Thanh Toan Quoc Te

  • Uploaded by: NGUYEN THI HUYEN
  • 0
  • 0
  • May 2020
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Thanh Toan Quoc Te as PDF for free.

More details

  • Words: 4,479
  • Pages: 7
Tìm hiểu các phương thức thanh toán ngọai thương (Phần 1) L/C Webketoan, 18-06-2008. Số lần xem: 6347

2. Rủi ro do thanh toán dựa trên chứng từ giả, chứng từ không trung thực, mâu thuẫn giữa hàng hoá và chứng từ Biện pháp: - Yêu cầu về nội dung và hình thức chứng từ phải rất chặt chẽ, không yêu cầu chung chung. - Chứng từ phải do những cơ quan đáng tin cậy cấp - Vận đơn do hãng tàu đích danh lập. Khi xếp hàng hoá phải có sự giám sát của đại diện phía nhà nhập khẩu để kịp thời đối chiếu sự thật giả của vận đơn và lịch trình tàu ( đối với lô hàng có giá trị lớn) - Ðề nghị nhà xuất khẩu gửi thẳng 1/3 bộ vận đơn gốc ( bản chính) thẳng tới nhà nhập khẩu - Hoá đơn thương mại đòi hỏi phải có sự xác nhận của đại diện phía nhà nhập khẩu hoặc của Phòng Thương mại hoặc hoá đơn lãnh sự ( Consular's invoice) - Giấy chứng nhận chất lượng do cơ quan có uy tín ở nước xuất khẩu hoặc quốc tế cấp hoặc có sự giám sát kiểm tra và ký xác nhận vào giấy chứng nhận của đại diện phía nhà nhập khẩu - Giấy chứng nhận số lượng cũng phải có sự giám sát của đại diện phía nhà nhập khẩu hoặc đại diện thương mại Việt Nam - Cung cấp giấy chứng nhận kiểm tra ( Certificate of inspection) 3. Các rủi ro khác như: lựa chọn hãng tàu không tin cậy, hư hỏng hàng hoá do xếp hàng không đúng quy định Biện pháp: - Giành quyền chủ động thuê tàu ( nhập khẩu theo điều kiện nhóm F) - Chỉ định hãng tàu nổi tiếng, đặc biệt nên thuê tàu của các hãng có văn phòng giao dịch tại nước nhà nhập khẩu - Mua bảo hiểm cho hàng hoá - Trong hợp đồng nên ràng buộc trách nhiệm của nhà xuất khẩu trong vấn đề xếp hàng lên tàu như nhập khẩu theo điều kiện FOB stowed, CFR stowed, CIF stowed...

Bảo lãnh ngân hàng Sài gòn tiếp thị, 16-06-2008. Số lần xem: 2139

Bảo lãnh ngân hàng là một công cụ mà các nhà kinh doanh thường sử dụng để tăng cường sự bảo đảm đối với nghĩa vụ trong các hợp đồng kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh môi trường kinh doanh có rủi ro cao như hiện nay Người yêu cầu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh phải ký hợp đồng với ngân hàng, trong đó nêu quyền và nghĩa vụ của bên yêu cầu và của ngân hàng đối với khả năng buộc phải thanh toán một kim ngạch nào đó theo thư bảo lãnh. Trong trường hợp người được bảo lãnh không trả được nợ hay thậm chí không muốn trả nợ thì ngân hàng buộc phải thanh toán số tiền đã bảo lãnh. Thư bảo lãnh cũng giống như thư tín dụng dự phòng (Standby letter of Credit) chỉ sử dụng khi khách hàng mất khả năng thanh toán. Trong hoạt động thương mại, doanh nghiệp có thể chọn lựa công cụ ngân hàng, trong đó có thư tín dụng (L/C). Đối với thư bảo lãnh, trước hết người bán hàng phải yêu cầu người mua thanh toán và chỉ khi

