Giáo dục giá trị sống còn bỏ ngỏ
TT - Vì sao có một bộ phận giới trẻ sống vội, sống "thoáng"? Đó là vì họ bị bao vây ngày đêm bởi những hình ảnh cổ vũ cái đẹp thể xác, sự "tự tin" bằng chiếc xe đời mới hay chiếc điện thoại di động đa chức năng. Người ta thường hay đổ thừa cho văn hóa phương Tây. Thật ra phương Tây đã sụp đổ từ lâu nếu không xây dựng được những giá trị rất tích cực để chống đỡ khủng hoảng mấy thế kỷ qua. Ta thường nói "tiếp thu có chọn lọc", nhưng hình như cái đầu lọc nó chạy ngược, nên chỉ thấy những cái xấu của phương Tây lọt vào: lối sống hưởng thụ vật chất, khêu gợi xác thịt... Khủng hoảng xã hội do phát triển kinh tế, hiện đại hóa đã diễn ra hàng trăm năm trước ở các nước phát triển, và họ đã có nhiều kinh nghiệm ứng phó với cuộc khủng hoảng này. Đó là sự hình thành các ngành khoa học cơ bản và ứng dụng để tác động cụ thể vào các đối tượng xã hội là cá nhân, gia đình, tổ chức. Nếu ta biết đi trước đón đầu mà chữa bệnh bằng những liều thuốc sẵn có thì đỡ biết bao. Những chuẩn mực xưa là nhằm bảo vệ trẻ trong bối cảnh cũ. Ngày nay, cha mẹ vẫn phải biết bảo vệ mà không "cầm tù” trẻ; tình thương của cha mẹ vẫn cần thiết như thức ăn để trẻ lớn lên, nhưng phải biết cách thương mà không làm con ngạt thở. Còn ở VN? Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài giảng, dịch vụ tham vấn cho gia đình nhưng còn mang tính rời rạc, lẻ tẻ. Nên cái gọi là "Chiến lược gia đình" của Chính phủ chỉ là cái sườn nằm trên giấy ít ai biết tới. Những người có trách nhiệm tính sao đây? Giáo dục giới tính hay sức khỏe sinh sản không chỉ là dạy sinh lý hay phòng tránh thai. Giáo dục giới tính còn là giáo dục nhân cách, là dạy người. Chính qua đây bạn trẻ nhận ra giá trị con người, sự khác biệt và bổ sung nhau giữa nam và nữ, tình yêu có trách nhiệm. Ngoài ra, cần giúp các em gái vượt mặc cảm tự ti, nhầm lẫn tình yêu với việc tìm một chỗ dựa, nghĩ rằng phải "cho" để giữ người yêu. Riêng các em trai, phải dạy để các em thoát khỏi tư tưởng phong kiến, biết tôn trọng bạn mình, không lợi dụng lợi thế đàn ông để lạm dụng bạn gái.
Giáo dục trẻ ngày nay không nhằm dạy các em vâng lời ngoan ngoãn mà giúp các em tự chủ, tự lực. Giáo dục kỹ năng sống để các em biết tự chọn lựa, tự quyết định. Nhưng không thể chọn lựa mà thiếu cơ sở là hệ thống giá trị sống phù hợp. Vấn đề giáo dục giá trị sống còn bỏ ngỏ. Rất mong những "người lớn" ngồi lại với nhau để lên một chương trình hành động ngay! Ý thức về giá trị bản thân, nền tảng của một nhân cách sung mãn và lành mạnh không thể học như học sách vở. Nó hình thành từ nhỏ trong mối tương tác với người lớn ở gia đình và học đường. Nhiều thầy cô không làm tròn trách nhiệm cũng dễ hiểu vì họ đâu được chuẩn bị để dạy người. NGUYỄN THỊ OANH Rạn nứt
Một vì vua kia thích sưu tầm ngọc quí đủ màu sắc, đủ kích cỡ, đến từ khắp nơi trên thế giới. Trong số đó, có một viên ngọc to như quả trứng. Mỗi khi đưa ra ánh sáng, nó phản chiếu đủ màu sắc sặc sỡ làm nhà vua rất say mê. Nhưng một hôm, trong lúc hãnh diện khoe cùng các vị khách quí, nhà vua đã nhận ra viên ngọc có một kẽ nứt. Ông vô cùng tiếc xót, buồn bã. Từ hôm ấy, Ngài truyền cho khắp dân gian ai sửa được viên ngọc đó y như trước sẽ được trọng thưởng. Các thợ đá quí lành nghề ra vào hoàng cung tấp nập nhưng đều lắc đầu chịu thua. Ngày kia, có người vào yết kiến và xin vua cứ để cho mình sửa chữa tùy ý. Đang lúc tuyệt vọng, nhà vua đồng ý, vì đàng nào viên ngọc cũng mất giá trị rồi. Anh thợ đá quí đem viên ngọc về, ngày đêm dùng những đồ nghề tinh xảo để
sửa chữa viên ngọc. Chẳng bao lâu, anh đem viên ngọc dâng lên đức vua. Nhà vua vô cùng kinh ngạc vì trên viên ngọc điểm một bông hồng rất xinh đẹp, được trạm trổ một cách công phu, mà cánh hoa xinh tươi chính là dấu nứt của viên ngọc trước kia. Cánh hoa hồng xinh đẹp đã làm tăng giá trị của viên ngọc lên gấp bội, bằng chứng là mọi người đều trầm trồ khen ngợi. Mỗi một lỗi lầm trong đời sống chúng ta là một vết nứt của linh hồn trong trắng. Mỗi lần gây gỗ bất hoà trong đời sống hôn nhân là một vết nứt trong tình yêu nồng nàn ngày thành hôn. Mỗi một tranh chấp, cãi cọ giữa láng giềng, bạn bè là một vết nứt trong tình bằng hữu lân bang. Chúng ta dừng bao giờ nản lòng thất vọng mỗi khi nhìn thấy những vết nứt trong tâm hồn mình, hay những rạn nứt trong tương quan với tha nhân. Nếu biết lợi dụng nó thì những vết nứt kia sẽ là khởi điểm cho một cuộc sống mới tươi đẹp hơn, khi mình biết khéo léo và kiên nhẫn sửa chữa. Tiếng vỗ tay đặc biệt !!!!!
Có một câu chuyện rất hay về Jimmy Durante , một trong những diễn viên hài nổi tiếng nhất cách đây hơn hai mươi năm . Ông được mời tham gia một buổi trình diễn dành cho các cựu chiến binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai . Ông nói với người tổ chức rằng mình rất bận và chỉ có thể tham gia chừng vài phút thôi , và nếu như họ không phiền hà chuyện ông sẽ độc diễn trong vài phút thì ông sẽ nhận lời . Tất nhiên , người tổ chức vui vẻ đồng ý ngay . Nhưng khi ông bước lên sàn diễn , điều thú vị đã xảy ra . Ông độc diễn một màn rất ngắn và dừng lại . Tiếng vỗ tay tán thưởng ngày càng to hơn khiến ông
không thể đi xuống . Rồi sau đó ông tiếp tục trên sàn diễn mười lăm , hai mươi , rồi ba mươi phút . Cuối cùng ông cúi chào lần chót và rời khỏi sân khấu . Phía sau hậu trường có người chặn ông lại và hỏi : " Chúng tôi nghĩ ông phải đi ngay sau vài phút diễn thôi . Vậy chuyện gì đã xảy ra ? " Jimmy trả lời : " Đúng là tôi phải đi gấp , tôi sẽ cho ông thấy tại sao tôi vẫn nán lại . Ông sẽ biết câu trả lời nếu nhìn vào dãy ghế đầu tiên ." Ở dãy ghế đầu tiên có hai cựu chiến binh , mỗi người mất một cánh tay trong chiến tranh . Người thì mất tay phải còn người kia thì mất tay trái . Họ cùng vỗ tay vào nhau , chính xác là như vậy , thật to và rất phấn khởi ! Tỉnh thức?
-Xin lỗi, nghe không rõ! Bạn nói chi? -Tỉnh thức. -Tỉnh thức? À, tỉnh thức. Cái này thì khó đấy… I. Tỉnh thức: Vật chất dư thừa Trong những xã hội tiên tiến, tỉnh thức không phải là một điều dễ làm, bởi vì vật chất dư thừa bao quanh khiến mình khó phân biệt đâu là thần tài, đâu là thần chết. Chuyện kể rằng có hai tên tướng cướp một hôm đi ngang qua cánh rừng, bất ngờ cả hai cùng bắt gặp một người đàn ông tuổi trung niên đang hốt hoảng bỏ chạy, tay chỉ vào trong rừng, miệng hét to, -Thần chết! Thần chết!. Thấy chuyện lạ, hai tên tướng cướp chặn người đàn ông lại, kề dao vào cổ, vặn hỏi,
-Thần chết ở đâu mà nhà ngươi vừa chạy vừa hét ầm ĩ lên như vậy? Mát hả? Hay là té giếng sâu mười tám thước? Lạ thay, mặc dù bị dao sắc chạm ngay cần cổ, người đàn ông vẫn không tỏ vẻ sợ hãi, nhưng tiếp tục chỉ tay vào rừng, tiếp tục hét to, -Thần chết! Thần chết! Thấy người đàn ông có thái độ lạ kỳ, hai tên tướng cướp liền để mặc người đàn ông một mình, rồi cả hai đi sâu vào bià rừng về hướng tay chỉ của người đàn ông. Thật bất ngờ, mới lần mò vào bià rừng được khoảng ném một cục đá, hai tên tướng cướp khám phá ra một cái hang bên trong chất cao đầy vàng bạc và kim cương. Thấy kho tàng bất ngờ xuất hiện trước mặt, hai tên tướng cướp mắt sáng ra. Rồi không ai nói ai, cả hai tên cướp thay phiên nhau đào vàng bạc, hốt kim cương cho vào những bao bố, chuẩn bị mang về thành phố. Cả hai vừa đào vàng, vừa hốt bạc, tâm hồn lâng lâng nghĩ tới ngày mai, một ngày mai tươi sáng với một kho tàng trời tặng ban cho thật bất ngờ. Sau một hồi loay hoay với kho vàng, cả hai tên cướp cùng đói bụng. Một tên mới đề nghị, -Thôi, để tao vào thành phố. Mi cứ ở đây, đào tiếp, đợi tao mua bánh mì mang về tụi mình ăn trưa nhé. Đang đói bụng, nghe bạn nói vậy, tên kia gật đầu đồng ý liền. Trên đường đi mua bánh mì ăn trưa, tên cướp thứ nhất bất ngờ động lòng tham, hắn nghĩ, ‘Thôi kệ, bây giờ mình ghé vào tiệm thuốc Bắc mua thuốc chuột nhét vào ổ bánh mì kẹp thịt. Như vậy cả nguyên một kho tàng sẽ thuộc hẳn về mình’. Nhưng cũng không ai ngờ, trong hang núi, tên cướp thứ hai cũng động lòng tham y như tên cướp thứ nhất. Cho nên, hắn bậm môi đứng nép ngay cửa hang, tay giơ cao thanh đao đợi chờ. Bởi không tỉnh thức, không nghi ngờ, tên cướp thứ nhất không chuẩn bị. Cho nên vừa mới ló đầu vào, đầu hắn rụng xuống, rơi lăn nghe kêu lông lốc trên nền đất khô. Giết chết bạn xong, tên cướp thứ hai tỉnh bơ ngồi xuống, lấy bánh mì có ướp thuốc chuột ra ăn. Nhưng bánh mì vừa kịp trôi qua cổ họng, hắn trợn mắt lên, rồi giãy đành đạch té chết nằm sõng soài bên cạnh xác đồng nghiệp còn chưa kịp lạnh. Thế là thần tài rớt mặt nạ xuống, hiện nguyên hình thần chết. Tỉnh thức? Khó đấy! II. Tỉnh thức: Giật gấu vá vai Đối với những cuộc giật gấu vá vai, tỉnh thức cũng không phải là một điều dễ thực hiện, bởi vì đời sống vật chất thiếu thốn khiến người ta cũng dễ dàng bị mập mờ lẫn lộn giữa hạnh phúc bây giờ và bất hạnh tương lai. Chuyện kể rằng tại một thôn làng có một cặp vợ chồng son. Cả hai rất hạnh phúc, nhưng chỉ tội nghèo. Bởi thế chồng phải ngày ngày vào rừng đốn củi
kiếm tiền. Vợ ở nhà xúc cá bắt tép mang ra chợ bán. Cả hai quần quật làm việc đầu tắt mặt tối, thế mà vẫn không thoát cảnh cơm trưa trộn sắn, cơm chiều trộn khoai. Nhưng mặc cho phận nghèo tiếp tục theo đuổi, hai vợ chồng rất thương yêu nhau. Tối trong khi chồng đang ngồi xếp đống củi chuẩn bị mang ra chợ bán vào sáng sớm ngày hôm sau, vợ ngồi bên cạnh ướp muối từng chú cá xúc được trong ngày. Lâu lâu hai vợ chồng nhìn nhau, cười tủm tỉm thương yêu mặn nồng. Bất ngờ, vào một ngày kia, trong khi đang vớt tép, vợ khám phá ra trong rổ lóng lánh một cục đá. Ánh sáng của hòn đá sáng lấp lánh che tối ánh bạc mặt trời nhiệt đới và cả những chú cá rô đồng lớn bằng bàn tay đang dãy dụa trong rổ. Mang hòn đá lớn bằng trái trứng chim câu về nhà, vợ nhờ người mang đi bán. Thế là bắt đầu kể từ đó đời sống của hai vợ chông thay đổi, chồng thôi phận tiều phu, vợ thôi kiếp xúc tép. Cả hai trở nên giàu có với nhà cao cửa rộng, người ăn kẻ ở tấp nập. Và cũng bắt đầu từ đó, người chồng một thời tiều phu bắt đầu đổi tính. Anh không còn tối tối quây quần xum họp với vợ trong túp lều tranh nữa, nhưng ngày đêm la cà nơi quán rượu nhà chứa… Và cũng bắt đầu từ đó, người vợ một thời xúc tép đổi hình. Chị ăn mặc sang trọng phấn son rỡ ràng, thường xuyên xuất hiện nơi sòng bạc casino… Có người còn nói chị trở nên gái gọi hạng sang… Thực hư chẳng ai biết. Tỉnh thức? Khó đấy! III. Tỉnh thức: Chốn thiền môn Trong đời sống thiền môn, không tỉnh thức cõi thiền sẽ nhập nhằng hóa ra cõi trần. Chuyện kể rằng, có nhà tu sĩ thuộc phái hành khất bình bát có lần dừng bước ngồi ăn xin dưới gốc đa đầu làng. Người trong thôn đi ngang qua, họ nhận ra gia tài duy nhất người tu sĩ sở hữu là hai cánh áo tăng và cái bình bát làm bằng gỗ. Tuy nghèo, nhưng nhà tu sĩ rất là hạnh phúc. Khuôn mặt của chàng không bao giờ thiếu vắng nụ cười. Ngày ngày ngồi dưới gốc đa, chàng lần chuỗi tâm kinh bình bát, “Xin cho con sống trọn một đời tu hành, chọn Trời làm mền, lấy đất làm giường, lấy hạnh phúc tha nhân là hạnh phúc của chính con”. Dân làng đi ngang qua, có người dâng cúng trái chuối sứ, có người dâng tặng hành khất sĩ cái bánh cam. Trẻ em rắn mặt có tên nhặt đá ném người xuất gia. Có người không hiểu đạo lý diệt ngã của môn phái hành khất, cho nên đi ngang qua mở miệng mắng, -Ơ hay chửa! Thanh niên trai tráng mặt mũi thông minh sáng láng như thế kia, tay chân vạm vỡ ra dáng người có ăn học như thế, mà lại lười biếng, không chịu đi làm! Rõ là nằm dưới gốc sung! Ai cho chi, tăng sĩ trẻ tuổi cúi đầu, tay đưa lên trước ngực theo kiểu khất sĩ, miệng nói lời cám ơn.
Bị đá ném thẳng vào người, dù là to hay nhỏ, tăng sĩ vẫn yên lặng, thân mình không di chuyển, vầng trán cao không gợn một nét nhăn, nụ cười tăng sĩ vẫn nở trên môi, nhưng đầu cúi xuống tránh những hòn đá hiểm ác ném thẳng vào mặt. Trước những lời la mắng, cự trách, người tu sĩ cúi xuống, tay chắp theo thế tâm kinh bình bát, mắt nhìn xuống nền đất, ánh mắt khoan thai tựa như Đức Phật ngự trên tòa sen. Người trong làng, có mấy lần ghé tận gốc đa mời tăng sĩ về nhà dùng bữa cơm chay dưa muối. Nhưng tu sĩ bình bát nhã nhặn cúi đầu miệng nói lời cám ơn. Ngày ngày trôi qua người tăng sĩ ngồi dưới gốc đa đã trở thành một phần đời sống của thôn làng. Sáng sáng lũ lượt kéo nhau đi ngang qua đầu làng chuẩn bị cho một ngày mới, người trong thôn nhận ra nhà tu sĩ vẫn ngồi thiền dưới gốc cây đa, ánh mắt hiền từ, nụ cười khoan dung. Nhưng bất ngờ, vào một ngày kia người trong thôn nhận ra hai bộ quần áo tăng của người tu sĩ bị chuột nhắt gặm cắn nham nhở. Ái ngại cho tình cảnh đơn chiếc của tăng sĩ, có người quay về nhà mua tặng tăng sĩ hai bộ áo tăng mới. Nhưng tu sĩ lắc đầu, chỉ xin mượn kim chỉ khâu vá lại những chỗ rách. Nhận ra những chú chuột nhắt là nguyên nhân chính tạo ra tình trạng cơ hàn lại thêm cơ hàn của tăng sĩ, có người chạy về nhà kiếm chú mèo mang lại tặng. Người này thông minh lanh lợi, ông không biếu tặng tăng sĩ một con mèo béo mập khỏe mạnh, mà là một chú mèo gầy đói ốm yếu nhưng hay bắt chuột. Dưới gốc cây đa, tăng sĩ nhìn chú mèo, thoạt tiên, chàng từ chối, viện lẽ ông thuộc về giới hành khất bình bát, không có quyền sở hữu bất cứ điều chi ngoài hai bộ y phục tăng sĩ và bình bát. Nhưng người chủ nhân của chú mèo ốm đói nói, -Bạch thầy! Thầy nói đúng lắm. Nhưng con chỉ gởi tạm thầy chú mèo ốm đói nhờ phúcc của thầy chăm nom dăm bữa nửa tháng mà thôi. Sau đó, con sẽ quay lại, xin lại chú mèo. Nhận ra chú mèo gầy gò, ốm đói, bệnh hoạn, miệng kêu meo meo đói sữa, lòng từ tâm của tăng sĩ bình bát nổi lên, thế là chàng miễn cưỡng gật đầu. Từ ngày có sự xuất hiện của chú mèo, chuột nhắt không còn dám lai vãng dưới gốc đa để cắn xé quần áo của tăng sĩ nữa. Nhưng cũng bởi có sự xuất hiện của mèo mướp hay chuột, tăng sĩ bắt đầu phải đảo mắt tìm kiếm lương thực cho chú mèo. Nhận ra điều đó, có người trong thôn sáng chiều ghé vào dâng cúng thiền môn hai chén sữa cho chú mèo. Thế là xong xuôi một mối lo! Ngày một ngày hai tiếp tục trôi qua, người biếu sữa cho chú mèo có chuyện
phải rời bỏ thôn làng đi lên kinh đô làm ăn trong vòng một thời gian dài. Thôi thì cũng là nhất cử lưỡng tiện, ông liền quyết định mang con bò sữa lại gửi thiền sư gốc đa nhờ trông nom. Như thế chú mèo cũng có sữa, mà tăng sĩ cũng có thêm miếng sữa tươi uống hằng ngày. Nhìn chú bò, tăng sĩ không nói chi, miệng tiếp tục lời tâm kinh bình bát. Bây giờ đã có nguyên một chú bò sữa quẩn quanh bên gốc đa, tăng sĩ bắt đầu phải đảo mắt nhìn quanh quẩn tìm kiếm cỏ khô. Bởi thế tăng sĩ không còn ngày ngày ngồi thiền dưới gốc đa nữa, nhưng sáng sớm chiều tối, chàng phải bỏ những buổi công phu tâm kinh bình bát đi quanh quẩn tìm kiếm cỏ khô cho chú bò sữa. Nhận ra tình trạng lúng túng của tăng sĩ, dân làng hội họp lại, và họ quyết định gửi tới gốc đa một người phụ nữ nhà nghèo cùng đinh khố rách, không công ăn việc làm để trông coi chú bò sữa cho nhà thiền sư. Thôi, thế cũng coi như là làm việc bác ái, một công hai việc, vừa là làm phúc cho cô gái, vừa là tiếp tục giúp nhà tăng sĩ không phải mất thì giờ công phu tu hành đi làm công việc dẫn bò ăn cỏ. Người trong thôn làng nhận ra đây là lần đầu tiên, khi nhận ra cô gái chăn bò sữa đang đứng trước mặt, vầng trán tu sĩ cao rộng thoáng gợn lên một đường hằn. Nhưng chàng không nói chi, tay chỉ ra phía sau. Thôn làng hiểu ý, người ta liền cất lên một ngôi nhà tranh nho nhỏ cho cô gái chăn bò sữa ở phía xa xa. Ngày tháng trôi qua, đời sống của người trong thôn làng và người tăng sĩ gốc đa quay trở lại những nhịp điệu bình thường. Người trong thôn không còn phải lo cho tu sĩ nữa, bởi có người một phụ nữ đã được thôn làng cắt cử đặc trách công việc chăm sóc cho tăng sĩ. Tăng sĩ tiếp tục chăm chú vào những lời tâm kinh bình bát, bởi chàng không còn phải xao lãng và chia trí bởi những đường áo rách, bởi những chén sữa sáng chiều cho chú mèo, bởi những bó cỏ khô cho chú bò. Tất cả những điều đó, cô gái dưới túp lều tranh ở phía xa xa đã làm hộ chàng. Tháng năm trôi qua, vào một buổi sáng, người trong thôn làng giật mình khám phá ra tăng sĩ không còn ngồi dưới gốc cây đa nữa. -Ủa, tăng sĩ đi đâu rồi? -Chắc là ông ấy lại cất bước lên đường viễn du với lời kinh bình bát của ông ấy rồi. Trong khi người ta đang bàn tán về tăng sĩ bình bát, có người chỉ vào túp lều tranh, - Trời ơi! Tưởng ổng đi đâu. Nhìn kìa! Mọi người quay về hướng tay chỉ, ai cũng nhận ra tăng sĩ bình bát vừa từ trong
túp lều tranh mở cửa đi ra. Chàng không còn mặc áo tăng sĩ nữa, nhưng trên người là một bộ áo bà ba màu nâu, cổ chàng quấn khăn rằn ri. Người đàn ông có một thời sống đời tăng sĩ bình bát mỉm cười, giơ tay chào mọi người trong thôn. Sau đó, chàng chậm rãi đi lại phía con bò, mở dây cột, rồi chậm rãi dẫn chú bò sữa đi ra ngoài cánh đồng. Tỉnh thức? Khó đấy!
