nói rõ tính chất và quan niệm về nhà nước kiểu mới này tại cuộc họp Quốc hội đầu tiên năm 1946, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính phủ sau đây là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái. Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh luôn nghĩ đến việc xây dựng một nhà nước thực sự của dân, đó cũng là nhà nước của cả dân tộc. Điều này còn phản ánh rõ ý nguyện xây dựng một nhà nước kiểu mới “lấy dân làm gốc”, cũng có thể gọi là nhà nước của nhân dân, nhưng không quan niệm nhân dân theo kiểu vô chính phủ. Trái lại, nhân dân nói ở đây là lực lượng cách mạng đã giác ngộ, đã được tổ chức và nhất là có sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCS hướng theo mục tiêu phấn đấu do Đảng đề ra. Vậy, thực chất quan điểm Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền (ĐCQ) là thế nào, gồm những nội dung gì? 1. Trước hết, khái niệm ĐCQ là do Lênin đề ra đầu tiên sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Hồ Chí Minh không chỉ dùng khái niệm ĐCQ mà Người cũng rất có ý thức đến vai trò cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước cũng như đối với dân tộc. Điều đó có nghĩa là, Người đã thấy rõ trách nhiệm trước dân tộc của Đảng ta trong điều kiện đã giành được chính quyền. Cho nên, dù hoạt động công khai hay bán công khai thì Đảng ta vẫn phải có trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp và toàn diện chính quyền nhân dân hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc và hướng đất nước theo mục tiêu xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam như Cương lĩnh đầu tiên do Đảng đề ra. Với tư cách một lãnh tụ của Đảng, Hồ Chí Minh không bao giờ quên nhắc nhở cán bộ đảng viên phải nhớ đến trách nhiệm của một ĐCQ. Người luôn chú ý giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và toàn Đảng nói chung về trách nhiệm http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

81

của Đảng đối với nhân dân, đối với Nhà nước của dân cũng như đối với toàn dân tộc. Cho đến cuối đời, trong Di chúc, Người vẫn không quên nhắc lại: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Trong bối cảnh đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, vận hành đất nước theo cơ chế thị trường như hiện nay, điều căn dặn, nhắc nhở đó của Hồ Chí Minh càng trở nên rất cần thiết và thiêng liêng hơn bao giờ hết. Có thấy rõ Đảng ta là một ĐCQ thì mới thấy hết trách nhiệm của mình trước những khó khăn của nhân dân, mới không lơ là giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên ý thức trách nhiệm đối với nhân dân và dân tộc, mới mạnh dạn đấu tranh với những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất trong đảng và trong bộ máy nhà nước để vượt qua những khó khăn, thách thức nhằm xây dựng đất nước trong bối cảnh và điểu kiện mới. 2. Quan trọng hơn là phải hiểu quan niệm của Hồ Chí Minh về ĐCQ, về bản chất của nhà nước kiểu mới và về mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thấy rõ Đảng ta là một ĐCQ là cần thiết nhưng chưa đủ, mà phải hiểu rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về ĐCQ phải như thế nào, để từ đó không chỉ chuẩn bị những cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng Đảng nói chung cũng như việc xây dựng nhà nước kiểu mới thực sự của dân, do dân và vì dân như Người đòi hỏi. Vấn đế đặt ra đối với Hồ Chí Minh là, chính quyền cách mạng đã thuộc về nhân dân, thì tất cả quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân. Để đạt mục tiêu ấy, Hồ Chí Minh luôn suy nghĩ và lo lắng rằng ĐCQ phải làm thế nào để nhân dân thực sự làm chủ, thực sự nắm quyền lực nhà nước, thực hiện lý tưởng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Người luôn có ý thức đề phòng ĐCQ sẽ làm biến chất đảng viên, nhất là đảng viên có chức có quyền, và do đó sẽ làm biến chất Đảng dẫn đến biến chất cả Nhà nước. Từ đó, Đảng sẽ không những không thực hiện được sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước, mà ngược lại, còn có thể làm tha hoá Nhà nước, tha hoá Đảng khi đảng viên biến chất nắm được quyền lực trong tay. Cho nên, khi nói đến ĐCQ, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và vai trò của dân đối với Đảng và Nhà nước.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

82

3. Nói về bản chất của ĐCQ, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho CNXH hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên thế giới. Đó là mục tiêu lý tưởng của Đảng đề ra khi mới thành lập mà bất cứ một đảng viên nào khi vào Đảng đều được nhắc đến lý tưởng cao cả đó như một điều kiện đứng trong hàng ngũ của Đảng. Nhưng khi Đảng đã trở thành một ĐCQ, không ít đảng viên dễ quên đi cái lý tưởng cao cả mà mình vẫn tâm niệm, tuyên thề. Thấy rõ nguy cơ biến chất, tha hoá của một ĐCQ, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đảng viên phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, không được chủ quan tự mãn khi đã nắm quyền trong tay, không được biến thành những “ông quan cách mạng”. Không phải là ngẫu nhiên Hồ Chí Minh lại luôn đề cao đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân một cách quyết liệt như chúng ta đã thấy. Hơn thế nữa, Người còn nói rõ ĐCQ phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của dân. Có lẽ, trong các lãnh tụ của ĐCS, không một ai nói rõ, nói mạnh mẽ về vai trò của ĐCQ đối với nhân dân như Hồ Chí Minh. Trong suốt 24 năm lãnh đạo Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Cho đến cuối đời, Người viết bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, đăng trên báo Nhân dân ngày 3/2/1969, trước lúc Người qua đời chỉ có 7 tháng. Trong bản Di chúc, Người vẫn không quên căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Với Hồ Chí Minh, đây là một nguyên tắc lớn không thể thay đổi, nếu thay đổi cũng có nghĩa là thay đổi bản chất của ĐCS, cũng có nghĩa là Đảng không còn là ĐCQ. Cầm quyền, không phải là đứng trên nhân dân, trái lại, theo Hồ Chí Minh, cái quyền mà Đảng có được, là do dân, nhờ dân và của dân, cho nên, cầm quyền không phải là đứng trên dân như cách hiểu của những người trong xã hội cũ mà là công bộc thực sự của nhân dân. Hơn nữa, Hồ Chí Minh còn đòi hỏi Đảng phải http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

83

“là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Mới nghe qua quả là khó hiểu, và trong thực tế không dễ thực hiện điều đó, nếu không thật sự quán triệt và tu dưỡng mình như quan niệm của Hồ Chí Minh. Nhưng càng ngẫm nghĩ, càng thấy rõ ý thức sâu xa và thâm thuý khi thấy Hồ Chí Minh đề cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân đối với một ĐCQ như Đảng ta, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Đương nhiên, phải hiểu “đầy tớ” theo nghĩa là phục vụ hết mình cho nhân dân, cái gì có lợi cho dân thì hết sức làm, cái gì có hại cho dân thì hết sức tránh, và phấn đấu tu dưỡng theo mục tiêu thực sự là “đầy tớ” của nhân dân thì mới coi Nhà nước là công cụ của nhân dân để phục vụ dân, mới biến quyền lực nhà nước thành quyền lực của nhân dân. Trong thực tế những năm gần đây, những điều Hồ Chí Minh nói về ĐCQ cũng như về cán bộ, đảng viên đã diễn ra đúng như Người dự báo. Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự giao lưu, hợp tác rộng rãi với các nước trên thế giới, đã có không ít cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất. Nếu mỗi đảng viên cũng như toàn Đảng không có ý thức nâng cao cảnh giác, không ra sức tu dưỡng đạo đức cách mạng và chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, như Hồ Chí Minh đề phòng, thì Đảng không chỉ mất vị trí lãnh đạo, mất vị trí cầm quyền mà Nhà nước cũng có thể biến chất, không còn là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nữa. Đó là bài học đã diễn ra ở một số nước XHCN. Đương nhiên, Đảng ta không phải là ngoại lệ, nếu không thực hiện kiên quyết và nghiêm túc những giáo huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng ĐCQ và Nhà nước của dân, do dân và vì dân. 4. Để thấy rõ vai trò của ĐCQ theo quan điểm Hồ Chí Minh, còn cần phải làm rõ quan điểm của Người về nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân. Nói đến trách nhiệm của ĐCQ, Hồ Chí Minh cho rằng một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng là phải đảm bảo cho nhân dân thật sự quản lý công việc của Nhà nước. Đảng không chỉ chịu trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước mà cần phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi hoạt động của Nhà nước. Đảng mạnh thì Nhà nước mạnh. Nhà nước hoạt động tốt, không quan liêu, không tham nhũng thì không những nhân dân yêu mến, tín nhiệm Nhà nước mà nhân dân http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

84

cũng tin tưởng, yêu mến Đảng. Cho nên, theo quan điểm Hồ Chí Minh, ĐCQ gắn liền với Nhà nước kiểu mới. Điều đó phản ánh bản chất của nhà nước kiểu mới và chỉ có Nhà nước ta, Nhà nước của dân, do dân và vì dân mới có hiện tượng dân thừa nhận một ĐCQ độc nhất. Bởi lẽ, Đảng đã vì dân thì tất nhiên dân cũng vì Đảng, bảo vệ Đảng và coi ĐCQ là của chính mình. Tóm lại, Đảng và Nhà nước, dưới con mắt của nhân dân không phải là hai mà chỉ là một, là Đảng ta, Nhà nước ta. Nhưng, giữa Đảng và Nhà nước ta lại không thể lẫn lộn trách nhiệm. Hồ Chí Minh cũng đề phòng sự lẫn lộn này dẫn đến bao biện chức năng giữa Đảng và Nhà nước. Người cho rằng, ĐCQ phải phát huy được vai trò của Nhà nước với tư cách bộ máy do nhân dân lập ra, dân giao phó những nhiệm vụ quản lý, điều hành đất nước. Nhà nước có mạnh thì dân mới mạnh. Còn Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối và phải tuân theo pháp luật chứ không thể đứng ngoài, đứng trên pháp luật. Đảng tôn trọng Nhà nước cũng có nghĩa là tôn trọng quyền làm chủ của nhân dàn, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh phê phán nghiêm khắc hiện tượng lạm quyền, “cậy thế mình là người của Đảng, phớt cả kỷ luật và cả cấp trên trong các đoàn thể nhân dân hoặc cơ quan Chính phủ”. Người yêu cầu “đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật sắt, kỷ luật tự giác của Đảng mà còn phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan đoàn thể cách mạng, của nhân dân”. Rất tiếc là, những điều Hồ Chí Minh đề phòng vẫn có lúc xảy ra như chúng ta đã thấy trước đây cũng như gần đây. Điều đó càng chứng tỏ, những điều răn dạy của Hồ Chí Minh có tầm quan trọng và bức thiết như thế nào đối với một ĐCQ trong bối cảnh xây dựng đất nước hiện nay. Đương nhiên, Đảng chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ của mình thông qua Nhà nước và nhất là được nhân dân ủng hộ. Song, tất cả những điều kiện đó cũng phụ thuộc vào trách nhiệm xây dựng Đảng ta thực sự là một ĐCQ duy nhất của dân, do dân và vì dân như chính mục tiêu xây dựng một nhà nước kiểu mới http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

85

theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, khi nói đến quan điểm Hồ Chí Minh về Đảng và ĐCQ, chúng ta không thể không nói đến nhà nước kiểu mới vốn gắn với một ĐCQ kiểu mới như Hồ Chí Minh quan tâm từ đầu và có sự nhất quán trong hệ thống tư tưởng của Người.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

86

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức của cán bộ, đảng viên hiện nay 1 - Trong sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề đạo đức. Người viết: "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"(1). Chính vì vậy, Người hết sức chú trọng đến việc xây dựng nền tảng đạo đức cách mạng của Đảng, của cán bộ, đảng viên. Người coi trọng cả đức và tài, nhưng đức là "gốc", tài phải lấy đức làm cơ sở. Nếu không có đức thì dù tài giỏi mấy cũng không thể lãnh đạo được nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc với quan niệm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Người sử dụng một cách tài tình những phạm trù đạo đức cũ quen thuộc trong xã hội phong kiến, cải tạo chúng và đưa vào những nội dung mới có tính cách mạng sâu sắc. Tư tưởng đạo đức của Người rất phong phú, hàm súc, nhưng cái cốt lõi là tư tưởng trung với nước, với Đảng, hiếu với dân; Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người chỉ rõ: "Đó là đạo đức cách mạng,... không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người"(2). Theo Người, trung với nước, với Đảng là tự nguyện, tự giác suốt đời phấn đấu cho độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, biến lý tưởng cao đẹp của Đảng thành hiện thực, bất chấp mọi khó khăn, thử thách, kể cả sự hy sinh khi cần thiết. Hiếu với dân là phải tự coi mình là công bộc của dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Đảng ta từ nhân dân mà ra. Cán bộ, đảng viên là con em của nhân dân. Có thể nói, nếu không có http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

87

nhân dân thì không có cách mạng, không có Đảng. Cán bộ, đảng viên có thật sự là công bộc của dân thì mới được dân tin, dân phục, dân yêu, mới lãnh đạo được nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, mỗi cán bộ, đảng viên cần quán triệt sâu sắc hơn nữa tư tưởng công bộc của dân. Thái độ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, sách nhiễu dân, "lên mặt làm quan cách mạng", vi phạm quyền làm chủ của dân là trái với đạo đức cách mạng và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong tám đức lớn: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người viết: "Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. “Thiếu

một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người"(3). Cần, Kiệm, Liêm, Chính được Người giải thích một cách cặn kẽ và nêu lên những thí dụ cụ thể, sinh động. Xin nêu những điểm chính: Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai, là luôn luôn cố gắng, biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình để làm việc lâu dài. Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của một con người. Cần mà không Kiệm thì "làm chừng nào, xào chừng ấy". Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm, không phát triển được. Muốn tiết kiệm có kết quả tốt thì phải khéo tổ chức. Không biết tổ chức thì không biết tiết kiệm.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

88

Liêm là trong sạch, không tham lam. Liêm phải đi đôi với Kiệm, cũng như Kiệm phải đi đôi với Cần. Có Kiệm mới Liêm được, vì xa xỉ mà sinh tham lam. Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng đều là bất Liêm.

Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không thẳng thắn, đứng đắn là tà. Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý. Đối với người, không nịnh hót người trên, không xem khinh kẻ dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp tiến bộ, phải thực hành chữ bác ái. Đối với việc, phải để việc nước lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm. Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, phải quyết làm cho thành công. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc dở thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì có lợi cho mình, phải xét có lợi cho nước không? Nếu không có lợi mà có hại cho nước quyết không làm. Cần, Kiệm, Liêm, Chính là thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác. Có Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì mới đạt đến Chí công vô tư được.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

89

Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những dày công xây dựng nền tảng đạo đức cách mạng của Đảng, giáo dục cán bộ, đảng viên tu dưỡng rèn luyện mà Người còn ra sức thực hành, nêu gương cho cán bộ, đảng viên noi theo. Nhờ vậy, Đảng ta có một đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng, kiên định. Trong cách mạng và kháng chiến, họ đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách ác liệt, không quản ngại gian khổ, hy sinh; nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất, giữ vững khí tiết cách mạng, mưu trí, dũng cảm, tuyên truyền, vận động nhân dân đoàn kết, đấu tranh chống lại kẻ thù tàn bạo và thâm độc. Họ được dân tin, dân phục, dân yêu, được nhân dân đùm bọc, che chở, bảo vệ. Nhờ đó, Đảng đã tổ chức lãnh đạo nhân dân làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công và đưa hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đi đến thắng lợi vẻ vang, giành độc lập hoàn toàn và thống nhất đất nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. 2 - Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy. Đảng chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ nhằm huy động mọi nguồn lực cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng khuyến khích và tạo điều kiện để mọi người vươn lên làm giàu chính đáng; để các nhà doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế kinh doanh hợp pháp, hợp đức, vừa lợi nhà, vừa ích nước. Những người làm ăn giỏi, những nhà doanh nghiệp giỏi ở bất cứ thành phần kinh tế nào đều được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn vinh. Họ chính là đại biểu cho mặt tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa cũng tác động tiêu cực đến xã hội, đến đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đã nảy sinh và phát triển http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

90

tư tưởng "sùng bái" đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, vị kỷ, vụ lợi. Để kiếm được nhiều tiền, càng nhiều càng tốt, nhiều người dùng mọi thủ đoạn như gian lận thương mại, lừa đảo, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, buôn bán ma túy, mua chuộc, hủ hóa cán bộ v.v. làm tổn hại đến lợi ích của nhà nước và của nhân dân, làm cho không ít cán bộ bị sa ngã. Trong khi đa số cán bộ, đảng viên ra sức phấn đấu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, góp phần tạo ra những thành tựu to lớn về mọi mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, thì có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bị khuất phục bởi sức mạnh của đồng tiền, dẫn đến sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, làm xói mòn nền tảng đạo đức cách mạng của Đảng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp, làm tổn thương mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Biểu hiện điển hình của sự suy thoái về đạo đức là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lối sống hưởng lạc, sa đọa, không lành mạnh. Đứng trước thực trạng nêu trên, Đảng, Nhà nước đã có những chủ trương, biện pháp để khắc phục. Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, Chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đảng chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt gắn với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách nền hành chính nhà nước, làm cho Đảng, Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Nhiều vụ trọng án có dính líu với tham nhũng, hối lộ của một số cán bộ có chức, có quyền đã được đưa ra xét xử theo pháp luật. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta đã thẳng thắn thừa nhận: "Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến". Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa IX nhận định: "Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, và phẩm chất đạo http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

91

đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng, kỷ cương, phép nước trong nhiều việc, nhiều lúc chưa nghiêm". Thực trạng đó đang trở thành vấn đề ngày càng bức bách, nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đảng đang cố gắng hoàn thiện đường lối đổi mới để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, tạo nên một sự phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nhanh và bền vững là vấn đề sống còn của cách mạng nước ta. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên đang là một lực cản to lớn của sự nghiệp đổi mới đất nước, gây tổn thất nghiêm trọng trong lĩnh vực kinh tế, gây ảnh hưởng xấu trong lĩnh vực chính trị, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, có lợi cho các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta, nhằm thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn, lật đổ của chúng. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức của cán bộ, đảng viên hiện nay có tầm quan trọng đặc biệt. Đảng cần chăm lo củng cố nền tảng đạo đức cách mạng của Đảng; cần coi trọng yêu cầu xây dựng Đảng về đạo đức trong việc thực hiện nhiệm vụ then chốt xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Phải hết sức coi trọng việc giáo dục thường xuyên tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tập trung vào bốn đức cần, kiệm, liêm, chính, làm cho nó "sâu rễ, bền gốc" trong cán bộ, đảng viên, trước hết là trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể các cấp và trong các tổ chức kinh tế. Cán bộ lãnh đạo có thấm nhuần và thực hành đạo đức cần, kiệm, liêm, chính mới chí công vô tư, làm gương cho cán bộ, đảng viên noi theo, mới gây được ảnh hưởng tốt trong xã hội. Người xưa đã có câu nói rất đúng "Thượng chính thì hạ yên, thượng bất chính thì hạ tắc loạn". Cán bộ lãnh đạo mà thực hành cần, kiệm, liêm, chính thì cán bộ, nhân viên dưới quyền mình cũng phải thực hành, vì nếu không thực hành mà tham ô, lãng phí thì sẽ bị lãnh đạo khiển trách, bị kỷ luật, sa thải, thậm chí bị truy tố trước pháp luật nếu cấu thành tội phạm. Cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cần, kiệm, liêm chính và biến thành hành động, đó là cách "miễn dịch" tốt nhất chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sống http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

92

buông thả, sa đọa... Có như vậy Đảng, Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị mới thật sự trong sạch, vững mạnh, mới tự bảo vệ được mình và mới làm cho xã hội lành mạnh, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Đảng có đường lối chính trị đúng đắn, có đội ngũ cán bộ, đảng viên cần, kiệm, liêm, chính thì vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền mới được củng cố vững chắc, mới được "dân tin, dân phục, dân yêu", không một thế lực nào có thể đánh bại được. "Được lòng dân thì được thiên hạ, mất lòng dân thì mất thiên hạ". Câu nói đó của người xưa quả là chân lý. Để củng cố nền tảng đạo đức cách mạng của Đảng, cán bộ, đảng viên cần học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đảng cần xây dựng một quy chế học tập, tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên đạo đức cần, kiệm, liêm, chính cho tất cả cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo. Học một cách nghiêm túc, tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc, học đi đôi với hành. Hiện nay, tệ tham nhũng, hối lộ, đục khoét của công khá phổ biến và nghiêm trọng trong một số cán bộ có chức, có quyền. Điều này, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm. Theo Người, để thực hiện chữ Liêm, cần tuyên truyền, kiểm soát, giáo dục pháp luật, từ trên xuống, từ dưới lên. Trước nhất là cán bộ các cơ quan, đoàn thể, từ cao xuống thấp. Người viết: "Quan tham thì dân dại". Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì "quan" dù không liêm cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ. Để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM, pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Theo Người, cần làm cho mỗi người phải nhận rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân. Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh mẽ về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Như vậy, Người đã đề ra những biện pháp kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống" trong lĩnh vực đạo đức. Vấn đề tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng trước hết là vấn đề tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo có chức, có quyền là những http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

93

người có trách nhiệm rất lớn đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Đảng cần quan tâm giáo dục thường xuyên và có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ. Tiến hành đồng thời với việc nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ quyền hạn của mình trong việc kiểm soát cán bộ và có cơ chế, quy chế cụ thể để nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền kiểm soát ấy. Đối với cán bộ, đảng viên, không còn giữ được cần, kiệm, liêm, chính, sa đọa về phẩm chất, đạo đức thì kiên quyết xử lý nghiêm minh bằng kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước. Phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", trong "xây" có "chống", trong "chống" có "xây", làm cho tổ chức đảng, bộ máy nhà nước và cả hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, Đảng ta xứng đáng là một Đảng đạo đức, văn minh, lãnh đạo toàn dân đoàn kết, đưa nước ta phát triển trên con đường dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

94

Một nền tư pháp nhân dân Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về "lấy dân làm gốc" và một "Nhà nước của dân, do dân, vì dân", không thể không nói đến nền tư pháp nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đặt nền móng. Cho tới nay và mãi mãi về sau, những lời dạy "Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư" sẽ vẫn luôn được mọi thế hệ cán bộ ngành Tư pháp cách mạng Việt Nam khắc cốt ghi tâm... Xuyên suốt tư tưởng công lý dân chủ Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, ý tưởng về một chế độ xã hội mới tốt đẹp, về một nền công lý dân chủ, tiến bộ, một nền tư pháp nhân dân đã xuất hiện từ rất sớm và tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Tiến sĩ Uông Chu Lưu - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp nhấn mạnh: Nền tư pháp đó được đặt trong một hệ thống bộ máy ''chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân trên nền tảng dân chủ. Nền tư pháp đó thể hiện rõ nét những đặc điểm của Việt Nam trên cơ sở tiếp thu kế thừa được các giá trị văn minh, tiến bộ của nhân loại về tư pháp cũng như các giá trị văn hoá của tư tưởng chính trị - pháp lý phương Đông'' Nền tư pháp nhân dân là một nền tư pháp gắn bó với dân, gần dân, vì dân, một nền tư pháp của những thẩm phán ''áo vải'' nhân dân, lăn lộn với dân và hiểu dân chứ không phải là những quan tòa án xa vời khép kín cánh cửa công đường mà xử án tạo ra sự cách biệt với dân. Theo Bộ trưởng Uông Chu Lưu, những đặc điểm nêu trên của nền tư pháp nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện đậm nét qua các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp: nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, có sự tham gia của đại diện nhân dân vào việc xét xử của Tòa án, Tòa án xét xử công khai... Tòa án nhân dân cách mạng

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

95

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiện - Ủy viên Trung ương Đảng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao - đưa ra một cái nhìn tổng quát, làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về nền tư pháp nhân dân thể hiện qua việc xây dựng và tổ chức hệ thống Toà án nhân dân. "Bằng việc ký Sắc lệnh số 33-SL ngày 13/9/1945 về việc thành lập các Tòa án quân sự trong phạm vi toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng hệ thống Toà án ở nước ta. Mặc dù có tên gọi là Tòa án quân sự nhưng với thẩm quyền được qui định về bản chất thì đây chính là Tòa án cách mạng của chính quyền dân chủ nhân dân mà không phải là Tòa án quân sự thuần túy như nhiều người từng hiểu". Mặc dù là Tòa án ở thời kỳ cách mạng mới thành công nhưng với các quy định về thành phần hội đồng xét xử, thủ tục xét xử, đường lối xét xử theo các nguyên tắc chuẩn mực và cơ bản trong hoạt động tư pháp như xét xử công khai, có tranh luận, có nghị án, khoan hồng, nhân đạo đối với người biết ăn năn hối cải, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và quyền xin ân xá, giảm án của người bị kết án tử hình...hoạt động của Tòa án quân sự thể hiện bản chất tiến bộ, dân chủ và pháp quyền của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiện kết luận: "Chính điểm này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh là người am hiểu tường tận và coi trọng giá trị của các nguyên tắc tư pháp thực định đã được áp dụng trên thế giới và được thừa nhận trong học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin. '' Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư Xuất phát từ bản chất của Nhà nước và pháp luật là dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng yêu cầu công tác xét xử nói riêng và công tác tư pháp nói chung đều phải vì lợi ích của nhân dân. Tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành Tư pháp năm 1950, Người dạy: "Các chú hiện nay làm công tác tư pháp, công tác xử án. Vậy muốn làm tốt công tác ấy, (...) trước hết phải đề cao lòng thương nước, thương đồng bào, phải căm ghét bọn thực dân xâm lược và bè lũ tay sai của chúng. Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức''. Người đã đề ra những yêu cầu chuẩn mực về năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của người làm công tác tư pháp trong chính quyền mới: "Các bạn là những người phụ trách pháp luật. Lẽ dĩ nhiên, các bạn phải nêu cao cái gương ''Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư" cho nhân http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

96

dân noi theo. '' Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Thế Liên - Thứ trưởng Bộ Tư pháp tâm đắc: ''Đó thực sự là tiêu chuẩn phản ánh sự đòi hỏi của nhân dân, của cách mạng đối với người cán bộ tư pháp. Chỉ với cán bộ tư pháp như thế mới xứng đáng và hoàn toàn phù hợp với bản chất của nền tư pháp mới của ta, một nền tư pháp hoàn toàn mới về chất so với nền tư pháp của chính quyền thực dân, phong kiến- chính quyền của các chế độ bóc lột trong đó dung dưỡng áp bức, bất công, dung dưỡng nền tư pháp "nén bạc đâm toạc tờ giâý ''. Chỉ lối cho công cuộc cải cách tư pháp Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật vẫn còn nguyên những giá trị mang tầm thời đại, nhất là khi Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó có cải cách tư pháp. Bộ trưởng Uông Chu Lưu khẳng định, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nền tư pháp nhân dân, cần coi Tòa án là khâu trung tâm của hệ thống tư pháp để tiến hành cải cách; đồng thời, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp vững vàng về chính trị, tư tưởng, tốt giỏi về chuyên môn nghiệp vụ có bản lĩnh nghề nghiệp thực sự là những người vừa có tâm vừa có tầm ''. Còn Chánh án Toà án nhân dân tối cao Nguyễn Văn Hiện thì bày tỏ: " Chúng ta đang trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức các Tòa án theo mô hình gắn với cấp hành chính. Cần vận dụng triệt để hơn nữa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vấn đề này, cụ thể cần nghiên cứu để tiến tới hình thành Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm tùy theo dân số và số vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án ở một khu vực hành chính nhất định mà không nhất thiết mỗi đơn vị hành chính từ cấp huyện trở lên đều phải có Tòa án như hiện nay. Đặc biệt, cần trở lại với nguyên tắc tuyển chọn thẩm phán từ những người có địa vị khác nhau, nhưng phải là những người ưu tú trong giới luật gia, luật sư hoặc những sinh viên giỏi đã qua đào tạo về nghiệp vụ xét xử. '' Sửa đổi lối làm việc”: một số điều Bác dạy về công tácxây dựng Đảng

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

97

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” vào tháng 10 – 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp, quân và dân ta gặp muôn vàn khó khăn và thử thách: chúng ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với ngân khố trống rỗng, chính quyền non trẻ, nạn đói còn chưa chấm dứt... Ngay lúc đó, Bác Hồ đã khẳng định nhân tố hàng đầu của thắng lợi đó là sự lãnh đạo của Đảng: “Đảng ví như cái máy phát điện...máy phát mạnh thì đèn sáng''. Vì vậy Bác đã không ngừng chăm lo xây dựng Đảng trở thành một Đảng mácxít-lêninít vững mạnh để lãnh đạo cuộc kháng chiến của toàn dân đi đến thắng lợi hoàn toàn. Trong tác phẩm này, Hồ Chủ tịch đã phân tích nhiều quan điểm quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Ở đây xin đề cập tới một số quan điểm có ý nghĩa, tác dụng của nó còn nguyên giá trị cho giai đoạn cách mạng hiện nay. I/ Mọi đảng viên và cán bộ của Đảng phải xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời do nhu cầu của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam chống lại sự bóc lột, áp bức của giai cấp tư sản (Mà chủ yếu là giai cấp tư sản chính quốc Pháp). Chính thế cho nên ngay trong phong trào công nhân đã có yếu tố dân tộc độc lập, yếu tố yêu nước, từ đó mà mở rộng ra phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác nhau trong dân tộc Việt Nam và vì vậy mà Đảng cộng sản Việt Nam ra đời được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết bởi sự kết hợp giữa 3 yếu tố. - Chủ nghĩa Mác - Lênin. - Phong trào công nhân. - Phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam lại gắn bó chặt chẽ giữa lợi ích giai cấp với lợi ích của nhân dân 1ao động Việt Nam và toàn dân tộc Việt Nam. Bác Hồ đã khẳng định ''Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác'', ''Vì toàn dân được giải phóng thì Đảng được giải phóng''. Như vậy chúng ta thấy rõ rằng Đảng Cộng sản Việt http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

98

Nam ra đời không có mục đích tự thân, không, phải ''là một tổ chức để làm quan phát tài'' mà chỉ có mục đích duy nhất là lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ''làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” tiến tới giải phóng giai cấp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Bác dạy mỗi đảng viên chúng ta phải hiểu rằng lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng, lợi ích của mỗi bộ phận phải phục tùng lợi ích toàn thể, lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài''. ''Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc”. Hiện nay nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành trong cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang coi lợi ích cá nhân người 1ao động là động lực trực tiếp cho sự phát triển. Nhưng một số người đã hiểu nhầm thành “lợi ích cá nhân'' là động lực cao nhất, thậm chí duy nhất. Họ suy nghĩ và hành động chỉ trên cơ sở lợi ích cá nhân của họ và gia đình họ. Họ vào Đảng và làm việc trong Đảng chỉ vì bản thân họ sẽ được cái gì, mất cái gì. Vì động cơ sai lạc như vậy nên trong tuyển dụng, đề bạt, bố trí sử dụng cán bộ, trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ lrong Đảng; trong việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất; trong đấu tranh tự phê bình và phê bình... thường diễn ra kiểu êkíp, cánh hẩu, bè phái chứ không xuất phát từ lợi ích chung của Đảng mà làm. Đã đến lúc chúng ta cần giáo dục động cơ vào Đảng cho quần chúng, đảng viên hơn lúc nào hết - phải coi trọng chất lượng trong kết nạp Đảng - phải đình chỉ sự kết nạp ở những chi bộ và đảng bộ yếu kém, mất đoàn kết nghiêm trọng và kéo dài. Bác nhấn mạnh đến ''đạo đức cách mạng'' ''cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân''. Đạo đức cách mạng đã được Bác tổng kết bằng năm điều là ''nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm''. Theo Bác Hồ phân tích thì đạo đức đó bao gồm cả phẩm chất và năng lực của người cán bộ, đảng viên. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mỗi cán bộ cần rèn luyện theo ba tiêu chuẩn sau:

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

99

- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước (đó là cái nhân, cái nghĩa, cái dũng lớn nhất của con người). - Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm (đó 1à cái liêm, cái nghĩa, cái dũng lớn nhất của con người). - Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp 1uật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao (đây là cái trí, cái nhân, cái 1iêm lớn nhất của mỗi người). Như vậy, ba tiêu chuẩn chung của người cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay như Nghị quyết Trung ương ba, khoá VIII đã đề ra cũng chính là nội hàm cơ bản của ''đạo đức cách mạng'' mà Bác Hồ đã đề cập đến trong ''Sửa đổi lề lối làm việc'' từ tháng 10 năm 1947. Bác còn nói: ''Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiên sĩ xung phong, đó là do sự tự giác…Mỗi người đảng viên phải cố gắng cho xứng đáng là một ngư trong những người đại biểu của dân tộc''. Mỗi đảng viên phải là chiến sĩ tiên phong, theo Bác, muốn vậy, mỗi đảng viên phải tránh được ba khuyết điểm: ''bệnh chủ quan'', ''bệnh hẹp hòi'', ''bệnh ích kỷ''. “Bệnh chủ quan'' Bác nói: ''Nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông''. Do vậy, Bác đòi hỏi mỗi đảng viên phải ra sức học tập và rèn luyện để có một ''lý luận chân chính''. Bác nới: “Lý luận là đem thực tê” trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu để xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế đó là lý luận chân chính. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

100

“Bệnh hẹp hòi'', một chứng bệnh mà ''trong thì ngăn trỏ Đảng thông nhất, đoàn

kết. Ngoài thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân''. “chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hoá v.v.. đều do bệnh hẹp hòi mà ra''. Muốn chống bệnh hẹp hòi, Đảng phải ra sức thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt khác; phải kiên quyết với những hiện tượng bè phái, gây mất đoàn kết trong Đảng. Tiếc rằng hiện nay nhiều nơi mất đoàn kết nghiêm trọng và kéo dài, chúng ta còn chưa có những giải pháp kiên quyết để chấm dút sớm, còn để ảnh hưởng đến uy tín, tâm tư, tình cảm của cả một đơn vị, sau đó lại cho rút êm, chuyển đẹp'', gây hậu quả xấu đối với uy tín của Đảng trước nhân dân. Bệnh ích kỷ'' chính là chủ nghĩa cá nhân. Bác nói: ''chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc do đó mà sinh ra căn bệnh nguy hiểm'' như bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, bệnh thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ... “Để chữa khỏi các bệnh kia ta phải tự phê bình ráo riết và phải lấy lòng thân ái,

lấy lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau''. “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa

chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh, mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng''. II/Để Đảng mạnh chúng ta phải “phê bình và sửa chữa”. Đảng cũng là một thực thể xã hội do vậy trong quá trình vận động và phát triển trong Đảng và mỗi cán bộ đảng viên không thể tránh khỏi những sai lầm khuyết điểm. Vả lại, cán bộ, đảng viên cũng là những con người, họ cũng có gia đình, quan hệ xã hội và sống trong những hoàn cảnh cụ thể. Vậy không thể http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

101

tránh được những khuyết tật của những con người. Đặc biệt, trong hoàn cảnh hiện nay, mặt trái của nền kinh tế thị trường như: phân hoá giàu nghèo, buôn lậu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác không ngừng tác động từng ngày, từng giờ vào mỗi cán bộ, đảng viên. Chúng ta hoàn toàn không sợ những tật bệnh và khuyết điểm đó mà chỉ sợ mỗi tổ chức, mỗi đảng viên có kiên quyết “phê bình và sửa chữa'' như Bác dạy hay không? Hay còn nể nang, nề tránh thậm chí ''ô dù, ''bao che'', ''trốn tội''. Nghị quyết 6 lần 2 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đã đề ra chương trình của cuộc vận động và chỉnh đốn Đảng trong đó có biện pháp quan trọng là mọi đảng viên và mọi tổ chức Đảng phải nghiêm chỉnh thực hành cuộc đấu tranh ''tự phê bình và phê bình'' trong Đảng. Vậy ý nghĩa, nội dung và cách làm thế nàn cho có hiệu quả chúng ta hãy đọc lại “Sửa đổi lối làm việc'' của Bác. Bác nói ''mục đích của phê bình cột giúp nhau sủa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt để đoàn kết và thống nhất nội bộ''. “Vì Vậy phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để thật thà

không nể nang, thêm bớt.. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người''. Trong lúc phê bình khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến, một mặt là để sửa chữa cho nhau, một mặt là để khuyến khích nhau bắt chước nhau”. Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu hiểu những khuyết điểm của mình để tự mình sửa chữa”. “Nói về từng người nể nang không phê bình …khác nào bỏ thuốc độc cho

mình”. “Nói về Đảng, một đảng mà dâu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng''. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

102

''Phê bình không phải để công kích, để nói xấu, để chửi rủa”. Nếu ai cũng thiết thực phê bình'' và ''thiết thực sửa đổi'' thì Đảng sẽ vững mạnh. Trong thực tế cuộc sống hiện nay, ''thiết thực phê bình'' càng không phải đơn giản. Sống trong cơ chế thị trường và con người phải chịu sự chi phối ràng buộc của hệ thống luật pháp Nhà nước - mà hệ thống luật pháp của ta - nhà nước pháp quyền của ta lại chưa hoàn thiện, đồng bộ, chưa đầy đủ. Mấy ai vi phạm pháp luật, vi phạm 1ợi ích chung như tham nhũng, buôn lậu, bè cánh, gia trưởng, mất dân chủ lại dám tự phê bình trước tổ chức, trước tập thể. Mấy ai dám phê bình thủ trưởng, phê bình người phụ trách những khuyết điểm kể trên. Thường thường trong tập thể, trong quần chúng, người ta chỉ tìm cách phê bình một cách ''khôn khéo, sáng suốt'' chứ không dám nói thẳng, nói thật, nói hết. Do vậy, người phụ trách càng phải hiểu mà ''tự sửa mình”. Mặt khác, tổ chức Đảng phải có vai trò: gợi ý, tổ chức cho cán bộ, đảng viên và tổ chức cấp dưới tiến hành tự phê bình và phê bình. Đặc biệt phải có vai trò chỉ đạo, hướng dẫn trong việc sửa chữa khuyết điểm một cách thiết thực với những thời hạn nhất định. Nơi nào, đảng viên nào, cán bộ nào chỉ coi tự phê bình và phê bình là một hình thức dân chủ, thậm chí chỉ là một biện pháp để phát hiện những người trung thực, thẳng thắng dám đấu tranh để trù dập và vô hiệu hoá họ, chúng ta cần có biện pháp trừng trị nghiêm khắc. Có thế phê bình mới thiết thực và mới thiết thực sửa chữa như Bác Hồ thường mong muốn.