nào người mua mất khả năng thanh toán hay từ chối thanh toán thì ngân hàng bảo lãnh phải thanh toán. Đối với thư tín dụng, ngân hàng có nghĩa vụ thanh toán sau khi người bán hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng thể hiện qua thư tín dụng, có nghĩa là ngân hàng thực hiện thanh toán cho người bán và sau đó tìm cách thu lại tiền từ người mua. Do đó, thư tín dụng ít rủi ro đối với người bán nhưng lại nhiều rủi ro đối với ngân hàng. Thư tín dụng, sau khi ngân hàng đồng ý mở cho người bán theo yêu cầu của người mua, có nghĩa là ngân hàng có trách nhiệm thanh toán cho người bán khi người bán thực hiện nghĩa vụ nộp bộ chứng từ hợp lệ. Người bán cũng có thể yêu cầu bên mua mở thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (irrevocable confirmed L/C) để đảm bảo chắc chắn được thanh toán nếu ngân hàng mở L/C do một nguyên nhân nào đó không thanh toán. Thư bảo lãnh có thể sử dụng trong nhiều nghiệp vụ khác nhau như bảo đảm tham gia đấu thầu, bảo đảm tiền ứng trước, bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm nợ vay, bảo đảm cho hợp đồng bảo trì. Thư bảo lãnh có thể cấp trực tiếp cho người thụ hưởng (beneficiary) hay thông qua một ngân hàng địa phương của người thụ hưởng. Thư bảo lãnh trực tiếp tiết kiệm được chi phí cho người yêu cầu vì không cần đến ngân hàng trung gian và ngân hàng phát hành thư bảo lãnh còn kiểm soát được việc thực hiện thanh toán theo bảo lãnh, tạo an toàn cho người yêu cầu. Trong trường hợp hai bên mua bán ở hai nước khác nhau, người thụ hưởng có thể yêu cầu thư bảo lãnh do ngân hàng địa phương phát hành để đảm bảo an toàn khi nhu cầu thanh toán thay xảy ra. Thư tín dụng là một loại bảo lãnh tín dụng phổ biến nhất hiện nay nhưng trong nhiều năm qua, hệ thống ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn khi khách hàng không đủ khả năng thanh toán lại cho ngân hàng. Trước khi mở L/C, ngân hàng cần đánh giá đúng khả năng của khách hàng để đặt tỷ lệ ký quỹ cần thiết cũng như biện pháp quản lý hàng hoá nhập khẩu... Trần Bá Tước

Các rủi ro thường gặp khi thanh toán L/C Các phương thức thanh toán dù có an toàn mấy nhưng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro. Vậy các rủi ro đặc trưng của thanh toán L/C là gì? Đó là rủi ro bạn hàng, rủi ro giấy tờ và rủi ro vận chuyển. Rủi ro bạn hàng ảo: Trước tiên đó là việc đối tác không cung cấp hàng hóa. Điều này