Suy Niệm Cuộc đời là một giây chuỗi dài của những giây phút tỉnh thức nhận chân ra hạnh phúc bây giờ.
Nghiệp
Nghiệp được dịch từ chữ phạn "Karma", nghĩa là hành động lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Thói quen đó gọi là nghiệp. Ví dụ giáo viên dạy học, dạy từ năm này qua năm khác, được gọi là nghề giáo và những người làm cùng nghề thì gọi là bạn đồng nghiệp. Nghiệp là việc làm của chính mình, mình làm chủ và tạo tác thàng thói quen rồi cũng chính mình thừa nhận hậu quả do nó đưa tới. Kinh Phật dạy: "Chúng sinh làm chủ tạo nghiệp và thừa kế cái nghiệp mà mình đã tạo." Không do ai khác ngoài mình. Chúng ta từ thuở nhỏ sinh lớn dần cho tới chín mười tuổi đâu ai có mắc bệnh
nghiện rượu, ghiền trầu hay ghiền thuốc... Thế mà từ 15-16 tuổi cho đến già do sự tập tành thành thói quen, người thì nghiện rượu, người thì nghiện thuốc, kẻ thì ghiền á phiện... Đứa trẻ 15-16 tuổi thấy người lớn cầm thuốc hút nhả khói phì phà tưởng đó là oai là sang nên bắt chước hút, thành thói quen rồi ghiền thuốc. Lúc mới tập hút thì mình làm chủ, thích hút thì hút, không thích hút thì thôi, nhưng hút nhiều lần dần dần thành thói quen, thiếu thuốc thì khó chịu, ngáp, buồn, phải đi mua về hút. Vậy khi đã nghiện rồi thì không còn làm chủ nó nữa mà nó làm chủ ngược lại mình, sai sử mình làm theo thói quen ưa thích đó. Vậy, nghiệp là cái chúng ta tự tạo, chúng ta làm chủ tạo thành thói quen, khi thói quen thuần thục thì nó làm chủ dẫn dắt sai sử chúng ta. Nếu chúng ta tập thói quen làm thiện thì được dẫn dắt tiếp tục làm việc thiện, nếu chúng ta tập thói quen làm việc bất thiện thì bị dẫn dắt tiếp tục làm việc bất thiện. Chẳng hạn, người mỗi chiều đi chùa, tụng kinh lâu dần thành thói quen, một hôm tới giờ tụng kinh không đi cảm thấy thiếu, thấy buồn, có một động lực thôi thúc bắt phải đi chùa tụng kinh. Còn người khác, mỗi chiều đi quán uống rượu. lâu ngày thành thói quen nên ghiền, tới cử đi uống rượu, không đi thì cảm thấy bứt rứt khó chịu, ngáp dài, có một ma lực cứ thôi thúc sai khiến tới quán để uống rượu. Người đi chùa tụng kinh tập thành thói quen đó là nghiệp thiện, đưa tới sự an vui lợi ích cho bản thân mình. Người đi quán uống rượu tập thành là nghiệp ác, đưa tới nghèo thiếu, bệnh hoạn kém trí tuệ. Vậy, nghiệp phát xuất từ đâu? Nếu thân tạo tác thiện đó là nghiệp thiện của thân, thân tạo ác đó là nghiệp ác của thân. Miệng nói điều lành là nghiệp thiện của miệng, miệng nói lời hung dữ là nghiệp ác của miệng. Ý nghĩ tốt là thiện nghiệp của ý, ý nghĩ xấu là nghiệp ác của ý. Đó là sự xuất phát từ thân khẩu ý. Như vậy, tạo nghiệp chủ động là mình, hạnh phúc hay đau khổ do mình chủ động trọn vẹn, chớ không do ai khác, ngay Phật trời cũng không dự phần trong đó. Như vậy, chúng ta là chủ tự chọn lấy hướng đi cho chúng ta mai sau, nếu khôn ngoan đã chọn cho mình một hướng đi tốt đẹp thì cứ theo hướng đó mà đi, chớ có thay đổi. Cũng như các học sinh sau khi đã chọn nghề và tốt nghiệp ra trường, phải theo cái nghề mình đã chọn mà sống, sướng hay khổ là tùy theo cái nghề của mình chọn. Người đời theo thói tục nông nỗi, chỉ cùng tranh chấp những việc không đâu. Sống giữa cảnh ác, sự khổ kịch liệt, con người lại siêng đem thân lo liệu để tự chu cấp. Không luận kẻ trên người dưới, kẻ nghèo người giàu, từ nhỏ đến lớn, từ gái đến trai, cùng nhau chỉ biết lo kiếm tiền của. Dù có hay không, cũng đồng một niệm ưu tư sầu khổ, chất chứa lo nghĩ mãi miết lâu ngày, bị tâm sai sử không lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, trâu ngựa gia súc, của tiền tôi tớ, y phục, uống ăn, vật này món nọ... Lại cũng cùng nhau khổ tâm lo lắng, tư lự chất chồng, nghĩ ngợi bông lông, sầu ưu sợ sệt. Chợt đâu vô thường xảy đến, nào là con hư phá sản, hoặc là chủ nợ phanh phui, lửa cháy, nước trôi, giặc giã cướp đoạt, sự nghiệp tiêu ma, của cải tan nát, gặp
lúc như thế lòng dạ xốn xang, phần thì lo buồn, phần thì căm tức không lúc nào nguôi, kết hận trong lòng chẳng lìa lo khổ, tâm tình giữ chặt, buông bỏ không xong. Hoặc ăn ngồi không phá nát gia nghiệp, thân hoại mạng chung bỏ lại tất cả ra đi một mình. Từ người quyến quý đến kẻ phú hào, ai ai cũng có những hoạn nạn ấy, lo sợ muôn bề, cần khổ biết bao. Bởi vậy kết thành các chứng lạnh nóng, tự mình đau đớn sống trong cảnh ấy. Người nghèo hèn kém sự khổ càng hơn, khốn đốn cả đời, túng thiếu quanh năm, không ruộng ước ruộng, không nhà ước nhà, trâu ngựa gia súc, tôi tớ, tiền của, áo cơm mọi vật, lo nghĩ ước mong, muốn sao cho có. Lo được thứ này, thấy thiếu thứ khác, có đó thiếu đó, muốn bằng như người nhưng nào dễ được, vừa có sơ sài lại tiêu tan hết, thế rồi khổ sở lo âu, nghĩ cách tìm cầu, mong cầu không được, tư tưởng bâng quơ, thân tâm mệt nhọc, đứng ngồi chẳng yên, lo nghĩ không thôi, đắng cay là thế. Vì vậy kết thành các chứng lạng nóng, phải sống với cảnh bệnh hoạn đớn đau, kết thúc cuộc đời khi còn son trẻ. Lúc còn khỏe mạnh chẳng khứng làm lành, tiến tu đạo đức, thác rồi một mình đến chốn xa xăm, hoặc lên hoặc xuống, lành dữ đôi đường nào ai hay biết. Người giữa thế gian, nếu quan hệ nhau trong tình tân thiết, giữa cha với con, giữa anh với em, giữa vợ với chồng, hoặc giữa bà con nội ngoại với nhau, phải nên kính mến đừng ganh ghét nhau. Kẻ có người không cùng nhau cảm thông, cùng nhau san sẻ. Chớ vì của cải mà sanh tham tiếc. Lời nói, sắc mặt thường nên vui hòa, tránh việc bất hòa chống cãi lẫn nhau. Khi tâm hơn thua, có chỗ tức giận, thì mầm oán thù ngay đó phát sanh. Đời này nuôi mối hận hờn ngấm ngầm, ganh ghét lẫn nhau, đời sau càng thêm sâu sắc quyết liệt, đến nỗi trở thành mối đại oán thù. Tại sao như vậy? - Bởi vì sự đời day dưa không dứt. Những điều tai vạ vẫn tái diễn luôn, tuy chẳng tức thời phá gấp lẫn nhau, nhưng do ngậm độc chứa hờn thắt chặt tinh thần, tự nhiên khắc ghi vào nơi tiềm thức, chẳng thể bỏ lìa, khi sanh đời khác, đối đầu gặp nhau, đôi bên trở lai báo cừu phục hận. Sống giữa thế gian, còn vướng trong vòng yêu thương ham muốn, con người sống chết một mình qua lại một thân, cảnh khổ cảnh vui tự mình đi đến, tự mình đương đầu, không người thay thế. Nghiệp lành, nghiệp dữ biến hóa vô cùng, thì tai ương, phước lộc theo đó thay đổi. Những nghiệp dự trữ từ bao kiếp trước, lúc nào cũng chờ đưa người một mình đến chốn xa xăm, không ai thấy biết. Nghiệp lành nghiệp dữ tự nhiên đuổi theo, dẫn dắt thần thức đến chỗ thác sinh,
mịt mịt mù mù, một bề tăm tối, ly biệt lâu dài, mỗi người một ngã mong gì gặp lại, khó biết chừng nào! Ngày nay cùng nhau gặp gỡ, sao không bỏ bớt các việc, giữa lúc sức khỏe dồi dào, mỗi người gắng tu thiện nghiệp, tinh tấn độ mình độ người, để được sống lâu vô cực, không tìm đến đạo còn đợi chờ gì, còn thú vui gì? Người đời nghi nan nhiều nỗi, chẳng tin làm lành được lành, chẳng tin tu hành được đạo, chẳng tin người chết lại sanh, chẳng tin bố thí được phước, điều lành điều dữ thảy đều chẳng tin, cho rằng không có lẽ ấy. Những người như vậy chỉ ngồi một nơi, tự theo tà kiến, còn bắt chước nhau, kẻ trước người sau, cha truyền con nối. Từ đời tổ phụ vốn chẳng làm lành, chẳng biết đạo đức. Tinh thần tối tăm, ý chí bít lấp, chẳng thể nhận ra nguồn gốc sống chết, chẳng biết phân biệt nẻo dữ đường lành, cũng chẳng có người chỉ nói cho nghe họa phước, lành dữ, đua nhau tạo ác không sợ điều gì. Bởi vậy con đường sống chết cứ mãi xoay vần tiếp nối, nào cha khóc con, nào con khóc cha, anh em, vợ chồng khóc kể lẫn nhau, đảo điên một bề từ trên xuống dưới. Vô thường là gốc, tất cả đều bị lùi về quá khứ, chẳng thể bảo tồn (sự thể là vậy), nhưng dù dạy nói, mở lối dắt dẫn cũng ít người tin, do đó sống chết trôi chảy mênh mang, không hề dừng nghỉ. Những người như thế mù mờ chống chế, chẳng tin kinh giáo, chẳng biết nghĩ xa, chỉ muốn khoái ỵ Si mê theo ái dục, chẳng hiểu thấu đạo đức, chìm lĩm trong giận hờn, ham hố theo tài sắc, ngồi dững chẳng được gì, chịu khổ nơi đường ác, sống chết mãi không thôi, nghĩ thật đáng thương xót! Đến như những người xuất gia học đạo, gặp khi nhà cửa hư hao, hoặc khi cha con, anh em vợ chồng ở vào cảng huống kẻ còn người mất, lúc ấy trở lại thương nhớ không nguôi., luyến lưu ân ái, lo nghĩ buộc ràng, tim đau gan xót, đắp đổi nhớ nhung, quanh năm suốt tháng, giải tỏa không xong. Dầu nghe đạo lý, mà tâm không chút sáng tỏ mở mang, nghĩ ngợi ân nghĩa không ngoài tình dục. Sở dĩ như vậy, là vì si mê che lấp, mờ tối chẳng thông, chẳng siêng thẩm xét suy tìm phương châm chỉnh đốn thâm tâm, tấn tu đạo hạnh để dứt thế sư. lay hoay ráo riết mà hết cuộc đời, đến lúc cuối cùng chẳng thể chứng đạo, khi đó có thể kêu nài được chăng? Tóm lại những thứ rối rắm thô hèn như thế, đếu do tham luyến ái dục làm gốc. Phần nhiều những người bỏ tục xuất gia vẫn bị mê hoặc, cho nên ít người ngộ đạo chứng quả. Dóng đời vội vã, không thể ỷ lại trông chờ. Tôn ty nam nữ, kẻ trên người dưới, kẻ nghèo người giàu, kẻ sang người hèn, dầu siêng chịu khổ, cần kíp làm việc, ai cũng ôm lòng giết hại cây độc, hơi độc mịt mù. Vọng thức nổi dậy hành động ngang tàng, trái nghịch trời đất, chẳng thuận lòng người. Bản tánh tự nhiên vốn không phải ác, vì theo người trước tạo các tội dữ, tuổi thọ chưa dứt mà mạng đã tuyệt, chết đọa đường ác, nhiều kiếp
khổ sầu, xoay vần chịu khổ đến ngàn muôn kiếp không hẹn kỳ ra, thật đáng thương xót, nói không thể cùng! (Kinh Phật thuyết Vô Lượng Thọ Phật)
Những tờ 500 đồng của mẹ
Lúc tôi còn nhỏ, đi học sáng nào mẹ cũng mua cho 500 đồng xôi để ăn sáng, còn mẹ chỉ uống căng một bụng nước rồi vội vã gánh hàng đi bán rong. Ăn xôi hoài tôi chán, phụng phịu không chịu ăn nữa. Mẹ hứa hẹn sẽ đổi món ăn khác cho tôi. Sáng sớm hôm sau tôi ngửi thấy mùi thơm từ trong bếp. Tôi cằn nhằn mẹ nhưng vẫn bưng chén cơm ăn ngon lành. Kể từ đó, ngày nào món ăn sáng của tôi không cơm chiên cũng là vắt xôi nhỏ. Thấy đám bạn đi học ăn đủ thứ quà vặt tôi rất thèm, đòi mẹ cho tiền để vào trường mua thức ăn như chúng bạn. Mẹ chỉ phát cho tôi mỗi sáng 500 đồng. Tôi vô tư không biết mẹ kiếm những đồng 500 ấy khó nhọc như thế nào, mẹ không dám mua một vắt xôi cho riêng mình mà nhường cả cho tôi. Mẹ ki cóp từng tờ 500 đồng để nuôi gia đình từ gánh hàng rong nặng trĩu. Tôi lớn lên một chút, biết đi bỏ mối bánh mì, xách thùng yaourt ra ngồi ở cổng trường, góp nhặt từng tờ 500 đồng mang về cho mẹ. Tôi đã biết khóc ròng những hôm trời mưa bán ế, biết tiếc đứt ruột những tờ 500 đồng bị rách do vội vã lấy nhầm. Ngày còn bé, tôi chỉ ao ước có nhiều tiền để ăn sáng với những thức ăn ngon như chúng bạn, có áo quần đẹp như chúng bạn.