III/Vấn đề cán bộ là cái gốc của mọi việc:

Lênin từng khẳng định: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào''. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

103

Trong giai đoạn xây dựng đất nước, Lênin lại nói: ''Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh hiện nay đó là then chốt. Nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn''. Vận dụng tư tưởng của Lênin, trong “Sửa đổi lối làm việc'', Bác Hồ chúng ta đã khẳng định: ''Cán bộ là cái gốc của mọi công việc'' và ''Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém''. Trong đó Bác nói chúng ta phải : 1- Huấn luyện cán bộ'', ''huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng''. Cán bộ cần cái gì phải huấn luyện cái đó, học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. 2- Dạy cán bộ và dùng cán bộ, phải ''trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc của chúng ta'', “Phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng cây cối qúi báu''. Để làm tốt việc này, trong Chiến lược cán bộ Đảng ta đã chỉ rõ phải có quan điểm đánh giá chữ đúng (phải dựa vào tiêu chuẩn cán bộ, hiệu quả công tác, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể; phải có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong đánh giá; phải công khai, dân chủ và tập thể trong đánh giá cán bộ...) tuyển chọn cho tốt để đảm bảo sự kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ. 3- Đặc biệt Bác nói nhiều đến chính sách cán bộ: Bác nói, cán bộ cũng 1à những con người cụ thể - có cái chung nhưng lại rất riêng trong mỗi người cán bộ. Do vậy, để phát huy sức mạnh của từng người từ đó mà phát huy sức mạnh của cả đội ngũ cán bộ, chúng ta phải ''hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bó, cất nhắc cán bộ, yêu thương cán bó, phê bình cán bộ''.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

104

Phải hiểu cán bộ một cách sâu sắc từ hoàn cảnh sống đến nỗi niềm, tâm tư, tình cảm, từ mặt mạnh đến mặt yếu của riêng từng cán bộ. Phải dùng cán bộ theo kiểu đa dạng, đa năng, đa tài chứ không được dùng cán bộ theo kiểu êkíp, cánh hẩu, gia đình, địa phương chủ nghĩa.

IV/Cách lãnh đạo – phương thức lãnh đạo của Đảng: Để lãnh đạo cách mạng thì nội dung lãnh đạo và các hình thức biểu hiện phải phù hợp nhau trong từng thời kỳ cách mạng. Khi nội dung đã thay đổi nhất thiết hình thức phải biến đổi theo. Lênin dạy chúng ta là: “Đấu tranh giữa nộl dung và hình thức, thay đổi nội dung, vứt bỏ hình thức''.

Chính vì vậy, Bác Hồ tổng kết ''lãnh đạo đúng nghĩa là: 1- Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng là người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta. 2- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong. 3- Phải tổ chức sự kiểm soát. Mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được''. Nội dung là những yếu tố, những mặt, những mối liên hệ của sự vật tác động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật phát triển. Vậy nội dung của sự Iãnh đạo chính là những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trong từng giai đoạn cách mạng. Nếu ở thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, nội dung đó là giải quyết mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc xâm lược, giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

105

chủ phong kiến thì trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, nội dung của sự lãnh đạo chính là giải quyết mâu thuẫn giữa sự nghèo nàn lạc hậu với sự tiến bộ, giàu có, mâu thuẫn giữa con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa mà lẽ dĩ nhiên những nội dung của những mâu thuẫn đó luôn luôn biến động và phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó những hình thức biểu hiện nó cũng phải luôn luôn biến đổi. Những của nội dung. Tuy nhiên, tư tưởng chỉ đạo trong cách lãnh đạo mà Bác Hồ đã chỉ cho chúng ta từ những năm 1947 để đổi mới cách lãnh đạo (phương thức lãnh đạo) chính là 'phát huy quyền làm chủ của dân''. Bác nói: ''Chẳng những phải lãnh đạo quần chúng mà lại phải học hỏi quần chúng, “phải dùng cách từ trong quần chúng ra và trở lại nới quần chúng'' vì “lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng''. “Muốn dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu

khó, phải khéo khêu gợi cho họ nói...như vậy, vừa nâng cao trình độ của dân chúng, mà cũng nâng cao kinh nghiệm của mình''.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để đổi mới cách lãnh đạo, Đảng ta còn bổ sung và phát triển sâu hơn tư tưởng của Bác là phải xây dựng cơ chế ''Đảng cầm quyền'' và “xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân'' để phù hợp với cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Ngoài ra, để bàn sâu vễ ''cách lãnh đạo'', trong “Sửa đổi lối làm việc” Bác Hồ còn đề cập đến một số hình thức và biện pháp cụ thể nhưng vẫn còn đúng mãi cho đến nay đó là “phương pháp kiểm tra''. Lãnh đạo phải kiểm tra, không kiểm tra coi như không lãnh đạo; phương pháp xây dựng điển hình, nhân điển hình và phương pháp tập trung dân chủ. Bác nói: Bất kỳ việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: một là liên hợp chính sách chung vớl chỉ đạo riêng; hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng''.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

106

Bác còn công kích thói ba hoa, khuếch trương thành tích, rỗng tuyếch... Bất luận phương pháp cách mạng nào cũng phải gắn với dân, sát cơ sở, không được quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

107

Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với khuyết điểm của Đảng và những cán bộ mắc sai lầm Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là người hết sức chú trọng chăm lo công tác xây dựng Đảng, sao cho Đảng ta thực sự là một đảng chân chính cách mạng, hoàn thành sứ mệnh lịch sử được dân tộc, nhân dân trao cho. Về công tác này, Người đề cập đến nhiều vấn đề thành một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, sâu sắc; trong đó có quan điểm về thái độ đối với khuyết điểm của Đảng và thái độ đối với những cán bộ, đảng viên mắc sai lầm. Trước hết, theo Hồ Chí Minh, trong đấu tranh cách mạng, trong công tác hàng ngày, Đảng ta cũng như cán bộ, đảng viên của Đảng không tránh khỏi mắc khuyết điểm, sai lầm; điều quan trọng là thấy rõ khuyết điểm, sai lầm, không giấu giếm và quyết tâm sửa chữa, để Đảng ta, cán bộ ta tiến bộ mãi. Người chỉ rõ: “Trên con đường phát triển cách mạng của mình, Đảng ta, quân đội ta cũng như mỗi đồng chí chúng ta luôn luôn có ưu điểm và không trách khỏi có khuyết điểm. Chỉ có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng, sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai, mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi”. Người còn nói: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”; “có hoạt động thì khó mà hoàn toàn tránh khỏi sai lầm. Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”3. Hồ Chí Minh còn khẳng định: “Đảng là người, Đảng là cán bộ, là đảng viên, tất nhiên là có sai lầm”4. Và theo Người, Đảng có khuyết điểm, cán bộ mắc sai lầm thì không nên giấu giếm. Người chỉ rõ: “Nói về Đảng, một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

108

khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Quan điểm này của Hồ Chí Minh vừa thể hiện tính khách quan, khoa học, vừa tỏ rõ tính cách mạng của một người chân chính trong cách nhìn nhận khuyết điểm của Đảng, sai lầm của cán bộ, đảng viên của Đảng. Đối với khuyết điểm của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Vì Đảng rất to, người rất đông; mỗi hạng người lại có thói quen, tính nết, trình

độ, tư tưởng, nhận xét khác nhau. Nhất là khi phong trào cách mạng càng sôi nổi, hoàn cảnh càng khó khăn, thì sự khác nhau đó càng rõ rệt, càng trở nên gay go.” Rồi Người nêu câu hỏi: “Nên giải quyết những mối mâu thuẫn đó thế nào?”. Hồ Chí Minh nhận định: “Có người thì cho rằng: trong Đảng việc gì cũng tốt, không có khuyết điểm gì đáng lo. Có người lại cho rằng: trong Đảng cái gì cũng kém, đầy khuyết điểm, vì vậy mà họ bi quan, thất vọng”. Theo Người: “Hai cách nhận xét đó đều không đúng”. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sự thật là: Đảng ta rất tiên tiến, rất vẻ vang. Nhưng nội bộ vẫn còn những sai lầm và khuyết điểm. Đồng thời, chúng ta thấy cái nguồn gốc của những sai lầm khuyết điểm đó, và chắc tìm được cách sửa chữa…” Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Thái độ mỗi người đối với những khuyết điểm của Đảng ta cũng khác nhau: Bọn phản động thì lợi dụng những khuyết điểm đó và tô vẽ thêm để phá hoại Đảng ta. Lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm đó để đạt mục đích tự tư tự lợi của họ. Đó là thái độ của đảng viên và cán bộ đầu cơ.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

109

Bọn thứ ba thì sao cũng mặc kệ, sao xong chuyện thì thôi. Không phê bình, không tự phê bình. Đó là thái độ của những đảng viên và cán bộ ươn hèn, yếu ớt. Bọn thứ tư thì đối với những người có khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu Đảng không làm như thế thì họ cho rằng: Thôi, hỏng hết rồi! Do đó, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh “chủ quan”. Thái độ thứ năm, là thái độ đúng. Tức là: a) Phân tích rõ ràng, cái gì đúng, cái gì sai. b) Không chịu nổi ảnh hưởng của những chủ trương sai lầm, những phần tử không tốt. Ra sức học tập và nâng cao những kiểu mẫu tốt. c) Không để mặc kệ. Mà ra sức tranh đấu sửa chữa những khuyết điểm, không để nó phát triển ra, không để nó có hại cho Đảng. d) Không làm máy móc. Nhưng khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ. đ) Đoàn kết Đảng bằng sự tranh đấu nội bộ. Nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng.” Hồ Chí Minh còn chỉ rõ rằng: “Bọn phản động và bọn đầu cơ là địch nhân lọt vào trong Đảng để phá hoại. Vì

vậy chúng ta phải ra sức đề phòng. Mỗi khi trong Đảng có khuyết điểm thì chúng ta phải tìm cách chớ để cho ai lợi dụng. Đó là phận sự của mỗi đảng viên chân chính”. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

110

“Thái độ thứ ba, ai mặc kệ ai, cố nhiên cũng không đúng. Tuy vậy, trong Đảng

còn có nhiều người giữ thái độ đó, nhất là khi cấp dưới đối với cấp trên. Thái độ đó thường sinh ra thói “không nói trước mặt, hục hặc sau lưng”. Nó gây nên sự uất ức và không đoàn kết trong Đảng. Nó để cho bọn vu vơ có thể chui vào hoạt động trong Đảng. Nó để cho khuyết điểm ngày càng chồng chất lại và phát triển ra.” “Nếu theo thái độ thứ tư thì Đảng chỉ còn một nhóm cỏn con, vì số đông sẽ bị

khai trừ hết. Mà chính những người có thái độ đó cũng bị khai trừ, vì họ đã phạm cái khuyết điểm hẹp hòi.” Hồ Chí Minh kết luận rằng: “Trong công tác, trong đấu tranh, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”. Đối với những cán bộ mắc sai lầm, theo Hồ Chí Minh cũng phải có thái độ khoa học, cách mạng, rất độ lượng song cũng rất nghiêm khắc. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm, khuyết điểm”. Theo Người: “Trừ những bọn cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm, sai lầm vì không hiểu, không biết. Vì vậy, đối với cán bộ bị sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế, mà công kích họ. Trái lại, ta phải dùng thái độ thân thiết, giúp họ tìm ra cái cớ vì sao mà sai lầm? Sai lầm như thế sẽ có hại đến công việc thế nào? Làm thế nào mà sửa chữa? Tóm lại, phải phê bình cho đúng.” Hồ Chí Minh còn chỉ rõ rằng: “Muốn họ thành tâm sửa chữa, phải giải http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

111

thích rõ ràng, làm cho họ tự trông thấy, tự nhận rõ sai lầm đó, làm cho họ vui lòng sửa đổi, chứ không phải bị cưỡng bức mà sửa đổi”. “Sự sửa đổi khuyết điểm, một phần cố nhiên là trách nhiệm của cán bộ đó. Nhưng một phần cũng là trách nhiệm của người lãnh đạo”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng. Vì vậy, cần phải phân tách rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng”. Đối với những cán bộ phạm sai lầm do “hám danh trục lợi”, “cố ý phá hoại”, lại “ngoan cố, không chịu ăn năn”, “phê bình, giáo dục mấy cũng cứ ỳ ra, không chịu sửa đổi”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đối với hạng người này, chúng ta phải nghiêm khắc, phải mời họ ra khỏi Đảng, “phải có kỷ luật thích đáng”, để tránh “con sâu làm rầu nồi canh”. Hồ Chí Minh dạy rằng: “Cách đối với cán bộ là một điều trọng yếu trong sự tổ chức công việc. Cách đối với cán bộ có khéo, có đúng thì mới thực hiện được nguyên tắc: “Vấn đề cán bộ quyết định mọi việc.” Người còn nhấn mạnh rằng: “Phê bình cho đúng, chẳng những không làm giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm”. Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ đối với khuyết điểm của Đảng và đối với cán bộ mắc sai lầm vừa khoa học vừa cách mạng, rất độ lượng và cũng rất nghiêm khắc. Người cho rằng, Đảng ta, cán bộ, đảng viên của Đảng trong đấu tranh cách mạng, trong công tác hàng ngày không thể tránh khỏi mắc khuyết điểm, bị sai lầm; chúng ta không sợ mắc khuyết điểm, không sợ bị sai lầm; điều quan trọng là không giấu giếm khuyết điểm, sai lầm của mình, tìm ra http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

112

nguyên nhân dẫn tới khuyết điểm, sai lầm, rồi tìm mọi cách để sửa chữa và quyết tâm sửa chữa; mặt khác, tuỳ theo tội nặng hay tội nhẹ, Đảng phải xử phạt cán bộ bị sai lầm cho đúng. Đối với những cán bộ, đảng viên cố ý sai lầm, cố tình phá hoại mà ngoan cố, không chịu ăn năn, sửa chữa, Đảng phải có kỷ luật thích đáng, không để ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Có vậy, Đảng ta, cán bộ, đảng viên của Đảng mới tiến bộ không ngừng./.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

113

“Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức

cán bộ, đảng viên hiện nay” Xây dựng đạo đức cách mạng là một trong những vấn đề căn bản mang tính quy luật của một chính đảng cách mạng, và là một nội dung quan trọng không thể thiếu ở mỗi người đảng viên, cán bộ của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: "Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". "Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang". Trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp hiện nay, sứ mệnh lịch sử của Đảng ta hết sức to lớn, đòi hỏi Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, có đạo đức cách mạng và trí tuệ, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Điều này càng trở nên hết sức cấp bách và nặng nề, khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Đảng ta đã cảnh báo rằng: "Trong công tác xây dựng Đảng... đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống". Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, để góp phần thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng ngang tầm trọng trách lịch sử, chúng ta càng phải gìn giữ và phát triển cái "gốc", cái "nền tảng" của người cách mạng - điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời dày công vun đắp và không ngừng bảo vệ. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

114

thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân". Chúng ta biết rằng những vấn đề đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện, cụ thể và sâu sắc với mọi đối tượng, trên mọi lĩnh vực hoạt động, mọi phạm vi, trong các mối quan hệ của con người... từ đó Người khái quát thành những chuẩn mực giá trị chung nhất, cơ bản nhất mang tính phổ quát của nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng Việt Nam. đạo đức của cán bộ, đảng viên không nằm ngoài nền đạo đức chung của dân tộc. Nhưng với tư cách vừa là người lãnh đạo, vừa là "công bộc" của nhân dân, người cán bộ, đảng viên có những chuẩn mực đạo đức mang ý nghĩa rất to lớn đối với yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng, của cách mạng. Những vấn đề đạo đức cách mạng mà Người đặt ra đối với cán bộ, đảng viên chính là nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời để ngăn chặn, khắc phục những hiện tượng tha hóa, tiêu cực như quan liêu, tham nhũng, cậy quyền, cậy thế, lợi dụng quyền lực, tham quyền cố vị, ở trong cả 3 mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng chúng ta thấy có những luận điểm cơ bản sau: Một là, đạo đức là cái "gốc" của người cách mạng. Điều đó có nghĩa là để làm người cách mạng, trước hết phải có đạo đức cách mạng. Và đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là của người lãnh đạo, có vai trò cực kỳ quan trọng. Không có đạo đức cách mạng thì dù có tài giỏi mấy cũng không thể lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Nói như đồng chí Phạm Văn Đồng: theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là tiền đề tiên quyết. Nó còn là giá trị thuộc về nhân cách của mỗi con người, là sức mạnh để người cách mạng thực hiện lý tưởng, mục tiêu của mình.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

115

Hai là, đạo đức là sức mạnh tinh thần to lớn. Người có đạo đức cách mạng mới gánh được nặng và đi được xa. Vì vậy vấn đề rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Có như vậy mới hoàn thành được công việc cách mạng khó khăn, mới đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Ba là, đạo đức cách mạng là nhân tố làm nên sức lôi cuốn của cán bộ, đảng viên, sức mạnh của Đảng, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ: quần chúng nhân dân chỉ thực sự yêu mến, kính trọng những người có đạo đức cách mạng, vì lợi ích của Đảng, của giai cấp, của dân tộc. Người còn chỉ ra rằng: Một đảng, mỗi con người, hôm qua là vĩ đại, không phải hôm nay cũng được mọi người yêu mến, kính trọng, nếu như lòng dạ không trong sáng, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Chính sức mạnh của Đảng ta, những thắng lợi của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng suốt mấy chục năm qua, luôn gắn liền với đạo đức cách mạng của người đảng viên. Bởi thực sự họ đã nêu gương và phát huy được vai trò tiên phong, lãnh đạo đối với quần chúng. Và chính Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời, mẫu mực của đạo đức cách mạng, để mỗi người chúng ta học tập. Bốn là, đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có. Nó do rèn luyện, giáo dục hằng ngày của mỗi người, từng tổ chức mà hình thành, phát triển. Cũng như "ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Bởi vậy, để có đạo đức cách mạng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi người, trên cương vị công tác của mình phải thể hiện trong thực tiễn phong trào cách mạng bằng nhận thức và những việc làm cụ thể. Xa rời thực tiễn, tách mình khỏi phong trào đấu tranh cách mạng của đất nước, dân tộc thì không thể có đạo đức cách mạng.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

116

Về những giá trị chuẩn mực của đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải có và không ngừng rèn luyện là:

Thứ nhất, trung với nước, hiếu với dân. Đây là mối quan hệ trước nhất, lớn nhất của người cách mạng. Xưa, trong hệ giá trị tinh thần truyến thống của dân tộc, "trung, hiếu" là thang bậc đầu tiên của đạo đức con người. Ngày nay, nước là của dân, do dân làm chủ, trung với nước không thể không hiếu với dân; và hiếu với dân là thước đo căn bản nhất, trước nhất để thẩm xét, đánh giá lòng trung với nước. Thứ hai, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Đó là những giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống được Hồ Chí Minh kế thừa, tiếp biến và phát triển với nội dung mới mang ý nghĩa mới, trong điều kiện Đảng cầm quyền. Cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị hơn ai hết càng phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện những phẩm chất đó. Thứ ba, yêu thương con người, luôn tin tưởng ở quần chúng và sống có tình, có nghĩa. Người cách mạng vốn là người giàu tình cảm. Phải có tình cảm cách mạng mới làm được sự nghiệp cách mạng. Vì yêu thương gia đình, yêu thương đồng bào mình, người cách mạng chấp nhận mọi hy sinh cho đồng bào, cho dân tộc. ở Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không chỉ có lòng nhân ái mà còn phải tin dân, kính trọng dân và luôn vì dân. Người nói: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong". Nhân dân là lực lượng vô địch, không ai có thể chiến thắng được sức mạnh của quần chúng nhân dân.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

117

Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Cán bộ, đảng viên học và hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là để "sống với nhau có tình có nghĩa", "nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin được". Thứ tư, có tinh thần quốc tế trong sáng. Tinh thần quốc tế trong sáng là sự đối lập với chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô-vanh, hẹp hòi. Nó hướng vào mục tiêu hòa bình, hữu nghị, dân chủ và tiến bộ xã hội; làm cho con người sống cao thượng, sống đẹp đẽ. Đây là phẩm chất đạo đức không thể thiếu của con người trong thời đại ngày nay. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực thực hành đạo đức cách mạng. Về con đường, phương pháp xây dựng nền đạo đức mới và thực hành đạo đức trong thực tế, Người đòi hỏi từng tổ chức, mỗi cơ quan, đoàn thể, và mọi người, nhất là từng cán bộ, đảng viên phải không ngừng: 1 - Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn, giữa giáo dục đạo đức với thực hành đạo đức, giữa nói và làm; 2 - Coi trọng việc bồi dưỡng ý thức đạo đức gắn với tổ chức rèn luyện đạo đức trong thực tế, thông qua hành động thực tế; 3 - Xây dựng nền đạo đức mới phải đi đôi với chống những biểu hiện, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức và những gì làm tổn hại đến nền đạo đức mới; 4 - Kịp thời biểu dương những tấm gương tốt, tự mình nêu gương tốt; 5 - Hết sức coi trọng quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên. Có thể nói, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới, một cống hiến đặc sắc vào sự phát triển của đạo đức học Mác - Lê-nin và nền đạo đức xã hội ta. Những giá trị tư tưởng đó của Người vẫn giữ nguyên tính thời sự, tiếp tục soi sáng con đường cho chúng ta giải quyết những vấn đề đạo đức xã hội nói chung, đạo đức đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng, trong tình hình hiện nay.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

118

Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng đời sống văn hoá mới Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, vừa là nhà văn hoá lớn của nhân loại. Cuộc đời và sự nghiệp của Người đã gắn chặt với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam đều sáng ngời những tư tưởng của Người. Cũng như ở các lĩnh vực khác, trong quá trình kiến tạo đời sống văn hoá mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giữ một vai trò đặc biệt to lớn. Người không chỉ vạch ra đường lối có tính chiến lược mà còn chỉ đạo việc thực hiện và chính Người là hiện thân của đường lối ấy. Sau khi cách mạng tháng Tám giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu tâm ngay đến việc xây dựng đời sống mới trong nhân dân. Ngày 3/4/1946, Uỷ ban vận động đời sống mới Trung ương được thành lập. Một năm sau (20/3/2947), Người viết tác phẩm ''Đời sống mới '' nhằm tuyên truyền và vận động toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện đời sống văn hoá mới. Tại sao phải xây dựng đời sống mới? Đất nước ta qua hơn trăm năm bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị, đời sống nhân dân bị dìm trong tăm tối và lạc hậu thì việc xây dựng đời sống mới thực sự là một cuộc cách mạng trong toàn dân. Đây là một cuộc vận động cách mạng, một cuộc đấu tranh chống lại cái cũ, lạc hậu để xây dựng đời sống mới tươi trẻ và tiến bộ. Xây dựng dời sống mới bắt đầu từ đâu? Theo Hồ Chí Minh phải bắt đầu từ những điều cơ bản nhất nhưng cũng đơn giản nhất mà mọi người đều phải thực hành. Bác Hồ nói: ''Muốn có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, đường đi thì phải làm. Từ trước đến giờ, ta vẫn có làm, vẫn có cơm áo, nhà, đường xá. Nhưng vì làm chưa hợp lý nên số đông dân ta ăn đói,mặc rách, nhà cửa chật hẹp, đường sá gập ghềnh, người nghèo khổ thì nhiều, người no ấm thì ít…Đời sống mới không cao xa gì, cũng http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

119

không phải khó khăn gì. Nó không bảo ai phải hi sinh chút gì. Nó chỉ sửa đổi những việc cần thiết, rất phổ thông trong đời sống mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Sửa đổi những điều đó thì mọi người đều được hưởng hạnh phúc''(l). Từ quan niệm đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng nên những chủ trương, biện pháp thực hành ''đời sống mới''. Đối với làng xã, việc thực hiện đời sống mới theo Người cần phải làm những việc sau: Về văn hoá phải làm cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và trách nhiệm của công dân. Về phong tục, phải cấm hẳn say sưa cờ bạc, hút sách, trộm cắp, đĩ điếm. Tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau. Làm cho làng mình trở thành một làng ''thuần phong mỹ tục''. Còn trong gia đình, theo Bác thực hiện đời sống mới về tinh thần thì trên thuận dưới hoà, không thiên tư, thiên ái, về vật chất từ ăn mặc đến việc làm ăn đều tiêu pha có kế hoạch, ngăn nắp. Cưới hỏi giỗ tết nên đơn giản tiết kiệm. Hiện nay nhiều gia đình, nhiều người ít quan tâm tới con cái, đến việc tu dưỡng học hành, kỷ cương nề nếp. Do đó mà cương thường, đạo lý lung lay và gia đình là nơi bắt nguồn của những tệ nạn bất khả. Đúng như Bác Hồ đã nói: ''Ta phải xây dựng nếp sống mới từ gia đình, quan tâm từ cái nhỏ nhất từ trong nhà ra đến ngoài xã hội'' (2). Từ đó gia đình mới trở thành rường cột, làm chỗ dựa cho cá nhân và góp phần hữu ích cho đất nước. Người luôn kêu gọi bình đẳng, tôn trọng, hoà thuận, tin cậy lẫn nhau trong quan hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái và trong xã hội giữa các dân tộc. Đồng thời Người đề cao nhiệm vụ giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng có ý nghĩa xã hội lớn lao, vì ''nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa''. Người cho đó là ''một cuộc cách mạng khá to và khó. Vì trọng trai, khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Nó ăn sâu trong đầu óc của mọi " người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội''(3).

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

120

Trong xã hội cũ người phụ nữ hầu như không có sự bình đẳng, không được nắm quyền kinh tế trong gia đình, không được học hành và tham gia các hoạt dộng xã hội. Cho nên muốn cải tạo được xã hội cũ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cần phải quan tâm đến phụ nữ để họ được học hành, có trình độ tham gia vào các địa vị xã hội và hường mọi quyền lợi như nam giới. Đồng thời chị em phụ nữ cũng phải nhận rõ địa vị người làm chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà, phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm tròn những nhiệm vụ mới của mình, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng đất nước. Ngay cả trong đời sống giao tiếp hàng ngày, theo Người cần phải chân thành, cởi mở, ''trên kính, dưới nhường'' trong từng cử chỉ lời nói. Qua giao tiếp mà con người mở rộng quan hệ. Không ngừng tiếp cận, học hỏi cái hay, cái đẹp dể nâng cao trình độ hiểu biết và tiến bộ. Mục đích của việc xây dựng đời sống văn hoá mới là: ''Làm thế nào cho đời sống của dân ta vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn''(4). Trước hết, theo Hồ Chí Minh muốn xây dựng một xã hội mới và tốt đẹp hơn thì cần phải tiêu diệt những thói hư, tật xấu của xã hội còn xót lại đồng thời phải bồi dưỡng con người có đạo đức ''cần kiệm liêm chính chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân''. Trong khi xây dựng cái mới phải biết kế thừa và phát triển những đức tính tốt đẹp của tổ tiên ta như yêu nước, yêu lao động, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, đoàn kết trong lao động và chiến đấu. . . và học tập những gương tốt của nhân dân các nước anh em, bè bạn. Thực chất của việc xây dựng đời sống mới ở nước ta lúc này là cuộc đấu tranh giữa hai con đường, giữa cái mới và cái cũ bảo vệ và phát huy những cái tốt, quét sạch những tàn dư tư tưởng văn hoá lạc hậu, phản động của chế độ thực dân phong kiến. Xoá bỏ, cải tạo nếp sống cũ lạc hậu và xây dựng nếp sống mới là nhiệm vụ to lớn, phức tạp đòi hỏi phải tiến hành một cách rất cẩn thận, chịu khó và lâu dài, không chủ quan, nôn nóng, áp đặt, muốn làm hết ngay một lúc, phải nhận thức được quá trình biến đổi theo quy luật của xã hội mới để xây dựng nếp sống phù hợp. Để chiến thắng những thói quen cũ lạc hậu theo Chủ tịch Hồ Chí Minh những thói quen mới chúng ta xây dựng phải thật sự khoa học và đòi hỏi sử dụng tổng http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

121

hợp nhiều sức mạnh, nhiều ngành, giới. Trong đó công tác tuyên truyền rất quan trọng nhưng theo Người ''tuyên truyền không cần nói tràng giang, đại hải mà nói ngắn gọn, nói những vấn đề thiết thực, chắc chắn làm được để mọi người hiểu rõ và quyết tâm làm bằng được''. Người nói ''học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi phải vất vả mới lên đến đỉnh. Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu''. Vì vậy Người luôn luôn nhắc nhở cần phải lấy gương người tốt, việc tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ Đảng viên để giáo dục lẫn nhau, là một phương pháp sinh động và có sức thuyết phục lớn cũng là cách tốt nhất để xây dựng con người mới. Người coi ''thi đua cải tạo con người: lao động sáng tạo xã hội'' chính phong trào thi đua, tập thể ấy là cái nôi làm xuất hiện những con người mới tiên tiến xứng đáng nhận những danh hiệu vinh quang, lên án những kẻ lười biếng, trốn tránh lao động của lối sống ươn hèn. Ngày nay, trong sự tác động phức tạp của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng đời sống văn hoá mới càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Cuộc vận động thực hành tiết kiệm không xa hoa, lãng phí trong hội họp, cưới xin, tang lễ...khuyến khích thi đua trong toàn Đảng, toàn dân đã và đang tạo ra một môi trường văn hoá lành mạnh, giúp chúng ta đẩy lùi được cái ác và làm cho cái thiện ngày càng sinh sôi nảy nở. Những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời từ những năm 1947 đã luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta vận dụng qua các Nghị quyết, chỉ thị về việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá mới. Chỉ thị 27 Bộ Chính trị về việc cưới, việc tang và lễ hội cũng như các Nghị định 36, 87, 88 CP của Chính phủ và Chỉ thị 814 - TTg của Thủ tướng Chính phủ là làm rõ hơn và cụ thể hoá việc xây dựng đời sống văn hoá mới trong nhân dân theo lời dạy của Bác Hồ. Chúng ta đang sống những năm đầu của thế kỷ 21, đang đứng trước nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Đảng giao phó, trong những bước đi đầu tiên này học lại những bài học của Bác Hồ về xây dựng đời sống mới là một điều rất cần thiết. Đó cũng là cách trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh, làm sống dậy tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới hôm nay.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

122

Hồ Chí Minh nhà văn hoá của tương lai Cuối năm 1923, nhà thơ Xô viết Ôxíp Manđenxtam nhận xét: "Từ Nguyễn Ái Quốc toả ra một nền văn hoá, không phải văn hoá châu Âu, mà có lẽ là nền văn hóa của tương lai". Văn hoá của tương lai ở Nguyễn Ái Quốc là văn hoá vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Văn hoá theo nghĩa rộng, vừa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Đúng như Người đã suy nghĩ về ''ý nghĩa của văn hoá: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn''. Nói theo ngôn ngữ khoa học hiện đại, Hồ Chí Minh đã thấy văn hóa là cơ chế tổng hợp để hình thành và phát triển con người - xã hội. Để đổi mới xã hội, đổi mới con người cần phải xây dựng nền văn hoá mới. Nền văn hoá mới đó là nền văn hoá của tương lai. Cũng có thể gọi đó là văn hoá chính trị. Với nghĩa đó, chính trị là một cấu thành cơ bản của đời sống luôn luôn gắn liền với văn hoá. Nếu xem xét văn hoá như là hệ thống những giá trị thì chính trị cũng là một giá trị văn hoá cùng với các giá trị khác như: kinh tế, khoa học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo... Do vậy, một sự nghiệp hoạt động chính trị chân chính là một sự nghiệp văn hoá. Nhà văn Côlômbia G.G. Mác két người được giải Nô ben về văn học đã nói: Cách mạng là một sự nghiệp văn hoá. Những lãnh tụ chính trị nổi tiếng xưa nay trên thế giới đều là những nhà văn hoá lớn. Ngày nay người ta nói nhiều đến văn hoá chính trị, gắn chính trị với văn hoá là để phân biệt với thứ chính trị không có văn hoá, thứ chính trị thù địch với văn http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

123

hóa, thứ chính trị hạ thấp nhân phẩm và coi thường sinh mệnh của con người cũng như sự phát triển bền vững của xã hội.

Hồ Chí Minh là một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp nhưng ngày nay được cả thế giới biết đến và tôn vinh với tư cách là ''vị anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là một nhà văn hoá lớn" Vì sự nghiệp chính trị của Hồ Chí Minh là sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Đưa nhân dân lao động lên địa vị người chủ của đất nước và làm chủ vận mệnh của mình là một tiến bộ vượt bậc về văn hóa. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan nhưng vốn xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước, từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh đã được hấp thụ truyền thống yêu nước nồng nàn, nền văn hiến của nước nhà và những tinh hoa văn hoá phương Đông. Sau mười năm theo học Nho học, Người chuyển sang Tây học, vừa tiếp thu tư tưởng Nho giáo vừa tiếp thu tư tưởng và văn hoá phương Tây bằng sách vở nhà trường và cả tân thư. Người nói: ''Khi tôi độ mười ba mười bốn tuổi" lần đầu tiên tôi nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy''. Với tư chất thông minh, sắc sảo, ý chí hoài bão lớn lao, Người không đi theo con đường phong kiến, lối mòn của các bậc tiền bối mà muốn sang xem đất nước của kẻ thù để tìm hiểu rồi về cứu giúp đồng bào, giải phóng dân tộc. Như vậy, hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh có tri thức ban đầu rất quan trọng về văn hoá, lòng yêu nước nhiệt thành và chí hướng mới. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin, Người yêu nước - Nguyễn Ái Quốc đã tham gia phong trào công nhân, học tập văn hoá Pháp và văn hoá phương Tây. Người đọc và thường xuyên viết bài cho các báo La Vie Ouvrière, Le Populaire, L'Humanité... Về văn học, Người thích đọc U.Sếchxpia và S.Đícken bằng tiếng Anh; Ph.M. Vôn te, Vích to Huy gô bằng tiếng Pháp. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc đến Tân ước và Cựu ước, Người đã đọc nhiều tác phẩm trong ''Thế kỷ ánh sáng'' của S. L. Môngtexkilơ, Gi. Gi. Rút sô. Người nghiên cứu kinh tế học của Đ. Ricácđô, Đam Xít... Người vừa học tập, vừa viết báo, viết kịch, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

124

vừa tiếp xúc, làm quen với nhiều nhà hoạt động chính tri, xã hội, học giả, nghệ sĩ tên tuổi để làm phong phú thêm trí tuệ của mình như M.Ca sanh, P. V. Cutuyariê, A. Phrăngxơ, H. Bác buýt, C. Môngmútxô, R. Rô lăng, Gi. Lông ghê... Hồ Chí Minh nhận thức được rằng với mục đích giải phóng con người triệt để, với sự hoàn bị và tính hệ thống mà hạt nhân là phương pháp biện chứng, chủ nghĩa Mác đã chuẩn bị cho bước nhảy vọt lớn lao của các dân tộc từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ, từ chỗ con người bị tha hoá tới vương quốc tự do. Người nhận mình là học trò nhỏ của những người thầy vĩ đại C Mác, V.l.Lê nin là ở chỗ đó. Chủ nghĩa Mác đã in dấu ấn sâu đậm trong tư duy và hành trình văn hoá Hồ Chí Minh. Chính quá trình tích luỹ các nguồn lực văn hoá, trí tuệ đã đưa Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng hàng đầu của giao lưu văn hoá Đông Tây đưa sự nghiệp hoạt động chính trị của Người mang giá trị phổ quát toàn nhân loại và mang tính định hướng tương lai. Năm 1942, hoạ sĩ Thuỵ Điển E. Giôhanxơn đã viết: ''Cử chỉ văn hoá và thân mật của Người gây một ấn tượng là Người có uy tín. Người có thể trở thành lãnh tụ không phải bằng một cái gì bề ngoài mà bằng học thức, bằng trí tuệ của Người''. Với nguồn lực văn hoá lớn lao và tươi mới như vậy, Hồ Chí Minh đã cùng với dân tộc Việt Nam làm nên một sự nghiệp chính trị vĩ đại: giành độc lập, tự do cho dân tộc và đem lại hạnh phúc cho nhân dân, trở thành biểu tượng của lương tri và phẩm giá con người. Chính trị mác xít, chính trị Hồ Chí Minh có thể coi là văn hoá của tương lai. Vì sự gặp gỡ sâu sắc nhất giữa sự nghiệp hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh với lý tưởng cộng sản là xuất phát từ mục đích giải phóng con người. Đó cũng là sự thống nhất giữa văn hoá - con người - phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lê nin là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, còn Hồ Chí Minh chủ trương, như đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: ''Xây dựng một triết lý nhân văn hành động giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người''. Chính trị Hồ Chí Minh là chính trị đi tìm chủ thể đích thực của một nền văn hoá mới, đi tìm diện mạo văn hoá của quần chúng nhân dân lao động. Vì thế, Người kêu gọi ''văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi'', ''phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ'', ''phải xúc tiếp công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

125

bộ mới cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc''. Văn hoá phải có tác dụng ''sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới''; ''văn hoá nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị''. Văn hoá phải tạo ra sức mạnh vật chất và khả năng chiến thắng ngoại xâm theo tinh thần văn minh thắng bạo tàn. Qua đó, có thể thấy văn hoá đã được lồng ghép, đã thấm sâu như thế nào vào hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh. Và chính Người với tầm nhìn viễn kiến đã thực sự khẳng định tư tưởng văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Đó chính là văn hóa của tương lai mà ngày nay chúng ta đang ráng sức xây dựng. Hồ Chí Minh là người luôn nêu cao nhân cách văn hoá của nhà chính trị. Nhân cách của nhà chính trị có quan hệ đến sự thành bại của sự nghiệp chính trị. Khi suy ngẫm về nhân cách của V.l Lê nin, Người đã viết: ''Nếu giai cấp vô sản phương Tây coi Lê nin là một thủ lĩnh, một lãnh tụ, một người thầy thì các dân tộc phương Đông lại coi Lê nin là một người vĩ đại hơn nữa, cao quý hơn nữa nếu tôi có thể nói như vậy. Không chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người Thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không có gì ngăn cản nổi'' và sự nghiệp hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh cũng là một minh chứng về điều đó. Tài năng chính trị của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng của nhân cách nhà chính trị Hồ Chí Minh, đã góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhưng hình ảnh sống động mà Người đã để lại là tài năng đó được kết hợp nhuần nhuyễn với đạo đức, phong cách và năng lực sáng tạo văn hoá của Người. Hồ Chí Minh là nhà chính trị, nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp nhưng đồng thời là biểu tượng của lòng khoan dung nhân ái, của việc thực hành lối sống và nhân cách văn hoá. Nhà sử học Ba Lan Hêlen Tuốcmêrơ đã viết về Người: ''Hồ Chí Minh là hình ảnh hoàn chỉnh của sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lê nin, tình cảm của người chủ gia tộc. Tất cả đều hoà hợp trong một dáng dấp tự nhiên'' chất keo gắn kết tài năng và các phẩm chất tinh thần http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

