Rừng Nguyên Sinh ở Việt Nam

  • July 2020
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Rừng Nguyên Sinh ở Việt Nam as PDF for free.

More details

  • Words: 5,304
  • Pages: 9
Rừng nguyên sinh ở Việt Nam Nam Cát Tiên: Đồng Nai - Lâm Đồng - Bình Phước Bạch Mã : Huế Rừng Sát : Cần Giờ - Tp.Hcm Cúc Phương: Ninh Bình - Thanh Hóa Ý Tý: Lào Cai U Minh Thượng : Cà Mau Yok Đôn ở Đak Lac, Bến En ở Thanh Hóa, Nà Hang - Nguyên Bình ở Cao Bằng, Cát Bà ở Hải Phòng, Pù Mát ở Nghệ An, Bình Châu ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Ba Mùn thuộc vịnh Hạ Long, Quảng Ninh. Khe Rỗ ở Bắc Giang Rú Lịnh ở Quảng Trị Bằng Tạ ở Hà Tây Dền Sáng ở Lào Cai Phú Quốc ở Kiên Giang Bidoup-Núi Bà (Khánh Hòa

Tết VN 1 Tháng giêng Âm lịch: Tết Nguyên Ðán: Tết Nguyên Ðán là Tết lớn trong năm. Tết này còn gọi là Tết Cả, vào đúng vào ngày mùng 1 tháng Giêng âm lịch, ngày đầu tiên của Năm Mới. Theo phong tục cổ truyền Việt Nam, Tết Nguyên Ðán trước hết là Tết của gia đình. Trong 3 ngày Tết diễn ra với ba cuộc gặp gỡ lớn ngay tại mỗi nhà. Thứ nhất là cuộc gặp gỡ của những Gia Thần, đó là Tiên Sư hay Nghề Sư là vị tổ đầu tiên dạy nghề mà gia đình mình đang làm. Thổ công, trong giữa đất, nơi mà mình đang ở; và Táo Quân là thần của việc nấu ăn của mọi người trong gia đình. Cuộc gặp gỡ thứ hai là cuộc gặp gỡ Tổ Tiên Ông Bà, những người đã khuất. Người dân tin rằng linh hồn của những người đã khuất cũng về với con cháu của họ vào dịp Tết. Cuộc gặp gỡ thứ ba là cuộc đoàn tụ của những người trong nhà, như một thói quen linh thiêng và bền vững nhất. Mỗi năm tết đến, dù đang ở đâu, làm gì, trong hoàn cảnh nào, hầu như ai cũng mong muốn và cố gắng trở về quây quần với những người thân trong gia đình. Dịp Tết Nguyên Ðán người ta làm bánh chưng trong cái niêu, đi chúc mừng nhau, mở hội, tổ chức các cuộc vui chơi, thi đỗ, ăn uống rất tưng bừng. Tết Nguyên Ðán thực sự là ngày hội mùa lớn, ngày nhớ ơn, tạ ơn, chúc mừng, sum họp vui vẻ, và thiêng liêng. Mùng 7 tháng giêng Âm lịch - Tết Khai Hàng: Theo tính cách của người xưa, ngày mồng 1 tháng Giêng ứng vào ngày gà; mồng hai: chó; mồng ba: lợn; mồng bốn: dê; mồng năm: trâu; mồng sáu: ngựa; mồng bảy: người; mồng tám: lúa. Trong 8 ngày đầu năm, cứ ngày nào sáng sủa, thì coi như loài giống thuộc về ngày ấy được tốt cả năm. Vì vậy, đến mồng bảy, thấy trời tạnh ráo, quang đãng, thì người ta tin rằng cả năm mọi người sẽ gặp may mắn, hạnh phúc. Mồng bảy