Bây giờ kiếm được tiền nhưng 500 đồng tôi cũng không dám xài phí. Tôi phung phí sao được khi mẹ còn rong ruổi ngoài đường giữa trưa nắng như đổ lửa với gánh hàng nặng trĩu trên vai. Nhiều tờ 500 đồng góp lại mẹ sẽ được về nhà sớm hơn, con đường mẹ đi sẽ ngắn hơn... Mẹ nuôi mấy chị em tôi vào đại học, nên danh nên phận bằng những tờ 500 đồng nhọc nhằn, chắt chiu. Đi học xa, mỗi lần nhận giấy báo ra bưu điện lĩnh tiền, tôi hình dung dáng mẹ gầy gò, ngồi đếm từng tờ 500 đồng góp nhặt gửi cho con mà trào nước mắt. Bây giờ khi con cái đã lớn khôn, mẹ tôi cũng đã già. Không còn gánh nổi gánh hàng rong, mẹ lại mở quán bên đường. Tôi năn nỉ mẹ nghỉ ngơi, mẹ bảo mẹ làm việc quen rồi, ngồi không sẽ buồn. Mẹ còn nói: “Mẹ ki cóp tiếp những đồng 500 cho đời sau của con”. Tôi trào nước mắt. Tôi quyết tâm thay đổi cuộc đời mình và cho mẹ bớt khổ. Tôi dành dụm được chút vốn, mở cửa hàng kinh doanh. Mẹ tôi lo lắng gọi điện lên: “Làm ăn cẩn thận nghe con, đừng ham lợi lớn, ki cóp từng đồng 500 mà chắc ăn”. Tôi cười xòa, tôi kinh doanh lớn mà mẹ làm như bán quán cóc của mẹ không bằng. Nhưng rồi tôi bị lừa một cú hầu như mất hết tất cả, tôi suy sụp hẳn, muốn buông xuôi. Những đồng tiền mồ hôi nước mắt dành dụm bao ngày bỗng chốc tiêu tan. Giữa lúc ấy, mẹ gửi người quen mang lên cho tôi 1 triệu đồng: “Thất bại rồi sẽ thành công con à! Con hãy bắt đầu lại lần nữa”. Tôi mở túi tiền của mẹ, toàn những tờ tiền lẻ mẹ góp nhặt từng ngày. Mẹ luôn bắt đầu từ những tờ tiền lẻ 500 đồng, tại sao tôi không thể, trong khi bây giờ tôi có cả triệu đồng góp nhặt của mẹ và còn kinh nghiệm, kiến thức và sức trẻ trong tôi? Tôi đã đứng lên và làm lại từ đầu. Mỗi lần gặp khó khăn, nản chí, tôi lại nhớ đến mẹ, đến những tờ 500 đồng của mẹ. Mẹ luôn gửi thư động viên tôi. Bây giờ tôi đã có một cửa hàng điện máy khang trang, việc kinh doanh tiến triển tốt. Trong quyển nhật ký của mình, tôi ép một tờ 500 đồng kỷ niệm của mẹ để nhớ lời mẹ dạy: “Hãy luôn bắt đầu cuộc sống từ những tờ 500 đồng. Nếu cố gắng con sẽ có tất cả”. NGUYỄN THỊ THU NGA (Phú Nhuận, TP.HCM) Bài đoạt giải cuộc thi Những câu chuyện làm thay đổi cuộc sống (do Tuổi Trẻ và Pantene tổ chức)
Thuật xem tướng
Nước Sở có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấỵ Trong nước xa gần đâu cũng biết tiếng. Vua Trang Vương thấy thế, vời lại hỏi: “Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế”? Người xem tướng thưa rằng: “Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem bạn của người ta mà biết đươc người ta hay, hay dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy chơi với những bạn hiếu, đễ, thuần, cẩn biết giữ phép nước, thì thần đoán người dân ấy là người hay, thân tất một ngày một vẻ vang, nhà tất một ngày một thịnh vượng. - Như thần xem cho quan lại mà thấy chơi với những bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một ích lợi - Như thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc có lỗi, nhiều người can ngăn, thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trì yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục... Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay, hay dở ”. Vua Trang Vương cho là phảị Bấy giờ kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở thành cường thịnh nhất đời Chiến Quốc. (Lã Thị Xuân Thu)
Nội lực & nghịch cảnh
Hoạn nạn nung nấu tâm can “Có con chim hằng ngày nương náu nơi cành khô của một cây đại cổ thụ giữa cánh rừng hoang.Ngày kia có trận cuồng phong làm bật gốc của cây đại thụ, bắt buộc con chim đáng thương kia vỗ cánh ngàn dặm đi tìm nơi trú ẩn khác.Cuối cùng, nó bay đến một cánh rừng khác, với những cây cối nặng trĩu hoa trái….” Một đời sống kỷ luật, với những đòi hỏi nơi bản thân và việc đương đầu với nghịch cảnh giúp chúng ta cố gắng. Thêm vào đó, chúng ta sẽ có thêm sức mạnh nếu biết tận dụng khả năng sẵn có, và cả những tiềm năng chưa được khai thác để có thể vượt qua khó khăn và nghịch cảnh – chính khi cố gắng, xoay xở để vượt qua, mà làm bật lên sức mạnh tự bản thân, đó chính là nội lực. •Nội lực là sức mạnh bên trong mà mỗi chúng ta cần có để có thể đảm nhận cuộc đời mình cách thành công . •Nội lực cũng có thể ví như khung sắt bên trong của những cây cột, chính nhờ khung sắt này đã giữ cho toà nhà cuộc đời chúng ta đứng vững không sụp đỗ. •Nội lực là chất liệu giữ cho cuộc đời mình không nghiêng ngữa, trước những bảo táp cuộc đời •Nội lực chính là sức mạnh riêng để chúng ta có thể sống độc lập, trong hành vi cũng như trong suy nghĩ, không để mình bị ai hay những gì bên ngoài cuốn lôi. •Nội lực là sức mạnh giúp ta giữ được nét độc đáo của riêng mình không đánh mất căn tính của mình. •Nội lực cũng chính là sức mạnh giúp chúng ta trỗi dậy sau những sai lầm hay sự quật ngã của nghịch cảnh. • Nội lực là sức mạnh tinh thần, nó mang nhiều dáng vẻ : nội lực chính là ý chí, sự cương quyết, sức chịu đựng, lòng kiên trì , và tính tự chủ… Nội lực là tài sản tốt nhất mà con người có thể tạo nên và chiếm hữu, không
phải chỉ vì nó bảo đảm cho thành công, nhưng bởi vì một người thiếu nội lực, ý chí yếu ớt thì xem ra luôn gắn liền với thất bại… Những người thiếu nội lực là những người bạc nhược, yếu mềm, thiếu năng lực , nơi họ không có niềm vui, và cũng chẳng có sức sống, họ sống co cụm, sợ hãi và chẳng dám làm gì. Một cuộc sống như thế thì buồn nản, đơn điệu và vô hồn, có sống cũng như chết, vì thế mà chúng ta không lạ gì khi Shakespeare nhận định rằng : “Người bạc nhược chết nhiều lần trước khi chết” Chuẩn bị hành trang cho mình vào đời với một sức mạnh tự thân, là bảo đảm cho chúng ta một tương lai thành công hay ít nhất cũng tránh bớt những thất bại. Nội lực là thứ tài sản không sợ bị ai cướp mất, như tiền bạc, địa vị và ngay cả trí thông minh cũng không đánh đổi được nó. Trái lại, với nội lực, con người có thể vượt khó trong học hành, trong nghề nghiệp, có thể tạo ra tiền, địa vị cùng uy tín và sự nể trọng. Làm sao để xây dựng nội lực ? Trước hết xin các bạn trẻ đừng chấp nhận một đời sống quá dễ dãi, quá tiện nghi, đầy đủ... “Kẻ nào tấm thân được nhàn nhã thì ý chí thường yếu ớt, hẹp hòi” Gia Ngữ Ai cũng có thể nhận thấy rằng “chính trong lửa mà sắt đã được tôi thành thép !” Nghịch cảnh chính là thầy dạy, nhưng lắm lúc ta lại từ chối cơ hội lớn lên này. “Sự thịnh vượng là một ông thầy lớn, nhưng nghịch cảnh lại là bậc thầy vĩ đại hơn. Sự đầy đủ mơn trớn lòng ta, sự thiếu thốn tôi luyện và làm cho lòng ta cứng cáp.” Hazlitt Lưu Dung, một nhà giáo, nhà văn và cũng là họa sĩ, nhưng điều nỗi bật nơi ông chính là sự quan tâm đến việc giáo dục con cái trong từng chi tiết rất cụ thể của cuộc sống thường nhật, đã có lần ông khuyến dụ con mình. Chúng ta có thể học thêm từ người cha này : “Chưa phải là thành tựu trừ phi con có năng lực nội tại, tự mình kích phát chính mình, một xung lực chủ động, liên tục vượt qua chính mình và môt tinh thần kiên trì cho tới cùng, kiên định không lay chuyển.” Thật vậy, những gì bên ngoài chỉ là tạm bợ, không an toàn và không bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta có giá trị và an vui lâu dài. Các bạn khi buớc vào đời chúng ta coi chừng bị "sập bẫy" , những cái bẫy rất hợp với nhu cầu và ước vọng của con người, nhưng không khéo thì chúng ta có
thể tự vùi lấp đời mình đấy ! Cái bẩy của tiền bạc, của chỗ đứng ... Tiền ? - Tiền có giá trị rất lớn cho cuộc sống , nhưng cũng là con dao hai lưỡi, nó có thể tạo cho con người sự dễ dãi, ươn lười; có thể đưa chúng ta vào một cuộc sống hưởng thụ, và rồi có thể sa đoạ, và sau đó là tai hoạ …!!! Nhất là tiền có thể tạo quyền lực và sức mạnh, vì thế dễ làm cho con người trở nên tự mãn, và cuộc đời xảy ra nhiều vấp váp cũng bởi cái tính khó trị này. Các bạn sẽ nói : "đời không có tiền thì còn làm được gì ? Phải, nhưng cái bẩy của nó là : để có tiền chúng ta rất nhiều khi phải hy sinh những giá trị khác... Địa vị, chỗ đứng ? – Nhiều bạn trẻ đã cố gắng xây đắp và tìm cho mình một chỗ đứng trong xã hội ; đó là bằng chứng của sự thành đạt. nhưng có ai dám bảo đảm rằng một người sẽ ở mãi vị trí cao ? Danh vọng là một cạm bẩy lớn dễ làm cho người ta bị tha hoá , biến chất đấy các bạn. Chỉ xin được nhắc các bạn coi chừng thôi !!! Trí thông minh ? – Đây là món quà rất quý giá của đời người. Tuy nhiên, nếu có trí cao mà không tận dụng thì có cũng như không. Hoặc dùng trí cao trong những việc làm bất chính thì lại càng nguy hiểm hơn. Biết bao đau thương và hũy diệt bản thân cùng người khác đều do những người thông minh gây nên như Hitler hay các tên trùm khủng bố, các nhóm làm ăn phi pháp, chèn ép đạp đỗ người khác… Xã hội đầy dẫy những người thông minh hàng ngày ngồi “tán dốc và lý sự” bên ly cà phê trong những quán cóc bên vệ đường ? Họ đã làm gì cho bản thân và người khác ? Nội lực ? - Phải, nội lực chính là gia sản mà chúng ta tự tạo cho mình. Nội lực như kho tàng được chôn dấu, không bị ai đánh cắp, cũng có thể ví nội lực như một cái phanh an toàn khi xe cuộc đời xuống dốc. Nội lực là sức đẩy như nhiên liệu, làm cho xe cuộc đời lăn bánh. Nội lực luôn giúp con người theo chiều hướng tích cực, vì thế, giá trị của mỗi người tỉ lệ thuận với nội lực họ có. Một người cha và đồng thời đã và đang là một vị đại sứ Việt nam ở nhiều nước khác nhau , có lần tâm sự như sau : “Khi tôi còn bé, nhà nghèo, mỗi sáng phải dậy thật sớm đi bộ bảy cây số với một tấm ny lông quấn quanh khi trời mưa để đến trường. Những ngày mùa đông rét lạnh ở miền Bắc thật khủng khiếp, đường xa, bụng đói, hằng ngày đi ngang qua thúng xôi của bà bán hàng trên đường đi, tôi thấy thèm quá, mỗi lần có ai đến mua, thúng xôi được giở lên, sao mùi thơm của nó tuyệt vời thế !!!. Nhưng nhờ cuộc đời niên thiếu cực nhọc ấy, tôi đã được như ngày nay. Tôi đang lo lắng cho hai con trai tôi, tôi sợ cuộc sống quá đầy đủ sẽ làm mất đi sức mạnh vượt khó của chúng… “ Nỗi lo rất chính đáng của một người cha !
“Không có việc gì có giá trị ở đời mà không đổi bằng : thời gian, lao nhọc, bị hiểu lầm, chịu đau khổ và quyết chí thành công…” V.Cousin Điều quan trọng là chính ở sự quyết chí đó. Cũng như chú chim nhỏ kia. Nếu không có trận cuồng phong làm bật gốc cây cổ thụ, mất đi nơi nương náu thì chắc chú sẽ không chịu khó cất cánh bay xa, và rồi tìm được những kho tàng mới, bầu trời mới ! Biết bao cuộc đời thành tựu và có giá trị khởi phát từ giới nghèo và giới trung lưu, từ những người chẳng có chút vốn vật chất nào trừ cái vốn nội lực ? Ngoài ra, niềm tin vào chính mình, vào người khác, vào cuộc đời hay vào tương lai, là điều tối cần mà các bạn trẻ cần đầu tư để xây dựng. vì niềm tin cũng chính là nội lực , là động lực vướn tới, để bắt tay, để lao vào những ước mơ, những dự tính… Với niềm tin đó, người ta sẽ có hy vọng và không ngại khó dấn bước vào đời với đôi tay giang rộng, để đón lấy cuộc sống với muôn màu, muôn vẽ của nó “Niềm tin tạo nên sự nỗ lực bất khuất. Đây chính là chìa khóa làm nên kỳ tích.” Chung Ju Yung Đã đến lúc chúng ta phải bỏ lối chờ đợi những quà tặng bất ngờ của trời đất, mà phải tự mình làm nên cuộc sống vì : “Cuộc sống của chúng ta đáng giá như thế nào đều do những cố gắng đã bỏ ra” Francois Mauriac
Nhà trường đang giáo dục sự phân biệt giàu nghèo
- Không phải vậy sao, khi mà:
1/ Ngay từ tuổi nhà trẻ, trẻ con đã có thể cảm nhận sự khác biệt: trường “nhà giàu” dành cho trẻ nhà giàu: bé nào cha mẹ quen biết ban giám hiệu, đóng góp, quà cáp, “bồi dưỡng” tiền nhiều cho trường, cho các cô… thì trẻ nhà giàu được cưng đặc biệt. Con nhà viên chức, thường dân có vào được trường “nhà giàu” vì nằm trong tuyến, cha mẹ ắt cũng phải biết cố gắng “bồi dưỡng” cho cô, nhưng khả năng “yếu” hơn phụ huynh nhà giàu, nên các cô cũng cười, nhưng không tươi, ánh mắt không sáng như khi đón nhận tiền, quà của phụ huynh nhà giàu!!! Bởi vậy mà tình cảm của các cô thiên về trẻ nhà giàu nhiều hơn! Lên mẫu giáo, trẻ đã có thể tự nhận thức rõ hơn được sự phân biệt của cô giáo về giàu nghèo: cô hay gọi, hay khen trẻ nhà giàu… Trẻ nhà giàu hay được “tuyển” vào những cuộc thi và được nhắc tên vào hàng “ưu tú” trong những buổi họp phụ huynh, còn trẻ nhà nghèo… lắm khi nằm trong danh sách “bị mắng vốn”! Trong cư xử của cô giáo đối với trẻ: cùng một lỗi, trẻ nhà giàu được dỗ dành, trẻ nhà nghèo bị mắng, bị phạt… 2/ Tuổi tiểu học: cũng như thế, nhà giàu bỏ tiền ra nhiều, con nhà giàu được trìu mến. Học sinh đi học thêm với thầy cô được điểm cao, đạt loại giỏi… con nhà nghèo, học sinh không đi học thêm thì mấy khi được quan tâm… Những trường điểm, trường chất lượng cao… đa phần con nhà giàu trái tuyến chiếm chỗ - vì “chi phí” nặng, con nhà nghèo ít dám bon chen (nhờ quy định về tuyến mà giàu nghèo đều có thể vào chung 1 trường) . Rồi thì cũng chính tiền bạc, quà cáp… định hình những khen chê, những ấm nồng hay ghẻ lạnh… Tiền bạc, quà cáp … định hình quyền thế: phụ huynh giàu thường được chỉ định làm hội trưởng hội cha mẹ học sinh (nay là trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh), vì có thế, những người đó mới là “trợ thủ đắc lực “ cho ban giám hiệu các trường trong việc móc túi phụ huynh: bắt đóng tiền quỹ trường, quỹ lớp, tiền xây dựng (cho nên năm nào cũng xây xây sửa sửa, có nhiều trường… cái vách tường mặt tiền còn tốt chán, đẹp chán… mà cứ đến hè là đập ra xây sửa), tiền trang bị phòng học, tiền … đủ thứ…Con nhà giàu từ lớp một được chỉ định làm lớp trưởng, lớp phó… (cán bộ lớp), rồi cứ thế mà các năm sau được duy trì đề cử… Con nhà giàu làm cán bộ lớp có quyền “hét” bạn, thậm chí đánh bạn, “tâu” chuyện gì cô thầy cũng nghe… con nhà nghèo đừng có mà cãi… Phụ huynh nhà nghèo biết thân, học sinh nhà nghèo cũng biết thân, dù cô giáo có hỏi: “Có ai muốn tham gia không?” thì sự im lặng được hiểu là không có ý kiến nào khác. Vào những ngày lễ lạt, phụ huynh nhà giàu, con nhà giàu tha hồ tung tẩy tiền quà cho thầy cô… tha hồ được đáp lại những nụ cười (không hẳn thầy cô nào cũng bằng lòng nhận, cũng cười)… Phụ huynh nhà nghèo ngại gặp thầy cô, ngại hỏi han… vì cho rằng mình không có quyền “làm phiền” thầy cô…Con nhà nghèo thì ngại đến trường vào những ngày lễ… vì trên tay mình chẳng có gì…. 3/ Tuổi trung học cơ sở: ngoài tiền bạc, thân thế cũng có vai trò thấy rõ. Tuyển sinh đầu cấp, lớp 6, là một cuộc đua ngấm ngầm cho những ai muốn vào các trường có tiếng. Qua bậc tiểu học, có những trẻ biết rằng mình chẳng giỏi đâu, nhưng nhờ tiền bạc, thế lực, sự quen biết của cha mẹ… mà cứ “giỏi” và lên lớp
trơn tru, học bạ đẹp tuyệt với với điểm 10 ở hai môn Văn Toán . Đến khi nghiễm nhiên vào lớp 6 một trường danh tiếng, thì nó biết rằng cha mẹ nó chạy chọt trót lọt. Đứa trẻ đó có thể vênh váo vì biết giá trị của đồng tiền và thế lực to, mạnh như thế nào! Rồi cũng những “bổn cũ soạn lại”: thầy cô chủ nhiệm xem lý lịch để “chọn mặt gửi vàng”… rồi con ông bà hội phụ huynh trường hay chi hội phụ huynh lớp (gọi theo tên cũ) tiếp tục được ưu ái; rồi nhờ tiền bạc, nhờ cái thế COCC, nhờ quen thân với ban giám hiệu, nhờ đi học thêm… mà khen chê mặn, ngọt, nhạt, ấm, lạnh… khác nhau… Học sinh, nhiều khi đã học cùng nhau suốt từ thời nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, nên biết rõ về nhau, cũng như về cha mẹ của nhau… nên nếu trẻ nhà nghèo đã từng biết đến những bất công, thì nay càng thấm thía: chẳng hạn có thể gặp trường hợp hai bài như nhau, nhưng 1 bài điểm thấp, 1 bài điểm cao… không hiểu vì sao (lý bề ngoài là vậy, nhưng lý bề trong là hiểu thấu: điểm thấp vì không đi học thêm)… Nhiều thầy cô (không phải tất cả) vung tay cho điểm thấp đối với học sinh không đi học thêm với mình, không ngần ngại trù dập, mạt sát bằng những lời thậm tệ đối với học sinh khó ưa … Lý do gì… học sinh đều có thể biết… nhưng không dám nói… chỉ biết cúi đầu nín lặng, nước mắt có thể nuốt vào hay ứa ra… Học sinh nói với cha mẹ hay nói với nhau cái nguyên lý của thầy cô: “ mày không biết đến tao, tao không biết đến mày; mày không cần tao, tao không cần mày”. Phải phô diễn bằng những từ ngữ như vậy mới thấy hết cái phũ phàng, đắng cay, chua chát… mà trẻ đã trải qua, thấu hiểu từ trong nhà trường… Đừng tưởng học sinh nhà giàu (dốt nát, chạy chọt – nhà giàu chân chính không nằm trong diện tiêu cực) tôn trọng thầy cô nhé: nó coi thường ra mặt … Tôi cũng chỉ muốn dừng vấn đề ở lứa tuổi trung học cơ sở mà thôi, vì tính từ lúc đi nhà trẻ là 1 tuổi, cho đến lúc rời trường trung học cơsở, trẻ đã có 15 năm được (bị) dạy trong trường. Nhà trường, thầy cô đã góp phần định nên nhân cách học sinh: học sinh trong nhà trường là “sản phẩm của giáo dục”: sau 15 năm, với lối dạy dỗ như trên, nhà trường có thực sự hài lòng về “sản phẩm” của mình? Tất nhiên, ai cũng biết, trẻ như thế nào còn là do gia đình. Mặc dù trẻ sớm sống trong một môi trường đầy sự thật phũ phàng như thế, nhưng giáo dục gia đình tốt, vững vàng, cộng thêm tấm gương sống tốt của cha mẹ, tinh thần đấu tranh vượt khó của cha mẹ, sự gần gũi của cha mẹ cùng những lời phân tích phải trái của người làm cha mẹ giúp trẻ rất nhiều trong việc cưỡng lại những sai trái, nỗi buồn, sự mất niềm tin… để vượt lên những tiêu cực đó trong nhà trường. Giáo dục gia đình có thể làm nền tảng cho bản lĩnh của con người tốt. Nhà trường, trên lý thuyết, là cùng gia đình, xã hội giáo dục, đào tạo công dân tốt. Nhưng nhà trường, trên thực tế, có khi không làm đúng và trọn vẹn nhiệm vụ của mình: lối giáo dục phân biệt giàu nghèo ít nhiều gây nên sự tàn nhẫn, tạo ra những con người tàn nhẫn – lộ liễu hay ngấm ngầm … Người ta thường hay ví: con trẻ, học trò là những trang giấy trắng. Tôi thấy giáo dục nhà trường một phần đang vẽ - tô - gạch - xóa …lên trang giấy trắng đó. Nhưng khác trang giấy
trắng, nếu vẽ (bằng bút chì) … thì có thể xóa được (có khi không sạch, không trả lại được tình trạng trắng tinh như lúc đầu), còn ... 15 năm giáo dục nhà trường đã vẽ - tô- gạch - xóa …khắc sâu những gì trong con người của học sinh … làm sao xóa được? Tôi nói vấn đề trên ở góc độ tương đối, vì ở đâu cũng có con người tốt, trong mỗi con người đều có phần tốt là gốc (“Nhân chi sơ, tính bản thiện”)…Con người không phải là cái bị để ai muốn nhét cái gì thì nhét, con người có lý trí soi sáng, có khả năng tự giáo dục … Và tôi luôn tin tưởng cái tốt thắng thế với niềm lạc quan về xã hội ta đang lột xác, vươn mình lên tầm cao cùng thế giới.. Nhưng tôi cũng không ngần ngại cảnh báo: bởi vì không phải cái tốt tự nhiên thắng thế, mà cái tốt chỉ thắng khi nó mạnh hơn cái xấu, nó trấn áp được cái xấu… VÂN TRINH
Con đường yêu thương
Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói: - Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái nón che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có. Người hành khất đáp: - Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.
Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục bước đi. Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần. Mẩu chuyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: “Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giàu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”. Cái phải cho đi khó hơn cả là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.
Xây dựng một xã hội trung thực
Một xã hội, một đất nước thực sự tốt đẹp phải được xây dựng trên nền móng của một xã hội trung thực. Chúng ta đừng mong xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh thực sự khi mà mỗi thành viên của nó không đặt vấn đề minh bạch và trung thực lên trên hết.
Khi mà trong cuộc sống hàng ngày con người lại phải ranh ma, luồn lách để tồn tại và phát triển; hiện tượng gian dối, giả tạo là phổ biến… thì ở đó, những mỹ từ văn minh, dân chủ, công bằng… chỉ là sự “giả dối” cao siêu hơn mà thôi! Xã hội tốt đẹp thực sự phải minh bạch từ cấp cao nhất xuống đến thứ dân, phải tường minh từ pháp luật, đến các thiết chế văn hóa, tôn giáo, đạo đức của xã hội. Trong xã hội trung thực, mọi người phải bình tĩnh đón nhận cả điều tốt và thói xấu mà mình đang đối diện, thậm chí phải tôn trọng cả các quan điểm đối lập với mình vì cuộc sống vốn là như vậy. Trong xã hội trung thực ấy, người dân “được nói và dám nói” hết những suy nghĩ, những điều tự thấy là bức xúc và không đồng tình về nhiều vấn đề trong môi trường xã hội mà họ đang sống. Bản lĩnh của nhà cầm quyền là biết lắng nghe và chấp nhận có chọn lọc những thông tin đa cực ấy để điều chỉnh chính sách và hành vi quản lý xã hội của mình. Một thể chế minh trị là ở đó giai cấp lãnh đạo biết tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho những người “có quan điểm ngược lại” với quan điểm chính thống của giai cấp cầm quyền. Các đời vua thịnh trị trước đây đã cho thấy rõ điều đó. Một đất nước phát triển muốn ổn định, bền vững phải trừng trị nghiêm khắc mọi sự gian dối, bất kể người đó là ai, vì gian dối chính là “bạn đồng hành” của tham nhũng. Cần “hình sự hóa” tất cả mọi gian dối, từ 1 lời nói, một lời khai hoặc 1 chữ ký của công dân. Chúng ta hãy xây dựng bằng được “nền tảng” trung thực đầu tiên này đã, trước khi bàn đến “đạo” hoặc các mỹ từ xã hội học khác. Lê Huệ Làm điều gì cũng cần có sự bắt đầu hay khởi đầu. Theo tác giả bài viết trên đây, muốn xây dựng một xã hội văn minh, thật sự dân chủ và công bằng thì trước hết hãy xây dựng một xã hội trung thực. Ý tưởng đề xuất ấy bắt nguồn từ việc nhận xét cuộc sống hôm nay còn nhiều sự giả dối, nói một đằng làm một nẻo hoặc thậm chí người ta chỉ cần nói đúng đường lối, chính sách nhưng khi làm thì chỉ nhằm mục đích vụ lợi cá nhân. Mà những người có thói quen gian dối như vậy lại rơi vào không ít người có chức có quyền, nhiều nhất là ở cấp trung gian, chứ người dân thường, những người lao động lại không có gì để vụ lợi và cũng không có thói quen ăn gian nói dối. Tạo ra những thiết chế cần thiết để loại trừ mọi sự gian dối, xây dựng bằng được cơ chế quản lý dân chủ, công khai, minh bạch từ trung ương đến cơ sở chính là những việc làm cần thiết để xây dựng một xã hội trung thực.