126

khác, tạo nên nhân cách nhà chính trị Hồ Chí minh là nguồn lực nhân văn trong văn hoá dân tộc và nhân loại mà Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển. Nó là cốt lõi sâu xa, đồng thời là cái bao trùm nhân cách Hồ Chí Minh, làm cho nhà chính trị Hồ Chí Minh vừa giống lại vừa không giống bất cứ nhà chính trị nào trong lịch sử của nhân loại. Mục tiêu lý tưởng chính trị Hồ Chí Minh là hết sức cao quý: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Đồng thời có sự thống nhất cao độ về tính nhân văn giữa lý tưởng, mục đích- chính trị và các phương pháp, phương tiện đạt đến mục đích đó. Xuất phát từ tình thương yêu con người, từ tình cảm mãnh liệt, sâu sắc đối với Tổ quốc và nhân dân, dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh đã tự nguyện dấn thân vào cuộc đấu tranh gian khổ và nguy hiểm, thậm chí hy sinh tính mạng của mình. Người viết ''Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó". Thực sự cả cuộc đời Người đã sống hết mình vì tôn chỉ, mục đích đó với tất cả nghị lực phi thường được sinh ra từ tâm hồn, trí tuệ, niềm tin không gì suy suyển đối với chân lý cùng với sự mẫn cảm đặc biệt của Người đối với cuộc sống và số phận của nhân dân, tương lai, triển vọng của dân tộc. Là một chiến sĩ cách mạng, nhưng Hồ Chí Minh nêu tấm gương về sự khoan dung và yêu chuộng hoà bình. Trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh toát lên thái độ tin cậy với con người, là sự nâng niu, quý trọng nhân cách con người. Phương pháp Hồ Chí Minh là phương pháp cảm hoá, thuyết phục, thu phục con người ở mọi đối tượng, mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi. Với tình cảm con người và rất giàu tình người, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến tất cả với sự ân cần chu đáo, tế nhị, lịch thiệp. Đó chính là phương pháp đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân mà Người là linh hồn của khối đại đoàn kết đó. Và đoàn kết để có sức mạnh phấn đấu cho thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại, nên đoàn kết phải dựa trên đạo lý của người cách mạng, phải thấu lý, đạt tình, có tình có nghĩa. Phương pháp hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh là phương pháp văn hoá, phương pháp hướng tới con người, tới phép dùng người và chiến lược trồng người. Còn phong cách Hồ Chí Minh thì hướng tới sự thanh cao, giản dị, ung dung, tự tại, không để sự ham muốn vật chất làm vẩn đục tâm hồn, không để sự tàn bạo của chiến tranh làm ảnh hưởng đến tinh thần nhân văn, lạc quan và http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

127

tình yêu cuộc sống. Đó là cốt cách của một lãnh tụ chính trị thời đại mới nhưng lại mang dáng dấp của một nhà hiền triết phương Đông thâm trầm. Nhân cách đó có sức toả sáng và quy tụ triệu triệu con người, bạn bè gần xa thì yêu mến cảm phục mà ngay đến kẻ thù cũng phải nể trọng và ngợi ca. Nhân cách văn hoá Hồ Chí Minh, con người, cuộc đời sự nghiệp hoạt động chính trị Hồ Chí Minh là một chỉnh thể kết tinh những gì ưu tú, tốt đẹp nhất của trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm của con người và bản sắc văn hoá Việt Nam. Tấm gương và tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ định hướng cho hành động và tiếp thêm sức mạnh tinh thần, là sự cổ vũ lớn lao cho toàn Đảng, toàn dân vượt khó vươn lên giành những thắng lợi trong thế kỷ XXI ./.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

128

Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh Vừa có một tư duy cực kỳ nhạy bén, sâu rộng về pháp luật, Bác Hồ cũng là người "yêu thương hết thảy, chỉ quên mình". Khác với rất nhiều nhà tư tưởng lớn từ trước đến nay, Người kết hợp khéo léo, đúng mức giữa pháp trị và đức trị, nghiêm khắc trùng trị những hành vi tham ô, lãng phí nhưng cũng thường xuyên ân cần, nhắc nhở bảo ban bằng một tình thương yêu vô bờ bến với những ai có sai lầm, khuyết điểm biết ăn năn, sửa chữa. Có thể nói tư tưởng về nhà nước và pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt độc đáo, là tư tưởng về một nền pháp quyền nhân nghĩa...Tại cuộc Hội thảo "Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành tư pháp" vừa qua tại Nghệ An, các nhà khoa học đã tập trung thảo luận về vấn đề này. Đạo đức là gốc... Một trong những di sản vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau là đạo đức cách mạng. Người là một lãnh tụ bàn nhiều về đạo đức, về vai trò của đạo đức trong đấu tranh cách mạng: "Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang''. Suốt cuộc đời mình, Bác Hồ luôn kiên trì giáo dục phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghiã cá nhân''. Bản thân Người cũng là một tấm gương ngời sáng đạo đức cách mạng, suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc hạnh phúc của nhân dân. Theo Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam Phạm Quốc Anh, thì: ''Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là một thể thống nhất gắn bó chặt chẽ giữa đạo đức với chính trị, đạo đức với tài năng, giữa lời nói đi đôi và việc làm. Cái vĩ đại của Người là ở chỗ, khi sử dụng một số khái niệm và thuật ngữ đạo đức truyền thống vốn đã quen thuộc vấn đề gần gũi trong dân gian, Người đã đưa vào đó những nội dung mang ý http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

129

nghĩa nhân văn và cách mạng sâu sắc của đạo đức mới: Trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, việc gì có lợi cho dân, phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, phải hết sức tránh..." Giáo sư Vũ Khiêu cũng tán thành: "Bác Hồ đòi hỏi cán bộ cách mạng phải sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh, phải quyết tâm chiến đấu đến cùng vì sự nghiệp cách mạng, phải coi đạo đức cách mạng như phẩm chất đầu tiên của mình. Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.Người cách mạng không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân Chống tham ô và lãng phí GS. TS Đào Trí Úc- Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật- bổ sung: ''Khi nói về pháp luật hay đạo đức, không thể làm cái việc vạch một đường biên chia đôi ''khu vực ảnh hưởng''. Pháp luật của nhân dân trước hết là đạo lý của nhân dân có tính phổ biến nhất, liên quan chung đến mọi người, phù hợp với đa số, Nhà nước ghi nhận và ''đưa lên thành luật'' những cái hợp lẽ và hợp lý đó'', Pháp luật là quyền tự do lựa chọn hành vi, nhưng ranh giới của nó là lợi ích của người khác, khả năng hành động có lợi hợp lý, hợp pháp của người khác. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: ''Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến quyền tự do của người khác là phạm pháp''. Người đòi hỏi cán bộ tư pháp, cán bộ pháp luật phải gương mẫu chấp hành pháp luật: ''Mình trước hết phải siêng năng, trong sạch mà bảo người ta trong sạch, siêng năng được''. GS Vũ Khiêu cho biết: ''Nhìn thấy trước những tệ nạn có thể xảy ra trong đảng cầm quyền và trong chính quyền nhân dân, Bác đã nhấn mạnh việc phải kịp thời chống tham ô và lãng phí. Vào những ngày đầu của chính quyền nhân dân, nước ta còn nghèo, Nhà nước chưa có bao nhiêu tài sản nên thực hành tiết kiệm là cực kỳ quan trọng. Chống lãng phí, Bác coi lãng phí là tội ác. Chống tham ô, Bác đặt ra điều này ngay từ trong hoàn cảnh tham ô rất ít có điều kiện để xảy ra. Lúc đó, cán bộ và nhân dân cùng đồng cam cộng khổ, nhân dân ăn chưa đủ no, mặc chủ đủ ấm

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

130

thì dù có muốn tham ô cũng chẳng có gì mà tham ô. Ngày nay, nhìn lại, mới thấy sự nghiêm khắc của Bác lúc ấy là vô cùng sáng suốt". Đạo đức đi đôi với Pháp luật GS.TS Đào Trí Úc khẳng định, Bác chủ trương làm việc gì cũng phải có nhân nghĩa. ''Biết Chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu Chủ nghĩa Mác- Lênin được?''. Người căn dặn cán bộ ta xử lý các vấn đề phải ''có tình có lý". Đối với cán bộ tư pháp, trong số các phẩm chất cần thiết, trước hết phải vô tư, không được tư vị, tư thù, tư oán, không được tự cho mình đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Cùng với việc nêu cao vai trò của đạo đức cách mạng, Bác Hồ cũng đồng thời không quên vai trò quan trọng của pháp luật. GS Vũ Khiêu kể ra hai câu chuyện để chứng minh trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng và pháp luật luôn song hành với nhau. Ngày 27/11/1945, Bác ký Sắc lệnh ấn định hình phạt đối với người đưa và người nhận hối lộ là từ 2 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Còn trong kháng chiến chống Pháp, Đại tá Trần Dụ Châu vốn cũng là người cách mạng nhưng khi làm Cục trưởng Cục Quân nhu đã lợi dụng chức vụ, bớt xén phần cơm áo vốn đã rất kham khổ, thiếu thốn của bộ đội ta để cùng đồng bọn sống phè phỡn, lãng phí, trụy lạc. Vụ án được khởi tố, đưa ra Tòa án Quân sự, bị lãnh án tử hình. Trần Dụ Châu và gia đình kháng án lên Bác Hồ, xin được khoan hồng. Vụ án đã gây cho Bác Hồ một nỗi buồn sâu sắc. Nhưng, đối với loại sâu mọt đục khoét nhân dân, trị một người để cứu muôn người, dù rất đau lòng, Bác đã ký lệnh bác đơn chống án của Trần Dụ Châu. ''Qua đó, có thể thấy, Bác Hồ rất đề cao pháp luật. Bác hết lòng thương yêu, dạy bảo cán bộ nhưng kẻ nào lạm dụng tình thương của Bác, làm hại đến tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và Nhà nước thì dù họ có là cách mạng kỳ cựu, là Bộ trưởng, Thứ trưởng hay là gì đi nữa vẫn phải đem ra xét xử theo đúng pháp luật". - GS Vũ Khiêu kết luận.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

131

Bác Hồ đã đi xa trên 30 năm, thế nhưng, những tư tưởng Người để lại cho chúng ta hôm nay - trong đó có tư tưởng về Nhà nước và pháp luật, về xây dựng và phát triển ngành Tư pháp - vẫn còn nguyên những giá trị mang tầm thời đại. Nghiên cứu, học tập và phát triển tư tưởng của Người, chắc chắn, không chỉ ngành Tư pháp mà cả đất nước sẽ còn thu được nhìều hơn nữa những thắng lợi to lớn trong công cuộc đổi mới.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

132

Đạo đức Hồ Chí Minh- một kiểu mẫu về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động 1. Quan niệm về đạo đức Hồ Chí Minh Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một người cộng sản mẫu mực, kiên định trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân cách mạng. Đó là đạo đức của người chiến sĩ suốt đời đấu tranh, dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp của mình cho lý tưởng và mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Do đó, đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức hành động vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi trả lời một nhà báo nước ngoài về điều quan tâm lớn nhất của mình trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh đã nói: độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc cho đồng bào. Đó là tất cả những gì Người mong muốn và hiểu biết. Với Hồ Chí Minh, đó chính là điều ham muốn, ham muốn tột bậc của mình, sao cho nước nhà được độc lập, nhân dân có tự do, có cơm ăn, áo mặc, được học hành, được sống một cuộc sống hạnh phúc. Ở đây, cái cụ thể, thiết thực và giản dị nhất mang hình ảnh biểu đạt cái lớn lao, cái vô giá, sâu xa nhất của cuộc sống con người, của sự phát triển và hoàn thiện nhân tính trong đời sống dân tộc và xã hội. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, đó là hệ giá trị chủ đạo của mục tiêu Giải phóng và Phát triển. Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội là con đường lớn lao của lịch sử mà thời đại mới đã vạch ra, là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã nhận thức được và dẫn dắt toàn dân tộc đi tới. Với hệ giá trị mục tiêu và phương thức thực hiện mục tiêu đó, Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng Việt Nam đi vào quỹ đạo cách http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

133

mạng của thời đại và sự phát triển của dân tộc Việt Nam hợp với trào lưu, xu thế của thế giới hiện đại. Thực hiện một đường lối chính trị lớn như vậy đòi hỏi Đảng cách mạng, người cách mạng phải có trí tuệ lớn và đạo đức lớn. "Đường Cách mệnh"(1927) của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngay từ khi Đảng chưa ra đời đã nói tới hai điều hệ trọng: "phải giữ chủ nghĩa cho vững'' và "ít lòng ham muốn về vật chất''. Suy đến cùng, đây là chỗ cao sâu nhất mà cũng là thử thách khó khăn nhất của đời người. Thời gian càng lùi xa, lịch sử càng chất chứa những biến cố thăng trầm, phong trào Cách mạng càng phát triển thì dự cảm nêu trên của Người chứng tỏ rõ tính đúng đắn và sáng suốt biết bao. Đó là tính đúng đắn của chân lý và sự sáng suốt của lịch sử. Đạo đức cách mạng, đạo đức hành động Hồ Chí Minh là cả một hệ thống lý thuyết tư tưởng phong phú và tinh tế, nổi bật các đức tính, chuẩn mực, các nguyên tắc ứng xử, lại được diễn tả cô đọng hàm xúc trong hình thức tối thiểu của ngôn từ. Đó là "Cần, kiệm, liêm, chính" - bốn đức tính để làm người mà thiếu một đức thì không thành người, có đủ cả bốn đức mới là người hoàn toàn . Đó là, nguyên tắc ứng xử chí công vô tư, là bản lĩnh biết quên mình, biết vượt qua những vướng bận toan tính cá nhân để vì người chứ không vì mình, vị tha chứ không vị kỷ. Bản lĩnh này là sức mạnh bền bỉ để đánh bại chủ nghĩa cá nhân, chiến thắng giặc nội xâm, suốt đời tu dưỡng đạo đức cách mạng, coi phục vụ nhân dân là phục tùng một chân lý lớn nhất, là lẽ sống cao thượng nhất. Trên phương diện đời sống cá nhân, trong quan niệm giữa con người - chủ thể hoạt động với cá nhân chủ thể mang nhân cách, đây là cuộc hành trình tới Tự do. Sự hoàn thiện đạo đức là một bản lĩnh văn hoá dẫn tới nhân cách của con người tự do và làm chủ. Xưa nay, khó khăn lớn nhất vẫn là khó khăn tự vượt qua chính bản thân mình. Triết lý đạo đức Hồ Chí Minh "Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư" sâu xa là vì vậy. Người không chỉ nhận rõ chân giá trị ấy mà Người còn tự mình thực hiện một cách triệt để, nhất quán trong cả cuộc đời mình. Nội dung đạo đức trong

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

134

"Di chúc'' nổi bật tư tưởng lớn: tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Bài báo cuối cùng Người viết cũng vẫn chủ đề ấy, theo đuổi đến cùng tư tưởng đạo đức ấy. Người không chỉ thực hành và nêu gương mà còn làm hết sức mình, công phu rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng cho lớp lớp cán bộ, đảng viên, cho quần chúng nhân dân ở mọi tầng lớp, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính. Việc ''trồng người'' là việc của lợi ích trăm năm, của chiến lược xây dựng một xã hội văn hóa cao, phải công phu tỷ mỷ, phải dựa trên một nguyên tắc ứng xử thấm nhuần sâu sắc chất nhân văn, phải có tấm lòng nhân ái bao la, khoan dung độ lượng và độ lượng vĩ đại. Có nâng niu giá trị con người, có tôn trọng nhân cách và lòng tin cậy chân thành đối với con người thì mới có sức mạnh cảm hóa, thuyết phục lòng người. Làm cho cái hay, cái tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân còn cái dở, cái xấu sẽ mất dần đi. Khoa học và Nghệ thuật giáo dục con người của Hồ Chí Minh có nội dung bao trùm và chủ đạo là giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức gắn liền mật thiết với tư tưởng về văn hoá chiếm một vị trí nổi bật, có giá trị bền vững với những đặc tính sáng tạo độc đáo cần được cảm thụ để tự nhận mình và tự giáo dục mình theo gương sáng của Người. Trên phương diện này (đạo đức), Hồ Chí Minh là một nhà đạo đức học. Người không phải là nhà đạo đức học hàn lâm, kinh viện mà là một nhà đạo đức học thực hành, thực hành một cách biện chứng, sáng suốt, đầy chất trí tuệ và nhân văn. Lý thuyết đạo đức Hồ Chí Minh chuyển vào thực tiễn đạo đức xã hội mà đời sống đạo đức của Người như một tấm gương sáng tiêu biểu về đạo đức. Đó là một nét riêng, tính đặc thù riêng, in đậm dấu ấn, phong cách riêng của Hồ Chí Minh. Người vẫn thường căn dặn chúng ta, nói ít làm nhiều, cái chủ yếu là hành động. Chỉ nói và viết khi cần thiết, lại phải nói và viết ngắn gọn, giản dị sao cho quần chúng dễ hiểu. Hiểu để làm, để làm http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

135

đúng và làm tốt. Hơn nữa, để quần chúng noi theo, làm theo thì mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu làm trước, đã nói thì phải làm, lời nói đi đôi với việc làm.

Đây là thước đo tính trung thực đạo đức, là sự thành thật, là ''thật thà nhúng tay vào việc'' (Dân vận, 1949). Cái bản chất chân chính của Khoa học đạo đức gặp nhau ở đó - cái ''Chân'' xa lạ, đối lập với cái "giả''. Đạo đức hành động vì mưu cầu tự do, hạnh phúc cho con người là động lực tinh thần thúc đẩy hành động quên mình, dũng cảm, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng những người lao động ra khỏi tình cảnh nô lệ, thực hiện tự do và làm chủ. Nó bắt gặp và thực hiện khát vọng giải phóng của muôn triệu người tự muôn đời. Đạo đức ấy và thực hành đạo đức ấy hợp với lòng dân, được dân chúng noi theo, trái lại, thói giả đạo đức là một trong những điều tệ hại nhất, mất lòng tin nhiều nhất của dân chúng. Người nói, một tấm gương tốt quý giá hơn hàng trăm bài diễn văn là vì vậy. Như thế, đạo đức Hồ Chí Minh và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh hệ thống nhất nhưng không đồng nhất. Tư tưởng đạo đức là phần lý luận, là triết lý của Người. Ngoài bộ phận cốt yếu ấy, thuộc về nhận thức, đạo đức Hồ Chí Minh còn là phương pháp giáo dục và thực hành đạo đức mà Người đặc biệt chú trọng trong thực tiễn, trong lối sống, ứng xử, trong quan hệ con người, trong các công việc thực tế để rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng. Đạo đức Hồ Chí Minh còn có một phương diện, một cấp độ nữa, đó là đời sống đạo đức của bản thân Người với tư cách là một con người bình thường giữa muôn người khác, dù hết sức vĩ đại nhưng lúc nào và ở đâu, Người cũng chỉ coi mình là một con người bình thường giữa muôn người khác. Bỏ qua phương diện này trong nghiên cứu sẽ là một thiếu hụt lớn, sẽ không thể hình dung được sự sâu sắc, phong phú, đa dạng trong tư tưởng và sự nghiệp của Người, trong thế giới tinh thần, lối sống và nhân cách của Người.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

136

Tổng hợp cả ba phương diện ấy, nhìn nhận từ ba chiều cạnh ấy, trong sự thống nhất tư tưởng với phương pháp, lý luận với thực tiễn mới có thể nhận thức đầy đủ Đạo đức Hồ Chí Minh. Có một vấn đề cần lưu ý trong nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là muốn hiểu đúng tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức, thì không chỉ dừng lại ở phân tích các văn phẩm, tác phẩm của Hồ Chí Minh, nhất là khi sự tinh tuý và thâm thuý trong tư tưởng của Người lại không nằm ở trong lời văn, câu chữ mà vượt lên và thoát ra khỏi những lời, những chữ Người nói, Người viết. Cùng với điều đó còn phải đặc biệt chú trọng tìm hiểu nghiên cứu đời sống đạo đức của Người, hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của Người, sự phong phú của các mối quan hệ giữa Người với Dân, với Đảng, với các địa phương, vùng, miền trong cả nước, với các bạn bè quốc tế, tình cảm yêu mến, sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ của nhân dân ta và nhân dân các dân tộc trên thế giới dành cho Người. Chỉ như vậy chúng ta mới hiểu được đạo đức Hồ Chí Minh - một kiểu mẫu về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động. Đạo đức Hồ Chí Minh cho ta hiểu thêm một phương diện đặc sắc trong cuộc đời và sự nghiệp của một nhà tư tưởng Mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, một trí tuệ lớn và một nhân cách lớn, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất thế giới. Đạo đức Hồ Chí Minh tiêu biểu cho truyền thống đạo đức và tinll hoa Văn hoá dân tộc, là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, hiện thân của các giá trị Văn hoá Chân - Thiện - Mỹ trong thời đại mới, thời đại của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc ta. Đạo đức Hồ Chí Minh cùng với tư tưởng và sự nghiệp của Người mãi mãi là di sản tinh thần vô giá đối với các thế hệ người Việt Nam và dân tộc Việt Nam, mãi mãi có mặt trong hành trang của chúng ta trên con đường đi tới thắng lợi của đổi mới và CNXH. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

137

2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh - Tư tưởng về đạo đức có thể nói đó là hợp điểm tư tưởng về con người và tư tưởng về văn hoá của Hồ Chí Minh. - Với con người, Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là cái quan trọng nhất quyết định tính cách, tức là nhân cách. Đức phải gắn với tài và tài phải có đức đảm bảo. Theo Người, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, còn có tài mà không có đức sẽ không làm được điều ích lợi cho đời , thậm chí còn có hại, sinh ra những thói xấu như kiêu căng, tự mãn, ích kỷ rồi thành hư hỏng, có khi phạm tội. Bởi thế, Người đòi hỏi có đức phải có tài và có tài phải có đức. Người thường gọi đức và tài là hồng và chuyên, là chính trị và chuyên môn. Trước hết phải có chính trị rồi có chuyên môn, do nhờ bền bỉ rèn luyện, khiêm tốn học hỏi, nhất là tự học tập suốt đời, học tập đi liền với lao động và tranh đấu. Chính trị là hồn, chuyên môn là xác. Cán bộ, công chức phải thạo chính trị, giỏi chuyên môn. Lãnh đạo việc gì, ngành nào phải am hiểu kỹ chuyên môn việc ấy, ngành ấy, có như vậy lãnh đạo mới có kết quả, mới tạo được nhất trí, đồng thuận. Văn hóa có cốt lõi của nó là ở đạo đức. Thiện- Ác, Tốt- Xấu, hay- dở đều có ở con người và phần nhiều là kết quả của giáo dục. Tuỳ thuộc ở môi trường, hoàn cảnh và giáo dục như thế nào mà con người có thể tốt hay xấu. Do đó, giáo dục trước hết và chủ yếu là giáo dục đạo đức, sửa chữa, cải tạo cái xấu, vun trồng, tập luyện cái tốt. Người xác định học để làm việc, làm người, học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp - dân tộc - nhân loại . Người đặc biệt chú trọng tới các đức tính mà giáo dục các đức tính thì phải chăm lo từ bé, có sự chỉ dẫn tỷ mỷ, chu đáo, nêu gương của các thầy giáo, cô giáo. Giáo dục nhà

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

138

trường là trung tâm để hình thành nhân cách. Song phải có hỗ trợ lẫn nhau giữa giáo dục gia đình - nhà trường và xã hội. Đạo đức và giáo dục thực hành đạo đức là vấn đề của Văn hóa. Sự yếu kém, thiếu hụt đạo đức có thể làm thương tổn xã hội, dẫn tới những phản đạo đức và phản văn hóa. Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục thực hành đạo đức đều mang ý nghĩa Văn hoá đạo đức, thấm vào nhận thức, tình cảm, vào hành vi, lối sống, sự ứng xử của con người, giữa người với người trong xã hội. - Chiếm vị trí trung tâm trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức Cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân bằng cách ra sức rèn luyện, đạo đức cách mạng. - Theo Hồ Chí Minh, đạo đức Cách mạng là đạo đức mới mang bản chất giai cấp công nhân và thấm nhuần những gì tốt đẹp nhất của đạo đức dân tộc và phát huy truyền thống đạo đức dân tộc. Người đã kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống như: yêu nước, thương dân, đoàn kết cộng đồng, lòng nhân ái, tình thương yêu đồng loại, ngay thẳng, thủy chung, can đảm. Người cũng phê phán, cải tạo những mặt tiêu cực của đạo đức phong kiến, những mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo như: thói nhẫn nhục cam chịu, thụ động, những thành kiến đối với lao động chân tay, bất bình đẳng với phụ nữ, những quy định khắt khe, những hủ tục làm lệch lạc nhân cách con người. Đặc biệt, Người đòi hỏi phải xoá bỏ những tàn dư của đạo đức phong kiến thực dân đã lạc hậu, lỗi thời, thậm chí là những nọc độc, đầu độc tinh thần con người, nhất là đầu óc nô lệ, chủ nghĩa vị kỷ, hưởng lạc, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống tư sản. Đó là thứ đạo đức chẳng những cản trở xã hội phát triển mà còn làm lệch lạc tâm hồn con người, đánh mất nhân tính. - Là nhà cách tân, đổi mới, Người đã cách mạng hoá quan niệm đạo đức, đã đưa đạo đức mới, chủ nghĩa nhân đạo cách mạng và tinh thần nhân văn cách mạng vào đạo đức và đời sống đạo đức. Người sử dụng hình thức cũ của những khái

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

139

niệm, phạm trù đạo đức nhưng đưa vào đó những nội dung hiện đại, nội dung đạo đức cách mạng, đạo đức hành động vì dân, hướng tới dân. - Bên cạnh cần kiệm liêm chính, Người còn nói tới Nhân - Trí - dũng - Liêm Trung, tinh thần hy sinh, lòng dũng cảm, khí tiết đạo đức cao quý của ông cha ta, sự đề cao trí tuệ, phẩm giá con người. Vận dụng phương châm xử thế của người xưa, Người nói rõ đạo đức công dân, trách nhiệm công dân và thái độ ứng xử đối với dân, gắn liền trách nhiệm và lợi ích, quyền và nghĩa vụ. Với Hồ Chí Minh, chính trị là đoàn kết và thanh khiết, từ việc nhỏ tới việc lớn. Theo Hồ Chí Minh, phải xây dựng Đảng chân chính cách mạng, làm cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức và văn minh. Đạo đức cách mạng trong Đảng, trong cán bộ, đảng viên, nhất là ở những người lãnh đạo, cầm quyền là hạt nhân của đạo đức cách mạng - một nền đạo đức mới tiêu biểu cho xã hội mới. - Điều quan trọng và thiết thực là ở chỗ, Người chỉ rõ: phải thực hành đạo đức cách mạng trong công việc, trong tổ chức, trong phong trào thi đua yêu nước, trong lối sống và hành vi của cán bộ công chức đặc biệt là những người lãnh đạo có chức có quyền. Chú trọng bồi dưỡng tình cảm cách mạng, đem những nội dung mới, tinh thần đổi mới và quyết tâm đổi mới để xây dựng đạo đức cách mạng. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới làm nên sự nghiệp. Cán bộ phải tích cực gần gũi mật thiết với quần chúng như máu với thịt, như cá với nước. Người căn dặn cán bộ đảng viên, dù bất cứ ở cương vị gì, giữ trọng trách gì cũng phải luôn sâu sát dân và hướng tới dân, vì dân. Phải tận trung với nước, tận hiếu với dân, làm đầy tớ và công bộc của dân, do đó phải dân chủ, không rơi vào ''quan chủ'', là đầy tớ chứ không phải lên mặt quan cách mạng''. Làm điều lợi cho dân, tránh điều hại cho dân dù chỉ là một cái hại nhỏ. Không đảm bảo công bằng làm cho lòng dân không yên thì đó là điều nguy hại cho chế độ. - Đạo đức cách mạng ở trong Đảng đòi hỏi phải nêu cao tính tiên phong gương mẫu, đấu tranh phê bình và tự phê bình, có lý có tình, thấu tình đạt lý, ăn ở với http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

140

nhau có tình có nghĩa, phải có tình thương yêu đồng chí, giữ gìn sự sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Công chức nhà nước phải tận tâm tận lực với công việc, chấp hành luật pháp, tôn trọng kỷ luật công vụ, thi hành đạo đức công chức. Ai nấy đều biết 6 điều Người dạy Công an nhân dân, trong đó có những lời thấm thía: với chính phủ phải tuyệt đối trung thành, với dân phải kính trọng lễ phép. Đây là những lời dạy chung cho tất cả mọi người, thấm nhuần đạo đức và văn hoá đạo đức mà nổi bật là Văn hóa trọng dân và trọng pháp. - 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng với những nội dung: yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu lao động, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm là những bài học chuẩn bị cho thế hệ trẻ vào đời làm công dân tốt của nhà nước, làm chiến sĩ trung thành của chế độ. Đạo đức cách mạng còn đòi hỏi tẩy trừ những thói xấu: tệ lãng phí, quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí là không thương dân, mỗi đồng tiền bát gạo mà chúng ta tiêu dùng đều từ mồ hôi nước mắt của dân, thương dân thì phải tiết kiệm. Tham ô là ăn cắp của công, ăn cắp của dân, là có tội với dân, là tội ác và kẻ thù của chế độ mới. Thực hành đạo đức cách mạng thì phải ra sức đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Đó là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ chống lại những thói hư tật xấu trong con người mình, cuộc đấu tranh đó âm thầm và quyết liệt, có không ít sự đau đớn ở trong lòng. - Đạo đức cách mạng đối với tuổi trẻ, với thanh niên càng trở nên quan trọng để nuôi dưỡng hoài bão, chí khí lớn, nghị lực đấu tranh cho chân lý, đạo lý, tình thương, lẽ phải. Trung thực - Khiêm tốn - Đoàn kết - Vị tha- Nhân ái - Khoan dung, đó là những đức tính và giá trị đạo đực mà Người ra sức thực hiện ở mỗi con người. Lại có một điều thấm thía khác. Người căn dặn thanh niên: tuổi trẻ phải có chí tiến thủ, hoài bão lo việc lớn, vì nước vì dân trẻ phải biết tránh xa danh vọng, quyền lực vì những cái đó dễ làm hư hỏng con người. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

141

Người không chỉ nêu lên những nội dung phong phú của đạo đức cách mạng mà còn gợi mở bao điều quý giá khác về giáo dục, thực hiện đạo đức cách mạng. Theo Người, phương pháp phải thích hợp, mềm dẻo, linh hoạt, đã đúng lại còn phải khéo nữa thì mới có sức thuyết phục lòng người . Người đã nâng phương pháp giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng lên tầm phương pháp tư tưởng, lên trình độ khoa học và nghệ thuật, có sức lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ lòng người ở mọi đối tượng, tầng lớp, thế hệ. Như đã nói ở trên, sức thuyết phục mạnh mẽ của đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ ở trí tuệ, tư tưởng mà còn là ở sự khéo léo, tinh tế nhất là ở tấm gương trong sáng, mẫu mực về đạo đức của Người trong đời sống đạo đức hàng ngày. Người đã thực hiện nhất quán giữa tư tưởng đạo đức và hành động đạo đức. Suốt một đời tận tụy vì dân, vì nước, Người là biểu tượng cao quý của đức hy sinh, lo cho dân, sống vì dân, thấu hiểu dân tình, dân sinh, dân ý, trở thành lãnh tụ của dân, thân dân và chính tâm. Tình thương yêu rộng lớn của Người đối với nhân dân, đồng bào là không bao giờ thay đổi. Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, đó là phương châm ứng xử và hành động của Người. Người là lãnh tụ gần dân, sống trong lòng dân, đến với dân chân tình cởi mở, không một chút nào xa lạ, quan cách.

Người sống một cuộc sống đạm bạc, đồng cảm với dân, làm tất cả những gì có thể làm được để chăm lo cuộc sống hàng ngày những lợi ích thường nhật của dân. Người tiếp xúc với mọi tầng lớp nhân dân từ chính khách, trí thức cao cấp tới dân thường để mưu cầu hạnh phúc thiết thân hàng ngày của họ. Người trung thành đến cùng với mục tiêu lý tưởng đã theo đuổi mà thực chất là để cho mọi http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

142

người dân được sống trong độc lập tự do, có độc lập tự do thì mới có hạnh phúc. Vì thế, Người đảm nhận chức vụ lãnh đạo trong sự tín nhiệm tuyệt đối của dân mà vẫn chỉ nghĩ đó là bổn phận, trách nhiệm công dân của mình, giống như một người lính vâng lệnh quốc dân đồng bào ra mặt trận mà thôi. Người đã có biết bao nhiêu chuyến đi công tác ở trong và ngoài nước. Đến đâu, Người cũng giản dị tự nhiên quan tâm thực sự tới cuộc sống của dân chúng, ân cần, chu đáo, chăm lo cho tất cả, chỉ quên mình. Trong trái tim của mỗi người Việt Nam thuộc các thế hệ khác nhau, Hồ Chí Minh là đồng nghĩa với sự kính yêu, biết ơn, ngưỡng mộ. Với đạo đức, nhân cách của Người, ngay đến kẻ thù cũng phải nể trọng. Cho đến những năm cuối đời, Người còn trực tiếp làm việc với Hội nghị ngành Than, tìm hiểu cặn kẽ vì sao ngành kinh tế - kỹ thuật công nghệ này lại có chiều hướng giảm sút và phải vực dậy như thế nào. Người trực tiếp sửa chữa điều lệ Hợp tác xã nông nghiệp và trong bản thảo Di chúc còn ghi, Người chủ trương miễn thuế nông nghiệp cho bà con nông dân để bà con yên tâm phấn khởi sản xuất. Ước nguyện của Người đã thành sự thật. Người học được bài học an dân trị quốc của ông cha ta, lo an sinh để an dân. Người làm việc với Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương) để bàn về cuộc vận động người tốt việc tốt... cho đến phút cuối cùng trên giường bệnh, Người vẫn lo cho dân nơi lũ lụt, mong tin chiến trường miền Nam thắng lớn. Muôn vàn tình thương của Người để lại cho đời, chỉ riêng Người "quên nỗi mình đau để nhở chung"... "Nâng niu tất cả chỉ quên mình''. . .Một Con người với đạo đức và Nhân cách như thế đã đi vào lịch sử, bất tử trong lòng dân. 3. Thực hành dạo đức Cách mạng theo gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

143

Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng, trở về với thế giới Người Hiền đã hơn l/3 thế kỷ nay. Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã gần 20 năm, tính từ Đại hội VI ( l2 /l986 ) đến nay. Khoảng thời gian đó đã đủ để sinh thành một thế hệ. Người đã đi xa nhưng ai cũng cảm thấy như Người vẫn ở bên cạnh chúng ta, cổ vũ khuyến khích những việc làm tốt, nhắc nhở giúp đỡ chúng ta những yếu kém, hạn chế, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm để tiến bộ trưởng thành. Trong thời kỳ phát triển mới hiện nay của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xác định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống xã hội, bất cứ một hoạt động nào của tổ chức và cá nhân một người, đạo đức cũng thể hiện vai trò quan trọng của nó. Thiếu vắng hoặc yếu kém về đạo đức, con người không có nhân tính đầy đủ, không phát triển được nhân tính để thành người và làm người. Suy thoái đạo đức, xã hội không thể phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn hoá và xã hội. Trong hệ thống các động lực phát triển xã hội, đạo đức là một động lực tinh thần không thể thiếu. Chúng ta đang đấu tranh quyết liệt chống quan liêu tham nhũng như một trọng bệnh, như một quốc nạn để đảm bảo môi trường xã hội nhân văn lành mạnh cho sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.

Tình hình đó đòi hỏi phải chú trọng xây dựng đạo đức xã hội và giáo dục tu dưỡng đạo đức cá nhân. Vào lúc này, thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, noi theo tấm gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh trở nên vô cùng http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

144

cấp thiết, bức xúc. Đó còn là vấn đề cơ bản, lâu dài dối với sự phát triển, hiện đại hoá xã hội ở nước ta.