thường bắt gặp trong các tình huống gấp gáp: ví dụ như bên mua đang cần gấp nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Dù chỉ biết nhau qua mạng, không tìm hiểu kỹ mà đã làm hợp đồng và vội vàng chuyển tiền theo L/C trong khi chưa hề đề cập kỹ càng về các nội dung cụ thể của L/C. Cuối cùng thì hàng không về vì tiền đã chuyển cho công ty ảo, không hề có thật. Rủi ro chứng từ: Những rủi ro này bắt nguồn từ các chứng từ giả, chứng từ không trung thực, mâu thuẫn giữa hàng hoá và chứng từ. Khi đối tác là những người không đáng tin cậy hay cố ý “lừa đảo”, bạn rất dễ gặp rắc rối với các loại giấy tờ giả này. Ngoài ra, mâu thuẫn giữa hàng hóa và chứng từ cũng rất nghiêm trọng. Cán bộ hải quan tịch sẽ tịch thu hàng nhập khẩu của bạn do hàng hóa và giấy tờ không trùng khớp. Rủi ro vận chuyển: Các rủi ro vận chuyển thường gặp như việc sử dụng phải các hãng tàu vận chuyển hàng hóa không đáng tin cậy như chở các loại hàng cấm, hàng chưa kê khai hải quan. Khi ấy các loại hàng vi phạm kia bị bắt giữ và hàng hóa nhập khẩu của bạn cũng không nằm ngoài rủi ro đó. Bên cạnh đó là việc hàng hóa của bạn bị hỏng hóc, giảm chất lượng do bao bì đóng gói và xếp hàng bảo quản không đúng quy cách. Tránh rủi ro khi thanh toán L/C Những rủi ro luôn luôn là đáng tiếc và bạn cần những hàng động cụ thể để tránh những điều này: Tìm hiểu đối tác, bảo vệ quyền lợi và hàng hóa, giấy tờ hợp lệ... Đó là những điều bạn nên lưu ý để tránh rủi ro khi thanh toán qua L/C. Thận trọng hợp tác: Hãy dành thời gian tìm hiểu kỹ lưỡng về người bạn hàng của bạn. Có thể qua internet, qua một thời gian tiếp xúc trước khi đi đến hợp đồng với họ hay là qua chính ngân hàng tiếp nhận L/C của bạn. Tự bảo vệ quyền lợi: Hãy xây dựng một bản hợp đồng chặt chẽ nhất là điều khoản phạt. Để bảo lãnh hợp đồng hãy yêu cầu cả hai bên cùng ký quỹ tại một ngân hàng. Ngoài ra hãy sử dụng các công cụ đảm bảo an ninh thanh toán của ngân hàng như Standby L/C, Bank Guarantee, Performance Bond.. Những công vụ này thường chỉ áp dụng đối với những hợp đồng lớn và khách hàng không quen biết để đảm bảo quyền lợi của nhà nhập khẩu. Bảo đảm cho giấy tờ hợp lệ: Chứng từ phải do cơ quan chức năng đáng tin cậy cấp. Nội dung và hình thức chứng từ phải thống nhất chặt chẽ. Vận đơn do hãng tàu đích danh lập: Khi xếp hàng hoá phải có sự giám sát của đại diện phía nhà nhập khẩu để kịp thời đối chiếu sự thật giả của vận đơn và lịch trình tàu (đối với lô hàng có giá trị lớn). Sau đó đề nghị nhà xuất khẩu gửi thẳng 1/3 bộ vận đơn gốc (bản chính).

Các giấy tờ khác phải minh bạch: Hoá đơn thương mại, giấy chứng nhận chất lượng, giấy chứng nhận kiểm tra cần phải có sự xác nhận của giám sát đại diện bên nhập khẩu, nếu cần thiết phải do cơ quan có uy tín cấp. Vận chuyển an toàn: Bên nhập khẩu nên giành quyền chủ động thuê tàu (nhập khẩu theo điều kiện nhóm F của Incoterm - Bản quy định về các điều kiện thương mại quốc tế của ICC). Nên chỉ định hãng tàu nổi tiếng, đặc biệt nên thuê tàu của các hãng có văn phòng giao dịch tại nước nhập khẩu. Bên cạnh đó nên mua bảo hiểm cho hàng hoá. Để đảm bảo chất lượng hàng, trong hợp đồng nên ràng buộc trách nhiệm của nhà xuất khẩu trong vấn đề xếp hàng lên tàu như nhập khẩu theo điều kiện FOB stowed, CFR stowed, CIF stowed… của Incoterm. Số lượt đọc: 1222