hạ cái niêu kết thúc Tết Nguyên Ðán cũng là ngày bắt đầu tết Khai Hàng, Tết mở đầu cho ngày vui để đón chào mùa xuân mới. Rằm tháng giêng âm lịch - Tết Thượng Nguyên: Tết Thượng Nguyên hay còn gọi là Tết Nguyên Tiêu, vào đúng ngày rằm tháng Giêng, ngày trăng rằm đầu tiên của năm. Tết này phần lớn được tổ chức tại Chùa Chiền, vì ngày rằm tháng Giêng còn được gọi là ngày Vía của Phật Tổ. Thành ngữ có câu: "Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng" xuất phát từ đó. Sau khi đi Chùa, mọi người về nhà họp mặt, cúng Gia Tiên và ăn cỗ. Mồng 3-3 âm lịch - Tết Hàn Thực: Hàn Thực nghĩa là ăn đồ nguội. Tết này vào ngày mồng 3 tháng Ba âm lịch. Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, Công Tử Trùng Nhĩ, về sau là vua Tấn Văn Công, khi gặp cảnh hoạn nạn, đói quá, được Giới Tử Thôi cắt thịt đùi của mình, nấu dâng cho ăn. Sau 19 năm phiêu bạt, Trùng Nhĩ lại được trở về nắm giữ vương quyền nước Tần. Vua ban thưởng cho tất cả những người đã cùng nếm mật nằm gai, nhưng lại quên mất Tử Thôi. Tử Thôi cũng không oán hận, vì nghĩ việc giúp đỡ Trùng Nhĩ là một nghĩa vụ của kẻ bầy tôi. Và Tử Thôi đưa mẹ vào sống ở núi Ðiều. Lúc vua nhớ ra cho người tới mời mà không được, liền sai đốt rừng để Tử Thôi phải đi ra. Tuy nhiên Tử Thôi không ra, và hai mẹ con cùng bị chết cháy. Hôm ấy đúng ngày 5 tháng Ba. Ðau xót, vua sai lập miếu thờ trên núi, và đổi tên núi đó là Giới Sơn. Người quanh vùng thương Tử Thôi nên hằng năm từ ngày mồng 3 đến mồng 5 tháng Ba thì kiêng đốt lửa mà chỉ ăn đồ nguội đã nấu sẵn. Từ thời Nhà Lý, người Việt đã tiếp nhận Tết này nhưng chỉ tổ chức vào một ngày mồng 3 tháng Ba mà thôi, không kiêng đốt lửa và thường làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội, mục đích chủ yếu là để cúng gia tiên chứ ít người hiểu rõ chuyện Giới Tử Thôi. Hiện nay, Tết này vẫn thường đậm nét ở miền Bắc, nhất là các tỉnh quanh Hà Nội. Tháng 3 Âm lịch - Tết Thanh Minh: Trong truyện Kiều có viết rằng: "Thanh Minh trong tiết tháng Ba, lễ là Tảo Mộ hội là Ðạm Thanh", Thanh Minh nghĩa là trời trong sáng, nhân đó người ta đi thăm mồ mã của những người thân. Tết Thanh Minh thường vào tháng Ba âm lịch trở thành lễ Tảo Mộ. Sau khi đã tảo mộ, mọi người trong gia đình trở về nhà làm lễ cúng gia tiên. Mồng 5-5 âm lịch - Tết Ðoan Ngọ: Tết Ðoan Ngọ còn gọi là Tết Ðoan Dương, vào ngày mồng 5 tháng Năm âm lịch. Ðây là giai đoạn chuyển mùa từ Xuân sang Hạ, nên khí hậu có nhiều thay đổi đột ngột, dễ sinh bệnh thời khí. Ca dao Viêt Nam có câu: "Chưa ăn bánh nếp Ðoan Dương, áo bông chẳng dám khinh thường cỡi ra". Khúc Nguyên là một nhà thơ nổi tiếng, một vị trung thần của nước Sở, do can ngăn Ngũ Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Miệt La tự vận. Hôm ấy đúng ngày 5 tháng Năm. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, người dân Trung Quốc làm bánh, cuốn chỉ ngũ sắc bên ngoài, chủ ý khiến cho cá sợ khỏi ăn, rồi bơi thuyền ra giữa sông ném bánh xuống cúng Khúc Nguyên. Ở Việt Nam ít người biết chuyện Khúc Nguyên, mà chỉ coi mồng 5 tháng Năm là Tết giết sâu bọ, vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Mọi người dậy sớm, chỉ ăn hoa quả hoặc chè. Tuy nhiên mỗi nơi có thêm một phong tục riêng ví dụ như ở Phụng Lý, vào ngày này, người con rễ trong gia đình thường tới biếu người bố vợ một con ngỗng thật to. Rằm tháng 7 âm lịch - Tết Trung Nguyên: Tết Trung Nguyên vào ngày rằm tháng Bảy. Theo sách Phật hôm ấy là ngày vong nhân được xá tội, ngày báo hiếu cha mẹ. Ngay tại Chùa thường làm chay tịnh tế và cầu kinh Vu Lan. Tại gia đình thì bày cúng gia tiên, đốt vàng mã. Ngày này còn gọi là ngày lễ Vu Lan. Rằm tháng 8 âm lịch - Tết Trung Thu: Tết Trung Thu nhằm vào ngày rằm tháng Tám. Trung Thu là Tết của trẻ con. Thường ban ngày người ta làm lễ cúng gia tiên, tối mới bày hoa quả bánh kẹo để trẻ con vui chơi, phá cỗ, trong trăng rước đèn.