Trước hết đó là thực hành đạo đức cách mạng trong Đảng, từ cán bộ đảng viên đến các tổ chức đảng. Đó còn là giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng trong đội ngũ công chức của Nhà nước. Càng đi vào xây dựng Nhà nước pháp quyền càng phải chú trọng tới đạo đức công chức, đạo đức công dân. Đó là đảm bảo cho đạo đức xã hội và tăng cường tính nhân văn của pháp quyền dân chủ. Giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, cho thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên cũng như giới trí thức, văn nghệ sĩ cũng là một đối tượng xã hội cần đặc biệt quan tâm. Đi vào kinh tế thị trường, xây dựng đạo đức của tầng lớp doanh nhân, của người sản xuất kinh doanh cùng với pháp luật sẽ đảm bảo cho văn hoá kinh doanh định hình và phát triển. Việc thực hành đạo đức cách mạng theo gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh như vậy sẽ bao quát toàn diện các đối tượng xã hội, từ trong Đảng, trong Nhà nước tới các cộng đồng dân cư. Nói đi đôi với làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất nhận thức với hành động hướng tới cơ sở, tới dân chúng là mục đích và thước đo tính trung thực đạo đức mà chúng ta cần đạt tới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./. Đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng dưới ánh sáng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác là những hiện tượng xã hội liên quan đến quyền lực nhà nước có tính toàn cầu từ xưa đến nay. Thực tiễn lịch sử cho thấy, vấn đề phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí không phải là công việc có thể giải quyết dứt điểm trong một sớm, một chiều. Chừng nào còn nhà nước, quyền lực chính trị còn bị tha hóa bởi thói tham lam, ích kỷ của con người thì còn khả năng xảy ra các hiện tượng trên.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

145

1 - Ở một số nước, khi quan liêu, tham nhũng trở nên trầm trọng đã làm cho bộ máy nhà nước và các tổ chức xã hội rệu rã, mục nát, tê liệt, dẫn đến nguy cơ tồn vong của cả chế độ. Ở nước ta, chỉ nửa tháng sau khi chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra mặt trái của quyền lực. Trong thư đề ngày 17-9-1945 gửi các đồng chí tỉnh nhà Nghệ An, Người đã thẳng thắn nêu rõ trong cán bộ, đảng viên ở đây "có những người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng hoặc độc hành độc đoán, hoặc "dĩ công vi tư" (lấy của chung làm của riêng) thậm chí dùng phép công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và đoàn thể". Tiếp đó, những năm về sau, Người còn tiếp tục chỉ ra nhiều thói hư, tật xấu cần phải tẩy sạch trong cán bộ, đảng viên như bè phái, quân phiệt, quan liêu, hách dịch, hoạnh họe với dân,... Năm 1952, Người nói rõ những tệ nạn chủ yếu cần phải phòng, chống là quan liêu, tham ô, lãng phí. Theo Người, những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng hành của thực dân phong kiến, là giặc nội xâm, phá từ trong phá ra; những kẻ phạm tội này cũng như phạm tội làm Việt gian, mật thám. Năm 1958, Người phân tích nguồn gốc của các thứ tệ nạn xấu xa đó là chủ nghĩa cá nhân. Năm 1969, nhân ngày thành lập Đảng, Người công bố bài báo "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân"... Trong Di chúc, Người căn dặn:"Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". 2 - Quan liêu, tham nhũng, lãng phí gây nên nhiều tác hại, nên khắp nơi lên án mạnh mẽ và tìm nhiều biện pháp để phòng, chống. Đã có những quốc gia được coi là khá thành công trong công việc khó khăn này. Người ta tự hào vì cán bộ, công chức của họ về cơ bản đã đạt được tiêu chí "bốn không": không thể, không dám, không cần và không muốn tham nhũng. Ở nước ta, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo xét xử vụ án Trần Dụ Châu, phụ trách quân nhu, lợi dụng http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

146

vị trí công tác để ăn chơi, tiêu xài xa hoa, lãng phí trong khi cán bộ, chiến sỹ đang chịu đói rét,... Việc Trần Dụ Châu bị kết án tử hình và vụ án được đăng tải công khai, đầy đủ trên 4 số báo Cứu quốc cho thấy sự cần thiết phải xử phạt nghiêm minh những kẻ tham nhũng. Sự công khai, minh bạch, nghiêm minh, dân chủ trong xử lý kỷ luật được nhân dân, cán bộ và chiến sỹ rất đồng tình. Thực hiện nghị quyết của Đảng và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ trước đến nay, chúng ta đề ra và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định,... về phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí cũng như các tiêu cực khác và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Năm 2004, Chính phủ chỉ đạo thanh tra nhiều dự án trọng điểm, phát hiện và xử lý nhiều sai phạm, thu về cho ngân sách trên 1.000 tỉ đồng và nay đang tiếp tục chỉ đạo thanh tra trên cả nước về quản lý, sử dụng đất đai, thanh tra các vụ việc tiêu cực ở một số tổng công ty, các công trình phục vụ SEAGames 22, việc xây dựng kho xăng dầu Đình Vũ... Ban Bí thư Trung ương Đảng lập nhiều đoàn kiểm tra, các tổ chức đảng trực thuộc Trung ương cũng đã lập gần 6.000 đoàn để tiến hành kiểm tra nhiều tỉnh, ban cán sự đảng và gần 17.000 đơn vị về việc lãnh đạo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Các ngành, các địa phương tiến hành kiểm tra, thanh tra việc sử dụng vốn ngân sách trong các dự án xây dựng đường giao thông nông thôn, các công trình thủy lợi và việc kiên cố hóa kênh mương, việc xây trường học, đánh bắt cá xa bờ, xây dựng cụm tuyến dân cư,... Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, năm 2004 cho biết, đã phát hiện và khởi tố gần 200 vụ án tham nhũng, trong đó có nhiều vụ vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng như vụ phân bổ hạn ngạch hàng dệt may ở Bộ Thương mại, các vụ tham nhũng ở Tổng Công ty Dầu khí, Tổng Công ty Xăng dầu Hàng không, Tổng Công ty Hàng hải, các vụ quản lý đất đai ở huyện đảo Phú Quốc, ở lòng hồ Trị An,... Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, giải quyết các vụ việc nổi cộm, bức xúc có liên quan đến quan liêu, tham nhũng, lãng phí có tiến bộ đáng kể. Mặc dù cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong thời gian vừa qua, nhất là sau khi có Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, đã đạt được http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

147

những thành tựu nhất định, tạo ra chuyển biến tích cực, những tiến bộ rõ rệt nhưng nhìn chung, công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nhiều bất cập, hiệu quả không cao. Đảng, Nhà nước ta đã nhận định chính xác, kịp thời về nguy cơ quan liêu, tham nhũng, nhưng triển khai thực hiện có trường hợp chưa trúng: chống còn thiếu kiên quyết, phòng còn thiếu biện pháp thiết thực, cụ thể. Vì vậy, quan liêu, tham nhũng, lãng phí nhiều lĩnh vực vẫn chưa bị ngăn chặn và đẩy lùi một cách có hiệu quả. Tệ quan liêu cũng còn nặng nề ở nhiều nơi, lãnh đạo không nắm được tình hình hoạt động của cấp dưới, sai phạm diễn ra lâu ngày mà không được phát hiện kịp thời (như trường hợp Lương Quốc Dũng ở Ủy ban Thể dục - thể thao, trường hợp Mai Thanh Hải ở Bộ Thương mại). Vì không sát dân, không sát cơ sở nên không nắm được, không dự báo được tình hình (vụ lộn xộn ở Tây Nguyên đầu tháng 4-2004, hoặc đề ra chủ trương không sát hợp lòng dân như việc tăng giá điện vừa qua...). Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều biểu hiện quan liêu nên tình trạng khiếu kiện kéo dài, vượt cấp, có đông người khiếu nại kéo lên Trung ương vẫn chưa được khắc phục triệt để. Đại hội IX của Đảng cũng như Hội nghị Trung ương 9, khóa IX, đề ra mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng nhưng chúng ta chưa đạt được mục tiêu này. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên, trong đó nguyên nhân đáng chú ý là, sự chỉ đạo của các cấp ủy và chính quyền các cấp chưa thật sự kiên quyết, chưa tập trung đúng mức cho công tác này. Quyết tâm chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí tuy đã chuyển thành hành động cụ thể nhưng chưa đủ cao ở mức cần thiết nên việc chỉ đạo thực hiện còn kém hiệu quả. 3 - Để khắc phục nguyên nhân nêu trên và các nguyên nhân khác, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí cần có những giải pháp khả thi, trong đó phải có việc triển khai sâu rộng việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống trong toàn Đảng, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân với nội dung chủ yếu là học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

148

nhất là cán bộ, đảng viên phải trung với nước, hiếu với dân; biết yêu thương, quý trọng con người; phải rèn luyện, tu dưỡng suốt đời, nói phải đi đôi với làm, xây phải đi đôi với chống; chống những gì hủ bại, xấu xa, chống quan liêu, tham ô, lãng phí... Thấm nhuần tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là phải biến nhận thức thành ý chí, thành tình cảm cách mạng, nâng cao quyết tâm khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao, kể cả nhiệm vụ chống quan liêu, tham ô, lãng phí... Trước sự vận động nhanh chóng, năng động, đa dạng, phong phú của thực tiễn cách mạng nước ta, việc vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vào xây dựng và thực hiện nghiêm túc tiêu chuẩn đạo đức, lối sống, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống bộ máy công quyền đã, đang và luôn luôn là một đòi hỏi cấp bách. Hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang từng bước xây dựng và ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xây dựng và ban hành các quy định, quy chế, hướng dẫn việc thực thi cụ thể. Nổi bật mấy khía cạnh sau: + Quy chế xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tiêu cực, lãng phí lớn. + Quy chế khuyến khích, biểu dương, bảo vệ người có tinh thần đấu tranh, tố cáo đúng những vi phạm. + Quy chế khuyến khích tự giác trong tự phê bình và sửa chữa khuyết điểm, xử lý cán bộ, đảng viên có khuyết điểm nhưng che giấu và những người lợi dụng phê bình để thực hiện những ý đồ xấu. + Quy định về tặng quà, nhận quà biếu. + Quy định một số khâu, lĩnh vực bắt buộc không dùng tiền mặt khi thanh toán. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

149

+ Quy định về chống quan liêu, nhũng nhiễu; chế độ làm việc sâu sát cơ sở. + Hướng dẫn thực hiện việc cán bộ lãnh đạo chủ trì và cấp ủy cấp trên trực tiếp phải chịu trách nhiệm liên đới nếu để tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Để vận dụng sáng tạo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vào cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng có hiệu quả phải huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân vào cuộc đấu tranh đó. Tập trung tạo cho được dư luận, ý thức xã hội phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân, đồng thời nêu gương "người tốt, việc tốt". Tiếp tục thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội. Có cơ chế để nhân dân, các cơ quan báo chí, Mặt trận Tổ quốc tham gia đóng góp ý kiến và giám sát công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí,... trên các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực công tác cán bộ. Thực hiện tốt hơn Quy chế Dân chủ ở cơ sở thông qua nhiều hình thức, như lập đường dây nóng, tổ chức hòm thư góp ý, phát hiện, thông qua Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho nhân dân tham gia góp ý và giám sát hoạt động của cán bộ, đảng viên.

Vấn đề cải tiến và nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình phải được thực hiện thường xuyên và theo định kỳ trong sinh hoạt nội bộ đảng với phương thức cấp trên trực tiếp chỉ đạo và gợi ý cấp dưới, tập thể thường vụ cấp ủy gợi ý cá nhân kiểm điểm. Duy trì phương châm thực hiện tự phê bình từ trên xuống, từ trong ra, "trên trước, dưới sau", "lãnh đạo trước, đảng viên sau". Trong kiểm điểm, phải phân tích rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân yếu kém, khuyết điểm và quy rõ trách nhiệm, nhất là trách nhiệm cá nhân người lãnh đạo và đề ra các biện pháp sửa chữa khuyết điểm,... Nội bộ tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần đoàn kết, tinh thần trách nhiệm để kịp thời phát hiện, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, không để vi phạm nhỏ thành vi phạm lớn, vi phạm một người thành vi phạm của nhiều người; phấn đấu khắc phục tình trạng vụ việc

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

150

tiêu cực chủ yếu do quần chúng, do báo chí, do cấp trên kiểm tra, thanh tra phát hiện... Chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí là công việc của toàn Đảng, toàn dân, trước hết là các cấp ủy, chính quyền các cấp, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các đơn vị đó. Người đứng đầu phải là tấm gương sáng về cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Người đứng đầu mà tham lam, cũng tìm cách chiếm nhà, chiếm đất trái phép... thì không thể chống tiêu cực được. Nước ở đầu nguồn phải sạch, nước ở đầu nguồn dơ bẩn thì rất khó. Không chỉ vậy, người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện các quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; phải thật sự kiên quyết chống tham nhũng, kể cả những biểu hiện tham nhũng của người thân trong gia đình của mình. Phải tích cực chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tích cực khắc phục các hạn chế, sửa chữa khuyết điểm, yếu kém của tập thể, cá nhân ở đơn vị, địa bàn được phân công phụ trách và phải thực sự chịu trách nhiệm về những công việc đó. Cùng với sự gương mẫu của người đứng đầu, cán bộ, đảng viên phải nêu gương trước cấp dưới, trước nhân dân. Về việc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước"(1).

4 - Với quyết tâm cao hơn, được sự ủng hộ của cán bộ, đảng viên và nhân dân, các cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, địa phương, đơn vị cần chỉ đạo kiên quyết hơn, tập trung hơn vào nhiệm vụ phòng, chống quan liêu, tham nhũng và các tiêu cực khác. Cần chú ý một số công việc sau: Trước hết về công tác cán bộ. Phải tiếp tục rà soát, bổ sung và thực hiện tốt quy trình kiểm tra, đánh giá, lựa chọn người vào cấp ủy, đề bạt, bổ nhiệm, bố trí cán bộ, nhất là bố trí người đứng đầu theo hướng dân chủ, công khai, xóa bỏ độc quyền trong công tác nhân sự; ngăn chặn việc chạy chức, chạy quyền (nếu có, vì http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

151

đây cũng là một dạng tham nhũng), phục vụ tốt công tác nhân sự, trước mắt phục vụ Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội X của Đảng. Thứ hai, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, các quy định, hướng dẫn có liên quan đến công tác quản lý kinh tế, xã hội, nhất là trên các lĩnh vực thường xảy ra tham nhũng, lãng phí theo hướng dân chủ, công khai, bảo đảm tài sản nào cũng có chủ. Kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật, kỷ luật của Đảng, Nhà nước (kiểm tra, công an, tòa án, viện kiểm sát, thanh tra, kiểm toán) thực sự trong sạch, vững mạnh làm nòng cốt cho việc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác. Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa công tác điều tra, kiểm tra, thanh tra ngay cả đối với hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, kỷ luật của Đảng. Tiếp tục tập trung kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong một số lĩnh vực trọng điểm như đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý và sử dụng đất đai; quản lý và sử dụng tài sản công, việc đánh giá tài sản công trong khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; kiểm tra công tác đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển và quy hoạch cán bộ; đẩy mạnh công tác kiểm tra các hoạt động tư pháp, nội vụ. Xử lý nghiêm minh theo pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của Đảng những cán bộ, đảng viên tham nhũng, nhũng nhiễu dân và những kẻ bao che cho tham nhũng, dù người đó là ai, ở cương vị, cấp bậc công tác nào. - Nêu cao cảnh giác, không để kẻ xấu lợi dụng việc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng để kích động, lôi kéo quần chúng gây mất ổn định chính trị và làm những việc không tốt khác. Chỉ đạo chặt chẽ mọi hoạt động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan có chức năng phòng, chống quan liêu, tham nhũng. Tham gia nghiên cứu đề xuất việc thành lập một cơ quan thường trực có chức năng chịu trách nhiệm chính và phối hợp, điều hòa các hoạt động chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

152

5 - Phòng, chống tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác là cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, nhiều trường hợp đòi hỏi phải có lòng quả cảm, đức hy sinh. Chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tốt trong cuộc đấu tranh đó. Tuy nhiên, so với yêu cầu chúng ta chưa đạt, cũng chưa đáp ứng đầy đủ lòng mong muốn của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, không vô cảm trước những nỗi bức xúc của nhân dân, nhận thức đúng đắn, nâng cao quyết tâm hơn nữa, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết hơn nữa, có chương trình kế hoạch cụ thể, các tổ chức đảng thực sự vào cuộc, phát huy được sự tham gia, đóng góp của nhân dân thì nhất định chúng ta sẽ đạt được kết quả tốt hơn nhiều so với những gì chúng ta đã đạt được.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

153

Hồ Chí Minh với những vấn đề tâm lý trong công tác tư tưởng - văn hoá Trong nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh và di sản văn hoá to lớn Người để lại cho chúng ta, đã có những công trình nghiên cứu bước đầu về tư tưởng Hồ Chí Minh với những vấn đề tâm lý học. Những lời nói, viết và đặc biệt là trong hành động, cho thấy Hồ Chí Minh thấu hiểu những nhu cầu, khát vọng của nhân dân, động viên, thu phục nhân tâm, phân tích các vấn đề xã hội, ứng xử với các tầng lớp xã hội khác nhau, nghệ thuật sử dụng con người, cảm hoá, giáo dục con người, khơi dậy ở quần chúng nhân dân tình cảm yêu nước sâu sắc, biến tình cảm thành ý chí, thành hành động, sức mạnh cách mạng để chiến thắng kẻ thù, giành và giữ vững độc lập, tự do cho Tổ quốc, cho nhân dân... Điều đó, chứng tỏ Người rất am hiểu tâm lý học. 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao vai trò và vị trí quan trọng hàng đầu của tâm lý trong công tác tư tưởng - văn hoá Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng khá nhiều thuật ngữ "tâm lý" trong các tác phẩm của mình. Hơn 30 lần, Người sử dụng trực tiếp từ "tâm lý" khi viết về công tác dân vận, công tác quân sự, công tác địch vận... và công tác tư tưởng - văn hoá. Ngay trong bản thảo cuốn Nhật ký trong tù, viết bằng chữ Hán, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao tâm lý, khẳng định vai trò và vị trí quan trọng hàng đầu của tâm lý trong công tác tư tưởng - văn hoá. Người đặt "xây dựng tâm lý" là điểm lớn đầu tiên trong "Năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc: 1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

154

3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4. Xây dựng chính trị: dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế”. Như vậy, với Hồ Chí Minh, tâm lý trước hết là ý thức dân tộc, là nền móng của văn hoá. Muốn xây dựng văn hoá, phải xây dựng và củng cố tâm lý, củng cố ý thức dân tộc, hay như Người viết: "tinh thần độc lập tự cường". Với xuất phát điểm ấy, Hồ Chí Minh luôn nhắc tới góc độ tâm lý khi bàn về tư tưởng. Ngay từ những tác phẩm đầu tiên, khi phân tích về các bài báo của thực dân về vấn đề dân bản xứ, Người viết: "Về tâm lý, ở phía kia là thái độ hiềm nghi và khinh miệt; còn phía này lại là tâm trạng bực dọc và tuyệt vọng". Viết về những người Việt "vào làng Tây", tức là "có thể xuất bản báo, nhưng chỉ bằng tiếng Pháp mà thôi", Hồ Chí Minh đã phân tích một cách sâu sắc rằng: "trong mọi hành động và tư tưởng của họ đều thấy cái mâu thuẫn xã hội và tâm lý..." Nói về việc dân ta bị đè nén dưới ách thực dân, Người phân tích: "chẳng những dân cùng, tài tận, đời sống tiêu điều mà tinh thần tâm lý cũng bị áp chế". Hồ Chí Minh còn phân biệt những quy luật tâm lý và quy luật tất yếu trong tinh thần và thái độ của con người. Về những người tiểu chủ, Người viết: "Những người tiểu sở hữu mang tinh thần cách mạng không phải do tâm lý mà vì tất yếu"5. Sự phân biệt rành mạch này của Hồ Chí Minh tạo điều kiện để hiểu đúng những quy luật thật sự chi phối tinh thần và thái độ của mỗi tầng lớp xã hội, từ đó có thể tìm cách tác động tốt nhất tới tinh thần và thái độ của họ. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã sử dụng tới 3 lần từ "tâm lý" trong một bài trả lời phỏng vấn chỉ vẻn vẹn có 15 dòng (Bài "Trả lời đại biểu các báo Việt Nam về chính kiến của ông Lêông Blum" đăng trên báo Cứu quốc số 434, ra ngày 13-121946). Mục đích của Người là nhấn mạnh rằng, quan điểm "hợp tác thật thà trên nền tảng độc lập" của ông Lêông Blum là đúng đắn, là phù hợp với thời đại, đi vào lòng người, hay theo lời Hồ Chí Minh, ông Lêông Blum rất thấu hiểu tâm http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

155

lý, là "đại biểu cho tâm lý nhân dân Pháp" và "đại biểu cho tâm lý nhân dân Việt Nam". Trong công tác dân vận, Người dặn dò: phải "hiểu tâm lý của dân..."; có "hiểu rõ tâm lý nông dân, mới phát động được nông dân..."; và Người chỉ ra nguyên nhân của bệnh quan liêu, mệnh lệnh, của sự "xa dân" là do "không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân". Bàn về giáo dục thanh niên, Người nhắc nhiều đến tâm lý: "Tâm lý quả cảm, xung phong"; "chống tâm lý tự ti, tự lợi... chống tâm lý ham sung sướng".

Nói về cán bộ cơ sở và cán bộ phụ nữ, Người nhắc nhở phải chống "tâm lý tự ti". Ngay từ những ngày đầu của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phân tích những thủ đoạn của các thế lực thù địch "dùng đủ mọi cách, mọi dịp để tuyên truyền, hòng phá hoại tâm lý và tinh thần của nhân dân ta", trong đó có việc sử dụng báo chí, phát thanh, lợi dụng tôn giáo, phong tục, tập quán của ta, lợi dụng sai lầm, khuyết điểm của cán bộ ta, rải truyền đơn.... Người dặn dò, chúng ta phải hiểu rõ "tâm lý của kẻ địch" là tìm kiếm và lợi dụng triệt để những sơ hở của chúng ta; và "Ra sức hoạt động chiến tranh tâm lý" là một trong những động thái của kẻ địch chống phá ta. Người có cả một bài báo phân tích về "Tâm lý của binh sỹ Hoa Kỳ". 2. Hồ Chí Minh rất chú ý tới yếu tố tâm lý trong việc tổ chức quần chúng thành các hội, đoàn thể và sức mạnh của tinh thần tập thể. Trong cuộc đời hoạt động, Bác Hồ đã tham gia sáng lập, hoặc trực tiếp sáng lập ra những tổ chức để phục vụ cho hoạt động cách mạng. Người đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (năm 1920); Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, tổ chức quốc tế đầu tiên của các dân tộc thuộc địa ở Paris (năm 1921); Người sáng lập ra Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng; Người http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

156

sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam; Người sáng lập ra Mặt trận Việt Minh; Người sáng lập ra Quân đội nhân dân Việt Nam; Người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà... Dưới sự lãnh đạo của Người, cử chỉ của mỗi thành viên trong xã hội đã trở thành một bộ phận trong một tổ chức, có quy củ, không còn mang tính tự phát, tuân thủ những quy luật tâm lý xã hội và trở thành những lực lượng chính trị xã hội to lớn, tạo nên sức mạnh cách mạng Việt Nam. Người xác định các chức năng của các hội, các đoàn thể, các tổ chức bao giờ cũng phải phù hợp với điều kiện, với hoàn cảnh, với đặc điểm và trình độ phát triển tâm lý của xã hội và của số đông. Trong những thời điểm cần thiết, ranh giới giữa các nhóm được Người xoá đi bằng các yếu tố tâm lý: đồng cảm, thiện cảm, cảm tình, cùng chung hứng thú, nhu cầu... để kêu gọi sự đồng thuận, đoàn kết của toàn dân. Người đặc biệt quan tâm tới các nhóm lớn, giai tầng trong xã hội: dân tộc, công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, cán bộ, đảng viên, thế hệ trẻ, phụ nữ, phụ lão... Người chỉ ra sức mạnh của Việt Nam: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". Nhấn mạnh về vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh không quên nhắc tới các giai tầng xã hội khác : "Ai xây dựng chủ nghĩa xã hội? Nói chung là những người lao động trong xã hội gồm công nhân, nông dân, trí thức cách mạng..., nhưng lực lượng chủ chốt xây dựng chủ nghĩa xã hội là công nhân." Người không những am hiểu mà còn vận dụng những yếu tố tâm lý của các nhóm quần chúng khác nhau để lôi cuốn họ vào phong trào cách mạng, cống hiến cao nhất sức lực cho cách mạng.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

157

Lôi cuốn mọi người vào tập thể, Hồ Chí Minh chú trọng tới việc xây dựng "tinh thần tập thể" và coi đó là cái cốt lõi của chiến thắng. Về "tinh thần tập thể", Hồ Chí Minh nói: "... Ngày nay, chúng ta thành người chủ tập thể, làm chủ hợp tác xã, làm chủ Nhà nước. Mỗi xã viên cần nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau...". Như vậy, tinh thần tập thể là một yếu tố tâm lý xã hội toàn diện, bao gồm: ý thức làm chủ tập thể, thái độ đoàn kết và tình cảm thương yêu, để thực hiện mục đích gắn kết những cá nhân lại với nhau, tạo ra một sức mạnh cộng hưởng, để xã hội có thể phát triển "nhanh, tốt, vững mạnh". Hồ Chí Minh luôn luôn đặt lợi ích bên cạnh trách nhiệm như hai mặt không thể tách rời của một vấn đề. Người nói về lợi ích: "Nay dân đã là chủ", thì ngay lập tức Người nói đến trách nhiệm của người chủ: "Nhưng phải cho ra người chủ... Mọi người đều có trách nhiệm làm cho dân giàu, nước mạnh, quốc phòng vững mạnh..." Hồ Chí Minh đã vận dụng rất thành thục tâm lý tập thể vào việc tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân dưới các tổ chức, đoàn thể có kỷ luật và động viên sức mạnh tập thể, góp chung sức vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 3. Hồ Chí Minh với vấn đề phát huy truyền thống tình cảm và đạo lý dân tộc Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến truyền thống tình cảm và đạo lý dân tộc "máu chảy, ruột mềm", "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng". Người thường hay nhắc tới cụm từ "con rồng, cháu tiên" để nhắc nhở về trách nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đến Đền Hùng, Người kêu gọi: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Trong vấn đề ứng xử và cách dùng người, Hồ Chí Minh như người Cha, người Bác trong gia đình, chan hoà, gần gũi, thân thiết với các cháu con. Người sử dụng quan hệ huyết thống vốn tồn tại trong một gia đình, trong một dòng họ để http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

158

đoàn kết nhân dân Việt Nam trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kéo mọi dân tộc, mọi thành phần xã hội gần gũi lại với nhau. Trong Thư gửi học sinh (9/1945), Bác viết: "Các em hãy nghe lời tôi, lời một người anh lớn lúc nào cũng ân cần mong mỏi cho các em được giỏi giang...". Trong Thư gửi đoàn viên và thanh niên công trường đường sắt Thanh Hoá Nghệ An (1/5/1963) Bác viết: "... Bác thân ái khen các cháu và dặn các cháu...". Bác xưng là "anh", là "Bác" một cách rất tự nhiên, Bác gọi các cháu là em, là cháu như trong một gia đình. Người chỉ rõ: "Gia đình to là cả nước...". Có thể nói, tình yêu thương của Hồ Chí Minh là cơ sở của mọi mối quan hệ. Bất cứ ai, dù chỉ một lần được tiếp xúc với Hồ Chí Minh đều bị tình yêu thương ấy chinh phục. Ở đây, Người đã sử dụng một quy luật của tâm lý học xã hội trong giao tiếp cá nhân, đó là: "tình cảm góp phần quan trọng và có giá trị đột phá trong mọi mối quan hệ liên nhân cách". Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh vai trò của tình cảm. Người khẳng định về người cộng sản: "Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình nhất, chí hiếu nhất".

Bên cạnh tình yêu thương, Hồ Chí Minh luôn luôn thể hiện sự tôn trọng hết mực của mình đối với mọi người trong xã hội. Với các bậc lão thành, với phụ nữ, với thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh luôn luôn tìm thấy cái thiện trong mỗi con người để động viên họ phấn đấu vì lý tưởng cách mạng. Phấn đấu vì lý tưởng chung, Người kêu gọi tinh thần tập thể, nhưng Người cũng luôn chú trọng tới lợi ích của mỗi cá nhân. Người viết: "... Lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn. Lợi ích cá nhân gắn liền với lợi ích tập thể". 4. Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục nhân cách con người, nhất là thế hệ trẻ http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

159

Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một trong những nội dung quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Trong đó, vấn đề giáo dục nhân cách con người, một trong những vấn đề lớn của tâm lý học, được Hồ Chủ tịch rất quan tâm, đặc biệt là đối với thanh, thiếu niên, vì thanh, thiếu niên như Người quan niệm, là "chủ nhân tương lai của đất nước". Trong công tác giáo dục con người, giáo dục nhân cách, Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải giáo dục toàn diện. Về giáo dục, Người nói: "Giáo dục nhi đồng là một khoa học”, trong khoa học ấy, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nêu gương, Người khuyên các thầy cô giáo: "phải làm kiểu mẫu cho các em bắt chước", "học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu... Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức". Người đặc biệt chú trọng mặt đức dục, "điều trước tiên là dạy các cháu về đạo đức". Đức dục như Hồ Chí Minh hiểu, đó trước hết là tình yêu: yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu khoa học, yêu lao động và người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc. Về phương pháp dạy trẻ, Người chỉ rõ: "Trong lúc học, cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học", "Đồng thời phải giữ toàn vẹn tính vui vẻ, hoạt bát, tự động, trẻ trung của chúng...". Thật vậy, nếu trẻ thụ động về mặt trí tuệ thì không thể tự do về đạo đức được. Muốn phát triển nhân cách phải tạo cho con người tính tích cực chủ động. Con người tự chủ phát hiện ra cái gì mình cần học, chứ không phải con người thụ động học cái mà thầy giáo nhồi nhét. Đối với thanh, thiếu niên, tính tích cực của cá nhân tác động trực tiếp tới quá trình hình thành nhân cách. Chúng xác định mục đích theo những sở trường, sở đoản cá nhân, xác định triển vọng cho mỗi kế hoạch, hình thành lý tưởng cho cả http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

160

cuộc đời... tất cả đều ảnh hưởng tới hoạt động của cá nhân và thông qua hoạt động đó sẽ thúc đẩy nhanh sự phát triển của nhân cách. Chính vì vậy mà học phải đi đôi với hành, "đồng thời học thì phải hành", "Nhà trường phải gắn liền với thực tế của nước nhà, với đời sống của nhân dân".

Sự phát triển ý thức đạo đức phải song song với sự phát triển trí tuệ. Ở mức độ trí tuệ, sự phát triển đạo đức là ý thức được và khái quát được những phán đoán hành động hiện thực sẽ xảy ra trong những điều kiện bên ngoài nhất định, phán đoán về tính nhất quán của hành vi, khả năng chống lại những cám dỗ, những ảnh hưởng của hoàn cảnh. Sự đánh giá về đạo đức con người thường được gắn liền với sự đánh giá hành vi của họ. Hồ Chí Minh dạy thanh niên phải hành động: "Ở trường thì kính thầy, yêu bạn, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau; Ở nhà thì yêu kính, giúp đỡ cha mẹ; Ở xã hội thì tuỳ sức mình mà tham gia những việc có ích lợi chung..." Quan tâm tới tính tích cực của thanh niên tức là quan tâm không chỉ tới những yếu tố bên trong, những đặc điểm riêng cá nhân mà phải nhìn nhận mỗi người trong số họ như một nhân cách đang phát triển, đang trưởng thành và tự hoàn thiện, do đó ngày càng hướng đến những vị thế xã hội mới, những dạng hoạt động có ý nghĩa xã hội mới... Mục tiêu của tương lai, lý tưởng là cái người ta hướng tới, mặc dù trong hiện tại nó chưa xuất hiện. Trong khi so sánh giữa cái đang được chờ đợi với cái hiện hữu, người ta hành động, nỗ lực phấn đấu để làm sao chúng xích lại gần nhau và rút ngắn khoảng cách. Đó chính là những hành động ý chí, vượt qua mọi khó khăn bên trong và bên ngoài để đạt cho được những mục tiêu đã xác định. Hồ Chí Minh chỉ dẫn cho thanh niên phải hành động cụ thể, thiết thực, làm từ bé đến lớn, làm từ dễ, đến khó: "Việc gì cũng cần phải thiết thực: nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ chỗ nhỏ, dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hiện được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được".

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

161

Hướng tới tương lai, nhận thức ngày càng rõ những mặt mạnh và mặt yếu của mình, cá nhân mỗi thanh, thiếu niên bắt đầu nghĩ về quá trình tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân, thông qua các dạng hoạt động như vui chơi, học tập và lao động. Nhân cách hướng tới chỗ tự tu dưỡng, tự hoàn thiện bằng sự thành đạt thông qua hoạt động do chính cá nhân tạo lập nên. Quan điểm chỉ coi giáo dục là cung cấp kiến thức, bỏ qua vai trò của các yếu tố bên trong, của tính tích cực cá nhân... đã hạ thấp vai trò và hiệu quả của giáo dục. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định giáo dục phải: "phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em". Nghệ thuật chân chính của giáo dục chỉ thể hiện khi nó khơi dậy được sự tự vận động, tự sáng tạo trong tư duy, tự đề ra sáng kiến trong hành động độc lập, tự chủ, trong hoạt động của nhân cách con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chú ý khích lệ những tiềm năng trong mỗi cá nhân con người. Đây chính là tư tưởng của Người lấy "xây" để "chống" và lấy "xây" làm chính. Hồ Chí Minh là một nhà tâm lý học thực hành đại tài và Người đã sử dụng rất thành công những tri thức tâm lý vào công tác tư tưởng./.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

162

Khai thác sâu sắc tính nhân văn, đạo đức cách mạng trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại". Để giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh sâu sắc, đem lại hiệu quả thiết thực, cần thực hiện đồng bộ về nội dung phương pháp để quán triệt và giáo dục sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, tính nhân văn và phương pháp giáo dục. 1. Thấm nhuần, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố tinh thần to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn trí tuệ thiên tài của lý luận Mác - Lê- nin với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại được vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, để hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đăn trong từng giai đoạn, từng thời kỳ và từng thời điểm cụ thể. Nhờ có dự báo thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ dẫn bước đi để dân tộc ta vượt qua mọi hiểm nguy, thử thách, giành thắng lợi từng bước và hướng tới tương lai. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, quá trình trưởng thành, chiến thắng của Đảng đã khẳng định: khi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thấm nhuần và vận dụng đúng đắn lúc đó chúng ta có đường lối đúng, cách mạng giành thắng lợi; còn lúc nào tư tưởng của Người không được quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo thì thời điểm đó bộ tham mưu, cán bộ, đảng viên có sai lầm, cách mạng gặp khó khăn. Đó là bài học lịch sử sâu sắc trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Khi Người còn sống, quân dân ta trọn niềm tin: "Bác bảo đi, là đi, Bác bảo thắng, là thắng". http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

163

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã tiến lên dưới là cờ QUYẾT CHIẾN QUYẾT THẮNG của Người, và đã lập nên những kỳ tích có tầm vóc thời đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng... Quán triệt sâu sắc điều đó để trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cần khơi dậy niềm tin và tình cảm sâu sắc của nhân dân ta, Đảng ta, các lực lượng vũ trang ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; nguyện trung thành học tập và vận dụng tư tưởng của Người vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng; tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm phản động sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê- nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng; phát huy ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. Tư tưởng vì con người, đề cao vai trò con người cùng phẩm chất đạo đức con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được khai thác có hiệu quả. Tư tưởng Hồ Chí Minh có những điểm tương đồng với các tư tưởng phương Đông, ít bàn thế giới quan thuần tuý, rất coi trọng nhân sinh quan, giới tự nhiên cũng được tiếp cận trong sự gắn bó chặt chẽ với con người và trong các phẩm chất của con người, đạo đức thường được các nhà tư tưởng quan tâm, quan điểm coi con người là trung tâm của thiên hạ, đạo đức là nền gốc của con người, xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh chống thiên tai, khai thác giới tự nhiên, cách mạng xã hội, khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược… cũng đều được lý giải với cuộc đấu tranh vì hạnh phúc của con người, vì sự nghiệp giải phóng con người và xã hội. Ra đi tìm đường cách mạng, chỉ với hai bàn tay trắng với một tấm lòng yêu nước, thương dân, Người chỉ mong sao cho đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân được ăn no, mặc ấm, được học hành và sống cuộc đời hạnh phúc. Trong hành trình đến Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, con http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

164

người là nhân tố quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải hết sức biện chứng các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị quân sự tháng 8 - 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại phân tích: "Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà. Nhân hoà là thế nào ? Nhân hoà là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hoà là quan trọng hơn hết". Từ tư tưởng hướng về con người, coi con người có vai trò quyết định đối với sự phát triển xã hội, trong hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc gồm tất cả "con Lạc cháu Hồng", không phân biệt "già trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện", dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, người có tôn giáo tín ngưỡng và người không theo tôn giáo tín ngưỡng, các đảng phái yêu nước… Bởi vì, càng đoàn kết thì cách mạng càng thành công: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công.” Người nhìn nhận con người đầy lòng nhân ái. Những người lầm đường lạc lối làm việc cho địch, Người vẫn khơi dậy phần thiện, dù là rất nhỏ nhưng trong họ, bằng tấm lòng khoan dung, độ lượng, chân thành, đoàn kết, để cảm hoá họ quay trở về với dân tộc. Người dạy: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ". Chính vì chủ trương đoàn kết là đoàn kết chân thành, đoàn kết thực sự, vì lòng nhân ái vị tha, tin ở con người, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

165

tôn trọng con người nên Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức thu hút diệu kỳ với mọi người Việt Nam yêu nước, với bạn bè quốc tế; có sức cảm hoá cao với những người lạc lối lầm đường, cả những người đối lập với cách mạng. Đối với con người, tư tưởng Hồ Chí Minh hết sức chú ý đến đạo đức, coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành một phần viết về đạo đức cách mạng. Theo Người, đạo đức cách mạng gồm có năm điều nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đó là các giá trị đạo đức qua tổng kết của Nho giáo qua một thời kỳ lịch sử lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất nhiều lần đề cập đến các khái niệm nội dung của đạo đức Nho giáo. Nhưng với quan điểm cơ bản "đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều", Người đã chọn lọc những nội dung tốt đẹp của đạo đức truyền thống kết hợp những nội dung đạo đức mới để hình thành đạo đức cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: cán bộ, đảng viên biết rèn luyện đạo đức cách mạng sẽ trở thành cán bộ, đảng viên tốt của Đảng, được nhân dân tin yêu, người không chịu rèn luyện, phấn đấu không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân, sẽ mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân, sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đề cao việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên, cán bộ, bộ đội và nhân dân. Trong bản Di chúc, Người còn căn dặn: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên thanh niên. Người không chỉ xác định các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cách mạng, mà còn nêu gương mẫu mực. Những việc làm của một vị Chủ tịch nước như: tăng gia sản xuất, tiết kiệm 10 ngày nhịn ăn một bữa lấy gạo cứu đói, ăn một xuất cơm đạm bạc mang theo, từ chối bữa cơm khách của lãnh đạo địa phương khi về thăm đồng bào chống hạn, nằm nghỉ trên tấm vải nhựa dưới gốc cây như cán bộ, chiến sĩ khi đi công tác…, cả cuộc sống đơn sơ giản dị là một minh chứng sinh động về tư tưởng đạo đức và hành động đạo đức của Người là hình mẫu về đạo đức của quá khứ, hiện tại và tương lai.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

166

Ngày nay, những biến động phức tạp của tình hình quốc tế, những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, sự tấn công của "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc… đã có tác động xấu, làm thoái hoá biến chất một số cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, trong các đơn vị kinh tế… thiếu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đánh giá một trong những nguy cơ thách thức của đất nước ta hiện nay là: "Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta". Trong tình hình như vậy, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh tuy vẫn cần giáo dục toàn diện những quan điểm tư tưởng của Người, nhưng phải tập trung vào những vấn đề căn bản, cốt lõi nhất, mà một trong những vấn đề đó là hướng vào giáo dục xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền đạo đức Việt Nam mới, coi đó là nền tảng bền vững trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 3. Vận dụng có hiệu quả phương pháp giáo dục, học tập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào giáo dục tư tưởng của Người.

