Những ngày này, nông dân trong tỉnh Hưng Yên cơ bản thu hoạch xong lúa đông xuân. Tuy gặp không ít khó khăn về thời tiết, giá vật tư phân bón tăng cao, ảnh hưởng đến sản xuất song có thể khẳng định vụ này, được mùa, năng suất bình quân ước đạt 65 tạ/ha, tương đương vụ đông xuân năm trước, sản lượng thóc 260,4 nghìn tấn. Nhiều huyện đạt năng suất cao như Khoái Châu trên 66 tạ/ha, Phù Cừ, Kim Động trên 65 tạ/ha.
Những huyện công nghiệp phát triển như Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, năng suất lúa cũng đạt 63 64 tạ/ha. Không những được mùa về năng suất, sản lượng mà lúa đông xuân còn cho giá trị, hiệu quả với những giống lúa hàng hoá, chất lượng cao bán được giá, dễ tiêu thụ. Nhìn lại đầu vụ, thời tiết khô hạn gay gắt. Mực nước sông Hồng xuống thấp nhất trong vòng 100 năm qua, ảnh hưởng đến đổ ải, gieo cấy, tưới dưỡng. Một số đợt rét đầu tháng 1 và tháng 2 ảnh hưởng sinh trưởng của mạ. Số giờ nắng từ ngày 1.310.5 thấp hơn cùng kỳ năm trước, nhiệt độ bình quân các tháng cao hơn trung bình nhiều năm nên thời gian sinh trưởng của lúa ngắn hơn. Vượt qua khó khăn của thời tiết, tỉnh sớm chủ động triển khai kế hoạch sản xuất, huy động các trạm bơm tăng cường bơm nước, giữ nước, nạo vét mương máng, khơi thông dòng chảy. Đến ngày 10.2, toàn tỉnh cơ bản bảo đảm đủ nước đổ ải, vượt kế hoạch 5 ngày, tạo thuận lợi cho làm đất cấy. Tỉnh chỉ đạo chặt chẽ lịch thời vụ, cơ cấu giống làm cơ sở giúp các huyện, thị xã vận dụng vào điều kiện thực tế địa phương. Trong quá trình sản xuất, các đồng chí lãnh đạo tỉnh thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, kịp thời chỉ đạo các địa phương và nông dân khắc phục khó khăn, bảo đảm kế hoạch gieo cấy. Cơ cấu trà vụ tiếp tục mở rộng diện tích trà xuân muộn với các giống ngắn ngày, đạt 36.635 ha, bằng 90,37% diện tích, diện tích còn lại cấy ở trà sớm với các giống dài ngày. Đối với trà muộn, tỉnh chỉ đạo nông dân chuyển mạnh sang làm mạ gieo trên nền đất cứng. Hầu hết diện tích ở trà này được nông dân các địa phương cấy bằng mạ non, gieo trên nền cứng. Lúa đẻ nhánh nhiều, cho số bông hữu hiệu cao. Được gieo cấy trong khung thời vụ thích hợp (từ 15.210.3) nên đến cuối tháng 4, lúa bắt đầu trỗ. Các trà lúa trỗ tập trung vào đầu tháng 5. Đến ngày 15.5, gần 40 nghìn ha lúa cơ bản trỗ xong. Nhìn chung thời tiết giai đoạn đầu tháng 5 khá thuận lợi cho lúa trỗ bông, phơi màu...Cơ cấu giống lúa tiếp tục mở rộng các giống tiến bộ, cho năng suất, chất lượng cao. Bộ giống lúa lai, thuần Trung Quốc với ưu thế tiềm năng về năng suất, chất lượng được thâm canh trên diện rộng. Nhóm giống lúa hàng hoá, chất lượng cao được nhiều địa phương chú trọng mở rộng. Những vụ gần đây, lúa hàng hoá, chất lượng cao ở các huyện Mỹ Hào, Yên Mỹ, Văn Lâm luôn chiếm hơn 50% tổng diện tích, nhiều xã, thị trấn gieo cấy trên 60% diện tích lúa chất lượng cao. Thực tế cho thấy, lúa hàng hoá, chất lượng cao cho năng suất không thua kém nhiều lúa tẻ thường song giá trị kinh tế hơn hẳn. Một kg thóc bắc thơm số 7 bán trên thị trường với giá 3200 đồng, hơn 500 đồng so với thóc Q5. Mỗi sào lúa bắc thơm số 7, hương thơm số 1, nếp 352 "đánh đổ" 1,52 sào lúa tẻ thường. Được mùa lúa đông xuân có sự đóng góp quan trọng của công tác tập huấn, chuyển giao áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Ngành nông nghiệp phối hợp với các địa phương, đoàn thể tổ chức tập huấn cho hàng nghìn lượt nông dân, giúp nông dân có thêm kiến thức thâm canh, chăm bón lúa. Mô hình "3 giảm, 3 tăng" (giảm lượng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế ) được triển khai ở một số địa phương đem lại kết
quả khả quan. Gieo cấy theo mô hình này, bà con nông dân giảm đáng kể chi phí "đầu vào", tốn ít công lao động, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh tế. Trong vụ này, nhiều HTX dịch vụ nông nghiệp liên kết, hợp đồng với các đơn vị sản xuất kinh doanh thóc giống, phân bón chất lượng phục vụ nông dân kịp thời. Trong quá trình sinh trưởng, nhất là giai đoạn lúa đẻ nhánh, chuẩn bị trỗ bông được điều tiết nước kịp thời. Nông dân chăm bón bằng phân tổng hợp NPK, bón lót cân đối nên lúa sinh trưởng tốt, cứng cây, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh. Được mùa lúa còn có sự góp sức đáng kể của công tác bảo vệ thực vật, phòng trừ sâu bệnh. Ngay từ đầu vụ, Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh cử cán bộ kỹ thuật xuống cơ sở, bám sát đồng ruộng, dự tính dự báo tình hình, diễn biến sâu bệnh, tham mưu kịp thời cho tỉnh và các địa phương chỉ đạo biện pháp phòng trừ, thường xuyên tuyên truyền hướng dẫn nông dân phun trừ sâu bệnh theo nguyên tắc "4 đúng". Do vậy, lúa vụ này ít sâu bệnh hơn so với nhiều vụ trước. Không có diện tích nào bị mất trắng do sâu bệnh hại.