Mồng 9-9 âm lịch - Tết Trùng Cửu: Tết Trùng Cửu vào ngày 9 tháng Chín âm lịch. Tết này bắt nguồn tự sự tích của Ðạo Lão. Thời Hán có người tên gọi là Hoàng Cảnh đi học phép tiên, một hôm thầy Phiên Tràng Phong bảo Hoàng Cảnh khuyên mỗi người trong gia đình, may một cái túi lụa đựng hoa cúc, rồi đến chỗ cao để tạm trú. Quả nhiên ngày 9 tháng 9 có lụt to, ngập hết làng mạc. Vì làm theo lời thầy, Hoàng Cảnh và gia đình đã thoát nạn. Từ xưa, nho sĩ Việt Nam đã theo lễ này, nhưng lại biến thành cuộc du ngoạn núi non, uống rượu cúc, gọi là Thưởng Tết Trùng Dương. Mồng 10-10 âm lịch - Tết Trùng Thập: đây là Tết của các thầy thuốc. Theo sách dược lễ thì đến ngày 10 tháng Mười âm lịch, thầy thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời xuân hạ thu đông, cho nên tốt nhất. Ở nông thôn Việt Nam, đến ngày đó, người ta thường làm bánh dầy, nấu chè, để cúng gia tiên, rồi đem biếu cho những người thân thuộc, chứ không mấy quan tâm đến chuyện thầy thuốc. Tết Hàn Nguyên: Tết Hàn Nguyên hay còn gọi là Tết Cầu Mới, vào ngày rằm hay ngày 1 tháng Mười. Ở nông thôn, Tết này thường được tổ chức rất lớn, vì đây là dịp nấu cơm gạo mới của vụ mùa vừa xong, trước để cúng tổ tiên, sau để tự thưởng công cày cấy. Tết Táo Quân: Tết Táo Quân vào ngày 23 tháng Chạp. Người ta coi đây là ngày vua bếp lên chầu trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua. Theo truyền thuyết Việt Nam, xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải chia tay nhau mỗi người một nơi tha phương cầu thực. Sau đó người vợ may mắn lấy được chồng giàu. Một năm kia vào ngày 23 tháng Chạp, người vợ đang đốt vàng mã ngoài sân, thì thấy một người ăn xin bước vào. Nhận ra chính là chồng cũ, nên người vợ động lòng, đem cơm gạo tiền bạc ra cho. Người chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ. Người vợ đâm khó xử, uất ức, lao vào bếp lửa tự vận. Người chồng cũ đau xót, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới ân hận, cũng lao vào lửa chết theo. Trời thấy cả 3 đều có nghĩa, nên phong cho làm vua bếp. Ca dao Việt Nam có câu: "Thế gian một vợ một chồng chẳng như vua bếp hai ông một bà". Vì tích ấy, cứ đến phiên chợ ngày 23 tháng Chạp, mỗi gia đình thường mua hai cái mũ cho ông, một cái mũ cho bà, bằng giấy, và 3 con cá chép làm ngựa để vua bếp về chầu trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt, và cá chép được mang ra thả ao hồ, sông suối.