Với thiên tài trí tuệ, được tích luỹ qua nhiều năm học tập lý luận, hoạt động cách mạng, trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và là một chiến sĩ cộng sản quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh có điều kiện tiếp cận, học tập các trào lưu lý luận, tư tưởng cổ kim, Đông Tây. Điều đặc biệt ở Người mà chúng ta cần nhận thức rõ và noi theo là tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo trong học tập và vận dụng lý luận. Thuở nhỏ, học Nho giáo, Người đề cao phần tốt đẹp trong tư tưởng Khổng Tử, nhưng chưa bao giờ hướng theo tư tưởng phong kiến. Dùng những khái niệm tư tưởng, đạo đức của Nho giáo nhưng Người lý giải khác và bổ sung những nội dung đạo đức mới, biến thành khái niệm đạo đức cách mạng. Bôn ba khắp bốn biển, năm châu, tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản và xã hội tư bản, Người ca ngợi tư tưởng tiến bộ của cách http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

167

mạng tư sản, nhưng không choáng ngợp và ca ngợi một chiều cái văn minh, hiện đại của xã hội tư bản, chưa bao giờ theo tư tưởng tư sản. Người phê phán giai cấp tư sản đã sử dụng những khẩu hiệu tiến bộ như là bánh vẽ, còn thực chất thì xã hội các nước tư bản, đế quốc đầy rẫy những xấu xa và tội ác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt lên trước những người cùng thời để đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và coi đó là vũ khí tinh thần để giải phóng dân tộc Việt Nam. Người không máy móc, giáo điều theo từng câu chữ của C.Mác, của V.I. Lê-nin. Người nêu lên phương châm chung cho học tập lý luận Mác - Lê-nin: "Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta". Điều chúng ta thấy rõ là Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc cái cốt lõi của lý luận, từ đó vận dụng sáng tạo trong thực tiễn. Người luôn nhắc nhở phải gắn lý luận với thực tiễn, nếu không gắn với thực tiễn, sẽ là lý luận suông. Chính nhờ quan điểm và phương pháp học tập đó mà Người đã phát triển, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã nêu lên những nguyên lý lý luận và tổ chức thực tiễn, trở thành những đóng góp lớn cho lý luận cách mạng và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như thế mới làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin có sức sống lâu bền và càng có ý nghĩa trong điều kiện lịch sử mới. Mặt khác, trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cần quán triệt quan điểm và phương pháp của Người: giáo dục không phải chỉ là trang bị lý luận mà quan trọng hơn là làm chuyển biến tư tưởng, hành động của người nghiên cứu, học tập, góp phần thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Có như thế, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh mới mang lại hiệu quả thiết thực.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

168

Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Ai sống ở trên đời này chắc cũng đều có những mặt tốt và cả những cái xấu. Làm được nhiều việc tốt, chống những cái xấu xa, và sửa dần cái xấu của chính bản thân mình chính là cách thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức Hồ Chí Minh là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, bắt nguồn từ sự kết hợp hài hoà truyền thống đạo đức, nhân văn của dân tộc Việt Nam với tinh hoa của chủ nghĩa nhân văn trong văn hóa nhân loại. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức mới, hình thành và nhằm phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; đáp ứng sự ứng xử văn minh của con người trong thời đại mới. Bản thân Người chính là tấm gương mẫu mực về đạo đức mới trong sáng. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” . Đạo đức luôn gắn liền với năng lực. Chính nhờ có đạo đức mới mà mỗi người tự phấn đấu, hoàn thiện mình, tạo thành năng lực để hoàn thành nhiệm vụ mà Tổ quốc giao phó. Do vậy, đạo đức mới, theo Hồ Chí Minh, chính là nền tảng vững chắc để mỗi con người hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Tư tưởng đạo đức đó nhất quán và xuyên suốt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Và chính bản thân Người là một tấm gương về đạo đức mới. Tư tưởng đạo đức mới ấy rất phong phú, bài này chỉ có thể nói đến một số nội dung chủ yếu sau đây:

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

169

Một là: Trung với nước, hiếu với dân. Trung, hiếu là những khái niệm đạo đức truyền thống của phương Đông. Nó đã ăn sâu, bám rễ trong con người Việt Nam và biến đổi phụ thuộc vào điều kiện xã hội, với nội dung cốt lõi gắn với trách nhiệm, bổn phận của người dân trong xã hội. Hồ Chí Minh đã sử dụng các phạm trù này với nội hàm mới, phản ánh đạo đức mới cao rộng hơn, mang tính người. Đây không phải là trung với vua và chỉ hiếu đễ với cha mẹ mình, mà là trung với nước, hiếu với dân. Trung với nước, theo Hồ Chí Minh, thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân với Tổ quốc, với dân tộc. Chính sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta trong mấy nghìn năm lịch sử đã hun đúc nên lòng yêu nước thương nòi, xả thân vì nước, gắn con người với cộng đồng dân tộc, với sự hưng vong của Tổ quốc. Trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc thì trung với nước thể hiện sự xả thân vì vận mệnh của dân tộc, chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do và sự thống nhất của Tổ quốc. Trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới đất nước hiện nay, Trung với nước chính là trung thành với sự nghiệp đổi mới đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trung với nước chính là sự thể hiện nghĩa vụ, bổn phận của mỗi người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Trong thập kỷ cuối của thế kỷ XX, với những biến động của thế giới, chúng ta đã trụ được trong bão táp, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới để đi lên, là đã thể hiện được chữ TRUNG mà Bác Hồ đã dạy. Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện đại, trong điều kiện thế giới đầy biến động và phức tạp, chúng ta đang chủ động hội nhập quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu của chúng ta, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cũng chính là đang thực hiện chữ TRUNG theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Về chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu không chỉ là hiếu với cha mẹ mình - một thành phần của dân, mà là hiếu với dân, với toàn dân tộc. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước lấy dân làm gốc”. Dân chính là toàn dân tộc, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

170

không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, miễn là yêu nước thương nòi, không đi ngược lại quyền lợi của dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc, những người cách mạng Việt Nam đã tập hợp được toàn dân tộc đánh giặc giữ nước, thoát khỏi cái nhục mất nước, thống nhất giang sơn về một mối. Đó chính là đã thực hiện được nội dung Hiếu với dân. Ngày nay, chúng ta đang phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, thoát khỏi cái nhục nghèo đói và lạc hậu. Đây chính là thực hiện nội dung chủ chốt nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về chữ Hiếu với dân. Hai là: Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Đây là nội dung đạo đức mới để mỗi người cán bộ, những người lãnh đạo nhân dân phải lấy bản thân mình làm đối tượng điều chỉnh. Người nói: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ” . Người còn nói: Cần kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc, nhân loại. Trong điều kiện mới hiện nay, càng phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, chống chủ nghĩa cá nhân, vì như Hồ Chí Minh nói: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí” . Người còn nói: “Cán bộ các cơ quan, đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét” , làm hại đến lợi ích của nhân dân. Tất nhiên, chúng ta cần phải hiểu sự khác biệt giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người từng nói: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

171

tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình mình. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự khác nhau về lợi ích đa dạng và phức tạp, vấn đề đặt ra là phải giải quyết sao cho hài hoà các lợi ích, hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội, vì sự phát triển chung của đất nước. Phải đặc biệt quan tâm đến lợi ích thiết thân của người lao động, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Song phải đảm bảo sự công bằng và bình đẳng xã hội; phát huy dân chủ xã hội và chủ nghĩa yêu nước trong nhân dân, tạo động lực to lớn cho sự phát triển đất nước.

Ba là: Lòng nhân ái, yêu thương con người. Triết lý sống của Hồ Chí Minh là lòng nhân ái, yêu thương con người. Người cho rằng: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người, là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”. Triết lý sống ấy bắt nguồn từ truyền thống nhân ái của dân tộc ta, từ lòng thương yêu đùm bọc, chung lưng đấu cật, đồng cam cộng khổ trong cuộc đấu tranh gian khổ với thiên tai và chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Triết lý ấy cũng bắt nguồn từ tình thương yêu đồng loại với cùng cảnh ngộ bị áp bức bóc lột bởi chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Lòng nhân ái, thương con người ấy ở Người không phải là sự thương hại “bề trên” nhìn xuống; không phải là sự “động lòng trắc ẩn” của người đứng ngoài cuộc. Lòng nhân ái, thương yêu con người ở Hồ Chí Minh biểu hiện sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ, trước hết từ tình cảm của người dân mất nước, bị nô dịch; của người lao động bị áp bức bóc lột, tìm con đường giải thoát khỏi những đoạ đày đau khổ. Tình thương yêu con người đó của Người gắn với lòng tin tưởng ở sức mạnh, tính chủ động, sáng tạo của con người, của nhân dân; tôn trọng nhân dân, kính trọng nhân dân. “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” .

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

172

Tin tưởng ở sức mạnh của con người, theo Người, là phải chăm lo, bồi dưỡng, sử dụng, phát động được sức mạnh của con người, của nhân dân, để “đem tài, sức, của cải của dân làm lợi cho dân”. Thương yêu con người, theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, phải gắn với việc xây dựng con người, giải phóng con người về mặt phẩm chất, nhân cách cũng như về tài năng trí tuệ, phát huy mặt tốt, mặt mạnh của con người; sửa đổi những tính xấu, những mặt tiêu cực của con người. Người nói: “Người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu. Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng”. Tuy nhiên, “thiện” và “ác” không phải tự nhiên mà có mà “phần lớn do giáo dục mà ra”. Vì vậy, thái độ của chúng ta là “phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”. Chăm lo đến những tấm gương “người tốt việc tốt” là hết sức quan trọng trong việc xây dựng con người mới. Người còn nói: “Do nhiều người nhóm lại mà thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà thành nước… Nếu mỗi người đều tốt thì thành làng tốt, nước mạnh. Người là gốc của làng nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường” . Người cũng đặc biệt quan tâm và tôn trọng “tính cách riêng”, “sở trường riêng”, “đời sống riêng”, quyền lợi riêng của mỗi người nhằm phát huy đến mức cao nhất vai trò, khả năng của từng người, vì lợi ích riêng chính đáng của mỗi người và lợi ích của cả cộng đồng. Đối với những người lầm đường lạc lỗi, có sai lầm và ngay cả đối với binh sỹ đối phương, lòng thương yêu của Người mở rộng thành “lòng khoan dung”. “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người, cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ” . Đạo đức mới Hồ Chí Minh thật trong sáng. Song, như Người đã chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” . http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

173

Rèn luyện đạo đức mới đòi hỏi phải tự giác, phải tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của xã hội. Nói đi đôi với làm và việc nêu gương trong hoàn thiện đạo đức xã hội có tầm quan trọng đặc biệt. Một tấm gương còn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn thuyết văn hoa. Nêu gương người tốt việc tốt và đề cao việc tự rèn luyện mình là đặc biệt quan trọng. Xây dựng đạo đức mới phải gắn liền với chống lại những cái xấu, loại bỏ cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức. Các phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, thực hành tiết kiệm; chống tham nhũng… chính là thể hiện những nguyên tắc xây dựng và rèn luyện đạo đức mới của Bác Hồ. Như vậy, trừ những kẻ chống lại dân tộc, phản lại Tổ quốc và những kẻ sa đọa, bất chính, đối với chúng ta, việc thấm nhuần tư tưởng đạo đức mới Hồ Chí Minh không phải là việc xa vời, “kính nhi viễn chi”. Làm tròn bổn phận, nghĩa vụ của người dân Việt với Tổ quốc; thực hiện những lẽ phải thông thường ở đời; sống thân ái bao dung vốn vẫn là những nét đẹp trong mỗi người chúng ta, trong đời sống xã hội và truyền thống Việt Nam./.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

174

Hồ Chí Minh với giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có phạm vi bao quát rất rộng và được đề cập trong cả ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi con người, trong quan hệ với chính mình, quan hệ với mọi người và quan hệ với công việc. Người coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng, giống như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối, cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo, sông phải có nguồn, không có nguồn thì sông cạn, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Người chỉ rõ: ''Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh nặng và đi xa được. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang''. Đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập đến là đạo đức mới, đạo đức cách mạng mang tính nhân văn cao cả. Để xây dựng đạo đức Việt Nam mới, Hồ Chí Minh nêu ra những nguyên tắc và phương pháp cơ bản để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như việc rèn luyện của mỗi người. Phải tu dưỡng rèn luyện đạo đức bền bỉ, suốt đời. Người thường nhắc nhở: ''Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong''. Từ nhân sinh quan cho rằng bản tính con người không phải do trời định sẵn, không phải ''thiên định kỳ tính'' mà đạo đức con người chủ yếu chịu ảnh hưởng của giáo dục, của xã hội, ''hiền dữ nào phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Con người ta không phải là thánh thần, ai cũng có phần tốt, phần xấu, trong cuộc sống khó tránh hết những khuyết điểm sai lầm, vì vậy, vấn đề là phải nhận thức được những điểm yếu để http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

175

sửa chữa, khơi dậy phần thánh thiện tốt đẹp của con người, đẩy lùi cái xấu, cái ác. Tu dưỡng đạo đức phải thực hiện thường xuyên, bền bỉ, kiên trì, đòi hỏi sự quyết tâm cao, sự khổ công rèn luyện, ví như việc giã gạo: ''Gạo đem vào giã bao đau đớn Gạo giã xong rồi trắng tựa bông Sống ở trên đời người cũng vậy Gian nan rèn luyện mới thành công”. Xây dựng đạo đức mới đòi hỏi phải nêu gương điển hình, lời nói phải đi đôi với việc làm. Trong lĩnh vực giáo dục đạo đức mới yêu cầu sự gương mẫu, đó là những tấm gương tốt trong cuộc sống của ông bà, cha mẹ với con cháu; của anh chị với những người em; của thầy cô giáo với học sinh, của cán bộ đảng viên với nhân dân, của người tốt việc tốt với mọi người. Nêu gương đạo đức là lời nói phải đi đôi với việc làm, đó vừa là nguyên tắc để xây dựng đạo đức mới vừa là ranh giới phân biệt với đạo đức cũ, nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo là đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột. Người cách mạng thì lời nói phải đi đôi với việc làm hành động gương mẫu để quần chúng noi theo, đó là nguyên tắc để rèn luyện, tu dưỡng và xây dựng đạo đức mới. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ ''cộng sản'' mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước''. Xây dựng đạo đức mới, đòi hỏi phải đấu tranh bảo vệ cái mới, cái đúng, cái tốt, loại trừ cái sai, cái xấu, xây phải đi đôi với chống. Người cho rằng trong cuộc sống công tác hàng ngày và ngay trong mỗi con người cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái đạo đức, cái vô đạo luôn tồn tại đan xen. Nhưng cái vô đạo đức chỉ thừa dịp là trỗi dậy tấn công con người, vì vậy xây dựng đạo đức cách mạng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cao đẹp: trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, tình nhân ái, tinh thần quốc tế trong sáng... phải đi liền với cuộc đấu tranh chống những hiện tượng vô đạo đức như chủ nghĩa cá nhân; tệ quan liêu, tham ô, lãng phí; óc bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luậ,t phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đó là thứ bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh con.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

176

Tự phê bình và phê bình là một nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Trong cuộc sống của mỗi người khó tránh hết những khuyết điểm, nhưng khi có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình, rồi kiên quyết sửa chữa. Mỗi đảng viên, cán bộ, mỗi người phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như rửa mặt mỗi ngày, như vậy mới mong tiến bộ. Chúng ta khẳng định những mặt tích cực tiến bộ của nền đạo đức xã hội mới, nhiều giá trị đạo đức truyền thống được bảo tồn và phát huy, như chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái...nhiều giá trị đạo đức mới được khẳng định. Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực đó, nền đạo đức xã hội ta còn nhiều yếu kém, sự phai nhạt lý tưởng, sa sút về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tệ quan liêu, tham nhũng trở thành quốc nạn chưa được ngăn chặn hiệu quả. Nguyên nhân chủ quan của những tiêu cực đó là do chúng ta chưa lường hết những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, thiếu những biện pháp hữu hiệu trong cả xây và chống, chưa xử lý kiên quyết với những cán bộ thoái hóa biến chất. Để xây dựng đạo đức trong Đảng, đạo đức xã hội phát triển lành mạnh, mỗi người dân Việt Nam luôn luôn học tập, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng ta nên tổ chức thường xuyên và rộng rãi cho toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt với thanh niên, học sinh học tập và rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo ra môi trường xã hội trong sạch, làm động lực để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mặt khác, chúng ta phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, tham nhũng; xử lý nghiêm những cán bộ thoái hóa biến chất; xây phải đi đôi với chống. Đồng thời cần nhân rộng những tấm gương điển hình, trước hết là cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng nêu gương sáng cho nhân dân. Xây dựng Đảng ta là đảng vừa là đạo đức vừa là văn minh, xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

177

Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng định nghĩa về văn hóa: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa". Khái niệm về văn hóa đó của Bác được xác lập từ đầu những năm 40 của thế kỷ trước, nghĩa là hơn 40 năm trước khi UNESCO đưa ra khái niệm về văn hóa mà nhân loại hiện đang sử dụng. Trong quan niệm của Bác, văn hóa gắn với lẽ sinh tồn và mục đích của cuộc sống. Văn hóa là toàn bộ những sáng tạo, những phát minh không chỉ đáp ứng những nhu cầu tinh thần mà còn cả những nhu cầu vật chất của con người. Một nhận thức như vậy không cho phép coi văn hóa như một thứ giải trí, một thứ gia vị, cũng không cho phép coi văn hóa như một hoạt động lơ lửng trên không, không cho phép coi văn hóa là cái đuôi của các hoạt động kinh tế và chính trị. Bác Hồ đã từng nói: Một dân tộc có thể bị áp bức bóc lột, bị suy kiệt về vật chất, nhưng sức sống của dân tộc đó vẫn còn, và chỉ chờ có thời cơ là dân tộc đó sẽ vùng dậy. Cái sức sống đó chính là ở những giá trị văn hóa, những truyền thống văn hóa tốt đẹp. Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của nước ta đã minh chứng điều đó. Trong các cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc, trong các cuộc đụng đầu không cân sức về tiềm năng kinh tế, về vũ khí, với các thế lực ngoại xâm, cuối cùng dân tộc ta đã giành chiến thắng. Chính các tướng lĩnh Mỹ đã thừa nhận: họ thất bại vì họ vấp phải một dân tộc có truyền thống lịch sử lâu đời. Gần đây, Giáo sư, Tiến sĩ Tinpho thuộc Học viện Không quân Mỹ, trong bài viết về chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam trước đây, cũng khẳng định: máy bay cực kỳ hiện đại của không lực Hoa Kỳ đã vấp phải một cơn gió ngang cực mạnh, bị cơn gió ngang đó quật đổ xuống. Cơn gió ngang đó là những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

178

Như vậy, văn hóa là cội nguồn của đời sống một dân tộc. Nó là nền tảng tinh thần của xã hội. Nó tạo nên cốt cách, tâm hồn, tạo nên lực cố kết giữa các thành viên trong xã hội, tạo nên sức mạnh nội lực của một dân tộc. Nó là "nguyên khí" của một quốc gia. Vấn đề đặt ra hiện nay khi quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Ðảng ta về văn hóa là làm sao giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các lĩnh vực văn hóa, kinh tế và chính trị. Ðó là ba lĩnh vực then chốt trong đời sống một quốc gia. Trong quỹ đạo của tư duy cũ, do nhận thức chưa thấu đáo mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, có lúc, có nơi đã tuyệt đối hóa vai trò của vật chất. Có người nghĩ một cách đơn giản: có kinh tế là có tất cả. Nhưng để phát triển kinh tế, vấn đề nâng cao nguồn lực con người, việc áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, việc sử dụng kịp thời các thông tin về kinh tế và về công nghệ, nghệ thuật quản lý và uy tín đối với khách hàng là cực kỳ quan trọng. Các nhân tố đó không phải tự nhiên mà có, như những tài nguyên từ trong lòng đất. Trái lại, phải biết sử dụng các thành tựu của văn hóa. Sự tăng trưởng kinh tế không có mục tiêu tự thân. Nếu tăng trưởng kinh tế mà dẫn đến việc phá hoại môi trường sinh thái, làm xấu đi môi trường nhân văn, thì sự tăng trưởng đó sẽ dẫn đến những bất ổn trong xã hội. Vấn đề đặt ra trong công tác lý luận và hoạt động thực tiễn hiện nay là phải khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ quan điểm đó, phải hình thành những chủ trương, chính sách thích hợp nhằm xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần của xã hội, nhằm ngăn chặn nguy cơ suy thoái về đời sống tinh thần đang diễn ra trong mỗi quốc gia, trên phạm vi toàn cầu. Quán triệt quan điểm đó thực chất là quán triệt quan điểm coi trọng con người, coi con người là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải trong xã hội, và mọi của cải trong xã hội phải trở về phục vụ con người.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

179

Trong những năm chiến tranh ác liệt, giữa muôn vàn khó khăn của đất nước do chiến tranh gây nên, Bác Hồ vẫn đặc biệt quan tâm sự nghiệp giáo dục, vẫn phát động phong trào thi đua dạy thật tốt, học thật tốt. Ðó là những tư tưởng lớn, những bài học lớn mà chúng ta có thể rút ra trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa ở nước ta hiện nay. Gần đây, Hội nghị Trung ương 10 khoá IX đã đi tới một kết luận cực kỳ quan trọng là phải gắn kết nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt chỉnh đốn và xây dựng Ðảng với nhiệm vụ xây dựng nền tảng tinh thần là văn hóa. Kết luận đó thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của Người, sự nghiệp kháng chiến, cứu nước không thể tách rời sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, bởi vì văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của cuộc kháng chiến. Thực tế chứng minh rằng trải qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Những thành tựu đó bắt nguồn từ sự đổi mới tư duy, phát triển về lý luận và nhận thức của Ðảng. Những giá trị trong nền tảng tinh thần của đất nước là nguyên nhân quan trọng tạo nên những thành tựu trong 20 năm qua. Nhưng cũng phải thấy rằng, cùng với những thành tựu to lớn, rất quan trọng đã đạt được, chúng ta đang phải đối diện những thách thức, trong đó có nhiều vấn đề văn hóa, xã hội, bức xúc. Ðây là điều mà toàn xã hội đều quan tâm. Việc tiếp tục triển khai Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII "Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Ðảng hiện nay" chính là nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần, văn hóa của dân tộc. Nền tảng tinh thần có được củng cố thì sự phát triển kinh tế xã hội với bền vững, mới đi đúng theo định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

180

Tư tưởng Hồ Chí Minh về “học để làm việc” một trong bốn trụ cột của giáo dục hiện đại Bất cứ ở giai đoạn lịch sử nào, GD-ĐT luôn chiếm vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc và cả nhân loại. Từ xa xưa, các học giả, nhà lãnh đạo, quản lí ở trong nườc và trên thế giới đã từng luận bàn rất nhiều xung quanh chủ đề này. Đặc biệt, trong bối cảnh thế giới hiện nay, nhiều quốc gia, dân tộc đang tích cực chuyển sang giai đoạn phát triển nền kinh tế mới - kinh tế tri thức, vấn đề GD-ĐT càng được coi trọng. Vai trò của GD - ĐT được nhận thức và hành động một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Bởi vì, GD-ĐT chính là chìa khoá, động lực quan trọng để xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong lĩnh vực giáo GD-ĐT, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người có quan điểm và hành động chiến lược vượt tầm thời đại. Một trong những quan điểm và hành động của Người có tính xuyên suốt từ buổi thiếu thời cho đến lúc đi xa là xác định rõ ràng, nhất quán mục đích của việc học tập. Mục đích quan trọng nhất và suy cho đến cùng là duy nhất của việc học tập trong quan niệm và hành động của Bác chính là: Học để giúp dân cứu nước,học để làm việc.

1. Mục đích của học tập là để giúp dân cứu nước Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị nạn ngoại xâm, Người đã sớm xác định cho mình mục đích của việc học tập. Ngay từ tuổi thiếu niên Bác đã tiếp thu được tinh thần: học tốt để giúp dân cứu nước từ một số nhà nho yêu nước, nhất là từ chính người cha Nguyễn Sinh Sắc. Tư tưởng về mục đích học tập thật tốt, học tập thật nhiều để làm việc có ích cho dân tộc, quốc gia của người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã xuất hiện từ lúc đó.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

181

Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu của thế kỉ XX dân ta nô lệ lầm than dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Một bộ phận những người yêu nước, căm ghét giặc Pháp, muốn tìm cách đuổi Pháp đi. Biện pháp khá phổ biến lúc bấy giờ là quay lưng, bất hợp tác với thực dân Pháp, xa lánh với tất cả những gì là của nước Pháp, không tiếp thu cả những cái hay cái tiến bộ, cái mà chúng ta cần phải học từ nước Pháp lúc bấy giờ: khoa học kĩ nghệ, nền văn minh, văn hoá, ngôn ngữ, tư tưởng bình đẳng bác ái của nước Pháp. Biện pháp đó không đánh đuổi được thực dân Pháp, ngược lại càng bị áp bức, bóc lột nặng nề hơn. Bên cạnh đó, một bộ phận quan lại, địa chủ, tư sản, tiểu tư sản lại ca ngợi, bợ đỡ kẻ thù, đàn áp những người yêu nước, đi học để làm tay sai cho Pháp; hoặc là bằng con đường du học và định cư ở nước ngoài để mưu sinh cuộc sống. Đây là con đường hợp tác với Pháp (trong đó có học văn minh, tiến bộ của nước Pháp), nhằm tìm kiếm lợi ích, mưu sinh cho hạnh phúc của cá nhân. Mục đích học của những con người này là để ''hưởng vinh hoa phú quý''. Lúc bấy giờ, nhiều thanh niên có ''mục đích đi học là cốt được mảnh bằng để làm ông thông, ông phán, lĩnh lương nhiều, ăn ngon, mặc đẹp'', thì người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rất hăng say tích cực học cái hay cái tiến bộ của nền văn minh, văn hoá, ngôn ngữ Pháp; mục đích đi học của Người là để hiểu nước Pháp nhằm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, chống lại sự đô hộ của thực dân Pháp, học để làm việc có ích cho quốc gia, dân tộc. Người muốn sang tận nước Pháp để hiểu rõ nguồn cơn của ''Tự do - Bình đẳng - Bác ái'' ngay tại nước Pháp. Trong 30 mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, dù trong hoàn cảnh nào, ở đâu, làm gì? Người luôn thể hiện mục đích học tập cao cả của mình: tích cực học tập tiếp thu kiến thức của nhân loại để giúp dân cứu nước. Bác học ngoại ngữ, học viết báo, làm thợ ảnh, học đánh máy chữ, học diễn thuyết, học chủ nghĩa Mác... đều hướng tới mục đích giúp dân cứu nước, tìm con đường cách mạng giải phóng dân tộc. 2. Mục đích của học tập là để làm việc

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

182

Khi đất nườc đã giành lại độc lập, dù ở đâu, làm gì Người cũng liên tục phát triển quan điểm: học để làm việc. Người mong muốn mọi cán bộ, đảng viên phải xác định cho rõ mục đích của việc học tập. Tháng 9/1949, đến thăm Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc tại Việt Bắc, Người ghi vào sổ vàng truyền thống của nhà trường: ''học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại''. Như vậy, Người nhấn mạnh và yêu cầu cán bộ, đảng viên là học trước hết và quan trọng nhất là để làm việc. Mở trường Đảng để đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ, đảng viên là nhằm mục đích làm cho họ có thể hoàn thành tốt công việc mà thực tiễn cách mạng yêu cầu. Trong buổi nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ 2 (7/5/1958), Người lại nhắc nhở các sinh viên phải xác định cho rõ mục đích của việc học tập. Bác yêu cầu các sinh viên phải trả lời cho được câu hỏi: ''Học để làm gì? Học để phụng sự ai?''. Và Người coi đó như là phương châm hành động, bản lĩnh chính trị của đội ngũ trí thức Việt Nam mới. Trong thư gửi các cháu học sinh Trường sư phạm miền núi TW nhân dịp trường khai giảng, Người lại tiếp tục nhắc nhở ''nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương của mình và việc xây dựng nước Việt Nam yêu quý của chúng ta''. Bên cạnh đề cao mục đích học để làm việc, Người kiên quyết phê bình hiện tượng ''học để lấy bằng cấp, học để trang sức'' trong một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lúc bấy giờ. Bác chỉ rõ và yêu cầu nền GD-ĐT của nước nhà thực hiện cho được mục đích: ''phải xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, học để vận dụng vào công việc của cách mạng, mục đích học là để làm kinh tế, chính trị, văn hoá đều tiến bộ, các dân tộc đều đoàn kết với nhau... học để xây dựng chủ nghĩa xã hội''. Như vậy, theo Bác, chúng ta xây dựng một nền giáo dục của một nước Việt Nam mới - độc lập và chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải yêu cầu mọi người thấm nhuần trong nhận thức và hành động mục đích của học tập là học để làm việc.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

183

Do xác định mục đích là học để làm việc cho nên Người yêu cầu mọi người phải thể hiện nhận thức và hành động học mọi lúc, mọi nơi, học ở mọi người và phải học suốt đời. Chính cuộc đời và sự nghiệp của Bác là một tấm gương sáng ngời minh chứng cho quan điểm này. Trong buổi nói chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm, Bác nói ''Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học. Việc lớn, việc nhỏ, tôi phải tham gia. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình ra phía sau''.

3. Mục đích của học tập là học phải có phương pháp Theo Hồ Chí Minh, nếu không học thì không thể làm việc tốt được. Mà đã học thì phải học cho tốt; muốn vậy phải có phương pháp học tập. Phương pháp học tập là một nội dung không thể thiếu trong quan điểm của Bác khi bàn về mục đích học tập. Phương pháp học tập là một nội dung của mục đích học. Người xác định: Học phải gắn liền với thực hành; học tập suốt đời, học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi người. Quan điểm này được Người nhấn mạnh: ''Học để hành: Học với hành phải đi đôi Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì không trôi chảy''. Đây không chỉ là mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn của việc học mà ở tầng ý nghĩa sâu hơn... Tiếp tục khẳng định quan điểm này, trong thư gửi giáo sư và sinh viên trường Dự bị đại học ở Thanh Hoá, Người khuyên các sinh viên: ''Các cháu học tập cần cố gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện mục đích cao quý: thật thà phụng sự nhân dân''. Theo Hồ Chí Minh, muốn cho mục đích cao cả của việc học được thành công thì đòi hỏi phải có phương pháp học tập đúng đắn. Phương pháp học tập là một nội dung của mục đích học tập, gắn liền với mục đích học tập. Chỉ người nào có tinh thần và hành động học tập gắn liền với thực hành, học tập suốt đời, học tập ở mọi lúc, mọi nơi thì mới có thể đáp ứng được mục đích cao cả của học tập là học để làm việc. Trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng hiện nay, chúng ta càng thấm thía quan điểm này. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

184

4. Ý nghĩa mục đích học tập theo quan điểm của Bác Hiện nay, trong bối cảnh cải cách và phát triển nền giáo dục để đáp ứng những yêu cầu mới của thực tiễn, việc học tập quan điểm và tấm gương ngời sáng của Hồ Chí Minh về mục đích học tập có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thực tiễn nước ta có một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân, đặc biệt là trong thế hệ trẻ chưa thấy hết ý nghĩa thời đại trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: học để làm việc. Có một bộ phận cán bộ, đảng viên xác định mục đích của việc học không phải là học để làm việc mà học chính là để mưu lợi ích cá nhân, học để thăng quan tiến chức, học để củng cố địa vị, học để lấy bằng cấp, học hàm học vị cho oai. Nhiều khi học lại chăng để làm gì cả, việc học của họ không gắn liền với mục đích làm việc được tốt hơn. Chúng ta có thể nhận thấy: số lượng cán bộ, đảng viên đi học ngày một tăng nhanh, nhưng hiệu quả giải quyết công việc ở các cấp, các ngành, các đơn vị chưa rõ? Do đâu? Một nguyên nhân rất quan trọng là do mục đích học để làm việc, học để có thể đảm đương tốt công việc được phân công chưa được quan tâm đúng mức. Không ít các bậc phụ huynh, GV, chưa làm tốt công tác truyền đạt cho thế hệ trẻ: lòng ham học, học giỏi để sau này có thể làm việc được tốt, mới chỉ dừng ở chỗ: học vì tinh thần thành tích thi đua chung, vì kết quả của bản thân học sinh, vì sự mong đợi của các bậc cha mẹ, họ hàng, thầy cô giáo và nhà trường. Thiết nghĩ, điều này là rất quan trọng, là động lực để nâng cao chất lượng trong giáo dục nhà trường phổ thông, phù hợp với tâm lí con người. Nhưng động lực, bệ phóng để các em mở rộng tầm nhìn, đi được xa hơn, phát triển về nhân cách, trí tuệ toàn diện bền vững hơn, có lẽ cần phải đề cao: học giỏi để có thể làm việc tốt trong tương lai. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

185

Trong thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, một bộ phận không nhỏ chỉ xác định mục đích duy nhất là học để có cơ hội kiếm được nhiều tiền. Đành rằng, đây là mục đích rất chính đáng, thiết thực đối với cuộc sống hôm nay, phù hợp với việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Song, nó bị đẩy lên thái quá, trở thành phương châm hành động của khá đông học sinh, sinh viên, thanh niên. Do mục đích học để làm việc chưa được đề cao thoả đáng trong xã hội và lấy hệ giá trị của trường lớp, địa vi xã hội, cơ hội kiếm được nhiều tiền trong lúc học và sau khi ra trường làm thước đo nên nhiều học sinh xác định nguyện vọng học bậc tiếp theo không phù hợp với năng lực của mình, không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta; một bộ phận HS đi du học nước ngoàt bị cuốn vào guồng xoáy của giá trị vật chất, không chuyên cần học tập. Vấn đề xác định giá trị, mục đích của việc học tập ở nước ngoài nhằm tiếp thu khoa học - công nghệ, quản lí tiên tiến, để từ đó có thể làm việc được tốt hơn, phục vụ cho đất nước được nhiều hơn chưa được coi trọng. Phương châm ''đi tắt đón đầu'' trong học tập khoa học - công nghệ, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta hiện nay về cơ bản là đúng đắn. Tuy nhiên, khi triển khai cụ thể, chúng ta chưa coi trọng một cách thoả đáng đến mục đích học để làm việc, ''đốt cháy, bỏ qua'' khá nhiều công đoạn trong học tập, đào tạo khoa học - công nghệ và làm kinh tế nên gặp không ít khó khăn, bất cập. Tấm gương và hành động trong mục đích học tập của Hồ Chí Minh đã trở thành một di sản quý báu của đất nước. Trong quá trình đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay, việc xác định mục đích học để có khả năng tiếp cận và đáp ứng được công việc là hết sức cần thiết. Nó cần phải được coi là phương châm hành động trong xã hội, nhất là đối với thế hệ trẻ. Những năm cuối của thế kỉ XX, UNESCO - Tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc đã khẳng định: mục tiêu của giáo dục trên thế giới đang http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

186

chuyển hướng, từ chỗ học để biết chuyển sang phương châm học để làm việc, học để cùng chung sống, học để làm người. Mục đích của giáo dục là nhằm xây dựng nguồn lực con người trở thành động lực cho sự phát triển bền vững. Phải chăng vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức, hành động và giáo dục chúng ta trước đó từ rất lâu và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

187

Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ 1. Ý thức sâu sắc vai trò quan trọng đặc biệt của dân chủ trong sự nghiệp kiến thiết chế độ mới XHCN ở Việt Nam Hồ Chí Minh đã xác định phải thực hành dân chủ: đảm bảo cho nhân dân có quyền làm chủ, thực sự là người chủ, tham gia trực tiếp vào các công việc quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế và xã hội. Người còn nhấn mạnh: nhân dân đã có quyền làm chủ thì đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ của người chủ. Quyền được đảm bảo bởi lợi ích và gắn liền với nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm. Dân chủ gắn liền với pháp luật, kỷ luật, kỷ cương xã hội. Theo đó, dân chủ hóa đồng thời là pháp chế hóa xã hội, càng mở rộng và phát huy dân chủ bao nhiêu càng phải củng cố hiệu lực của tập trung, sức mạnh của pháp luật, kỷ luật bấy nhiêu. Những nhân tố này chế ước, chi phối lẫn nhau, đảm bảo cho dân chủ phát triển một cách lành mạnh, không bị biến dạng, lệch lạc thành những phản dân chủ với những biểu hiện như vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức hay thói tự do vô chính phủ, coi thường pháp luật kỷ cương. Nó cũng đồng thời đảm bảo cho chế độ (hay nguyên tắc) tập trung dân chủ trong Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị của hệ thống chính trị có sức mạnh của tổ chức và hoạt động, không bị biến dạng thành tập trung quan liêu, tính cát cứ cục bộ, phường hội. Như vậy, chỉ có dân chủ gắn liền với tập trung thành nguyên tắc tập trung dân chủ, được xây dựng thành những thể chế có tính pháp lý, có cơ sở xã hội của sự thống nhất, đồng thuận, tự giác trong cộng đồng thì mới đảm bảo được an ninh trật tự, giữ vững ổn định, làm cơ sở cho sự phát triển xã hội. Đó là thực hiện đúng đắn sự ủy quyền của nhân dân vào Nhà nước. Dân chủ thực chất là dân ủy quyền cho Nhà nước để Nhà nước dựa trên đó mà điều hành, quản lý xã hội để thực hiện quyền lực nhân dân - một quyền lực tối cao, thống nhất không phân chia, để thực hiện chức năng công quyền của Nhà nước http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

188

được hiến định và pháp định, nhằm phục vụ dân, bảo vệ dân, phát huy sức mạnh của toàn dân. Phát triển không ngừng sức dân, tức là phát triển năng lực của toàn xã hội, thực hiện tốt nhất quyền và lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Những kiến giải trên cho thấy, một nền dân chủ kiểu mới, mang tính chất XHCN, tính chất giai cấp công nhân, thống nhất hữu cơ mật thiết với tính nhân dân và tính xã hội. Trong đó nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh giũa công nhân - nông dân - trí thức phải là chủ thể xã hội của chế độ dân chủ, đồng thời cũng là chủ thể của chế độ nhà nước. Một trong những đặc điểm đặc sắc trong tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh chính là khẳng định vai trò chủ thể, đia vi người chủ của nhân dân lao động. Người đã từng nói: nước ta là nước dân chủ. Trong chế độ dân chủ, địa vị cao nhất là dân. Nhà nước, Chính phủ và mọi cán bộ công chức, từ Chủ tịch đến nhân viên phục vụ đều là đầy tớ, công bộc của dân, phải hết lòng, hết sức, tận tâm tận lục phục vụ dân chúng. Đó là trách nhiệm nặng nề mà cũng rất vẻ vang do dân ủy thác. Người nhấn mạnh: Trong quan hệ với dân chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ và thực hiện nghĩa vụ, bổn phận đó. Trong mỗi việc lớn, nhỏ hàng ngày, khi thi hành công vụ, mỗi người chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng “dân chủ” chứ không phải là “quan chủ”, làm cách mạng để phục vụ nhân dân chứ không phải lên mặt “quan cách mạng” để đè đầu, cưỡi cổ nhân dân. Phải luôn luôn gần gũi dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, vận động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục dân. Có như thế mới xứng đáng là người đầy tớ tận tụy, trung thành của nhân dân. 2. Quan niệm “dân là chủ và dân làm chủ” vừa khẳng định vị thế người chủ, vừa nhấn mạnh tới năng lực, hành động làm chủ của dân. Trong những luận điểm của các nhà kinh điển mác xít có ý nghĩa như những định nghĩa khoa học về dân chủ thì luận điểm nêu trên trong quan niệm của Hồ Chí Minh có thể nói là luận điểm tiêu biểu, điển hình nhất. Luận điểm này thể hiện được bản chất, cốt lõi của dân chủ. Đó là dân ở địa vị người chủ chứ không phải nô lệ. Dân chủ là thành quả của cuộc đấu tranh giải http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

189

phóng, làm cho nhân dân thoát khỏi tình trạng bị bóc lột, áp bức và nô dịch. Muốn có dân chủ thì nhân dân phải được tự do, tự mình tranh đấu để giành tự do, tự mình phải làm chủ, tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Do đó, trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng cho nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới đấu tranh giải phóng dan tộc, giành lấy độc lập dân tộc, giác ngộ cho dân chúng hiểu rõ “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Theo Hồ Chí Minh không thể thực hiện được dân chủ cho dân khi nước nhà còn trong cảnh nô lệ, mất độc lập chủ quyền. Đánh đuổi đế quốc thực dân xâm lược, xóa bỏ ách bóc lột, áp bức của tư bản và phong kiến, nhân dân phải nắm lấy mọi quyền bính trong tay mình, dựng lên một chính quyền nhà nước thực sự là của mình, đó là những tiền đề chính trị đầu tiên của tự do dân chủ. Dân chủ, tự nó bao hàm vấn đề thể chế Nhà nước, quan hệ qua lại giữa Nhà nước và công dân, được đảm bảo bởi luật pháp. Do đó, dân chủ được hình thành trước hết là vấn đề của chính trị và có tính pháp lý. Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh thống nhất từ bản chất với quan niệm dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng xã hội hiện đại, muốn có dân chủ phải cải tạo xã hội cũ, xóa bỏ triệt để những tàn dư của chế độ phong kiến lỗi thời và cả những mặt tiêu cực, phản động của chế độ TBCN, xây dựng những thể chế đần chủ và những thiết chế xã hội, thực hiện trên thực tế “quyền lực của dân” - tức dân chủ XHCN.

