LêI Më §ÇU
Xã hội loài người đang tiến gần hơn đến sự phát triển bền vững. Đó là việc vừa phát triển kinh tế hiện đại song song với bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn đang hoành hành ở khắp mọi nơi trên hành tinh xanh. Môi trường sinh sống, hoạt động và phát triển của con người vẫn đang ngày ngày bị tàn phá mặc dù cộng đồng quốc tế vẫn đang ra sức kêu gọi bảo vệ môi trường. Do đó, trong vài năm gần đây, thuật ngữ “an ninh sinh thái” đã xuất hiện và trở thành một trong những mục tiêu chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Sau cách mạng công nghiệp, nền kinh tế thế giới như thay da đổi thịt với tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kỳ của nhiều nước. Song sự lợi dụng tự nhiên của con người cũng ngày càng phá hoại môi trường nghiêm trọng hơn. Một loạt các vấn đề an ninh sinh thái, môi trường và tài nguyên mang tính toàn cầu và khu vực như sự thay đổi khí hậu mang tính toàn cầu, tầng ozone bị phá hỏng, tài nguyên nước bị thiếu nghiêm trọng và khủng hoảng năng lượng đe doạ đến sự phát triển bền vững của con người. Ô nhiễm môi trường trở thành một vấn đề toàn cầu và buộc mọi quốc gia phải liên kết với nhau để cùng tìm phương thức giải quyết. Hơn thế, vấn nạn sinh thái này có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến toàn bộ nền kinh tế thế giới và đời sống chính trị quốc tế. Bài tiểu luận sẽ cung cấp một cái nhìn đầy đủ về vấn đề ô nhiễm môi trường với tư cách là một vấn đề toàn cầu. Nguyên nhân nào làm môi trường sinh thái bị ô nhiễm và tàn phá. Thực trạng của vấn đề ra sao trên phạm vi toàn cầu. Tác động của vấn đề đến quan hệ quốc tế và chính trị quốc tế là tích cực hay tiêu cực. Cuối cùng, giải pháp nào là hiệu quả cho vấn đề sinh thái toàn cầu này. Câu trả lời sẽ có trong nội dung chi tiết của bài tiểu luận.
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG I.
Khái niệm ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là sự có mặt của các chất lạ, độc hại gây nên những biến đổi nghiêm trọng về chất lượng của các yếu tố của môi trường như đất, nước, không khí…vượt qua ngưỡng chịu đựng tự nhiên của sinh thể( dẫn đến biến dạng hoặc chết hàng loạt) và con người( ốm đau, bệnh tật,suy giảm sức khoẻ, thậm chí cả chết người ) Ngưỡng chịu đựng tự nhiên của các loài sinh vật khác nhau không giống nhau. Đối với con người, ngưỡng chịu đựng được xác định bằng những tiêu chuẩn môi trường – là những quy định về chuẩn mực, giới hạn cho phép đối với các yếu tố của môi trường như đất, nước, không khí… làm căn cứ để quản lí môi trường, nhằm đảm bảo sức sống của sinh thể, bảo vệ sức khoẻ, sự sống và khả năng lao động của con người. II. Các dạng ô nhiễm môi trường Ô nhiễm môi trường sống tồn tại dưới các dạng ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm phóng xạ, các tia vũ trụ,v.v.. Ô nhiễm nước là dạng ô nhiễm nguy hiểm nhất, bởi vì toàn bộ sự sống trên trái đất gắn liền với nước. Ô nhiễm nước là sự biến đổi của chất lượng nước bởi các chất lạ, độc hại đến nước, gây nguy hiểm đến sự sống của các sinh vật, đến sự sống và sinh hoạt của con người, tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp , công nghiệp, ngư nghiệp và các hoạt động thương mại, nghỉ ngơi, giải trí…Nếu xét theo các tác nhân gây ô nhiễm thì ô nhiễm nước có các loại như ô nhiễm vô cơ, ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm hoá chất, ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi các tác nhân vật lí.. Ô nhiễm không khí là sự có mặt của các chất lạ độc hại trong khí quyển, làm biến đổi thành phần và chất lượng của không khí theo chiều hướng xấu đối với sự sống. Ô nhiễm không khí cũng có hai nguồn: nguồn gốc tự nhiên ( do núi lửa, cháy rừng, gió bụi, các quá trình phân huỷ các chất hữu cơ trong tự nhiên,v.v..) và nguồn gốc nhân tạo do các hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con người gây nên. Ô nhiễm đất là sự biến đổi thành phần chất lượng của lớp đất ngoài cùng của thạch quyển, dưới tác động tổng hợp nước, không khí đã bị ô nhiễm, rác thải độc hại, các sinh vật và vi sinh vật..theo chiều hướng tiêu cực đối với sự sống của sinh vật và con người
Sa mạc hoá là một trong những biểu hiện nguy hiểm nhất của sự suy thoái và ô nhiễm đất. Hiện tượng sa mạc hoá diễn ra đặc biệt mạnh ở các vùng thường xuyên bị khô hạn. Hiện nay trên thế giới có tới 3,6 tỉ ha đất đang chịu ảnh hưởng của sự suy thoái đất. III. Thực trạng của ô nhiễm môi trường hiện nay Ô nhiễm môi trường đang là một thách thức lớn đối với tất cả chúng ta.Chỉ mất vài phút để đốn đổ một cái cây nhưng lại phải mất rất nhiều năm , thậm chí cả trăm năm để trồng lại được một cái cây như thế. Chính những hành động của con người đã và đang tàn phá nghiêm trọng đến môi trường sinh thái . Dưới đây là một vài con số thống kê giật mình, trên thực tế những con số này có lẽ còn cao hơn nữa. Khoảng 50% dân số trên hành tinh không có nước sạch 80% diện tích rừng đang bị tàn phá hoặc suy thoái, 6 triệu ha đất trồng đã bị biến thành hoang mạc. Nếu tốc độ khai thác rừng tiếp tục như hiện nay thì chỉ khoảng trong 170 năm nữa, rừng trên toàn cầu sẽ hoàn toàn biến mất. ¼ các loài động vật có vú và hàng loạt những loài động thực vật quý hiếm khác đang có nguy cơ tuyệt chủng IV. Hậu quả chung của ô nhiễm môi trường 1. Đến sức khoẻ con người Sự suy thoái của chất lượng nước, không khí và những nguy hiểm khác về môi trường đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp lên sức khỏe con người, dẫn đến sự suy giảm sức khỏe và các bệnh tật liên quan, bao gồm cả các căn bệnh gây ra bởi vi trùng và côn trùng do sự thay đổi của khí hậu như sốt rét, vàng da.. Theo tổ chức y tế thể giới hàng năm có khoảng hơn 2 triệu người chết vì các căn bệnh liên quan đến môi trường. Ngày 5/12/1952 tại Luân Đôn, Anh đã xảy ra hiện tượng “ làn khói giết người”. Người ta đo được hàm lượng khí Sunfua trong không khí đã cao tới 3,8mg/m3 - gấp 6 lần so với bình thường. Nồng độ bụi khói lên tới 4,5mg/m3 cao gấp 10 lần so với thường ngày. Dân trong thành phố đều cảm thấy tức ngực, khó thở và ho liên tục. Chỉ trong vòng có 4,5 ngày đã có hơn 4000 người bỏ mạng, trong đó phần lớn là trẻ con và người già, hai tháng sau lại có 8000 người nữa tiếp tục chết. Không chỉ có tác động trực tiếp, ô nhiễm môi trường còn để lại những hậu quả lâu dài có khi đến vài thế hệ. Điển hình như sự bùng nổ làng ung thư ở Việt Nam. Sau một làng ung thư đầu tiên ở Thạch Sơn – Phú Thọ, liên tiếp một loạt các làng ung thư khác được nhắc tới
ở Hà Nam, Hà Tây, Nghệ An, Quảng Nam và mới đây nhất là làng ung thư ở Thuỷ Nguyên Hải Phòng. Có nơi số người chết lên tới hơn 1/3 dân số của làng, bao gồm cà người già và trẻ em – tất cả đểu liên quan đến tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng. 2. Đến kinh tế. Ô nhiễm môi trường làm suy yếu sức khoẻ con người, từ đó dẫn đến giảm năng suất lao động, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, sự suy thoái của chất lượng môi trường sẽ làm giảm hiệu năng các nguồn tài nguyên cho sản xuất như sụ tổn thất trong nghề cá( do ô nhiễm nước), giảm sự phát triển của rừng do đất bị xói mòn.. Mặt khác, chi phí dành cho y tế cũng như chi phí để khắc phục hậu quả của ô nhiễm môi trường không ngừng tăng lên. Ở Nhật Bản, thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm môi trường 1955 là 132 triệu USD, đến năm 1970 ( 15 năm sau) con số này đã lên tới 13 tỷ USD, tức là tăng 174 lần. Ước tính thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra ở các nước Tây Âu tương ứng với 6% tổng thu nhập quốc dân. Ngoài ra ô nhiễm môi trường còn tác động trỏ lại môi trường tự nhiên. Sự ô nhiễm môi trường nước, không khí dẫn đến sự ô nhiễm môi trường sống. Sự ô nhiễm môi trường sống mang tính toàn cầu được chỉ báo bằng các hiện tượng chủ yếu như hiệu ứng nhà kính, lỗ thủng tầng Ozon, mưa axit, sa mạc hoá, sự đa dạng sinh học bị giảm sút, v.v ..đó chính là những vấn đề bức xúc nhất đang đặt ra cho toàn nhân loại. Một sự biến đổi nguy hiểm nhất do tác động ngược của ô nhiễm môi trường chính la sự biến đổi khí hậu trên trái đất. Có thể coi sự biến đổi của khí hậu trên trái đất là hậu quả tổng hợp tất yếu của các hiện tượng do ô nhiễm môi trường gây nên. G.H Bronteman nguyên chủ tịch uỷ ban môi trường và phát triển thế giới đã nói rằng trừ chiến tranh hạt nhân ra thì sự biến đổi của khí hậu là mối đe doạ lớn nhất đối với con người. Nó không những đe doạ sự tồn vong của con người mà còn uy hiếp cả tương lai của trái đất.