Tỉnh Nghệ an ( lúc trước là Đắc lắc nhưng do chia nhỏ thêm tỉnh đắc Nông ) DIên tích16.487 km² 2 thị xã và 17 huyện Nhân khẩu Số dân • Mật độ 3.003.200 người 180 người/km² Dân tộc Việt, Khơ-mú, Thái, Thổ, H'Mông Mã điện thoại 38 Mã bưu chính: 42 Bảng số xe: 37 Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, phía nam giáp Hà Tĩnh, phía tây giáp Lào, phía đông giáp biển Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh nằm cách thủ đô Hà Nội 291 km về phía nam

Việt Nam hiện nay có 58 tỉnh gồm An Giang · Bà Rịa-Vũng Tàu · Bạc Liêu · Bắc Giang · Bắc Kạn · Bắc Ninh · Bến Tre · Bình Dương · Bình Định · Bình Phước · Bình Thuận · Cà Mau · Cao Bằng · Đăk Lăk · Đăk Nông · Điện Biên · Đồng Nai · Đồng Tháp · Gia Lai · Hà Giang · Hà Nam · Hà Tĩnh · Hải Dương · Hậu Giang · Hòa Bình · Hưng Yên · Khánh Hòa · Kiên Giang · Kon Tum · Lai Châu · Lạng Sơn · Lào Cai · Lâm Đồng · Long An · Nam Định · Nghệ An · Ninh Bình · Ninh Thuận · Phú Thọ · Phú Yên · Quảng Bình · Quảng Nam · Quảng Ngãi · Quảng Ninh · Quảng Trị · Sóc Trăng · Sơn La · Tây Ninh · Thái Bình · Thái Nguyên · Thanh Hóa · Thừa Thiên-Huế · Tiền Giang · Trà Vinh · Tuyên Quang · Vĩnh Long · Vĩnh Phúc · Yên Bái và 5 thành phố trực thuộc trung ương: Cần Thơ · Đà Nẵng · Hải Phòng · Hà Nội · Thành phố Hồ Chí Minh Đơn vị tỉnh thành đông dân nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương. TP.Hồ Chí Minh có trên 6 triệu người trong ranh giới chính thức, Đơn vị đông dân thứ nhì là tỉnh Thanh Hóa với trên 3,6 triệu người và xếp thứ 3 là thủ đô Hà Nội với dân số khoảng 3,1 triệu người (thống kê năm 2004). Tỉnh ít dân nhất là Bắc Kạn, một tỉnh tại khu vực miền núi Đông Bắc Bộ với khoảng gần 300 nghìn người - Tính theo diện tích, tỉnh lớn nhất là tỉnh Nghệ An, trải dài hơn 200km từ thành phố Vinh ở phía Đông đến huyện Kỳ Sơn ở phía Tây. Tỉnh nhỏ nhất là tỉnh Bắc Ninh, nằm tại đồng bằng sông Hồng đông người,diên tích 804 km2 Theo số liệu thống kê năm 2000, Việt Nam có 54 dân tộc. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 87% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày (1.190.000), Thái (1.040.000), Mường (914.000), Hoa (900.000), Khmer (895.000), Nùng (706.000), Hmông (558.000), Dao (474.000), Giarai (242.000), Êđê (195.000). Những dân tộc còn lại có dân số dưới 100.000 người, một nửa trong số đó có dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có khoảng vài trăm người. ..

Sự tích hoa Anh Đào Ngày xưa ở xứ Phù tang chưa có hoa anh đào như bây giờ. Tại một ngôi làng xinh xinh ven núi Phú Sĩ ,có một chàng trai khôi ngô tuấn tú dũng cảm khác thường. Năm chàng mới tròn một tuổi ,có một đạo sĩ phiêu bạt ghé qua nhà, nhìn cậu bé, mỉm cười đặt vào tay người cha thanh sắt đen bóng rồi lặng lẽ ra đi. Lúc đấy đang mùa đông tuyết rơi tầm tã vị đạo sĩ đi khuất trong mưa tuyết rồi mà người cha vẫn thẫn thờ nhìn trông theo. Đặt thanh kiếm vào tay người vợ trẻ, ông nói như thì thầm :”Hãy cất kỹ và giao thanh sắt này lại cho con trai chúng ta khi nó tròn 14 tuổi. Số phận đã an bài nó sẽ trở thành một kiếm sĩ lừng danh”.