Ngay từ năm 1919, trong bản yêu sách gồm 8 điểm đòi quyền tự đo dân chủ cho các dân tộc thuộc địa ở Đông Dương gửi tới Hội nghị Vécxây, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng việc ban hành các đạo luật. Đây là nền móng đầu tiên về tư tưởng nhà nước pháp quyền của Nguyễn Ái Quốc. Sau này trong diễn ca về lịch sử, Người còn ghi rõ: “Bảy xin Hiến pháp ban hành,

Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

190

Cho đến nay, Hiến pháp 1946 do Người trực tiếp chỉ đạo biên soạn đặt nền móng cho chế độ dân chủ cộng hòa, vẫn là một mẫu mực của Hiến pháp dân chủ. Bản Hiến pháp sửa đổi năm 1959 với những dấu ấn trực tiếp của Người cũng vậy. Nó nhất quán với tư tưởng dân chủ. tôn trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân mà hồ Chí Minh đã nêu ra. Quan điểm dân chủ của Hồ Chí Minh còn thấm nhuần sâu sắc tính hiện thực, tính thực tiễn khi Người nhấn mạnh tới nội dung kinh tế - vật chất của dân chủ. Đó là vấn đề đảm bảo lợi ích thiết thân, hàng ngày cho dân chúng theo phương thức công bằng, bình đẳng. Người nói: dân chỉ biết đến dân chủ tự do khi mà dân được ăn no, mặc ấm. Người nhấn mạnh tới trách nhiệm của Nhà nước, phải làm sao cho dân có ăn, có mặc, có nhà ở, được học hành, được tự do đi lại, được chăm sóc sức khỏe và có đời sống hạnh phúc. Người coi đó là những việc cần kíp, cần làm ngay và làm thường xuyên. Nhà nước của dân, do dân, vì dân thì phải chăm lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, nhà nước được độc lập tự do, mà dân chúng vẫn đói khổ nghèo nàn, lạc hậu thì tự do, độc lập ấy cũng chẳng làm gì. Điều đó có nghĩa là, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới quyền dân chủ trong thực tế được đo bằng quyền lợi thực sự của dân, chứ không phải chỉ là quyền trên danh nghĩa và pháp lý. Nếu dân chủ thể hiện ở quan hệ giữa công dân với Nhà nước về quyền và nghĩa vụ, thì việc đảm bảo thực hiện những quyền của công dân đó là nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước. Mặt khác, quyền quản lý của Nhà nước do dân chúng ủy quyền lại được đảm bảo thực hiện bởi nhân dân, nhân dân tự nguyện, tự giác thi hành nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước do chính mình là chủ và làm chủ. Vì thế, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, nhân dân đã có quyền làm chủ thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ của người chủ. Những quyền và nghĩa vụ đó được thể hiện trong nội dung của dân chủ, từ dân chủ trong kinh tế đến dân chủ trong chính trị, dân chủ trong văn hóa tinh thần, trong quản lý xã hội. Đó là bốn lĩnh vực ngang nhau của đời sống, không được xem nhẹ một lĩnh vực nào mà hạt nhân của dân chủ, đó là lợi ích và quan hệ lợi ích. Mục đích sâu xa của dân chủ không có gì khác là phục vụ dân, bảo vệ dân, phát triển sức dân, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

191

làm cho dân có quyền và được hưởng quyền hạnh phúc. Mục đích ấy được thực hiện bởi hoạt động sáng tạo và có tổ chức của chính nhân dân, thông qua các thể chế, luật pháp của Nhà nước hướng dẫn, quy định, điều chỉnh và điều tiết.

3. Thực hiện dân chủ trong điều kiện có Nhà nước luôn luôn đồng hành với cuộc đấu tranh chống quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Thực hiện dân chủ không tách rời việc xây dựng, hoàn chỉnh luật pháp, giáo dục thực thi pháp luật, xét xử nghiêm minh những hành vi phạm tội. Sống theo luật, làm theo luật, xử theo luật là đòi hỏi của cuộc sống văn minh, là yêu cầu tất yếu của dân chủ. Luật pháp được coi là nhân tố đảm bảo của dân chủ, là giới hạn, hành lang vận động của đần chủ. Dĩ nhiên, luật pháp dù hoàn hảo đến đâu cũng không đủ để giải quyết mọi tình huống của cuộc sống. Cùng với pháp luật, phải tăng cường đạo đức, văn hóa đạo đức, kết hợp pháp trị với đức trị trong quản lý. Để thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của dân phải chú ý đảm bảo các điều kiện: dân sinh, dân trí, dân quyền để tiến tới dân chủ, để từng bước xây dựng văn hóa dân chủ, từ văn hóa công dân, văn hóa lao động đến văn hóa pháp lý, văn hóa đạo đức của cá nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội. Kết hợp cả hai phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, mở rộng các hoạt động tự quản và nâng cao năng lực tự quản cộng đồng của nhân dân. Để xây dựng nền dân chủ ở nước ta, cần phải thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, áp dụng các giải pháp mà nổi bật là: Phát triển sản xuất và kinh tế xây dựng thể chế pháp luật, các quy chế, cơ chế có tính pháp lý giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật và đạo đúc, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền; hoàn thiện các kỹ năng, phương Pháp quản lý, kiểm tra, kiểm soát dựa vào luật nước và năng lực của dân. Đây là cả một quá trình lâu dài, vừa xây dựng dân chủ, vừa chống quan liêu, tham nhũng. Đó là những điểm căn bản nhất về lý luận dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã thâu tóm lý luận ấy trong phần mở đầu tác phẩm ''Dân vận » (1949): Bao nhiêu lợi ích đều là của dân. Bao nhiêu quyền hạn cũng thuộc về dân, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

192

quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Chính quyền từ xã đến Trung ương do dân tổ chức nên, đoàn thể từ Trung ương đến xã cũng do dân xây dựng. Người còn chỉ rõ: Dân chủ thì mọi người có quyền tự do tư tưởng thảo luận, tranh luận cùng nhau tìm tòi chân lý. Khi chân lý đã tìm thấy, thì quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Hồ Chí Minh nhìn nhận dân chủ không chỉ là phương thức tổ chức đời sống và quản lý xã hội văn minh, mà còn là giá trị văn hóa. Chính vì lẽ đó, dân chủ không dừng lại ở tính pháp lý mà còn thấm nhuần tính nhân văn sâu sắc. Điều đó được thể hiện nổi bật ở những luận điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ mà tính hiện đại, sức sống, ý nghĩa của nó sẽ còn mãi: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”. Thực hành dân chủ rộng rãi là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Trong Đảng phải thực hành dân chủ, chấp hành dân chủ tập trung, gương mẫu đoàn kết gương mẫu thi hành pháp luật để làm gương cho dân chúng noi theo, để tiến bộ và phát triển.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

193

Bồi dưỡng, phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Nghiên cứu dự báo tình hình có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo có thể khẳng định chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch là nguy cơ lớn, nổi lên hàng đầu, rất nguy hiểm và trực tiếp liên quan đến sự sống còn của độc lập dân tộc và CNXH ở nước ta; đồng thời, cũng không thể loại trừ khả năng kẻ thù tiến hành chiến tranh xâm lược kiểu mới có sử dụng vũ khí công nghệ cao đối với nước ta. Để đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, chủ động ngăn chặn nguy cơ chiến tranh xâm lược và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù, chúng ta cần tích cực bồi dưỡng nâng cao chất lượng tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó cần chú trọng nâng cao chất lượng chính trịtinh thần của dân tộc, mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Trong suốt hành trình lịch sử của mình, dân tộc Việt Nam liên tục trải qua những cuộc chiến tranh điển hình về tính chất ác liệt và sự gian khổ hy sinh, luôn phải đương đầu với những thế lực xâm lược điển hình về tính chất tàn bạo và sự hiếu chiến, có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần, nhưng dân tộc ta không chịu khuất phục, không bị đồng hoá như một số dân tộc khác trong lịch sử nhân loại. Vì sao như vậy? Đó là vì dân tộc ta đã tự xây dựng được bản lĩnh chính trị, bản sắc văn hoá và sức mạnh chính trị- tinh thần to lớn, mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định trong sức mạnh của dân tộc Việt Nam để trường tồn và phát triển.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

194

Hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng hai thế lực xâm lược lớn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Dân tộc ta tiếp tục vượt lên qua cơn lốc sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, thu được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN, đồng thời bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Chính trong điều kiện lịch sử đó, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được bồi đắp và phát triển lên tầm cao mới, từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Hiện nay và trong những thập kỷ tới, do ở vị trí chiến lược quan trọng và luôn kiên định lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Chúng đang ráo riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, tăng cường chống phá về chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội v.v…Để thúc đẩy tự diễn biến trong nội bộ ta, ra sức lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, “dân chủ”, “nhân quyền” để cô lập Việt Nam trong quan hệ quốc tế; nhằm kích động chống đối ở trong nước và tạo cớ can thiệp từ bên ngoài, không loại trừ khả năng kẻ thù tiến hành chiến tranh xâm lược kiểu mới đối với nước ta. Chúng ta không thể xem nhẹ sự nguy hiểm của “cuộc xâm lăng mới về văn hoá”, khi các thế lực thù địch ra sức truyền bá, áp đặt những “giá trị văn hoá” của TBCN phương Tây, mà cốt lõi là chủ nghĩa cá nhân thực dụng cực đoan, âm mưu dùng văn hoá để “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang nhân dân và cả dân tộc ta, nhất là đối với thanh thiếu niên, làm phai nhạt những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Chúng ta cũng cần tỉnh táo trước những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, làm cho không ít người đánh mất lòng tự hào dân tộc, bị cuốn hút vào vòng xoáy của chủ nghĩa cá nhân thực dụng, đáng chú ý là sự chuyển hoá từ cơ hội thực dụng về kinh tế sang cơ hội thực dụng về chính trị.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

195

Dưới góc độ khoa học chính trị-quân sự, chúng ta có thể dự báo cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của các thế lực thù địch tiến hành đối với nước ta sẽ gay go, quyết liệt hơn gấp nhiều lần các cuộc chiến tranh vừa qua ở: vùng Vịnh, Nam Tư, Ápganixtan, Irắc, không phải chỉ do phương thức tiến hành chiến tranh xâm lược kiểu mới, với vũ khí trang bị công nghệ cao mà còn là cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, về đường lối, quan điểm và thể chế chính trị-xã hội. Nếu phải đối phó với cuộc chiến tranh ấy, chắc chắn chúng ta vẫn thua kém về tiềm lực kinh tế, quân sự, vũ khí và phương tiện chiến tranh. Chúng ta chỉ có thể giành thắng lợi bằng sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam, với đường lối chính trị-quân sự đúng đắn và nghệ thuật quân sự Việt Nam, với sự vượt trội kẻ thù về sức mạnh chính trị-tinh thần, mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Để bồi dưỡng phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới, chúng ta cần tiến hành đồng bộ những chủ trương, giải pháp trên các lĩnh vực: chính trị-tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội v.v. Trong bài viết này, xin đề xuất một số vấn đề cơ bản, cấp thiết sau đây: Một là, tăng cường giáo dục sâu rộng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong cán bộ, đảng viên, trong lực lượng vũ trang nhân dân và trong thanh thiếu niên, định hướng giá trị cho sự phát triển những phẩm chất nhân cách của con người Việt Nam đương đại. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh được định hướng và thể hiện tập trung ở lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Công tác chính trị-tư tưởng của chúng ta cần làm cho các yếu tố được quán triệt sâu sắc trong tư duy chiến lược, trong hoạch định chiến lược phát triển, được cụ thể hoá và xã hội hoá sâu rộng trong các phong trào xã hội và hoạt động xã hội, được chuyển hoá thành nhận thức, tình cảm, trách nhiệm và hoạt động của mỗi người, của mọi tổ chức chính trị-xã hội. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

196

Chúng ta cần khảo sát thực tiễn để có những chủ trương, giải pháp cụ thể thiết thực khắc phục tình trạng tuổi trẻ bị lôi kéo vào các hoạt động tôn giáo (ở thành phố Hồ Chí Minh có 50 ngàn học sinh, sinh viên tham gia tổ chức “tuổi trẻ công giáo”, “sinh viên công giáo”), bị kích động ly khai dân tộc dẫn đến tham gia biểu tình bạo loạn chống lại chế độ hoặc bị cuốn hút vào lối sống chạy theo đồng tiền mà đánh mất lòng tự tôn dân tộc (hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài; hiện tượng sống buông thả, suy đồi, nghiện hút... nổi lên rất nhức nhối như ở các tỉnh phía Nam). Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh có cội nguồn lịch sử, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Do đó, chúng ta cần tăng cường giáo dục truyền thống để khơi dậy lòng tự hào và tự tôn dân tộc trong mỗi người Việt Nam,không để xẩy ra tình trạng như ở Tây Nguyên vừa qua. Hai là, thực hiện tốt các chiến lược, các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội gắn với tăng cường quốc phòng-an ninh, chứng minh và khẳng định cho được tính chất tiến bộ và ưu việt của chế độ kinh tế-xã hội mới đang được xây dựng và bảo vệ trên đất nước ta. Đây là cơ sở vững chắc bảo đảm cho sự phát triển và phát huy tố chất chính trị-tinh thần của mỗi người và trạng thái chính trị-tinh thần lành mạnh của xã hội, tạo nên động lực chính trị- tinh thần to lớn của toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Ba là, thường xuyên chăm lo xây dựng và bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bồi đắp cơ sở xã hội sâu rộng và vững chắc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Trước đây trong chiến tranh giải phóng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam được định hướng và qui tụ dưới ngọn cờ tư tưởng thống nhất giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, với khát vọng “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Ngày nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam được định hướng và qui http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

197

tụ dưới ngọn cờ tư tưởng thống nhất độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, với khát vọng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là sự kế tục, bổ sung và phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh lên tầm cao mới, đáp ứng sự phát triển của tình hình và nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Đó cũng là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho đất nước ta luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống, ổn định và phát triển bền vững .

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

198

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh, được mọi người Việt Nam gọi bằng cái tên gần gũi thân thương là Bác Hồ. Người sinh ngày 19-5-1890 trong một gia đình nhà Nho yêu nước ở Kim Liên, Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ Người có tên là Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành. Người sinh ra khi thực dân Pháp đã xâm lược và đặt ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam. Với truyền thống không bao giờ chấp nhận sự thống trị của kẻ xâm lược, nhân dân ta từ Nam đến Bắc, từ đồng bằng đến miền núi đã liên tục cầm vũ khí đứng dậy chống thực dân Pháp xâm lược. Cuối thế kỷ XIX, dưới sự lãnh đạo của các văn thân sĩ phu yêu nước, các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống thực dân Pháp đã diễn ra trên khắp cả nước. Nhưng thực dân Pháp đã tập trung đàn áp dìm các cuộc khởi nghĩa trong bể máu. Các cuộc khởi nghĩa chưa có đường lối đúng đắn, kết cục đều thất bại. Sang thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, các cựu sĩ phu chuyển hoá lập trường tư tưởng thực hiện các cuộc vận động cứu nước theo lập trường tư sản. Tiêu biểu như những phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục... đứng đầu là những chí sĩ yêu nước nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can... Nguyễn Tất Thành khi đó được mời thực hiện Đông Du, nhưng đã từ chối để rồi ba năm sau Người tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1908). Người đã phải chứng kiến phong trào bị đàn áp đẫm máu, bản thân Người cũng bị chính quyền thực dân phong kiến không cho tiếp tục học nữa. Chứng kiến và tham gia cuộc đấu tranh bi hùng của dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Người đã nhận xét: cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta đến đầu thế kỷ XX lâm vào ngõ cụt. Rõ ràng chỉ bằng sức mạnh yêu nước truyền thống không thôi thì không đủ sức chiến thắng kẻ thù mới là bọn đế quốc thực dân cấu kết chặt chẽ với bọn đại địa chủ phong kiến. Lịch sử dân tộc Việt Nam đến đầu thế kỷ XX http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

199

đặt ra một đòi hỏi khách quan là cần có một con đường cứu nước mới, với khả năng tạo ra cho dân tộc một sức mạnh mới đủ sức đánh đuổi kẻ thù mới là thực dân phong kiến làm cho dân tộc được độc lập, đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển, nhân dân được sống trong hoà bình, tự do mưu cầu hạnh phúc. Với tấm lòng yêu nước nhiệt thành, thương dân thương nước phải sống trong cảnh nô lệ, bị đoạ đầy đau khổ, Nguyễn Tất Thành nuôi trí giúp dân tìm con đường giải phóng. Người tâm sự: Vào lúc 13 - 14 tuổi, lần đầu tiên Người tiếp xúc với khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng Pháp. Lý tưởng đẹp đẽ này đã có sức hấp dẫn Người muốn đi sang Pháp, sang các nước phương Tây để xem họ làm như thế nào, sau đó Người sẽ về giúp đồng bào mình. Ngày 5-61911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba quyết định xuống làm thuê trên chiếc tàu buôn của Pháp và Người tạm biệt Tổ quốc từ Sài Gòn đi Pháp. Ngày 67-1911, tàu buôn Đô đốc Latútsơ Tơrêvin đưa Nguyễn Tất Thành đến nước Pháp tại cảng Mác-xây, bắt đầu những năm tháng dài lao động, nghiên cứu, học hỏi của Người ở các nước phương Tây. Từ nước Pháp Nguyễn Tất Thành lại quyết định xuống tàu làm thuê của hãng vận tải hợp nhất Sác-giơ Rê-uy-ni và thực hiện cuộc hành trình xung quanh châu Phi, tới nhiều nước thuộc địa của Pháp. Rời châu Phi, vượt Đại Tây Dương đến nước Mỹ, Người ở đây suốt những năm 1912, 1913. Từ Mỹ, Người trở lại châu Âu và sống ở Anh liên tục từ 1913 đến cuối 1917 mới trở lại nước Pháp sống ở Pari. Tháng 6-1923, Người bí mật rời nước Pháp về làm việc tại Mátxcơva thủ đô nước Nga... Suốt 30 năm từ năm 1911 đến 1941, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện một cuộc khảo sát toàn diện ở các nước thuộc địa, các nước tư bản phát triển khắp thế giới. Quá trình đó Nguyễn Ái Quốc đã gắn mình với phong trào công nhân thế giới, với phong trào chính trị xã hội của các nước. Người đã chứng kiến những trận roi da mà bọn thực dân dáng vào đầu những người nô lệ, chúng coi người dân như súc vật. Người nhận xét: Trên thế giới không có dân tộc chiến bại nào bị đàn áp và hành hạ như người dân thuộc địa. Sau này Người đã tổng kết nó trong tác phẩm viết bằng tiếng Pháp nổi tiếng của Người: "Bản án chế độ thực dân Pháp", xuất bản tại http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

200

Pari năm 1925. ở Niu-oóc, đến khu Hác-lem của những người da đen, "giống người bị áp bức và bóc lột nặng nề nhất trong loài người", Nguyễn Tất Thành đã nhiều lần vét những đồng xu cuối cùng để giúp đỡ họ. ở Anh, Người hoà mình vào phong trào công nhân và công đoàn Anh, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, tham dự những buổi diễn thuyết chính trị, lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Ai-Len... Tại Pari, Nguyễn Tất Thành dần dần làm quen với nhiều nhà hoạt động công đoàn nổi tiếng và Người đã hăng hái tham gia các hoạt động của tổ chức công đoàn. Tháng 6-1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi đến hội nghị của các nước đế quốc thắng trận trong chiến tranh lần thứ nhất bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi Chính phủ Pháp và các cường quốc đế quốc phải thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tại Pari, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tổ chức lại Hội những người Việt Nam yêu nước, khơi gợi lòng yêu nước của bà con, hướng cho bà con đi vào hoạt động có tổ chức chặt chẽ. Người tham gia Đoàn thanh niên Xã hội Pháp và sau đó vào năm 1919 tham gia Đảng Xã hội Pháp. Thời gian này Nguyễn Ái Quốc có bước tiến lớn trong nhận thức chính trị và hoạt động thực tiễn. Quá trình khảo cứu thế giới, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng của các nước, trong đó Người đặc biệt chú ý tới cách mạng Mỹ 1776, cách mạng Pháp 1789 và cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Tiêu chí Nguyễn Ái Quốc học tập kinh nghiệm ở các cuộc cách mạng trên thế giới là: cuộc cách mạng nào đem lại độc lập cho dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đó cũng là đòi hỏi của dân tộc và khát vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc chủ trương cách mạng Việt Nam phải học tập những tư tưởng hay, những bài học tốt, rút kinh nghiệm không hay từ hai cuộc cách mạng này. Nhưng cách mạng Việt Nam không đi theo con đường của những cuộc "cách mạng không đến nơi" Mỹ và Pháp. Ngược lại nghiên cứu cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng đến nơi, nghĩa là cách mạng thắng lợi rồi, chẳng những đem lại tự do, bình đẳng thật cho những người lao động Nga mà còn muốn giúp đỡ các dân tộc thuộc địa đi tới giải phóng. Vì vậy, cách mạng http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

201

Việt Nam muốn có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân phải noi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga. Hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc có bước trưởng thành vượt bậc diễn ra vào nửa cuối năm 1920. Tháng 7 năm 1920, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với Lênin qua văn kiện: Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa mà Lênin sẽ đọc tại Đại hội lần thứ hai của Quốc tế Cộng sản vào cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1920. Những điều bấy lâu nay trên lộ trình tìm đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc trăn trở, suy tư thì nay đọc Luận cương của Lênin như bừng sáng, bởi vậy Người rất cảm động, phấn khởi, tin tưởng. Người cho rằng "Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta" và từ đó Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh lý luận mà chốt lại là giữ nguyên Đảng Xã hội Pháp trong Quốc tế thứ hai hay thành lập Đảng Cộng sản Pháp thành phân bộ của Quốc tế thứ ba, diễn ra sôi nổi trong Đảng Xã hội Pháp suốt từ giữa năm 1920 đến cuối tháng 12-1920 tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp tại thành Tua. Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã dứt khoát đứng về lập trường tham gia Quốc tế thứ ba và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là bước ngoặt căn bản trên hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, bước ngoặt trong tiến trình hình thành tư tưởng của Người. Người khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Bằng tư tưởng đó, mùa xuân 1930 khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã viết trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng rằng: ta chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng này của Người đã đáp ứng đòi hỏi của lịch sử dân tộc là phản đế phản phong, nó là bệ đỡ nâng dân tộc ta vươn mình lên làm cách mạng Tháng Tám thành công và kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Vì vậy đến năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tìm đường cứu nước cho dân tộc, đồng thời cũng là người chỉ đường, vạch lối giải phóng cho dân tộc và cũng là người dẫn dắt

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

202

dân tộc ta, nhân dân ta đi tới những thắng lợi, đưa dân tộc ta vào quỹ đạo phát triển. Con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh dù diễn đạt từ ngữ có khác nhau ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể nhưng luôn luôn có hai yếu tố cơ bản: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hai yếu tố này tạo nên nội dung hoàn chỉnh của con đường cách mạng Việt Nam và nó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là con đường cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong đó độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc phải giành, giữ cho được độc lập dân tộc; độc lập dân tộc phải đi đến thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và phải đi tới quyền tự quyết dân tộc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; độc lập dân tộc phải gắn liền với hoà bình, chỉ có độc lập dân tộc trong hoà bình và chỉ có hoà bình mới thực sự có độc lập, còn chiến tranh, còn ngoại xâm không thể có độc lập dân tộc; độc lập dân tộc phải đi tới ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Do vậy, độc lập dân tộc bao giờ cũng là mục tiêu trực tiếp, trước hết của cách mạng Việt Nam, nó là hệ quả của việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của cách mạng giải phóng của dân tộc, mâu thuẫn giữa toàn dân tộc Việt Nam với đế quốc và tay sai của chúng là đại địa chủ phong kiến. Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của sự nghiệp giải phóng dân tộc thực hiện độc lập dân tộc cũng là quá trình tạo các tiền đề trên tất cả các mặt về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội để đưa dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện bước phát triển toàn diện đất nước. Nhưng thực hiện độc lập dân tộc chỉ là bước thứ nhất của cách mạng Việt Nam, thực sự chỉ mới thực hiện được bước giải phóng nhân dân về chính trị, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước. Còn giải phóng về kinh tế, thoát khỏi đói nghèo, xây dựng và phát triển nền kinh tế hiện đại, giải phóng xã hội và triệt để giải phóng con người là bước tiếp sau giành được độc lập dân tộc. Đó là bước đi của dân tộc xây dựng phát triển chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, chủ nghĩa xã hội là bước tất yếu của độc lập dân tộc, là thực hiện mục tiêu xa của con đường cách mạng Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

203

Chí Minh, cách mạng Việt Nam chỉ khi đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì lúc đó mới có thể ghi trên lá cờ cách mạng của mình là cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Vì trong nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa xã hội chung đúc tất cả thành quả của cách mạng - giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và triệt để giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ, nó được xây dựng trên nền tảng của nền kinh tế phát triển cao với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và phân phối theo lao động; quan hệ xã hội lành mạnh với nền văn hoá mới; chủ nghĩa xã hội là của dân và do nhân dân tự xây dựng lấy; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau; là đoàn kết hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới là tiếp tục con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội do Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy cho dân tộc từ đầu thế kỷ XX. Như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua ở đại hội VII năm 1991, đã khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ quang vinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau. Đảng ta cũng xác định: Kiên quyết thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược trong đổi mới là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa để đi tới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh như mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

204

Nghĩ về nét độc đáo trong Tư tưởng Hồ Chí Minh Đến nay ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh dưới nhiều góc độ khác nhau; nhưng về cơ bản các nhà nghiên cứu đã thống nhất chung về nền tảng của Tư tưởng Hồ Chí Minh và quá trình hình thành hệ tư tưởng đó; đồng thời phân chia hệ tư tưởng ra làm 3 bộ phận lớn: Tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh và phương pháp phong cách Hồ Chí Minh. Trong khuôn khổ phạm vi bài viềt này xin nói lên cảm nghĩ về một trong 3 bộ phận nói trên của hệ Tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là đạo đức Hồ Chí Minh. Thiết nghĩ đây là nét độc đáo nhất trong hệ tư tưởng của Người. Bởi lẽ bộ phận đạo đức trong hệ tư tưởng nói trên được thế hiện là đặc trưng kết hợp giữa tinh hoa dân tộc với tinh hoa thời đại, trong đó bao trùm là tính tư tưởng nhân văn được diễn đạt một cách khái quát: độc lập và thống nhất cho Tổ quốc, tự do và dân chủ cho nhân dân, công bằng và hạnh phúc cho mọi người; hòa bình và hữu nghị cho các dân tộc, sự phát triển các quan hệ văn hóa và nhân dân cho thời đại. Đạo đức Hồ Chí Minh được các nhà nghiên cứu khẳng định là tấm gương đạo đức lớn, là sức mạnh chính trị, tinh thần to lớn cho toàn Đảng, toàn dân noi theo. Đạo đức Hồ Chí Minh bao gỗm 2 bộ phận là tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức. Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh đã đóng góp làm phong phú thêm tư tưởng đạo đức cách mạng của đạo đức học Mác-Lênin, được biểu hiện vận dụng nhuần nhuyễn giữa tính nhân văn của các dân tộc Việt Nam với đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân. Tấm gương đạo đức của Nguời là đỉnh cao đặc trưng con người mới. Đó là: Suốt đời hy sinh cho dân tộc không một chút riêng tư, hết lòng yêu thương nhân dân, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

205

lấy dân làm gốc; chí công vô tư, cần kiệm liêm chính; giản dị, khiêm tốn; suỗt đời học tập rèn luyện vươn lên. Từ đó Người đã hết lòng vì sự nghiệp giải phóng con người bao gổm: đồng bào bị đau khổ, nhân loại bị áp bức không phân biệt màu da, chủng tộc… yêu con người, tin vào sức mạnh con người và đem lòng chí công vô tư để đối xử với con người. Đạo đức Hồ Chí Minh còn được thể hiện rõ nét và độc đáo trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc qua 2 thời kỳ, Người đã kế thừa và nâng cao truyền thóng đạo đức của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh với kẻ thù: "Lấy chí nhân thay cường bạo, lấy đại nghĩa thắng hung tàn''. Người không những thế hiện lòng nhân đạo đối với kẻ thù, cảm thông đối với những ai lầm đường lạc lối và với cả những người lính viễn chinh, công cụ của giai cấp bóc lột cũng là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Người vẫn mời Vĩnh Thụy (Bảo Đại) và giám mục Lê Hữu Từ làm cồ vấn cho Chính phủ. Khi lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đa chủ trương thực hiện chính sách thêm bạn bớt thù; đã cử các ông Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch Chính phủ, NguyễnTườngTam, làm Bộ trưởng Ngoại giao, Vũ Hồng Khanh làm Phó Chủ tịch Quân ủy hội, cùng nhiều nhân vật khác của Quốc dân Đảng tham gia vào Ban Thường trực Quốc hội. Điều đó nói lên đức khoan hồng, đại độ và bản lĩnh của Người. Ngày 31-5- 1946, trong thư gởi đổng bào Nam Bộ, Người viết: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay, trong mấy triệu người cũng có người thế này, người thế khác, nhưng cả thảy đều là dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ; có thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang''. Trong công cuộc giải phóng miền Nam, Đảng và quân đội ta thực hiện tư tưởng của Người: ''Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào". Tuy nhiên, phải đánh như thế nào đề miền Nam ít tổn thất về sinh http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

206

mạng và của cải nhân dân. Thể hiện tính nhân đạo của Người, lúc sinh thời là đánh thế nào làm tan rã về tỗ chức của quân ngụy, đánh sụp đổ về tinh thần và ý chí, đồng thời mở con đường sống cho quân ngụy còn có ngày cải tà qui chính quay về với dân tộc. Ngày nay, đất nước đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc phát huy nâng cao Tư tưởng Hồ Chí Minh là rất to lớn. Điều đó sẽ giúp cho việc đổi mới chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh; đồng thời đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân và kiều bào ở nước ngoài, cũng như mở ra chính sách ngoại giao làm bầu bạn các nước trên thế giới; nhằm huy động sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

207

Học tập, quán triệt, làm theo lẽ sống của Bác Hồ Đề cương báo cáo công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng, mục “Nhiệm vụ và giải pháp tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng” có nêu: “Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp phải rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân phải học tập, quán triệt và làm theo đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Đạo đức, tác phong ấy của Người là lẽ sống ở đời và để thành người, vì như Người dạy: “Người có 4 đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một đức thì không thành người”. Để thành người: cần học tập, quán triệt, làm theo những lẽ sống mà Bác Hồ đã dạy và nêu gương sáng. Thứ nhất, Bác Hồ dạy về tình người. Theo Bác, nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác là vấn đề ở đời: ở đời thì phải thân dân, hết sức gần gũi quần chúng, tôn trọng phục vụ quần chúng. Đó là lòng nhân ái bao la, thương yêu, tôn trọng, tin cậy con người. Mục đích cao nhất của cuộc đời Bác Hồ là làm sao cho mọi người đều có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Giữa mùa đông rét mướt, Bác đã từng cởi chiếc áo của mình cho một tù binh. Bác không thích gọi một trận đánh tiêu diệt nhiều địch là một trận đánh đẹp. Bác thích cái đẹp, cái nghĩa ở đời là tình người “thương yêu lẫn nhau”. Bản chất tộc loại của con người là con người cần đến con người, gắn bó với nhau, nương nhờ vào nhau để phát triển đời sống xã hội của mình. Tình yêu thương giữa con người với con người bắt nguồn từ chiều sâu lịch sử nhân loại là trở thành giá trị của lòng nhân ái mang tính người. Hê-ghen, nhà triết học cổ điển Đức nói: “Tình thương là một sự đánh mất cái tôi của mình vì một cái tôi khác, nhưng trong sự đánh mất đó lần đầu tiên ta tìm thấy bản thân mình”. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

208

Tình thương yêu con người được thể hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Nó đòi hỏi mọi người phải luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với mình, rộng rãi độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết cách nâng con người lên, chứ không phải vùi dập con người. Người Việt Nam ta thường tâm niệm: “Thương người như thể thương thân” đó là đạo lý, là lẽ sống của dân tộc được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bác Hồ đã đúc kết lại truyền thống đó của dân tộc là: “Nhân dân ta từ lâu sống với nhau có tình, có nghĩa. Từ khi có Đảng lãnh đạo, giáo dục tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà”. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Bác không quên dặn lại “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Phải chăng, Bác muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta rằng “Tình yêu thương lẫn nhau” là điều quan trọng hàng đầu để đảm bảo đoàn kết và bao trùm lên tất cả trong các quan hệ giữa người với người. Nếu không xuất phát từ tình yêu thương lẫn nhau sẽ chẳng có điều gì có ý nghĩa cả. Vì vậy, Bác đã dạy “Trong lúc tranh đấu dễ mất một người cán bộ. Vì vậy, Đảng phải yêu thương cán bộ. Nhưng, thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm... Thương yêu là luôn luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ... cốt làm cho họ thêm hăng hái, thêm gắng sức. Phải vun đắp chí khí của họ để đi đến chỗ “bại cũng không nản, thắng cũng không kiêu... Kiêu ngạo là bước đầu của thất bại”. Trong cuộc sống hàng ngày, chính Người đã lấy tình thương của mình để che chở, nâng đỡ mọi người, vì lẽ đó, Người là một người đầy lòng nhân ái cao cả, đẹp lạ thường. Và chính tình yêu bao la của Bác Hồ tạo nên một huyền thoại thẩm mỹ về lòng nhân ái Hồ Chí Minh, đó là lòng yêu trẻ, kính già, tôn trọng phụ nữ, thương yêu mọi người, nhất là nhân dân lao động. Mong sao, đạo lý Bác Hồ dạy về tình người là một tấm gương để soi sáng cho ta giữ gìn “Bản sắc dân tộc, đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”... http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

209

Thứ hai, Bác Hồ dạy về lòng trung thành. Đó là lòng trung thành với Tổ quốc, với giai cấp, với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, với chủ nghĩa Mác - Lê nin. Lòng trung thành là thước đo thái độ, bản chất của từng con người đối với sự nghiệp chung của Đảng, của dân tộc, của đất nước. Có trung thành mới dám xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Có trung thành mới biết đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, trước hết. Trung thành có thể hiểu là “hiếu”. Hiếu thời xưa là hiếu với cha mẹ mình, hiếu của thời nay là hiếu với Tổ quốc, với nhân dân. Trung với nước, hiếu với dân đó là đại hiếu, cho nên Bác dạy: “Thờ dân trọn đạo hiếu. Thờ nước vẹn lòng trung” “Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp”. Bác Hồ đã giành cả cuộc đời của mình để phấn đấu cho chữ “hiếu trung”. Sinh ra trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân đô hộ, nhân dân của Người sống trong cuộc đời bần cùng của kiếp người mất độc lập, tự do, Người đã nghẹn ngào nuốt nước mắt, đau nỗi đau dân tình, và thế là Người đã hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình để tìm cho dân, cho nước con đường đi. Người tuyệt đối trung thành với nhân dân, với đất nước “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn”. Lòng trung thành này suốt đời chi phối Người, vì vậy mà với Người: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích là làm cho ích quốc lợi dân”. Cả cuộc đời của Người là “trung với nước, hiếu với dân”, đó là châm ngôn Người nêu cho mình và cho các cán bộ của Đảng và Nhà nước. Châm ngôn đó thể hiện lòng hiếu trung của Người đối với Đảng, với non sông đất nước và đồng bào. Với lý tưởng Người đã tìm được, Người tuyệt đối trung thành và phụng sự. Điều đó như Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, Liên Xô hơn 70 năm trung thành với lý tưởng đã chọn, nên là đất nước siêu cường trên thế giới, nhưng rồi đến khi xa rời sự trung thành, đất nước trở nên tuyệt vọng. May mắn thay cho dân tộc ta, nhờ lòng trung thành của lãnh tụ Hồ Chí Minh với lý tưởng Người đã tìm http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

210

thấy, đất nước, nhân dân lại trung thành với Người, nên đã vượt qua được sự biến động khắc nghiệt của thời cuộc. Bởi vậy, nhân loại đã ca ngợi lòng trung thành của chúng ta: Sự vững vàng của nhân dân Việt Nam trong bối cảnh quốc tế hiện nay là may mắn có Bác Hồ và Đảng của Bác Hồ. Khi phải đi xa, Người biểu thị lòng trung thành của mình với non sông đất nước, với đồng bào “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Và Người nhắn nhủ thế hệ tương lai rằng “Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”. “Trên vì nước, dưới vì nhà. Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh”. Học tập, quán triệt và làm theo đạo lý trung hiếu của Bác Hồ thì mới làm tròn được nhiệm vụ, giải pháp và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng: dân là gốc và mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo vừa là công bộc của nhân dân. Đảng và Nhà nước phải chịu giám sát của nhân dân; sự tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân; nhân dân là cội nguồn của sức mạnh, là cái gốc của thắng lợi, là tài sản quý báu của Đảng”. Thứ ba, Bác Hồ dạy sống khiêm tốn, giản dị... Theo Người đây là vấn đề làm người, làm người thì phải chính tâm, phải cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đó là đạo đức của người cách mạng, là gốc, là cái căn bản để thực hiện lý tưởng và mục tiêu cách mạng. Khiêm tốn, giản dị là đức tính cao quý của con người. Đức tính ấy và tấm gương của Bác về đức tính đó không phải là sự hình thành bộc phát, nhất thời, mà nó hình thành trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh của Người và của dân tộc Người chống bọn xâm lược. Trong suốt thời gian đi tìm chân lý cho dân tộc, mặc dù phải trải qua những ngày gian nan, vất vả và tiếp xúc với mọi hoàn cảnh, Bác Hồ luôn luôn thể hiện một cuộc sống khiêm tốn, giản dị. Đức tính khiêm tốn, giản dị của Người đã trở thành tác phong của http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

211

toàn Đảng ta. Tác phong ấy đã góp phần xứng đáng vào việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng đạo đức, Đảng văn minh”. Tác phong ấy là đường hướng trong việc “Xây dựng con người Việt Nam có những đức tính: có tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể; có lối sống lành mạnh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa; lao động chăm chỉ; thường xuyên học tập”. Bác Hồ coi đức tính khiêm tốn, giản dị là chân lý của cuộc sống. Người khuyên “người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính... do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư, thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt ngày càng thêm… Tính tốt ấy gồm: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm... Nó là đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. Vì vậy, Người luôn nhắc nhở mọi người “Phải học lấy bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính”. Đối với cán bộ công chức nhà nước, Bác dạy rằng: “những người trong các công sở từ làng cho đến Chính phủ Trung ương đều có nhiều ít quyền hành... Cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”... “Người mà không liêm không bằng súc vật, ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”. Đây chính là sức mạnh của chân lý, đạo lý làm người mà Bác Hồ đã kiến trúc lên. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Mình vô cùng giản dị và khiêm tốn, đã hoà làm một với cuộc sống của dân tộc, luôn luôn toả sáng trên đất nước Việt Nam và toả sáng ra ngoài biên giới Việt Nam. Người luôn mong “Mỗi đồng chí ta phải có thái độ khiêm tốn, càng cựu, càng giỏi, càng phải khiêm tốn, phải có lòng cầu tiến bộ... Tự mãn, tự túc là co mình lại, không cho mình tiến bộ thêm”. Khiêm tốn, giản dị giúp cho con người đặc biệt là cán bộ, đảng viên tránh được cái hư hỏng của con người, mà như Bác dạy “Xét cho cùng cái xấu trong con người là danh và lợi, bao nhiêu thứ bệnh quy về đấy, bao nhiêu tác hại là do đấy”. Mặc dù đã là lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc, lãnh tụ của Đảng, của đất nước, nhưng lúc nào Người cũng là người khiêm tốn, giản dị và đôn hậu. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

212

Đức tính ấy cảm hoá được mọi người, dìu dắt mọi người đoàn kết chiến đấu, chính từ đức tính cao đẹp sống vì dân, chết cũng vì dân, công danh phú quý là nhờ dân, mà Bác Hồ là một con người thật sự mang tình người trong thời đại chúng ta.