Đầu tư cho tâm hồn
Đây là bài nói chuyện của Didi Sudesh về “sự giàu có nội tâm”, theo lời mời của Trung tâm các giá trị cuộc sống ( 85 Phó Đức Chính, Q.Bình Thạnh, TP.HCM) . *Thưa bà, nội tâm là gì? Tâm hồn được hiểu như thế nào? Bà Didi Sudesh: cơ thể tôi không biết cảm nhận vui buồn hân hoan, thất vọng…mà chính là nội tâm. Cơ thể là chiếc xe, còn nội tâm là tài xế. Năng lượng sống là chủ nhân cơ thể. Sự giàu có nội tâm là một năng lượng vô hình. Khi ta đối mặt với một tình huống, nếu ta không có sự thu xếp, chuẩn bị trước, ta sẽ hoang mang và đặt ra nhiều câu hỏi, lãng phí năng lượng, cạn kiệt “tài khoản”đầu tư nội tâm. Bạn chi tiêu năng lượng quá nhiều vào bên ngoài để có nhà cửa, địa vị, chức vụ…thì sẽ là không công bằng nếu bạn không chịu chi tiêu năng lượng cho tâm hồn của bạn. Nếu được hỏi “ bạn là ai?”, bạn trả lời thế nào: vị lãnh đạo, giám đốc, hay một ông bố, người chồng…đó chỉ là những vai diễn của bạn. Còn thật ra, bạn chính là những gì bạn nghĩ và đó là nội tâm. Nếu không biết mình là ai, bạn sẽ sử dụng sai nguồn năng lượng sống: bình an trở thành bất an, tự trọng thành kiêu căng, hài lòng thành tham lam, yêu thương thành sở hữu… “tài sản”của bạn bị biến chất, gây ra thiệt hại cho bản thân và người khác. *Nhiều người rất hăm hở đầu tư vào kinh doanh, vào thị trường chứng khoán… nhưng đối với nội tâm, họ lại thờ ơ? Bởi họ nhìn thấy rất rõ lợi nhuận của kinh doanh, nhưng không biết trong lòng họ có tài sản lớn. Nếu họ làm cho khối tài sản này phát triển, họ sẽ bớt nhọc nhằn tìm kiếm sự giàu có từ bên ngoài. Khi tôi nói chuyện với giới doanh nhân, họ thường đặt câu hỏi : “Chúng tôi luôn bị căng thẳng và những lúc đó, không thể nào giữ nỗi bình tĩnh”. Một người lính trước khi ra trận, phải tập bắn vào bia, chứ không phải đợi đến lúc gặp kẻ thù mới tập bắn. Nếu bạn có sự đầu tư
kĩ lưỡng cho tâm hồn, bạn đâu phải khổ sở vì stress. Thành công thật sự luôn liên quan đến sự giàu có nội tâm. *Những điều gì được coi là của cải của nội tâm ? Đó là kiến thức. Kiến thức tạo cho chúng ta sự hứng thú để ứng dụng những gì ta biết vào cuộc sống. Mỗi người phải tự biến mình thành “một phòng thí nghiệm” để tích lũy kinh nghiệm. Kinh nghiệm giúp bạn có năng lực, có kĩ năng, có nhận thức và không quên kiến thức đã học. Đó là những đức hạnh ở trong chúng ta . Tuy nhiên, chúng phải được đưa ra sử dụng trong mối quan hệ xã hội, với thiên nhiên thì mới thành phẩm chất, nếu cứ giữ mãi trong lòng, chúng cũng chẳng có giá trị gì cả . Bạn có tiền trong ngân hàng, nhưng có lúc cần tiêu xài bạn không biết cách rút tiền ra, thì bạn vẫn là người nghèo. Một người giàu có nội tâm là người có khả năng sử dụng bất cứ phẩm chất nào của mình khi dùng đến. Chỉ có trong giao tiếp với người khác, bạn mới bộc lộ ra nội tâm của mình tẻ nhạt, nghèo nàn, hay phong phú; bạn mới biết rõ mình yêu thương , tôn trọng hợp tác… với người khác là chuyện dễ dàng hay khó khăn.Bạn muốn hiểu sự phong phú của nội tâm, thì trước hết phải nhận thức được nó, đào xuống tận sâu thẳm trong tâm hồn bạn, như một người đi khai thác đá quý. Đá quý không bao giờ nằm ngay trên bề mặt mỏ. Những suy nghĩ “lung tung lộn xộn, tiêu cực , lãng phí” sẽ tràn đến như nhũng lớp đất đá muốn đè nát bạn. Tâm trí của ta luôn bận rộn, không thể không suy nghĩ, ngay cả lúc bạn nghĩ là mình “không suy nghĩ gì hết” cũng là một suy nghĩ. Nếu bạn muốn bình an, bởi đầu óc không chịu được sự trống rỗng, một tâm hồn có đầu tư là một tâm hồn bình an. *Nhiều người phụ nữ sẵn sàng ban phát tâm hồn giàu có cho người ngoài, nhưng ở trong nhà, họ bị người thân làm cho bực bội đến kiệt sức. Họ nhận ra người mình yêu thương mới làm cho mình đau khổ. Bà nghĩ sao? Nhưng đừng bao giờ dạy người trong gia đình, vì người trong gia đình không bao giờ chịu học từ một ngừoi trong gia đình. Nếu bạn cố dạy thì phải bằng tấm gương, chứ không phải lời nói. Mình như thế nào, thành viên trong nhà biết hết, hiểu hết rồi…bạn sẽ còn đau khổ khi còn kì vọng vào người thân, mong đợi họ theo ý mình. Khi mọi người trong nhà nhìn ra thế mạnh, điểm tốt của nhau, thì thái độ của mỗi người sẽ trở nên tích cực. *Có không ít bà mẹ khăng khăng: “ Tôi phải lo đủ thứ: học phí cho con, giá cả tăng, công việc nhà bề bộn, đâu có rảnh để làm giàu nội tâm, phải chờ cho con tôi lớn đã”. Họ nói vậy có đúng không? -Nếu không có sức mạnh nội tâm, bà mẹ luôn sống trong tâm trạng sợ hãi, và cũng không giải quyết được gì. Tâm trí lo âu khiến họ không chắc chắn quyết định của mình đúng hay sai, lại càng lo lắng hơn. Họ hay hỏi thời gian đâu vì không biết rằng trong lúc nấu cơm, đi chợ, giặt đồ…họ vẫn tích lũy được cho mình sự bình an và khám phá những giá trị của bản thân. Nếu họ căng thẳng, mệt mỏi thì bữa cơm họ dọn lên cho gia đình cũng…mất hết dinh dưỡng. *Người phụ nữ có chồng ngoại tình, có thể tha thứ nhưng không thể quên được. Vì sao? -Khi bạn có một vết thương trên thân xác, bạn nhẹ nhàng với nó hay cào cấu cho nó lỡ loét ra? Bạn không thể chờ đến lúc kiếm cho mình một ông chồng chung thủy thì mới yên tâm hưởng hạnh phúc. Hãy học cách chăm sóc vết
thương trong tâm hồn, nhỏ nhẹ với nó, như đối với vết thương thể xác. Nhiều phụ nữ cảm thấy chịu đựng tích cực là khi bạn biết điểm yếu của ông chồng, và coi đó là “bệnh”của ông ta.Để sau đó, bạn là một “bác sĩ”chữa lành cho ông ta. Trường Sơn (thực hiện)
Những đôi dép chuối
Nguyên Hoàng Tôi sống trong một căn nhà nhỏ, phía Đông giáp với biển. Quanh nhà tôi là một rừng chuối xanh biếc màu lá. Trường cấp I cách nhà 20 cây số. Mỗi ngày, tôi đều phải thức dậy từ tờ mờ sáng, đeo cái túi vải cũ Má khâu chéo qua vai, lầm lũi bắt đầu chặng đường dài đi bộ của mình. Vừa đi, tôi vừa lẩm nhẩm học bài, có khi hát hay kể chuyện một mình cho đỡ buồn, đỡ sợ. Đi miết rồi cũng quen, cũng tới. Nhưng khi tan học, chặng đường về thật khủng khiếp. Mặt trời lúc này đã lên tới đỉnh sào và trảng cát trắng rộng mênh mông, mát lạnh lúc đi giờ đã trở thành một cái chảo khổng lồ nóng rát. Để chạy được qua đó, chân tôi phải phồng rộp lên , mỗi lần bàn chân chạm xuống mặt cát là mỗi lần muốn chảy nước mắt, đau đớn tưởng kéo dài mãi không thôi. Ước mơ đầu tiên trong đời, tôi dành mơ một đôi dép nhựa. Nhưng Má tôi nghèo lắm, người không đủ tiền sắm dép cho tôi. Thay vào đó, người làm cho tôi một đôi dép chuối. Đôi dép là hai miếng bẹ chuối còn xanh cắt vừa chân, thêm sợi dây chuối khô chằng qua lại làm quai dép. Má dặn tôi bọc kín đôi dép lại, buổi sáng đi qua trảng cát, bới cát dưới một bụi cỏ lên, vùi đôi dép ở dưới để chúng khỏi khô vì nắng nóng. Trưa về, tôi bới dép lên mang, lúp xúp chạy
qua trảng cát. Bẹ chuối giúp chân tôi nguyên lành trên chảo cát nóng. Và sáng nào Má cũng dậy sớm, cắt bẹ chuối tươi làm cho tôi một đôi dép như thế, nhựa chuối chát nồng dính đầy vết trên tay Má. Một ngày, trên đường về, tôi gặp một ông bố đi chân trần cõng đứa con gái nhỏ băng qua trảng cát. Đứa con gái ríu rít kể chuyện, ông bố cũng tươi cười lắng nghe, nhưng cái kiểu bước đi dường như muốn nhảy nhổm lên vì nóng của ông chỉ có tôi hiểu: Nóng và rát chân quá. Bất giác, thay vì lẩm nhẩm hát một mình, tôi tự hỏi rằng Má tôi có giống ông bố kia không, người chịu rất nhiều vất vả vì tôi, nhưng lúc nào cũng tươi cười, dịu dàng với tôi. Sớm hôm sau, tôi thức dậy sớm hơn nữa, phụ Má làm thêm hai đôi dép chuối. Khi đi qua trảng cát, tôi vùi hai đôi dép sơ sơ để ai cũng nhìn thấy nó trồi lên. Lúc trở về, chợt thấy mừng vì hai đôi dép đã không còn ở đó. Không biết những người dùng nó có cảm thấy mát chân hơn không? Những ngày sau, cũng có khi vẫn còn ở đó hai hoặc một đôi dép, nhưng những đứa nhỏ ở cách trường một trảng cát đã bắt đầu kể cho nhau nghe về những đôi dép chuối, và rồi, ai cũng làm dép chuối để vượt cát an toàn. Nhưng dù là ít hay nhiều người đi qua trảng cát đó, bạn tin không, vẫn có những đôi dép dư được vùi sẵn để tặng cho những người xa lạ. Và bây giờ, tôi vẫn tin rằng, dù tôi có một mình, dù tôi gặp khó khăn, ở đâu đó vẫn có những đôi dép chuối của Má tôi hay của những người xa lạ tốt bụng, giúp tôi đi những bước vữa chãi trong cuộc sống này. Hãy suy nghĩ lớn hơn
The biggest men and women with the biggest ideas can be shot down by the smallest men and women with the smallest minds. Think big anyway.
Người có ý tưởng lớn lao có thể bị đánh gục bởi những kẻ suy tính thấp hèn. Nhưng dù sao đi nữa, hãy luôn nghĩ lớn Thế giới cần lắm những con người vĩ đại với nhân cách lớn, độ lượng, tận tụy, sống có nguyên tắc, những con người dám dấn thân theo đuổi những phương thức hoàn toàn mới, biết trân trọng và nắm bắt cơ hội, những người có khả năng nhìn thế giới khác hẳn so với hiện trạng của nó … Thế giới cũng rất cần những cá nhân có khả năng đưa ra ý tưởng có tính đột phá, có thể tạo nên sự khác biệt để đưa nhân loại tiến thêm những bước mới. Nhưng trớ trêu thay, những con người có ước vọng mang lại một ngày mai tươi đẹp cho nhân loại trở thành mối đe dọa và nỗi khiếp sợ đối với những kẻ tầm thường. Những kẻ tầm thường ấy không hẳn là người xấu, cũng không hẳn là loại người “cặn bã” cặn bã của xã hội, mà trái lại, họ có thể là những người có học thức, có địa vị, có một cuộc sống ấm no, thậm chí có người còn được tuyên dương là những công dân gương mẫu…Nhưng điểm hạn chế ở họ chính là một tầm nhìn hạn hẹp, thiển cận. Đối với họ, cuộc sống chỉ là những gì xuất hiện trước mắt, và họ hoàn toàn hài lòng với một cuộc sống như vậy. Chính vì thế mà họ không hề muốn cuộc sống ấy bị thay đổi hay xáo trộn. Dưới cái nhìn của họ, sự thay đổi chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả. Tất cả những gì họ nhìn thấy chỉ là bản thân, công việc và những mục tiêu mà họ đang cố gắng theo đuổi. Họ chỉ bám vào sự việc dựa trên hiện tượng bên ngoài của nó mà không hề hiểu lý do vì đâu nó trở nên như vậy. Họ cũng không muốn đề cập đến việc làm thế nào để mọi thứ tiến triển tốt đẹp hơn, bởi theo họ thì được như hiện tại đã là quá đủ. Với cái nhìn của một người tầm thường thì những hoài bão lớn chỉ là những ảo mộng bất thường và những ai ước mơ theo đuổi chúng là những kẻ không có đủ lý trí và sự sáng suốt để nhận ra điều đó. Người tầm thường hay nhìn nhận và đánh giá sự việc dưới góc độ cá nhân. Họ luôn tin những gì tốt cho mình thì cũng sẽ tốt cho gia đình và công việc của mình. Cuộc sống của một kẻ tầm thường luôn bị chi phối bởi những ý muốn nhất thời cũng như những nhu cầu và nỗi sợ cá nhân. Chính vì thế mà chúng ta có thể chắc chắn một điều rằng, những con người tầm thường với suy nghĩ tầm thường sẽ không thể dẫn dắt chúng ta vươn lên một tầm cao mới của thành công cũng như một cuộc sống với chất lượng ngày càng cải thiện. Đáng buồn là số lượng kẻ tầm thường bao giờ cũng nhiều gấp hàng trăm lần so với những con người vĩ đại trên thế giới này. Họ hiện diện khắp mọi nơi, thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi ngành nghề và họ có mặt trong cả những tổ chức chính phủ lẫn tổ chức phi lợi nhuận. Dù ở đâu, làm gì đi nữa, họ cũng đều cố hạ gục những vĩ nhân với những tư tưởng và ước mơ tầm cỡ chỉ để bảo vệ cho quyền lợi cá nhân của họ mà thôi. Điều trớ trêu là tất cả chúng ta, bao gồm cả những người tầm thường đó, cuối cùng đều được hưởng lợi từ những ý tưởng lớn lao. Chúng ta đều có lợi khi các khó khăn được giải quyết, sự bế tắc được khai thông, các sản phẩm mới ra đời, và những phong cách sống mới được hình thành và phát triển.
Tất nhiên, ý tưởng càng lớn thì nguy cơ thất bại càng cao, và thất bại ấy nhất định sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng hơn bình thường rất nhiều. Có thể, chúng sẽ vỡ tung như những bọt bong bóng xà phòng trước khi kịp mang lại điều gì thật sự tốt đẹp cho cuộc sống. Nhưng có ai biết được việc mình làm sẽ mang lại kết quả như thế nào, là thành công hay thất bại một khi chúng ta không dám thực hiện? Chẳng có ý tưởng nào, dù lớn hay nhỏ, có thể hiện thực hóa bằng một kiểu triển khai thiếu thiện chí, chần chừ và uể oải. Những ý tưởng táo bạo, lớn lao luôn có một sức hút đối với những con người sẵn sàng đón nhận thách thức, luôn khát khao học hỏi và nâng cao khả năng của mình. Đơn giản vì những ý tưởng đó có thể tạo ra sự khác biệt, có thể cho họ một lý do để hy vọng, một mục tiêu để phấn đấu. Còn những suy tính thấp hèn quẩn quanh trong một vòng tròn nhỏ bé sẽ không thể khiến chúng ta cống hiến hết mình, cũng không thể khơi nguồn và phát huy những khả năng tiềm tàng vẫn còn ẩn chứa bên trong mỗi con người. Một ý tưởng lớn – một ước mơ táo bạo – sẽ làm cho cuộc sống của bạn ý nghĩa hơn. Nó sẽ vạch ra một hướng đi và đặt mục tiêu để bạn phấn đấu. Nếu việc thực hiện những ý tưởng ấy bị “rơi” xuống đất, bạn chỉ cần nhặt nó lên, giũ sạch bụi bẩn và cố gắng thử lại một lần nữa. Mỗi bước chân hướng về mục tiêu thực hiện những giấc mơ đều ẩn chứa những ý nghĩ to lớn, mang lại cho chúng ta niềm tin và hạnh phúc khi được góp mặt trên cõi đời này.
Cổng thiên đàng và địa ngục
Một võ sĩ Samurai có lần đến hỏi một nhà sư tu theo giáo phái Thiền: – Thưa nhà sư, có thiên đàng không? Có địa ngục không? Nếu có thiên đàng, địa ngục thì cổng vào ở đâu? Ở đâu tôi có thể bước vào? Đấy là câu hỏi của một võ sĩ. Mà võ sĩ thì luôn đơn giản. Họ chỉ biết hai thứ:
cuộc sống và cái chết, ngoài ra, ho không cần thứ triết học nào khác. Võ sĩ này chỉ đơn giản muốn biết cổng vào ở đâu để tránh địa ngục. Nhà sư cũng trả lời theo lối đơn giản nhất để võ sĩ có thể hiểu được. – Anh là ai? – nhà sư hỏi. – Tôi là Samurai. Samurai ở nước Nhật là một danh hiệu cao quý. Điều này có nghĩa là một người lính hoàn hảo mà không bao giờ suy nghĩ về cuộc sống. Võ sĩ Samurai nói: “Tôi là thủ lĩnh của Samurai. Nhật Hoàng cũng kính trọng tôi”. Nhà sư mỉm cười trả lời: – Anh mà là Samurai ư? Trông anh có vẻ như một kẻ hành khất! Câu nói này động chạm đến lòng tự hào của Samurai. Người võ sĩ đã quên mất rằng mình đi đến đây để làm gì, liền rút kiếm để giết chết nhà sư. Nhà sư cười bảo: – Đấy chính là cổng vào Địa ngục. Với kiếm trong tay, trong cơn giận dữ – anh sẽ mở được nó. Điều này thì võ sĩ có thể hiểu ra và nhận thức ngay được. Samurai đút kiếm vào bao, còn nhà sư bảo: – Còn đây là cổng vào Thiên đàng. Thiên đàng và Địa ngục ở trong mỗi con người, và những cánh cổng – ở trong mỗi con người. Nếu ta không nhận thức được – đấy là cổng vào địa ngục. Còn nếu ta tỉnh táo và nhận thức được – đấy là cổng vào thiên đàng. Trí tuệ là thiên đàng, trí tuệ là địa ngục và trí tuệ là phương tiện để trở thành địa ngục hoặc thiên đàng. Người ta vẫn thường nghĩ rằng mọi thứ đều ở đâu đó bên ngoài mình. Địa ngục và thiên đàng không phải ở bên kia thế giới, địa ngục và thiên đàng ở đây, ngay lúc này. Những cánh cổng luôn luôn mở. Trong mọi khoảnh khắc bất kỳ ta có thể tự lựa chọn giữa địa ngục và thiên đàng.