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG I. Nguyên nhân con người Quan điểm duy nhân loại lấy con người làm trung tâm từ xa xưa, đặc biệt là trong thế kỉ XVII- XVIII đã trở thành một quan niệm ăn vào tiềm thức của con người . Con người là tâm điểm của mọi sự chú ý, có quyền uy tối thượng, còn giới tự nhiên chỉ là một bộ máy vô tri vô giác. Con người thống trị tự nhiên nên có thể tuỳ ý tác động lên nó, lấy đi của tự nhiên tất cả những gì cần thiết cho cuộc sống của mình, và thực tế đã diễn ra đúng như vậy, nhất là từ khi nổ ra cuộc cách mạng công nghiệp. Để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của mình, con người đã khai thác, vơ vét tất cả những nguồn tài nguyên thiên nhiên để đưa vào sản xuất, bất chấp các quy luật tồn tại và phát triển của chúng, miễn là thu được lợi nhuận một cách cao nhất, nhanh nhất, khi mà lợi ích kinh tế trở thành mục tiêu duy nhất và cao nhất của sự phát triển xã hội, một tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá sự phát triển. Nhưng thực chất thì lợi ích kinh tế do đâu mà có? Phải chăng con người đã cướp bóc từ thiên nhiên và vay mượn các thế hệ tương lai. Những khối tài nguyên khổng lồ mà con người đem vào trong sản xuất lẽ ra phải được coi là cái vốn của sản xuất, thế nhưng trong thực tế, chúng lại được xem như là thu nhập xã hội, là lợi ích kinh tế mà con người được hưởng thụ. Điều đó cũng có nghĩa là các thế hệ mai sau khó có cơ hội để thoả mãn các nhu cầu của mình từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên trái đất. II. Nguyên nhân xã hội 1. Sự chưa hoàn thiện về kĩ thuật công nghệ của nền sản xuất xã hội. Sự chưa hoàn thiện của kĩ thuật và công nghệ của nền sản xuất xã hội dưới nền văn minh nông nghiệp và công nghiệp là một trong những nguyên nhân gây nên và thúc đẩy ô nhiễm môi trường. Để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người, nền sản xuất xã hội đã phải sử dụng một khối lượng tài nguyên thiên nhiên rất lớn và ngày càng nhiều hơn. Trong điều kiện nền kĩ thuật và công nghệ chưa hoàn thiện và còn nhiều hạn chế, xã hội buộc phải sử dụng phương thức khai thác tài nguyên thiên nhiên theo bề rộng, nghĩa là đối với một loại tài nguyên nào đó chỉ dùng một vài tính năng chủ yếu, rồi thải bỏ, chẳng hạn
như than đá, dầu mỏ chỉ dùng làm nhiên liệu. Chính vì điều đó mà tài nguyên thiên nhiên càng được khai thác nhiều thì các chất thải bỏ độc hại ra môi trường ngày càng lớn. Hậu quả tất yếu của phương thức sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên theo bề rộng là tài nguyên ngày càng cạn kiệt, môi trường sống ngày càng ô nhiễm nặng nề hơn. 2. Bùng nổ dân số. Tác động đến môi trường của sự gia tăng dân số thế giới có thể mô tả bằng công thức tổng quát: I=C.P.E Trong đó: I: Tác động môi trường của sự gia tăng dân số và các yếu tố liên quan đến dân số. C: Sự gia tăng tiêu thụ tài nguyên trên đơn vị đầu người. P: Sự gia tăng tuyệt đối dân số thế giới E: Sự gia tăng tác động đến môi trường của một đơn vị tài nguyên mà con người khai thác. Các tác động tiêu cự của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới nói chung và sự bùng nổ dân số ở một số quốc gia và khu vực nói riêng biểu hiện ở các khía cạnh: Sức ép lớn tài nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phục vụ cho các nhu cầu nhà ở,sản xuất lương thực, thực phẩm,sản xuất công nghiệp.. Tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn – siêu đô thị làm cho môi trường khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự phát triển dân cư, kéo theo ô nhiễm môi trường không khí, nước tăng lên. 3. Chiến tranh. Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, tổng cộng đế quốc Mĩ đã rải 72 triệu lít chất diệt cỏ trong đó có 44 triệu lít chất độc màu da cam lên 1,7 triệu ha đất trồng và rừng ở miền nam Việt Nam. Hậu quả để lại cho con người cũng như môi trường sống cho đến nay vấn chưa tình toán được hết vì sự tàn phá khủng khiếp của nó. Ngay khi bị rải thuôc diệt cỏ lần thứ nhất, 30% cây rừng bị chết ngay sau đó. Cây rừng bị trụi lá, nước bị ô nhiễm, động vật chết vì nhiễm độc, nhiều thảm rừng đến nay vấn không có loại cây nào có thể mọc được … minh chứng tiêu biểu cho sức tàn phá của chiến tranh lên môi trường tự nhiên.
Thế giới của chúng ta đã phải chứng kiến biết bao cuộc chiến tranh có sức huỷ diệt lớn, và từng ngày từng giờ vẫn xảy ra những cuộc chiến tranh xung đột sắc tộc, tôn giáo… Bên cạnh những thiệt hạỉ khủng khiếp về người và của thì hậu quả tác động đến ô nhiễm môi trường đang là một lời cảnh bảo.
CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỚI QUAN HỆ QUỐC TẾ Sau khi đã hiểu được những nguyên nhân nào gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường (ÔNMT) cùng những thực trạng đáng báo động của vấn nạn này, chắc hẳn chúng ta cũng đoán được phần nào những tác hại khôn lường mà ô nhiễm môi trường gây ra cho các lĩnh vực khác trong cuộc sống con người. Môi trường là nơi diễn ra mọi hoạt động của con người, là một “nhà kho khổng lồ” dự trữ và cung cấp cho con người nguyên nhiên liệu để sản xuất và phát triển kinh tế. Do đó, khi mà mái nhà chung ấy bị tàn phá sẽ gây ra ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực của đời sống. Trong từng cá thể là một quốc gia, môi trường suy thoái sẽ gây tổn thất cho quốc gia đó. Nhưng đồng thời các ca thể khác của mái nhà Trái đất cũng không đứng ngoài vòng ảnh hưởng. Từ đó, giữa các cá thể sẽ nảy sinh những vấn đề. Đó có thể là hợp tác hoặc mâu thuẫn hay xung đột. Quan hệ giữa các quốc gia hay quan hệ quốc tế nói chung sẽ thay đổi ra sao khi môi trường sinh thái trên toàn Trái đất bị tàn phá. Liệu có mối liên quan nào giữa vấn nạn sinh thái này với sự ổn định của nên chính trị quốc tế? Câu trả lời là có! I/ ÔNMT gây ra xung đột trong quan hệ quốc tế và bất ổn cho nền chính trị quốc tế
Như đã đề cập ở trên, ÔNMT có tác động rất mạnh mẽ tới chính trị quốc tế nói riêng và quan hệ quốc tế nói chung. Có thể coi đây là vấn đề an ninh sinh thái. An ninh sinh thái sẽ gây ra những bất ổn cho quan hệ quốc tế trên ba cấp độ: trong phạm vi một quốc gia, mối quan hệ giữa các quốc gia và trên bình diện quốc tế hay tức là ở phạm vi toàn cầu. Bắt đầu từ việc gây ra những khó khăn cho một quốc gia, suy thoái môi trường sẽ tạo ra căng thẳng trong quan hệ quốc tế và cuối cùng là cả thế giới đặt trong những nguy hiểm về an ninh sinh thái. 1. Trong phạm vi một quốc gia: a, Kìm hãm phát triển kinh tế xã hội Như chúng ta đã biết, môi trường sinh thái là cơ sơ sản xuất và sinh sống của loài người, là nơi diễn ra mọi hoạt động của con người. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên có tầm quan trọng đặc biệt với đời sống con người, tạo ra cơ sở vật chất để phát triển ktế, vhoá, xã hội; tạo cho con người phương tiện sinh sống và phát triển bền vững. Nói như vậy có nghĩa là môi trường có tác động trực tiếp đến sự phát triển của một quốc gia. Khi mà môi trường bị tàn phá, nó sẽ gây ra những thiệt hại nặng nề và kìm hãm sự phát triển của cả một đất nước. Các thảm hoạ tự nhiên như bão, lũ lụt, hạn hán, sa mạc hoá một phần là do tất yếu trong quá trình vận động của thiên nhiên. Nhưng mặt khác cũng do hoạt động sản xuất và khai thác tự nhiên bừa bãi của con người gây ra. Trong tác phẩm kinh điển “Collapse”, tác giả Jared Diamond đã chỉ ra rằng: “khi xét tính bền vững, điều quan trọng không phải là bao nhiêu người đang sống trên hành tinh này, mà là những ảnh hưởng của họ gây nên đối với môi trường”1. Và con người đã phải trả giá cho hành động của mình. Thiên tai gây ra những thiệt hại to lớn về người và của cho mọi quốc gia, bất kể là siêu cường như Mĩ hay đang phát triển như Indonesia. Một trận bão Katrina có thể khiến toàn bộ nền kinh tế Mĩ trì trệ và thiệt hại lên đến hơn 100 tỷ Đô la, tàn phá trung tâm sản xuất dầu khí quan trọng của Mĩ. Cơn bão đi qua làm ngưng trệ sản xuất của các nhà máy lọc dầu và khai thác dầu dẫn tới việc giá xăng dầu không ngừng tăng lên. Ngành sản xuất ngũ cốc lương thực cũng bị thiệt hại do khu vực cơn bão tàn phá là nơi chung chuyển ngũ cốc lớn nhất của Mĩ. Còn trận sóng thần tấn công vào Indonesia và một số quốc gia Đông Nam Á làm hơn 50 người thiệt mạng và hàng trăm người bị cuốn phăng ra biển. Ngành du lịch không chỉ của Thái Lan, Indonesia mà còn 1
Thomas L. Friedman: Thế giới phẳng – tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI, Nxb Trẻ, Tr 710
của hầu hết các nước châu Á đều bị tổn thất. Thiệt hại kinh tế cùng nỗi kinh hoàng của người dân phải mất rất nhiều thời gian mới khắc phục được. Rõ ràng, kinh tế xã hội của một quốc gia sẽ bị kìm hãm nếu các thảm hoạ tự nhiên cứ liên tục xảy ra với mức độ tấn công ngày một tăng; và “rất có thể chỉ những người đương đại khi bị những tổn thất về kinh tế di môi trường bị phá hoại gây ra mới ý thức được phần nào hành động sai trái của mình, nhưng đến lúc đó mọi sự đã rồi, có ân hận cũng đã quá muộn”.2 b, Đe doạ sự phát triển nguồn nhân lực Về khía cạnh con người, môi trường sinh thái bị tàn phá cùng lúc tàn phá luôn sức khoẻ của con người. Khi bầu không khí tràn ngập khói bụi, khí thải công nghiệp độc hại; nguồn nước cũng chứa các chất hoá học; đất đai chứa hàm lượng chì hay lưu huỳnh thì chắc chắn con người sẽ bị mắc các loại bệnh nguy hiểm mà đáng sợ nhất là bệnh ung thư. Sức khoẻ suy giảm còn chất lượng cuộc sống thì bị giảm sút. Chính tại các thành phố lớn, nơi mà công nghệ hiện đại với đời sống cao song môi trưòng lại bị ô nhiễm nặng. Phương tiện giao thông đông đúc cùng với mật độ đi lại dày đặc, một ngày lượng khí thải gây ô nhiễm khó có thể tính được. Còn khi bão lũ, hạn hán hoành hành thì người nông dân phải gánh chịu hậu quả đầu tiên. Đời sống sản xuất bị trì trệ cùng với phương tiện sản xuất là đất đai thì ngày càng cằn cỗi. Vậy hãy nhìn vào vấn đề nhân lực ở đây: con người là lực lượng sản xuất, là linh hồn của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhưng khi chính linh hồn đó đang ở trong tình trạng nguy cấp như vậy thì làm sao có thể phát triển đất nước, nói chi là phát triển bền vững. c, Thách thức chủ quyền quốc gia Vấn đề phát triển kinh tế xã hội và nguồn nhân lực của một đất nước đã được đề cập ở trên. Nghiêm trọng hơn, ngay cả chủ quyền quốc gia dân tộc cũng bị đe doạ khi mà xảy ra ô nhiễm môi trường. Do biên giới quốc gia luôn gắn liền với biên giới sinh thái, tất cả các quốc gia đều cùng chung sự sở hữu bầu khí quyển, nguồn tài nguyên rừng, tài nguyên đất và tài nguyên nước …Tuy nhiên, có những quốc gia đã lợi dụng sự sở hữu chung này để xâm phạm chủ quyền quốc gia khác. Họ giương cao ngọn cờ bảo vệ môi trường, ngăn chặn sự suy thoái của sinh thái trên Trái đất hòng can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Xin được đưa ví dụ về vấn đề tranh chấp rừng Amazone làm dẫn chứng. “Các quốc gia phát triển lấy cớ phải bảo vệ rừng và khí quyển nên đã đề ra những yêu cầu về chủ quyền đối với rừng Amazone của Brazil”3. Phó tổng thống Mĩ đã từng nói: “Vùng Amazone không phải là 2 3
Karad Lorenz: Tám vấn đề lớn của nhân loại, Nxb Công an nhân dân, 2004, Tr 62 Vương Dật Châu: An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004,
Tr 242
của họ mà thuộc về tất cả chúng ta”. Cựu tổng thống Pháp Mitteran cũng tuyên bố: “Brazil chỉ có chủ quyền tương đối với khu vực rừng Amazone”. Các nước này giương cao ngọn cờ bảo vệ môi trường sinh tồn của loài người, ra sức tuyên truyền rằng tài nguyên rừng trên Trái đất này là thuộc về cả loài người, nó không có biên giới nên không thuộc về riêng một quốc gia nào cả. Họ ra sức gây dư luận “quốc tế hoá” khu vực Amazone, có ý đồ can thiệp chủ quyền của Brazil. Thậm chí Mĩ còn đòi thành lập hẳn lực lượng “quân đội xanh” để bảo vệ rừng Amazone. Như vậy, môi trường sinh thái là cái cớ xem ra có vẻ rất có lý để nước này đặt ra yêu sách với nước kia. Giả thiết rằng nếu Brazil chấp nhận lực lược quân đội xanh vào bảo vệ rừng Amazone, ai dám chắc rằng lực lượng này sẽ chỉ ở trong rừng Amazone mà không can thiệp vào bất cứ chuyện gì của Brazil. Chủ quyền lãnh thổ sẽ bị thách thức khi mà môi trường sinh thái là không biên giới. Nếu chủ quyền quốc gia bị đe doạ, chính phủ của quốc gia đó trước hết sẽ phải tập trung giải quyết vấn đề này. Vậy thì mối quan tâm giành cho phát triển kinh tế xã hội sẽ phải tạm ngưng lại. Còn nếu chủ quyền quốc gia không giữ được, nước đó sẽ phải phụ thuộc vào nước khác hay nói cách khác là “mất nước”. Lúc ấy thì việc có phát triển bền vững được nước mình hay không không còn nằm trong tay chính phủ của họ nữa. d, Tiểu kết luận: Môi trường và tài nguyên thiên nhiên có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, tạo nên cơ sở vật chất để phát triển kinh tế, văn hoá xã hội; tạo cho con người phương tiện sinh sống và phát triển bền vững. Khi môi trường bị suy thoái, mọi lĩnh vực trong đời sống của con người sẽ bị ảnh hưởng rồi tới mọi lĩnh vực của một quốc gia bị đe doạ. Tình hình bất ổn sẽ xuất hiện làm một quốc gia không thể toàn tâm toàn ý thực hiện chiến lược phát triển của mình. Những khó khăn thách thức do vấn nạn ô nhiễm môi trường gây ra khiến một đất nước bất ổn. Khi nhân tố quốc gia trong ngôi nhà chung toàn nhân loại gặp khó khăn, chắc chắn ngôi nhà đó cũng không thể an toàn. Ô nhiễm môi trường là một vấn đề nan giải đặt ra cho tất cả mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển và đang phát triển. 2. Trong quan hệ giữa các quốc gia Môi trường sinh thái bị tàn phá có thể làm cho một quốc gia bất ổn. Hệ lụy của tình trạng này là sẽ có nhiều quốc gia khác bị tác động gián tiếp theo. Đó không chỉ là các nước
láng giềng lân cận mà thậm chí những nước ở cách nhau nửa vòng trái đất vẫn cùng chung hậu quả từ nạn suy thoái môi trường. Khi mà tác động xấu cứ ngày một tăng dần lên, cuốn tất cả các nước vào trong một vòng xoáy thì tất nhiên sẽ nảy sinh mâu thuẫn và xung đột. Có hai hậu quả nghiêm trọng mà ÔNMT gây ra cho quan hệ giữa các nước: a, Các “lò lửa xung đột” trên toàn thế giới Trong một bản báo cáo của Cục khai thác quốc tế Mĩ phân tích về môi trường có nói rõ: “Trong nguyên nhân căn bản gây nên xung đột hiện nay, nhân tố môi trường và nhân tố chính trị quan trọng ngang nhau”. Như vậy có nghĩa là nhân tố môi trường đã được đặt ngang hàng với yếu tố chính trị trong các cuộc xung đột. Chiến tranh lạnh kết thúc cũng là lúc mà loài người bắt đầu coi trọng các vấn đề an ninh phi truyền thống. Trong đó an ninh sinh thái luôn được đặt lên hàng đầu. Một phần là do loài người ý thức được tầm quan trọng của hệ sinh thái, một phần là do hiểu được nếu an ninh sinh thái bị đe doạ sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng như nguy cơ từ an ninh truyền thống. Cụ thể là nó dẫn tới các cuộc xung đột. Hai loại xung đột tiêu biểu nhất bắt nguồn từ vấn nạn ô nhiễm môi trường là xung đột về tài nguyên và xung đột ÔNMT. “Xung đột tài nguyên là xung đột xảy ra do tranh giành những tài nguyên tự nhiên như nước ngọt, đất đai, dầu lửa hay khoáng sản …”4. Các biểu hiện cụ thể của ÔNMT như mưa acid, khí hậu toàn cầu nóng dần lên, tầng ozone bị thủng đã làm cho sự tái tạo của tài nguyên trên trái đất bị giảm đi trong khi nhu cầu và lượng sử dụng tài nguyên tự nhiên của các nước không ngừng gia tăng. Bởi vậy quan hệ giữa các nước trở nên căng thẳng do tranh giành, nắm giữ và sử dụng các nguồn tài nguyên đang trở nên cạn kiệt. Ví dụ như sự tranh giành nguồn tài nguyên nước kéo dài nhiều năm giữa Ấn Độ với Băngladesh, giữa Syria với Israel và Jordani ở vùng Trung Đông. Mỹ với nước láng giềng Mexico không giữ được quan hệ hữu hảo cũng chỉ vì những tranh giành tài nguyên nghề cá. Nauy đương đầu với cả cộng đồng Liên minh châu ÂU EU hay hai nước lớn là Nga và Nhật cũng xảy ra xung đột xung quanh việc tranh chấp tài nguyên nghề cá. Nhưng các xung đột khu vực này sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu các nước không biết kiềm chế và cùng nhau giải quyết, đó là chiến tranh bùng nổ. Vẫn là việc giành giật quyền kiểm soát sông Nile để chiếm được nguồn nước từ con sông dài nhất thế giới, quan hệ giữa Ai Cập, Xudan và Ethiopia đã luôn hết sức căng thẳng. Không chỉ ở châu Phi, tại điểm nóng Trung Đông cũng xảy ra chiến tranh và xung đột kéo dài hàng thế kỷ. Chiến tranh Trung Đông lần thứ 3 năm 1967 nguyên nhân sâu xa là vì 4
Vương Dật Châu: An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, Tr 230
tranh chấp nguồn nước ở sông Jordan và một số con sông lân cận. Đấu tranh giành nguồn nước khô cằn ở vùng Trung Đông đã có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và ổn định. Cựu thủ tướng Israel đã từng nói: “Lịch sử đấu tranh giành nguồn nước của sông Jordan dài hơn cả lịch sử”. Như vậy, xung đột tài nguyên biểu hiện ban đầu ở sự tranh giành giữa các nước; sau đó dẫn tới xung đột và đỉnh điểm là dẫn tới chiến tranh. ÔNMT là một vấn nạn về sinh thái nhưng bản thân nó cũng là một dạng xung đột. Mọi quốc gia trên Trái đất này đều cùng chung sở hữu đối với môi trường sinh thái. Khi môi trường tại một quốc gia bị phá huỷ, tình trạng ô nhiễm sẽ chuyển dịch qua biên giới quốc gia và lan sang các nước lân cận. Đó là khi vật thể bị ô nhiễm tự do di chuyển trong khí quyển, vùng nước và thực vật. Đó là khi quốc gia ở thượng nguồn thải chất bẩn làm ô nhiễm nước ăn của các quốc gia ở miền hạ du, các khói bụi công nghiệp của các nước ở đầu hướng gió bay sang các nước ở cuối hướng gió gây ra mưa acid, nước này chặt phá rừng làm xói mòn đất, ảnh hưởng đến nông nghiệp của nước láng giềng. Xin được đưa ra các ví dụ sinh động sau: Nạn ÔNMT ở Trung Quốc – quốc gia được coi là “hiện tượng” của thế kỷ XXI với tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ. Nhưng cùng với nền kinh tế “phi như mã” đó là môi trường sinh thái ở Trung Quốc đang bị ô nhiễm nặng. “Theo Ngân hàng thế giới, 16 trong số 20 thnàh phố ô nhiễm nhất thế giới nằm ở Trung Quốc; sự ô nhiễm và xuống cấp môi trường đó mỗi năm làm Trung Quốc tiêu tốn mất 170 tỉ Đôla”5. Tuy nhiên, môi trường ô nhiễm ở Trung Quốc còn gây tổn hại cho một loạt các nước láng giềng. Những luồng gió cát bẩn từ lục địa Trung Quốc tràn sang khiến người dân Seoul không phơi được quần áo ngoài trời, không khí ở thủ đổ Seoul Hàn Quốc bị ô nhiễm nặng. Gió mùa từ Trung Quốc thổi vào thành phố Kita Kiusu của Nhật Bản mang theo nhiều oxit lưu huỳnh gây ra hiện tượng mưa acid. Chỉ riêng năm 1991, Trung Quốc thải vào bầu khí quyển của Đông Nam Á 160 ngàn tấn Axit Sunphuric gây ô nhiễm không khí cho nhiều nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Cháy rừng ở Indonesia - một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á với Việt Nam. Trong lịch sự, vụ cháy rừng ở Indo năm 1997 đã phá huỷ hơn 10 triệu hecta hoa màu của Malaysia và khiến hầu hết các khu vực trong Đông Nam Á chìm trong khói. Tổng thiệt hại về kinh tế trong năm đó lên tới 9,3 triệu Đôla Mĩ. Gần đây, cháy rừng vẫn tiếp tục xảy ra và gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới Malaysia. Gió thổi khó bụi bay sang và vây kín đường phố 5
The Economist, 21 tháng 8 năm 2004
thủ đô Kuala Lampua, khiến nhiều trường học và sân bay phải đóng cửa. Chính quyền Malaysia đã phải ban hành tình trạng khẩn cấp. Nghiêm trọng hơn là việc Đảng đối lập ở Malaysia (ADP) do quá phẫn nộ đã tiến hành biểu tình trên đường phố và trước Đại sứ quán Indonesia. Động thái này đe doạ đến mối quan hệ vốn đã rất mong manh giữa hai quốc gia này. Xung đột Nga - Nhật năm 1993: tháng 10 năm 1993, Nga đã đổ ra vùng biển của Nhật hơn 900 tấn rác thải phóng xạ, làm chết hàng trăm loài cá và các sinh vật biển trong vùng; phá huỷ môi trường biển nơi đây. Đồng thời sự ÔNMT biển này cũng gây tổn thất lớn cho ngành đán bắt cá của Nhật Bản. Nhật ngay lập tức đã lên tiếng cảnh báo và yêu cầu Nga chấm dứt ngay lập tức, cả Mĩ cũng dính líu vào vụ việc này. Một loạt các quốc gia ven biển Đông cũng tham gia vì các rác thải phóng xạ đó lan ra gây hại đến sức khỏe của người dân nước họ. Vậy là không chỉ có Nga và Nhật mà ngay cả Mĩ và một loạt các quốc gia khác cũng bị lôi vào cuộc xung đột. Quan hệ giữa Nga và Nhật vốn đã không mặn mà do những tranh chấp quanh tài nguyên nghề cá nay lại càng thêm căng thẳng do việc Nga phá hoại môi trường biển Nhật Bản. b, Làm tăng số người tị nạn môi trường Bên cạnh việc tạo ra các “lò lửa xung đột”, ÔNMT còn dẫn tới tình trạng di cư ồ ạt và tỉ lệ người tị nạn môi trường tăng lên. Khi khí hậu nóng lên cùng với đất đai bị sa mạc hoá sẽ tạo ra sự thiếu hụt về tài nguyên. Chính sức ép từ sự thiếu hụt này đã gây ra hiện tượng di cư ồ ạt và tăng mạnh số người tị nạn môi trường. Tình trạng này vừa gây ra những mâu thuẫn bất đồng giữa các nước. Đồng thời tạo ra thiệt hại cho cả hai bên. Tại những nước xảy ra ÔNMT, người dân di cư sang nước khác để lại một sự thiếu hụt lớn về lao động. Mà phần lớn các nước này thường nằm trong nhóm kém hoặc đang phát triển. Lực lượng lao động mà không đủ thì càng khó khăn hơn cho họ trong phát triển kinh tế. Các nước có người nhập cư và tị nạn môi trường sẽ phải đương đầu với một loạt các vấn đề gây bất ổn xã hội như: tỉ lệ người thất nghiệp tăng cao, dịch bệnh lan tràn hay tệ nạn xã hội gia tăng đột biến …Cùng lúc đó tỉ lệ người nghèo sẽ gia tăng, sản lượng lương thực giảm sút khiến cho kinh tế sa sút. Cả xã hội bị chao đảo và cục diện chính trị trong nước bất ổn định. Từ đó, xung đột sẽ nảy sinh giữa các nước với nhau. Ví dụ: Từ năm 1984 đến 1985, có 10 triệu dân tị nạn châu Phai rời khỏi quê hương, ước tính chiếm 2/3 tổng số dân tị nạn trên thế giới. Họ bỏ quê hương ra đi không phải chuyện lạ, vì châu lục này có 35 người bị đói và rét do hạn hán thiên tai xảy ra triền miên. Trong quá khứ mà con số tị nạn môi trường này đã lên tới 10 triệu. Vậy thì trong
thế giới hiện đại ngày này, con số ấy phải vượt mức 20 triệu và gây nên những mâu thuẫn sâu sắc giữa các nước. Tóm lại, dù là nước công nghiệp phát triển hay đang phát triển, dù là bị ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp thì ÔNMT luôn là “mối hoạ” cho mọi quốc gia. Chính vấn đề này đã gây ra rạn nứt trong quan hệ giữa các nước và từ đó tạo thành các xung đột lớn và thậm chí là chiến tranh. Do đó, ÔNMT kìm hãm sự phát triển của toàn nhân loại. 3. Trong đời sống chính trị quốc tế, ÔNMT gây ra nhiều bất ổn Quan hệ giữa các nước là tổng thể các mối quan hệ kinh tế, thương mại, văn hoá, xã hội, ngoại giao và đặc biệt là quan hệ về chính trị. Khi mà ÔNMT làm căng thẳng và rạn nứt quan hệ quốc tế thì nó tất nhiên sẽ gây tác động xấu tới mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia. Cụ thể, vấn nạn này gây ra những xáo trộn và làm cho tình hình chính trị quốc tế luôn tiềm ẩn những bất ổn.
a, Giảm hiệu quả của hệ thống PL quốc tế và các cơ chế an ninh quốc tế Khi nảy sinh mâu thuẫn hay tranh chấp giữa các nước, chúng ta cần đến hệ thống pháp luật quốc tế hay các cơ chế an ninh chung để giải quyết. Song hậu quả của ÔNMT là làm cho một số luật quốc tế và các cơ chế an ninh quốc tế trong lĩnh vực sinh thái giảm hiệu quả và thậm chí là uy tín của mình. Xin đi sâu phân tích điều này qua Nghị định thư Kyoto. Đây là một công ước quốc tế quy định lượng cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính đối với các quốc gia trên thế giới. Mục tiêu của nghị định thư này là nhằm bảo vệ bầu khí quyển, ngăn chặn hiện tượng hiệu ứng nhà kính và lỗ thủng tầng ozone. Nhưng trong khi đặt ra các quy định và con số cụ thể yêu cầu các nước công nghiệp phát triển cắt giảm thì Nghị định thư này lại miễn giảm cho một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil. Điều này đã gây ra mâu thuẫn lớn giữa một bên là Mĩ, Nhật Bản, Canada và Australia. Họ cho rằng sẽ là không công bằng nếu miễn giảm cho Trung Quốc, Ấn Độ hay Brazil vì chính những nền công nghiệp này cũng đang thải ra lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính khổng lồ. Từ đó, Mĩ – quốc gia có lượng khí thải lớn nhất thế giới lại không chịu thực thi Nghị định thư này. Kéo theo hậu quả là bất cứ nước nào khi bị buộc cam kết thực thi đều viện lí do là Mĩ còn không thực thi. Vậy là Nghị định thư Kyoto không thực sự hiệu quả và uy tín quốc tế của nó trong những năm qua không thực sự cao.
Ngoài ra còn phải kể tới các công ước của Liên hợp quốc về bảo vệ môi trường và hoạt động của các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ như Oxfam, Hoà bình xanh … Tuy nhiên, tất cả những thứ đó dường như vẫn chưa đủ hiệu quả để giải quyết nạn ô nhiễm môi trường trên toàn thế giới đặc biệt là ở các nước thế giới thứ ba.
b, ÔNMT trở thành một con bài để mặc cả về chính trị Có những quốc gia rất tích cực trong công cuộc bảo vệ môi trường sinh thái trên toàn thế giới. Hành động của họ xuất phát từ mục đích bảo vệ an ninh sinh thái không chỉ của riêng họ mà còn vì hoà bình chung cho nhân loại. Song cũng có trường hợp một số quốc gia đã lấy vấn đề an ninh sinh thái ra làm một con bài để mặc cả về chính trị. Họ lấy sức ép từ ÔNMT để thoả thuận, đàm phán và giao kèo với một số nước hòng đạt được những mục đích nhất định. Trở lại với ví dụ về xung đột Nga - Nhật năm 1993. Sau khi xảy ra vụ việc, thủ tướng Nga lúc đó đã lên tiếng nói rõ cho Nhật biết rằng nếu Nhật không tăng cường viện trợ kinh tế cho Nga thì vấn đề sẽ không thể sớm được giải quyết. Năm 1993 là thời điểm mà chiến tranh lạnh vừa kết thúc, Liên Xô tan rã và nước Nga ra đời trong những điều kiện hết sức khó khăn về kinh tế cũng như chính trị. Do đó Nga rất cần viện trợ từ bên ngoài để khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế. Nga đã lấy việc đổ rác thải phóng xạ làm con bài mặc cả với Nhật và các nước. Nếu viện trợ không đến tay Nga, không đầy đủ nhanh chóng hoặc không hiệu quả thì Nga sẽ không dừng lại hành động của mình, bất chấp sự phản đối kịch liệt của cộng đồng quốc tế trong đó có cả Mĩ. c, ÔNMT làm sâu sắc thêm mâu thuẫn Bắc – Nam Mâu thuẫn Bắc – Nam là mâu thuẫn vốn tồn tại muôn thủa giữa một bên là các nước phát triển và một bên là các nước thuộc thế giới thứ ba. Ngày nay, chính các nước phát triển nhất lại là những nước sử dụng nhiều năng lượng nhất, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên trên Trái đất này. Không công bằng là ở chỗ chính họ lại không bị trả giá cho những hành động vô ý thức của mình mà lại là những nước kém phát triển nhất. Thiên tai bão lũ hay sóng thần cứ ập vào làm các nước vốn nghèo nay lại càng ở trong tình trạng nguy ngập hơn. “Chỉ cần một người phương Tây bật bếp gas đun sôi một ấm nước thôi cũng có thể gây ra một trận lụt ở Băngladesh”. Sự bất bình đẳng trong tiêu thụ và sử dụng năng
lượng giữa bối cảnh thiếu hụt tài nguyên và năng lượng trầm trọng như vậy đã làm cho mâu thuẫn Bắc Nam càng sâu sắc hơn bao giờ hết d, Tiểu kết luận Có thể đưa ra một phản ứng hoá học như sau cho quan hệ quốc tế: Khi giữa các nước vốn tiềm ẩn những mâu thuẫn và bất đồng, mỗi nước lại có những tính toán riêng cho mình (muốn đòi viện trợ kinh tế hay xâm phạm chủ quyền quốc gia khác), cơ chế luật quốc tế lại lỏng lẻo và thiếu hiệu quả. Đó là ba thành phần chính trong phản ứng này. ÔNMT xuất hiện như một chất xúc tác với những hậu quả của nó như thiếu hụt năng lượng, cạn kiệt tài nguyên hay hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ozone. Chất xúc tác này sẽ làm phản ứng xảy ra nhanh hơn, mạnh hơn và cho ra kết quả không tốt chút nào. Đó là chính trị quốc tế bất ổn. II/ Đặt ra thách thức mới cho hệ thống pháp luật quốc tế và cơ chế an ninh sinh thái Ngoài việc gây ra những xung đột và bất ổn định trong nền chính trị quốc tế, ô nhiễm môi trường còn là một tác nhân dẫn đến sự thay đổi trong các cơ chế pháp luật quốc tế đang tồn tại cũng như thúc đẩy sự hình thành các hệ thống luật mới và cơ chế an ninh sinh thái trên thế giới. Thách thức đặt ra cho hệ thống pháp luật quốc tế chính là do mối quan hệ tương tác giữa các nhân tố mà nó điều chỉnh. Một số quy pham pháp luật được dùng để điều chỉnh về môi trường và các phạm trù xung quanh nó, tuy nhiên một khi môi trường có sự biến đổi thì lẽ dĩ nhiên là không thể làm ngơ với cái được gọi là “bất phù hợp” của các quy phạm này. Những ảnh hưởng tiêu cực của ô nhiễm môi trường đang làm thay đổi dần cả thế giới và không có gì khác ngoài việc con người phải tập thích nghi với nó để dung hoà những gì mà họ đang nắm trong tay. Đương nhiên hành động của con người phải đi theo những nguyên tắc chung nhất định, trong khuôn khổ của các quy pham pháp luật, do đó loài người không thể tách rời hệ thống pháp luật với các động thái tới thiên nhiên của mình. Kể từ khi hình thành và phát triển, cùng với mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên và nhận thức được tầm quan trọng của nó đến cuộc sống con người, loài người đã có những ý thức nhất định trong việc bảo vệ môi trường. Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh và mạnh, vấn nạn ô nhiễm môi trường đặt ra những yêu cầu lớn cần được điều chỉnh, do đó đã hình thành nên các cơ chế luật để điều chỉnh nó. Các văn bản pháp luật này, dù là song phương hay đa phương đều
có những quy phạm cụ thể và nguyên tắc chung thống nhất có tính pháp lý cao nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc cưỡng chế thực hiện. Có thể thấy vai trò của chúng là cực kì quan trọng và đã được kiểm định qua thời gian dài. Tuy nhiên, dễ dàng nhận thấy là môi trường ngày nay không còn được như trước nữa. Sự hư hỏng, ô nhiễm, cạn kiệt đang dần bao phủ lấy nguồn tài nguyên vô tận này. Những biến đổi đó vô tình tạo nên bức màn ngăn cách giữa thực tế những gì đang diễn ra và những gì đã từng được nhắc đến trong hệ thống pháp luật quốc tế. Đơn giản rằng nó không còn phù hợp hay đúng hơn là chưa cập nhật được những thay đổi này do vậy cũng đã xảy ra không ít mâu thuẫn giữa các quốc gia chỉ vì sự khập khiễng giữa thực tế và “lý thuyết”. Nhằm tạo được sự công bằng, đúng đắn cho các mối quan hệ đó, pháp luật dĩ nhiên phải được thay đổi để theo kịp tốc độ ô nhiễm đang diễn biến ngày càng phức tạp đó. Một số ví dụ cụ thể cho thách thức này đó là Luật biển quốc tế, các Công ước về biển hay Nghị định thư Kyoto. Luật biển quốc tế và các Công ước về biển là những quy phạm luật quốc tế có ý nghĩa cực kì quan trọng và đã được sự tham gia của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Phạm vi điều chỉnh của nó là khá rộng vì bao hàm hết các bộ phận, khu vực và các sinh thể thuộc biển và đại dương. Ra đời từ khá lâu, các công ước này ít nhiều đã góp phần phân định ranh giới rõ ràng, đặt ra các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho mỗi quốc gia trong phạm vi trách nhiệm của mình. Tuy nhiên những biến đổi trong tự nhiên ngày nay đã cho thấy những bất cập cần được xem xét và sửa đổi của hệ thống luật này. Một điển hình cụ thể là việc nóng dần lên của Trái đất đã làm tan băng ở hai cực từ đó làm dâng cao mực nước biển. Nhìn một cách đơn giản, chỉ có thể nhận ra ảnh hưởng của nó ở tầm thấp đó là việc ảnh hưởng đến đời sống con người, nhưng ở khía cạnh khác, nó sẽ làm nảy sinh các mâu thuẫn vốn liên quan đến các tranh chấp xung quanh vấn đề biển và đại dương giữa các quốc gia. Một mặt, con người sẽ phải hứng chịu những hệ luỵ này, nhưng mặt khác, tất lẽ dĩ ngẫu sẽ bắt buộc phải đưa ra các điều khoản mới trong việc phân định các ranh giới và giải quyết các xung đột này. Ví dụ thứ hai là về Nghị định thư Kyoto. Nghị định này được đưa ra năm 1997, cho đến hiện tại đã nhận được sự chấp thuận chính thức của
140 quốc gia. Nghị định thư Kyoto
là bản thoả thuận của các quốc gia về việc cắt giảm lượng khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính ở các quốc gia phát triển xuống còn 8%. Bề ngoài, nó là một phương án khá hữu hiệu và nhận được sự đồng tình của nhiều quốc gia nhưng thực ra vẫn còn khá nhiều bất đồng xung quanh vấn đề này và có các yêu cầu đưa ra rằng nên chỉnh sửa nó cho phù hợp hơn với thực tế ngày nay. Luận điểm này được đưa ra bởi Hoa Kỳ và một số nước Công nghiệp phát triển
khác như Canada, Australia. Theo ý kiến của các quốc gia này thì mặc dù các nước này có ngành công nghiệp phát triển lớn mạnh nhưng cần nhìn nhận rằng chính các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc hay Ấn Độ - những nước tự cho rằng mình có cái quyền miễn trừ trách nhiệm đối với vấn đề này mới chính là “ông trùm” của lượng khí thải độc hại đang được thải ra với mức kỉ lục hiện nay. Chính sự bất bình này đã gây ra dư luận phản đối đối với điều khoản miễn trừ tham gia Nghị định cho các quốc gia đang phát triển. Bên cạnh đó, việc Mỹ từ chối tham gia nghị định đã đẩy Nga làm con bài thay thế. Sau hơn 7 năm kiên quyết đứng ngoài cuộc, cuối tháng 11 vừa qua Nga đã phải chấp nhận là đại diện duy nhất cho Hội đồng bảo an tham gia vào nghị định này, chính thức đặt mốc cho hiệu lực của nghị định. Như vậy, dù là sớm hay muộn thì việc bầu sinh quyển đang chết dần chết mòn của chúng ta sẽ đặt ra yêu cầu chỉnh sửa lại Nghị định này chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi. Cùng với sự điều chỉnh trong hệ thống pháp luật đã tồn tại thì việc ra đời các quy phạm luật mới cho vấn đề môi trường cũng đang gây ra những trở ngại lớn cho nền pháp luật quốc tế. Hàng loạt các Công ước, Hiệp định, Nghị định song phương và đa phương đã ra đời để có thể cùng với các sản phẩm đã tồn tại trước đó góp phần hạn chế bớt những ảnh hưởng xấu của vấn nạn này. Ví dụ như 10 Công ước chính của Liên hợp quốc điều chỉnh về các vấn đề liên quan đến thiên nhiên và môi trường: - Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 1927 - Công ước về các vùng đất ẩm có tầm quan trọng quốc tế, Ramsar, 1971 - Công ước về buôn bán các laòi hoang dã đang bị đe doạ diệt chủng, Washington, 1973 - Công ước bảo vệ các loài động vật di cư, Bon, 1979 - Luật biển, Montego Bay, 1982 - Công ước về bảo vệ tầng ôzôn, Viên, 1985 và Nghị định thư về các chất phá huỷ tầng ôzôn, Montreal, 1987 - Công ước về vận chuyển các chất thải nguy hiểm qua biên giới, Bâle, 1989 - Công ước về thay đổi khí hậu, NewYork, 1992 - Công ước về đa dạng sinh học, Narobi, 1992 - Công ước về chống nạn sa mạc hoá, Paris, 1994 Nguồn: UNEF (2000), tr.199 Một vấn đề khác được đặt ra ở đây là việc xuât hiện cơ chế an ninh sinh thái. Cơ chế an ninh sinh thái được hiểu đơn giản là việc một quốc gia đặt ra cho mình những nguyên tắc
nhất định trong việc bảo vệ nền sinh thái thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia đó, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng cũng giống như các phạm trù an ninh cần được bảo vệ khác. Cơ chế này khiến cho các quốc gia ngày càng gia tăng sự độc lập của mình trong việc đưa ra đường lối đảm bảo cân bằng sinh thái của quốc gia mình mà không sợ bất kỳ sự xâm phạm nào từ các quốc gia khác. Việc đưa sinh thái vào làm một bộ phận của nền an ninh nhà nước là một bước nhảy vọt trong nhận thức cũng như hành động của các quốc gia, cho thấy tầm quan trọng và ảnh hưởng của thiên nhiên và môi trường đối với sự tồn tại, diệt vong của loài người. III/ Ô nhiễm môi trường góp phần thúc đẩy tư duy toàn cầu và tăng cường cơ chế hợp tác quốc tế Mọi thứ đều có hai mặt của nó, và ô nhiễm môi trường cũng không nằm ngoài quy luật này. Một mặt ô nhiễm môi trường được coi là một trong những vấn đề toàn cầu nguy hiễm nhất nhưng mặt khác nó cũng được xem như là nhân tố giúp giải quyết các vấn đề toàn cầu khác. Tất cả những gì liên quan đến cuộc sống của con người đều nằm trong tầm bao phủ của môi trường, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của nó cũng sẽ dẫn đến những biến đổi to lớn cho những vấn đề khác. Như vậy nếu chúng ta có thể kiềm chế được sự gia tăng ngày càng lớn của ô nhiễm môi trường thì chúng ta cũng đã góp phần giúp hạn chế và giải quyết những vấn đề toàn cầu khác. Cụ thể như hiện nay rất nhiều quốc gia đang xảy ra xung đột chỉ vì các ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường vì vậy nếu như giải quyết được vấn đề môi trường thì cũng sẽ giúp đẩy lùi được một nguy cơ toàn cầu khác là chiến tranh. Hay nếu như không còn ô nhiễm môi trường thì vấn đề cạn kiệt nguồn nước cũng chắc chắn không còn xuất hiện trong danh mục của những vấn đề toàn cầu. Không thể chỉ nhìn vào những tác động riêng lẻ mà ô nhiễm môi trường gây ra ở từng quốc gia, cũng như không thể giải quyết nó nếu như tự mỗi quốc gia hoạch định cho mình một con đường riêng. Ô nhiễm môi trường không chỉ là vấn đề của một khu vực, một vùng miền mà là một vấn đề toàn cầu, bản thân nó đủ sức làm cho các quốc gia không thể trụ vững nếu chỉ “đứng một mình”. Nói đúng hơn thì ô nhiễm môi trường chính là “chất keo dính” giữa các quốc gia. Chỉ có bắt tay và hợp tác cùng nhau tìm hiểu và hành động thì các quốc gia mới có thể giải quyết được vấn đề này. Từ sự hợp tác đó sẽ hình thành nên tư duy toàn cầu và cơ chế hợp tác quốc tế. Tư duy toàn cầu được hiểu là lối tư duy lấy sự hợp tác của toàn nhân loại làm chính. Ở đây không tồn tại lối tư duy cá nhân, cô lập giữa các chủ thể
mà tất cả đều chỉ có thể bắt đầu một khi có sự đồng tình cùng tham gia giải quyết của toàn thể các chủ thể khác. Từ đó cũng ra đời cơ chế hợp tác quốc tế - các chuẩn mực, nguyên tắc được đưa ra để điều chỉnh các hành động này. Cùng với các hoạt động nhằm ngăn chặn ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường cũng đã góp phần dẫn dắt con người đến sự phát triển bền vững. Theo như quan điểm của các nhà kinh tế coi trọng môi trường thì phát triển bền vững là phát triển đi đôi với vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Nhân tố cơ bản của phát triển bền vững nhấn mạnh sự so sánh và chuyển giao lợi ích, phúc lợi giữa các thế hệ, hay nói một cách khác vấn đề cơ bản ở đây chính là việc đảm bảo cho các thế hệ sau một lượng của cải, vật chất ít nhất là bằng những gì mà thế hệ hiện nay được thừa kế6. Từ định nghĩa và bản chất của sự phát triển bền vững, có thể thấy hiện nay chính sự quan tâm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường đang góp phần quan trọng dẫn dắt loài người tìm đến sự phát triển bền vững. Những phương án, những kế hoạch được lập ra chính là một trong những bước đưa con người đạt đến một thời kì mới của chặng đường phát triển bền vững. Như vậy bên cạnh các tác động tiêu cực thì những khía cạnh trên đây có thể được coi là tác động tích cực “duy nhất” mà ô nhiễm môi trường mang lại. Chúng ta không thể phủ nhận nó, cũng như không thể phủ nhận rằng rất cần sự hợp tác giữa các chủ thể để có thể giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường và hàng loạt các vấn đề toàn cầu khác. CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ô nhiễm môi trường là một vấn đề toàn cầu, bởi vậy để giải quyết thành công vấn đề này cần có sự hợp tác của tất cả các quốc gia, dân tộc. Và để làm được điều này trước tiên cần phải thay đổi quan niệm chung của con người. I. Các biện pháp cá nhân: 1. Thay đổi quan điểm phát triển duy kinh tế: Duy kinh tế tức là lấy những chỉ tiêu kinh tế làm thước đo cho sự phát triển của xã hội loài người. Quan điểm này đã tồn tại trong toàn bộ lịch sử loài người từ xưa đến nay. Loài người luôn tìm cách thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của mình. Vì vậy, phát triển kinh tế là mục tiêu vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, mục tiêu này không phải là duy nhất. Bởi vì, con người sống và làm việc ngoài nhu cầu ăn, mặc, ở và các tiện nghi trong gia đình còn có nhu 6
Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2006
cầu chăm sóc sức khoẻ, được giáo dục đầy đủ, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, các nhu cầu về một xã hội công bằng, dân chủ, tự do, văn minh, nhu cầu sống trong môi trường trong sạch... Những nhu cầu này chỉ có được khi con người chuyển từ chiến lược phát triển duy kinh tế sang phát triển bền vững, lâu dài. 2. Thay quan điểm duy nhân loại và chinh phục thiên nhiên: Theo quan điểm duy nhân loại thì con người là trung tâm của thế giới, có quyền định đoạn mọi vật xung quanh tức là giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là đối tượng khai thác và bóc lột, là kho của cải vật chất để con người vơ vét. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy con người và tự nhiên đều là sản phẩm của sự sống. Con người có khả năng tác động đến tự nhiên để phục vụ lợi ích của mình. Ngược lại tự nhiên cũng có thể tác động đến cuộc sống con người. Đây là hai mặt không thể tách rời nhau. Tuy nhiên, thực tế những thảm hoạ gần đây do thiên nhiên gây ra như đợt sóng thần Sumatra năm 2004, cơn bão Katrina ở Mỹ năm 2005 đã chứng minh sức mạnh của thiên nhiên mới là vĩ đại nhất. Con người chỉ là sinh vật nhỏ bé trước thiên nhiên. Do vậy, cần phải thay quan điểm duy nhân loại và chinh phục thiên nhiên bằng quan điểm đồng tiến hoá giữa xã hội và tự nhiên. Đây là quan điểm đúng, rất cần thiết và phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay. 3. Thay quan điểm phát triển cục bộ theo vùng lãnh thổ: Xét về phương diện môi trường, Trái đất là mái nhà chung của toàn thể loài người. Vì vậy, sự thay đổi môi trường của một quốc gia đều có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của cộng động thế giới. Đơn cử như, một nước có nền sản xuất ra nhiều chất gây ô nhiễm môi trường có thể gây ra “hiệu ứng nhà kính”, “mưa axít” hay “lỗ thủng ôzôn” ở những cả những nước lân bang. Các dòng khí thải độc hại từ nhà máy hoá chất, thuốc trừ sâu, các nhà máy dệt, đặc biệt là các chất phóng xạ từ các nhà máy điện nguyên tử đều có phạm vi ảnh hưởng rộng. Vì vậy, để giải quyết được vấn đề môi trường, các quốc gia, dân tộc trên toàn Thế giới cần có những giải pháp hữu hiệu, cần phải cùng nhau góp sức giải quyết các vấn đề môi trường sống bức xúc đang đặt ra và không để nảy sinh thêm những vấn đề tiêu cực mới trong lĩnh vực môi trường. II. Các biện pháp Quốc tế: 1. Tăng cường vai trò chính trị và khả năng hành động độc lập của các tổ chức khu vực và quốc tế:
Một số tổ chức tiêu biểu hiện nay là Chương trình môi trường của Liên hiệp Quốc (UNEP), Uỷ ban Liên chính phủ về sự thay đổi khí hậu (IPCC), Hội bảo vệ tài nguyên và thiên nhiên quốc tế (IUON), Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA), Hội nghị Liên hiệp quốc tế về luật biển (UNCLOS), Tổ chức lương thực Liên hợp quốc (FAO), Tổ chức hoà bình xanh... Các tổ chức này ngoài nhiệm vụ tư vấn và trợ giúp cho các nước hoàn thiện những yếu kém của mình còn có quyền đưa ra điều kiện cho các nước nhận viện trợ. Vì vậy việc tăng cường vai trò chính trị của các tổ chức này chính là việc nâng cao khả năng thuyết phục sự tham gia và phối hợp hành động của phần lớn các quốc gia đối với các chương trình hành động bảo vệ môi trường. 2. Nâng cao trách nhiệm và bổn phậm của các công ty xuyên quốc gia trong các hoạt động đầu tư quốc tế: Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, các công ty xuyên quốc gia ngày càng trở nên quan trọng trong tiến trình phát triển chung của nhân loại. Theo thống kê, hiện nay trên Thế giới có 600 công ty xuyên quốc gia hoạt động ở mọi lĩnh vực. Đây chính là lực lượng mở đường cho mọi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới. Khi đầu tư, các công ty này thường được lợi rất lớn từ nguồn nhân công giá rẻ, nguồn tài nguyên dồi dào, giá nhiên liệu cùng các chi phí sản xuất thấp để tạo ra những sản phẩm có giá trị thương mại cao. Tuy nhiên không có nhà tư bản nào tự giác trong việc triển khai các dự án bảo vệ môi trường do chi phí xây dựng cao và họ không chắc sẽ ở lại bao lâu. Đối với các nhà tư bản lợi nhuận mới là cái quyết định cầm chân họ. Vì vậy từ thực tế đó, một giải pháp quan trọng và cần thiết đặt ra đối với tiến trình giải quyết đối với vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay là phải tăng cường và nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm xã hội của các công ty xuyên quốc gia trong các dự án đầu tư quốc tế của họ. 3. Tăng cường đối thoại giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển: Trên các cuộc đối thoại này, chương trình nghị sự chủ yếu nhấn mạnh đến những nội dung mang tính chi tiết như các nước đang phát triển yêu cầu gì, đang gặp khó khăn gì về tài chính, con người, công nghệ trong tiến trình giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay. Các nước công nghiệp giàu có sẽ hỗ trợ, viện trợ như thế nào? Từ đó vai trò, trách nhiệm cụ thể của từng quốc gia trong vấn đề hành động chống ô nhiễm môi trường sẽ được xác định ngay từ đầu mà không đụng chạm đến sự bình đẳng chính trị giữa các quốc gia.
Trên thực tế, việc tăng đối thoại giữa các nước đang phát triển và phát triển còn giúp cho việc mở rộng phạm vi trao đổi, kiểm tra và đánh giá kết quả thực tế đã đạt được. III.Các biện pháp đối với mỗi Chính phủ: 1. Tiến hành sinh thái hoá nền kinh tế: Trong lĩnh vực kinh tế phải tiến hành sinh thái hoá nền kinh tế mà biện pháp trước tiên là phải tiến hành sinh thái hoá quá trình sản xuất vật chất và tiêu dùng xã hội. Quá trình này là bước chuyển việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên theo bề rộng (cùng lúc khai thác và sử dụng nhiều loại tài nguyên với khối lượng lớn nhưng hiệu quả kinh tế và sinh thái đều thấp) sang khai thác và sử dụng tài nguyên theo chiều sâu có nghĩa là sử dụng tối đa các tính năng vốn có của các loại hình tài nguyên. Đứng trước thực trạng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt, con người cũng từng bước chuyển sang khai thác và sử dụng các nguồn nhiên liệu sạch như năng lưọng ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, năng lượng gió… Một giải pháp quan trọng nữa nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực kinh tế ngày nay là sự kiểm soát thương mại toàn cầu các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trên thế giới đã hình thành một hệ thống tiêu chuẩn quốc tế (ISO) về quản lí môi trường để áp dụng đối với tất cả các quốc gia. 2. Trong lĩnh vực xã hội – nhân văn: Các giải pháp môi trường đều gắn liền với các vấn đề như phát triển dân số hợp lí, xoá đói giảm nghèo để nâng cao mức công bằng xã hội, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh . Hiện nay, dân số thế giới là khoảng 6,6 tỉ người và tiếp tục có chiều hướng tăng thêm. Dân số tăng nhanh sẽ phá vỡ sự cân bằng hệ sinh thái và gây ra ô nhiễm môi trường ở mức độ trầm trọng hơn. Do đó cần phải duy trì xu thế giảm sinh một cách vững chắc. Thực hiện tốt cả hai biện pháp môi trường trong lĩnh vực kinh tế và xã hội kể trên có nghĩa là đã đạt được “mục tiêu phát triển bền vững” mà hiện nay nước ta và rất nhiều các quốc gia khác đang hướng tới. 3. Trong lĩnh vực văn hoá tinh thần: Đối với giải pháp trong lĩnh vực văn hoá tinh thần, điều đặc biệt quan trọng là phải nâng cao nhận thức của người dân về môi trường và bảo vệ môi trường .Thường xuyên tuyên truyền giáo dục môi trường và bảo vệ môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng và
dưới mọi hình thức khác. Trên thế giới đã, đang và sẽ diễn ra các hoạt động, các phong trào, chiến dịch làm sạch thế giới “clean up the world”. Thông qua đó, người dân trên khắp thế giới nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường đối với sự tồn vong của họ. Chính vì lẽ đó mà đông đảo người dân đến từ rất nhiều các quốc gia đã nhiệt tình tham gia hưởng ứng các phong trào chiến dịch đó Bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao ý thức người dân về môi trường và bảo vệ môi trường, cần chú trọng tới cơ chế hợp tác quốc tế và khu vực để giải quyết tốt vấn đề ONMT. Bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên ngày nay không còn bị bó hẹp trong phạm vi của một quốc gia mà đã trở thành vấn đề toàn cầu và nan giải. Do đó trong các giải pháp chủ yếu đối với hiện trạng môi trường không thể thiếu cơ chế hợp tác quốc tế đa phương, liên khu vực. Các nước cần tích cực tham gia những hội nghị , hội thảo quốc tế và khu vực về môi trường và phát triển bền vững, tham gia kí kết, cam kết thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế, nghị định thư về môi trường.
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀ MỘT VẤN ĐỀ TOÀN CẦU Tất cả các quốc gia trên Trái đất này có chung một sự sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên, bầu khí quyển, nguồn tài nguyên nước,… Trái đất là ngôi nhà chung của toàn nhân loại và sự quan tâm đến môi trường sinh thái là không có biên giới. Khi môi trường bị tàn phá, mọi khu vực, mọi quốc gia đều phải chịu thiệt hại nặng nề. Nghiêm trọng hơn, vấn nạn sinh thái này còn tác động tiêu cực đến các lĩnh vực khác của đời sống quốc tế. Nền kinh tế thế giới phải đương đầu với sự thiếu hụt về tài nguyên và năng lượng. Chính trị quốc tế luôn tiềm ẩn những bất ổn cùng với sự rạn nứt trong quan hệ giữa các nước. Do vậy, mọi người, mọi nhà, mọi quốc gia đều phải ngăn chặn sự ô nhiễm và bảo vệ môi trường. Ô nhiễm môi trường là một vấn đề toàn cầu. Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, Liên hợp quốc đã chọn ngày 5/6 hàng năm là ngày “Môi trường thế giới”.
KẾT LUẬN “Trái đất là một tổng thể bao gốm các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau”7. Cùng với các vấn đề toàn cầu khác, ô nhiễm môi trường đang ngày một đe doạ nghiêm trọng không chỉ đến cuộc sống con người mà còn đến các mối quan hệ đang tồn tại xung quanh nó. Loài người đang phải hứng chịu “phản đòn” của thiên nhiên, và chính điều đó đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực. Chính trị quốc tế không phải là một thước đo cho những ảnh hưởng tiêu cực của ô nhiễm môi trường nhưng chính nó đang phải đếm từng ngày tồn tại cùng những xung đột, những mâu thuẫn phát sinh từ vấn nạn đó. Một trong những yếu tố gây ra và làm cho vấn đề ô nhiễm môi trường chính là hành động của con người. Chính chúng ta đang huỷ diệt dần thiên nhiên và phải trả những cái giá quá đắt cho những hành động đó. Liệu những nguồn tài nguyên mà chúng ta đang phải vay mượn từ các thế hệ sau có đủ làm thoả mãn những nhu cầu mà chính bản thân chúng ta cũng tự thấy chưa bao giờ là đủ? Liệu mối quan hệ giữa các quốc gia và hợp tác quốc tế hiện nay có thực sự sẽ căng thẳng như những gì mà chúng ta đang nhìn nhận? Nhìn thẳng vào thực trạng, xâu chuỗi lại các nguyên nhân, và đặc biệt là đối diện với chính những ảnh hưởng của nó để tìm ra những giải pháp phù hợp chính là tiêu chí mà chúng tôi đặt ra trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này. Không phải là một bài tiểu luận phê phán, những gì được trình bày trên đây đơn giản chỉ là những nghiên cứu về một vấn đề toàn cầu đang đe doạ đến cuộc sống con người và đưa ra một số gợi ý nhất định cho việc ngăn chặn sự gia tăng của vấn nạn ô nhiễm môi trường, vì sự “phát triển bền vững” chung của toàn nhân loại. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI,
NXB CTQG, Hà Nội, 2006 2. Karad Lorenz, Tám vấn đề lớn của nhân loại, NXB Công an nhân dân, 2003 3. Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng – tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI, NXB Trẻ 4. Vương Dật Châu, An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, NXB CTQG, Hà Nội,
2004 5. www.globalissues.org 6. www.foreignaffairs.org 7
Tuyên bố Rio, 1992
7. www.economist.com 8. www.vnexpress.net 9. www.mofa.gov.vn
PHỤ LỤC: TRẢ LỜI CÂU HỎI 1. Phát triển bền vững là gì? Tại sao lại phải chuyển từ tư duy kinh tế sang phát triển bền vững ( giải pháp ở cấp độ cá nhân )? Phát triển bền vững là phát triển đi đôi với vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Hay nói cách khác, phát triển bền vững là việc đảm bảo cho thế hệ sau có một lượng của cải vật chất ít nhất là bằng những gì mà thế hệ hiện nay được thừa kế. Ở cấp độ cá nhân, tư duy kinh tế có nghĩa là làm giàu cho bản thân và coi đây là mục tiêu cao nhất và duy nhất. Tuy nhiên, con người lại không chú trọng đến hậu quả do chính hành động của mình gây ra. Ví dụ như phá rừng, khai thác gỗ bừa bãi, sử dụng bừa bãi các loại tài nguyên, sản xuất hàng hóa gây ra những loại rác thải độc hại, khó tiêu hủy,…Tất cả đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc lâu dài đến môi trường và sau đó là ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Chính vì vậy cần phải thay đổi tư duy kinh tế sang phát triển bền vững, bao gồm việc phát triển kinh tế nhanh nhưng an toàn, cân bằng xã hội và bảo vệ môi trường tự nhiên, lấy chỉ số phát triển con người làm thước đo cao nhất, bình quân thu nhập quốc dân tính theo đầu người, dân trí, giáo dục, sức khỏe và tuổi thọ… 2. Tại sao lại đưa xung đột tài nguyên vào xung đột giữa các quốc gia? Sau cuộc cách mạng công nghiệp, nguồn tài nguyên thiên nhiên trên Trái đất càng bị khai thác nhiều hơn. Khoa học kĩ thuật càng phát triển cùng với nền sản xuất hiện đại làm cho môi trường sinh thái bị ô nhiễm nặng. Hậu quả của vấn đề này là sự thiếu hụt về tài nguyên và năng lượng. Từ đó các quốc gia buộc phải tranh chấp để giành quyền kiểm soát và sử dụng nguồn dầu lửa, nguồn nước, nguồn tài nguyên rừng,… Khi những tranh chấp này đạt đến đỉnh điểm sẽ trở thành những xung đột mà thậm chí là chiến tranh. Xung đột không chỉ xảy ra giữa các vùng miền trong một quốc gia mà còn lan rộng ra giữa các quốc gia. Rõ ràng tranh chấp tài nguyên là một hình thức xung đột giữa các nước. 3. Nên thay đổi nhận thức ở cấp độ cá nhân hay cấp độ quốc gia? Việc thay đổi nhận thức nhằm cải thiện môi trường cần phải ở mức độ cá nhân. Càng nhiều cá nhân nhận thức rõ vấn đề thì vấn đề càng được giải quyết nhanh chóng. Để
làm được điều này cần có những biện pháp thiết thực từ chính phủ như: tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân. Chính sự ràng buộc giữa việc thay đổi nhận thức cá nhân và nhận thức của quốc gia nên hai khái niệm này có thể bị nhầm lẫn. Khái quát nhất chính là khái niệm thay đổi ý thức dân tộc. Như vậy, chúng ta đã đề cập đến cả nhận thức ở cấp độ của mỗi cá nhân, của nhiều cá nhân, tức là của cả một dân tộc. 4. Vai trò của các NGOs trong việc giải quyết ô nhiễm môi trường? Phạm vi hoạt động của các NGOs là khắp mọi nơi trên thế giới, đặc biệt là các nước thế giới thứ 3. Do đó, các tổ chức này đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Tại các quốc gia mà môi trường bị suy thoái, các NGOs cần tập trung các hoạt động của mình vào việc tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người dân. Đồng thời, cần có các hoạt động, dự án và chuyên đề nhằm khắc phục hậu quả của ô nhiễm môi trường. Các tổ chức này cần cung cấp viện trợ để giúp thực hiện các dự án “xanh” như: trồng rừng, thu gom rác thải, làm sạch nguồn nước,…Tóm lại, NGOs phải đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường. 5. Thách thức cho hệ thống pháp luật quốc tế của các nước đang phát triển Các quốc gia đang phát triển thường phải đương đầu với rất nhiều khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế. Một trong những khó khăn đặt ra là hệ thống Pháp luật thiếu tính minh bạch và có nhiều kẽ hở. Do đó việc xảy ra các mâu thuẫn xung quanh giải quyết các vấn đề liên quan đến luật pháp là không thể tránh khỏi. Khi môi trường sinh thái bị tàn phá, kinh tế và xã hội sẽ chịu tác động xấu, pháp luật đương nhiên phải có những sự điều chỉnh cho phù hợp. Thách thức đặt ra cho pháp luật của những nước đang phát triển là cần có những quy định chặt chẽ nhằm ngăn chặn ô nhiễm môi trường. Từ đó, nền kinh tế sẽ không bị tác động xấu và xã hội sẽ ổn định hơn.