Cha cậu bé qua đời. Người vợ trẻ ở vậy nuôi con. Thanh sắt đen bóng được giao lại cho chàng trai năm cậu tròn 14 tuổi. Cậu rùng mình vuốt ve kỹ vật huyền bí nặng nề ấy. Một sức mạnh kỳ lạ, một khát khao khó hiểu tràn ngập vào cơ thể tươi non

dũng mãnh của cậu. Người mẹ chưa kịp nói gì thì cậu đã run rẫy thốt lên trong cảm xúc nghẹn ngào: “Ta phải trở thành một kiếm sĩ nổi tiếng nhất đất nước này”. Chàng trai đến rạp đầu xin thụ giáo một võ sĩ đạo lừng danh. Vị samurai ngắm nhìn chàng trai từ đầu đến chân, trầm ngâm suy tư bất động hàng giờ liền. Cuối cùng ông thở dài lẩm bẩm một mình “oan nghiệt” và chấp thuận. Thời gian thấm thoát thoi đưa, tuổi 18 thanh xuân tràn trề sức sống đến với người kiếm sĩ. Tay kiếm của chàng khiến những samurai kiêu hùng nhất cũng phải e dè. Nhưng còn thanh sắt? Chàng đã tự mình rèn nó thành thanh kiếm sáng ngời đầy uy lực. Nhưng chưa được. Một thanh kiếm báu thực sự phải được tắm mình trong máu ngay trong ngày khai trận. Biết nhúng lưỡi thép uy lực này vào máu ai khi chàng chưa hề có kẻ thù, khi chàng chưa hề đối mặt với kẻ cướp, khi chàng chưa tìm được bất cứ lý do gì để quyết đấu một phen? Lúc này người mẹ và người thầy của chàng đã khuất núi. Cô gái duy nhất của vị võ sư lừng danh năm xưa là người thân yêu còn lại duy nhất của chàng. Mỗi ngày khi nắng đã tàn lụi trên núi Phú sĩ , đêm đã tràn ngập trên xóm núi , cô gái lại buồn bã nhìn chàng ngồi bất động ,trầm tư bên bếp lửa. Chàng không còn cười nữa, mắt chàng lạnh như tuyết, chàng ôm thanh kiếm mà ước mơ ngày nó được tắm mình trong máu để trở thành bảo kiếm vô địch thiên hạ Anh thân yêu! Có phải chăng đối với anh thanh kiếm này là tất cả ? Nếu nó không được tắm mình trong máu để ngập trong khí thiêng thì anh sẽ mãi mãi buồn đau? Nhìn vào bếp lửa ,chàng trai vuốt ve thanh kiếm trong lòng và nói chậm rãi rất quả quyết Chỉ buốn đau thôi ư? Không đâu! Đối với anh,thanh kiếm là sự nghiệp, là cuộc sống, là tất cả…..làm sao anh có thể coi mình là một võ sĩ đạo chân chính khi thanh kiếm của anh chưa từng no say trong máu? Trời ơi! Anh chết mất! Sao thời buổi này yên bình đến thế ? Sao không có kẻ cướp nào thúc giục anh xuống kiếm.không có kẻ cuồng ngông nào thách đấu với anh? Cô gái mỉm cười đau đớn. Cô chỉ hỏi để khẳng định quyết tâm của mình thôi. Anh thân yêu! Cho em được cầm lấy thanh kiếm của chàng một chút thôi. Cầm thanh kiếm đen bóng, sắc lạnh cô gái nhìn chàng bằng ánh mắt buồn thăm thẳm rồi đột ngột đâm thẳng vào tim. Máu trào ra ướt đẫm tấm thân mảnh dẻ của nàng, nhuộm hồng chiếc áo kimono trắng nõn, trinh bạch. Chàng trai hốt hoảng rú lên kinh hoàng, vươn tay rút phăng thanh kiếm khỏi lồng ngực cô gái. Dưới ánh lửa bập bùng ,thanh kiếm ngời sắc xanh rực rỡ, hào quang loé lên lộng lẫy lạ thường: nó đã được no mình trong máu! Nhưng từ đó ,chàng trai hoàn toàn cô độc. Không samurai nào thèm kết bạn với anh. Họ nhìn sang chỗ khác khi đối mặt trên con đường hẹp. Họ rời khỏi quán trà khi anh bước vào. Họ từ chối khi anh thách đấu …. Cho đến một hôm, một buổi chiều mùa đông, khi những bông tuyết đầu mùa vừa rơi, chàng trai ôm thanh kiếm đến bên mộ cô gái. Chàng thì thầm :”Tha lỗi cho anh. Anh đã hiểu ra rồi…”Chàng bình thản cắm sâu mũi kiếm vào bụng rạch một đường mạnh mẽ và rút kiếm ra phủ gục bên cạnh mộ. Thanh bảo kiếm cắm sâu vào mộ đất….tuyết không ngừng rơi….đến