Bề dày cuộc đời
Một năm cũ đã trôi qua, cả thế giới đang háo hức chào đón một năm mới đến gần. Sáng nay, cuốn lịch mới đã được dán lên tường. Ta ngẫm nghĩ, bề dày một năm dai dẳng sắp tới chưa bằng 10 cm? Giả sử ta sống đến 100 tuổi. Một trăm năm xếp chồng lên nhau cũng chưa đầy 10m. Mà chiều dài của những con đường, của đất nước là bao nhiêu cây số? Chu vi trái đất là bao nhiêu cây số? Cả vũ trụ bao la kia nữa..? Nhưng có những cuộc đời đã mang về vũ trụ bao la dồn vào 10m ấy. Mỗi ngày trôi qua là một ngày không vô vị, họ học hỏi, tìm tòi, khám phá. Suốt cuộc đời mình, họ đã không lãng phí bất kỳ thời gian nào. Kiến thức của họ từ đó rộng hơn, bao la hơn. Họ ngước tới những vì sao, hiểu rõ những thiên hà bất tận. Ngược lại, có những cuộc đời đã biến 10m ấy trở thành một hạt bụi vô nghĩa. Họ vẫn dậm chân tại chỗ trong khi người khác đã tiến lên xa lắm. Họ vẫn ngồi đấy trong khi người khác đã biết đứng dậy. Suốt cuộc đời, họ vẫn không hiểu được phần nào thế giới. Kiến thức của họ chỉ như một giọt nước so với cả đại dương những gì họ phải biết. Bạn ơi, chúng ta chỉ có 10m nhỏ nhoi ấy. 10m với duy nhất một lần đi qua thế giới, một lần bạn sống trong cuộc đời với bề dày chỉ vỏn vẹn 10m. Mỗi một ngày, khi đưa tay xé từng phiến lịch, là bạn đang thay đổi một phần của 10m ấy. Đổi lấy gì? Tất cả chọn lựa nằm trong tay bạn đó. Đừng để ngày hôm qua trở thành vô vị, ngày hôm nay kết thúc trong nhàm
chán và ngày mai vẫn bắt đầu như ngày hôm nay. Nếu biết chắt chiu và yêu thương từng phiến lịch, là bạn đã bước đầu không muốn làm hạt bụi vô tri. Về hưu... ở tuổi 20
Phía sau vẻ sôi động của thành thị, có bao nhiêu trí thức trẻ đang bức tử thời gian sống của chính mình? 1. Số Một đi du học về. Đám phụ nữ trong viện, từ con gái Viện trưởng đến chị bóc thư đều xao xác, anh ta đi xe bình thường, điện thoại cũng thường chỉ mỗi laptop là xịn, nhưng quả quyết đó là một @ gần như hoàn hảo. Số Một không thuộc diện du học vì trượt đại học trong nước nên đương nhiên thông minh và cấp tiến. Nhưng, ố la la, trong một viện toàn là những thâm niên lão làng mà một tay vừa trẻ tuổi, vừa ở Tây về, lại còn tỏ ra cấp tiến nữa thì rất có thể ba lần mất điểm. Này, cấp cho cậu chức phó phòng, nhé, khỏi mang tiếng chúng tớ không quan tâm lớp trẻ. Ưu tiên phòng 4C (con cháu các cụ) buôn dưa lê hảo hạng. Nhưng đề tài nghiên cứu thì nói trước cậu phải xếp hàng, mỗi năm toàn viện chỉ được trên rót kinh phí cho vài cái. Về đây phải biết uống nước chè và xếp hàng. Những đề án Số Một đưa lên đều được trang trọng buộc kỹ đặt trên nóc tủ. Số Một cảm thấy thời gian vừa vô giá, vừa vô giá trị. Một tập tài liệu được chuyển đến chậm vài phút làm anh giận dữ, nhưng cũng chính anh nhận ra cả tháng mình chẳng có việc gì làm ở đây.
Giống như vô số những “@ gần như hoàn hảo” khác, Số Một rơi tõm vào thất vọng. Từ chối hai công ty săn đầu người để trở về xây dựng đất nước là thế này à? Một thằng bạn gọi điện thoại đến cười khành khạch. Ông đang mặc áo trắng đi giữa trời mưa đấy, hoặc là ông khổ sở giữ gìn, hoặc ông cứ để cho nó bẩn, còn mình thì thưởng thức trời mưa. Anh hiểu. Nhưng anh không thể thưởng thức nổi những bài phát biểu nhạt, những đề tài không hơn một luận văn tầm tầm của SV mà tiêu tốn tiền tỷ của ngân sách, cũng không thể thưởng thức những cuộc tán gẫu xuyên tường. Tóm lại là không thể xực những thứ thiếu văn minh hoặc không đạt chuẩn, mặc dù biết rằng nếu chấp nhận nó sẽ sống dễ dàng hơn. Những ngày cuối cùng họp bạn bè anh gặp lại tâm trạng của mình - của những người “sống một nơi nhớ một nơi”. Một ông anh tiến sĩ ở Đức về lang thang đi dịch thuê vì không xin được việc. Một bà chị học ở Harvard mở quán cà phê. Số Một nghĩ đến cái viện nghiên cứu đầy ma lực bên kia đại dương nơi sẵn sàng đón chào anh trở lại. Để chấm dứt những ngày về hưu leo lét. 2. Số Hai là sinh viên nhạc viện năm cuối. Nhà cực giàu. Chơi violon đủ để đứng trong dàn nhạc. Nghĩ đến cả đời chìm khuất trong đám đông anh lại muốn học kèn. Anh đã nghĩ suốt hai năm xem có nên bỏ tám năm violon để chuyển sang học kèn lại từ đầu không, nhỡ mà vẫn đứng trong dàn nhạc thì sao. Bây giờ vẫn còn trăn trở. Tuy chưa quyết định, nhưng vì nhà giàu nên số kèn của anh thì sinh viên khoa kèn cũng phải nghiêng mình. Ban đêm không cần bật điện nó vẫn hắt đủ ánh sáng để đọc sách. Bố mẹ Số Hai có một cửa hiệu trên phố Hàng Gai trị giá khoảng nghìn cây vàng. Lợi tức hàng tháng “bà bô” tự động cho người chuyển vào tài khoản của hai anh em, thành ra anh thấy chuyện đi đánh đấm ở các quán bar nhạt hoét. Ngày ngày Số Hai dính chặt ở cà phê Hàng Hành như là nô lệ của nó. Đó cũng là thời điểm các quá cà phê, nhà hàng ở Hà Nội đầy nghẹt bọn 8X lẫn 7X. Đừng tưởng ngồi quán toàn vô công rồi nghề. Khối con bộ trưởng thứ trưởng học hành đàng hoàng nhưng vẫn thấy cuộc đời vô vị quá, vì chẳng biết làm ra tiền để làm gì. Có những buổi chiều mùa đông bầu trời màu xám và mưa không có thanh âm quán cà phê rất đông mà vẫn im lặng. Như bị bốc ra khỏi đô thị. Số Hai không buồn không vui ngồi ở café Con Ếch Xanh ở Hàng Hành nhìn sang bar Chú Khỉ Con, Đếm những khách Tây xem menu dựng trước cửa rồi bỏ đi vì chê đắt hoặc nhìn con chó tai cụp tai xoè đi tìm bạn dọc bức tường xây dở. 5 giờ chiều mấy em vè vè Dylan đến trình diễn thời trang hè phố thì Số Hai đứng dậy trả tiền. Bốn góc phòng các vest khác vẫn đang ngồi nhìn khói thuốc bay, đờ đẫn.
Vài năm nữa Số Hai sẽ chọn một em xinh tươi ngoan hiền làm vợ trong một cái nhà 5 tầng có thang máy. Cuộc đời đã được lập trình có lẽ từ lúc Số Hai chưa ra đời. Ngoại trừ không biết nên học kèn hay tiếp tục học violon anh chẳng có điều gì để suy nghĩ. Khổ thế! 2. Số Ba là một phóng viên trong một tờ báo lớn. Chuyên viết những điều tử tế, nhưng nghèo rớt mùng tơi, nhất là so với mấy tay ăn theo đề tài cướp giết hiếp. Cứ ở đâu có máu đổ là bài của anh bị bật ra để lấy chỗ. Điều này lý giải vì sao ở tòa soạn anh làm việc nghiêm túc nhất nhưng cũng là người ít hoàn thành định mức nhất. Cuối tháng lĩnh lương bao giờ anh cũng được khuyến mại thêm một cái nguýt của thủ quỹ. Bài đâu chả thấy cứ lĩnh tiền tì tì, ý chắc là thế! Anh cảm thấy lạc lõng và đơn độc. Người có tài mà vẫn nghèo, có tài mà bị bọn bất tài khinh như mẻ chứng tỏ xã hội vẫn còn quá nhiều người dốt! Anh kết luận. Mà dốt gần gũi và điển hình nhất là sếp anh. Có lần anh định lên mạng lập hẳn một cái forum mới dành riêng cho những người “ghét sếp”. Còn hiện tại thì anh vẫn chờ thời. Ít nhất là một ông sếp mới. Một ông sếp có thể hiểu được giá trị thực của những người giỏi. Tóm lại là để có một sự thay đổi anh sẵn sàng chờ 5 năm 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Công bằng thì đôi khi trong cuộc họp anh định giơ tay định nói một điều gì đó nhưng anh kịp dừng lại. Bởi vì dù sao anh cũng chỉ là một toa tàu ở giữa đoàn tàu. Nếu chạy nhanh quá, người ngoài có cớ để so chiếu tất nhiên đầu tàu sẽ không thích. Mà những toa cuối đang nhởn nhơ bỗng phải co cẳng chạy theo cũng bực mình. Đó là chưa kể sự xô lệch do anh chạy không đúng tốc độ có thể gây ra nguy hiểm cho bao nhiêu con người. Sự cố tàu Bắc – Nam 29 tiếng vừa rồi là một ví dụ nhãn tiền đó. Trong ba sáu cách tính toán, cách tốt nhất là không cộng tác với kẻ dốt. Thế là công việc - niềm đam mê của anh bỗng chốc bị hạ bệ xuống thành một chiếc cần câu cơm. Những cuồng nhiệt ham muốn của anh mủn ra. Bọn dốt nát quanh anh là thủ phạm huỷ diệt năng lực sáng tạo, hủy diệt cuộc đời anh. Bây giờ Số Ba vẫn cho là thế. 3. Số Bốn đi làm công sở. Đời công chức mà các em SV bạc mặt mơ hình dáng thế này: Sáng trang điểm rồi úp khẩu trang vào mặt. Quá trình đi làm đến đoạn tắc đường phải móc điện thoại ra nghe rồi nhìn đồng hồ nhăn mặt. Bận rộn như thể công chức mà! Đến văn phòng 8 giờ lượn qua chỗ sếp ngầm điểm danh, bật máy tính xem offline mess, đọc báo và giết chết buổi sáng bằng game Đế chế. Thế nào cũng có mấy đứa mặt vàng choé trên YM. Cà phê? Ok chỗ cũ. Sau đó là ăn trưa, tất nhiên. Bôi son dưỡng chống nẻ môi, sắp xếp lại tài liệu. Có những tuần những tháng không có sự kiện bất thường nào lọt vào thời gian biểu, một năm không có kế hoạch gì cả. Chán đọc chán hôn và cuối cùng sự đều đặn làm tê liệt luôn cảm giác về sự nhàm chán. Mỗi ngày mong đến năm
giờ chiều mỗi tuần mong đến thứ sáu. Không phải để được xả hơi mà để được sống thực cuộc sống của mình. Sự mẫn cán giả tạo làm người ta kiệt sức. Số Bốn nghĩ cô được trả lương để chịu đựng. Tệ nhất là xung quanh chẳng ai cảm thấy điều gì không bình thường. Chỉ có hai lần Số Bốn cho là mình hơi dũng cảm. Lần thứ nhất dám mơ một căn hộ trên tầng 21 khu Mỹ Đình giá 700 triệu đồng. Số Bốn sẽ mua những chậu hoa nho nhỏ đủ màu sắc treo trên ban công. Nhưng hôm sau thì cô không mơ nữa vì nhớ ra đi làm đã 8 năm, lương hợp đồng vẫn 1,2 triệu trừ mất 400.000 thuê nhà, 600.000 tiền ăn, 200.000 tiền cho 2 đám cưới. Tiền kem đánh răng P/S, xà phòng Omo và băng vệ sinh Kotex vẫn mẹ gửi ở quê lên. Lần dũng cảm thứ hai là ý định nhảy việc. Sang một công ty tư nhân để bị "bóc lột” sức lao động và thấy mình còn có ý nghĩa. Nhưng nghĩ đến cái đận đi xin việc mặt vàng ệch ra lại hãi. Hôm nọ về quê Số Bốn buột miệng ao ước “Mẹ, bao giờ con 60 tuổi như mẹ nhỉ?”. “?”. Để được về hưu thật, không phải giả vờ bận rộn”. Bi kịch, là khi cả tuổi trẻ và cuộc sống đều không còn làm cho người ta ngây ngất và muốn hành động nữa. Sự sợ hãi
Tại sao chúng ta làm tất cả những việc này: tuân lệnh, theo sau, bắt chước? Tại sao? Tại vì từ sâu thẳm trong nội tâm, chúng ta sợ hãi, không tự tin. Chúng ta muốn được ổn định, ổn định về tài chính, ổn định về đạo đức, chúng ta muốn được chấp nhận, chúng ta muốn có một địa vị ổn định, chúng ta muốn sẽ không bao
giờ phải giáp mặt với chuyện phiền phức, với đau đớn, với khổ sở, chúng ta muốn được che chở. Cho nên, sự sợ hãi, một cách có ý thức hoặc không, đã làm cho chúng ta vâng lời bậc Thầy, người lãnh đạo, vị đạo sư, nhà cầm quyền. Sự sợ hãi cũng khiến cho chúng ta tránh làm những việc có hại cho người khác, vì sợ bị trừng phạt. Vì thế, đằng sau những hành động này, có ẩn chứa lòng ham muốn sự an toàn, lòng ham muốn được bảo đảm. Bởi vậy, nếu không xóa tan được sự sợ hãi, nếu không tự giải thoát ra khỏi sự sợ hãi, chỉ vâng lời hoặc được vâng lời, thì chả có ý nghĩa là bao. Điều có ý nghĩa là làm sao để hiểu được sự sợ hãi này một cách sâu sắc, thấy được sự sợ hãi biểu lộ từ ngày này qua ngày khác, với những kiểu cách khác nhau. Chỉ khi nào chúng ta thoát ly được khỏi sự sợ hãi, chúng ta mới có được cái phẩm chất cao quý của sự thâm hiểu, cảm thông, không bị chi phối bởi những kinh nghiệm và sự hiểu biết chồng chất. Chính đó là phẩm chất trong sạch ngoại hạng trong công cuộc tìm về thực tại. Cô gái thông minh
Ngày xưa có hai anh em, một người thì nghèo, một người thì giàu. Người em nghèo đến cả cái bát ăn cơm, cái vá múc canh, cái chén uống nước cũng chẳng có. Một lần, người anh giàu có đột nhiên đến nhà người em nghèo khổ, đưa cho em một con bò sữa và nói: - Chú hãy làm việc cho tôi ít nhiều, con bò sữa này sẽ là của chú! Vì thế, người em nghèo đến làm việc cho người anh. Một thời gian sau, người anh đòi lại con bò: - Đưa con bò lại cho tôi! Người em không đồng ý:
- Anh ơi, vì con bò này, em đã làm việc cho anh mà! - Chú làm cho tôi những gì ? Thật không đáng kể ra ! Thế mà chú hãy xem, đây là con bò như thế nào? Hãy trả lại bò cho tôi ! Hãy trả lại cho tôi! Người em nghĩ: Không thể mất toi công sức được. Nói gì mình cũng không bằng lòng giao trả con bò. Thế là họ đến gặp một cụ già nhờ phân xử. Nhưng cụ già thì sao ? Cụ cũng không biết phải phân xử ra sao, cuối cùng cụ bèn nói với hai anh em: - Ai trả lời đúng câu đố của ta thì con bò sẽ thuộc về người đó. - Xin cụ hãy đưa ra câu đố, thưa cụ ! - Hãy nghe nhé: trên thế giới cái gì béo nhất, cái gì nhanh nhất, và cái gì đáng yêu nhất ? Ngày mai hãy cho ta nghe câu trả lời. Hai anh em đi về. Trên đường về nhà, người anh giàu có nghĩ: Thực là lời mê sảng hoang đường, đây, thử đoán xem ông cụ đố gì ? Có gì có thể béo hơn con lợn của ông cụ ? Có gì có thể nhanh hơn con chó săn của ông cụ ? Có gì có thể đáng yêu hơn tiền bạc ? Con bò là của ta rồi! Người em nghèo trở về nhà, nghĩ mãi mà vẫn không đoán ra. Anh có một người con gái tên là Masa, thấy cha mình về nhà với dáng nghĩ ngợi, cô hỏi cha: - Bố ơi, bố có gì buồn bã thế? Ông cụ đã nói những gì ạ? - Ông cụ đưa ra những câu đố như thế thật là bảo người ta vắt óc ra suy nghĩ. - Câu đố gì hả bố? - Trên thế giới cái gì béo nhất ? Cái gì nhanh nhất ? cái gì đáng yêu nhất? - Chà, bố ơi ! các câu này dễ thôi mà ! bố cứ yên tâm nói giống lời của con là được. Ngày hôm sau hai anh em lại đến chỗ ông cụ. Ông cụ hỏi: - Thế nào, các anh đã đoán ra chưa? - Chúng tôi đã đoán ra rồi, thưa cụ. Người anh chạy đến trước, bật ra câu trả lời. - Thưa cụ, béo nhất là con lợn nhà cụ, nhanh nhất là con chó săn của cụ, đáng yêu nhất là tiền bạc.
- Ấy, ấy, ấy ! nói bậy nào ! Nói bậy nào ! - cụ già kêu lên. - Ôi, đáp án của anh không đúng! Lúc này người em mới lên tiếng: - Cụ ơi, là như thế này, không có gì có thể béo hơn mẹ Đất, Người nuôi dưỡng vạn vật trên thế gian, lại đem vạn vật làm thức ăn cho con người. - Đúng, đúng ! - ông cụ nói. - Thế cái gì nhanh nhất nào? - Nhanh nhất là ý nghĩ của con người, ý nghĩ của con người có thể theo gió đến bất cứ nơi đâu. - Đúng là như vậy. Còn cái gì đáng yêu nhất? - Đáng yêu nhất là giất ngủ say. Bất cứ ai, một khi đã ngủ say đều có thể giũ bỏ tất cả. - Hoàn toàn đúng! - Cụ già nói. - Con bò là của anh rồi ! Nhưng anh phải nói cho ta biết anh tự mình nghĩ ra hay đã có ai giúp đỡ anh? - Thưa cụ. - Người em nghèo khổ nói. - Tôi có một đứa con gái tên Masa, chính nó đã bảo cho tôi điều đó. - Có việc này ư? Ta thông minh như thế, còn cô ta chỉ là cô gái bình thường, thế mà lại đoán được câu đố của ta. Cụ suy nghĩ và quyết định thử tài cô gái này. Cụ nói với người em: - Đây là mười quả trứng gà chín, hãy đưa cho con gái anh, bảo cô ấy đem gà mẹ ấp qua một đêm phải nở ra những con gà. Sau đó đem những con gà đó nuôi lớn, rồi con gái anh hãy giết ba con quay chín mang đến cho ta ăn sáng. Sáng mai, trước khi ta ngủ dây, anh hãy mang đến đây. Ta sẽ đợi. Nếu như không làm được thì anh và con gái anh sẽ gặp rắc rối đấy! Người em trở về nhà và ân hận vô cùng khi đã đến nhờ ông cụ phân xử dùm. Nghĩ tới sáng mai, anh bật khóc. Người con gái thấy, chạy ra hỏi: - Bố ơi, sao bố lại khóc ? Lời giải đáp của con đã sai sao? - Không phải. Chúng ta gặp rắc rối rồi con ơi ! Ông cụ đưa cho con mười quả trứng gà chín, con cần phải đem trứng cho gà mẹ ấp ra gà con, yêu cầu sau một đêm gà phải nở, lại phải nuôi lớn rồi giết ba con quay lên làm bữa sáng cho ông cụ.