Đời nào cũng vậy, xã hội nào cũng thế, sống khiêm tốn giản dị là đạo lý đẹp đẽ nhất, cao cả nhất và người đời kính trọng nhất. Bác Hồ là người tiêu biểu của mẫu hình khiêm tốn giản dị và chính vì thế Người không bao giờ chết và người đời mãi mãi nhắc tới Người như một bậc thánh nhân. Khiêm tốn giản dị thật sự là hình mẫu của tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá. Thứ tư, Bác Hồ dạy: Lời nói phải đi đôi với việc làm. Lời nói là thể hiện lương tâm, bản lĩnh, lý trí và tình cảm ở trong mỗi con người. Việc làm là thể hiện hành vi đạo đức cụ thể của con người. Kinh thánh đã dạy: “Khởi thuỷ là lời nói”. Đại thi hào Gớt đã viết “Khởi thuỷ là hành động”. Bác Hồ bảo “Nói cái gì phải cho tin – nói và làm cho nhất trí - làm thế nào cho dân tin”. Ở Bác Hồ, lời nói đi đôi với hành động, lý luận đi đôi với thực tiễn, nói là để mà làm, làm phải đúng như điều đã nghĩ, đã nói. Thống nhất giữa lời nói và việc làm là nguyên tắc đạo đức của Bác Hồ, bởi đó là sự thể hiện ở tấm lòng gương mẫu đạo đức của bản thân Người và những lời Người răn về đạo đức. Sức thuyết phục mạnh mẽ trong tấm gương đạo đức của Bác Hồ là ở chỗ dù việc lớn hay nhỏ, đối với Người bao giờ cũng là lời nói đi đôi với việc làm. Bác nêu cho cán bộ, đảng viên một luận điểm quan trọng “Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”... “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”, “nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

213

Người đề xuất toàn dân tiết kiệm gạo để giúp đồng bào bị đói thì Người thực hiện nhịn ăn trước; khi kinh tế khó khăn, đời sống nhân dân còn khổ mọi người ăn cơm độn ngô, khoai, sắn, Bác bảo cán bộ nhân dân ăn độn bao nhiêu phần trăm, độn cho Bác từng ấy giống như cán bộ, như dân; khi về thăm các địa phương, Bác mang cơm nắm với muối vừng để tiết kiệm gạo tiền của nhân dân. Người khuyên cán bộ phải cần, kiệm, liêm chính thì Người đã sống giản dị, thanh bạch: người khước từ ở ngôi nhà sang trọng là Phủ toàn quyền Đông Dương, mà chỉ ở ngôi nhà của người công nhân phục vụ toàn quyền, đến khi nhận một chút tài sản của Đảng, của nhân dân giành cho thì Người đã nhận một ngôi nhà sàn đúng như điều Người muốn: “Riêng về phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng rau... Không dính líu gì đến vòng danh lợi”; Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước đi dép lốp, mặc áo vá vai, dùng loại ô tô xoàng nhất, cũ nhất... Bác làm những việc như thế để thực hiện điều Bác nói “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra, vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”. Đạo lý này, lẽ sống này hẳn sẽ là một tấm gương soi sáng cho ta trong việc thực hiện mục tiêu của Đảng đề ra: Xoá đói, giảm nghèo, công bằng xã hội. Người dạy mọi người chống chủ nghĩa cá nhân, thì Người đã nêu gương chống sùng bái cá nhân, sống khiêm tốn. Trong suốt thời kỳ đi tìm phương cữu nguy cho dân tộc đến cả thời kỳ đứng đầu Nhà nước và cho đến lúc ra đi “Gặp cụ Các Mác, cụ Lênin”, cũng như những con người thật sự vĩ đại khác, Bác Hồ không bao giờ nghĩ mình là bậc vĩ nhân, không bao giờ đặt cái tôi cao hơn dân tộc và sự nghiệp của dân tộc, cho dù đó là con người tiêu biểu nhất của dân tộc. Người chỉ ôm ấp một ước nguyện, một đạo lý là làm sao cho nước nhà hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; vào dịp ngày sinh của mình, Người thường tìm cách vắng nhà để tránh việc mọi người đến chúc thọ, tặng quà; khi đi vào cõi trường sinh, http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

214

Người dặn không tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thời giờ, tiền bạc của nhân dân... Nói đi đôi với làm mà Bác Hồ dạy chúng ta, và những việc mà Bác làm để làm “mực thước” cho mỗi chúng ta, đó chính là lẽ sống “Thật” và “Thật sự”. Vì “Thật” đối lập với giả, với dối; “Thật sự, đối lập với qua loa, nửa vời, làm thứ vũ khí hữu hiệu để chống lại những kẻ gian giảo, xảo quyệt nói không đúng với làm, nói một đằng làm một nẻo, dùng lời nói để giấu diếm tội lỗi”, như Bác Hồ đã chỉ cho chúng ta rõ “Có những người miệng thì nói phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, nhưng bị vật chất dỗ dành mà phạm vào tham ô, lãng phí, hại đến Tổ quốc, nhân dân”. Những lẽ sống ở đời mà Bác Bồ đã nêu gương sáng, là mẫu hình của vị anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hoá lớn của thời đại, người cộng sản mẫu mực và chiến sĩ quốc tế trong sáng, thuỷ chung, tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân, về tư tưởng, trí tuệ, và nhân cách, đạo đức lối sống cho các thế hệ Việt Nam. Chúng ta chỉ có thể học tập, quán triệt và làm theo lẽ sống ấy của Người thì mới đáp đền sự mong muốn của Người “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; mới thực hiện được mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

215

Tìm hiểu thực chất và ý nghĩa của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh Trong các bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh hầu như không dùng ngôn ngữ triết học và không tự thừa nhận mình là nhà khoa học, nhưng trong tư tưởng của Người lại luôn nhất quán một thế giới quan, một nhân sinh quan, một hệ thống tư duy triết học. Là học trò của C.Mác, Ph. Ăng ghen, V.I.Lênin nên thế giới quan, tư duy triết học của Người là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Người đã bảo vệ và phát triển tư duy triết học trên nền tảng triết học Mác Lênin. Khác với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lê nin, Hồ Chí Minh không để lại một tác phẩm triết học như: Hệ tư tưởng Đức, Luận cương Phoiơbắc, Biện chứng của tự nhiên, Bút ký triết học... Bởi vì, Hồ Chí Minh sống và hoạt động cách mạng trong thời đại đã có chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, dẫn đường và nhiệm vụ của Người là cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột, bất công đem lại hoà bình, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Chính nhiệm vụ này đã cuốn hút Người với tất cả tinh thần và sức lực, làm cho Người sống gần gũi với nhân dân, đem tinh tuý, sâu sắc của triết học diễn đạt thành những điều giản dị, cụ thể, rõ ràng và thiết thực để nhân dân dễ hiểu, dễ làm. Rõ ràng, phải có một trình độ triết học sâu sắc, uyên bác, Hồ Chí Minh mới có thể chuyển hoá thành triết học của cuộc sống. Nhờ đó, người trang bị cho cán bộ, đảng viên thế giới quan duy vật biện chứng, giúp họ nhìn nhận, xem xét, đánh giá đúng tình hình, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách sát thực tế, có hiệu quả; đồng thời không rơi vào dao động, không mắc phải sai lầm ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí cũng như giáo điều, xét lại; mặc dù khi viết, khi nói Người ít dùng các thuật ngữ triết học.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

216

Nghiên cứu di sản lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy ở Người toát lên những tư tưởng triết học sâu sắc. Hồ Chí Minh đã dựa chắc vào vấn đề cơ bản triết học để giải quyết mối quan hệ giữa việc nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa phát triển sản xuất với củng cố hệ thống chính trị, tăng trưởng kinh tế với phát triển giáo dục văn hoá và nhiều mối quan hệ khác như mối quan hệ giữa xây dựng đất nước với đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc; kết hợp sức mạnh của dân tộc với thời đại, giữa kháng chiến với kiến quốc. Rõ ràng, khi giải thích hàng loạt các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Hồ Chí Minh đã nói tới triết học, bàn tới triết học và tư tưởng triết học Hồ Chí Minh thể hiện rõ những giá trị nhân văn đặc sắc, tràn đầy tinh thần biện chứng duy vật. Trong đó có sự hoà quyện đến nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, tinh hoa văn hoá, triết học phương Đông, phương Tây và lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Với tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, chúng ta nhận thấy ở đó có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phép “biến dịch” của triết học phương Đông và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thế giới quan Hồ Chí Minh là thế giới quan khoa học. Trong đó, thế giới quan triết học Mác - Lênin đóng vai trò quyết định bản chất khoa học, cách mạng. Thế giới quan của Người còn ảnh hưởng của tư tưởng triết học dân tộc, của tinh hoá văn hoá, triết học phương Đông, phương Tây. Về khuynh hướng tư duy, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh đi sâu lý giải các vấn đề xã hội và nhân sinh. Bởi lẽ, xuất phát từ hoài bão lớn lao và mục đích chính trị cao cả là “cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc” nên Người đặc biệt chú trọng xây dựng lý luận về chính trị - xã hội, đạo đức cách mạng nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn hơn là hình thức học thuyết triết học, nhận thức và lôgíc học như các nhà triết học vẫn thường làm. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là sản phẩm của quá trình hoạt động tư duy lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người có vai trò to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Chính tư tưởng, quan điểm triết học của Người cùng với triết http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

217

học Mác -Lênin luôn là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho cách mạng Việt Nam. Chúng ta không thể hiểu rõ bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh nếu như không hiểu cái gì là cốt lõi quy định cách nhìn, cách nghĩ và phương pháp cách mạng cũng như cái gì là trung tâm dẫn dắt đồng bào ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đã đi vào thực tiễn xã hội Việt Nam, lấy cái cốt lõi là giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống hoà bình, tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào làm mục đích hướng tới, đạt tới. Đây thực chất là những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với việc bảo vệ và phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới, nhất là việc phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử. Những cống hiến của Hồ Chí Minh trong phát triển triết học Mác -Lênin là tư tưởng về giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực ra hai khái niệm này đều được Hồ Chí Minh dùng cùng một nội hàm như nhau. Đối với Hồ Chí Minh, thực tế không đối lập với thực tiễn, nó chỉ rộng hơn thực tiễn mà thôi. Khi bàn về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác -Lênin, Hồ Chí Minh dùng khái niệm thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn thì Người thường dùng khái niệm thực tế thay cho thực tiễn. Ngày nay, trong đời sống hàng ngày, khái niệm thực tiễn và thực tế được nhân dân ta hiểu và sử dụng cùng nghĩa (xem từ điển Tiếng Việt 1991). Trong thế giới quan triết học của Hồ Chí Minh, vấn đề con người chiếm vị trí hết sức quan trọng. Phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề con người ở Hồ Chí Minh không phải là chung chung, trừu tượng, phi lịch sử như trong triết học nhân bản mà là con người hiện thực, con người lao động “đồng bào tôi”. Trọn đời mình, Người phấn đấu, hy sinh là nhằm mục đích đem lại độc lập, tự do, cơm no, áo ấm cho đồng bào. Chủ nghĩa nhân văn hiện thực cao cả của Hồ Chí Minh thể hiện ở lòng thương yêu con người, tôn trọng, tin tưởng ở nhân dân, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

218

Có thể khái quát tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là sự kết hợp sáng tạo đạt đến sự nhuần nhuyễn giữa tư duy triết học Mác -Lênin mà cốt lõi là tư duy biện chứng duy vật trong sự hoà quyện với tư duy duy triết học và văn hoá phương Đông, phương Tây, tư duy, trí tuệ, văn hoá dân tộc Việt Nam và phong cách Hồ Chí Minh. Nhờ đó, Người đã tìm ra bản chất, quy luật và hình thành nên hệ thống luận điểm về chủ nghĩa thực dân, về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ...có những quyết định đúng đắn, sáng tạo, đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Từ quan niệm trên, có thể thấy tư tưởng triết học Hồ Chí Minh có một số đặc trưng cơ bản như sau: Trước hết, tư duy triết học Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính khoa học và tính cách mạng, giữa lập trường, quan điểm và phương pháp nhận thức, hành động. Sự kết hợp này vừa là đặc trưng tư duy triết học Hồ Chí Minh vừa là nguyên tắc của Hồ Chí Minh nhận thứ và hành động. Thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng triết học của Người. Tư duy triết học Hồ Chí Minh là tư duy độc lập, sáng tạo, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, suy nghĩ và hành động, giữa lời nói và việc làm thể hiện sự hoàn chỉnh chu kỳ vận động: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn hoạt động cách mạng Việt Nam.

Tư duy triết học Hồ Chí Minh được thể hiện bằng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, phổ thông, dễ hiểu, dễ xâm nhập vào quần chúng. Có thể coi đây là đặc trưng đặc sắc, độc đáo của tư duy triết học Hồ Chí Minh. Việc nắm vững thực chất phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lê nin và truyền thống triết học phương Đông, nắm vững ngôn ngữ của quần chúng nhân dân và quan hệ mật thiết với họ đã giúp Người diễn đạt tư tưởng triết học duy vật biện chứng vốn là tư duy khoa học, có hàm lượng trí tuệ cao, có sự trừu

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

219

tượng hoá và khái quát cao, sâu sắc trở nên phổ thông, dễ hiểu mà vẫn giữ được bản chất khoa học, cách mạng của nó. Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng quy luật khách quan: nắm vững quan điểm thực tiễn và thực hiện đúng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; giải quyết mọi việc phải toàn diện, nhấn mạnh trọng điểm và lấy hiệu quả làm mục đích; xem xét sự việc trong sự phát triển, thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; giải quyết mọi việc đều vì con người, do con người, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Phương pháp luận Hồ Chí Minh là phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Về thực chất, đó là phép biện chứng Hồ Chí Minh, là phương châm xem xét và hành động khoa học được Hồ Chí Minh đúc kết từ sự tiếp thu, kế thừa, vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển phép biện chứng duy vật mácxít, kết hợp với kế thừa truyền thống tư duy dân tộc, tư duy triết học phương Đông và thực tiễn giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Khái quát lại, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm, quan niệm duy vật biện chứng về con đường cách mạng Việt Nam, thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác - Lênin, bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú mà nền tảng của nó là tư tưởng triết học. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh không chỉ là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo triết học Mác -Lênin mà còn có sự phát triển Triết học Mác -Lênin, nhất là một số vấn đề về chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhờ đó Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú, giàu có thêm kho tàng lý luận Mác -Lênin nói chung, triết học Mác -lênin nói riêng. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

220

khoa học cách mạng, là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạt nhân là thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng luôn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

221

Suy ngẫm về điều mong muốn cuối cùng của Bác Hồ Cùng với “muôn vàn tình thân yêu” gửi lại cho cuộc đời này, Bác Hồ kết thúc bản di chúc bằng “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Theo lời kể của ông Vũ Kỳ trong Bác Hồ viết Di chúc, bốn năm suy ngẫm để chỉ viết có một nghìn chữ ! Sau bốn năm xem lại lần cuối Bác cũng chỉ sửa có ba từ! Ở đây không là chuyện kiệm chữ, kiệm lời. Ở đây là sự dồn nén cô đọng của ý tưởng và tình cảm. Tư tưởng tình cảm như đã được “chưng cất” để chỉ giữ lấy cái tinh túy nhất, sáng tỏ nhất. Vì thế, đọc kỹ nội dung “điều mong muốn cuối cùng” của Hồ Chí Minh, chúng ta ngộ ra được rằng: với thời gian, chân lý bỗng vụt sáng lên từ trong những câu chữ vốn rất dung dị, thô mộc hết sức quen thuộc trong đời sống hằng ngày, khiến người ta đôi khi cứ ngỡ như không còn gì để mà suy ngẫm nữa. Nhìn trở lại hành trình lịch sử của Bác Hồ tìm đường cứu nước, quanh một vòng trái đất để trở về xúc động với nắm đất của Tổ quốc trên tay, rồi những lời “dặn lại công việc” khi bị bệnh nặng sợ khó qua khỏi trong một lán nhỏ ở Tân Trào, Việt Bắc: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, cho đến khi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ..., cuối cùng là Di chúc với “điều mong muốn cuối cùng” của Người. Qua đó, nổi rõ lên một điều: độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu trước sau như một của Hồ Chí Minh. Người nói “lúc đầu, chính http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

222

là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Cho đến “lúc cuối”, trong toàn bộ Di chúc của Người cũng thể hiện nhất quán “chủ nghĩa yêu nước” đó, thể hiện thật tập trung trong “điều mong muốn cuối cùng” và cũng là câu cuối cùng, đọng lại tình cảm, ý tưởng quan trọng nhất trong Di chúc. Hồ Chí Minh đã hiểu rõ rằng dân tộc mình, nhân dân mình đang cần cái gì nhất. Nói đến điều đó thì tất cả mọi người Việt Nam, dù bất cứ đang ở đâu, đang làm gì cũng đều có thể hiểu được, đều có thể chấp nhận, đều có thể nhất trí, đều có thể nhận ra đó là mong muốn của mình. Cần phải thấy rằng sự gặp gỡ giữa lý tưởng “ái quốc” và lý tưởng “cộng sản” trong tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ của lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người . Trong đó, giải phóng con người là trung tâm. Nhìn lại nhân cách, tư tưởng, tình cảm và sự nghiệp hoạt động của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rất rõ: mục tiêu, cứu cánh, phương tiện và động lực cách mạng đều ở trong con người. Chính ở đây, chủ nghĩa yêu nước trong Hồ Chí Minh bắt gặp lý tưởng cộng sản. Lý tưởng đó thể hiện tập trung ở tư tưởng “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Có thể nói, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” là tư tưởng đẹp nhất trong vô vàn những tinh hoa tư tưởng của loài người được đúc kết trong học thuyết khoa học của C.Mác. Và nếu, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giải phóng con người là trung tâm thì có thể hiểu được động lực thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc đến với lý tưởng cộng sản theo cách của mình. Người cộng sản Việt Nam tự hào vì có Hồ Chí Minh, có tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đó là nguồn sức mạnh vô tận của lý tưởng cao đẹp cổ vũ, dẫn dắt họ trong cuộc phấn đấu không ngừng nghỉ trên những chặng đường cách mạng quang vinh.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

223

Với một trái tim lớn chứa đựng “ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”, Người trở thành nhà cách mạng từng trải, được thử thách và tôi luyện trên trường quốc tế bằng cái tầm trí tuệ của một nhà văn hóa lớn. Vì thế, Hồ Chí Minh hiểu rõ những thành tựu cũng như những sai lầm mà phong trào cách mạng đã trải qua. Người hiểu cần thanh lọc và tiếp nhận những gì có lợi nhất cho mục tiêu đã xác định. Hồ Chí Minh đứng vượt hẳn lên những người đương thời ở tầm tư duy và cái nhìn biện chứng nhờ vào những phẩm chất ấy. Bôn ba khắp năm châu bốn biển, hiểu rõ ngọn ngành những tinh hoa cũng như những khuyết tật mà phong trào cách mạng đã trải qua, để khi về đến Tổ quốc, hôn nắm đất quê hương đang đói nghèo, đau khổ, Người hiểu rõ cần phải làm gì cho nhân dân. Ba mươi năm, nhìn lại chặng đường đã đi nhằm thực hiện mong ước của Bác Hồ “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” với những điều đã làm được và nhiều điều chưa làm được, càng thấm thía và không thể không day dứt khi nghĩ đến điều mong muốn cuối cùng của Bác Hồ. Thấm thía và day dứt để có những giải pháp và hành động thiết thực.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

224

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong tình hình hiện nay Bác Hồ lúc sinh thời rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, Người đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người đã cho chúng ta nhiều chỉ dẫn có ý nghĩa phương pháp luận khoa học để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh. Điều quan trọng trước tiên, theo Bác là phải hiểu biết đúng cán bộ. Muốn vậy, phải chí công và vô tư trong việc xem xét cán bộ. Người nói: “Biết người cố nhiên là khó. Tự biết mình cũng không phải là dễ. Đã không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy, muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”… Bác thấy rằng, người lãnh đạo thường phạm bốn bệnh khi xem xét cán bộ: tự cao, tự đại, ưa nịnh hót và do yêu ghét mà xem xét con người, đem một khuôn cứng nhắc để đánh giá cán bộ. Người lãnh đạo nếu mắc một trong bốn bệnh ấy cũng như một người mang kính có màu, không bao giờ thấy được màu sắc thực sự của sự vật. Bác khuyên người lãnh đạo phải bỏ kính màu đó, sửa chữa những bệnh ấy mới có thể biết đúng cán bộ. Người dạy: chúng ta phải có phương pháp khách quan, toàn diện trong việc xem xét, đánh giá cán bộ. Chống lối “duy ngã” siêu hình cứng nhắc, hời hợt. Khi xem xét cán bộ không nên chỉ nhìn bề ngoài, xem trong một lúc, một việc mà phải xem xét một cách toàn diện, cả quá trình phát triển của họ, những lúc gặp khó khăn cũng như lúc thuận lợi. Người chỉ rõ, phải biết sử dụng cán bộ cũng như khi đánh giá cán bộ phải rất “vô tư”. Người phê phán gay gắt những bệnh ham dùng người bà con, anh em http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

225

quen biết, ham dùng người nịnh hót, ghét người chính trực, ham dùng những người hợp tính với mình, tránh những người không hợp ý mình. Bác căn dặn: “Mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi”. “Phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ”. “Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình”. Bác đã nêu rõ 4 tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ: “+ Những người đã tỏ ra rất trung thành, hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh. + Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng, luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ. + Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lại không kiêu ngạo. Khi thi hành nghị quyết thì kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn. + Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật. Đó là khuôn khổ để lựa chọn cán bộ. Chúng ta phải theo cho đúng”. Trong công tác cán bộ, Người luôn luôn coi trọng cả đức và tài của người cán bộ. Người nói: “Có tài phải có đức. Có tài không có đức tham ô, hủ hoá, có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích gì được ai”. Trong công tác cán bộ, Bác chỉ rõ những khuyết điểm cần phải sửa: “Trong Đảng ta, có những nơi thường dùng những người văn hay nói khéo, nhưng không làm được việc, không ra tranh đấu. Mà những đồng chí viết không hay, nói không thạo nhưng rất trung thành, hăng hái, rất gần gũi quần chúng, thì bị dìm xuống. Chúng ta phải sửa chữa ngay những khuyết điểm đó”. Bác còn chỉ rõ: Khi giao trách nhiệm cho cán bộ phải làm cho họ yên tâm công tác, hứng thú http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

226

trong công việc. Muốn thế, người lãnh đạo phải làm sao cho cán bộ “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến, cả gan phụ trách, cả gan làm việc”. Người căn dặn: người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải có thái độ và cách làm việc thực sự dân chủ, để mọi người xung quanh mạnh dạn, thẳng thắn nói những ưu, khuyết điểm của mình. Người lãnh đạo thực sự dân chủ, ý kiến của cán bộ được thực sự tôn trọng, thì khối đoàn kết nội các được củng cố, những sáng kiến được nảy nở, công việc nhất định sẽ được hoàn thành tốt đẹp. Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và những người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều”. Theo Người, điều mấu chốt trong cách lãnh đạo là làm sao cho cấp dưới có tinh thần chủ động sáng tạo trong công việc, có tinh thần trách nhiệm cao, dám tìm tòi suy nghĩ và dám quyết định. Bác chỉ rõ: “khi giao trách nhiệm cho cán bộ cần phải chỉ đạo rõ ràng, sắp đặt đầy đủ. Vạch rõ những khuyết điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra. Những vấn đề đã được quyết định rồi thì giao cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm. Cũng như trong quân đội, khi chiến lược, chiến thuật đã quyết định rồi, thì Tổng tư lệnh không cần nhúng tay vào những vấn đề lặt vặt. Phải để cho các cấp chỉ huy có quyền “tuỳ cơ ứng biến” mới có thể phát triển tài năng của họ. Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ cũng như một cái máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến”. Bác cũng chỉ rõ: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các Nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát, kiểm soát khéo bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”. Kiểm tra, kiểm soát có tác dụng không những đánh giá được sự đúng đắn các chủ trương, chính sách, quyết định đã đề ra mà còn đánh giá mức độ ưu điểm, khuyết điểm của cơ quan, đơn vị và của cán bộ, đảng viên trong tổ chức thực hiện.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

227

Quán triệt những tư tưởng của Bác Hồ về công tác cán bộ trên đây, trong sinh hoạt Đảng, cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đưa vào nội dung kiểm điểm, rút ra những ưu, khuyết điểm cần phải khắc phục để làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ “đổi mới” theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

228

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong tình hình mới Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, kế thừa và phát huy những giá trị tinh hoa, tư tưởng tiến bộ của nhân loại và ông cha ta về nhân dân, đưa ra những quan điểm về dân rất độc đáo ''Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là ''tối thượng''. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân''. Người còn chỉ rõ: ''Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà. Nhân hoà là thế nào? Nhân hoà là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hoà quan trọng hơn hết''. Dân là gốc của nước, của cách mạng, Người còn khẳng định: ''Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên. Nước lấy dân làm gốc... Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân''. Thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân và công tác dân vận, Đảng và Nhà nước ta đã xác định công tác dân vận có vị trí quan trọng, to lớn trong sự nghiệp cách mạng nước nhà là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Đồng thời công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản, quan trọng, gắn liền với sự trưởng thành của Đảng. Chính vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam gần 75 năm qua, Đảng ta đã hết sức coi trọng công tác dân vận. Điều đó đã được thể hiện một cách nhất quán trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Thông qua công tác dân vận, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên động lực to lớn đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng phát triển. Đặc biệt, từ sau Đại hội VI, Đảng đã ban hành các nghị quyết và chỉ thị về công tác dân vận, về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, về đại đoàn kết toàn dân tộc, về dân tộc...; đề http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

229

ra phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; nhất là kịp thời có các chủ trương, biện pháp tăng cường công tác dân vận ở những địa bàn trọng điểm như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ... Công tác dân vận trong những năm qua đã góp sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa''; hướng mạnh về cơ sở, phát huy dân chủ, động viên, lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện có kết quả các nhiệm vụ kinh tế văn hoá-xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh; tham gia xây đựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền nhân dân trong sạch, vững mạnh; góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu; ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''. Công tác dân vận đã góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp từ nội lực của nhân dân cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đúng như lời Bác Hồ đã dạy: công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Tuy nhiên, hiện nay thực tiễn đang đặt ra một số vấn đề khá gay gắt, những nội dung mới đòi hỏi công tác dân vận cần hết sức quan tâm, giải quyết. Đó là một số tổ chức Đảng, chính quyền còn coi nhẹ công tác dân vận, thậm chí chưa nhận thức sâu sắc và đầy đủ về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của công tác dân vận trong tình hình mới, thiếu chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Điều đó đã làm cho công tác dân vận ở một số địa phương, cơ sở thiếu nhạy bén, thiếu chiều sâu, có khi còn phô trương, hình thức... Việc phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của tổ chức Đảng, chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên và nhịp nhàng. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi còn hình thức và nặng về hành chính, không sát dân, dẫn đến việc tập hợp quần chúng còn hạn chế. Sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, sự phân hoá giữa các giai tầng xã hội; sự yếu kém của tổ chức chính trị-xã hội, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

230

phí ở một số địa phương, cơ sở; sự thoái hoá, biến chất, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền của một bộ phận cán bộ, đảng viên; các vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi rất gay gắt... đã làm nảy sinh tâm lý bất bình, giảm sút lòng tin của một bộ phận quần chúng đối với Đảng, Nhà nước. Các thế lực thù địch lợi dụng những phức tạp đó, núp dưới các chiêu bài: dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền đã ráo riết tăng cường các thủ đoạn hoạt động, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết của nhân dân ta, chia rẽ đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Quán triệt các quan điểm, tư tưởng của Bác Hồ và của Đảng về công tác dân vận, nhất là Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 (khoá IX) về công tác dân vận trong tình hình mới, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau. Trước hết, quán triệt một cách sâu sắc trong Đảng, trong các ban, ngành, đoàn thể, trong quần chúng nhân dân về quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Làm rõ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-văn hoá – xã hội, quốc phòng, an ninh của từng địa phương, cơ sở và cả nước. Đồng thời phải làm rõ được những thuận lợi cơ bản, những khó khăn, thách thức của đất nước trong thời kỳ mới để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ và nỗ lực phấn đấu hoàn thành. Công tác dân vận phải được tiến hành bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo. Các cấp uỷ Đảng phải thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; quán triệt nghị quyết, chủ trương, mục tiêu về công tác dân vận của Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay. Học tập và vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí quan trọng và tác dụng to lớn của công tác dân vận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Quan trọng nhất là thông qua học tập, quán triệt phải biến thành nhận thức và hành động hằng ngày, công việc thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người đân. Để thực sự đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng phải cụ thể hoá những quan điểm trên và có quyết định http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

231

đúng đắn về nội dung công tác quần chúng, công tác dân vận (quyết định những vấn đề về quyền làm chủ của nhân dân, vấn đề việc làm, thu nhập, lợi ích kinh tế, văn hoá-xã hội...). Đặc biệt, phải thấy rõ công tác dân vận hiện nay là một hình thức tác chiến trên mặt trận chính trị, tư tưởng của Đảng; là một yêu cầu hết sức cơ bản, quan trọng để tăng cường thực lực chính trị cách mạng, củng cố quốc phòng-an ninh, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; phải chỉ đạo sát sao và kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên sự phối hợp hoạt động công tác dân vận của các bộ phận trong hệ thống chính trị. Công tác dân vận của Đảng sẽ thực sự trở thành một bộ phận hữu cơ trong sự lãnh đạo thống nhất của các cấp uỷ Đảng, là động lực không thể thiếu trong tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng-an ninh và xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện. Hai là, công tác dân vận phải thực sự là cầu nối quan trọng trong quan hệ giữa Đảng với nhân đân. Trong lịch sử Đảng ta, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân luôn được củng cố và tăng cường, là một trong những yếu tố đóng vai trò quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, công tác dân vận phải tổ chức thực hiện tốt, sáng tạo các kế hoạch, nhiệm vụ dân vận, các nghị quyết, chỉ thị do Trung ương đề ra, công tác dân vận phải có trách nhiệm đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến tận mỗi người dân, thông qua đó để mỗi người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với những vấn đề lớn và đặc biệt quan trọng của đất nước, công tác dân vận cần có những hình thức thích hợp để nhân dân hiểu đúng và tham gia ý kiến; tổ chức chu đáo, thiết thực việc lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm cho nhân dân thẳng thắn bày tỏ được ý kiến đóng góp; khuyến khích trao đổi, tranh luận với tinh thần xây dựng về những vấn đề có ý kiến khác nhau, tránh chụp mũ, áp đặt. Công tác dân vận phải lấy cơ sở để nghiên cứu, triển khai mới đạt được kết quả; động viên được mọi tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; thu nhận thông tin nhanh nhạy, nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Ban Dân vận và Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ phải là trung tâm thu nhận và nghiên cứu dư luận xã hội, góp phần tích cực vào giải quyết những vướng mắc từ cơ sở. Trong cơ chế thị http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

232

trường hết sức sôi động hiện nay, công tác dân vận nếu được tổng hợp và xử lý thông tin nhanh, chính xác sẽ góp phần tích cực để cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan chức năng giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu kiện, khiếu nại, thắc mắc, kiến nghị của nhân dân. Hoạt động dân vận là một trong những biện pháp cơ bản để giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, kịp thời ngăn chặn và dập tắt các ''điểm nóng'' ở cơ sở; giữ vững an ninh chính trị-xã hội, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn ''diễn biến hoà bình'' thông qua các hoạt động chống phá dưới nhiều hình thức của các thế lực thù địch. Để củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, công tác dân vận không thể dừng lại ở những lời kêu gọi chung chung. Dân vận phải đi thẳng vào cuộc sống của nhân dân để vận động. Nói đến cuộc sống không thể không nói đến mối quan hệ của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Người làm chính sách cũng như người đưa chính sách đến với nhân dân, nếu không quán triệt sâu sắc quan điểm dân vận của Đảng thì dễ mắc sai lầm. Chính thông qua dân vận làm cho nhân dân tin Đảng hơn, suốt đời gắn bó với Đảng và ngược lại, Đảng gần dân, tin dân, trọng dân, học dân để lãnh đạo dân ngày càng tốt hơn. Ba là, chăm lo đến lợi ích thiết thực của nhân dân , bài học quan trọng trong công tác dân vận. ''Bao nhiêu lợi ích đều vì dân...'', quan điểm đó của Bác Hồ đã được quán triệt, thực hiện và đã được tổng kết từ thực tiễn công tác dân vận trong suốt mấy chục năm qua của Đảng ta. Đảng và Nhà nước đã làm rất nhiều việc chăm lo đến những lợi ích cơ bản của nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số địa phương chưa thường xuyên chú ý đến lợi ích thiết thực của người dân. Các thế lực thù địch đã lợi dụng khai thác mặt hạn chế này để tranh giành quần chúng của chúng ta. Vì vậy, muốn làm tốt công tác dân vận, trước hết phải nhận thức được vai trò của cơ sở. Cơ sở là khâu trọng yếu trong toàn bộ hệ thống chính trị. Bốn là, quan tâm chăm lo, củng cố hệ thống chính trị; tổ chức bộ máy làm công tác dân vận. Kết quả phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng- an ninh của đất nước đều có sự đóng góp quan trọng của công tác dân vận. Do vậy, tất cả http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

233

các thành viên trong hệ thống chính trị hiện nay đều phải làm công tác dân vận. Mỗi cán bộ, đảng viên phải coi công tác dân vận như trách nhiệm tự thân của mình và phải có phương pháp, biện pháp và cách thức làm công tác dân vận khéo, phù hợp với tính chất, đặc thù của từng địa phương, cơ sở. Đồng thời để công tác dân vận ngày càng được nâng cao về chất, Đảng cần coi trọng việc bồi dưỡng kiến thức về mọi mặt: văn hoá, chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác quần chúng, xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách phù hợp đốl với những cán bộ làm công tác dân vận của Đảng. Công tác dân vận của lực lượng vũ trang (Quân đội nhân dân, Công an nhân dân) là một bộ phận công tác quần chúng của Đảng, của Nhà nước ta; là nội dung công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân, là nhiệm vụ của các tổ chức Đảng, của mọi cơ quan, đơn vị, của mọi cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng, an ninh. Tiến hành công tác dân vận là không ngừng tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân, là một nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang nhân đân, một vấn đề thuộc về bản chất, truyền thống của lực lượng vũ trang nhân dân. Quân đội, công an thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng, tinh thần sẵn sàng chiến đấu tốt, tiến hành cuộc đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng, làm trong sạch nội bộ, thi hành nghiêm pháp luật Nhà nước, phát huy truyền thống tốt đẹp “Quân với dân như cá với nước''. Các đơn vị quân đội tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giúp đỡ nhân đân trong sản xuất và đời sống, thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Bác Hồ kính yêu về kỷ luật quan hệ quân dân, nâng cao quan điểm “vì nhân dân phục vụ”, tham gia xây dựng địa phương về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; góp phần giúp nhân dân xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống, nhất là ở các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo, chú ý các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, gắn thực hiện tốt các Pháp lệnh Dân quân tự vệ, Dự bị động viên, Luật Nghĩa vụ quân sự với các chính sách hậu phương quân đội. Trong điều kiện hiện nay, cần http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

234

vận dụng linh hoạt các nội dung, hình thức, biện pháp công tác dân vận cho phù hợp với tình hình, đặc điểm cụ thể củạ từng địa phương, cơ sở. Coi trọng việc bồi dưỡng kiến thức, năng lực, kinh nghiệm, phương pháp công tác dân vận cho cán bộ, chiến sĩ; phát huy vai trò ''chiến sĩ dân vận'', “tổ, đội công tác'' của đơn vị; thực hiện kết nghĩa trong công tác dân vận của các đơn vị quân đội, công an đứng chân trên địa bàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một tư tưởng lớn cho Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta: ''Lực lượng của dân rất to lớn, việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công''. Chúng ta quyết tâm phấn đấu thực hiện “Dân vận khéo'' nhằm góp phần vun đắp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./. (Theo đ/c Tòng Thị Phóng, Bí thư TW Đảng, Trưởng Ban Dân vận TW Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 10/2004)

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong tình hình mới Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, kế thừa và phát huy những giá trị tinh hoa, tư tưởng tiến bộ của nhân loại và ông cha ta về nhân dân, đưa ra những quan điểm về dân rất độc đáo ''Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là ''tối thượng''. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân''. Người còn chỉ rõ: ''Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà. Nhân hoà là thế nào? Nhân hoà là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hoà quan trọng hơn hết''. Dân là gốc của nước, của cách mạng, Người còn khẳng định: ''Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

235

được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên. Nước lấy dân làm gốc... Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân''. Thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân và công tác dân vận, Đảng và Nhà nước ta đã xác định công tác dân vận có vị trí quan trọng, to lớn trong sự nghiệp cách mạng nước nhà là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Đồng thời công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản, quan trọng, gắn liền với sự trưởng thành của Đảng. Chính vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam gần 75 năm qua, Đảng ta đã hết sức coi trọng công tác dân vận. Điều đó đã được thể hiện một cách nhất quán trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Thông qua công tác dân vận, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên động lực to lớn đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng phát triển. Đặc biệt, từ sau Đại hội VI, Đảng đã ban hành các nghị quyết và chỉ thị về công tác dân vận, về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, về đại đoàn kết toàn dân tộc, về dân tộc...; đề ra phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; nhất là kịp thời có các chủ trương, biện pháp tăng cường công tác dân vận ở những địa bàn trọng điểm như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ... Công tác dân vận trong những năm qua đã góp sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa''; hướng mạnh về cơ sở, phát huy dân chủ, động viên, lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện có kết quả các nhiệm vụ kinh tế văn hoá-xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh; tham gia xây đựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền nhân dân trong sạch, vững mạnh; góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu; ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''. Công tác dân vận đã góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp từ nội lực của nhân dân cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

236

Việt Nam XHCN. Đúng như lời Bác Hồ đã dạy: công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Tuy nhiên, hiện nay thực tiễn đang đặt ra một số vấn đề khá gay gắt, những nội dung mới đòi hỏi công tác dân vận cần hết sức quan tâm, giải quyết. Đó là một số tổ chức Đảng, chính quyền còn coi nhẹ công tác dân vận, thậm chí chưa nhận thức sâu sắc và đầy đủ về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của công tác dân vận trong tình hình mới, thiếu chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Điều đó đã làm cho công tác dân vận ở một số địa phương, cơ sở thiếu nhạy bén, thiếu chiều sâu, có khi còn phô trương, hình thức... Việc phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của tổ chức Đảng, chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên và nhịp nhàng. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi còn hình thức và nặng về hành chính, không sát dân, dẫn đến việc tập hợp quần chúng còn hạn chế. Sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, sự phân hoá giữa các giai tầng xã hội; sự yếu kém của tổ chức chính trị-xã hội, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí ở một số địa phương, cơ sở; sự thoái hoá, biến chất, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền của một bộ phận cán bộ, đảng viên; các vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi rất gay gắt... đã làm nảy sinh tâm lý bất bình, giảm sút lòng tin của một bộ phận quần chúng đối với Đảng, Nhà nước. Các thế lực thù địch lợi dụng những phức tạp đó, núp dưới các chiêu bài: dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền đã ráo riết tăng cường các thủ đoạn hoạt động, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết của nhân dân ta, chia rẽ đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Quán triệt các quan điểm, tư tưởng của Bác Hồ và của Đảng về công tác dân vận, nhất là Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 (khoá IX) về công tác dân vận trong tình hình mới, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau. Trước hết, quán triệt một cách sâu sắc trong Đảng, trong các ban, ngành, đoàn thể, trong quần chúng nhân dân về quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