sáng. Tuyết đã ôm trọn chàng trai và ngôi mộ vào vòng tay của mình. Chỉ còn lại một cây hoa lạ, mơn mởn vươn lên tươi cười, hồng thắm. Không ai biết hoa hoá thân từ thanh kiếm ấy. Người ta dặt tên hoa là Anh đào. Hoa anh đào có nhiều loại mọc được ở nhiều nơi. Nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa đươc ươm mầm và trổ bông ở vùng núi Phú sĩ.

Táo Quân Táo Quân,Táo Vương hay Ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam được xem là vị thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà và thường được thờ ở nơi nhà bếp. Theo quan niệm của người Việt, ngày 23 tháng Chạp (tức ngày 23-12 âm lịch) hằng năm là ngày bộ ba thổ Công, thổ Địa, thổ Kỳ vắng mặt ở trần gian lên chầu trời để báo cáo với Ngọc Hoàng thượng đế những việc thiện ác, hay dở, tốt xấu đã "thực mục sở thị" trong một năm ở hạ giới, nên công việc lúc này tạm ngừng. Mọi người lo việc đón tết. Hệ thống triều đình, làng xã, các con dấu, triện sẽ không xác nhận giấy tờ, văn bản gì nữa. Nho sinh là “lễ tạ trường”, thợ sơn trắng làm lễ “đóng cửa rừng” … Nhà nào cũng mua cá chép làm ngựa cho ông táo lên trời. Ngày hôm đó, gia đình nào cũng làm mâm cơm cúng thật thịnh soạn, khấn trước bàn thờ, kể rõ mọi việc trong năm và mong muốn trong năm mới mọi việc sẽ thuận buồm xuôi gió. Truyền thuyết về Táo quân Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Táo quân có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do kết quả của thuyết tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các tín ngưỡng, tôn giáo. Bếp là bản nguyên của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất. Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về tình tiết, nội dung chính được tóm tắt như sau: Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng. Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo. Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy

vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ. Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng Đế. Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân, nhưng mỗi người giữ một việc: Ø Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Danh hiệu: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân Ø Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa. Danh hiệu: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần Ø Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa. Danh hiệu: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần. Truyền thuyết này thể hiện rất đậm nét trong sinh hoạt của người Việt. Trong bếp ngày xưa, thường có ba "ông đầu rau" - tức là ba hòn đất nặn dùng để kê nồi xanh đun bếp, trong đó hai hòn nhỏ hơn hòn thứ ba. Và nhân dân có tục lệ thờ "hai ông một bà", ngày 23 tháng Chạp hàng năm làm "lễ Táo quân", "Tết ông Công ông Táo", "tiễn ông Táo lên chầu Trời"... Đây rất có thể là ảnh hưởng của phong tục thờ thần lửa - một phong tục có từ lâu đời của nhiều dân tộc, tuy nhiên cách thể hiện ở mỗi nước một khác. Ví như ở Trung Quốc, từ thời cổ đại, Táo quân (còn được gọi là "Táo thần", "Táo vương", "ông Táo") đã được coi là một trong bảy vị thần đất được toàn dân cúng lễ. Nhưng nguồn gốc của Táo quân thì không nhất quán. Theo sách Hoài Nam Tử, Viêm Đế (tức Thần Nông) mang lửa đến cho dân nên khi chết được thờ làm thần bếp. Sách Lã Thị Xuân Thu lại coi Chúc Dung mới là thần quản lý lửa (do Viêm Đế mang tới) nên khi chết người dân thờ làm thần lửa. Còn sách Tây Dương tạp trở thì kể: thần lửa trông như một cô gái đẹp, tên là ổi hay Trương Đan, tên chữ là Tử Quách, những ngày không trăng thường lên trời tâu về việc người nào có lỗi... Chuyện truyền miệng của người Trung Quốc lại cho rằng trước kia mỗi tháng vua bếp lên trời một lần vào ngày tối (ngày cuối tháng âm lịch) để báo cáo về từng người trong mỗi gia đình (nhất là về những người đàn bà làm điều xấu); sau này, mỗi năm vua chỉ lên trời một lần vào ngày 23 hoặc 24 tháng Chạp. Đến ngày ấy, người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, cúng vua bếp bằng thịt, cá, rượu nếp, bánh kẹo; đặc biệt có thêm cả nước và cỏ khô (cho ngựa của vua bếp "ăn" để bay và chở vua lên trời khác với Táo quân của ta thì cưỡi cá chép lên trời). Nghi lễ Thờ cúng Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, trên có bài vị thờ viết bằng chữ Hán. Bài vị thờ vua Bếp thường được ghi vắn tắt là "Định Phúc táo Quân" nghĩa là thần định mọi sự hạnh phúc. Táo Quân được các gia đình cúng lễ quanh năm, vào các dịp sóc, vọng thường hương hoa oản quả. Những dịp lễ tết giỗ chạp hay có công to việc lớn trong nhà có thể cúng chay hoặc cúng mặn tuỳ nghi. Dịp lễ long trọng nhất dành riêng cho Táo Quân chính là tết ông Công ông Táo vào 23 tháng chạp. Theo tín ngưỡng cổ truyền, đây là ngày Táo Quân lên trời báo cáo Ngọc Hoàng Thượng đế những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian, những hành vi, việc làm tốt, xấu của các thành viên trong gia