Cô gái sau một hồi suy nghĩ rồi đem ra một chậu cháo nói: - Bố ơi, bố hãy đem chậu cháo đến đưa cho ông cụ, bảo với ông cụ rằng ông cụ hãy đào một cái hố, đem chậu cháo trồng xuống đó, cây mạ mọc lên, khi lúa chín rồi hãy gặt lúa về, xát thành hạt gạo, nghiền vỡ ra rồi đem đến cho những con gà nở từ những quả trứng chín này ăn. Người em nghèo mang chậu cháo chín đưa cho ông cụ già và đem những lời con gái nói với ông cụ. Ông cụ nhìn đi nhìn lại chậu cháo, rồi đem chậu cháo ra cho con chó nhà mình ăn. Sau đó, ông cụ tìm một rễ cây gai đưa cho người em nghèo và nói: - Hãy cầm rễ cây gai này đưa cho con gái anh, bảo nó ngâm thật kỹ rồi phơi nắng, đập tơi, đem dệt thành một trăm tấm vải, nếu như không làm được thì lời nói kia khó mà chấp nhận được. Người em nghèo chạy về nhà, lại khóc. Con gái anh hỏi: - Chuyện gì nữa vậy bố? - Con nhìn đây, ông cụ đưa cho con một rễ cây gai, yêu cầu con ngâm vào nước rồi phơi nắng, đập kỹ và phải dệt ra một trăm tấm vải. Masa suy nghĩ rồi lấy con dao chặt một cành cây nhỏ đưa cho bố nói: - Bố ơi, hãy đem cành cây này đưa cho ông cụ, xin ông cụ hãy làm khung cửi dùng để dệt rễ gai này. Người em nghèo cầm cành cây đến gặp ông cụ, đem những lời con gái nói lại với ông cụ. Ông cụ nhìn đi nhìn lại cành cây nhỏ, rồi ném nó đi, trong lòng thầm nghĩ: “Xem ra đây đúng là một cô gái thông minh”. Ông cụ rất muốn gặp mặt cô gái, nhưng lại nói với người em nghèo: - Anh hãy quay trở về nói với con gái anh, bảo cô ấy đến làm khách nhà tôi sáng mai, nhưng phải nhớ là không được đi bộ cũng không đi xe, không đi chân không cũng không đi giày, không cần đem theo lễ vật nhưng không thể thiếu lễ vật. Nếu con gái anh không đến, chắc anh biết chuyện gì sẽ xảy ra. Người em nghèo lại trở về nhà trong tâm trạng buồn rầu. Đến nhà, anh đem lời nói của ông cụ nói với con. Nghe xong, sau một hồi suy nghĩ, Masa nói với cha: - Bố ơi ! chớ có buồn, tất cả đều tốt. Xin bố đem về cho con một con thỏ sống. Người em nghèo ra đi, đem về một con thỏ sống.
Sáng sớm hôm sau, Masa xỏ một chân vào đôi giầy rách, còn một chân đi không. Sau đó cô lại đem theo một con chim sẻ, tìm một cái xe trượt tuyết buộc vào con dê. Cô giấu con thỏ trong nách áo, con sẻ cầm trên tay, một chân để dưới đất, một chân đặt trên xe trượt tuyết - rõ ràng con dê đi bộ thay cô. Rồi cứ như thế, cô đi đến sân nhà ông già. Từ xa, ông cụ đã nhìn thấy một cô gái đi đến bèn gọi người hầu bảo: - Hãy thả hai con chó săn ra. Hai con chó săn của ông cụ chạy tới chổ cô gái, cô nhanh nhẹn thả con thỏ ra, con chó thấy con thỏ liền bỏ cô gái chạy đuổi theo con thỏ. Lúc này cô gái đã đến trước mặt cụ già, cung kính vái chào ông cụ và nói: - Thưa cụ, đây là lễ vật cháu biếy cụ. - Nói rồi cô đưa con chim sẻ cho ông cụ. Ông cụ vừa đưa tay đón lấy thì cô gái buông tay, con chim sẻ lập tức bay vọt từ cửa sổ ra ngoài. Ngay lúc ấy có hai người nông dân đến kiện nhau. Ông cụ hỏi họ: - Các anh có việc gì thế? Một người nói: - Sự việc là như thế này cụ ạ. Hai chúng tôi cùng ở ngoài đồng qua đêm, sáng sớm thấy con ngựa cái của tôi đã đẻ ra một con ngựa con. Người kia nói: - Không đúng, đó là do con ngựa của tôi đã đẻ. Xin cụ hãy sáng suốt phân xử. Nhớ tới cô gái đang đứng đó, ông cụ bèn bảo cô gái hãy thử phân xử việc này. Đứng nghe hai người nông dân nói này giờ, cô gái cũng đã nghĩ ra một cách nên liền nói: - Hãy buộc con ngựa con lại, đưa con ngựa mẹ từ trên xe xuống, thả ngựa mẹ ra. Con ngựa mẹ nào chạy về với con ngựa con thì đó chính là con ngựa đã sinh ra con ngựa con. Ông cụ nghe phải bèn làm theo lời cô gái. Kết quả là có một con ngựa mẹ chạy đến với con ngựa con, còn con ngựa kia thì đứng yên không động đậy. Ông cụ thấy cô gái thật túc trí đa mưu nên rất nể phục, tiếp đãi rất chu đáo và khi ra về đã thưởng cho cha con cô thật hậu hĩnh
Mẹ lạnh lắm phải không?
Vào một đem Giánh sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người bạn nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một mương sâu với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị . Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị bò người phía bên dưới cầu.Đơn độc giữa những chân cầu, chị đã sinh ra một bé trai. Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đưa con bé xíu, vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao tải, chị trùm vào người và kiệt sức bên cạnh con. Sáng hôm sau, một người phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy.Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà mẹ nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm.Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu,đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng.Bà đem đưa bé về và nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào một ngày lễ giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo . Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình. "Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - cậu sẽ lạnh cóng!" Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: " mẹ đã lạnh hơn con lúc này , phải không mẹ?" Và cậu bé oà khóc.
Chiếc hộp kỳ diệu
Jack là một cậu bé mồ côi. Cậu bé sống với người cô , mặc dù không nhận được sự yêu thương , chỉ là những lời la mắng , và sự keo kiệt của cô , nhưng Jack vẫn rất vui vẻ , cậu bé rất ngoan . Cậu bé tự nghĩ : " Nếu không có cô , chắc chắn cậu đã không còn được đi học rồi , và chắc chắn cậu đã trở thành đứa trẻ lang thang đầu đường xó chợ " Trong lớp , các bạn không thích chơi với Jack , một đứa trẻ mồ côi , duy nhất chỉ có một bạn , cô bé rất dễ thương , cứ mỗi lần tan lớp là cô bé ấy ở lại xếp bàn ghế lại . Jack cũng ở lại phụ bạn ấy , cả hai không nói gì với nhau nhưng cứ làm việc như vậy và cảm thấy rất vui. Giáng sinh sắp đến rồi, mọi người rục rịch chuẩn bị mọi thứ, bàn tán vế những món quà. Jack không có gì cả. Cô bé không thấy Jack còn ở lại giúp cô, tan học là cậu lại chạy về vội vã. Một hôm, cô bé hỏi cậu : -Sao cậu không ở lại nữa, cậu có biết là tớ rất vui nếu có cậu giúp tớ không? -Thật à? Tớ quan trọng với cậu như thế à? -Ừ -Vậy giáng sinh này, cậu ở lại nhé, tớ có món quà tặng cậu Giáng sinh đến, khi mọi nguời đã về hết. Jack đến bên cô bé , Đưa ra một món quà nhỏ được gói rất cẩn thận . Cô bé mở ra : -Xinh quá , chiếc hộp xinh quá. Nó dựng gì bên trong thế -Bạn cứ mở ra đi. Jack nhìn cô bạn, cười. Cô bé tò mò mở ra, thật kỳ lạ, trong hộp không hề có một cái gì hết. Đưa đôi mắt ngạc nhiên về phía Jack, cô bé hỏi: -Không hề có gì trong hộp này hết , Jack ạ? -Bạn sẽ không bao giờ thấy được nó, không nhìn thấy nó , không sờ thấy nó, không nếm được nó đâu, vì nó là tình yêu đấy, mẹ tớ đã bảo thế, bạn chỉ cảm
nhận được tình yêu thôi , mẹ đã tặng nó cho tớ, giờ tớ tặng lại cậu. Cám ơn vì tất cả. Trên chiếc đàn piano của cô bé lúc nào cũng có một chiếc hộp nhỏ nhỏ xinh xinh , mở chiếc hộp ra ai cũng thắc mắc , là một chiếc hộp rỗng . Cô bé chỉ mỉm cười và nói : "Sẽ chẳng thể nhìn thấy nó đâu , không cầm được nó đâu , nhưng nó rất quan trọng , rất đặc biệt , bởi nó là tình yêu đấy "
Dùng chó bắt chuột
Nước Tề có người xem tướng giỏi. Nhà láng giềng nhờ mua một con chó hay để bắt chuột. Một nǎm trời anh ta mới mua được, bảo nhà láng giềng: "Con chó này tốt đấy". Nhà láng giềng nuôi con chó mấy nǎm mà không thấy nó bắt chuột mới nói chuyện với anh ta. Anh ta bảo: "Con chó tốt lắm đấy. Nhưng cái chí nó chǎm bắt hươu, nai, cầy, cáo, chớ không muốn bắt chuột. Bây giờ, muốn cho nó bắt chuột thì phải cùm chân sau nó lại". Nhà láng giềng làm theo như thế, quả sau con chó hay bắt chuột. Lã Thị Xuân Thu Lời bàn: Con chó trước không bắt chuột, là vì nó có tài bắt những hươu, nai, không thèm bắt chuột; sau nó bắt chuột, là vì người ta đã cùm chân, hãm cái tài
nó lại không cho chạy nhanh quá. Cốt ý bài ngụ ngôn này nói kẻ có đại tài, mà đem dùng vào việc nhỏ, thì không được việc. Muốn cho được việc, thì người dùng tất phải biết hạn chế cái tài ấy lại. Nên người có tài mà làm được việc, hay không được việc, là cốt ở người biết dùng hay không biết dùng mà thôi. Nhưng muốn cho người có tài to làm việc nhỏ, mà phải làm cho mất cái tài to đi đã, thì chẳng đáng tiếc cho người có tài mà chẳng gặp được tri kỷ
quả chà là
Ngày nọ, có người du mục một minh ở trong sa mạc hoang vắng.Nửa đêm, cái đói cồn cào đã đánh thức ông ta dậy. Ông ta quyết định thắp lên 1 ngọn nến và đi lục tìm túi chà là cất nơi góc lều. Ông ta cầm 1 quả và đưa lên miệng cắn. Bất ngờ,ông ta thấy trong ruột quả chà là có con sâu đang nằm trong đó.Ông ta liền ném đi và lấy ra quả thứ 2. Quả thứ 2 cũng có sâu,ông ta vất đi và lấy ra quả thứ 3. Quả ấy vẫn thế, ông ta liền nghĩ: "Nếu cứ tiếp tục thấy sâu thế này thì chắc mình sẽ không còn quả nào để ăn!" Nghĩ thế, ông ta liền thổi tắt ngọn nến và ăn ngon lành tất cả những quả chà là còn lại....
Sự tích hoa Cỏ may
Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nọ có đôi trai gái yêu nhau rất thắm thiết. Nàng xinh đẹp, là con gái của một gia đình giàu có, một tiểu thư khuê các, còn chàng chỉ là anh đốn củi nghèo, mồ côi sống trong túp lều tranh xơ xác. Có không ít những người môn đăng hộ đối muốn cùng nàng “kết tóc xe tơ”, nhưng nàng chẳng cảm mến ai, vì trọn con tim đã gửi cho chàng trai chăm chỉ, thật thà, tốt bụng. Mối tình của họ không được chấp thuận, bố mẹ nàng đuổi chàng ra khỏi làng. Vì quá yêu nhau, họ bàn bạc đi đến một nơi thật xa, nơi không ai biết để cùng làm ăn sinh sống. Chàng sẽ cày cuốc thuê, nàng ở nhà trồng rau, dệt vải. Họ chấp nhận cơ cực để được sống bên nhau trọn đời. Nhưng cuộc sống cơ cực đã biến nàng từ một tiểu thư khuê các thành người đàn bà lam lũ. Nhìn người vợ trẻ rất mực yêu quý phải vất vả đầu tắt mặt tối, chàng không an lòng. Hàng đêm chàng tự dày vò, trách cứ bản thân đã không đem lại được cuộc sống đầy đủ cho vợ. Nỗi day dứt khiến chàng quyết chí ra đi làm giàu. Chàng để chút vốn liếng ít ỏi còn lại đỡ đần người vợ trẻ rồi ra đi, hẹn một năm sau trở về với cuộc sống đầy đủ, khá giả hơn. Người con gái ở nhà dệt đan, trồng rau, nuôi trong mình niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt chàng sẽ trở về. Một năm, hai năm, rồi ba năm…thời gian cứ đằng đẵng trôi đi, nàng vẫn không nhận được tin tức của chồng. Nỗi nhớ nhung cùng niềm mong mỏi làm nàng ngày càng trở nên xơ xác, héo hon. Tình yêu, niềm tin vào người chồng thật thà, tốt bụng khiến nàng quyết định đi tìm chàng
với ước mong về một ngày mai đoàn tụ. Nàng ra đi, đi đến đâu cũng hỏi về tung tích người chồng yêu quý. Biển người mênh mông bao nhiêu, đất trời rộng lớn bao nhiêu cũng không làm người con gái ấy nản lòng. Tình yêu vẫn luôn thường trực và bùng cháy trong sâu thẳm trái tim, một trái tim khát khao kiếm tìm hạnh phúc. Thế nhưng tình yêu, niềm tin và hy vọng của nàng cuối cùng chỉ đổi lại bằng những cái lắc đầu, xua tay. Nàng cứ đi, đi mãi, cho đến một ngày mệt quá xỉu lúc nào không hay. Nàng nằm xuống, trong lòng vẫn đau đáu nỗi niềm chờ mong, hy vọng. Cảm kích trước tình yêu son sắt thủy chung của người vợ trẻ, sau khi nàng chết, Ngọc Hoàng đã hóa phép biến nàng thành một loài hoa cỏ, loài hoa cỏ màu tím bàng bạc, có sức sống mãnh liệt giống như tình yêu thủy chung của nàng. Chị gió tốt bụng cảm động trước tấm chân tình của người con gái đã đem loài hoa cỏ ấy đi khắp mọi nơi trên các nẻo đường gần xa. Dù cho người con gái ấy không còn nữa, nhưng tình yêu của nàng thì bất diệt cùng tháng năm, để rồi mỗi lần có khách đi đường ngang qua, nàng vẫn cố gắng níu bám vạt áo họ để hỏi thăm tin tức về chồng. Hoa cỏ may sắc nhọn, nhức nhối một nỗi niềm đau của tình yêu trong xa cách. Hoa cỏ may Xuân Quỳnh Cát vắng, sông đầy, cây ngẩn ngơ Không gian xao xuyến chuyển sang mùa Tên mình ai gọi sau vòm lá Lối cũ em về nay đã thu. Mây trắng bay đi cùng với gió Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ Đắng cay gửi lại bao mùa cũ Thơ viết đôi dòng theo gió xa. Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may Áo em sơ ý cỏ găm dầy Lời yêu mỏng mảnh như màu khói Ai biết lòng anh có đổi thay ?
Cái gương vùng Matsu-Yama
Tại vùng núi Matsu-Yama hẻo lánh, tỉnh Echigo, có đôi vợ chồng trẻ sống với nhau. Họ sinh được một đứa con gái. Hai người rất mực thương con. Một dạo, người bố lên kinh đô có việc. Khi trở về, anh tặng vợ một cái hộp bằng gỗ trắng rất nhẵn. Mở hộp ra, chị thấy có một mảnh kim khí tròn; một mặt thì trắng như bạc khảm, điểm những nét vẽ hình chim và lá; còn mặt kia thì sáng như thủy tinh. Chị vợ xem, lấy làm thích thú và lạ lùng vì thấy trong đáy gương có một khuôn mặt xinh đẹp với đôi môi hồng và đôi mắt sáng như đang mỉm cười với mình. Anh chồng giải thích cho chị hiểu đó là cái gương. Khuôn mặt người phụ nữ trong ấy chính là khuôn mặt chị được phản ánh vào. Ở thành thị, mọi người đều có một cái như thế này, còn ở đây chưa ai trông thấy. Chị vợ say mê với món quà. Lần đầu tiên được thấy cái gương và cũng là lần đầu tiên chị thấy khuôn mặt xinh đẹp của mình. Chị đem ra dùng xong lại cất ngay nó vào hộp cẩn thận cùng với những thứ quý giá khác.Mấy năm trôi qua. con gái ngày càng lớn, giống mẹ như đúc. Cô bé rất dễ yêu, ngoan ngoãn, được mọi người thương mến. Nhớ lại mình đã có lúc kiêu hãnh vì tự biết có sắc đẹp, người mẹ bèn cất chiếc gương rất kỹ, sợ rằng con gái soi gương rồi sẽ có ý nghĩ tự kiêu. Một hôm, người mẹ hiền dịu ấy lâm bệnh nặng. Biết không còn sống được bao lâu nữa, bà gọi con gái đến gần và dặn dò : "Con gái yêu quý của mẹ, khi mẹ từ giã cõi trần này, con hãy hứa với mẹ, sớm sớm chiều chiều, soi gương này, con sẽ nhìn thấy mẹ và hiểu rằng mẹ sẽ ở mãi trong đó để phù hộ cho con". Người mẹ lấy chiếc gương đưa cho con gái. Cô gái hứa vâng lời bà rồi khóc nức nở.Từ đó, cô con gái ngoan ngoãn, không bao giờ quên lời trối trăn của mẹ. Niềm vui nhất của cô là ngắm hình ảnh của mẹ trong gương và nói rằng : "Mẹ ơi, hôm nay con đã làm được như mẹ mong muốn".
Điều thích nhất
Trong một tiết dạy vẽ, cô giáo bảo các em học sinh lớp 1 vẽ về điều gì đã làm các em thích nhất trong đời. Cô thầm nghĩ : "Chắc rồi các em cũng lại vẽ những gói quà, những ly kem hoặc những món đồ chơi, quyển truyện tranh". Thế nhưng cô đã hoàn toàn ngạc nhiên trước một bức tranh lạ của em học sinh tên Douglas: bức tranh vẽ một bàn tay . Nhưng đây là bàn tay của ai ? Cả lớp bị lôi cuốn bởi hình ảnh đầy biểu tượng này. Một em đoán: " Đó là bàn tay bác nông dân". Một em khác cự lại: "Bàn tay thon thả thế này phải là bàn tay của một bác sĩ giải phẫu...". Cô giáo đợi cả lớp bớt xôn xao dần rồi mới hỏi tác giả. Douglas cười ngượng nghịu: " Thưa cô, đó là bàn tay của cô ạ ! ". Cô giáo ngẩn ngơ. Cô nhớ lại những phút ra chơi cô thường dùng bàn tay để dắt Douglas bước ra sân chơi, bởi em là một cô bé khuyết tật, khuôn mặt không được xinh xắn như các trẻ khác, gia cảnh từ lâu lâm cảnh ngặt nghèo. Cô chợt hiểu ra, tuy cô cũng vẫn làm điều tương tự với các em khác nhưng hoá ra đối với Douglas, bàn tay cô lại mang ý nghĩa sâu xa, một biểu tượng của tình yêu thương.
Ba con rận kiện nhau
Ba con rận hút máu một con lợn, tranh nhau ăn, đem nhau đi kiện. Một con rận khác gặp, hỏi: "Ba anh kiện nhau về việc gì thế? - Ba con rận đáp: Chúng tôi kiện nhau, vì tranh nhau một chỗ đất mầu mỡ. - Con rận kia nói: Tôi tưởng các anh chẳng nên tranh lẫn nhau thế làm gì. Các anh chỉ nên lo đến con dao của người đồ tể giết lợn, ngọn lửa của bó rơm thui lợn mà thôi." Ba con rận nghe ra, biết là dại, thôi không đi kiện nữa, cùng nhau quần tụ, làm ăn với nhau, dù no, dù đói, cũng không bỏ nhau. Con lợn thành mỗi ngày một gầy, người ta không làm thịt cứ để nuôi, ba con rận nhờ thế mà no đủ mãi. Lời Bàn: Nhân dân một nước mà cứ tranh giành lẫn nhau cái lợi trước mắt, không nghĩ gì đến cái việc lâu dài cho cả toàn thể, thì trí khôn thật không bằng mấy con rận nói trong truyện nầy. Tranh nhau, cãi nhau, đánh nhau, kiện nhau, thì oan oan tương kết, lợi chẳng thấy đâu, chỉ thấy hại, hại cho một mình lại hại cho cả đàn, cả lũ nữa. Sao không biết: Sâu đục cây, cây đổ thì sâu cũng chẳng còn: trùng hại vật, vật chết thì trùng cũng hết kiếp.
Câu lạc bộ 99
Chuyện kể về một nhà vua đang đi vi hành.Khi đi ngang qua một cánh đồng,ông nghe được tiếng hát vui vẻ của một anh nông dân. Vua liền hỏi quan cận thần vì sao anh chàng nông dân ấy lại vui vẻ đến như vậy. "Vì anh ta chưa tham gia câu lạc bộ 99 đó thưa đức vua". "Câu lạc bộ 99 ư? Ta chưa từng nghe nói tới.- Đức vua nhíu mày hỏi vị quan. "Nếu như ngài muốn biết câu lạc bộ 99 là gì, tối nay ngài hãy để 99 dồng vàng trước cửa nhà anh nông dân đó" Quan cận thần trả lời. Thế là nhà vua làm theo lời của vị quan cận thần. Một thời gian sau, nhà vua lại đi vi hành một lần nữa. Và lần này nhà vua không còn nghe tiếng hát yêu đời của anh nông dân. Đến lúc này, quan cận thần mới giải thích:"Anh nông dân đó đã chính thức gia nhập câu lạc bộ 99 rồi đó vua. Anh nông dân đã ttìm thấy gói tiền vàng vua để lại trước cửa. Nhưng mà anh ta đếm đi đếm lại chỉ có 99 đồng tiền thôi. Anh ta thắc mắc : chuyện gì đã xảy ra với đồng tiền cuối cùng. Thế là anh ta dẹp chuyện ca hát qua một bên để đi khắp nơi tìm cho ra được cái đồng vàng thứ 100 đó.Thế nhưng ngài biết đấy, làm gì có cái đồng vàng thứ 100 nào" Ba điều
Ba điều trong đời một khi đã đi qua không thể lấy lại được : + Thời gian + Lời nói + Cơ hội .