237

Minh, về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Làm rõ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-văn hoá – xã hội, quốc phòng, an ninh của từng địa phương, cơ sở và cả nước. Đồng thời phải làm rõ được những thuận lợi cơ bản, những khó khăn, thách thức của đất nước trong thời kỳ mới để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ và nỗ lực phấn đấu hoàn thành. Công tác dân vận phải được tiến hành bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo. Các cấp uỷ Đảng phải thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; quán triệt nghị quyết, chủ trương, mục tiêu về công tác dân vận của Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay. Học tập và vận dụng uôst quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí quan trọng và tác dụng to lớn của công tác dân vận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Quan trọng nhất là thông qua học tập, quán triệt phải biến thành nhận thức và hành động hằng ngày, công việc thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Để thực sự đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng phải cụ thể hoá những quan điểm trên và có quyết định đúng đắn về nội dung công tác quần chúng, công tác dân vận (quyết định những vấn đề về quyền làm chủ của nhân dân, vấn đề việc làm, thu nhập, lợi ích kinh tế, văn hoá-xã hội...). Đặc biệt, phải thấy rõ công tác dân vận hiện nay là một hình thức tác chiến trên mặt trận chính trị, tư tưởng của Đảng; là một yêu cầu hết sức cơ bản, quan trọng để tăng cường thực lực chính trị cách mạng, củng cố quốc phòng-an ninh, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; phải chỉ đạo sát sao và kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên sự phối hợp hoạt động công tác dân vận của các bộ phận trong hệ thống chính trị. Công tác dân vận của Đảng sẽ thực sự trở thành một bộ phận hữu cơ trong sự lãnh đạo thống nhất của các cấp uỷ Đảng, là động lực không thể thiếu trong tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng-an ninh và xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện. Hai là, công tác dân vận phải thực sự là cầu nối quan trọng trong quan hệ giữa Đảng với nhân đân. Trong lịch sử Đảng ta, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

238

luôn được củng cố và tăng cường, là một trong những yếu tố đóng vai trò quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, công tác dân vận phải tổ chức thực hiện tốt, sáng tạo các kế hoạch, nhiệm vụ dân vận, các nghị quyết, chỉ thị do Trung ương đề ra, công tác dân vận phải có trách nhiệm đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến tận mỗi người dân, thông qua đó để mỗi người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với những vấn đề lớn và đặc biệt quan trọng của đất nước, công tác dân vận cần có những hình thức thích hợp để nhân dân hiểu đúng và tham gia ý kiến; tổ chức chu đáo, thiết thực việc lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm cho nhân dân thẳng thắn bày tỏ được ý kiến đóng góp; khuyến khích trao đổi, tranh luận với tinh thần xây dựng về những vấn đề có ý kiến khác nhau, tránh chụp mũ, áp đặt. Công tác dân vận phải lấy cơ sở để nghiên cứu, triển khai mới đạt được kết quả; động viên được mọi tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; thu nhận thông tin nhanh nhạy, nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Ban Dân vận và Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ phải là trung tâm thu nhận và nghiên cứu dư luận xã hội, góp phần tích cực vào giải quyết những vướng mắc từ cơ sở. Trong cơ chế thị trường hết sức sôi động hiện nay, công tác dân vận nếu được tổng hợp và xử lý thông tin nhanh, chính xác sẽ góp phần tích cực để cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan chức năng giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu kiện, khiếu nại, thắc mắc, kiến nghị của nhân dân. Hoạt động dân vận là một trong những biện pháp cơ bản để giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, kịp thời ngăn chặn và dập tắt các ''điểm nóng'' ở cơ sở; giữ vững an ninh chính trị-xã hội, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn ''diễn biến hoà bình'' thông qua các hoạt động chống phá dưới nhiều hình thức của các thế lực thù địch. Để củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, công tác dân vận không thể dừng lại ở những lời kêu gọi chung chung. Dân vận phải đi thẳng vào cuộc sống của nhân dân để vận động. Nói đến cuộc sống không thể không nói đến mối quan hệ của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Người làm chính sách cũng như người đưa chính sách đến với nhân dân, nếu không quán triệt sâu sắc quan điểm dân vận của Đảng thì dễ mắc sai lầm. Chính thông qua dân vận làm cho nhân dân tin Đảng hơn, suốt đời gắn bó với http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

239

Đảng và ngược lại, Đảng gần dân, tin dân, trọng dân, học dân để lãnh đạo dân ngày càng tốt hơn. Ba là, chăm lo đến lợi ích thiết thực của nhân dân , bài học quan trọng trong công tác dân vận. ''Bao nhiêu lợi ích đều vì dân...'', quan điểm đó của Bác Hồ đã được quán triệt, thực hiện và đã được tổng kết từ thực tiễn công tác dân vận trong suốt mấy chục năm qua của Đảng ta. Đảng và Nhà nước đã làm rất nhiều việc chăm lo đến những lợi ích cơ bản của nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số địa phương chưa thường xuyên chú ý đến lợi ích thiết thực của người dân. Các thế lực thù địch đã lợi dụng khai thác mặt hạn chế này để tranh giành quần chúng của chúng ta. Vì vậy, muốn làm tốt công tác dân vận, trước hết phải nhận thức được vai trò của cơ sở. Cơ sở là khâu trọng yếu trong toàn bộ hệ thống chính trị. Bốn là, quan tâm chăm lo, củng cố hệ thống chính trị; tổ chức bộ máy làm công tác dân vận. Kết quả phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng- an ninh của đất nước đều có sự đóng góp quan trọng của công tác dân vận. Do vậy, tất cả các thành viên trong hệ thống chính trị hiện nay đều phải làm công tác dân vận. Mỗi cán bộ, đảng viên phải coi công tác dân vận như trách nhiệm tự thân của mình và phải có phương pháp, biện pháp và cách thức làm công tác dân vận khéo, phù hợp với tính chất, đặc thù của từng địa phương, cơ sở. Đồng thời để công tác dân vận ngày càng được nâng cao về chất, Đảng cần coi trọng việc bồi dưỡng kiến thức về mọi mặt: văn hoá, chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác quần chúng, xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách phù hợp đốl với những cán bộ làm công tác dân vận của Đảng. Công tác dân vận của lực lượng vũ trang (Quân đội nhân dân, Công an nhân dân) là một bộ phận công tác quần chúng của Đảng, của Nhà nước ta; là nội dung công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân, là nhiệm vụ của các tổ chức Đảng, của mọi cơ quan, đơn vị, của mọi cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng, an ninh. Tiến hành công tác dân vận là không ngừng tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân, là một nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang nhân đân, một vấn đề thuộc về bản chất, truyền thống của lực lượng vũ trang nhân dân. Quân đội, công an thường xuyên nâng cao ý http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

240

chí cách mạng, tinh thần sẵn sàng chiến đấu tốt, tiến hành cuộc đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng, làm trong sạch nội bộ, thi hành nghiêm pháp luật Nhà nước, phát huy truyền thống tốt đẹp “Quân với dân như cá với nước''. Các đơn vị quân đội tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giúp đỡ nhân đân trong sản xuất và đời sống, thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Bác Hồ kính yêu về kỷ luật quan hệ quân dân, nâng cao quan điểm “vì nhân dân phục vụ”, tham gia xây dựng địa phương về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; góp phần giúp nhân dân xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống, nhất là ở các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo, chú ý các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, gắn thực hiện tốt các Pháp lệnh Dân quân tự vệ, Dự bị động viên, Luật Nghĩa vụ quân sự với các chính sách hậu phương quân đội. Trong điều kiện hiện nay, cần vận dụng linh hoạt các nội dung, hình thức, biện pháp công tác dân vận cho phù hợp với tình hình, đặc điểm cụ thể củạ từng địa phương, cơ sở. Coi trọng việc bồi dưỡng kiến thức, năng lực, kinh nghiệm, phương pháp công tác dân vận cho cán bộ, chiến sĩ; phát huy vai trò ''chiến sĩ dân vận'', “tổ, đội công tác'' của đơn vị; thực hiện kết nghĩa trong công tác dân vận của các đơn vị quân đội, công an đứng chân trên địa bàn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một tư tưởng lớn cho Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta: ''Lực lượng của dân rất to lớn, việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công''. Chúng ta quyết tâm phấn đấu thực hiện “Dân vận khéo'' nhằm góp phần vun đắp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

241

Bác Hồ với việc chống tham nhũng, lãng phí Hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức có quyền bị thoái hóa biến chất về tư tưởng, đạo đức và lối sống, mắc vào tệ tham nhũng, lãng phí. Điều đó làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Tìm hiểu, thấm nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, chính là thiết thực đóng góp vào việc xây dựng nền đạo đức và nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Tham ô, lãng phí, quan liêu là ''Giặc nội xâm'', là kẻ thù của nhân dân. Vì tham nhũng gây lên những hậu quả khôn lường cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Năm 1945, ngay khi giành được chính quyền, Người cảnh báo nguy cơ tham nhũng và thoái hóa: ''Có những người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc độc hành độc đoán, hoặc dĩ công vi tư (lấy của chung làm của riêng) thậm chí dùng phép công để báo thù tư, làm cho dân oán đến chính phủ và đoàn thể". Người nói: "Tham ô là trộm cắp. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám. Chống tham ô, lãng phí và quan liêu như một thứ "giặc ở trong lòng". Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình". Lúc này Bác đã nghĩ đến thành lập tòa án chống tham nhũng. Tòa án có thể bắt bất cứ ai trong Chính phủ có tham nhũng. Từ chủ trương chống tham thũng, lãng phí mà ngay trong phiên họp Quốc hội đầu tiên, Chính phủ phải ra điều trần trước Quốc hội. Trong buổi tối 31/10/1946, có 88 câu hỏi của đại biểu Quốc hội chất vấn Chính phủ về chống hối lộ, biển thủ của công. Bác tuyên bố: ''Chính phủ hiện thời đang cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh đến những người làm việc ở Uỷ ban là đông lắm. Dù sao Chính phủ đã hết sức làm gương. Nếu làm gương http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

242

không xong sẽ dùng pháp luật trừng trị những kẻ ăn hối hộ, đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết" và khẳng định nguồn gốc của tham ô, lãng phí là quan liêu. Người phân tích: ''Những người lãnh đạo chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xin báo cáo trên giấy chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn vì những người và cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu, thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỹ thuật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. Muốn trừ sạch tham ô, lãng phí thì phải tẩy sạch bệnh quan liêu". Muốn chống tham nhũng vấn đề quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân của bệnh này. Có nhiều nguyên nhân song, nguyên nhân trực tiếp sâu xa là xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thoái hóa biến chất của một số cán bộ, đảng viên. Trong tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc Bác chỉ rõ ''Bệnh tham lam - những người mắc bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc do đó mà chỉ ''tự tư tự lợi" dùng của công làm của tư. Dựa vào thế lực của Đảng đề theo đuổi lợi ích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi, tiền bạc ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất danh giá của mình''. Nguyên thân thứ hai là, do buông lỏng tổ chức quản lý, quan liêu xa rời quần chúng của cán bộ các cấp. Để nhấn mạnh nguyên nhân này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: ''Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không đi vào vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn". Nguyên nhân thứ ba là do ô dù, bao che cho những kẻ phạm tội bất liêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cực lực phê phán: ''Nhiều nơi có đồng chí phạm tội nhưng không bị trừng phạt xứng đáng, có đồng chí bị hạ tầng công tác nơi này, đi nơi khác lại ở nguyên cấp cũ hay chỉ bị hạ tầng công tác theo hình thực, nhưng vẫn ở cấp bộ khác làm việc. Có những đồng chí phải trừng phạt nặng nề, nhưng vì cảm tình, nể nang, chỉ phê bình cảnh cáo qua loa cho xong chuyện. Thậm chí có nơi che đậy cho nhau, lừa dối cấp trên, giấu giếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật như vậy, làm cho các đồng chí không http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

243

những không biết sửa lỗi của mình mà còn khinh thường kỷ luật. Tác hại hơn nữa, nếu kỷ luật của đoàn thể lỏng lẻo, những phần tử phản động sẽ có cơ hội chui vào hàng ngũ ta để phá hoại đoàn thể ta. Ở Vụ án Trần Dụ Châu (19481949) đại tá, Cục trưởng cục quân nhu. Lợi dụng vị trí công tác, ăn chơi tiêu xài xa hoa lãng phí. Lê Sĩ Cửu là thân cận của Trần Dụ Châu tổ chức cưới vợ rất xa xỉ. Trong khi đó, các chiến sĩ đang rất đói rét. Tiệc cưới có mời nhà thơ Đoàn Phú Từ với danh nghĩa là đại biểu Quốc hội. Tức cảnh, nhà thơ Đoàn Phú Từ đứng lên đọc thơ: “Bữa tiệc mà ta sắp chén đẫy hôm nay

Được dọn bằng máu xương chiến sĩ”

Lập tức ông bị Trần Dụ Châu cho lính tát. Trước khi bỏ về, ông đứng lên cầm chén rượu đổ xuống đất, ngay trong đêm đó, ông ngồi viết thư cho Hồ Chủ tịch. 14 ngày sau, Trần Dụ Châu bị bắt đưa ra xét xử, bị kết án tử hình. Bác là người trực tiếp chỉ đạo xét xử vụ án này. Vụ án được đăng đầy đủ, công khai trên báo Cứu quốc (đăng bốn kỳ). Số báo này còn được chuyển vào vùng địch tạm chiếm và tới kiều bào ta ở nước ngoài. Qua vụ án cho thấy bài học của Bác về công khai, dân chủ, minh bạch trong xử lý kỷ luật. Đây chính là con đường chống tham nhũng hiệu quả thật. Một thực tế hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang ra sức chống đó là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí hoành hành trong hệ thống chính trị và bộ máy của Nhà nước. Có không ít cán bộ, đảng viên đòi hỏi phải sống với tiện nghi hiện đại, bất chấp đạo lý, xa dần mối liên hệ với quần chúng nhân dân. Có những thủ trưởng cơ quan xài một bữa cơm ở nhà khách hết từ 5 đến 7 triệu đồng, bằng thu nhập cả năm của một gia đình nông dân hạng trung bình. Theo thanh tra Bộ tài chính năm 2001, cả nước có khoảng 16 nghìn xe hơi loại sang tiền tỷ trở lên, trong đó có 538 xe hơi ở các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến các địa phương còn dư thừa chưa được điều chuyển. Kết quả thanh tra 18 bộ, 47 tỉnh, thành phố thì việc mua sắm xe hơi vượt tiêu chuẩn cho phép là 31 tỷ đồng; kiểm tra việc xây dựng trụ sở thì 8 bộ chi sai 51 tỷ đồng và 40 tỉnh, thành phố chi sai đến 83 tỷ đồng. Nhiều địa phương phải xin cứu trợ nhưng lại đón tiếp linh đình đoàn cứu trợ. Một hình thức lãng phí khác http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

244

là việc sử dụng điện thoại bừa bãi và hội họp triền miên. Thống kê tại một thành phố, năm 2002 cho thấy 28 cơ quan văn phòng, sở, ngành và các quận, huyện của thành phố đã tổ chức tới 5.240 cuộc họp. Điều đáng quan tâm là nhiều nơi tổ chức họp hành kết hợp với "tham quan'', "nghỉ mát'' khách đi dự hội nghị lấy mục tiêu họp là phụ mà để "xả hơi" là chính. Để chống tham nhũng một cách toàn diện và triệt để, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng biện pháp phát động tư tưởng quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí và tự giác tham gia vạch mặt chỉ tên bọn tham nhũng trước pháp luật và công chúng. Muốn làm được điều đó, người khuyên rằng: Đảng phải biết dựa vào quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị có đúng hay sai... Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết vả những chỉ thị của mình đã thi hành như thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông, mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng; phái tiến hành cuộc đấu tranh quét sạch những ung nhọt ngay trong nội bộ Đảng. Muốn vậy, pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề gì. Cần phải đưa những kẻ ăn của hối lộ ra để dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng. Vấn đề cuối cùng là công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Cán bộ là "tiền vốn” của đoàn thể, có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công việc gì nếu có cán bộ tốt thì thành công tức là có lãi. Không có cán bộ tốt tức là hỏng việc, tức là lỗ vốn. Để có được một đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt rõ trọng trách: Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải ''cần kiệm liêm chính, chí công vô tư". Và "để thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm, các cơ quan, bộ đội, nhà máy, trường học... phải chống tham ô, lãng phí. Phải sử dụng tiền của sức lực và thời giờ của nhân dân cho hợp lý. Phải chống bệnh quan liêu và đó là nguồn gốc của nạn tham ô, lãng phí”. Nhìn vào thực tế tình hình tham nhũng, lãng phí ngày nay, chúng ta càng thấy ý nghĩa vô cùng sâu sắc và hết sức quý báu của những lời dạy chí tình, chí lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chống tệ tham thũng, lãng phí. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

245

Hồ Chí Minh với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu Thực hành tiết kiệm, chống thanh ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu được Hồ Chí Minh rất quan tâm và là quan điểm tư tưởng lớn của Người. Thật vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX, trong một bài viết về Lênin, Người đã ca ngợi đạo đức cao cả của Lênin. Người viết: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động; đời tư trong sáng, nếp sống giản dị”. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” dùng để huấn luyện lớp cán bộ cách mạng đầu tiên của Đảng ta, Người đã chỉ giáo: “Tự mình phải cần kiệm, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, ít lòng ham muốn về vật chất...”. Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 3-9-1945, Người nêu ra “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”, trong đó, Người “đề nghị mở một chiến dịch giáo dục đại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm liêm, chính”. Ngay trong những năm tháng kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, Người thường nhắc nhở đồng bào, cán bộ, chiến sĩ kết hợp chặt chẽ phong trào thi đua giết giặc với phong trào tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống quan liêu. Năm 1947, Người viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người căn dặn: Phải rèn luyện đạo đức cách mạng, ra sức chống những thói hư tật xấu, lên mặt quan cách mạng hẹp hòi, tư túi v.v… Đến năm 1952, Người lại viết tác phẩm “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, trong đó phân tích rõ biểu hiện, bản chất, tác hại, nguyên nhân, những biện pháp chống các bệnh này và thực hành chính sách tiết kiệm. Trước lúc đi xa, Người còn viết bản “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đăng báo Nhân dân ngày 3-2-l969. Cho đến bản “Di chúc” thiêng liêng,

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

246

Người vẫn không quên căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương ngời sáng về đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, là mẫu mực về đời sống trong sáng, nếp sống giản dị, khiêm tốn phi thường. Cuộc đời Người từ một phụ bếp trên tàu, một thợ ảnh ở ngõ hẻm Côngpoanh đến khi trở thành Chủ tịch nước vẫn luôn là những tháng ngày thanh bạch, tiết kiệm, giản dị và tao nhã. Ngôi nhà sàn của Người có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, một giá sách một tủ quần áo với hai bộ ka ki, một đôi dép lốp, một máy thu thanh, một chiếc đồng hồ để bàn. Đó là tất cả tài sản của một vị nguyên thủ quốc gia. Thật là cuộc đời thanh bạch suốt đời thực hành tiết kiệm, suốt đời liêm chính, suốt đời chí công vô tư. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy cả một truyền thống dân tộc Việt Nam về đức cần, kiệm. Theo Hồ Chí Minh, thực hành tiết kiệm không phải là bủn xỉn, “không phải xem đồng tiền to bằng cái nong”, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép mọi người nhịn ăn, nhịn mặc; trái lại, cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, để dần dần nâng cao mức sống của nhân dân; tiết kiệm để tích trữ thêm vốn cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, để cải thiện đời sống nhân dân. Tiết kiệm bao gồm: tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của và tất cả mọi người đều phải tiết kiệm. Hồ Chí Minh coi thực hành tiết kiệm là một quy luật đi lên của một đất nước, một phương pháp của chế độ kinh tế, không phải chỉ nước nghèo mới thực hành tiết kiệm, mà cả nước giàu cũng phải tiết kiệm. Người còn chỉ rõ: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm sỉ là một dân tộc giầu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”. Muốn thành công trong thực hành tiết kiệm, theo Hồ Chí Minh phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, Người chỉ rõ: Tham ô đối với cán bộ, đó là “ăn cắp của công làm của tư, đục khoét của nhân dân, ăn bớt của bộ đội, tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung để làm quỹ riêng”; đối với nhân dân, đó là “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”. Còn lãng phí bao gồm nhiều mặt: lãng http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

247

phí sức lao động, lãng phí thời gian, lãng phí tiền của, lãng phí của cải vật chất của nhân dân, của đất nước. Nguyên nhân gây ra lãng phí, theo Hồ Chí Minh là do trình độ non kém, do thiếu kiến thức nghiệp vụ chuyên môn, do độc đoán đưa ra những quyết định sai lầm. Người còn chỉ rõ: “Tham ô có hại, nhưng lãng phí có khi còn hại nhiều hơn”. Người kết luận: “Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”, Hồ Chí Minh không chỉ làm rõ khái niệm, nội dung, tác hại, mà còn phân tích nguyên nhân dẫn đến tham ô, lãng phí, đó là bệnh quan liêu: “Có nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu. Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn”. Người cho rằng, bệnh quan liêu là chỉ gieo hạt vun trồng cho tham ô lãng phí nảy nở, “vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí”. Người nhấn mạnh: tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân. Đó là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng việc của ta, nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta, nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh thường coi đó “là hành động xấu xa nhất của con người... Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà”, là “giặc nội xâm”. Bởi vì, tham ô, lãng phí, quan liêu thường để liền với nhau và luôn và một trở lực lớn, là nguy cơ sụp đổ đối với mọi chế độ xã hội. Vì thế, “chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng, cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị”, và “muốn trừ sạch nạn tham ô lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”. Nguyên nhân sâu xa, bao trùm của các căn bệnh nêu trên, theo Hồ Chí Minh là chủ nghĩa cá nhân - một thứ trở lực nằm ngay trong mỗi cán bộ, đảng viên và http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

248

mỗi con người. Người coi chủ nghĩa cá nhân là một trở lực nội tại và là một nguyên nhân gốc gây ra bao khuyết điểm, sai lầm và trở lực khác. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”. Vì như Người phân tích: chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành ta đi xuống dốc... vì thế càng nguy hiểm”,... “chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng..., chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. Do đó, “phải ra sức gột rửa chủ nghĩa cá nhân”. Tuy nhiên, Người cũng lưu ý rằng, “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Đặc biệt, Người nhấn mạnh trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách ra thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”. Do vậy, phải thường xuyên rèn luyện và “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Từ sự phân tích sâu sắc những biểu hiện, bản chất, nội dung, nguồn gốc của tham ô, lãng phí, quan liêu, Hồ Chí Minh còn đề ra những biện pháp nhằm chống các căn bệnh tệ hại này một cách có hiệu quả: Một là, phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hai là, phải dựa vào quần chúng, phát động quần chúng tích cực tham gia đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu và thực hành tiết kiệm. Ba là, phải hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ. Bốn là, phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra và xử lý kỷ luật nghiêm minh những tập thể, cá nhân vi phạm. Năm là, thường xuyên chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để thực hiện có hiệu quả cần coi trọng và tiến hành đồng bộ các biện pháp. Người còn yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”. http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

249

Trước tình trạng tham nhũng và những tệ nạn xã hội ở nước ta hiện nay, ôn lại những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu càng thấy rõ ý nghĩa sâu xa, tầm quan trọng và tính thời sự của những lời dạy của Bác Hồ. Bởi vì, như Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhận định: “tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân”. Quan liêu, tham nhũng “đang thực sự là nguy cơ lớn”, đang ở mức báo động và có thể phát triển hơn nữa cùng với kinh tế thị trường. Nhưng quan trọng hơn là từ kinh nghiệm của các nước khác, Đảng ta muốn cảnh báo về hậu quả xã hội nguy hiểm của nó. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu ngoài những tổn thất về kinh tế còn gây nên những thiệt hại chính trị - xã hội khó lường. Điều tệ hại hơn của các tệ nạn này là làm tha hóa cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền làm mất lòng tin của dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho các chủ trương, chính sách bị sai lệch dẫn đến chệch hướng và là tiền đề của sự mất ổn định về mặt xã hội, là điều kiện tốt cho các thế lực thù địch thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, dẫn đến mất ổn định chính trị. Đối với kẻ thù, nạn tham nhũng, quan liêu, lãng phí là cơ sở thuận lợi và mục tiêu để chúng công kích, bôi xấu chế độ ta, làm suy yếu Đảng và Nhà nước ta. Đúng như Lênin trước đây đã cảnh báo: “Nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là những tệ nạn đó” . Các tệ nạn này là những thách thức trên con đường phát triển của đất nước. Chỉ có đẩy lùi các nguy cơ đó, đất nước ta mới phát triển đúng hướng; ngược lại, chỉ có phát triển đúng hướng mới tạo cơ sở vững chắc đẩy lùi các nguy cơ đó. Nhận rõ tính chất nguy hại của tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí, Đại hội IX của Đảng ta đã có chủ trương: “Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt là chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính”. Để thực hiện có kết quả chủ trương http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

250

trên, lúc này hơn bao giờ hết phải thực hiện tốt lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” phải nêu cao đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, chống các tệ nạn xấu xa mà ai cũng bất bình, chê trách; đồng thời phải sử dụng nhiều loại công cụ và biện pháp, nhất là phải kết hợp tăng cường pháp chế với thuyết phục, giáo dục, kết hợp biện pháp hành chính với phong trào cách mạng của quần chúng, song phải đấu tranh nhẫn nại và kiên trì nhất định chúng ta sẽ chiến thắng loại “giặc nội xâm” này, đưa đất nước vững bước trên con đường dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

251

Bác Hồ nói về tham nhũng và chống tham nhũng Chủ tịch Hồ Chí Minh - là người nhìn ra rất sớm và đặt vấn đề phòng, chống tham nhũng cũng rất sớm. Chương mở đầu “Tư cách một người cách mạng” của cuốn “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927 tại Quảng Châu (Trung Quốc), trong 14 điều “Tự mình phải” Người đã dành 2 điều về đề phòng và chống tư lợi, dục vọng cá nhân là phải “Vị công vô tư” (điều thứ 8) và không có “lòng tham muốn về vật chất” (điều thứ 14). Bác sớm nhận ra cái ý thức tham lam cần đề phòng và chống lại nó của người cách mạng, theo tôi, một phần do Bác là hiện thân của đạo đức Á Đông: “Đói cho sạch, rách cho thơm” - lấy đạo đức làm trọng, phần do thấy được hai mặt của bản tính con người: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng...”. Và quan trọng hơn, là Bác đã từng chứng kiến các chế độ vua quan phong kiến lần lượt thay nhau sụp đổ, chủ yếu là do không được lòng dân, không được dân ủng hộ, bởi nguyên nhân chủ yếu là tham quan ô lại, nhũng nhiễu, áp bức, bóc lột nhân dân. Căn cứ vào nhiều bài nói, bài viết hiện có của Bác, cho thấy rằng tính chất và mức độ tham lam, nhũng nhiễu gắn liền và sánh đôi với địa vị xã hội: - Lúc còn hoạt động bí mật và chưa có chính quyền, tức là chưa có địa vị xã hội, thì tham những chưa là nguy cơ trực tiếp đối với cán bộ, Đảng viên, nên chỉ là tu luyện và đề phòng. - Lúc có chính quyền tức là có quyền lực và quyền lợi, tuy bước đầu còn hạn chế, nhất là về vật chất, nhưng Bác đã sớm nhận ra nguy cơ lợi dụng chức quyền để tư lợi từ việc nhỏ đến việc lớn cho mình và cho gia đình mình. Trong thư “Gửi uỷ ban nhân dân các cấp” giữa tháng 10-1945, Bác đã vạch ra 6 lầm lỗi chính phải tránh, trong đó lỗi thứ ba là dùng của dân, của công để tiêu xài http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

252

riêng: “ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, tự hỏi tiền bạc ở đâu mà ra? Thậm chí lấy của công làm việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông uỷ viên đi xe hơi, rồi bà uỷ viên, cho đến các cô các cậu uỷ viên cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó, ai chịu?” Khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội mới trên một nửa đất nước (miền Bắc), quyền hành và của cải đã nhiều hơn trước cùng với chế độ quản lý, chế độ đãi ngộ mới ra đời, Bác đã viết bài bài “Đạo đức cách mạng” đăng trên tạp chí Học tập, số tháng 12.1958. Trong đó, Bác đã coi chủ nghĩa cá nhân (trong đó tư lợi, tham ô, lãng phí là rất nguy hại), là một trong 3 kẻ địch nguy hiểm của cách mạng (kẻ địch nguy hiểm thứ nhất là chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc. Thói quen và truyền thống lạc hậu là kẻ địch to; chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch thứ ba). Tư tưởng trên của Bác là “sợi chỉ đỏ” của việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân cho cán bộ, đảng viên. Trong bài nói chuyện tại Đại hội III Đoàn thanh niên Việt Nam ngày 24/3/1961 , Bác lại nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. “Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, là từ chỗ coi tư lợi, tham ô là nguy cơ cần ngăn chặn, là tội lỗi cần nghiêm trị đến coi là kẻ thù cần trừng trị. Những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân”. “Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”, và trước lúc “đi xa”, trong Di chúc, Bác lại lần cuối cùng để lại lời tâm huyết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi một cán bộ, đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Lời cảnh báo và nỗi trăn trở của Bác về nạn tư lợi tham ô, lãng phí, đã và đang là nỗi nhức nhối của toàn Đảng và nhân dân ta; mà từ Đại hội VII của Đảng đã coi là một trong bốn nguy cơ của nước ta; và nếu không ngăn chặn và khắc phục được sẽ là nguy cơ đe doạ sự lãnh đạo của Đảng và sự tồn tại của chế độ http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

253

xã hội ta. Tính chất và tác hại nghiêm trọng của tham nhũng như Đảng ta chính thức xác định, có thể nói là đến mức tột đỉnh rồi. Nhưng kết quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng (2-2004) là mới “có tác dụng nhất định cảnh báo, răn đe, ngăn ngừa”. Do vậy, cần quán triệt hơn nữa tư tường của Bác Hồ về vấn đề cực kỳ hệ trọng này. Chống tham nhũng phải gắn với xây dựng Đảng và lành mạnh hoá bộ máy nhà nước. Đọc lại các bài nói, bài viết của Bác Hồ, chúng ta thấm nhuần sâu sắc hơn cách đặt vấn đề của Bác về mối quan hệ Đảng với cán bộ, đảng viên; cán bộ, đảng viên, nhà nước và nhân dân; ý thức, tư tưởng, đạo đức cách mạng với pháp chế nhà nước. Từ đó, có thể liên tưởng và xem xét lại đầy đủ hơn cách chống tham nhũng đã và đang tiến hành. Một là, đã là cán bộ, đảng viên thì không được tham nhũng, hơn nữa phải đi đầu trong chống tham nhũng, lãng phí. Theo Bác: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Bởi: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” (Tư cách của Đảng chân chính cách mạng); “Cơ quan Chính phủ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của dân... chứ không phải để đè đầu dân như thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” (Thư gửi UBND các cấp 10/1945); “ Những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu”, “Lợi ích của người

đảng viên phải ở trong, chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp... Nếu lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng... Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh từ bỏ chủ nghĩa cá nhân... Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội.. Người cách mạng phải tiêu diệt nó” (Đạo đức cách mạng). Như vậy, cần xem lại: Về tầm khái quát và vĩ mô, thì đã xác định tham nhũng là một nguy cơ lớn, nhưng thái độ và cách xử lý đối với kẻ trực tiếp gây ra tham http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

254

nhũng và bao che tham nhũng đã thực sự quyết liệt, triệt để chưa? Coi “chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị”. Bởi nếu dựa vào dân và thực hành công khai hoá tài sản, thì bọn tham nhũng sẽ lộ nguyên hình 100%. Ngay việc kê khai tài sản đề ra từ Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII và pháp lệnh chống tham nhũng 1998 vẫn đang bị bỏ lửng. Hai là, chống gắn với xây, xây để chống. Ở đây là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách bộ máy hành chính Nhà nước. “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (Di chúc). Về nguyên lý thì “Đảng viên là người thay mặt Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; lợi ích của người đảng viên phải ở trong, chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp” (Hồ Chí Minh – Đạo đức cách mạng). Nhưng trong thực tế, đã và đang có sự lệch nhau, nếu không nói là trái ngược: Một là, nạn tham nhũng, chủ yếu là trong cán bộ có chức có quyền, mà cán bộ có chức, quyền thì đại bộ phận là đảng viên. Hai là, tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh mỗi ngày một tăng (70-80%), năm sau tăng hơn năm trước, mà nạn tham nhũng không giảm hơn nữa còn tăng. Ba là, đảng viên gương mẫu, cán bộ, công chức xuất sắc tiên tiến, mỗi năm một tăng, huân chương cũng mỗi năm một tăng, mà tham nhũng không giảm, còn tăng. Như thế, phải chăng, tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội chưa coi chống tham nhũng cũng như chống giặc như Bác đã nói. Mỗi cán bộ, đảng viên chưa thực sự là một chiến sĩ xung kích trên mặt trận đó với trọng trách tiên phong gương mẫu của mình. Thậm chí, ngược lại, một bộ phận đảng viên có chức quyền đang là tác nhân tham nhũng, số khá đông đảng viên khác đang là đồng loã vì không dám đấu tranh vạch mặt; hơn nữa còn bao che và không dũng cảm bảo vệ người vạch mặt; đấu tranh với kẻ tham nhũng, dù bất cứ lý do gì cũng không thể biện minh.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

255

Các danh hiệu không thực chất, vô tình hay cố ý trực tiếp hay gián tiếp đều bao che và khuyến khích tham nhũng. Bởi đối với kẻ tham nhũng thì yên tâm là không bị phanh phui, hơn nữa đã có “vỏ bọc” tập thể, “cứ thế mà làm”! Đối với tập thể thì cũng tự bằng lòng với mình; hơn nữa, người có trách nhiệm chính còn lờ đi, thì mình dại gì mà khui nó ra mang vạ vào thân. Nên bọn tham nhũng thường cố chạy chọt để được khen thưởng, danh hiệu và rất hào phóng làm “ công đức”! Hoặc né tránh dưới tên gọi mỹ miều khác: “thất thoát”, mà thất thoát thực chất là tham nhũng được hợp pháp hoá. Có thể nói, xã hội ta đang bùng nổ nạn hư danh “hàm, vị, bằng cấp” và “danh hiệu”. Nhưng liệu đã có bao nhiêu người và cơ quan có trách nhiệm dám nhìn thẳng vào sự thật đó mà kiên quyết ngăn chặn, khắc phục. Không nên quên rằng, khi Quốc hội khoá II định trao tặng Bác Huân chương cao quý, Bác đã từ chối “vì xét thấy chưa có công huân xứng đáng” (lời Bác Hồ). Ba là, Pháp luật phải nghiêm minh. Cho đến nay, các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân đều nhớ mãi, hai trường hợp Bác đặt bút phê án tử hình đối với hai cán bộ cao cấp, mặc dầu lúc đó cũng có ý kiến là phạm lần đầu và là cán bộ cao cấp có công, nên khoan hồng. Đó là Trần Dụ Châu, đại tá, cục trưởng cục Quân nhu, ăn chặn của bộ đội trong lúc đời sống của bộ đội kháng chiến chống Pháp đang rất thiếu thốn, để tiêu xài xa phí cho đám cưới cá nhân. Đó là Nguyễn Việt Hùng, nguyên thứ trưởng bộ Nông nghiệp phạm tội ám hại vợ. Khi được hỏi ý kiến mức án tử hình, Bác đã trả lời: “Gỗ đã mục rồi không dùng được nữa, còn tiếc gì mà để”. Gần đây, Đảng và Nhà nước đã đưa ra xét xử một số vụ tham nhũng có liên quan đến một số cán bộ cao cấp, làm cho nhân dân bớt đi phần nào mặc cảm “chỉ đánh từ vai đánh xuống”. Nhưng cũng có không ít trường hợp cán bộ cao cấp tham nhũng và chịu trách nhiệm về tham nhũng, thì phải bàn lên bàn xuống rất nhiều lần. Thậm chí còn có tổ chức nhân danh này nọ đưa kiến nghị kháng án và đề nghị khoan hồng, giảm nhẹ vì có công! Mà quên đi lời nói của

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

256

Bác: “tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó, còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân”. Vậy có nên vì “cứu” một người, một số ít người (thật ra không đáng cứu) mà để mất lòng tin của dân không? Mà mất lòng tin là mất tất cả. Bởi “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người hôm qua là vĩ đại và có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Pháp luật nghiêm minh và trừng trị nghiêm khắc cũng là biện pháp ngăn ngừa và giáo dục hiệu quả nhất đối với nạn tham nhũng và kẻ tham nhũng. Bởi kẻ tham nhũng thì hầu như khó có trường hợp tự giác khai ra. Ngay trước vành móng ngựa khi mà án tù và dao kề cổ, chúng vẫn ngoan cố chống chế và chối tội. Nên việc sử dụng “vũ khí phê bình” bằng “phê bình bằng vũ khí' vẫn là cách làm chủ yếu, không thể nào khác là chặt bỏ đi cái ung nhọt của cơ thể Đảng và Nhà nước. Theo Điều lệ Đảng, thì đảng viên không được bóc lột, mà tham nhũng là thuộc siêu bóc lột, thì còn gì là đảng viên cộng sản nữa, mà còn để lại trong Đảng. Nghiêm minh về pháp luật đòi hỏi phải công bằng trong thực thi về pháp luật. Tức là không được “nhẹ trên nặng dưới”, “quan thì xử nhẹ, dân thì xử nặng”. Đối với các biện pháp khác cũng thế. Như việc kê khai tài sản riêng đối với các ứng cử viên hội đồng nhân dân xã phường, huyện, tỉnh, thành phố là rất cần thiết. Nhưng cũng rất cần làm đối với đại biểu Quốc hội và cán bộ, công chức nói chung, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp các ngành. Đó là lẽ công bằng tối thiểu và cần thiết mà pháp luật đã có./.

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Tư tưởng Hồ Chí Minh

257

Chủ tịch Hồ Chí Minh(1890-1969) trong buổi đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 oOo

Vài lời của người tạo eBook Tập sách này tuy chưa thể nêu được một cách đầy đủ về tầm vóc con người Hồ Chí Minh, nhưng mong rằng cũng đóng góp được phần nào cho bạn đọc một cái nhìn khái quát chung về tư tưởng nổi bật và con người của Bác. Bởi vì vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh là rất lớn, không chỉ đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam mà còn có ý nghĩa rộng lớn trong lòng nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Thông tin bạn cần biết Nguồn: Internet Tạo eBook bởi LAH Hà Nội 8/2006

http://www.esnips.com/web/LAHeBooks

Related Documents

Tu Tuong Ho Chi Minh
June 2020 7
Tu Tuong Ho Chi Minh
November 2019 17
Tu Tuong Ho Chi Minh
June 2020 9
Tu Tuong Ho Chi Minh
June 2020 5
Tu Tuong Ho Chi Minh
July 2020 12
Ho Chi Minh
October 2019 28