đình trong năm một cách khách quan, trung thực. Phương tiện để Táo Quân lên trời là cá chép vàng. Tết ông Công ông Táo làm to nhỏ, chay mặn tùy khả năng mỗi gia đình, nhưng dứt khoát phải có bộ mã Táo Quân mới. Sau khi cúng Táo Quân, người ta hóa mã, đồng thời hóa cả bộ mã năm trước. Lễ cúng Táo quân Lễ cúng Táo Quân ngày 23 tháng Chạp được coi là mang tính cách chuyển giao năm cũ, đón chào năm mới. Người ta chuẩn bị chu đáo cho chiều 30 là thời điểm đón ông Công ông Táo trở về trần gian làm nhiệm vụ năm mới. Lễ vật cúng Táo Quân gồm có: mũ ông công ba cỗ hay ba chiếc (hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà). Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyết màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấỵ Màu sắc của mũ, áo hay hia ông công thay đổi hàng năm theo ngũ hành: + Năm hành kim thì dùng màu vàng + Năm hành mộc thì dùng màu trắng + Năm hành thủy thì dùng màu xanh + Năm hành hỏa thì dùng màu đỏ + Năm hành thổ thì dùng màu đen Những đồ "vàng mã" này (mũ, áo, hia, và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo Quân. Bài vị ở bàn thờ thổ Công thường ghi: “Đông trù tư mệnh, Táo phủ thần quân, Thổ Địa long mạch tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần”. Khi sửa lễ cúng ông Công, người ta đều đốt bài vị cũ, thay bài vị mới. Sau khi lễ xong thì hoá vàng, hoá luôn cả cỗ mũ năm trước và thả một con cá chép còn sống xuống ao, cá sẽ hoá rồng để ông công cưỡi lên chầu trời. Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo Quân một con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy! Ngoài ra, để các ông và các bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc Việt Nam người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý "cá hóa long" nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông táo về trời. Con cá chép này sẽ sau đó được "phóng sinh" (thả ra ao, hồ hay sông). Tại miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Ở miền Nam thì giản dị hơn, người ta chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy. Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng...v...v) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc..v...v..) để tiễn Táo Quân. Hình ảnh Táo Quân - vua bếp cũng trở nên gần gũi với cuộc sống hiện đại hơn với quan niệm gia đình nào được Táo Quân phù hộ nhiều thì hạnh phúc, yên ổn, thành đạt, bếp đỏ lửa mỗi ngày. Những gia đình không có điều kiện đỏ lửa mỗi ngày để ông

vua bếp làm nhiệm vụ thì ngầm hiểu là Táo Quân chưa hoàn thành nhiệm vụ giữ gìn tổ ẩm gia đình một cách trọn vẹn.

Related Documents

Sinh Vien Nguyen Tien Nam
October 2019 15
Vit
June 2020 15
Vit
October 2019 30
Vit
November 2019 29
Vit
October 2019 35