Ba điều trong đời không được đánh mất : + Sự thanh thản + Hy vọng + Lòng trung thực . Ba thứ có giá trị nhất trong đời : + Tình yêu + Lòng tự tin + Bạn bè . Ba thứ trong đời không bao giờ bền vững được : + Giấc mơ + Tài sản + Thành công . Ba điều làm nên giá trị một con người : + Siêng năng + Chân thành + Nhân hậu . Ba điều trong đời làm hỏng một con người : + Dễ đổi lòng + Tính tự cao + Sự giận dữ. Sự tích hoa hồng
Ngày xửa ngày xưa thật xưa lắm, có một quốc vuơng ở tận phương trời xa xôi bên một khu rừng rộng lớn và rậm rạp. Vương quốc nầy sống thật hòa bình và yên vui sau một thời gian dài triền miên người dân phải đấu tranh để dành quyền độc lập. Và vị anh hùng chỉ huy người dân của quốc gia này đã được dân chúng tôn lên làm vị vua đầu tiên. Sau thời gian dài chinh chiến, họ chỉ lo an hưởng thái bình và sống cho những quyền lợi của cá nhân mình. Vị hoàng đế kia cũng vậy, ngất ngưỡng trên ngai vàng và hào quang của quyền vị, ông đã bỏ bê việc nước, quên cả chăm sóc cho dân và để mặc lũ bầy tôi tham danh lợi cai trị dân chúng. Vì muốn hoàng đế lảng quên với việc triều chính, bọn tham quan đã chọn một thiếu nữ đẹp tuyệt vời để vua lập làm hoàng hậu . Nhưng trái với ý muốn của bọn quan lại, hoàng hậu lúc nào cũng hết lời khuyên răn nhà vua nên lo cho dân chúng và
chỉnh đốn việc triều chính. Lũ quan lại rất ghét hoàng hậu, nhưng không làm gì được vì nhà vua quá thương yêu nàng. Cho đến ngày kia, sau một thời gian thụ thai, hoàng hậu sinh ra một đứa bé thật kháu khỉnh, dễ thương. Lạ lùng thay, thân thể của đứa bé trai đó lại trong suốt như pha lê, đến độ thấy rõ từng đường gân, mạch máu và trái tim. Thấy cơ hội đã đến, bọn tham quan bèn dèm pha với nhà vua rằng hoàng hậu là một phù thủy trá hình và tuyên truyền tin này ra ngoài cho toàn dân. Trước áp lực của bầy tôi và sự phản đối của dân chúng, nhà vua đã truất phế hoàng hậu ra khỏi hoàng cung cùng với đứa bé lạ lùng kia. Trở thành một thường dân, hoàng hậu đem con đi khỏi hoàng cung. Đi tới nơi đâu cũng bị dân chúng chửi mắng và xua đuổi. Suốt con đường tìm nơi ẩn trú, hoàng hậu đã bị bao kẻ ném đá, dùng gậy đánh đập mà chỉ biết cắn răng dùng thân thể mình để che chở cho đứa con thơ. Với bao vết thương trên mình, hoàng hậu bồng con đến khu rừng già và ngã ra vì kiệt sức. Nhìn hài nhi mới ra đời trong lúc biết mình sắp chết, hoàng hậu không biết làm gì hơn là đưa tay vuốt ve con mình vài lần, nước mắt tuôn ra và trút hơi thở cuối cùng. Đứa bé nằm bên mẹ không ai cho ăn nên khóc lên thảm thiết vì cơn đói. Tiếng khóc vang lên tận chín tầng trời làm Thượng Đế động lòng ngó xuống trần gian. Khi thấy hoàn cảnh thương tâm đó, Thượng Đế nổi giận vì lòng tàn ác của người dân vương quốc kia. Ngài bèn sai thiên thần mang đứa bé vô rừng chăm sóc cho nó lớn lên trong tình thương của thiên nhiên và muôn cầm. Sau đó, ngài ban một lời nguyền khiến cho toàn thân thể của từng người dân bị gai nhọn mọc đầy người, để suốt đời không ai được gần gủi ai cho đến khi mọi người biết thương yêu nhau. Từ đó người dân của quốc gia nầy đều mang trên mình một lớp gai, từ vua tôi cho đến hạng bần cùng. Nhưng dù cho lớp gai trên mình ngày một dài và cứng nhọn theo lòng tham ngày càng to lớn, họ cứ sống cho cá nhân mình mặc dù phải trả giá cho lòng vị kỷ đó bằng sự cô đơn khủng khiếp dằn vật tâm linh. Một ngày kia, nghe tin vương quốc này đang trở nên yếu thế, một quốc gia khác bèn đem quân sang xâm lấn lãnh thổ. Khi quân xâm lăng tràn qua bờ cõi, toàn dân trong nước ai cũng tự lo thân và trốn tránh nghĩa vụ. Nhà vua lúc đó đã lớn tuổi mà vẫn bị lũ bầy tôi tham sống sợ chết làm áp lực bắt đem một toán quân ra chiến đấu. Sức mình thì yếu, sức địch thì mạnh. Sự thất bại đến với nhà vua thật nhanh chóng. Dẫn tàn quân chạy về hoàng thành thì mới hay lũ tham quan đã đem dâng cho giặc tự bao giờ. Phẫn chí, nhà vua quyết liều mình đem quân cố chiếm lại thành trì nhưng cuối cùng phải ngã ngựa vì một mũi tên có tẩm thuốc độc. Nhà vua được một số quân trung thành cứu thoát và chạy trốn đến bên bìa rừng. Nhìn lại binh sĩ lớp bị thương, lớp bỏ mình chung quanh, nhà vua lấy làm hối hận rằng mình đã không nghe lời hoàng hậu khuyên ngày trước. Nhớ đến hoàng hậu, nhà vua lại nhớ đến đứa con thơ vô tội của mình ngày xưa. Rồi nhà vua ngã bệnh vì vết thương hành hạ. Bên ngoài thì địch quân vây khốn, trong rừng thì binh sĩ liều mạng để tử thủ với quân thù. Nhà vua lập
đồn trong rừng làm chiến khu và để tập luyện binh sĩ. Ngày qua ngày, dưới ách đô hộ nghiệt khắc của quân xâm lăng, người dân của vương quốc đó càng nghe đồn thêm về một quốc gia trong khu rừng già huyền bí nọ. Dần dần, người dân tìm cách trốn đi và tìm vào rừng để gia nhập. Phía quân xâm lăng cũng điêu ngoa, họ cho người trà trộn vào trong rừng nhưng kế hoạch không thi hành được vì không thể nào giả mạo được lớp gai cứng mọc trên thân thể của người dân bản xứ. Người dân đã biết đoàn kết để tạo cho khuyết điểm trên thân thể mình thành ưu điểm để chống giặc ngoại xâm. Một ngày kia, với binh hùng tướng mạnh, nhà vua bắt đầu công cuộc dành lại quê hương. Lần nầy, với đoàn quân thiện chiến và với lòng tin thống nhất, nhà vua đã chiếm lại được thành trì và xua đuổi quân xâm lăng ra khỏi lãnh thổ. Không may, trong trận chiến cuối cùng nhà vua lại bị thương. Vốn đã yếu sức vì tuổi già, lại còn lao lực trong trận chiến dài đăng đẳng, nhà vua bệnh ngày càng thêm nặng. Toàn dân trong nước chưa kịp reo mừng dành lại độc lập đã phải mang nỗi buồn cho tình trạng ngày càng nguy ngập của nhà vua. Biết mình sắp chết, nhà vua trong cơn sốt đã thốt lên rằng: "Ta chết cũng đành lòng, nhưng trời ơi, sao ta thèm được một lần ôm đứa con mà ta chưa hề biết mặt !..." Bỗng nhiên có tin báo từ bên ngoài thành có một người thầy thuốc nói sẽ trị hết bệnh cho nhà vua. Cửa hoàng thành rộng mở. Người thầy thuốc bước vào hoàng cung với tấm vải thô che kín thân thể mà không ai nhìn thấy mặt. Khi đến gần giường bệnh, người thầy thuốc đứng lặng yên thật lâu bên nhà vua mà không nói tiếng nào. Khi nghe nhà vua gọi con trong cơn sốt, người thầy thuốc rơi lệ. Giọt lệ nhỏ xuống trên gò má nhăn nheo của nhà vua làm nhà vua thức tỉnh và mở mắt nhìn người đang đứng bên cạnh mình. Khi nhà vua đua tay lên vói, người thầy thuốc bèn nắm chặt lấy tay nhà vua, quì xuống bên cạnh người và nói rằng: "Thưa phụ hoàng, con đây !". Rồi người thầy thuốc hất tấm vải thô che mình xuống đất để lộ ra một thân thể trong suốt như pha lê. Để chữa bệnh cho cha, vị hoàng tử nâng vua cha lên và ôm người thật chặt vào lòng, mặc cho những gai nhọn đâm vào người thật sâu. Và máu chàng đã chảy ra. Lạ thay, khi máu của chàng thấm lên thân thể của nhà vua thì nhà vua cũng thấy mình khỏe lại . Và kỳ diệu hơn nữa, lớp gai nhọn trên thân thể nhà vua cũng tan biến dần theo từng giọt máu của vị hoàng tử đổ xuống. Sau đó vị hoàng tử bèn đặt nhà vua nằm lại trên giường để dưỡng bệnh. Từ từ đứng dậy và bước đến người đứng gần mình nhất, vị hoàng tử ôm lấy người đó và nói:
"Chúng ta hãy thương yêu nhau. Bất cứ hình phạt nặng nề nào của Thượng Đế cũng đều được giảm bớt nếu chúng ta biết chân thành yêu thương nhau". Rồi cứ thế từ người này sang người khác, chàng đi khắp thành mà ôm từng người một, từ ông lão nghèo nàn đến người thương gia giàu sang, từ em bé tật nguyền đến chàng thanh niên khỏe mạnh. Và cứ thêm mỗi người được ôm thì vị hoàng tử càng yếu dần theo từng giọt máu ứa ra trên thân thể họ. Cho đến lúc kiệt sức, chàng quị xuống bên đường. Tuy vậy, chàng vẫn mở rộng vòng tay kêu gọi mọi người đến cùng chàng mà chia sự sống. Mọi người nức nở khóc trước tình thương bao la của chàng. Những người sau cùng chưa được thoát bệnh đồng quì xuống bên chàng mà nói: "Chúng tôi xin hoàng tử đừng lao lực thêm nữa. Chúng tôi thành tâm nguyện mang lớp gai này trên mình để người còn được sống cùng chúng tôi". Lạ thay, từ trên thinh không bỗng có tiếng nhạc thánh thót vang lên và có lời truyền của Thượng Đế phán rằng: "Lành thay ! Các người hiểu được tình yêu thương chân thật và bỏ đi lòng tị hiềm, ích kỷ. Dám hy sinh bản thân mình cho đồng loại là định nghĩa của yêu thương vậy". Rồi cùng với thinh âm tan dần vào không gian, các lớp gai trên thân hình của những người còn lại đều biến mất đi. Khi người ta nhìn lại thì vị hoàng tử đang khép mắt lại với lời nói thật hiền hòa thoát ra theo làn hơi thở sau cùng: "Hạnh phúc là có nhau hôm nay để sống. Yêu thương là biết sống làm sao để ta có nhau ngày mai. Các bạn của tôi ơi, hãy nhớ rằng hạnh phúc không phải là của riêng ta để cho đi hay lấy lại. Hạnh phúc chỉ đến với ta khi ta biết yêu thương lẫn nhau và chia xẻ cho nhau tình thương đó..." Rồi chàng lìa đời sau câu nói đó. Ngày hôm sau, dưới sự hướng dẫn của nhà vua, toàn dân trong thành đã đưa di thể của chàng xuống lòng đất muôn đời, bên cạnh khu rừng nọ. Lạ thay, khi xác của chàng vừa được chôn dưới lòng đất xong, người ta bỗng thấy có những chim muông, cầm thú kéo thành đoàn từ trong rừng ra nằm quanh ngôi mộ của chàng thật lặng yên và buồn bã. Một năm sau, người ta thấy trên ngôi mộ của chàng và chung quanh khu vực đó mọc lên những bông hoa đỏ tươi như máu với thật nhiều gai nhọn từ gốc đến ngọn. Người ta cho đó là sự kết tinh lại của tình thương của chàng hoàng tử để nhắc nhở cho người đời bài học cao cả nhất về yêu thương và hạnh phúc. Và người ta gọi loài hoa đó là hoa Hồng. Và mãi mãi đến ngày nay, dù mang nhiều màu sắc khác nhau, loài hoa đó vẫn tượng trưng cho sự yêu thương.
Sự tích con khỉ
Ngày xưa có một người con gái đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần quật suốt ngày, lại bị chủ đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì mà thỉnh thoảng còn bị đánh đập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi mà người cứ quắt lại, trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói. Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ bàn bày linh đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc. Trong khi đó thì cô gái phải đi gánh nước luôn vai không nghỉ. Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc đó đức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già có vẻ đâu từ xa lại, dáng điệu mệt nhọc đến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng vực nước lên cho ông già giải khát. Ông cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về. Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong thùng đưa cho ông già và nói: - Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ ăn một bát này cho đỡ đói. Ăn xong, ông cụ bảo nàng: - Hồi nãy làm sao con khóc? Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời. - Ta là đức Phật, - ông cụ nói tiếp, - ta thấy con có lòng tốt. Nếu con muốn gì, ta sẽ làm cho con vui lòng. Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người con gái chỉ là làm sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông hoa nào đẹp mút lấy thì sẽ được như nguyện. Khi xuống nước, cô gái chỉ mút mấy bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻo xinh xắn, đồng thời quần áo cũng biến thành những thứ tốt đẹp. Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh đẹp đến nỗi họ không thể nào nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu may một tí. Họ lập tức đổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại đức Phật để được trẻ lại và đẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người được của. Họ đưa xôi thịt ra mời tới tấp:
- Này cụ xơi đi! Cụ xơi đi. Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với! Đức Phật cũng bảo họ lội xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước. Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ và hoa trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên khi lội xuống giếng đều tìm hoa đỏ mút lấy mút để. Nhưng không ngờ lúc lên bờ, họ không phải trẻ lại mà già thêm ra: mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc đầy người, đằng sau lưng là cả một cái đuôi. Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng hồn: "Kìa trông con quỷ, nó cắn bà con ôi!". Nhưng lại có những tiếng khác: "Đánh cho chết chúng nó đi! Sợ gì". Lập tức mọi người cầm đòn gánh xông lại. Cả họ nhà trưởng giả kinh hoàng bỏ chạy một mạch lên rừng. Từ đó, cô gái cùng với số người nghèo hầu hạ trưởng giả được hưởng những của cải do chúng để lại. Lại nói chuyện trưởng giả và họ hàng đành phải nấp náu trong rừng sâu, ngày ngày kiếm quả cây nuôi thân. Chúng đi lom khom, áo quần rách nát trông rất thiểu não. Nhưng chúng vẫn tiếc của. Cho nên thỉnh thoảng ban đêm chúng lại mò về, hoặc gõ cửa, hoặc ngồi trước nhà kêu léo nhéo suốt đêm, gần sáng mới trở về rừng. Thấy vậy cô gái và mọi người sợ quá, đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm cách đuổi chúng. Họ bôi mắm tôm vào các cánh cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi cày đặt rải rác ở cổng các nhà. Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò về. Theo lệ thường, chúng đánh đu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa mó đến đã bị mắm tôm vấy đầy tay, rồi từ tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa đặt đít ngồi xuống các lưỡi cày thì chúng đã kêu oai oái, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ đó chúng kệch không dám về nữa. Trong những khi lên rừng hái củi, người ta thỉnh thoảng vẫn gặp chúng. Thấy bóng người từ đàng xa, chúng liền chuyền theo nhánh cây, lủi nhanh thoăn thoắt. Người ta gọi chúng là những con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ là thuộc nòi trưởng giả. Còn những con khỉ sở dĩ đỏ đít là vì chúng chịu di truyền dấu vết bỏng đít của tổ tiên.
Học làm người trong từng giây phút của cuộc sống.
(Trích từ đồng cảm để đồng hành) Một trăm đôi tay và đôi chân Gs. Nguyễn Văn Thành Học có nghĩa là gì ? Nếu chúng ta khởi đầu với ba câu hỏi :"Ai có lý ? Ai đúng ai sai ? Ai có lỗi ?" Việc học của chúng ta bị bế tắc ngay lập tức. Những câu hỏi như vậy đang ám ảnh và đầu độc con người ở khắp nơi, trên mặt địa cầu nầy, từ thời nguyên thủy cho đến hôm nay, trong mỗi câu chuyện hằng ngày. Cũng vì những câu hỏi ấy, chúng ta đang loại trừ tố cáo, phê phán và kết án lẫn nhau, trên bình diện tôn giáo cũng như trong địa hạt chính trị, xã hội, gia đình ... Trong lòng Đất Nước, Lạc Long Quân đã đề xuất một phương hướng trả lời hữu hiệu hơn: Chúng ta khác nhau như nước và non, như núi và sông. Nhờ vậy, chúng ta mới có khả năng làm nên Núi Sông và Nước Non. Câu nói thật giản đơn, nhưng hàm chứa ở bên trong cả một chương trình "học làm người" sâu sắc vô tận. Đó là một kế sách "DỰNG NƯỚC và GIỮ NƯỚC" ! *** 1.- Chân lý xuất hiện khi chúng ta đồng hành chia sẻ. Thay vì bắt đầu với câu hỏi hoàn toàn lý thuyết :"ai có chân lý ? Ai nắm sự thật trong tay ?", chúng ta hãy xuất phát từ một thực tế hiển nhiên, tất yếu, thường hằng: "chúng ta khác nhau". Chúng ta làm gì với sự khác biệt ấy, để chân lý có mặt với chúng ta, giữa chúng ta ? Trong tinh thần "liên đới, đồng trách nhiệm" chân lý chỉ xuất hiện, khi chúng ta đồng hành và chia sẻ. Khi chúng ta cùng nhau vun trồng, tưới tẩm những quan hệ hài hòa, bổ túc và kiện toàn cho nhau. Con đường hiểu biết đồng hóa với con đường yêu thương. Theo lối nhìn của Nguyễn Trãi, chân lý của quê hương chỉ xuất hiện khi chúng ta "nhất tâm" : Trăm người như một, một người như trăm. Chân lý ấy không phải là sự thật viễn mơ, những khẩu hiệu về "nhân nghĩa đại đồng, tình anh em bốn biển một nhà", ở ÇÀu môi miệng của Quân Minh xâm lược. Chân lý của
Quê hương mang nhiều tên tuổi rất cụ thể: no cơm ấm áo. Một mái nhà để trở về lúc chiều tối. Một mảnh chiếu để qua đêm. Một công việc có đồng lương cho phép tôi sống một cách lương thiện và chứng minh cho tôi : tôi là một thành viên hữu ích, có giá trị trong lòng quê hương và nhân loại. - Chỗ nào con người chưa sống tư cách làm người của mình, - Chỗ nào con người chưa được cư xử và đãi ngộ một cách tương ứng với giá trị làm người của mình, - Chỗ nào người nghèo đói chưa được tôn trọng và nâng đỡ, để có thể sống một cách xứng đáng "tối thiểu" cuộc sống làm người, - Chỗ nào, còn có người bốc lột, đàn áp con người, - Chỗ nào hòa bình chưa có mặt trong tâm tư và hành động của chúng ta, ... chỗ ấy chân lý hoặc sự thật dù được trình bày dưới bất kỳ hình thức ngôn ngữ nào, đều là tuyên truyền, láo khoét, bịp bợm, công cụ của thực dân xâm lược hay là của giai cấp thống trị nhằm phục vụ một thiểu số ăn trên ngồi trước, nắm mọi quyŠn lực trong tay. 2.- Chân lý là một lối nhìn, một nhu cầu, trước khi được diễn tả thành ngôn ngữ. Trước đây, trong chương Ba, tôi đã phân biệt ba cấu trúc của nội tâm : Cửa vào, Biến chế và Cửa ra. Biến chế là cấu trúc cốt lõi của nội tâm bao gồm Lối Nhìn và Xúc Động. Cửa vào chỉ cung cấp cho tôi những dữ kiện hạn chế về thực tại bên ngoài. Đó không phải là toàn diện thực tại khách quan. Cửa ra, trái lại, có phần vụ diễn tả những gì đang có mặt trong nội tâm. Tuy nhiên, con người là con vật "biết nói láo". Tôi có thể che giấu, ngụy trang những gì đang có mặt thực sự trong cõi lòng. Thêm vào đó, trong thân phận và điều kiện làm người, khi tôi nói, tôi không ý thức một trăm phần trăm về những điều tôi phát biểu. Vô thức len lỏi trong tất cả. Tôi không có ý làm tổn thương bạn. Nhưng có thể bạn đang đau buồn, bất mãn khi đón nhận ý kiến của tôi, ngôn ngữ của tôi. Trong lăng kính ấy, khi nói đến sự thật, chúng ta nói đến Lối Nhìn và tiếp theo lối nhìn là Nhu Cầu của Xúc Động. Khi nói đến sự thật, giữa lời nói và lối nhìn bên trong nội tâm của người ấy, không có những hiện tượng tương phản hay là mâu thuẫn. Khi người ấy bày tỏ nhu cầu của mình, người ấy "Cần" thực sự, chứ không bịa đặt, giả vờ hay là tham lam vô đáy. Chính vì lý do đó, khi tin vào ai, tôi tin rằng sự thật ở trong họ. Đó là lối nhìn và nhu cầu của họ. Trái lại, khi tôi không tin ai, và nhất là khi phê phán, tố cáo họ là người nói dối, tôi đang tự đặt mình vào mối quan hệ xung đột. Phản ứng của họ sẽ là tự vệ, bênh vực mình hay là tấn công trở lại. Đó là đầu dây mối nhợ của mọi hành vi bạo động, hận thù, chiến tranh và xung đột. Hiểu được những qui luật tâm lý ấy đang có mặt trong mọi quan hệ trao đổi và tiếp xúc, chúng ta biết dừng lại, không góp phần vào công việc bồi đắp con đường bạo động. Làm như vậy, về mặt tích cực, chúng ta là những tay thợ lành nghề đang kiến dựng những chiếc cầu đồng cảm và hòa bình, trên những nẻo đường xuôi ngược của Nhân Loại. 3.- Mỗi sự thật làm bằng ba sự thật : Sự thật của tôi, sự thật của bạn, sự thật của chúng ta.