Thư tín dụng (Letter of credit – L/C) là một bức thư do ngân hàng viết ra theo yêu cầu của công ty nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, trong đó ngân hàng cam kết sẽ trả cho người được thanh toán (công ty xuất khẩu hàng hoá, công ty cung ứng dịch vụ, hoặc một người nào đó theo chỉ định) một số tiền nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện người này thức hiện đúng và đầy đủ những điều khoản trong lá thư đó. Chẳng hạn như, tập đoàn IKEA mua gỗ nguyên liệu từ hãng Manef của để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hợp đồng thương mại, hai bên có thoả thuận điều khoản thanh toán bằng L/C. Để thực hiện việc thanh toán này, một chu trình sau sẽ diễn ra: (1): Đầu tiên IKEA sẽ đến một ngân hàng tại Thuỵ Điển xin mở L/C (gọi là ngân hàng phát hành L/C). (2): Ngân hàng phát hành L/C sẽ thông báo cho một ngân hàng mà Manef mở tài khoản về kết quả mở L/C và nội dung L/C (gọi là ngân hàng tiếp nhận L/C). (3): Ngân hàng tiếp nhận L/C sẽ tiến hành kiểm tra hình thức của L/C, sau đó chuyển nguyên văn nội dung L/C cho Manef mà không được phép ghi chú hay dịch thuật bất kỳ chi tíêt nào trên L/C. (4): Manef sau khi xem xét nội dung L/C, nếu thấy hoàn toàn phù hợp với những điều khoản của hợp đồng và những nội dung đã thoả thuận với IKEA thì giao hàng cho công ty A. Nếu chưa phù hợp thì hai bên sẽ phải chỉnh sửa. (5): Manef sẽ xuất trình cho Ngân hàng tiếp nhận L/C bộ chứng từ chứng minh đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. (6): Ngân hàng tiếp nhận L/C ngay lập tức chuyển bộ chứng tứ trên cho Ngân hàng mở L/C. (7): Sau khi kiểm tra chi tiết tính hợp lệ của bộ chứng từ và thấy Manef đã thực hiện đúng những quy định của L/C thì Ngân hàng mở L/C sẽ chuyển tiền cho Ngân hàng tiếp nhận L/C. (8): Ngân hàng tiếp nhận L/C chuyển tiền vào tài khoản của công ty B, còn Ngân hàng mở L/C thì gửi bộ chứng từ cho công ty A. IKEA và Manef thanh toán chi phí thanh toán qua L/C cho các ngân hàng. Thông thường, các công ty sẽ sử dụng L/C trong thời kỳ đầu của quan hệ kinh doanh khi các bên chưa hiểu rõ nhau. Thanh toán qua L/C được thực hiện theo nguyên tắc “thanh toán trước, khiếu nại sau”, khi các chứng từ của người bán phù hợp với toàn bộ các điều kiện trong tín dụng thư (chứng từ hoàn hảo). Đó chính là sự đảm bảo thanh toán tốt nhất sau phương thức thanh toán trả trước. L/C thường là không huỷ ngang và luôn luôn được thanh toán (ngoại trừ trong trường hợp gian lận). Khi sử dụng thanh toán L/C, các công ty phải tuân thủ Quy tắc thực hành tín dụng thống nhất chứng từ (UCP 500) của Phòng Thương Mại quốc tế ICC. Quy định khá chặt chẽ là thế nhưng trên thực tế có không ít trường hợp các công ty tiến hành thanh toán qua L/C gặp phải nhiều bài học khá đau đớn khi tranh chấp xảy ra. Nếu bạn không hiểu rõ và kỹ càng về bản chất của thư tín dụng cùng những quy định pháp lý của nó thì rất có thể bạn sẽ mắc phải những sơ sót dẫn đến việc không nhận được thanh toán từ phía bên đối tác kinh doanh. Lagergren, một hãng kinh doanh các sản phẩm nội thất lớn của Thuỵ Điển, đã bán một lô hàng đồ gỗ cho

tập đoàn Cadtrak Furniture Co.Ltd của Đài Loan. Về phần mình, theo thoả thuận giữa hai bên, Cadtrak đã mở tại ngân hàng của mình một thư tín dụng L/C để chuyển nhượng số tiền hàng trị giá 760.000 USD cho Lagergren qua một ngân hàng Thuỵ Điển. Theo thoả thuận giữa hai bên, hàng sẽ được giao thành hai chuyến, mỗi chuyến cách nhau muộn nhất là 20 ngày . Tiền hàng cũng được thanh toán làm hai lần và việc thanh toán qua L/C sẽ tuân theo UCP500. Có hai điều kiện được quy định cho thư tín dụng. Thứ nhất, ngân hàng Đài Loan sẽ tiến hành thanh toán khi nhận được một bộ đầy đủ vận đơn đường biển đã xếp hàng hoàn hảo. Thứ hai, ngân hàng Thuỵ Điển sẽ phải đợi giấy chấp nhận hàng do ngân hàng tại Đài Loan của Cadtrak cấp. Giấy này sẽ được cấp sau khi có thông báo của Cadtrak rằng họ đã nhận được hàng và hàng đã được cơ quan y tế Đài Loan tại cảng chấp nhận. Sau khi hàng đến Đài Loan, ngân hàng Thuỵ Điển đã gửi bộ chứng từ của chuyến hàng cho Cadtrak và đã bị Cadtrak từ chối với lý do thời gian giữa hai chuyến giao hàng đã vượt quá 20 ngày. Ngân hàng Thuỵ Điển đã không chấp nhận điều này. Do vậy, ngân hàng đã thuyết phục Cadtrak chấp nhận điều không đúng nguyên tắc trên. Sau cùng, Cadtrak chấp nhận thời gian giao hàng quá 20 ngày nhưng vẫn bảo lưu ý kiến từ chối của mình với lý do đợi sự chấp nhận lô hàng của Bộ Y tế Đài Loan, cơ quan mà công ty Cadtrak nộp đơn xin kiểm tra hàng. Sau đó không lâu, Cadtrak thông báo rằng họ chính thức từ chối hàng của Lagergren vì Cơ quan Y tế Đài Loan tại cảng đã phát hiện ra nguy cơ mối mọt trong lô hang đồ gỗ này. Lagergren lập luận rằng, trong biên bản của Cơ quan y tế đã không có dòng chữ bác bỏ sản phẩm. Tuy nhiên, Cadtrak vẫn giữ nguyên quan điểm của mình vớI nhận định rằng: "theo thông lệ, hàng đồ gỗ phải đủ độ tin cậy để lưu kho trong vòng 12 tháng”. Cadtrak cho rằng sản phẩm mà họ đặt đã không được đảm bảo về chất lượng và bởi vậy khăng khăng không chấp nhận lô hang này. Về phía Lagergren, hãng đã có đơn kiện gửi Uỷ ban trọng tài quốc tế (Unctad) mà hai bên đã lựa chọn giải quyết khi có tranh chấp. Đơn kiện ghi rõ Cadtrak đã từ chối không đúng cách bộ chứng từ và yêu cầu được thanh toán khoản tiền hàng cộng lãi suất hàng năm 13%. Trước hết, Uỷ ban trọng tài cho rằng lý do duy nhất mà hàng chưa thuộc quyền sở hữu của Cadtrak - người mở thư tín dụng, là do họ đã từ chối lô hàng đó khi hàng đã đến nơi. Quyết định phải đưa ra là trong tình huống này liệu điều kiện "hàng hoá đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" được thoả mãn hay chưa? Tiếp đó, Uỷ ban trọng tài định nghĩa bản chất của thư tín dụng và cách mà người ta phải hiểu nó: “Thư tín dụng là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng mở thư tín dụng thanh toán hoặc sẽ thanh toán nếu các điều kiện của thư tín dụng được thoả mãn, nếu thư tín dụng đó dùng để thanh toán (Điều 3 Quy tắc và Thực hành thống nhất tín dụng chứng từ)”.Bản chất của thư tín dụng là người bán chắc chắn sẽ được thanh toán nếu xuất trình đúng bộ chứng từ. Một đặc tính cơ bản của tín dụng chứng từ là tính hình thức của nó. Các chứng từ được xuất trình chỉ có thể là đúng hoặc không đúng. Sự mập mờ ở đây không được chấp nhận. Một tín dụng chứng từ không thể được hiểu theo bất cứ một luật quốc gia nào mà các bên không có thoả thuận, thư tín dụng phải được hiểu theo các thông lệ được áp dụng cho đối tượng này trong thương mại quốc tế. Một đặc tính nữa của thư tín dụng là việc thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các bên. Chỉ cần các điều kiện trong thư tín dụng được thoả mãn và người hưởng lợi xuất trình đúng bộ chứng từ thì việc thanh toán sẽ được thực hiện. Cadtrak lập luận rằng trong trường hợp này, với việc hàng giao không được người mở thư tín dụng chấp nhận nên điều kiện "hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" đã không được thoả mãn. Nhưng theo trong tài thì việc thư tín dụng có được thanh toán hay không phụ thuộc vào thiện chí của người mở thư tín dụng (nguời mua). Việc hiểu điều kiện "hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" như vậy mâu thuẫn với mục đích của thư tín dụng chứng từ. Theo đó, việc thanh toán không được phụ thuộc vào thiện ý hay ý chí chủ quan của Cadtrak. Ở đây, hàng của Lagergren không có bất cứ sai phạm gì theo thoả thuận giữa hai bên, mà việc hạn sử dụng của hàng hoá là do Cadtrak không kiểm chứng từ trước, hãng có thể khởi kiện vi phạm hợp đồng chứ không thể từ chối thanh toán được. Điều đó có nghĩa là nếu căn cứ vào lập luận của Cadtral thì hoàn toàn không an toàn cho Lagergren. Như vậy rõ ràng Cadtrak đã sai khi từ chối việc thanh toán hoặc việc cho phép thanh toán cho Ngân hàng Thuỵ Điển. Bởi vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định Lagergren được hưởng số tiền hàng cộng với mức lãi suất là 13%/năm trong thời gian thanh toán quá hạn. Qua vụ việc trên, chúng ta có thể nhìn thấy một thực tế rằng, ngay cả những phương thức thanh toán an toàn nhất thì nguy cơ rủi ro cũng có thể xuất hiện. Để tránh được rủi ro, các công ty cần nghiên cứu kỹ lưỡng về đối tác cũng như những quy định pháp luật về phương thức thanh toán đang được áp dụng. Sau đây là một số rủi ro thường gặp khi thanh toán qua L/C:

Rủi ro do đối tác không cung cấp hàng hoá Tập đoàn Nestle có nhập khẩu bơ từ hãng Latel của Na Uy để sản xuất các loại sữa giàu dinh dưỡng. Cuộc mua bán được giới thiệu thông quan một số thông tin trên Internet. Do đang trong lúc cần nguyên liệu gấp nên Nestle đã nhanh chóng thoả thuận hợp đồng nhập khẩu với Latel. Họ đã thoả thuận thanh toán theo L/C, vì vội vàng nên Nestle chưa đề cập kỹ các nội dung cụ thể của L/C mà nhanh chóng chuyển tiền cho Latel theo L/C thông qua một ngân hàng do Nestle chỉ định. Nhưng rồi, tiền thì được gửi đi mà hàng thì mãi vẫn chưa thấy về. Tìm hiểu kỹ thì Nestle mới vỡ lẽ ra rằng, Latel chỉ là một công ty ảo trên mạng, không có thật. Những rủi ro như vậy là rất đáng tiếc và bạn cần có những bước đi cụ thể để tránh rủi ro đáng tiếc này, cụ thể là: - Tìm hiểu bạn hàng kỹ lưỡng - Tham khảo ý kiến ngân hàng về quá trình kinh doanh của đối tác - Nghiên cứu kỹ quy định về điều khoản phạt trong hợp đồng (Penalty) - Yêu cầu cả hai bên ký quỹ tại một ngân hàng để đảm bảo thực hiện hợp đồng - Yêu cầu phảI đưa ra những công cụ đảm bảo an ninh thanh toán của ngân hàng như Standby L/C, Bank Guarantee, Performance Bond.. (chỉ áp dụng đối với những hợp đồng lớn và khách hàng không quen biết nhau) để đảm bảo quyền lợi của nhà nhập khẩu. Rủi ro thanh toán do chứng từ giả, chứng từ không trung thực, mâu thuẫn giữa hàng hoá và chứng từ: Nếu đối tác không tin cậy hay đối tác có chủ ý “lừa đảo”, rất có thể bạn sẽ gặp rắc rốI bởi những lọai giấy tờ giả. Ngoài ra, vấn đề mâu thuẫn giữa hàng và chứng từ cũnglà yếu tố cần để ý, bởi rất có thể hàng hoá khi nhập khẩu sẽ bị hải quan tịch thu do không có sự trùng khớp với giấy tờ. Để tránh những rủi ro này, bạn cần: - Đưa ra các yêu cầu chặt chẽ, thống nhất giữa nộI dung và hình thức chứng từ, không yêu cầu chung chung. - Chứng từ phải do các cơ quan đáng tin cậy cấp - Vận đơn do hãng tàu đích danh lập. Khi xếp hàng hoá phải có sự giám sát của đại diện phía nhà nhập khẩu để kịp thời đối chiếu sự thật giả của vận đơn và lịch trình tàu (đối với lô hàng có giá trị lớn) - Ðề nghị nhà xuất khẩu gửi thẳng 1/3 bộ vận đơn gốc (bản chính) - Hoá đơn thương mại đòi hỏi phải có sự xác nhận của đại diện phía nhà nhập khẩu hoặc của Phòng Thương mại hoặc hoá đơn lãnh sự (Consulars invoice) - Giấy chứng nhận chất lượng do cơ quan có uy tín ở nước xuất khẩu cấp - Giấy chứng nhận số lượng cũng phải có sự kiểm tra, giám sát của đại diện phía mình hoặc đại diện thương mại. - Cung cấp giấy chứng nhận kiểm tra (Certificate of inspection) Các rủi ro khác như lựa chọn hãng tàu không tin cậy, hư hỏng hàng hoá do xếp hàng không đúng quy định,… Công ty Hapos của Úc đã ký thoả thuận mua hàng với một đối tác Nhật Bản, nhưng trong hợp đồng, Hapos đã để cho đối tác Nhật Bản lựa chọn hãng tàu vận chuyển. Hapos cứ đinh ninh đợi hàng về, nhưng sự việc bất ngờ đã xảy ra, chiếc tàu của hãng tàu trên trên đường từ Nhật Bản đến Úc đã bị hải quan bắt giữ vì có vận chuyển hàng cấm và hàng chưa kê khai hải quan. Kết quả là tất cả các hàng hoá mà Hapos đặt cũng bị tịch thu luôn. Đây là bài học lớn cho nhiều công ty xuất nhập khẩu. Phương thức thanh toán qua L/C luôn có thể phát sinh nhiều rủi ro tương tự. Do đó, bạn cần có những biện pháp tránh rủi ro như:

- Giành quyền chủ động thuê tàu (nhập khẩu theo điều kiện nhóm F của Incoterm - Bản quy định về các điều kiện thương mại quốc tế của ICC). - Chỉ định hãng tàu nổi tiếng, đặc biệt nên thuê tàu của các hãng có văn phòng giao dịch tại nước nhập khẩu. - Mua bảo hiểm cho hàng hoá. - Trong hợp đồng nên ràng buộc trách nhiệm của nhà xuất khẩu trong vấn đề xếp hàng lên tàu như nhập khẩu theo điều kiện FOB stowed, CFR stowed, CIF stowed… của Incoterm. Nhìn chung, trong các cuộc giao thương quốc tế ngày nay, thanh toán theo L/C luôn là phương thức thanh toán quan trọng nhất giữa những đối tác kinh doanh bởi L/C tạo ra sự an tâm và thuận lợi tối đa cho các công ty. Nhưng dù an toàn và tiện lợi đến mấy thì thanh toán qua L/C vẫn không thể tránh khỏi các rủi ro và tranh chấp phát sinh. Bạn cần sớm chuẩn bị cho mình những kiến thức về L/C đồng thời lường trước được những rủi ro trong quá trình thanh toán L/C. Có thế việc mua bán hàng hoá mới diễn ra nhanh gọn và L/C sẽ thực sự trở nên hiệu quả.

Related Documents


More Documents from ""