Xuyên qua những nhận định được trình bày trong đoạn hai trên đây, khi hai người thiết lập một quan hệ tiếp xúc và trao đổi, ba sự thật sẽ từ từ xuất hiện trong câu chuyện. Trong câu chuyện của tôi, tôi trình bày sự thật của riêng tôi. Người bạn cũng có một sự thật trong lối nhìn của mình. Thay vì khai trừ, loại thải nhau trong những quan hệ nhị nguyên hơn thua, đúng sai.... hai chân lý khác nhau và phiến diện tìm cách bổ túc và kiện toàn nhau để lập thành một chân lý toàn diện, thứ ba : Đó là chân lý của chúng ta. Chân lý nầy chỉ xuất hiện khi tôi có điều kiện khẳng định mình và người bạn cũng có điều kiện diễn tả chân lý của mình, giống như tôi. Trái lại, khi một trong hai người, tự cho mình có mọi quyền năng và nắm độc quyền về chân lý toàn bích, toàn diện, cho dù thuộc địa hạt nào, người ấy đang là chướng ngại cho mọi công cuộc tìm kiếm chân lý, trong lòng Nhân loại. Bất kể chúng ta là ai, ở vị trí nào, trong lãnh vực nào, chúng ta đều là những người trên đường tìm kiếm chân lý, chúng ta phải học, bằng cách đón nhận, tôn trọng chân lý của người anh chị em đang cùng chúng ta làm người : Càng đón nhận chân lý của họ, họ càng tìm kiếm chân lý. Càng coi trọng tư cách làm người của họ, họ càng vươn lên, phát huy mọi chiều kích làm người. 4.- Thế nào là học ? Đâu là những động tác cụ thể cần thực thi mỗi ngày ? Khi chúng ta coi trọng sự khác biệt của người anh chị em đang chung sống và làm việc với chúng ta, chính sự khác biệt ấy là đối tượng học hỏi, là đề tài nghiên cứu của chúng ta suốt cuộc sống làm người. Cách chúng ta độ chừng không hơn một thế kỷ, trẻ em chậm trí, chậm phát triển còn được gọi là khuyết tật tâm thần, được đồng hóa với những bệnh nhân tâm trí. Nhờ sáng kiến của một vài nhà tiên phong, những trẻ em ấy dần dần được xem là trẻ em như bao nhiêu trẻ em khác, có quyền đi học. Có quyền được giáo dục, được học làm người. Từ đó, ngành sư phạm đặc biệt đã khám phá "một sự thật mới" : Các em ấy vẫn có khả năng học và phát triển như mọi em khác. Nhưng cách học của các em có những nét riêng biệt, đặc thù, độc đáo cần được nghiên cứu, phát hiện. Điều đáng chúng ta lưu tâm là khi ngành sư phạm đặc biệt biết tôn trọng sự khác biệt của những trẻ em khuyết tật, thì ngành sư phạm "bình thường", cổ điển không còn vòng vo, luẩn quẩn trong những con đường mòn đã có sẵn từ bao nhiêu đời. Dạy không phải là từ trên, từ ngoài "rót" xuống, "rót" vào cho đầy. Khi một học sinh thất bại, không tiến bộ, chưa hẳn "vì nó dốt, nó làm biếng, vì dòng họ nó như vậy". Ngày hôm nay, khi một vấn đề xảy đến cho một học sinh, chính người giáo viên phải bắt đầu đặt mình thành vấn đề : tôi đã dạy làm sao ? Lối nhìn của tôi về em ấy đã tạo nên những ảnh hưởng gì ? Quan hệ tình cảm đóng vai trò như thế nào ? Ngôn ngữ tôi sử dụng có thích hợp với "kế hoạch học tập" của học sinh ấy không ? Không "nhìn mình" một cách thành tâm và khiêm cung, chúng ta tự tôn phong mình thành "giai cấp thống trị", tự cho mình "có mọi chân lý". Và phía bên kia, phía "hạ tầng" dưới kia có bổn phận "dựa cột mà nghe" hay là "câm miệng lại như hến" mà vâng lời, tuân hành ... một cách ngoan đạo. Tệ hại hơn nữa là chúng ta dùng roi đòn để giáo dục. 5.- Trên bình diện khoa học kỹ thuật, học là thường xuyên đặt ra cho mình ba câu hỏi, và tìm cách trả lời một cách "liêm chính", không thỏa hiệp, không
đồng lõa. Không lượn lẹo, đút lót để có thể dễ dàng bước qua cửa khẩu với những hành lý "quốc cấm". Câu hỏi thứ nhất : Tôi bắt đầu tiến trình tư duy với những sự kiện nào ? Sự kiện tôi đề xuất có phải thực sự là sự kiện hay là tiếng đồn thổi ? Phải chăng tôi chỉ lặp lại một tin tưởng được nhai đi nhai lại, được cha truyền con nối từ bao nhiêu đời, và chưa bao giờ được kiểm chứng ? Câu hỏi thứ hai : Giả thuyết tôi muốn chứng minh là gì ? Có một giả thuyết thứ hai nào cần khảo sát không ? Ở vào địa vị của tôi, người thương tôi sẽ có giả thuyết nào ? Người ghét tôi sẽ đề xuất gì ? Người quan sát hoàn toàn khách quan, không có quan hệ tình cảm với tôi sẽ nói gì ? Câu hỏi thứ ba : Kết luận có khả năng điều hướng hành động, gồm có những trọng điểm nào ? Những lợi ích ngắn và dài hạn là gì? Kết luận của tôi có gây thiệt hại cho người nào không ? Nếu có, tôi đền bù làm sao, với tư cách làm người và lòng tôn trọng con người của tôi? *** Sau khi tôi trình bày , người đối diện cũng có một không gian tình cảm và một thời gian cần thiết để diễn tả lối nhìn và nhu cầu của mình, tôi tạo mọi điều kiện thuận lợi với phương pháp phản hồi và đặt câu hỏi, để mọi người có mặt có thể đi qua ba nấc thang trong tiến trình tư duy của mình ; sự kiện, giả thuyết và kết luận : - Bạn dựa vào sự kiện nào để khẳng định ý kiến ? - Bạn đưa ra giả thuyết nào, khi kể lại sự cố ấy ? - Bạn rút ra kết luận nào để hành động? *** Sau khi mọi thành viên diễn tả "chân lý cá nhân" của mình, tập thể đi qua giai đoạn tổng hợp "chúng ta". Đồng điểm cơ bản và dị điểm chủ yếu giữa chúng ta là gì ? Chúng ta làm gì với những khác biệt hiện tại ? Nói đến tập thể là nói đến một cộng đồng bao gồm những thành viên bình đẳng về giá trị làm người. Tuy nhiên, trong mỗi tổ chức, luôn luôn có những trách nhiệm khác nhau. Có những quyết định và chọn lựa cuối cùng. Những quyết định nầy không bao giờ có tính vĩnh viễn. Chúng ta có bổn phận đổi mới bổ túc và kiện toàn, vì đó là điều kiện và thân phận làm người. Tôi nhận làm của mình lối nhìn của người Latinh ; Humanitas semper eadem et semper reformanda est. Nhân loại vừa đồng nhất từ nguyên thủy cho tới ngày nay; nhưng đồng thời cũng luôn luôn đổi mới từng ngày. Phủ nhận một trong hai nhu cầu nầy của nhân loại, chúng ta đang phản bội chính bản sắc làm người của chúng ta. *** 6.- Trong địa hạt giáo dục, để giúp trẻ em vừa có một lối nhìn tự lập, độc lập, vừa có khả năng lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhiều người khác trong môi trường, chúng ta - người làm cha mẹ cũng như giáo viên ở trường học - hãy biết lắng nghe trẻ em, kêu mời, khuyến khích cho phép trẻ em bình tỉnh và lễ phép nói ra ý kiến của mình. Sau đó, chúng ta tạo điều kiện cho các em có thói quen đi tham khảo kẻ khác, người quen, người lạ, kẻ dưới người trên : - "Con hãy đi hỏi bạn con, mẹ con ... Bạn con nói gì ? Cô giáo nói gì ? ... - "Sau khi hỏi ý kiến như vậy, con thấy việc con đánh em con đúng hay sai, nên làm hay nên tránh ...
- "Bây giờ con phải làm gì ? Vào giai đoạn nầy với tư cách là người có trách nhiệm cuối cùng, chúng ta mới đưa ra lối nhìn phải - trái của mình. Không được soi sáng và hướng dẫn ở giai đoạn quyết định nầy, trẻ em sẽ thiếu kỹ luật, nghĩa là không có thứ tự và cơ cấu tổ chức trong nội tâm của mình. Đàng khác, nếu chúng ta đốt giai đoạn, đề xuất ý kiến quá sớm, không tôn trọng tiến trình đi lên từng bước, chúng ta sẽ áp đặt một cách đơn phương, độc tài từ ngoài. Con cái "bị" giáo dục như vậy, sẽ lớn lên và chỉ có hai con đường để chọn lựa : bị động, thiếu sáng kiến, thiếu bản lãnh, hay là phản động, chối từ tất cả, một cách có hệ thống : vì kẻ khác nói trắng cho nên tôi phải nói đen. Đó là loại người chỉ biết phản ứng, thay vì có khả năng đáp ứng, sáng tạo, quyết định, chọn lựa, lắng nghe. Thêm vào đó, nếu con người bị đe dọa, cưỡng chế, đàn áp, trừng phạt để thay đổi, họ sẽ không bao giờ thay đổi lối nhìn và nhu cầu của mình. Thay vì đào tạo, giáo dục những con người tự do, chúng ta chỉ chế tạo hàng loạt thế hệ nô lệ, công cụ, giả tạo và giả dối. Mọi đổi mới thực sự, trái lại, phát xuất từ bên trong nội tâm. Một trẻ em chỉ học, chừng nào nội dung học tập vừa thuộc thực tế của nó, để nó có thể sử dụng; vừa thuộc vui thích, hứng thú để nó hội nhập, nghĩa là chuyển biến bài học thành bản sắc hay là nhu cầu, động cơ thúc đẩy từ bên trong. 7.- Ba nội dung Học trong tinh thần và chiều hướng vừa được trình bày bao gồm ba nội dung : Thứ nhất, tôi học làm cha mẹ để sáng soi, hướng dẫn và nâng đỡ kẻ khác trên đường đời. Thứ hai, tôi học làm bạn đồng hành, chia sẻ. Một cây làm chẳng nên non, ba cây họp lại thành hòn núi cao. Với điều kiện nầy, chúng ta mới có khả năng khẳng định "bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người, sỏi cũng thành cơm". Thứ ba, tôi học làm một đứa con hạnh phúc trong lòng Quê hương. Tôi vừa biết cho vừa biết nhận. Vừa được thương yêu đùm bọc, nuôi nấng; vừa có khả năng nuôi lại cha mẹ và những người khác : bằng liếc nhìn, tiếng nói bi bô, những nụ hôn nồng thắm, những tâm sự thỏ thẻ dịu ngọt. Nói tóm lại, khi hạnh phúc, tự nhiên tôi đồng cảm. Khi biết đồng cảm, tự nhiên tôi hạnh phúc. Trái lại, khi nào tôi đàn áp kẻ khác, sống xé lẻ hay là bị khổ đau xoi mòn, ô nhiễm tôi đang gieo vãi những hạt mầm bạo động trong bản thân tôi và trong lòng nhân loại. Lúc bấy giờ, thay vì làm cha mẹ kỹ cương và từ tâm, có khả năng soi sáng và nâng đỡ, tôi chỉ có tác phong cưỡng chế, trừng phạt hay là buông xuôi, cho phép tất cả ... Với cách làm nầy, chúng ta đang sản chế trong lòng nhân loại những lớp người hoặc bị động, hoặc làm ông trời con chỉ biết hành hạ, đàn áp kẻ khác. Báo chí, truyền thanh, truyền hình đang nói đến những hiện tượng nầy mỗi ngày, nhất là trên các đô thị đông dân cư và đại công nghiệp. Những hiện tượng ấy cũng đang có mặt trong cõi lòng của chúng ta ! *** Trở lại với bài học của Lạc Long Quân về sự khác biệt giữa chúng ta, chúng ta đừng quên vế thứ hai : "Khi có việc cần, hãy gọi nhau về".
Chúng ta khác nhau như Rồng và Tiên, như Trời và Bể. Nhờ khác nhau, chúng ta có khả năng bổ túc kiện toàn cho nhau. "Hãy gọi nhau về", để cùng nhau trở thành Bồ Tát : có trăm cánh tay để làm, có trăm đôi chân để đi đến với từng người anh chị em đồng bào. Cho đến bao giờ, người Việt Nam mới hội nhập và nhuần nhuyễn bài học làm người ấy? Phải chăng đó là chiếc nõ thần bão quốc mà chúng ta đã lãng quên trong đáy sâu u tối của tâm hồn, từ bao nhiêu đời ? Ai có khả năng lặn sâu xuống đó, tìm lại gia bảo và trả lại cho anh chị em đồng bào ? Người ấy không là ai khác, ngoài Em và Tôi. Tất cả chúng ta là những vị thần Kim Qui đang thành và sẽ thành trong lòng Quê hương và Đất Nước. Chúng ta hãy "gọi nhau về", để cùng nhau tìm cách tận diệt "ngư tinh, hồ tinh và mộc tinh" trong lòng Quê hương, Đất Nước. Ngư tinh là những của ăn tinh thần bị đầu độc, ô nhiễm ... Hồ tinh là những hang động u tối, tanh hôi trong cõi lòng của mỗi người. Mộc tinh là những loại cây văn hóa mất gốc, không còn phục vụ và tôn trọng con người. Không gọi nhau về để hóa giải ba loại vấn đề ấy, chúng ta sẽ trối lại cho con cháu một gia tài đổ nát và tang thương. Ngư tinh, Hồ tinh và Mộc tinh sẽ biến con cháu Rồng Tiên thành tinh yêu ma quái. Nước non sẽ đẻ ra những thế hệ "Sơn tinh và Thủy tinh" suốt đời "làm gà một nhà bôi mặt đá nhau".
Lão ngày dài
Tại một vùng quê nọ, có một lão địa chủ cực kỳ gian tham. Của cải của hắn nhiều như nước, nhưng lòng tham vô đáy luôn luôn xui khiến hắn tìm mọi cách làm giàu thật ráo riết. Một bữa kia, hắn nằm mơ thấy mình tìm được cách kéo ngày dài thêm sáu tiếng. Từ đó những người thợ cày mỗi ngày sẽ phải làm thêm cho lão sáu tiếng nữa. Nhưng lúc tỉnh dậy thấy đó chỉ là giấc mơ thì hắn cầu trời khấn phật giúp hắn. Thấy thế, những người thợ cày vừa sợ hãi vừa ngán ngẩm. Họ đã phải làm cho lão mười hai tiếng một ngày, bây giờ lại thêm sáu tiếng nữa thì chết mật. Mỗi khi làm lụng quá mệt, họ muốn được nghỉ ngơi, nhưng vừa mới vươn vai, đã nghe tiếng quát của hắn:
- Làm đi! Đồ lười! Chưa đến giờ nghỉ! Bởi thế một hôm bỗng nghe tin có thầy tu đến nhà lão địa chủ giúp lão kéo dài ngày thêm sáu tiếng, mọi người lo lắng lắm, còn với lão địa chủ thì lại hết sức mừng rỡ, lão chạy ra đón thầy tu vào nhà, mời ăn những món cao lương mỹ vị. Sau khi cơm rượu no say, lão tự mình dọn giường nệm cho thầy tu nằm nghỉ. Sáng hôm sau, thầy tu tỉnh dậy, lão đã lập cập nói: - Bạch thầy, lâu nay con ngày đêm cầu trời khấn phật, nhưng hôm nay xin thầy giúp con một việc. Rồi lão giãi bày ý muốn của lão. Nghe xong thầy tu đáp: - Thượng đế đã thấu nỗi lòng con. Giờ đây, mọi việc phụ thuộc vào con. Tự con phải làm trước tất cả mọi người, tất cả số giờ con muốn, mà phải làm liên tục, làm xong mới được nghĩ. Tới khi đó ước muốn của con sẽ thành sự thật. Lão địa chủ nghĩ bụng: “Bọn thợ cày đói khát ngày nào cũng phải làm hai mươi tiếng, còn ta chỉ phải làm một lần hai mươi sáu tiếng thì có sao. Sau đó, ta sẽ bắt bọn chúng phải làm hai mươi sáu tiếng một ngày. Rồi ta sẽ trở nên giàu nhất thiên hạ” Không chậm trễ, lão địa chủ tham lam đi ra cánh đồng. Thầy tu hộ tống lão. Tên nhà giàu đến chỗ ruộng lạc và cuốc. Giờ đầu, lão làm việc vui vẻ sảng khoái. Giờ thứ hai lão bắt đầu thấy mệt, định nghỉ tay. Nhưng thầy tu khẽ quát: - Làm đi! Đồ lười! Chưa đến giờ nghỉ! Lão nhà giàu thở hổn hển tiếp tục công việc. Mặt trời lên tới ngọn tre, lão địa chủ đã đầm đìa mồ hôi. Lão không còn trông thấy cánh thợ cày đã ngừng tay xem lão cuốc. Đã mấy ai trong đời thấy lão làm việc ! Lão địa chủ lấy ống tay áo lau mồ hôi, muốn hỏi thầy tu xem đã làm được bao lâu, nhưng không đủ sức. Thầy tu lại quát: - Làm đi! Đồ lười! Nhìn bóng nắng xem, mi mới làm chưa được ba tiếng đồng hồ. Một đôi lần lão địa chủ vung cuốc lên, người lảo đảo. Lão mệt quá, ngã gục xuống ruộng. Lão vẫn muốn vớ lấy chiếc cuốc nhưng không nâng nổi lên nữa. Lão dừng tay cố bới đất. Tay lão rớm máu, lão hỏi thầy tu: - Bạch thầy, con đã làm được mấy giờ?
Thầy tu đáp: - Bốn tiếng nữa mới tới trưa. Nghe nói vậy, lão ngất lịm. Mọi người đặt lão lên cáng, đưa về nhà. Ngày hôm ấy không ai làm việc trên cánh đồng của lão. Còn thầy tu cũng biến mất. Nghe nói ông thầy tu không phải là ai xa lạ, mà là một bác nông dân đóng giả. Từ đó mọi người chế nhạo gọi lão địa chủ là “lão ngày dài”. Mỗi lần trông thấy lão đi trên đường, người ta lại chỉ trỏ bảo nhau: - Nhìn kìa, Lão ngày dài đang đi đấy!
Sự tích bông hoa cúc trắng
Ngày xưa có một cô bé sống cùng mẹ trong một túp lều tranh dột nát nhưng đó là một bé gái vô cùng hiếu thảo. thật ko may mẹ của cô bé lại bị bệnh rất nặng nhưng vì nhà nghèo nên ko có tiền mua thuốc chữa , và cô bé vô cùng buồn bã một lần đang ngồi khóc bên đường bỗng có một ông lão đi qua thấy lạ bèn đừng lại hỏi khi biết sự tình ông già nói với cô bé : -Cháu hãy vào rừng và đến bên gốc cây cổ thụ to nhất trong rừng hái lây một bông hoa duy nhất trên đo. bông hoa ấy có bao nhiêu cánh thì tức là mẹ cháu sống được bằng đấy ngày. Cô bé liền vào rừng va rất lâu sau mới tìm thấy bông hoa trắng đó , phải khó khăn lắm cô mới trèo lên được để lấy bông hoa nhưng khi đếm chỉ có một cánh hai cánh ba cánh bốn canh. chỉ có bốn cánh hoa là sao chứ? Chẳng nhẽ mẹ cô chỉ sống được bàng đấy ngày thôi sao? ko đành lòng cô liền dùng tay xé nhẹ dần từng cánh hoa lớn thành những cánh hoa nhỏ và bông hoa cũng theo đó mà nhiều cánh dần lên nhiều đén mức ko còn đếm được nữa. từ
đó người đời gọi bông hoa ấy là bông hoa cúc trắng để nói về lòng hiếu thảo của cô bé đó dành cho mẹ mình.
Ganh tị và Tham lam
Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Ðộ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam. Ðể chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi. Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: "Tôi xin được chặt đứt một cánh tay...". Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay. Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn