Nhug Mau Truyen Ngan

  • November 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Nhug Mau Truyen Ngan as PDF for free.

More details

  • Words: 121,898
  • Pages: 239
Tàu đêm Cô gái bước lên tàu. Vai so vì lạnh. Đấy là buổi chiều trước đêm Giáng sinh. Chiếc ghế cạnh chị còn trống. Cô gái nhìn quanh. Một bàn tay khum khum che lên nửa miệng. Nó, bàn tay ấy, xanh xao, những khớp xương giữa mỗi đốt gồ lên

- Ghế này trống hả chị? - Cô cứ ngồi đi. Ơ mà số ghế của cô là bao nhiêu? Cô gái không trả lời. Rụng xuống. - Cô có đem theo đồ đạc gì không? Để tôi cất hộ lên trên này. Cô chìa hai tay, muốn phác một cử chỉ, cô không mang theo gì cả. Chị thoáng lướt nhanh gương mặt ấy. Một bên mép cô sưng vều lên, chừng như máu vẫn ứa ra. Cô vội vàng đưa tay lên che miệng

Phố bên hông tàu đông nghẹt. Tàu bò chầm chậm. Còi kéo liên tục. Một chiều đông hiu hắt. Tiếng còi tàu thúc nhói ngực. Giờ này còn bao nhiêu người như chị, với một đêm Noel lúc lắc dặm trường? - Chị xuống ga nào? - Ga Y. Thế còn cô? - Vâng, em cũng xuống đấy. - Ồ, thế là đồng hành rồi! Nhà cô ở đường nào? - Không... Em chỉ đến nhà một người quen. Mà từ đây đến đó còn bao xa hả chị? - Nếu tàu chạy thế này, chắc cũng nửa đêm, có khi rạng sáng. Cô có người đón không? - Dạ có. Cô gái vẫn nói chuyện với một bàn tay che lên nửa miệng. Tiếng nói meo méo. Thêm nữa, lúc này chị mới để ý kỹ hơn, mắt cô hoe đỏ, mí nặng. Nhìn có vẻ như nạn nhân của một vụ bạo hành. Mà chưa chắc... Cô gái có vóc người nhỏ nhắn. Gương mặt khá thanh tú. Tất nhiên, nếu không có một bên mép bị sưng lên thế kia...

Tàu qua ga được một lúc. Cô gái bất ngờ quay sang nhìn chị. Ánh mắt ươn ướt nhưng gương mặt đang cố lấy lại vẻ tự tin: - Em nói thiệt... Chị đừng khinh nhé! Chị... còn gì để ăn không? Chị nảy người. Trong cái giỏ lúc lên tàu, hình như con gái chị có dúi vào vài bịch bánh. - Cô chờ chút, để tôi coi lại. Trong khi chị mở giỏ, mắt cô gái run rẩy lướt theo từng ngón tay chị. Chị bỗng giật mình. Cần phải cảnh giác, nhất là với những đối tượng quái gở như thế này. Chị tìm thấy một bịch khoai tây chiên: - Đây. Cô dùng đi. Cứ ăn hết. Tôi còn nhiều! Cô gái đưa cả hai tay đỡ bịch bánh. Cử chỉ lễ phép quen thuộc. Giống như một nữ sinh. Linh cảm bảo chị, hãy yên tâm. Hai bàn tay vừa chìa ra, lập tức một bên lại rút về, che

lên khóe miệng. Cô gái nuốt nghẹn từng miếng bánh. Ánh mắt nhìn xa. Bên đường ray song song với đường bộ, có một ngôi nhà thờ nhỏ. Đêm chưa buông hẳn, đèn đã chăng rực rỡ. Trước sân nhà thờ người tập trung rất đông. Chị nói, nửa như một mình, nửa như với cô gái: - Noel... Đầu cô khẽ gật. Gương mặt nhuốm bóng tối. - Chị đi công tác à? Sao không về sớm hơn, đón Noel? - Không, tôi đi thăm con gái... - Chị ấy lấy chồng rồi à? - Không, nó còn nhỏ. Nó sống với ba nó... Cô gái im bặt. Có vài giọt mưa tạt qua cửa sổ, lạnh buốt. Ai đó mở một bản nhạc cũ từ máy CD xách tay, chập chùng âm hưởng thánh ca. Sắc tối bò lên từ những cánh đồng hai bên đường. - Cô đến thăm nhà ai ở Y? - Bạn trai em... - Chà chà! Người yêu? - Dạ... người yêu. - Sao anh ấy lại về sống ở Y? Hay là đi công tác? - Không, anh ấy sống ở đấy! - Đoạn nào hả cô? Ý tôi muốn hỏi xem lát nữa tôi và cô có về chung đường không? Cô gái không giấu được vẻ bối rối: - À, em nghe ảnh nói ở gần hồ... - Hồ nào cơ? - À, em... cũng chỉ nghe anh ấy kể thế. Mà có lẽ là một cái hồ nhỏ. Chị không biết cũng nên. - Có lẽ vậy. Tôi sống ở Y từ bé, mà thực ra cũng chẳng đi đâu nhiều. Còn nhỏ ở với ba mẹ. Lớn lên lấy chồng. Rồi có con. Rồi công việc. Cả đời chẳng đi ra khỏi một bàn tay... Cô hạnh phúc đấy. Tôi chưa bao giờ có được một đêm Noel bên người yêu. Mà sao cô không lên sớm hơn với cậu ấy? Giá đi trước một ngày thì vừa. - Em kẹt. - Cậu ấy làm nghề gì? Sống khá không? - Cũng được chị ạ. Cũng khá! Lối nói chuyện của cô gái khiến tất cả những người cảnh giác đều phải tránh xa. Nếu không còn một chút niềm tin vào linh cảm, hẳn chị cũng không là một ngoại lệ. Nhưng chị biết, cuộc đời có quá nhiều ẩn ức. Đâu phải cứ ai có cung cách ăn nói mơ hồ đều không đáng tin? Thậm chí ngược lại... - Tàu dừng giờ đó, trời sẽ rất lạnh. Cô ăn mặc thế này... - Chẳng lạnh đâu chị ạ. Hì - Mắt cô gái như thoáng sáng lên - Có anh ấy đón mà còn lo gì nữa chị! - Phải đấy. Tình yêu thật kỳ lạ! - Ngày xưa chị yêu có nhiều không? Dường như chị khẽ thở dài: - Tôi cũng chẳng biết nữa. Mà ý cô, yêu nhiều nghĩa là sao? Yêu một người thật nhiều, hay yêu thật nhiều người? Không thấy tiếng cô trả lời. Chị ngoảnh sang. Một ánh mắt dõi đăm ngoài cửa sổ tàu. Cô đã rơi khỏi câu chuyện giữa chừng mà không biết. Trời nặng. Mưa có thể rơi bất cứ lúc

nào, nhưng chỉ vài hạt rồi lại ngưng. Đủ cho không gian ướt đẫm, tê dại. Một nhân viên nhà tàu cầm đèn pin xuất hiện nơi cửa toa. Cô gái giật nảy người, bật dậy bước về phía phòng vệ sinh. Anh nhân viên dừng lại bên chị: - Ghế này trống hả? - Không, của một cô gái. Cô ấy vừa đi vệ sinh. Anh nhân viên đi khỏi. Một lúc sau cô gái mới xuất hiện. Tay vẫn che miệng. - Ông ta đi rồi hả chị? - Ai? - Ông nhà tàu đó. - Bộ cô đi lậu vé sao? - Không, em có vé. Không có làm sao vào sân ga. Nhưng hình như ghế của em không phải ở đây. - Chẳng sao đâu. Cô có thể đổi chỗ được mà. Với lại đêm nay chắc tàu cũng trống. Còn thiếu gì ghế!

Trước khi buông người ngồi xuống, cô gái lại ngó quanh. Động thái chừng như sợ sệt nhiều hơn với lỗi của một người ngồi sai ghế. Một lúc im lặng thật lâu. Cô gái nhắm mắt chừng như ngủ. Chị cũng chập chờn... - Này chị... - Gì hả cô? - Chị có... ngại em không? Chị lắc đầu, nói rất thật: - Không, tôi không ngại. - Cảm ơn chị!- Đầu cô gái chợt cúi xuống. Đôi bàn tay quệt quệt hai góc vạt áo vào với nhau. - Cô có điều gì muốn nói với tôi không? Tôi cũng là người ít nhiều có hoàn cảnh éo le. Hãy coi tôi như chị... - Không! Em đang vui lắm. Tại sao chị lại nghĩ vậy? Em sắp được gặp anh ấy rồi! Chị mở giỏ lấy thêm gói bánh: - Cô ăn thêm bịch bánh nữa nhé! - Không chị ạ. Ăn một bịch khi nãy, em no rồi! Chị sực nhớ ra: - Tôi quên mất. Cô có khát không? Uống miếng nước đi này. Ăn bánh ấy thường khát nước. Cô gái cười sau bàn tay: - Em vừa vào uống nước trong phòng vệ sinh lúc nãy rồi! Chị đừng lo cho em nữa! Giờ chắc em phải chợp mắt một tí. Nếu tàu qua Y, chị nhớ đánh thức em dậy nhé! - Còn lâu. Cô cứ yên tâm ngủ đi. Tới nơi tôi sẽ gọi. Cô quên là tôi cũng xuống Y à? Tàu ngang một thị trấn nào đó. Thật nhiều đèn ngoài ô cửa. Thật nhiều những đôi trai gái ăn mặc đẹp, chở nhau từng cặp trên xe. Chị dặn lòng mình đừng nghĩ đến đêm nay, mà quang cảnh vẫn đập vào mắt chị. Noel là buồn hay vui? Với chị nó luôn buồn. Cô đơn tê tái. Uớc gì chị có thể ngủ như cô gái ngồi bên. Chị liếc qua. Dưới ánh đèn vàng vọt từ cửa sổ soi vào, một đôi mắt đầy nước! - Cô vẫn chưa ngủ à?

- Đêm nay Giáng sinh phải không chị? - Cô hỏi thật không đấy?! Một bàn tay quệt nhanh ngang mắt. Một nụ cười vội vã thắp lên: - Em lẩn thẩn chị nhỉ? - Hay tại sắp gần người yêu nên lẫn hết cả rồi?! - Chắc vậy chị ạ! Hẳn giờ này anh ấy đang chờ em. - Hẳn là vậy rồi!- Chị đùa một chút cho câu chuyện giãn ra - Ở Y mà có người yêu lên thăm hẳn là sung sướng lắm! Y của tôi quá nghèo. Ngoài vài con đường trung tâm ra, chẳng còn nơi nào có thể đi chơi được cả. Ờ, mà với những người yêu nhau thì cần gì phải đi đâu. Chỉ ngồi bên nắm tay là thấy ấm áp rồi. - Thật vậy không chị? - À, mà có thêm vài ngọn nến. Một chai rượu nhẹ. Một cái máy nghe nhạc... Chắc sẽ rất tuyệt. Noel mà. - Đúng vậy đấy chị ạ. Có lẽ lúc này anh ấy đang dọn dẹp trang hoàng nhà cửa chờ em cũng nên. - Anh ấy sẽ chờ cô đến sáng sao? - Vâng, anh ấy sẽ chờ. Chắc chắn sẽ chờ! Anh ấy sẽ ngồi bên những ngọn nến, nhìn vào kim đồng hồ chị ạ! - Các bạn lãng mạn quá! - Có nghĩa là "sến" phải không chị? Chị bật cười: - Các cô các cậu bây giờ lạm dụng chữ "sến" quá! Rồi đến tất cả những gì quá đẹp sẽ "sến" hết mất thôi! Cô gái mỉm cười. Ngả đầu về phía sau. Im lặng. Im lặng thật lâu. Có lẽ lần này thì cô ngủ thật. Một giấc ngủ chập chờn với bóng dáng hạnh phúc sắp đến? Tàu vào một khúc ngoặt. Bánh xe nghiến ken két mặt ray. Những thanh tà vẹt rung dồn. Cô gái bật dậy. Chị vẫn thức. - Đây là đâu hả chị? Chị căng mắt nhìn ngoài cửa sổ. Đêm đen thẫm, mông lung. Không có gì định vị. Nếu nói họ đang ở một hành tinh nào xa lắc, không mặt trời, không trăng sao, không con người có lẽ vẫn có thể tin. - Tôi thật tình không rành lắm. Cô cứ ngủ đi. Bao giờ đến tôi sẽ gọi. Mà hình như cô đã ngủ được một lúc rồi đấy. - Em có ngủ được hả chị? - Thế cô không tự biết à? Cô gái chợt xa xăm: - Dạ, vậy đó, có những khi em cũng chẳng còn biết mình là ai nữa! - Cô còn đau không? - Chị bật thốt ra cái điều đáng lý không nên hỏi. - Ý chị hỏi về... cái miệng em phải không? Em... té xe đấy! Chẳng sao chị ạ! Chị không tin, nhưng vẫn tiếp tục câu chuyện: - Xui nhỉ. Sắp gặp anh ấy rồi còn bị thế này! Cô gái lại lặng im một lúc: - Chị ơi! - Gì hả cô? - Xa hơn Y nữa sẽ là đâu hả chị? - Là Z. Và sau Z nữa sẽ là... Mà thực ra từ nhỏ đến giờ, tôi mới chỉ đi đến Y là xa nhất.

Sau đấy nữa, tôi chẳng còn biết gì cả! - Y như... cái chết vậy chị nhỉ? Chị rùng mình: - Này, cô còn trẻ, không được nói đến những điều xa xôi như vậy đâu! Mà cô lạ thật đấy. Ai lại sắp gặp người yêu, sắp hạnh phúc đến thế mà còn nói chuyện chết chóc!? Cô gái nhoẻn cười: - Ừ, chị nhỉ. Em sắp gặp anh ấy rồi! Một tiếng ầm khủng khiếp. Đoàn tàu như thun lại. Đầu chị va mạnh vào hàng ghế phía trước. Người trong toa bật hết cả dậy. Như thể một cơn địa chấn. Tàu hực thêm vài nhịp nữa thì dừng hẳn. Mấy thanh niên chạy ngược từ đầu toa xuống. Có tiếng lao xao: - Hình như đụng người! - Ai vậy? - Nó xỉn. Đêm nay là đêm nhậu nhẹt mà! Băng đường ngang, té. Thế là cán luôn! Chị nghe một nhát rùng chạy dọc sống lưng. Đêm hạnh phúc của người này, nhưng có thể là khủng khiếp với một người khác. Cô gái ngồi thẫn thờ. Mắt nhìn lên nóc toa. Ý nghĩ dường như đang trôi vào một nơi nào xa lắm... Cà đoàn tàu nhộn nhạo. Người ta í ới rủ nhau đi coi xác chết. Chị lắc đầu. Không ra buồn bã, không ra ngao ngán. - Tàu sẽ dừng bao lâu hả chị? - Chẳng biết nữa! Chao ôi đêm nay sao lại như vầy chứ? Cô có sốt ruột không? - Không. Em chẳng thấy gì cả. Tự nhiên gặp người ta chết, chết đột ngột thế này, em thấy tất cả bỗng nhẹ nhàng biết bao! - Cô đừng nói dại nữa! Mà cái miệng cô khiếp thật. Vừa nói đến cái chết thì xảy ra sự việc ngay! - Ấy vậy mà mình nói đến cái chết của chính mình, nó lại hoài chẳng đến! - Thôi. Cô nói đến cái gì vui hơn được không? Nói về anh ấy đi. Cô sắp được gặp anh ấy rồi đấy! - Tàu dừng thế này. Bao giờ mới gặp hả chị? - Cũng nhanh thôi. Mấy sự vụ đường sắt bây giờ giải quyết nhanh lắm! Vài phút nữa sẽ đi ngay ấy mà! - Cái chết của một con người chỉ đơn giản như vậy thôi hả chị? - Đấy. Cô lại nói nữa rồi! Cô gái thở dài: - Thôi thì em ngủ vậy. Chị nhớ gọi em khi tàu đến Y. Bao lâu qua chẳng biết. Tàu lại rùng mình. Trôi chầm chậm. Có ánh đèn vàng vọt phía dưới đường ray. Tiếng khóc não nùng. Mới đó mà mùi nhang trầm đã thoảng lên qua cửa sổ đầy gió. Rầm, một viên đá uất hận phang lên thành toa. Có tiếng thét: - Đóng cửa sổ lại! Tụi nó liệng đá đấy! Còn gì vô ích hơn là căm hận một con tàu? Khối sắt lạnh lùng lại phì phò thở, xuyên qua màn đêm. - Còn bao lâu nữa hả chị? - Sắp đến rồi đấy. Em chuẩn bị đi. Cô gái nhổm người ngồi dậy: - Em đi tay không, có gì đâu mà chuẩn bị?! - Ngày mai nếu rảnh, nhờ anh ấy đưa đến nhà tôi chơi nhé! Nhớ đến. Địa chỉ tôi đây này. Tôi sống chỉ một mình! Hai bạn có thể ở lại.

- Vâng. Em sẽ nhờ anh ấy đưa đến. Em nói đi đâu, chắc chắn anh ấy cũng chở đi ngay! - Cô hạnh phúc thật! Chúc Giáng sinh vui vẻ nhé! - Vâng. Em cảm ơn chị!

***

Lại có ánh đèn. Tàu trôi chậm dần rồi dừng hẳn. Trời quả rất lạnh. Chị nhìn cô ái ngại: - Cậu ấy đã ra chưa? Cô ăn mặc phong phanh thế này. - Ủa, ga này là Y hả chị? - Chứ còn gì nữa. Cô xuống mau đi. Ga xép, tàu chỉ dừng 5 phút! - Để em xách giùm chị bớt cái giỏ này. Chị đừng ngại, em không giật mà chạy đâu! Chị bước xuống nền sân ga ẩm ướt. Đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Cô gái đứng trên bậc thềm, chìa tay đưa cái giỏ xuống cho chị: - Chị về nhà bình an nhé! - Thế cậu ấy ra chưa? Sao cô không xuống luôn đi? Xuống với tôi. Còn đứng đấy làm gì? Cô gái lắc đầu: - Không chị ạ! Em chẳng có bất kỳ người quen nào ở đây hết! Tất cả những gì em nói với chị trên tàu đều do em tưởng tượng ra vậy thôi! Chị về đi. Đứng đây hoài lạnh đấy! Chị choáng váng, thét lên, hai tay vươn về phía trước như muốn chụp cô gái lại: - Cô hãy về nhà với tôi! Tàu đã kéo còi, lướt nhẹ. Bóng cô gái trên thềm toa xe vẫy vẫy: - Vĩnh biệt chị. Giáng sinh an lành chị nhé!

Truyện ngắn của Nguyễn Danh Lam

Yêu kẻ sát nhân Jerry Martin có phải là người của tôi sau ngày Valentine năm nay? Tôi không biết. Sáu tháng trước, trong một hội nghị chuyên đề đông người, khi đôi mắt xanh sâu thẳm của anh nhìn tôi, tiếng nhạc đã vang lên. “Cô có một gương mặt hiền lành anh”, anh nói vào giờ giải lao. “Và anh là một người lực lưỡng”, tôi nghĩ và nhướng mày hỏi lại: “Anh tìm người hiền lành hả?”. “À, tôi hụt mất buổi họp sáng nay nên đang tìm một người có thể giúp mình...”.

Một mớ tóc dày màu sẫm rũ xuống trán anh và anh gạt đi bằng một cử chỉ làm tim tôi đập mạnh. “Này, có một góc yên tĩnh chúng ta có thể nói chuyện ở đằng kia”. “Anh dẫn đường đi”, tôi với lấy cái cặp da nhỏ và đi theo anh. Anh tỏ ra rất ân cần. Chúng tôi nói chuyện rồi đi ăn tối, rất tự nhiên. Sau đó là những bữa ăn tối hay đi uống nước với nhau mỗi khi chúng tôi tình cờ cùng đến thành phố. Thật tốt đẹp khi có một người trong mộng xứng đáng, dịu dàng nhưng không yếu đuối. Ở Jerry có điều gì đó khiến bạn muốn nghe anh nói. Ít nhất cũng là tôi muốn. Càng ngày tôi càng không muốn ở một mình. Thêm vào đó còn là nỗi sợ hãi. Có kẻ lẻn vào khu nhà của tôi, tấn công những phụ nữ đi làm về. Những lúc như thế này, người ta rất muốn có đôi có bạn, ngay cả khi không yêu. Nhưng Jerry rất đáng yêu. Dần dần tôi chỉ còn hẹn hò với mỗi anh. Cho đến một ngày, anh gọi điện cho tôi (Tôi luôn luôn cảm thấy hơi hồi hộp khi nghe giọng anh). Anh nói: “Anh nghĩ đã đến lúc em gặp người quan trọng nhất trong cuộc sống của anh”. Tôi mặc một bộ áo váy màu hoa cà hơi ngả tím, quàng chiếc khăn quàng cổ nhỏ, đi đôi giày đế mỏng đắt tiền mua trong một chuyến đi Ý. “Chào em, trông em đẹp quá”, Jerry nói khi đến đón tôi lúc tám giờ. “Trông cháu tuyệt quá, Donna”, bà Patrickson ở phòng kế bên nói. Bà vừa khập khiễng đi ra, kéo lê cái chân đau vì tuổi già, dựa vào cánh tay của đứa cháu trai Mac. “Đây là anh Jerry Martin”, tôi nói. Mac mỉm cười thân mật với tôi. Anh ấy cao, tóc vàng và đẹp trai. Bà Patrickson thường nói bà mong Mac và tôi sẽ thành đôi nhưng hình như chúng tôi không hợp nhau. Bây giờ thấy tôi đi với Jerry, có lẽ Mac sẽ không cố gắng nữa. “Chúc hai cháu vui vẻ”, bà Patrickson nói. “Rất hân hạnh được biết bác và anh”, Jerry nói trong khi bắt tay. Anh có vẻ mờ nhạt kế bên sự hấp dẫn của Mac. Tôi có chọn lầm người không? “Em đừng lo lắng quá. Cậu ấy sẽ thích em mà”, Jerry nói khi mở cửa chiếc xe Caddy đời cuối của anh. Cậu ấy? Tôi đã đoán là sẽ gặp mẹ anh tối nay. Tim tôi thắt lại. Jerry sẽ bảo tôi rằng anh ấy là dân đồng tính, anh ấy đã cố làm một người bình thường với tôi nhưng không thể, vì vậy chúng tôi sẽ uống rượu với người anh của anh rồi anh nói chúng tôi chỉ có thể là bạn... Jerry đậu xe trong bãi xe dưới tầng hầm chung cư rồi chúng tôi đi thang máy lên tầng thứ mười.

Jerry mở khóa căn hộ 1003. Tôi đã quyết định sẽ lịch sự với bất cứ ai anh giới thiệu là người tình. “Đây là Fitzhugh”, Jerry nói, mở rộng cửa như thể có một đội kèn chào mừng và một nhân vật vô cùng quan trọng sẽ bước ra. Tôi bước tới, đặt xách tay lên cái bàn kế cửa và chìa tay ra. Không có ai. Căn hộ thật dễ thương, cửa sổ dài dọc theo một bên tường, vài chậu cây cảnh và những đồ đạc tiện nghi màu xanh lục và nâu. Như vậy tôi lại đoán sai. Jerry không muốn tôi gặp mẹ anh và anh không phải là người đồng tính; anh bị điên. Fitzhugh là một con vật ảo. Jerry dụ tôi đến để gặp người bạn tưởng tượng, để rồi vài ngày sau người ta tìm thấy xác tôi trong một công viên, giấu sau một bụi cây... Ít nhất Mac và cô của anh ấy đã nhìn thấy Jerry, tôi tự nhủ, lén lùi về phía cửa. Anh không thể thoát được đâu. Jerry không có vẻ là kẻ sát nhân, nhưng những cô bạn gái và hàng xóm của những kẻ sát nhân khi được phỏng vấn đều nói như vậy sau khi chúng bị bắt. Ngay cả những tên giết người hàng loạt cũng có một cuộc sống bình thường... “Đây là con mèo của anh, Fitzhugh”, Jerry lịch sự nhắc lại. Tôi nhìn xuống. Một con quái vật nham hiểm đang nhìn tôi trừng trừng. Lông nó đen bóng, cặp mắt vàng, to, sáng, lấp lánh. “Anh biết là cậu ấy thích em”, Jerry nói. “Cậu ấy hơi kiểu cách...”. Đúng vậy, tôi nghĩ. Tôi luôn cho rằng những người quá thân thiết với mèo đều không được bình thường. “Em thấy chúng mình đẹp đôi không?”. Jerry chỉ vào tấm gương trước mặt. Mái tóc màu sẫm rất đẹp của Jerry, dáng người mảnh mai tóc vàng của tôi và một khối có lông dưới sàn nhà đang quắc mắt nhìn ở giữa hai chúng tôi. Thật là một bức tranh đẹp. Jerry quàng tay ôm tôi. Tôi ngước mặt lên để anh hôn, nhắm mắt lại. Có cái gì đó cào vào mắt cá, tôi nhìn xuống: Chiếc vớ dài của tôi tơi tả, rũ xuống giày. Fitzhugh vừa cắn mạnh gót giày trái của tôi rồi ung dung bỏ đi. “Donna?”, Jerry cử động và làm rơi xách tay của tôi xuống sàn. “Xin lỗi em”, anh nhặt nó lên và nhét mọi thứ vào như cũ. “Anh vội vàng quá phải không? Anh không muốn em nghĩ anh là loại người thích hẹn hò để cưỡng bức phụ nữ. Từ lâu lắm anh đã không mời một phụ nữ nào đến đây”. Nếu Fitzhugh biết nói, nó sẽ phản đối và anh sẽ không mời đâu, tôi nghĩ. Tôi vẫn còn nhìn vào cái lỗ ở gót giày. Con mèo đã cào rách lớp da giày. Chỉ còn nước quẳng đi thôi.

Jerry nhìn xuống: “Ôi trời, Fitzhugh làm đó hả?”. Có lẽ Fitzhugh ngửi thấy mùi mèo khác trên người em”. “Em không bao giờ ở gần con mèo nào”. "Có lẽ bà hàng xóm của em, bà Patrickson, có nuôi mèo. Bà ấy có vẻ thích mèo”. “Bà ấy nuôi chim hoàng yến. Bà ấy ghét mèo”. “Em cũng ghét Fitzhugh hả?”. “Đúng vậy”, tôi nói. Tôi chộp túi xách và đi ra, cảm thấy những mảnh vớ vướng quanh mắt cá. Mèo: l, bạn gái: 0. “Em về sớm đấy”, Mac bước vào thang máy khi tôi bước ra. “Hơi trễ”, tôi đi qua mặt anh. “Anh nghĩ có lẽ không đúng lúc'', Mac lưỡng lự, “anh định đi ăn, nhưng anh nghĩ em đã ăn tối rồi?”. “Em muốn ăn chứ”, tôi quyết định và đến khi chúng tôi ngồi trong góc quán uống cà phê tôi mới nhận ra mình không giống ai với chiếc vớ rách quanh mắt cá. Mac không hề cười. Anh ấy là người bạn tốt. Công việc của Mac là quản lý tài sản và tòa nhà chúng tôi ở là một trong số đó. Quả thật nó được bảo quản tốt. Anh không nuôi con vật nào, một điểm son và anh luôn có những chuyện vui về những người thuê nhà khiến tôi bật cười. Tôi từ chối đề nghị của Mac muốn đưa tôi lên tận phòng. Đến căn hộ của mình, tôi mới nhận ra không có chìa khóa phòng trong xách. Có lẽ nó đã rơi trong căn hộ của Jerry. Tôi chạy xuống gặp ông Masterson, người quản lý. Mac vẫn còn ở đó. “Anh sẽ mở cho em”, Mac lấy xâu chìa khóa của chủ nhà treo gần cửa. “Đừng anh. Ông Masterson đã làm như vậy nhiều lần rồi”. “Em không nên coi thường chuyện mất chìa khóa, Donna”, Mac cau mày, “sau những vụ tấn công phụ nữ trong khu vực này gần đây. Anh sẽ thay ổ khóa cho em. Trong thời gian đó em có thể mượn chìa khóa của chủ nhà”. Jerry gọi điện vào cuối tuần, nói anh nhớ tôi. “Lỗi tại anh”, anh nói. “Đáng lẽ anh phải chuẩn bị tư tưởng cho em trước khi gặp cậu ấy. Fitzhugh từng bị ngược đãi nên cậu ấy thường không tin ai”. “Em cũng vậy”, tôi nói.

“Bây giờ cậu ấy đã quen em rồi. Anh sẽ đem cậu ấy theo khi hẹn với em”. “Cái gì? Anh, em và Fitzhugh?”. “Anh không thích bỏ cậu ấy ở nhà suốt đêm. Đi đâu anh cũng đem cậu ấy theo. Anh nghĩ cậu ấy đã biết em rồi. Anh xin lỗi. Để anh trả tiền sửa giày cho em nhé”. “Không cần đâu anh”, tôi nói dối, nhìn một mũi giày thò ra từ đống rác tôi sắp đem ra lò đốt. “Hãy nói em tha lỗi cho anh và để anh mời em đi ăn tối ngày mai nhé. Mai là ngày Valentine mà”, anh nói, giọng khẩn thiết. Anh nêu tên một nhà hàng tôi rất muốn đến nhưng không thể đi một mình. “Bảy giờ nhé?”. “Đồng ý”, tôi nói, cảm thấy ghét mình vì đã yếu đuối. Nhưng thật khó từ chối anh được. “À, Jerry, anh có thấy chùm chìa khóa em bỏ quên không?”. “Không”, anh nói, giọng rất thành thật. “Có quan trọng không em?”. “Không có gì đặc biệt. Hẹn anh ngày mai”. Sáng hôm sau người ta đến thay ổ khóa. Đó là ngày Valentine. Các cửa tiệm đầy những thần tình yêu và chocolate. Tình yêu có ở khắp nơi nhưng người đàn ông tôi chọn đã lỡ có một con mèo trong tim rồi. Bữa ăn tối nay sẽ là lần hẹn hò cuối cùng, tôi tự hứa. Tiếp tục làm khổ nhau làm gì? Vào giữa trưa, có người mang một tá hoa hồng đỏ đến văn phòng tôi. Tấm thiệp ghi: “Cảm ơn vì đã cho cho bọn anh một cơ hội”, ký tên Jerry, phía dưới là một dấu chân mèo. Năm giờ, tôi gọi điện cho Lou Ann, cô bạn gái thân nhất, người từng khen Jerry hết lời: ''Cậu có thể đưa bồ cậu - Laurence đến gặp bọn mình tối nay được không?''. “Vào một buổi tối lãng mạn như thế này à? Dĩ nhiên. Laurence có lẽ còn không biết hôm nay là ngày gì nữa đấy”. Tôi lái chiếc Corvette nhỏ màu xanh hòa vào dòng xe giờ cao điểm và mở radio. “Một phụ nữ đã bị tấn công và giết chết ngày hôm nay trong căn hộ của bà ở khu Main và Charles...”. Đó chính là khu nhà của tôi. Tôi ngừng lại trước đèn vàng và vặn lớn âm thanh. “Cảnh sát tin rằng Gilroy Patrickson, bảy mươi lăm tuổi, là một nạn nhân nữa trong những vụ tấn công hàng loạt đã khủng bố người dân khu vực phía Nam này...”. Thật khủng khiếp cho Mac, cho tất cả chúng tôi, tôi nghĩ, nước mắt lăn xuống.

Tấm thảm trước cửa phòng tôi có vẻ như đã bị hàng chục đôi giày dơ giẫm lên. Có hai miếng băng màu vàng của cảnh sát dán chéo trước cửa nhà bà Patrickson và một bảng thông báo cấm vào. Tôi rơi nước mắt khi nhìn nó. Thang máy mở ra sau lưng tôi, Mac bước ra. “Ồ, em rất lấy làm tiếc”, tôi giang tay ra và Mac ngả vào đó. Tôi vụng về vỗ lên vai anh. “Cảnh sát đã bắt được tên sát nhân chưa?”. Anh lắc đầu và lùi lại: “Anh vừa mới đi khỏi, chắc hắn đã rình lúc anh đi. Giá như anh ở lại chút nữa...”. “Anh đừng nghĩ về chuyện đó nữa. Sớm muộn gì cảnh sát cũng tìm được hắn”. “Em biết không, hồi còn sống cô anh rất mến em”. Tôi gật đầu, nghẹn ngào. Căn hộ của tôi toát lên vẻ đầy nguy hiểm. Kẻ giết bà Patrickson có thể leo cửa sổ vào. Chúng tôi chỉ ở tầng thứ ba. Khủng bố. Radio đã nói đúng. “Tệ thật, Donna”, ông Jaspers, một thợ ống nước về hưu phòng đối diện mở cửa, “Một phụ nữ tốt”. “Vâng”. “Có một anh chàng đến tìm cô ngay trước đó”. “Sáng nay?”. “Đúng vậy. Anh ta có chìa khóa của cô”, ông bắt đầu đóng cửa. “Khoan, xin ông nói anh ta trông như thế nào”. “Cao. Tóc sẫm. Áo khoác vải tweed”. Cánh cửa khép mạnh lại. Lông mèo, tôi tự động thêm vào trong đầu. Chiếc chìa khóa dư của bà Patrickson cũng ở trong xâu đó. Nếu như...? Không, không thể là Jerry được. Hơn nữa anh không biết chìa khóa nào mở cửa nào. Một giọng nói thầm vang lên trong đầu tôi: “Anh ta có thể thử mở cửa phòng của mình, rồi mở cửa phòng bà Patrickson...”. Tôi đi qua hành lang, đập cửa phòng ông Jaspers. “Đi đi”. Ông đang nhìn qua lỗ khóa. “Ông Jaspers, ông có nói với cảnh sát điều đó không?”.

“Không phải chuyện của tôi”. Tuyệt thật. Như vậy tùy tôi có muốn cho cảnh sát biết tôi đang hẹn hò với tên đã giết bà Patrickson hay không, rồi họ sẽ theo dõi cuộc hẹn của tôi, sẽ bắt anh nhưng luật sư của anh sẽ giúp anh thoát ra và anh trở lại tìm tôi... Nhưng tôi không gọi điện cho cảnh sát. Không thể là Jerry được. Anh rất tốt, rất trung thực. “Nhưng anh đã nói dối về chuyện xâu chìa khóa”, giọng nói thầm nhắc. Giải thích thế nào đây? Có thể anh ấy định vào phòng và đợi tôi như đã làm với nhưng người phụ nữ khác. Khi anh thấy ổ khóa phòng tôi đã đổi, anh quay sang người hàng xóm... Nhưng làm sao anh biết ông Jaspers sẽ không nói với cảnh sát? Dễ quá. Ai đã nói chuyện với ông già thô lỗ ấy trong hai phút sẽ biết ngay ông không bao giờ tự ý nói ra điều gì. Chỉ do tình cờ mà ông nói với tôi. Tôi sẽ nói với Mac. Có lẽä anh ấy sẽ quyết định có phải do tôi quá tưởng tượng không. Tôi xuống tầng dưới và xin ông Masterson số điện thoại của Mac rồi về phòng, bấm số. “Mac Patrickson”. “Mac,...”, tiếng bíp vang lên khi máy tự động trả lời “Gọi cho em nhé”, tôi nói và đọc số của tôi. Chuông cửa reo. Ồ không, Jerry đã đến trước khi tôi quyết định phải làm gì. Làm sao tôi có thể đi chơi với anh với những nghi ngờ trong đầu? Và nếu anh nghi ngờ tôi đã biết thì sao? Tôi mở cửa. “Donna, trông em lúc nào cũng tuyệt”. “Chỉ là đồ đi làm thôi. Em chưa kịp thay quần áo”. “Như vậy cũng đẹp rồi. Với anh lúác nào em cũng tuyệt vời cả”, Jerry nhìn vào mắt tôi. Tôi lùi lại và với lấy áo khoác. Thôi được, tôi phải đi thôi. Dù sao Lou Ann và Laurence cũng sẽ đến. Họ sẽ thắc mắc nếu chúng tôi không đến. Tôi có thể quyết định sẽ làm gì trong khi ăn. Có thể tôi sẽ lẻn ra ngoài và gọi cho cảnh sát trước khi về. Nhà hàng ÝÁ xinh đẹp này cóá người phục vụ gửi xe. Jerry đưa chìa khóa chiếc Caddy cho anh ta. Trong nhà hàng, Lou Ann và Laurence đang ngồi ở một bàn vẫy tay gọi chúng tôi. “Các bạn ngồi với chúng tôi nhé?”, Laurence hỏi, như thể tôi không hề sắp đặt trước. “Rất vui lòng”, Jerry sửng sốt nhìn tôi, “Được không em?”.

“Được”, tôi nói, cảm thấy bực mình vì Jerry không muốn chúng tôi ngồi riêng. Tôi làm sao thế này? Không lẽ tôi muốn ở một mình với kẻ sát nhân vào ngày Lễ Tình yêu? Tim tôi xao động khi anh kéo chiếc ghế nặng màu sẫm bọc nhung cho tôi, những ngón tay dài mảnh của anh làm rối một sợi tóc xoăn trên cổ tôi. Dàn nhạc chơi những bản tình ca suốt buổi tối. Ánh nến lung linh, những giọng nói dịu dàng và thân mật. Sẽ là một buổi tối tuyệt vời nếu... Có thể năm sau sẽ là Mac nếu tôi sống sót qua buổi tối này. Nhưng sự luyến tiếc trong tôi đang khóc, “Jerry, Jerry, Jerry”. Tôi ép mình nhìn bảng danh sách rượu vang. Jerry đang nói nhỏ bằng tiếng Pháp với người quản lý, trông anh khéo léo, bản lĩnh và rất đáng yêu. Tôi đá chân Lou Ann dưới bàn để cô ấy đừng bị anh cuốn hút. Khi tôi ngồi thẳng lên, nét mặt Jerry đột nhiên thay đổi. Anh đứng bật dậy làm ngã những ly pha lê đựng nước trên tấm khăn trải bàn vải lanh trắng như tuyết. “Xe của tôi!”, anh hét lên. Chiếc xe Caddy của anh đang chạy chậm qua khúc quanh, bị cản lại vì một chiếc khác đang lùi lại. Jerry chạy ra cửa, mọi người nhìn theo. Nhiều việc xảy ra cùng lúc. Người lái xe nhìn thấy anh qua kính chiếu hậu, cố gắng lùi lại, bối rối, đụng Jerry và đâm sầm vào bức tường kế bên khi Jerry đang ở phía sau xe. Rồi hắn nhảy ra khỏi xe, biến vào bóng tối. “Gọi giùm xe cứu thương!”, người quản lý hét lên trong khi tôi chạy về phía Jerry. Laurence đến trước tôi. “Cứ nằm im”. Tôi nghe Laurence nói. Anh cởi áo vét và đắp lên Jerry trong khi giữ anh nằm yên. “Xe cứu thương sẽ đến ngay”. “Fitzhugh”, Jerry thì thào. “Em chắc cậu ấy không sao. Đừng lo. Em sẽ chăm sóc cậu ấy”, tôi ngốc nghếch hứa. Mặc dù chiếc xe trông rất thảm hại, cái chuồng mèo vẫn nguyên vẹn, bị lật ngược, với con mèo giận dữ bên trong. Xe cứu thương đến. Tôi nhìn họ đặt thân hình bất động của anh lên băng ca. Thật là một ngày Lễ Tình yêu khủng khiếp. Đầu tiên là bà Patrickson. Bây giờ đến Jerry. Một cuộc tàn sát Lễ Tình yêu. “Mình phải về, Lou Ann”, tôi nói, ''Cảm ơn bạn”.

“Gọi cho tớ nhé”, cô ấy nói và siết tay tôi, tỏ ra rất ái ngại. Tôi ngồi vào chiếc Corvette với Fitzhugh trong cái chuồng mèo. Ôi, Jerry, anh là ai? Tôi nghĩ và muốn khóc. Có thể anh ấy đã cố giết tôi vì anh là người tâm thần và thay vào đó đã giết bà Patrickson... Khi tôi bước ra khỏi thang máy, cái chuồng mèo đập mạnh vào chân tôi. Dấu băng dán chéo và thông báo của cảnh sát trên cửa phòng bà Patrickson như một lời cảnh cáo. Cẩn thận! Tôi dũng cảm bước vào, đặt cái chuồng xuống và mở cửa chuồng. Fitzhugh vẫn ngồi bên trong, nhìn tôi trừng trừng. “Tao không sợ đâu”, tôi nói với nó, cảm thấy một sự trống rỗng bên trong mà tôi nghĩ là vì chưa ăn tối. Tôi đi về phía nhà bếp. “Nhưng tôi sợ”, một giọng nói vang lên. Một bàn tay bịt chặt miệng tôi trước khi tôi kịp quay lại. Một bàn tay khác nắm cánh tay tôi và bẻ quặt ra sau lưng. “Cô đã đoán ra phải không?”, giọng ấy nói tiếp, “Tôi tưởng cô sẽ đổ tội cho thằng bạn trai đẹp mã của cô nhưng khi cô gọi tôi biết là không. Tệ quá, em bé. Đáng lẽ chúng ta có thể tốt với nhau”. “Mac?”, tôi lắp bắp qua những ngón tay đè mạnh lên miệng tôi, “Cô ruột của anh?”. Cô ruột rất giàu của tôi. Chủ một loạt nhà như thế này nhưng bà ấy cứ sống với những con chim hoàng yến chết tiệt và coi tôi như một thằng bé sai vặt. Cái thằng Jerry cô rất thích ấy đến thật đúng lúc. Khi tôi bảo thằng cha ở phòng trước mặt nhận diện nó, tôi sẽ thoát”. Tôi cố vùng ra. Những ngón tay của Mac bấm sâu vào miệng tôi. Tôi cảm thấy vị máu. Bàn tay kia của hắn vặn tay tôi mạnh tới mức tôi tưởng nghe tiếng xương kêu răng rắc. Tôi cắn hết sức vào bàn tay trên miệng. Hắn giật tay ra và tôi thét lên. “Bây giờ mày cũng giống những con khác, đồ chó cái!”, Mac hét lớn. Hắn chồm tới để trói tôi lại. Ngay lúc đó, một con vật lông lá nhảy lên đầu hắn. Đến lượt Mac thét lên trong khi những móng vuốt chết người cào vào mắt, vào da đầu và xé những mảng da lên trên lưng hắn. Tôi lao ra cửa và mở toang ra, thở hổn hển. Ông Jaspers đang đứng trước cửa phòng mình: “Tiệc thú rừng hả? Cô có con mèo trong đó à?”. “Có tên đã giết bà Patrickson. Gọi cảnh sát đi”. Để cửa mở, ông Jaspers quay vào gọi điện thoại. Tôi đứng ngoài hành lang, nghe tiếng thét bên trong. Tội nghiệp Fitzhugh. Mong sao nó không bị chứng bệnh gớm ghiếc nào vì

cắn hắn. Mac khập khiễng đi ra, chửi rủa và trượt té, máu chảy ròng ròng xuống mặt khi xe cảnh sát hụ còi chạy đến. Tất cả những người thuê nhà ở tầng của tôi đứng đầy hành lang nhìn Mac bị cồng tay dẫn di. Fitzhugh đang rửa mặt và có vẻ tự mãn. Lần đầu tiên tôi cảm thấy biết ơn một con mèo. Hôm sau, tôi đến bệnh viện. Jerry ngồi trên giường, một chân bó bột. Dùng cả hai tay nắm tay tôi, anh nói, giọng khàn khàn: “Donna, anh tưởng là đã mất em rồi”. “Sao anh lại nghĩ thế”. Trông anh xanh xao nhưng rất tuyệt, mái tóc sẫm lại rối, ánh nắng buổi sáng chiếu vào quai hàm cương quyết. Tôi kể anh nghe chuyện Mac. ''Cảnh sát nghĩ hắn là người đã tấn công những phụ nữ đó, lợi dụng vai trò người quản lý tài sản''. Tôi đợi anh hỏi thăm về con mèo. “Ôi em yêu. Hắn có làm bị thương không? Em có sao không”. Anh vuốt tóc tôi và tôi khóc trong tay anh. “Anh là một thằng ngốc”, anh nói, “Anh mong em sẽ không để một vật nhỏ như con mèo chen vào giữa chúng ta”, anh hôn lên cổ, lên má, lên môi tôi. “Anh có thể cho mẹ anh con mèo”. “Ồ không. Chúng em đã hiểu nhau rồi. Em nghĩ em sẽ thích cậu ấy”, tôi thì thầm, “Em đã được một bài học”. Tôi sẽ không bao giờ để anh biết chúng tôi đã suýt mất nhau vì sự tưởng tượng quá đáng của tôi. Năm nay, Thần Tình yêu có lẽ đã đến trễ một ngày, nhưng Jerry và tôi sẽ có nhau mãi mãi.

Lời chào ở ngưỡng cửa Năm Châu 18 tuổi, bà dì ở một thành phố mới giải phóng ở phía Nam gửi cho một chiếc áo dài. Trong một buổi gặp gỡ có tính hội hè vui vẻ rất hiếm ở thập kỷ 80, lần đầu tiên Châu mặc chiếc áo dài có những bông hoa trắng càng xuống vạt càng nhỏ đi tạo cái dáng áo cao lên. Châu cảm giác cái áo mặc vào ngày hôm nay có một tính chất khác thường, nó sẽ cho cô những may mắn gì đấy mà khó gặp vào lúc khác. Linh cảm về cái gì đó chờ đợi mình khiến đôi mắt Châu mở lớn, trống ngực đập như tiếng búa đập đá. Bước đi giữa các bàn như nữ hoàng bước giữa hai hàng lính danh dự. Biết rằng có nhiều cặp mắt dõi theo… May mắn thay khi người ta ở vào tuổi 18

… Châu cố gắng thờ ơ, phong thái cố tỏ vẻ chững chạc, chẳng cần ai. Bọn thanh niên choai choai búng ngón tay chong chóc, hê lô hê la từ các xó xỉnh, Châu chẳng quay nhìn.

Cái áo dài tuyệt đẹp giúp người ta lớn, không dễ bắt nạt. Châu chán ngắt cái bọn mặt búng ra sữa, chả có ai ra hồn. Dù vậy nếu chúng nó chẳng búng tay, chẳng hê lô, chắc chiếc áo dài này sẽ cứng như làm bằng đá!

Từ cuối dãy bàn kê sát tường, một người đàn ông không trẻ, không già, chống tay lên cằm cũng đang thờ ơ nhìn cảnh và người. Chả hiểu sao Châu có cảm giác anh ta đang chán ngắt mọi sự. Y như mình. Có điều anh ấy có vẻ chân thật còn mình, thực ra mình có chán đâu. Mình làm ra vẻ thôi. Ở tuổi này, mình còn khối thì giờ để chán. Châu tiến lại phía anh ta. Những đầu mẩu thuốc lá chất đầy cái gạt tàn trước mặt người đàn ông. Anh ta ngồi đây lâu rồi, chẳng để ý đến ai, cũng chẳng bắt chuyện với ai. Châu ngồi cạnh anh. Lúc này người đàn ông mới nhìn sang. Hai người gật đầu chào nhau. Cùng quay đi rồi cùng bất chợt nhìn nhau. Tiếng sét nổ giữa khoảng cách mong manh. Người đàn ông càng lúc càng có cái nhìn chăm chú: cô gái ơi, cô ở đâu ra?

Thực ra anh ta cũng không có nhiều hấp dẫn. Người cao lòng khòng, tóc đã hơi hói, hay lạnh co ro giữa đêm mùa thu mùi hoa sữa làm không khí trong veo như không hề có tạp bụi. Những buổi đêm ở chỗ Châu về, bao giờ Châu cũng quấn hai lần khăn len lên cổ anh. Vừa quấn những vòng khăn, nước mắt Châu vừa trào ra với bao nhiêu trìu mến. Khổ lắm thôi, cố quàng khăn đi không lại ốm, em chịu không được đâu!

Châu ở ký túc xá một trường đại học. Ký túc xá cố gắng tạo cho sinh viên chỗ ở độc lập, nên một phòng 12 người thành ra thành sáu phòng nhỏ. Mỗi phòng hai người. Châu may mắn ở với một chị có nhà ngoài phố. Thi thoảng mưa rét hay bài vở nhiều, chị ở lại ký túc xá. Còn Châu được làm chủ năm cái mét vuông chung quanh là cót ép. Những phòng bên cạnh bằng cách này hay cách kia, mỗi người đều có những giây phút riêng. Mùi xào nấu, tiếng mỡ rán, tiếng những chiếc giường gỗ tạp cọt kẹt, tiếng khóc vì hờn giận, tiếng xoa dịu của những người đàn ông… Chẳng ai giấu ai cái gì và thật may mắn không ai nhìn thấy ai. Những người đàn ông đến với các nữ sinh viên đều ý tứ không gặp nhau…

Anh đã có vợ. Người vợ cưới ở quê như trăm phần trăm các công chức tuổi anh lúc này ở thành phố. Năm chiến tranh, trước khi ra trận, những người già cố gán một cô nào đó với người lính. Cưới vội, nén vội lại cái mầm sống của mình rồi ra đi. Hết chiến tranh, còn sống trở về tới thành phố làm việc. Lúc này mới nhìn kỹ người vợ cưới vội, trăm bề chẳng hợp nhau. Con cái có rồi mà những năm ấy cô ta chăm sóc ruộng vườn, cha mẹ già… Tường cũng vậy. Bỏ không được. Lại rơi vào trường hợp hãn hữu, cô vợ Tường, sinh ra ở một thị trấn nhỏ. Nửa tỉnh nửa quê nên các thói đời rất rành rẽ. Chị ta có tính kích động thái quá, tức giận là sẵn sàng lao mình xuống từ gác năm. Đã mấy lần chị uống thuốc ngủ. Mấy lần dọa lao mình. Tường chẳng phải gan góc gì, cũng là tình nghĩa…

Nên những đêm ở lại giữa năm cái mét vuông cót ép của đời sinh viên, anh thường phải dối vợ là đi công tác. Chiều thứ bảy là chiều lý tưởng. Trường vắng teo. Những phòng bên cạnh đều của các cô ưa thói chơi thành thị: đi picnic. Tường lọc cọc cái xe đạp từ nhà xuống, đèo theo vài củ xu hào, quả tim lợn hoặc tý thịt bò. Trong khi Châu hí húi xào nấu bằng cái bếp dầu. Tường sửa lại cái chốt giường, đóng lại vài cái đinh. Vừa làm vừa hát, ở nhà không lúc nào anh hát nổi trước khuôn mặt giận dữ và tuyệt vọng bất tận của cô vợ đòi hỏi mọi thứ đều cao. Hai người chụm đầu ăn uống. Cô yêu Tường, thương anh đến thổn thức và tất cả những lần trong bóng đêm của căn phòng sinh viên thưng cót ép, nước mắt Châu đều tràn ngập như lụt. Khoảng gần nửa đêm, Tường khoác lên mình cái áo. Châu ôm cổ anh, quàng khăn cho anh, đêm mùa hè cũng vậy, đường xa nhỡ đau ốm thì tội …Những giọt nước mắt lại rơi.

Hôm đầu tiên của tháng đầu tiên, của năm đầu tiên yêu nhau, Tường hôn nhẹ lên má người yêu thầm thì :

- Thôi anh về nhé.

Hai năm sau yêu nhau, anh vẫn có động tác ấy, lời thầm thì ấy:

- Thôi anh về!

Hôm đầu tiên, Châu choáng người khi chỉ còn lại một mình. “Thôi anh về”. Thế là anh về. Dù thế nào thì anh cũng có một gia đình và anh phải về. Những đứa con của anh còn nhỏ, anh phải kiểm tra bài vở cho chúng, anh phải về thì đúng rồi còn gì. Người vợ suốt đời mang bộ mặt sầu não tuyệt vọng của anh nhất định phải cho cái bàn là nóng vào chăn cho ấm. Anh phải về! Điều đúng quá là anh phải về. Nhưng giá như anh nghĩ rằng có một con bé yêu anh tan nát trái tim đang chẳng biết về đâu.

Cứ thế đều đặn, hai năm sau yêu nhau anh vẫn hôn nhẹ lên má cô, thì thầm: thôi anh về nhé. Những năm Châu học đại học, năm cái mét vuông cót ép tràn ngập yêu đương và cũng đầy những lời chào thầm thì: thôi anh về! Châu sợ người yêu, tôn thờ từng bước chân anh đi. Những chiếc may ô của anh để dưới gối, đêm đêm Châu vẫn ôm nó vào khuôn mặt đẫm nước. Đó là thời kỳ áo may ô có lúc vá từng miếng to, có hôm cô hôn hai bàn tay anh, thấy đầy mùi mỡ thực vật Na Uy, cái thứ mỡ viện trợ rửa bao nhiêu cũng

không hết mùi. Anh bảo: anh từ cơ quan phải về nhà nấu cơm rồi mới đi. Vợ anh lại ốm! Xào khoai tây với mỡ Na Uy, cho trẻ nó ăn lấy chất. Cô yêu cái mùi mỡ khó rửa sạch nơi tay anh. Cô vá những chiếc may ô. Thuốc đánh răng bằng bột được phân phối ở trường, cô gói vào túi nilon cho anh đi công tác. Cô dành dụm những hạt mì chính cho vào cái lọ con: đi ăn phở, anh chấm thêm cho ngọt!

Ấy vậy mà ra khỏi chăn của cô, anh cứ vô tâm:

- Thôi ngủ đi anh về nhé!

Châu làm sao ngủ được khi cái cảnh anh về với gia đình cứ dày vò giấc ngủ của cô. Một lần hiếm hoi, cô sợ sệt bảo anh: anh đừng nói là anh về, anh nói kiểu khác đi.

Anh ngỡ ngàng nhìn cô, cười xòa: chuyện vặt. Thói quen thôi mà… Châu sắp tốt nghiệp đại học, anh vẫn vô tâm: thôi anh về.

Những năm sau chiến tranh với vô vàn thứ khan hiếm đi qua. Thập kỷ 90 bắt đầu với đèn màu ngoài phố, cửa hàng có đủ thứ để mua. Châu tốt nghiệp đại học giữa lúc khan hiếm việc làm. Tường không phải là người tình thoáng qua khi vui vẻ. Anh thực sự như là người thân thiết của Châu. Anh tìm việc làm cho Châu: ở cơ quan thằng bạn thời đánh nhau. Châu về làm ở phòng hành chính, bằng lòng với công việc đánh máy công văn, rửa ấm chén, nghe điện thoại… Một người bạn nữa của Tường đi kiếm ăn tận trời Âu, Tường giữ nhà cho bạn, nửa căn hộ trên gác năm ở khu tập thể lắp ghép. Châu dọn tới với cái va li nhỏ, bếp dầu, những chiếc chai. Và những chiếu thứ bảy êm đềm trong chăn ấm. Ở đây khi ra về, Tường nhón chân cho nửa căn hộ bên trong không nghe tiếng. Châu lại quàng cổ anh, ôm lấy thổn thức: ấm rồi, anh phải cố giữ cái phổi. Tường hôn Châu, tiếng thầm thì hơn cả thời ở ký túc xá:

- Thôi anh về nhé!

Anh về, anh về. Châu buồn. Rồi thấy hậm hực. Chả nhẽ anh không chào nổi một câu khác. Sao Châu khổ thế. Anh ấy yêu Châu. Đã hẳn. Nhưng tương lai của Châu thì sao

đây? Rồi sẽ tới đâu? Hai người đã bàn chuyện lo cho đứa con đầu của anh vào đại học. Châu đùa: nó thế chân em! Trong nửa căn hộ ám khói ở tầng năm này, lại những buổi chiều anh tạt qua. Thịt giờ đã mua tự do. Nhà hàng đã có nhiều món ăn khá, ăn lạ. Nhưng cái bếp dầu vẫn làm phận sự của nó. Cái chăn trong mùa đông. Cái quạt điện mùa hè. Và anh lại thường về vào lúc mười giờ tối. Vợ anh hay ốm, cô ấy thích thấy anh ở nhà. Thôi anh về nhé!

Châu mặc váy, hai cái chân dài trong tất đen có điểm những bông hoa lốm đốm. Thủ trưởng của Châu hấp háy đôi mắt sau cặp kính. Khổ lắm, nhưng cũng vợ con hàng tá rồi.

Tường bắt đầu sợ sệt, rúm ró. Người ta đã cho anh một chức vụ tương đối sau hàng chục năm lận đận. Anh nên cẩn thận với những chuyện tình tang vì cái đó ảnh hưởng rất lớn đến con đường trước mắt. Anh hấp tấp quay đi khi bất chợt gặp Châu ngoài đường. Anh tránh đôi mắt nhìn thẳng thách thức của Châu. Anh thường chờ trời tối mịt mới dám lò mò lên gác năm. Thì thầm hơn cả trước kia: lão ở cuối hành lang kia là người trên bộ đấy, nhỡ lão biết chuyện của mình thì phiền. Thôi anh về nhé!

Châu nhìn theo cái bóng lòng khòng của người yêu đi không một tiếng động. Đôi vai mỏng mảnh của anh giờ gánh hai chỗ nợ: sợ cấp trên và sợ vợ. Anh làm sao thu xếp được cho ổn? Cô thổn thức vì thương anh.

Một hôm có người đàn ông theo cô vào hiệu sách. Làm quen rồi rủ đi uống cà phê. Người đàn ông có giọng nói ân cần trong máy điện thoại làm cô sững sờ: sao lại có cái giọng êm ái như đếm vậy? Cô thấy mình cũng phải sống. Cô lơ đãng đón Tường, lơ đãng thổi nấu và lành lạnh trong chăn. Tường hốt hoảng có chuyện gì thế? Anh gặng hỏi, gặng hôn cô lần nữa. Nhưng rồi vẫn vô tâm:

- Thôi anh về nhé!

Châu đi uống cà phê với người đàn ông có giọng nói êm ái. Châu cũng theo đến cổng nhà anh. Hóa ra anh ta cũng chỉ đi uống cà phê, trò chuyện qua điện thoại. Và cô vợ thì chẳng phải tay vừa. Châu hốt hoảng thấy chung quanh mình toàn kẻ chán vợ… Một vài cuộc gặp gỡ với một vài người đàn ông có vợ nữa. Một buổi trò chuyện với một gã người Ấn Độ. Một buổi nữa với một ông Philippin đen cháy. Tất cả họ thích cô vì đôi chân dài. Thế

thôi. Nghĩ cho cùng chẳng ai yêu cô thành thật như Tường. Anh chẳng yêu đôi chân dài của cô. Anh yêu cô.

Cái tình yêu như mê đắm, như anh em, như cha con, tất cả cô được hưởng của anh trọn vẹn. Nghĩ cho cùng cũng chẳng có ai lo lắng đến anh như cô.

Nhưng anh vẫn vô tâm:

- Thôi em ngủ đi, anh về nhé!

Anh đã lên được một chức cao hơn. Và Châu đã ở tuổi 27. Gần mười năm, vẫn một tiếng ấy:

- Thôi anh về!

Vào năm Châu 28 tuổi, anh cố gom góp tiền của hai người, mua hẳn nửa căn hộ của người bạn. Và chỉ trong một năm có những cơ may bất ngờ, một loáng anh làm được nhà cho vợ con anh, anh mua luôn nửa căn hộ kia cho Châu, sửa sang lại, đồ gỗ đồ điện mới tinh làm căn phòng sáng lên như có phép lạ. Giờ đây không có cái ông ở cùng căn hộ, và các nhà cũng bỏ thói quen dòm dỏ nhau như trước, anh vẫn thầm thào: đóng cửa lại đi em!

Rồi khi bước ra, anh cũng nói nhỏ không thể nghe nếu không hiểu: Thôi anh về!

Một chàng trai mới lớn bước vượt lên gọi Châu: Em bé ơi chờ một chút. Nhưng khi Châu quay lại, cậu lúng túng: em xin lỗi nhầm người quen!

Châu cay đắng về nhà, đóng cửa lại ngồi thừ ra. Chiều hôm đó cô đón Tường nhạt nhẽo. Là người không mấy nhạy cảm nhưng hôm đó Tường thấy không ổn. Anh săm soi sửa mấy thứ lặt vặt, hát luôn miệng, mắt liếc nhìn Châu. Anh lo sợ. Anh chẳng có gì, chỉ còn Châu. Cái chức vụ kia là lẽ sống của anh. Nhưng là một mặt lẽ sống. Không ai thay nổi Châu.

- Thôi anh về nhé!

- Anh ở lại đã. Thôi anh về, anh về. Đã bao lần em van xin anh đừng nói câu ấy, anh cứ nói: thôi anh về. Thì ai chả biết anh về với vợ anh. Anh có đủ. Anh có tưởng tượng nổi cái câu ấy mười năm rồi làm em đau đớn như thế nào. Anh về. Thế còn em ở lại làm gì? Em là cái gì của anh? Sao anh cứ giữ rịt lấy em rồi lại chào em thôi anh về.

Tường co ro đứng ngoài cửa. Trời lạnh. Anh thấy mình chợt nhỏ đi khi chứng kiến cơn thịnh nộ của người tình. Châu nói như sảng, chẳng có nước mắt như trước kia. Tường chợt nhớ là thời gian gần đây khi quàng cổ cho anh Châu không còn thổn thức vì trìu mến nữa. Cô cũng không nói cái câu: giữ cái họng, cái phổi, ốm lại khổ em! Kèm theo đó là những tiếng thở dài.

Tường chợt thấy đời trống rỗng. Anh già rồi. Hai con vào đại học rồi. Bà vợ vẫn nuôi bộ mặt tuyệt vọng khi anh về tới nhà. Ngăn kéo bà chứa nhiều thuốc ngủ. Đầu tiên anh cố gắng vất đi nhưng rồi thấy chả có gì xảy ra, anh cứ để đống thuốc ngủ ở đấy. Ở cơ quan anh có lái xe riêng. Những trưởng phòng sáng thứ hai ngồi nghe anh giao ban. Ông bảo vệ sợ sệt khi anh đến mà ông không có mặt…Nói tóm lại mọi chuyện đều ổn. Chỉ còn Châu, cô không gọi điện cho anh suốt một tuần. Sự trống rỗng thiếu vắng làm anh già sọm. Anh đành đến với cô, cái căn phòng tràn ngập yêu đương trước kia giờ đây như rộng ra với anh. Hai người lao tới nhau, như đã hàng thế kỷ xa cách. Vẫn yêu nhau lắm cơ mà! Khi ra về, anh ý tứ:

- Thôi anh đi nhé!

Một vài hôm sau anh lại quen: thôi anh về. Có điều anh sững lại, cười xòa và chữa: thôi anh đi! Châu hờ hững thấy anh lúng túng. Châu chả vui mừng khi nghe anh ý tứ: thôi anh

đi. Cô như người khao khát chạy tới biển. Giờ thì thấy rồi nhưng mệt mỏi quá, không thể vui mừng. Mặc kệ!

- Anh chả phải giữ gìn như thế anh ạ, em không cần nữa. Anh cứ nói như trước cũng được.

Nhưng Tường không thể chào Châu như trước. Đã thành quen rồi, bao giờ anh cũng: thôi em ngủ tiếp đi, anh đi đây!

Thôi anh đi đi. Em cũng phải lo cho đời em chứ. Lẽ nào suốt mười năm qua em đã tranh đấu, buồn khổ hồi hộp vì chờ đợi câu chào hôm nay của anh. Em còn trẻ mà. Thôi thì anh cứ về đi.

Châu khép cửa không nhìn theo người đàn ông. Cô liếc qua tờ lịch: Mùa xuân này mình mới có hai chín tuổi.

Tình công sở Chiếm 1/3 thời gian một ngày nên công sở gần như là mái nhà thứ hai của mỗi người, vì thế, việc phát sinh tình cảm giữa những người làm chung với nhau là điều khó tránh khỏi. Công sở - nơi bắt đầu tình yêu Tại công ty may mặc thời trang cao cấp T., Tuyên vào làm trước Thúy 4 năm nhưng khi Thúy xuất hiện, cả hai như cùng bị tiếng sét ái tình dù công ty có gần 4.000 công nhân viên nữ và hai người làm ở hai bộ phận khác nhau, hơn nữa, Thúy lại lớn hơn Tuyên đến 2 tuổi.

Việc hai người yêu nhau đến ông sếp người Malaysia của Tuyên cũng biết. Vốn thích đùa, lại là trưởng phòng tài chính kế toán nên ông thường chọc hai người "tính kỹ" vì

công ty có khoản tiền mừng cho nhân viên đám cưới, hai người làm cùng công ty sẽ được cả hai.

Sau một thời gian, Tuyên sáng sáng đến nhà đưa Thúy ra bãi đậu xe, chiều đưa về. Giữa thời buổi xăng dầu đắt đỏ, việc hai người đi chung xe hóa ra lại tiện và lợi. Bù lại, Thúy chăm sóc cho Tuyên từ bữa sáng đến bữa tối. Khi thì bịch trái cây để Tuyên bù đắp vào phần ăn "suy dinh dưỡng" của căn-tin công ty, khi thì gói thức ăn nấu sẵn ở nhà để Tuyên ăn chiều.

Đùng một cái, mọi người nhận được thiệp cưới của Thúy nhưng chú rể không phải là Tuyên!

Khi tình công sở bị… cấm

Ở công ty nước giải khát C. có vốn 100% nước ngoài, trái với việc tự do quan hệ như Thúy và Tuyên, công ty của Hoàn và Liêm lại có một quy định bất thành văn là đồng nghiệp không được lấy nhau. Dù công ty chưa hề xử lý hay phạt, thỉnh thoảng cũng có vài đôi yêu nhau rồi làm đám cưới nhưng họ không dám làm rình rang hoặc công khai đi lại với nhau vì sợ ảnh hưởng đến công việc.

Mọi việc có chăng cũng chỉ các sếp người Việt biết chứ ít khi đến tai các sếp người ngoại quốc. Với chức danh trưởng phòng như Liêm, anh càng thận trọng vì không muốn dây vào những điều cấm kỵ của công ty.

Mối tình của anh và Hoàn - cô nhân viên của anh mọi người đều biết và ủng hộ (chỉ trừ các sếp lớn). Sau hai năm yêu nhau, đồng thời với quyết định đi đến hôn nhân, Hoàn cũng quyết định xin chuyển sang công ty khác làm để khỏi ảnh hưởng đến bước đường thăng tiến đang rộng mở của Liêm.

… và bị "tám"!

Tại một bệnh viện chuyên khoa trong thành phố, mọi người vẫn chưa quên câu chuyện buồn của Dũng và Linh. Dũng là nhân viên kỹ thuật có năng lực, vóc dáng phong độ, hào hoa cộng thêm giọng nói êm như hát. Linh chỉ là một cô y tá bình thường, dân tỉnh lẻ, hiền lại nhút nhát, không có gì nổi bật.

Sự chân chất, mộc mạc của cô lại khiến một người từng trải, đào hoa như Dũng để ý. Việc Linh được anh chiếu cố khiến nhiều cô trong bệnh viện ngầm để ý Dũng ghen tỵ. Họ cố tình tạo cơ hội tiếp xúc, trò chuyện, nhờ vả Dũng trong công việc nhằm đưa đẩy, chọc tức Linh. Việc Dũng đi hội họp, công tác với các đồng nghiệp nữ cũng là chuyện thường nhưng qua miệng lưỡi châm chọc của những kẻ đưa chuyện lại thành ghê gớm.

Yêu người công tác cùng đơn vị là một thuận lợi khi mọi chuyện xuôi chèo mát mái nhưng lại vô cùng khó chịu khi tình cảm của hai bên gặp vấn đề, trục trặc. Không cần biết lý do, chỉ cần thấy Linh thiếu tập trung hay tỏ ra lơ đễnh trong công việc hoặc xin nghỉ phép là cô lập tức bị gán ngay cái tội "giận nhau với người yêu gây ảnh hưởng đến công việc".

Dù thực chất nguyên nhân không phải vậy và việc yêu Dũng chưa gây ảnh hưởng gì đến công việc nhưng không ít lần trong các cuộc họp giữa tập thể, không ít người xách mé, nói xa gần, bóng gió về việc một số người để tình cảm cá nhân làm giảm hiệu quả công việc làm Linh nản đến mức muốn xin nghỉ.

Đa phần trong các chuyện tình nơi công sở, khi có sự rẽ ngang, thường người trong cuộc chọn quyết định chuyển nơi làm việc, có lẽ để khỏi "đụng độ" với người cũ hoặc đỡ "đau" hơn nếu người cũ lại quen người mới cũng cùng cơ quan.

Việc không thể kết hôn hoặc yêu người cùng công ty chỉ xảy ra ở một số ít công ty, trái lại, nhiều cơ quan (nhất là các đơn vị nhà nước) còn tác hợp cho các đôi là đồng nghiệp với nhau. Thậm chí có nơi Công đoàn còn đứng ra tổ chức lễ cưới cho nhân viên. Tuy nhiên, nếu thực sự yêu nhau thì "mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua" huống gì việc cơ quan ngăn cấm hay một trong hai (thậm chí cả hai người) phải quyết định chuyển nơi làm việc thì cũng đâu có nghĩa lý gì.

Mối tình đầu Giá phòng trọ ở bến xe miền Đông hôm ấy là hai mươi lăm ngàn. Đã hai giờ. Đêm nhờ nhờ sáng của mầu ánh trăng gần rằm. Họ đến, có lẽ là cặp gần cuối. Gã trai say lảo đảo. Cô bé đi trước lập cập mở cái bót đầm trả tiền. Thằng nhỏ dẫn phòng, chắc là con bà chủ, liếc trộm. Cô bé ngồi xuống đệm giường trắng một mầu khả nghi, bật quạt cây rồi nói trống không:

- Tắm trước đi, xà bông nè. Hai mươi chín tuổi, Lê Mạnh Thái, kỹ sư phần mềm của Ngân hàng công thương lần thứ hai vào Sài Gòn. Anh đi cùng sếp mua hệ máy vi tính mới. Computer đang là thời thượng trong nghệ thuật trang trí nội thất. Lần trước mua cả dàn Olivetti đã được tín nhiệm. Ban giám đốc khen mầu sơn nhã. Tiền dư của thương vụ này dôi hơn. Sếp và anh đã thông minh. Bên bán máy rủ đi nhậu bia ôm. Đêm nhậu đó hơn hết năm triệu. Đêm nhậu đó, sếp say và làm trò khỉ. Đêm nhậu đó, giữa hai thùng Tiger và San Miguel, Thái đã gặp cô bé. Chàng trai tắm xong ngồi hút thuốc. Nước lạnh làm anh tỉnh rượu. Chai Hennessy lúc tàn bữa bị tính đắt khủng khiếp. Toilet không có cửa. Chỉ khẽ nghiêng người là thấy cô gái khỏa thân đang tắm. "Lúc ấy anh hơi run. Không bao giờ anh nghĩ em lại còn con gái. Sao em lại chọn anh. Bia ôm, lần đầu tiên anh uống. Theo em đến quán trọ đó, nếu không uống nhiều rượu chắc gì anh dám đi. Anh yêu em, bé của anh. Anh yêu em. Sài Gòn tạp nham. Sài Gòn trác táng. Giữa cái đô hội bẩn thỉu đó, em là sự trong trắng duy nhất còn sót lại. Em yêu, anh hạnh phúc". Khoảng bốn giờ gần sáng, cô bé tỉnh giấc. Cô quay sang bên. Chàng trai cũng không ngủ, lại hút thuốc. Cô bé quàng áo vào toilet. "Cứ uống tiger là em đau bụng hoài mà". Chàng trai vẫn hút thuốc. "Em lạ thật". Không thấy cô gái trả lời. "Rồi anh sẽ nhớ em lắm". "Anh quên em ngay thôi".

"Anh thấy em uống nhiều bia khủng khiếp". "Mấy lon cuối em toàn đổ vào xô đá". "Em làm ở đấy lâu chưa". "Hai tháng". Cô bé lại tắm. Vòi hoa sen tắc, cô dội nước ào ào. Cả người ướt lướt thướt, cô trườn vào chăn ôm chàng trai. “Anh tắt đèn đi". "Em sành thật". "Ôm thì em quen, nhưng làm như lúc nãy em đâu có quen". "Anh thương em". "Trong Nam kêu thương, ngoài Bắc kêu yêu, phải dậy không". Chàng trai cười. Suốt từ đầu đêm, đây là lần đầu tiên anh cười. "Khách chỗ em nhiều người Bắc không". "Cũng nhiều. Toàn như bọn anh làm cán bộ, tiêu tiền bạo hết biết". Im lặng. Đêm ngoại ô đen và nhiều gió. Cô gái đột nhiên khóc. Cứ vậy, nức nở trong gần một tiếng. "Mới ra ngoài Tết, cơ quan anh thật vắng. Hà Nội mưa phùn và anh nhớ nắng Sài Gòn. Hơn hết, anh nhớ em. Anh viết thư và một lần nữa lại chỉ là thông tin một chiều. Anh muốn có một bức hình mới chụp gần đây của em. Anh cũng định ghi cho em địa chỉ. Nhưng tạo cho em một hy vọng hão huyền để làm gì. Em đã nói với anh như vậy hôm hai đứa đang ăn lẩu mắm. Vậy thì, tất cả đều là phù phiếm, tất cả đều là dối trá. Duy nhất một điều hiển hiện thật. Anh yêu em". Cô bé bia ôm đọc thứ thư được đánh số 5. Vừa đọc vừa hút thuốc. Thói quen sau khi trở thành đàn bà. Cô ép lá thư vào ngực. Bảy tháng sau cô phải vào viện Chợ Rẫy làm phẫu thuật. Bốn giáo sư đầu ngành làm việc cật lực trong hai tiếng đồng hồ để vét từng con chữ gỉ xanh bám đầy tâm thất trái. Tiền viện phí rất đắt, nhưng vẫn phải mổ. Khách hàng khi say vò ngực cô. Chỗ đó bị đau và nhức. "Sao anh không uống nữa".

"Anh nhìn em". "Bộ kỳ quá hả". “Cho đến giờ này anh vẫn chưa yêu ai". Thái siết chặt tay quanh người vợ. Cô ta bật tiếng rền rĩ. Thái nhổ thầm nước bọt ra sàn nhà, cái hôn đầy nước dãi tanh mùi son Pháp làm anh hết hứng. Vợ mới chả con. “Em đưa anh ra phi trường". "Thôi. Khỏi". "Anh sợ người ta nhìn thấy à". "Không". "Sao anh buồn thế". "Anh yêu em". "Yêu như đêm qua, nhé". Thái bật cười, khẽ nhìn đồng hồ. Cả một tuần hai người không rời nhau. Anh đã ba lần hỏi vay tiền sếp. Trưa uống bia rồi về khách sạn nghỉ. Chiều uống rượu tối kiếm nhà trọ ngủ. Anh và cô bé cuồng nhiệt bên nhau. “Hôm nay đổi đô bao nhiêu?". "Một không sáu hai". “Anh vặn bé volume đi”. "Lúc trưa em có qua chỗ ba không". “Đằng nào tối nay mà chẳng về ngoại". Bố vợ của Thái là một trong những quan chức đầu ngành. Khi cưới, Thái bị mang tiếng ghê gớm. Vợ vừa già vừa xấu. Nhà vợ đã giầu lại sang. Còn vợ Thái được tiếng. Chồng trẻ, học giỏi, đẹp giai. Một tay người Pháp nói “Hôn nhân không giống buôn bán. Trong buôn bán chỉ có một người bị lừa. Trong hôn nhân thì cả hai". Tuần trăng mật, Thái uống rượu suốt. Việc gì làm thì làm lấy lệ. Vợ Thái có bốn năm là sinh viên ở ký túc xá. Trường đại học cho nàng biết tất. Thượng tri thiên, hạ tường địa. Không gì không thông, không gì không hiểu. Bố vợ Thái lúc ấy mới chỉ là giám đốc ngân hàng tỉnh lẻ.

"Anh mua lắm xổ số thế". "Chơi vui một chút". "Rượu chè, cờ bạc. Chỉ thiếu đàn bà là anh hoàn thiện". Đêm tân hôn. Hóa ra đạo đức không mặc quần là như vậy. Trước hôm cưới ba ngày Thái mới được hôn vợ. Nàng rùng mình. Sự trinh bạch gia công. Mẹ vợ Thái đi giầy nhung như muốn quẳng giầy đi. Cái thói quen chân đất từ thủa thôn nữ. Lúc đón dâu, nhà vợ Thái ép Thái sử dụng tất cả đội xe cơ quan. "Hôm nay là sinh nhật em và đêm qua anh mơ thấy em. Trong mơ anh say bét nhè. Có hai đứa mà uống hết cả thùng Sanmiguel. Rồi em khóc. Thôi, ngày vui không nói chuyện buồn. Anh chúc em sức khỏe và mọi chuyện như ý. Hôn em". Cô bé vừa đọc thư vừa nhìn mưa. Lá thư đánh số mười. Lá thư đánh số mười bốn. Gã trung niên ngoại quốc ngồi đối diện đọc tạp chí Far Eastern Economy. Giữa lá thư số sáu và số mười bốn, cô bé đã ngủ với hai mươi chín thằng đàn ông. Toàn là ở khách sạn. Giá buồng tối thiểu bốn mươi đô. Còn giá phòng trọ của bến xe miền Đông hôm ấy là hai mươi nhăm ngàn. Trời vẫn miên man mưa. Lạ thật, mưa Sài Gòn mưa suốt cả buổi. “Có khi tháng năm này anh lại được gặp em. Sài Gòn mùa mưa với những cơn mưa bất chợt. Em nhớ anh không. Anh nhớ em khủng khiếp. Nhớ từng phút. Một nỗi nhớ tiền định. Miếng cơm ngụm nước đều hóc nghẹn tên em. Gia đình ép anh lấy vợ. Hay em ra Bắc với anh". "Anh viết gì khuya vậy?". “Anh soạn bản cân đối cho cơ quan”. “Đừng vờ vịt, tôi biết rồi”. Thái đẩy bức thư tình đang viết dở vào sâu trong đống hồ sơ công tác. Ly bia đang uống bị cái chặn giấy gạt phải rơi xuống choang một tiếng rùng rợn. Vợ Thái mặc váy ngủ chồm dậy, cười khẩy. Thái châm thuốc. Thật hạnh phúc khi được ghè bất cứ cái gì vào mặt vợ. “Đồ chó, anh đểu như con chó”. Nàng giống bố nàng, khi cáu rất hay văng tục. “Tôi được hân hạnh đọc một bản cân đối của anh rồi”. Vợ Thái đọc thuộc lòng bức thư số mười một. Thái gạt tàn thuốc đúng chân mình. Đau buốt.

“Nhục thật. Đấy lại là một con bia ôm. Nhục ơi là nhục". Thái muốn hét. Nhục nhất là tôi lấy phải cô. Cái mặt cô mà đi bán bia ôm là phương pháp hữu hiệu nhất để tiêu diệt tệ nạn này. Tất cả các quán đèn mờ đều phải sập tiệm. Chao ơi là cái mặt. "Mai tôi sẽ nói chuyện với ba". Một thoáng lạnh toát chạy ngang trán Thái: “Em điên rồi, em bình tĩnh đi". “Tôi nhất định sẽ nói chuyện với ba. Ông ấy mới cho anh đi Sài Gòn đã hỏng vậy, thế mà định cho anh đi Tây thì còn hỏng thế nào?". Thái bước lại gần vợ. "Em uống tí nước mát. Bình tĩnh đi em". "Không". "Anh xin em mà". Thái muốn khóc. "Anh ân hận quá". Vai Thái rung rung. Những giọt nước mắt rơi xám xanh sàn đá hoa trắng. Vợ anh sẽ tha thứ. Anh hôn vợ. Cô ấy sẽ tha thứ. “Anh phải đi xa. Rất xa và rất lâu. Nói cho oai, anh được biệt phái công tác dài hạn ở nước ngoài. Là châu Âu, nhưng cụ thể nước nào anh chưa biết. Anh không muốn đi lắm. Cứ nghĩ đến chuyện anh và em lại buồn. Kỷ niệm toàn là kỷ niệm. Những kỷ niệm vời vợi vĩnh viễn không thành hiện thực". Sinh nhật hai mươi mốt tuổi, cô bé bia ôm một mình uống hết hai mươi mốt lon bia. Cô bé bia ôm một mình đọc hết hai mươi mốt bức thư tình. Hai mươi mốt bức thư tình đều không đề địa chỉ người gửi. Khi yêu, người ta hay quên.

Đêm xóm chùa Đường lên trời hai mươi cây số trong đêm/Ta trót nắm tay nhau đến là dại dột...

Hạ Thảo Tôi trở mình. Một cái giường xét về phương diện thực dụng cũng như đạo đức vốn được đóng cho hai người nằm, nói rõ hơn, cho một người nam cùng một người nữ của Đấng - Tạo - Hóa. Khi phải chứa đến ba người thì độ bức bối chuyển thành giông bão không thể chịu đựng được. Tôi, chồng tôi, cô ta đã ở cả trên một cái giường. Đương nhiên chỉ hai người là có thực, còn người kia quanh quất giữa chồng tôi với tôi. Nhưng ý nghĩa chữ thực, chữ ảo cũng bất định như hai chữ số trên quân xúc xắc. Đôi lúc sự tồn tại của người ảo còn thực hơn cả người thực. Rất nhiều đêm tôi gặp ánh mắt chăm chắm của cô ấy nhìn đôi tay chồng tôi lần cởi khuy áo lót tôi. Tất cả bỗng lạnh giá.

Nhạc đêm khuya thật hay. Người ta có sáng kiến đáng kể khi soạn chương trình nhạc suốt đêm cho những cái giường mất ngủ. Đã lâu lắm tôi mới được nghe lại nét nhạc cũ... Kiệu công chúa từ xa đang tới gần khu chợ phiên ồn ào. Ai cũng biết đằng sau những tấm rèm lụa lộng lẫy dính đầy châu báu là một nhan sắc khuynh thành mơn mởn thanh xuân. Thần dân Ba Tư kính cẩn quỳ rạp bên đường chờ đám rước trang nghiêm với tiếng nhạc dìu dặt, với đoàn thị nữ tha thướt đi qua... Hỡi nàng công chúa mười sáu năm xưa, nay nàng ra sao? Nàng hạnh phúc hay bất hạnh? Đời sống vương giả có cứu nàng thoát khỏi bi kịch cay đắng? Chồng tôi trở mình. Tôi bỗng nhớ chiều nay một con ong vàng mật săm soi quanh quẩn bên cái vì kèo chạm đầu rồng của ngôi từ đường cổ kính nhà tôi. Tiếng vo ve dai dẳng khiến tôi sinh lo ngại. Tôi bảo anh:

- Anh nhìn xem con ong tìm gì ở đó vậy?

- Nó tìm nơi làm tổ. Em không thấy mẩu sáp bằng hạt lạc kia ư?

- Chẳng lẽ nó không có tổ hay sao?

- Sao lại không. Nhưng đến một lúc nào đó chúng chia đàn, đi tìm nơi làm tổ mới.

Tôi không nghe được hết những lời giải thích của anh ấy. Tự nhiên đầu óc tôi lãng đi. Tổ mới... chia đàn... Sau hai mươi tám năm chung sống có hai con ong cũng sắp chia đàn, tìm nơi làm tổ mới... Chuyện ấy thật khó tin. Phần lớn người ta sống theo thói quen. Như đêm đến cứ phải đi nằm dù không ngủ được. Như gần ba chục năm tôi quen sống bên cạnh anh ấy tựa bóng với hình, quen cả những lúc hình bóng co kéo vật vã để giữ cho cái tổ chúng tôi đứng vững trước sóng gió muôn mặt đời thường.

Bởi vậy tôi thật bàng hoàng khi nghe anh ấy thổ lộ: "Em thể tất cho anh. Em thuộc con người của những hoạt động xã hội. Anh lại cần một tình yêu tầm thường thôi, một người để làm vợ anh theo nghĩa thông tục nhất". Tại sao anh ấy nhận lấy một sai lầm khó bào chữa như thế? Tôi thương anh. Giá anh chỉ nói đơn giản rằng sau gần ba mươi năm rã rời vì cuộc mưu sinh, tình cảm của chúng tôi đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền, không thể vá víu được nữa.

Và sẽ không ai có lỗi nếu người ta phải chạy trốn một đời sống nhàm chán đến phát sốt.

Dù sao con số hăm tám năm chung sống trong thời buổi này cũng đã có một độ bền xấp xỉ mức kỷ lục. Pho ái tình ấy xứng đáng đứng chung hàng ngũ những chàng lực sĩ khổng lồ. Chàng đã chiến thắng mọi gian khổ qua hai cuộc chiến tranh, cái thời chúng tôi tranh nhau phần ngoài cửa hầm tránh bom, nhường nhau nửa giường thoáng gió đêm sơ tán. Chàng khổng lồ ấy chỉ vô ý xỉa răng bằng cái kim sắt rỉ, do đó bị tê-ta-nốt chết. Đã đành cái chết luôn diễn ra dưới muôn vàn mầu sắc, nhưng chết kiểu anh chàng ái tình to xác này thật quá lố bịch. Lẽ nào chỉ vì một dịp chồng tôi đi công tác, một dịp tình cờ gặp cô ấy, tình cờ phải nói dối... rồi tất cả tự nó chấm dứt, tất cả sụp đổ trong lặng lẽ?

Tại sao lại ra thế này hở anh? Tôi hỏi chồng tôi đến hàng ngàn lần và lần thứ ngàn lẻ một tôi vẫn đầy ngơ ngác.

Ông cụ bên ngành thứ, tôi thường gọi là cụ trưởng tiểu tông, mấy hôm trước sang chơi với vợ chồng tôi, khề khà chén chú chén anh một chặp, ông già gần bảy mươi tuổi mới do dự bày tỏ:

- Thưa hai bác, dù hai bác có bảo em lẫn cẫn, em cũng cứ tình thực góp ý. Hai bác là trưởng ngành đại tông, tức thị trưởng cả Họ ta, lại đang giữ gìn hương khói từ đường thay mặt Họ tộc, làm sao đừng để trong Họ ngoài làng xì xào dị nghị. Họ ta đâu phải vô danh tiểu tốt. Các cụ Tổ được cả nước ngưỡng vọng, cả nước quan tâm. Nay di duệ sống không ra gì tránh sao khỏi tai tiếng. Xin mỗi bác cố gắng một chút.

Tôi thật cảm kích trước tấm lòng ông. Nhưng người ta không thể cố gắng yêu. Biết đâu hăm tám năm chung sống đối với anh chẳng là một sự lưu đầy. Biết đâu bây giờ anh sẽ tìm được một chút hạnh phúc cho tuổi về già... Tôi chỉ cay đắng tự hỏi những khoảng thời gian hạnh phúc ít ỏi tôi đã trải qua cùng anh rút cục là có thật hay cũng chỉ là một con số ảo trên mặt quân xúc xắc.

Với tôi như vậy sẽ là một kết thúc buồn. Tôi được anh dắt về đây từ một đêm huyền hoặc cổ tích. Hai mươi cây số ở một địa điểm sơ tán, chúng tôi cứ nắm tay nhau đi bộ. Tới bờ sông Hồng anh rụt rè hôn tôi, cái hôn bị kìm nén sau bao ngày tháng... Nay tình yêu ấy đã bay mất, tôi còn lý do gì ở lại đây? Tôi sẽ chia tay anh. Một người đàn bà tự trọng phải biết rút lui đúng lúc.

Những lời cuối cùng đã nói với nhau. Tôi bảo rằng đã chuẩn bị một nơi ở mới, nhưng không báo trước sớm mai sẽ lên đường. Với mấy bộ quần áo, chẳng có gì phải chuẩn bị ồn ào. Sự ra đi sao cho giống những đợt công tác càng tốt.

Tôi sẽ tính cách đưa con cháu đi cùng. Khu nhà thờ hương hỏa này anh ấy cần có mặt để gìn giữ. Tôi chỉ giữ lại căn phòng bên tả mặc nhà thờ, nơi đặt cái giường đôi chúng tôi đang nằm đây. Không phải để phòng lúc quay về. Đơn giản vì tôi không muốn một người đàn bà khác bước vào phòng, nằm trên cái giường này và anh ấy sẽ nói những lời rất riêng, những lời ngớ ngẩn thơ dại, thứ ngôn từ của những đêm ân ái chúng tôi thường dùng. Để tránh xúc phạm cả tôi lẫn cô ấy. Dù sao mọi thứ đang còn nóng hổi. Là tôi vẫn nghĩ anh ấy thuộc diện đàn ông có tâm hồn nhạy cảm.

Tôi trở mình.

Tích tắc! Tích tắc! Tiếng cái đồng hồ treo tường kiên nhẫn đếm từng khắc mất ngủ. Gần nửa năm nay, nó thao thức cùng tôi, rất khẽ khàng, trung thành. Một tặng vật tôi giữ làm

kỷ niệm. Ngày mai phải nhớ cho nó vào va ly. Trong căn phòng rồi sẽ khóa cửa im ỉm, bụi bặm dần phủ mờ mọi dấu vết tôi, nó ở lại sẽ giống như một trái tim thoi thóp giữa đống phế tích. Tội nghiệp nó.

Gần nửa năm, quãng thời gian không phải ngắn, đủ để anh ấy suy nghĩ quyết định. Và chồng tôi đã nói rằng anh trót lỡ nặng lời hứa hẹn với cô ta, anh không muốn trở thành người lừa dối.

Gần nửa năm, quãng thời gian đủ dài để tôi cân nhắc trước quyết định chia tay. Nếu phải ra đi, điều tôi sợ là ở phía đứa con trai duy nhất của chúng tôi. Tuy nó đã lấy vợ lại mới sinh một cháu bé gái đầu lòng, nhưng cái tiểu gia đình ấy thật mỏng manh dễ vỡ. Chúng đang còn như những đứa trẻ chơi trò vợ chồng. Tôi đã không ngăn được một đám cưới xảy ra ba năm trước đây. Rút cục một thiên thần bé bỏng ra đời ngoài sự lựa chọn của chính mình.

Chồng tôi năn nỉ: Hãy ở lại với con cháu. Cũng đừng khắt khe với anh. Coi như anh đã chết rồi vậy.

Chồng tôi tính lầm. Những ngày sống của tôi không còn dài lắm. Với thứ bệnh tai ngược tôi đang mang trong người, sự chịu đựng cùng những cơn trầm uất sẽ nhanh chóng cướp nốt cái mẩu quỹ thời gian ít ỏi tôi còn lại. Mà với một quyết tâm sắt đá tôi phải sống, sống để vớt vát gây gột cho đứa trẻ mới rời nôi kia. Như thế tôi đã nhìn thấy trước những số phận nó...

Ôi hai con mắt đen láy tươi cười nhìn tôi như những đốm nắng rực rỡ chiếu sáng căn phòng u tối tâm hồn tôi. Ngay khi bà đỡ quấn vội mảnh tã cho nó rồi trao vào tay tôi, tôi đã linh cảm rằng cái sinh vật đỏ hỏn vừa mới chào đời sẽ gắn chặt với đời tôi như một tiền duyên từ kiếp trước.

Những ngày đầu mẹ nó nhiều sữa quá, mỗi khi cho con bú chỉ ngừng năm phút đã phải dứt ra. Thời gian còn lại con bé mút mát vú bà cho đỡ cơn thèm. Và bao giờ cũng thế, khi con bé cuống quýt rúc vào ngực tôi, vồ vập núm vú, nún lấy nún để, tôi bỗng muốn khóc vì một cảm giác sung sướng khó tả. Như thể thiên chức thiêng liêng của người đàn bà đơn giản chỉ là cái nhồn nhột rạo rực đang dâng lên trong ngực tôi từ từ từng chút một...

dâng lên nóng hai vai, lên cổ, lên má và tê dại xâm chiếm tận từng ngọn tóc. Tôi ngồi bất động thấm đẫm niềm ngọt ngào nồng nàn của những bản thánh ca vang đâu đó trong một khoảng không gian mơ hồ... Rồi ngọn triều êm đềm rút xuống, rất chậm. Thân thể tôi thoắt trong veo, mềm tựa bông. Con bé ngừng nún từng quãng ngắn. Cái nốt nghỉ ngân nga lâu dần đến lúc tự đôi môi nhỏ xíu rời ngực tôi. Nó đã ngủ. Tôi khe khẽ hít lấy mùi thơm gây của bàn tay bé tí nắm chặt. Tôi không rời mắt khỏi cái miệng ươn ướt, đôi lúc vẫn nhóp nhép núm vú trong tưởng tượng.

Tôi ngồi như vậy hàng giờ, say mê không chán. Đó là quãng thời gian sung sướng nhất. Tôi thong thả ngẫm nghĩ về lẽ huyền diệu của trời đất, ngồi xem cái sinh vật mình đang bồng ẵm che chở lúc này đang nhích dần vào thế giới hỉ nộ ái lạc của con người. Mười hai bà mụ đang dạy nó nheo mày, nhíu mắt, cười khóc trong mơ.

Đêm đêm tôi đặt tay lên đầu con bé thì thầm niệm Phật: "Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát...". Lòng tôi thổn thức nhận ra sự mộ đạo chân thành bất ngờ của chính mình. Tôi chỉ nguyện một điều: Xin các đấng từ bi hãy cứu mọi khổ nạn cho sinh linh bé bỏng này. Xin để tôi gánh chịu mọi tai ương nghiệp chướng của số phận nó. Trong giây phút huyền nhiệm ấy tôi có cảm giác một luồng điện từ lòng tay tôi đang truyền sang cơ thể con bé qua nơi được gọi là huyệt Bách hội, là Luân xa số bảy.

Hồi gia đình tôi chưa xảy chuyện, không hiểu nghĩ ngợi ra sao, tôi đã vẽ bức tranh Thiên đường. Trên một hoang mạc cát có đứa hài đồng ngồi cô đơn, lưng quay về phía nắng chiều. Bên cạnh nơi nó ngồi rải rác những mảnh vỡ của một cái bình cổ. Những mảnh vỡ này ngập chìm dưới cát bụi làm biến mất một phần họa tiết được khắc trên đó. Chân trời mờ mịt gió lốc trắng xóa.

Dù tôi vẽ phía sau đứa trẻ nhưng ai cũng nhận ra con bé cháu nội chưa đầy hai tuổi của tôi. Tôi đã lấy nó làm mẫu. Nhìn vẻ cô đơn đến thắt lòng của Thiên đường, sau này tôi chợt hiểu đó là một điềm báo chẳng lành. Lẽ ra tôi không được nảy ý nghĩ ví von Thượng đế với đứa trẻ côi cút, một mình lặng lẽ giữa hoang mạc với những mảnh vỡ quá khứ vàng son.

Tôi luôn tin vào những điềm báo. Tôi đã có những giấc mơ ứng nghiệm lạ lùng. Ví như tôi phát hiện chuyện dan díu của anh ấy cũng nhờ một giấc mơ báo trước. Trước giấc mơ tôi hoàn toàn tin vào sự thủy chung của chồng tôi. Nhưng tôi mơ thấy người đàn bà lạ

đang uốn éo quyến rũ anh ấy vào chuyện sa ngã. Hai ngày sau nhờ một bức ảnh tôi tình cờ biết được sự thật như thế. Cũng những tình tiết y hệt tôi mơ.

Không thể giải thích được. Tôi biết rất nhiều câu hát ru, nhưng không hiểu tại sao cứ ôm cháu tôi lại buột miệng hát:

Con cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về...

Đến bây giờ con bé cũng ngọng nghịu véo von:

"Ton tỏ đi đón tơn mưa...", đó cũng lại là một điềm báo.

Đến bây giờ tôi hiểu cơn mưa giông mù mịt đang sắp ập xuống đầu con cò tội nghiệp của tôi.

Mỗi lời ru ẩn chứa một tâm sự với nhiều biến thể tùy theo cảnh ngộ người hát. Ngày xửa ngày xưa cũng trên một cánh võng đay cũ kỹ, tôi nhớ như in tiếng mẹ trầm bổng vời vợi hát ru em gái tôi:

Chàng ơi phụ thiếp làm chi

Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng...

Con gái một cụ chánh tổng, mẹ làm dâu nhà nội tôi từ thuở mười lăm. Ba chục năm sau mẹ chiều ý chồng đội lễ đi hỏi vợ lẽ cho ông. Tôi cứ mãi hình dung con đê chiều mùa thu, cỏ bông lau phơ phất, từ bãi dâu bên kia sông tiếng gọi đò tha thiết vẳng sang, mẹ cùng một bà cô già lầm lũi đi. Tráp quả mang trầu cau, cân chè, mẹ đội trên đầu đè nặng từng bước. Nặng hơn nỗi buồn nức nở trong lòng mẹ. Như thể mẹ đang mang trái tim mình đi tới nơi hiến tế cho một thói tục, âm thầm nhẫn nhục.

Mẹ ơi, cớ sao mẹ cam làm hạt cơm nguội, cái hạt cơm hẩm hiu khiến tim con buốt nhói suốt một đời, khi con nghĩ về mẹ?

Chồng tôi trở mình.

Anh ấy cũng không ngủ ư? Hay anh đã đoán được sáng sớm mai tôi đi, lần ra đi mãi mãi? Càng hay. Tôi rất muốn tránh sự sướt mướt.

Nghe đâu cô ta đã ba con, đứa lớn sắp gả chồng. Năm ngoái anh chồng bỏ cô ta để sống với một cô gái mới ngoài hai mươi tuổi... Rõ cái vòng luẩn quẩn!

Thuở nhỏ tôi có người bạn trai tên Báu, con ông cụ hàng mã nổi tiếng phố chợ. Báu rất chiều tôi. Một rằm trung thu cậu tự tay làm cái đèn kéo quân thật đặc biệt để tặng tôi. Nhưng Báu không cho phép tò mò xem cậu chuẩn bị. Suốt nửa tháng trời tôi nài nỉ, giận dỗi, đòi được tham gia, nhưng Báu nhất định giữ bí mật. Khi mọi thứ sắp xong, Báu nhặt những sợi tóc rụng dài nhất lúc tôi chải đầu để buộc lũ hình nhân giấy. Báu nói phải buộc bằng chính tóc tôi đèn mới dễ quay. "Tớ đã phù phép như thế đấy".

Đúng đêm rằm trung thu, mặc những tiếng trống thì thùng ngoài sân đình, Báu cầm cái đèn vẫn còn được che bọc kỹ rủ tôi ra cầu đá sông Cái để "làm lễ" khánh thành. Tôi sốt ruột tưởng phát điên, luýnh quýnh chạy theo Báu.

Cầu đá ngay đầu làng tôi, nơi một dải sông xanh biếc êm đềm chạy qua. Lúc này mặt nước gọn gió như mang trong lòng sông cả triệu ngọn lửa vàng rực.

Đã đến giây phút long trọng tháo gỡ giấy bọc món đồ chơi thần kỳ. Cậu ta vẫn còn hành tôi, bắt lấy tay che mặt. Nhưng vừa nghe tiếng giấy loạt xoạt tôi đã mở bừng mắt. Trời ơi, quả thật trước mắt tôi là một báu vật chưa hề xuất hiện trên thế gian này. Dưới ánh trăng cái đèn kéo quân rực rỡ lóng lánh những giấy trang kim, tựa hồ nó được dát vàng dát bạc. Tôi mê mẩn nhìn, thậm chí nghẹt thở... Phải nói rằng cái đèn kéo quân ấy là món đồ chơi quyến rũ nhất tôi từng nhìn thấy. Cho đến giờ tôi vẫn không thể quên, dù nó chỉ tồn tại trong chốc lát.

- Rồi cậu sẽ thấy một điều tuyệt vời ngay bây giờ.

Báu khéo léo đốt một ngọn nến, cắm vào giữa trụ đèn hình lục lăng. Ngọn lửa làm bừng sáng mầu đỏ huyền hoặc của giấy bóng kính. Mầu đỏ đột ngột choàng lấy hai đứa chúng tôi tựa hồ nó nhuộm cả không gian chung quanh, kéo chúng tôi vào một thế giới bí ẩn. Và khi ngọn nến được thắp lên, trong giây lát tất cả lũ hình nhân bằng giấy cắt bỗng rùng rùng chuyển động. Trước con mắt kinh ngạc của tôi thoắt hiện ra đoàn kỵ binh với cờ bay phấp phới đang truy đuổi quân giặc. Tưởng đâu đây nghe rõ tiếng vó ngựa dồn dập, vũ bão. Tiếp đến chàng Kim Trọng nôn nóng lướt tới hàng liễu rủ, nơi cô Thúy Kiều thướt tha e lệ lùi dần về phía sau như thể chạy trốn. Bên bờ sông Ngân Hà nàng Chức Nữ cắm cúi dệt vải. Ngưu Lang bên sông dắt trâu đứng ngóng. Cặp vợ chồng ấy trôi nhanh cùng dải sông sao giữa một khoảng cách trời đày. Rồi chú rể chuột gò lưng phóng ngựa nước đại, kéo theo sau một bầy rước dâu chấp chới kèn, lọng.

Cái vòng quay đã hút tất cả hồn vía tôi. Thật bõ công mỏi mòn chờ đợi. Tôi không còn biết đến trăng thu vằng vặc trên đầu, mặt nước lấp lánh phía dưới. Mắt tôi dán chặt vào món đồ chơi phi thường để mặc cho Báu được nắm tay tôi vuốt ve dịu dàng.

Thế rồi đến phút thế giới mộng ảo của tôi sụp đổ. ở giữa một vòng quay tôi bỗng rụng rời phát hiện nàng Thúy Kiều biến đâu mất. "Ơ này, cậu xem này..." Tôi chưa kịp chỉ cho Báu thì chú rể chuột cũng không còn. Vài vòng quay sau, đoàn quân dũng mãnh rơi rụng dần tựa hồ bị địch bắn tỉa.

Tôi hét lên một tiếng.

- Nóng lâu quá tóc cậu bị cháy mất rồi... Tớ xin lỗi... Báu nói như khóc.

Phải mất một lúc tôi mới hoàn hồn, trống ngực dịu xuống, nước mắt tự dưng ứa ra. Một nỗi buồn giận xâm chiếm tôi. Và thường ngày đành hanh với Báu thành quen, tôi luồn tay xuống dưới lồng đèn, giật đứt những mảnh giấy bám lủng lẳng, những hình nhân mới đó còn là Thúy Kiều, Kim Trọng, Ngưu Lang, Chức Nữ... Trước đôi mắt rầu rĩ của Báu, tôi thả từng hình nhân xuống dòng nước chảy xiết phía dưới, hờn dỗi, không để Báu kịp phân trần.

Hơn bốn chục năm đã qua, tự nhiên đêm nay tôi nhớ lại chuyện cái đèn kéo quân tới từng chi tiết... ồ vâng, sự Đứt là quy luật tối thượng. Rồi sẽ đến lúc định mệnh buông tha chúng ta khỏi vòng quay luẩn quẩn, từng người một rơi rụng chẳng khác lũ hình nhân giấy.

Tháng trước trong khi chờ đợi chuyện này ngã ngũ, tôi nhận lời mời đi làm bộ phim tài liệu ở Quảng Ninh.

"... Rất cần một khoảng không gian xa cách, một khoảng thời gian yên tĩnh để người nọ ngẫm nghĩ về người kia, bình tĩnh tìm ra giải pháp tốt đẹp nhất...".

Tôi đã đọc những lời khuyên đại loại như vậy ở hàng chục tờ báo. Dạo này tình hình ly hôn tới mức báo động, tờ báo nào cũng có ít nhất một bài khéo léo khuyên nhủ mọi người nên khôn ngoan giữ lấy hạnh phúc gia đình. Tôi sinh ra vồ vập nhiều tờ báo mang chất tâm giao. Bài Người phụ nữ làm gì khi có chồng ngoại tình thậm chí được tôi cắt giữ, coi như một cẩm nang.

Quảng Ninh là vùng đất tôi bỏ quên từ thuở mười ba. Bởi duy nhất một lần năm mười ba tuổi tôi theo lớp học sinh đi nghỉ hè, tham quan mỏ than để trau dồi tinh thần lao động. Sau này tôi lang thang làm phim gần khắp đất nước, nhưng chưa một lần trở lại Quảng Ninh. Tôi hy vọng sẽ được gặp lại ngôi biệt thự mầu vôi vàng sáng rực trên sườn núi với những vòm cột kiểu kiến trúc Gô-tích, gặp lại mảnh sân có cột cờ, những luống hoa sân nhà ủy ban, nơi hồi đó tôi chôn cất một con chim chết. Nhưng tất cả đã khác xưa. Không còn Bãi Cháy mơ màng giữa làn sương buông trắng đồi

sim nữa. Bãi Cháy giờ ồn ào náo nhiệt với đủ mọi kiểu khách sạn, nhà nghỉ, nhìn đến chóng mặt.

Tuy vậy con đường xuống mỏ Mông Dương còn giữ được vẻ hoang vắng thơ mộng của vùng thiên nhiên chưa bị khai phá. Mươi mái nhà bên sườn non yên tĩnh. Một cây gạo đỏ rực giữa những mảng xanh uyển chuyển âm u. Tôi cho hạ máy quay, xuống ô-tô, làm một cảnh toàn lia thật chậm.

Tôi nói với anh bạn quay phim người địa phương:

- Sau cảnh này anh cho máy vào gần ngôi nhà sát chân núi kia kìa. Đàn gà con đang tha thẩn giữa sân đấy. Giá có người mẹ trẻ cho con bú trên cái võng ngoài thềm nữa kia thì tuyệt... Tôi rất thèm được ở một ngôi nhà nhỏ dưới chân núi như thế.

Anh bạn quay phim nhìn tôi một giây chăm chú, hơi mỉm cười.

- Chị có biết cơn bão năm ngoái đã cuốn rơi đá, đè sập một ngôi nhà dưới chân núi. Hai vợ chồng trẻ cùng đứa con năm tuổi chết ngay bên mâm cơm.

Hình như bằng lời nói thiếu đồng cảm của mình, anh ta muốn dội một gáo nước lạnh vào thói lãng mạn tôi buột ra. Tôi bẽn lẽn. Cảm ơn anh.

Tôi chẳng giữ được ấn tượng gì về cuốn phim tài liệu đó. Tôi hào hứng với chuyến đi vì một lý do riêng. Tôi muốn tìm kiếm một người đàn bà chưa biết mặt.

Cũng nhờ dò hỏi anh quay phim người địa phương, tôi may mắn tìm thấy ngôi nhà bên bến sông, nơi những thuyền gỗ, sà lan thu gom than trôi nổi tư nhân. Đó là một gian hàng bán tạp phẩm, thức ăn, gạo mắm cho những thuyền đỗ dưới bến. Chủ hàng, người đàn bà đứng tuổi với gương mặt héo úa bỗng rạng rỡ hẳn lên khi tôi tự giới thiệu mình ở Hãng phim X. đang trên đường đi công tác.

- Thế ư? Ngày xưa khi còn trong đoàn văn công tỉnh, mình đã từng tham gia đóng phim đấy nhé.

Người đàn bà ấy không bao giờ biết chính vì lý do đó tôi đã lặn lội đi tìm chị ta. Đương nhiên chị cũng không biết tôi thật sự là ai, dưới một cái tên giả.

Câu chuyện thăm hỏi được tôi dắt dẫn vòng vo cho tới lúc chị nhắc tới tên chồng tôi.

- Em biết không, tay ấy trước là người yêu của chị. Gớm, mê nhau lắm, một hai sống chết quyết lấy nhau. Nhưng khi gia đình tay ấy mang lễ ra đây ăn hỏi, không hiểu ông bố mình nhìn tướng mạo thế nào, nhất định không nhận lễ, không cho lấy. Ôi chao, giá mà...

Chị ta bỏ dở câu nói, mắt đẫm buồn. Tôi thương cho sự tiếc nuối dại dột ấy. Đôi khi dở dang không phải là không may mắn. Như tôi, thà dở dang ngay khi chúng tôi cùng nhau từ nơi cơ quan sơ tán về Hà Nội đêm đó!

Tôi không biết mình đã nhỏ nhen theo thói đàn bà, sợ người tình cũ của anh ấy hả hê, hay tôi muốn giữ cho hình ảnh anh ấy mãi đẹp trong tâm khảm người đàn bà này, tôi đã không hé lộ tí gì chuyện đã xảy ra giữa chúng tôi, mặc dù chị ta gặng hỏi tha thiết.

- Ở lại ăn cơm với chị đi. Ngồi đây buồn đến nhão người ra, chẳng biết trò chuyện cùng ai cả em ạ.

Chị ta không ngờ kém tôi đến ba tuổi, vẫn ngọt ngào xưng chị rất tự nhiên. Tôi không hề phản đối, sợ chị ngượng. Chị ta chóng phai tàn hơn tôi hình dung.

Tôi ra về vẫn không tìm được lời giải cho lòng hiếu kỳ. Anh ấy muốn tìm hiểu gì ở những người đàn bà anh yêu? Những người đàn bà, kể cả tôi đã đặt tình yêu vào con người này vì sao?

Tôi chấm dứt đợt quay ở đảo khỉ một hòn đảo cách bờ vịnh không xa. Tôi đã chộp được những cảnh sinh hoạt của lũ khỉ thật sinh động. Hàng ngàn con khỉ được nuôi dưỡng ở đây để cống hiến vắc-xin chống bại liệt cho con trẻ.

"Chúa đảo khỉ" là một người đàn ông dễ mến. ở trên hòn đảo này cùng vợ con gần hết đời người, anh đã thuộc tính nết từng thần dân của mình, chăm sóc chúng với một tình thương rất lạ.

- Chúng chẳng khác con người là mấy đâu chị. Kia, chị có thấy con khỉ vàng nhạt đang nấp ở cành cụt cây trứng cá kia không? Chị để ý kỹ nhé... Đấy...

Con khỉ vàng nhạt ló đầu rình một cặp mẹ con khỉ khác ôm nhau quấn quýt trên chạc cây bên cạnh. Ông chúa đảo phát một tín hiệu bằng thứ âm thanh lạ hoắc, ném quả chuối đang cầm tay xuống gốc cây. Con khỉ mẹ do dự một chút rồi nhẹ nhàng đặt chú khỉ tí hon bám lấy cành cây, nó đu mình nhảy xuống nhặt quả chuối. Con khỉ vàng nhạt chỉ chờ lúc đó, lao vội đến chỗ chú khỉ tí hon, vồ vập ôm ấp hít ngửi. Con mẹ quay lại thấy vậy lập tức buông rơi quả chuối, lăn xả cào cấu kẻ trộm. Tiếng chí chóe đan xen nhau. Con khỉ vàng nhạt xoay mình chịu trận lôi đình của khỉ mẹ, cố hôn hít chú tí hon đến cùng. Nhưng rốt cục nó vẫn phải bỏ chạy. Khỉ mẹ ôm chặt khỉ con sờ nắn, nâng niu. Thỉnh thoảng nó ngoái nhìn, nhe răng gừ con khỉ vàng nhạt vẫn còn lởn vởn cạnh đó.

- Cô khỉ cái vàng nhạt vô sinh ấy suốt ngày rình mò dỗ dành bế ẵm con của bạn nó. Tội nghiệp, lắm khi bị cắn xé máu chảy ròng ròng, phải bắt về băng bó. Đám khỉ mẹ yêu con ghê gớm lắm chị ạ. Chẳng may con nó bệnh chết, nó cứ khư khư ôm chặt mà kêu gào kỳ đến lúc cái xác thối rữa, không cho gỡ ra. Tôi nghĩ khỉ sợ mùi mắm tôm có lẽ do vậy chăng.

Tôi ngẫm nghĩ về những con khỉ. May cho chúng không bị đảo lộn đời sống như con người.

Vị chúa tể đảo kể cho tôi nghe rằng chuyện tình của khỉ cũng đầy thi vị. Mùa thu, mùa tình yêu, những chú khỉ đực chia từng bộ lạc đánh nhau chí tử để tranh giành bạn tình. Những bạn tình đã gắn bó sẽ sống chết với nhau đến hết đời. Anh kể, hồi chiến tranh ác liệt nhất đàn khỉ phải chia đôi, sơ tán một nửa sang đảo đá bên cạnh, cách xa đây khoảng nửa cây số mặt biển. Người ta không ngờ đã chia rẽ những cặp tình nhân. Thế rồi đột nhiên có những con khỉ cứ leo lên tít ngọn cây cao, hướng về phía đảo đá kêu gào, không chịu ăn uống cho tới lúc chết lả. Ngược lại phía đảo đá có những chú khỉ đực nhào xuống biển bơi về đây. Người bạn tình bên này thương cảm các chàng đuối sức cũng lao ra. Chúng ôm nhau chết đuối giữa mênh mông sóng nước. Không phải lúc nào thuyền cứu hộ của chúa đảo cũng cứu được hết.

Ngồi trên thuyền rời khỏi đảo khỉ tôi chợt mơ mộng. Tôi hình dung lúc này người ta đang nháo nhác tìm tôi. Tôi đã biến đi đâu mất tích. Người ta lùng sục từng gốc cây ngọn cỏ khắp đảo vẫn không thấy. Cuối cùng mọi người đều nghĩ tôi đã gieo mình xuống biển... Không đâu, ồ không ngu xuẩn như thế. Tôi đang khúc khích trên một cành cây cao nào đó, khẹc khẹc, chào từ biệt con người. Tôi đã ở lại đảo, nhập đàn với đồng loại hoang dã tự do.

Tôi và chồng tôi cùng trở mình.

Gà gáy sáng. Một bàn tay tôi chạm vào tay anh. Tự nhiên những ngón tay tôi tìm xiết chặt lấy những ngón tay anh, đan vào nhau. Tôi thấy những ngón tay của anh cũng từ từ riết chặt. Ngỡ chẳng bao giờ chúng ta lạc mất nhau phải không anh? Vĩnh biệt.

Trăm nghìn xin gửi lại

Buồn thương vô tuyệt kỳ...

Tàu đêm

Cô gái bước lên tàu. Vai so vì lạnh. Đấy là buổi chiều trước đêm Giáng sinh. Chiếc ghế cạnh chị còn trống. Cô gái nhìn quanh. Một bàn tay khum khum che lên nửa miệng. Nó, bàn tay ấy, xanh xao, những khớp xương giữa mỗi đốt gồ lên

- Ghế này trống hả chị? - Cô cứ ngồi đi. Ơ mà số ghế của cô là bao nhiêu? Cô gái không trả lời. Rụng xuống. - Cô có đem theo đồ đạc gì không? Để tôi cất hộ lên trên này. Cô chìa hai tay, muốn phác một cử chỉ, cô không mang theo gì cả. Chị thoáng lướt nhanh gương mặt ấy. Một bên mép cô sưng vều lên, chừng như máu vẫn ứa ra. Cô vội vàng đưa tay lên che miệng

Phố bên hông tàu đông nghẹt. Tàu bò chầm chậm. Còi kéo liên tục. Một chiều đông hiu hắt. Tiếng còi tàu thúc nhói ngực. Giờ này còn bao nhiêu người như chị, với một đêm Noel lúc lắc dặm trường? - Chị xuống ga nào? - Ga Y. Thế còn cô? - Vâng, em cũng xuống đấy. - Ồ, thế là đồng hành rồi! Nhà cô ở đường nào? - Không... Em chỉ đến nhà một người quen. Mà từ đây đến đó còn bao xa hả chị? - Nếu tàu chạy thế này, chắc cũng nửa đêm, có khi rạng sáng. Cô có người đón không? - Dạ có. Cô gái vẫn nói chuyện với một bàn tay che lên nửa miệng. Tiếng nói meo méo. Thêm nữa, lúc này chị mới để ý kỹ hơn, mắt cô hoe đỏ, mí nặng. Nhìn có vẻ như nạn nhân của một vụ bạo hành. Mà chưa chắc... Cô gái có vóc người nhỏ nhắn. Gương mặt khá thanh tú. Tất nhiên, nếu không có một bên mép bị sưng lên thế kia...

Tàu qua ga được một lúc. Cô gái bất ngờ quay sang nhìn chị. Ánh mắt ươn ướt nhưng gương mặt đang cố lấy lại vẻ tự tin: - Em nói thiệt... Chị đừng khinh nhé! Chị... còn gì để ăn không? Chị nảy người. Trong cái giỏ lúc lên tàu, hình như con gái chị có dúi vào vài bịch bánh. - Cô chờ chút, để tôi coi lại. Trong khi chị mở giỏ, mắt cô gái run rẩy lướt theo từng ngón tay chị. Chị bỗng giật mình. Cần phải cảnh giác, nhất là với những đối tượng quái gở như thế này. Chị tìm thấy một bịch khoai tây chiên: - Đây. Cô dùng đi. Cứ ăn hết. Tôi còn nhiều! Cô gái đưa cả hai tay đỡ bịch bánh. Cử chỉ lễ phép quen thuộc. Giống như một nữ sinh. Linh cảm bảo chị, hãy yên tâm. Hai bàn tay vừa chìa ra, lập tức một bên lại rút về, che lên khóe miệng. Cô gái nuốt nghẹn từng miếng bánh. Ánh mắt nhìn xa. Bên đường ray song song với

đường bộ, có một ngôi nhà thờ nhỏ. Đêm chưa buông hẳn, đèn đã chăng rực rỡ. Trước sân nhà thờ người tập trung rất đông. Chị nói, nửa như một mình, nửa như với cô gái: - Noel... Đầu cô khẽ gật. Gương mặt nhuốm bóng tối. - Chị đi công tác à? Sao không về sớm hơn, đón Noel? - Không, tôi đi thăm con gái... - Chị ấy lấy chồng rồi à? - Không, nó còn nhỏ. Nó sống với ba nó... Cô gái im bặt. Có vài giọt mưa tạt qua cửa sổ, lạnh buốt. Ai đó mở một bản nhạc cũ từ máy CD xách tay, chập chùng âm hưởng thánh ca. Sắc tối bò lên từ những cánh đồng hai bên đường. - Cô đến thăm nhà ai ở Y? - Bạn trai em... - Chà chà! Người yêu? - Dạ... người yêu. - Sao anh ấy lại về sống ở Y? Hay là đi công tác? - Không, anh ấy sống ở đấy! - Đoạn nào hả cô? Ý tôi muốn hỏi xem lát nữa tôi và cô có về chung đường không? Cô gái không giấu được vẻ bối rối: - À, em nghe ảnh nói ở gần hồ... - Hồ nào cơ? - À, em... cũng chỉ nghe anh ấy kể thế. Mà có lẽ là một cái hồ nhỏ. Chị không biết cũng nên. - Có lẽ vậy. Tôi sống ở Y từ bé, mà thực ra cũng chẳng đi đâu nhiều. Còn nhỏ ở với ba mẹ. Lớn lên lấy chồng. Rồi có con. Rồi công việc. Cả đời chẳng đi ra khỏi một bàn tay... Cô hạnh phúc đấy. Tôi chưa bao giờ có được một đêm Noel bên người yêu. Mà sao cô không lên sớm hơn với cậu ấy? Giá đi trước một ngày thì vừa. - Em kẹt. - Cậu ấy làm nghề gì? Sống khá không? - Cũng được chị ạ. Cũng khá! Lối nói chuyện của cô gái khiến tất cả những người cảnh giác đều phải tránh xa. Nếu không còn một chút niềm tin vào linh cảm, hẳn chị cũng không là một ngoại lệ. Nhưng chị biết, cuộc đời có quá nhiều ẩn ức. Đâu phải cứ ai có cung cách ăn nói mơ hồ đều không đáng tin? Thậm chí ngược lại... - Tàu dừng giờ đó, trời sẽ rất lạnh. Cô ăn mặc thế này... - Chẳng lạnh đâu chị ạ. Hì - Mắt cô gái như thoáng sáng lên - Có anh ấy đón mà còn lo gì nữa chị! - Phải đấy. Tình yêu thật kỳ lạ! - Ngày xưa chị yêu có nhiều không? Dường như chị khẽ thở dài: - Tôi cũng chẳng biết nữa. Mà ý cô, yêu nhiều nghĩa là sao? Yêu một người thật nhiều, hay yêu thật nhiều người? Không thấy tiếng cô trả lời. Chị ngoảnh sang. Một ánh mắt dõi đăm ngoài cửa sổ tàu. Cô đã rơi khỏi câu chuyện giữa chừng mà không biết. Trời nặng. Mưa có thể rơi bất cứ lúc nào, nhưng chỉ vài hạt rồi lại ngưng. Đủ cho không gian ướt đẫm, tê dại. Một nhân viên nhà tàu cầm đèn pin xuất hiện nơi cửa toa. Cô gái giật nảy người, bật dậy

bước về phía phòng vệ sinh. Anh nhân viên dừng lại bên chị: - Ghế này trống hả? - Không, của một cô gái. Cô ấy vừa đi vệ sinh. Anh nhân viên đi khỏi. Một lúc sau cô gái mới xuất hiện. Tay vẫn che miệng. - Ông ta đi rồi hả chị? - Ai? - Ông nhà tàu đó. - Bộ cô đi lậu vé sao? - Không, em có vé. Không có làm sao vào sân ga. Nhưng hình như ghế của em không phải ở đây. - Chẳng sao đâu. Cô có thể đổi chỗ được mà. Với lại đêm nay chắc tàu cũng trống. Còn thiếu gì ghế!

Trước khi buông người ngồi xuống, cô gái lại ngó quanh. Động thái chừng như sợ sệt nhiều hơn với lỗi của một người ngồi sai ghế. Một lúc im lặng thật lâu. Cô gái nhắm mắt chừng như ngủ. Chị cũng chập chờn... - Này chị... - Gì hả cô? - Chị có... ngại em không? Chị lắc đầu, nói rất thật: - Không, tôi không ngại. - Cảm ơn chị!- Đầu cô gái chợt cúi xuống. Đôi bàn tay quệt quệt hai góc vạt áo vào với nhau. - Cô có điều gì muốn nói với tôi không? Tôi cũng là người ít nhiều có hoàn cảnh éo le. Hãy coi tôi như chị... - Không! Em đang vui lắm. Tại sao chị lại nghĩ vậy? Em sắp được gặp anh ấy rồi! Chị mở giỏ lấy thêm gói bánh: - Cô ăn thêm bịch bánh nữa nhé! - Không chị ạ. Ăn một bịch khi nãy, em no rồi! Chị sực nhớ ra: - Tôi quên mất. Cô có khát không? Uống miếng nước đi này. Ăn bánh ấy thường khát nước. Cô gái cười sau bàn tay: - Em vừa vào uống nước trong phòng vệ sinh lúc nãy rồi! Chị đừng lo cho em nữa! Giờ chắc em phải chợp mắt một tí. Nếu tàu qua Y, chị nhớ đánh thức em dậy nhé! - Còn lâu. Cô cứ yên tâm ngủ đi. Tới nơi tôi sẽ gọi. Cô quên là tôi cũng xuống Y à? Tàu ngang một thị trấn nào đó. Thật nhiều đèn ngoài ô cửa. Thật nhiều những đôi trai gái ăn mặc đẹp, chở nhau từng cặp trên xe. Chị dặn lòng mình đừng nghĩ đến đêm nay, mà quang cảnh vẫn đập vào mắt chị. Noel là buồn hay vui? Với chị nó luôn buồn. Cô đơn tê tái. Uớc gì chị có thể ngủ như cô gái ngồi bên. Chị liếc qua. Dưới ánh đèn vàng vọt từ cửa sổ soi vào, một đôi mắt đầy nước! - Cô vẫn chưa ngủ à? - Đêm nay Giáng sinh phải không chị? - Cô hỏi thật không đấy?!

Một bàn tay quệt nhanh ngang mắt. Một nụ cười vội vã thắp lên: - Em lẩn thẩn chị nhỉ? - Hay tại sắp gần người yêu nên lẫn hết cả rồi?! - Chắc vậy chị ạ! Hẳn giờ này anh ấy đang chờ em. - Hẳn là vậy rồi!- Chị đùa một chút cho câu chuyện giãn ra - Ở Y mà có người yêu lên thăm hẳn là sung sướng lắm! Y của tôi quá nghèo. Ngoài vài con đường trung tâm ra, chẳng còn nơi nào có thể đi chơi được cả. Ờ, mà với những người yêu nhau thì cần gì phải đi đâu. Chỉ ngồi bên nắm tay là thấy ấm áp rồi. - Thật vậy không chị? - À, mà có thêm vài ngọn nến. Một chai rượu nhẹ. Một cái máy nghe nhạc... Chắc sẽ rất tuyệt. Noel mà. - Đúng vậy đấy chị ạ. Có lẽ lúc này anh ấy đang dọn dẹp trang hoàng nhà cửa chờ em cũng nên. - Anh ấy sẽ chờ cô đến sáng sao? - Vâng, anh ấy sẽ chờ. Chắc chắn sẽ chờ! Anh ấy sẽ ngồi bên những ngọn nến, nhìn vào kim đồng hồ chị ạ! - Các bạn lãng mạn quá! - Có nghĩa là "sến" phải không chị? Chị bật cười: - Các cô các cậu bây giờ lạm dụng chữ "sến" quá! Rồi đến tất cả những gì quá đẹp sẽ "sến" hết mất thôi! Cô gái mỉm cười. Ngả đầu về phía sau. Im lặng. Im lặng thật lâu. Có lẽ lần này thì cô ngủ thật. Một giấc ngủ chập chờn với bóng dáng hạnh phúc sắp đến? Tàu vào một khúc ngoặt. Bánh xe nghiến ken két mặt ray. Những thanh tà vẹt rung dồn. Cô gái bật dậy. Chị vẫn thức. - Đây là đâu hả chị? Chị căng mắt nhìn ngoài cửa sổ. Đêm đen thẫm, mông lung. Không có gì định vị. Nếu nói họ đang ở một hành tinh nào xa lắc, không mặt trời, không trăng sao, không con người có lẽ vẫn có thể tin. - Tôi thật tình không rành lắm. Cô cứ ngủ đi. Bao giờ đến tôi sẽ gọi. Mà hình như cô đã ngủ được một lúc rồi đấy. - Em có ngủ được hả chị? - Thế cô không tự biết à? Cô gái chợt xa xăm: - Dạ, vậy đó, có những khi em cũng chẳng còn biết mình là ai nữa! - Cô còn đau không? - Chị bật thốt ra cái điều đáng lý không nên hỏi. - Ý chị hỏi về... cái miệng em phải không? Em... té xe đấy! Chẳng sao chị ạ! Chị không tin, nhưng vẫn tiếp tục câu chuyện: - Xui nhỉ. Sắp gặp anh ấy rồi còn bị thế này! Cô gái lại lặng im một lúc: - Chị ơi! - Gì hả cô? - Xa hơn Y nữa sẽ là đâu hả chị? - Là Z. Và sau Z nữa sẽ là... Mà thực ra từ nhỏ đến giờ, tôi mới chỉ đi đến Y là xa nhất. Sau đấy nữa, tôi chẳng còn biết gì cả! - Y như... cái chết vậy chị nhỉ?

Chị rùng mình: - Này, cô còn trẻ, không được nói đến những điều xa xôi như vậy đâu! Mà cô lạ thật đấy. Ai lại sắp gặp người yêu, sắp hạnh phúc đến thế mà còn nói chuyện chết chóc!? Cô gái nhoẻn cười: - Ừ, chị nhỉ. Em sắp gặp anh ấy rồi! Một tiếng ầm khủng khiếp. Đoàn tàu như thun lại. Đầu chị va mạnh vào hàng ghế phía trước. Người trong toa bật hết cả dậy. Như thể một cơn địa chấn. Tàu hực thêm vài nhịp nữa thì dừng hẳn. Mấy thanh niên chạy ngược từ đầu toa xuống. Có tiếng lao xao: - Hình như đụng người! - Ai vậy? - Nó xỉn. Đêm nay là đêm nhậu nhẹt mà! Băng đường ngang, té. Thế là cán luôn! Chị nghe một nhát rùng chạy dọc sống lưng. Đêm hạnh phúc của người này, nhưng có thể là khủng khiếp với một người khác. Cô gái ngồi thẫn thờ. Mắt nhìn lên nóc toa. Ý nghĩ dường như đang trôi vào một nơi nào xa lắm... Cà đoàn tàu nhộn nhạo. Người ta í ới rủ nhau đi coi xác chết. Chị lắc đầu. Không ra buồn bã, không ra ngao ngán. - Tàu sẽ dừng bao lâu hả chị? - Chẳng biết nữa! Chao ôi đêm nay sao lại như vầy chứ? Cô có sốt ruột không? - Không. Em chẳng thấy gì cả. Tự nhiên gặp người ta chết, chết đột ngột thế này, em thấy tất cả bỗng nhẹ nhàng biết bao! - Cô đừng nói dại nữa! Mà cái miệng cô khiếp thật. Vừa nói đến cái chết thì xảy ra sự việc ngay! - Ấy vậy mà mình nói đến cái chết của chính mình, nó lại hoài chẳng đến! - Thôi. Cô nói đến cái gì vui hơn được không? Nói về anh ấy đi. Cô sắp được gặp anh ấy rồi đấy! - Tàu dừng thế này. Bao giờ mới gặp hả chị? - Cũng nhanh thôi. Mấy sự vụ đường sắt bây giờ giải quyết nhanh lắm! Vài phút nữa sẽ đi ngay ấy mà! - Cái chết của một con người chỉ đơn giản như vậy thôi hả chị? - Đấy. Cô lại nói nữa rồi! Cô gái thở dài: - Thôi thì em ngủ vậy. Chị nhớ gọi em khi tàu đến Y. Bao lâu qua chẳng biết. Tàu lại rùng mình. Trôi chầm chậm. Có ánh đèn vàng vọt phía dưới đường ray. Tiếng khóc não nùng. Mới đó mà mùi nhang trầm đã thoảng lên qua cửa sổ đầy gió. Rầm, một viên đá uất hận phang lên thành toa. Có tiếng thét: - Đóng cửa sổ lại! Tụi nó liệng đá đấy! Còn gì vô ích hơn là căm hận một con tàu? Khối sắt lạnh lùng lại phì phò thở, xuyên qua màn đêm. - Còn bao lâu nữa hả chị? - Sắp đến rồi đấy. Em chuẩn bị đi. Cô gái nhổm người ngồi dậy: - Em đi tay không, có gì đâu mà chuẩn bị?! - Ngày mai nếu rảnh, nhờ anh ấy đưa đến nhà tôi chơi nhé! Nhớ đến. Địa chỉ tôi đây này. Tôi sống chỉ một mình! Hai bạn có thể ở lại. - Vâng. Em sẽ nhờ anh ấy đưa đến. Em nói đi đâu, chắc chắn anh ấy cũng chở đi ngay! - Cô hạnh phúc thật! Chúc Giáng sinh vui vẻ nhé!

- Vâng. Em cảm ơn chị!

***

Lại có ánh đèn. Tàu trôi chậm dần rồi dừng hẳn. Trời quả rất lạnh. Chị nhìn cô ái ngại: - Cậu ấy đã ra chưa? Cô ăn mặc phong phanh thế này. - Ủa, ga này là Y hả chị? - Chứ còn gì nữa. Cô xuống mau đi. Ga xép, tàu chỉ dừng 5 phút! - Để em xách giùm chị bớt cái giỏ này. Chị đừng ngại, em không giật mà chạy đâu! Chị bước xuống nền sân ga ẩm ướt. Đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Cô gái đứng trên bậc thềm, chìa tay đưa cái giỏ xuống cho chị: - Chị về nhà bình an nhé! - Thế cậu ấy ra chưa? Sao cô không xuống luôn đi? Xuống với tôi. Còn đứng đấy làm gì? Cô gái lắc đầu: - Không chị ạ! Em chẳng có bất kỳ người quen nào ở đây hết! Tất cả những gì em nói với chị trên tàu đều do em tưởng tượng ra vậy thôi! Chị về đi. Đứng đây hoài lạnh đấy! Chị choáng váng, thét lên, hai tay vươn về phía trước như muốn chụp cô gái lại: - Cô hãy về nhà với tôi! Tàu đã kéo còi, lướt nhẹ. Bóng cô gái trên thềm toa xe vẫy vẫy: - Vĩnh biệt chị. Giáng sinh an lành chị nhé!

Truyện ngắn của Nguyễn Danh Lam Chiếc lá hình giọt lệ Suốt thời niên thiếu, tôi nghiện hương vị tết phả ra từ căn bếp chị Thời. Hương vị ấy ăn sâu bám mãi trong lòng tôi, dai dẳng, da diết mỗi độ xuân về. Sau tiết đại hàn, khi mưa chỉ còn lất phất, lâm thâm và rét đã đằm đi, dịu lại, cây mai vàng trảy lá sớm của chú Tâm lác đác vài nụ chúm chím, chị Thời bắt tay chuẩn bị tết. Từ bên ni hàng rào chè tàu ngăn hai nhà, tôi thấy chị tất bật đi về với những giỏ xách nặng trĩu. Mẹ nhìn qua lẩm bẩm: "Cái con giỏi thiệt! Tao mà thằng Tâm..." - Mẹ bỏ lửng câu nói nhìn chú Tâm ngồi thẫn thờ ngắm nắng, lắc đầu.

"Mai nắng to không anh Tâm?" - chị Thời nhìn chú, hỏi qua rào. Chú Tâm nhìn trời ngâm nga: "Trời mưa thì mặc trời mưa. Tôi phơi dưa món... trời chừa tôi ra". Chị tủm tỉm cười bắt tay làm dưa món. Nhìn chị tỉ mỉ tỉa dưa mà không nỡ ăn. Ngọn lá, cây thông, hoa đào, trái lựu bằng đu đủ đẹp như ngọc; những con thú bằng cà rốt, su hào xinh như đồ chơi.

Có một năm chú Tâm dự báo thời tiết không đúng, chị phơi dưa vào ngày không được nắng. Dưa thiu, chị ỉu xìu, còn chú Tâm quạt lửa than cho chị ngồi hong đến nửa đêm. Cái thẩu dưa món không trắng ấy chị gọi là "dưa - nắng - ốm!".

Cái tết đối với tôi không chỉ ba ngày. Nó dài ra theo những ngày làm mứt và ăn mứt nếm của chị. Đi học về là tôi chạy bổ sang nhà chị. Bao giờ cũng thấy chị ngồi trong bếp gọt me, gọt quất, gọt gừng, rim mứt... tóc rối ren, người sực nức mùi mứt ngào ngạt. Học xong, tôi lại qua ngồi canh mứt với chị, đợi chị cho ăn mứt vét. Đối với tôi, không có thứ mứt nào trên đời ngon lạ ngon lùng như thế. Tinh túy cả thau mứt dường như lắng lại trong những vụn đường, vụn mứt dướì đáy thau. Vụn dừa béo ngậy. Vụn gừng nồng nàn. Vụn khoai bùi đậm mê người. Vụn sen ngon đến bối rối... Có khi đợi không nổi, tôi ngủ gục trên vai chị. Cả trong giấc ngủ tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp, thơm tho không bờ bến vây bọc lấy mình trong đêm cuối đông.

Chú út Tâm của tôi mắc bệnh thất tình từ khi chị Hà người yêu chú, đột ngột đi lấy chồng. Chú hay lẩm bẩm đọc thơ hoặc ngồi im như bụt. Nhưng chớ dại chọc chú nói. Chú sẽ tuôn ra như nước chảy miên man câu chuyện tình đầy ắp ký ức chú đếm lần thứ một ngàn lẻ một. Chỉ có một người lắng nghe lần thứ một ngàn lẻ một chuyện tình của chú mà không trêu chọc, đó là chị Thời.

Nhà chị Thời có ba cô con gái. Chị là con đầu, không đẹp nhưng lại có mái tóc còn đẹp còn hơn tóc người mẫu quảng cáo dầu gội đầu. Tôi thích nhìn chị mặc áo lụa, túm hờ hai lọn tóc mái bằng chiếc nơ nhung đen đằng sau. Nghe nói hồi đi học có nhiều ngườì "chết đuối " trên suối tóc chị nhưng không hiểu sao chị vẫn chưa có chồng. Mái tóc ấy luôn gội bằng bồ kết, hong khô bằng gió trời, ngan ngát mùi hương bưởi, hương nhu, óng ả, mềm mại, dìu dịu bay bay đến say lòng. Tôi hay nhìn chị hong tóc qua bờ rào, cả Chú Tâm cũng nhìn, nhưng khi tôi hỏi chú có đẹp không thì chú lại lạc đề về một mái tóc khác. Rồi không hiểu vì cớ gì chị cắt phăng mái tóc dài đẹp nhất xứ Huế.

Tôi tiếc ngẩn ngơ, nhặt chiếc nơ nhung đen chị quẳng ép vào cuốn từ điển. Chẳng biết để làm gì Tết năm ấy tôi không còn được ngủ gục trên mớ tóc dài ngan ngát hương mứt của chị nữa. Năm ấy vụn mứt đượm mùi khét đắng.

Mẹ rủ chị Thời lên chùa Linh Mụ cúng giải lời thề cho chú Tâm vì bệnh chú mỗi ngày một nặng. Chú cứ lang thang dọc đường Lê Lợi để đón chị Hà tan trường dù chị Hà đã theo chồng tận đẩu đầu đâu. Những cặp tình nhân ở Huế không mấy ai chọn chùa Linh

Mụ làm chứng cho sự thề nguyền vì sợ nữ thần áo đỏ của chùa nổi cơn ghen giáng xuống bất hạnh. Thế mà chú và chị Hà lên chùa học thi, dại dột thề nguyền chi nơi đó...

Rồi không phải nữ thần giải lời thề mà chính chị Hà về lôi chú ra khỏi cơn mê hoang tưởng về một mỗi tình vĩnh cửu. Tôi không nhận ra chị vì chị như một quý bà, béo ra, đầy trang sức và son phấn. Chị thương hại nhìn chú Tâm gầy gò, xơ xác, lầm bầm đọc những câu thơ dành cho chị và chợt rùng mình vì không gắn kết số phận với một người như thế. Chú Tâm dường như tỉnh lại bởi cái rùng mình của người chú đã yêu điên dại cả tuổi thanh xuân. Chiều ấy, những bài thơ tình chép bằng mực tím lả tả thả bay trong gió. Tôi tiếc chạy theo lượm đem cho chị Thời. Chị ngồi đọc, chậm rãi như uống từng giọt trong bóng hoàng hôn.

Hai cô em song sinh của chị Thời, thua chị mười tuổi, học cùng lớp với tôi hoàn toàn trái ngược với chị như nước và lửa. Hai đứa giống nhau như đúc, đẹp đến phát sợ, nổi tiếng từ ngày còn mặc áo đầm đi học mẫu giáo qua các kỳ thi bé khỏe, bé đẹp, hoa hậu nhí... Một đứa mặc đầm vàng, một đứa đầm xanh để dễ phân biệt. Hai sắc màu ấy trở thảnh tên thường gọi của chúng - con Vàng, con Xanh. Con Vàng dễ ghét lại ngồi gần tôi. Hễ tôi chạm vào cái áo đầm xòe to như cái hoa hướng dương của hắn thế nào cũng bị hắn véo. Có cái gì khoe, hắn cướp ngay. Nắm đấm chưa chạm vào người, hắn đã bù lu bù loa nằm vạ. Con Xanh hiền hơn, dẫu vẫn khuôn mặt búp bê giống hệt con Vàng. Tôi và hắn hay chơi trò nấu ăn, trò vợ chồng. Cơm nấu trong cái nồi đất nhỏ xíu, chưa kịp xới ra những cái chén bằng lá mít đã bị con vàng ném đá bể nồi. Con diều cắt dán cả tuần chưa kịp thỏa khao khát trời xanh đã bị hắn xé toang rồi lấy chân giẫm lên. Tôi nắm áo bắt đền, hắn nắm tóc tôi tru tréo. Tôi gọi chú Tâm. Hắn gọi chị Thời. Kết cục mỗi đứa bị đét vào mông một roi mới yên chuyện.

***

Tôi càng lớn, chị Thời càng làm mứt tết ít đi. Bánh hộp, kẹo hộp mứt công nghiệp ê hề ra đó, vừa đẹp vừa rẻ, chỉ cần một giờ ra chợ là có ngay cái tết nên chẳng mấy ai bỏ cả chục ngày dài để làm như chị ngày ấy. Có làm cũng chẳng mấy ai ăn. Mốt mứt đã tàn lụi. Món mặn và đồ nhắm lên ngôi. Đi nhà nào cũng thấy giò chả, nem, tré, thịt nguội, đồ nhắm dưa cay. Tôi đi học xa về, sà vào bếp chị, ông Táo về trời mấy hôm rồi mà bếp "vẫn lạnh tanh", chỉ mấy thẩu đồ chua trên kệ, chị bảo nhà không cho làm. Bạn con Vàng, con Xanh thì nhấm nháp kẹo Sôcôla, hạt điều. Bạn bố thì thưởng thức đồ nhắm nguội mua sẵn. Mứt ế phải đem cho bọn con nít nghèo trong xóm. Không có cái bếp sực nức mùi mứt của chị Thời, hương vị tết đối với tôi bỗng nhạt hẳn. Tôi bỏ đi chợ tết với bạn gái. Cô ấy không biết làm mứt và cũng không cần biết, chỉ mặc thật đẹp ra phố, dạo qua hàng

mứt bánh nhón nếm và chén mỗi thứ một ít. Thế mà hồi nhỏ tôi bảo với chị Thời lớn lên em chỉ lấy cô nào làm mứt ngon như chị. Tết năm nay về nhà tôi lại thấy bếp chị rộn ràng. Những trái me dầm đẹp như ngọc xúm xít nhau trong thẩu. Những trái quất rim vàng óng gối đầu lên nhau. Rồi mứt hạt sen đài các, mứt khoai dân dã, mứt khế như cô bé lọ lem mà tôi mê mẩn cũng có mặt. Trên lò than âm ỉ nóng lại là thau mứt dẻo rối lòng rối dạ bởi sự hoà quyện màu sắc, hương vị cay chua ngọt đắng như đời... Người chị lại sực nức mùi mứt, ấm nồng hơi lửa, má đỏ hồng, tóc rối ren... Chị giải thích năm nay có khách xa về ăn tết.

Con Xanh lấy chồng ở nước ngoài về thăm nhà sẽ đem theo một ông Việt kiều về giới thiệu cho con Vàng. Vả lại có em và anh Tâm về. Chị nhìn tôi rồi nhìn ra cửa, ánh mắt đợi mong. Tỉnh giấc mộng tình, chú Tâm cầm cái bằng tốt nghiệp trường sư phạm tình nguyện về nơi cuối đất làm thầy giáo ở đất rừng U Minh. Chú hẹn năm nay về ăn tết.

Con Xanh trở về đúng lúc chị Thời vừa hoàn thành món bánh bó mứt. Tôi đứng nhìn chị trộn các loại mứt quất, gừng, cam, bí... đã cắt mỏng vào chảo đường bột đánh nhuyễn trên bếp sau đó bưng cả chảo trút lên cái mâm rải sẵn bột nếp khô, lấy tay nắn thành đòn dài. Con Xanh lao vào bếp, hôn tới tấp lên đôi má dính bột nếp của chị Thời, rên lên: "Em nhớ nhất cái bếp của chị!". Nó quay qua tôi hôn đánh chụt vào trán "ông chồng thời thơ ấu" rồi ngắt đại một miếng bánh trên mâm cho vào miệng nhai ngấu nghiến như kẻ đói khát hương nhà. Nó vẫn như ngày nào, đẹp rực rỡ và không để cho người khác yên.

Con Vàng thất vọng vì ông Việt kiều con Xanh dẫn về đã già nhưng con Xanh bảo chỉ hơn chồng nó năm tuổi. Nhiều lắm là như bài hát "Năm anh hai mươi, em mới sinh ra đời. Ngày anh bốn mươi, em vừa tròn đôi mươi...".

Đó là một kẻ tha hương bị lưu đày trong nỗi nhớ quay quắt trở lại quê nhà thì đúng hơn. Con Vàng không hợp gu với ông Việt kiều đẫm hương đồng nội này. Những bộ áo váy cực kỳ thời trang phô thân thể son trẻ của nó không tác dụng. Vẻ đẹp từng quyến rũ bao hội đồng chấm thi thời trang, sắc đẹp từ bé đến giờ không lọt qua cửa sổ tâm hồn của người đàn ông đang là đối tượng săn đuổi của nó. Ông ta thích lang thang một mình theo những lối mòn của ký ức để tìm lại thời gian đã mất hơn là đi nhảy nhót với nó. Ông ta mê mải nhặt những từ cổ lỗ sĩ, quê bỏ xừ của các mụ nhà quê, các gánh bún bò, cơm hến hơn là ngôn ngữ thời thượng của nó. Một lần nghe chị Thời mắng yêu tôi "ăn như thúng lủng khu" ông hớn hở nhặt ngay như nhặt được cục vàng, cám ơn chị rối rít làm chị ngỡ ngàng . Ông bảo hồi nhỏ ông bị mạ ông mắng như rứa khi ăn một lần ba tô cơm hến. Nghe lại nhớ quá! Nhà chị Thời mời đi ăn cơm vua ở khách sạn Hương Giang, ông lại xin ăn một bữa cơm dân tại gia. Chị Thời phụ trách trong bóng tối bữa cơm ấy để con

Vàng được là tác giả ngoài ánh sáng. Cá bống thệ kho tiêu kiểu Huế cứng ngắc, cong vòng, canh rau dền nấu tôm, chột nưa kho, thịt phay chấm tôm chua kèm đã chuối chát, vả , khế, rau thơm trình bày đẹp như một tác phẩm nghệ thuật và chè khoai tía tráng miệng. Bữa cơm nhà bình thường ấy đem lại kết quả mỹ mãn. Ông Việt kiều ăn như mở toang cảm giác đón nhận hương vị, ăn chầm chậm như ngậm mà nghe mùi vị nhung nhớ trào về rồi thở hắt ra lời khen rất Huế: "Răng mà ngon dễ sợ" ông nhấp đắm say từng ngụm nước chè tươi thơm nức mùi gừng và bảo hai mươi năm rồi ông mới lại được ăn một bữa cơm đượm khí vị quê nhà như thế. Mẹ con Vàng được dịp khoe hắn nấu nướng giỏi, coi bộ chịu chơi vậy chứ nếu cần cũng đảm đang lắm. Còn con Vàng bảo chuyện đó đối với hắn dễ dàng như ngồi sơn móng tay.

Hai mươi tám tết, chú Tâm vẫn chưa về. Tôi phải thay chú canh nồi bánh tét. Nhà chị Thời cũng nấu. Hai bếp lửa chụm đầu nhau bên rào. Cây mai nở rộ, toàn thân như tỏa ánh vàng trong bóng đêm, phả một mùi hương nhớ. Chị Thời kể cho tôi hồi bé chị hay trèo lên cây mai mở to mắt không chớp để rình coi mai nở. Thế nhưng chẳng bao giờ chị chộp được khoảnh khắc ấy vì chú Tâm ác lắm cứ nắm áo kéo chị xuống. Có lần chị kéo bị té gãy chân phải bó bột, còn chú chuộc lỗi bằng cách cõng chị đi chơi cả tháng... Chị phụ mẹ làm mứt bán tết từ thuở mười ba. Khi mẹ đẻ con Xanh, con Vàng chị làm một mình, tay sứt sẹo, nứt ra vì gọt me, gọt quất... Chú Tâm thấy tội hay qua gọt giùm. Chú gọt me giỏi vì thế... chị ngồi bó gối, giấu ánh mắt trong ngọn lửa bập bùng, gương mặt buồn và kiêu hãnh có phần héo hon bởi năm tháng, mái tóc để dài lại gói trong chiếc kẹp cứng ngắc.

Tôi lục tung đống sách cũ tìm chiếc nơ nhung đen bị gián gặm lỗ chỗ đưa cho chị. Chị cài lên tóc, cười mà mắt như có nước.

Chú Tâm về vào chiều 30 tết. Nghe tiếng reo mừng chú bên kia rào, chị Thời luống cuống suýt đổ cả nồi chè đậu xanh đánh nấu cúng giao thừa. Mặt chị tái đi nhưng đôi mắt ngời ngợi một niềm vui không tả nỗi, xôn xao chảy tràn trên khuôn mặt vốn trầm tĩnh của chị. Môi chị run run nửa cười nửa mếu. Dưới thứ ánh sáng kỳ diệu của tình yêu mãnh liệt mà câm nín ấy trông chị đẹp lạ lùng. Tôi và chị chạy ào ra cửa bếp. Chị nhìn sững chú Tâm, còn tôi nhìn sững một bóng người đứng dưới cội hoàng mai. Đó là bóng một cô gái. Trái tim tôi bỗng thắt lại bởi một linh cảm vừa ào tới. Tôi quay lại nhìn chị Thời như cố khắc ghi thoáng hạnh phúc mong manh rờ rỡ trên mặt chị trước khi nó lịm tắt.

***

Mứt của chị Thời năm nay không ế. Chị bỏ bùa trong những món mứt khiến ông Việt kiều quanh quẩn mãi bên nhà con Vàng nhấm nháp mứt với nước trà. Hắn khoe cá sắp cắn câu vì ổng tưởng hắn làm. Ông khen món ăn nhà nó đậm hương vị quê hương, có mùi văn hóa, ăn ngậm mà nghe.

"Kiểu này lấy ổng, tao phải đem theo bà Lạc Thời!" - con Vàng cười. "Rồi ổng biết mi không nấu được nước sôi thì mần răng?". "Dễ ợt. Qua đó không hợp thì ly dị. Khối người rứa. Chết ai mô!". Tôi ngắm đôi môi tô son tím lịm mốt Hàn Quốc của nó đang dấu ra và không hiểu tại sao nó là em ruột chị Thời.

Ông Việt kiều chính thức ngỏ lời với nhà chị Thời, nhưng không phải xin cưới con Vàng mà là chị Thời. Đúng là một quả bom nổ! Mẹ chị ngồi sững không biết nói thế nào. Con nào cũng là con. Con Vàng há hốc miệng rồi nanh nọc: "Tân thời không ưa, lại ưa lạc thời. Dắt nhau về thế kỷ 19 mà sống, đây đi lấy chồng Hong Kong". Nó nguýt ông Việt kiều cổ lỗ sĩ một cái tưởng như cắt ông ta làm mấy mảnh rồi rú xe ra khỏi cổng, chấm dứt những ngày đóng vai yểu điệu thục nữ, công dung ngôn hạnh.

Tôi không ngạc nhiên. Tôi không tin một người sâu nặng với kỷ niệm và quá khứ như ông Việt kiều lại chọn một tạo vật xinh đẹp phù phiếm như con Vàng thay vì một người lặng hơn nước, thấp hơn cỏ nhưng sức sống tâm hồn vẫn trào dâng ngay cả khi ngồi im lặng...

Chị Thời không nhận lời cầu hôn lại được xem là quả bom nổ thứ hai trong vòng một ngày. Không đẹp, lớn tuổi, coi như thuộc loại ế thế mà chị lại từ chối không luyến tiếc. Cả chú Tâm cũng khuyên vào, chị ngồi im, lặng lẽ ngó qua bên kia hàng chè tàu, nơi trước kia chú Tâm thường thờ thẫn đi lui tới lẩm bẩm mấy câu thơ:

"Tình thơ dại ai ngờ sâu nặng thế. Năm tháng đi mà tình yêu vẫn ở Mai cho dù tóc trắng với ngàn lau"

Nắng hoàng mai vừa tắt, chú Tâm đã bàn chuyện hôn nhân của chú. Cô kia cũng dạy học, mồ côi, neo đơn nên cưới hỏi một lần cho tiện, sau đó dắt nhau vào lập nghiệp ở quê người. Chú bảo trong đó dân tình ấm áp, đơn giản, dễ sống lắm. Chú đã tìm lại niềm bình

an. Mấy mâm cỗ cưới chú trông cậy vào đôi tay khéo léo đảm đang của chị dâu (tức là mẹ tôi) và cô bạn thân từ thuở thơ ấu. Chị Thời nhận lời và bắt tay vào việc chuẩn bị. Tôi hay xót xa nhìn trộm chị nhưng chỉ gặp một chị Thời lặng lẽ, khép kín không thể thấm qua. Ngày cưới càng kề, chị càng bận rộn như thể đám cưới chị. ánh đèn trong bếp vẫn đỏ cho đến nữa đêm. Chị thức làm bánh gatô, bánh phu thê... Thấy chị ngồi tỉ mỉ làm dưa chua, tôi bỗng cáu:

- Kệ họ ! Đi ngủ cho khỏe!

- Em cưới vợ, chị còn thức hơn thế nữa.

- Em không khiến. Dọn nhà hàng. Đã rứa... còn hành người ta!

- Làm việc luôn tay... khỏi nghĩ trong đầu...

Chị cười ngu ngơ rồi lại cắm cúi tỉa dưa. Chẳng biết làm gì, tôi xúm vào giúp chị cho mau xong việc. Chị vẫn tỉ mỉ như ngày nào làm dưa món. Tôi chợt thấy trên tay chị rơi xuống những chiếc lá mất cuống, thiếu răng cưa, thuôn thuôn " hình giọt lệ", những giọt lệ đu đủ đẹp như ngọc, những giọt lệ cà rốt hồng tươi như máu. Tôi nhận ra chị Thời đang khóc.

Đường vòng tình yêu Tôi là một nhân viên kiểm soát của nhà ga Liên Hiệp. Mỗi ngày, ngồi trong phòng làm việc của mình, tôi có thể nhìn thấy hành khách lên xuống xuống cầu thang. Bên trái phòng làm việc của tôi là một quầy bán báo. Chủ quầy - Tony - là một người rất khoái trò cá cược đua ngựa và bởi vì niềm đam mê, khát khao chiến thắng này mà anh lao vào nghiên cứu các định luật của môn xác suất thống kê. Anh thường nói với tôi, theo những gì anh tính toán (dĩ nhiên là dựa vào một hệ thống lý thuyết xác suất nào đó mà chỉ mình anh hiểu), nếu như tôi cứ tiếp tục làm công việc như hiện nay thêm 112 năm nữa, thì chỉ bằng một cái nhìn tôi cũng có thể nhận ra bất cứ ai trên trái đất này.

Dù không hẳn đã bị Tony thuyết phục nhưng tôi cũng tự tìm ra một lý thuyết cho riêng mình. Đó là nếu bạn đủ kiên nhẫn chờ đợi ở một nhà ga tàu hỏa lớn như nhà ga Liên Hiệp này, có ngày bạn sẽ trông thấy mọi du khách trên thế giới. Tôi chia sẻ lý thuyết đó của mình với nhiều người nhưng chẳng ai buồn quan tâm, trừ Harry. Đó là một anh chàng đến nơi này cách đây hơn ba năm và từ thời điểm ấy đến nay, cậu ta chờ đợi nơi đầu cầu thang này, để mỗi ngày lại dõi theo hành khách xuống tàu, bắt đầu từ chuyến sớm nhất - 9 giờ 05. Tôi nhớ rất rõ lần đầu tiên tôi nhìn thấy Harry - một chàng trai gầy gò, đóng bộ rất nghiêm túc, đi đi lại lại đầy vẻ nôn nóng. Tôi biết ngay anh chàng này có hẹn với một cô bạn gái tại đây. Thậm chí tôi còn biết một lễ cưới sẽ được tổ chức chừng hai mươi phút sau khi cô gái đến. Đừng hỏi tôi tại sao biết được điều đó. Sau 18 năm ngày nào cũng nhìn thấy cảnh chờ đợi ở đầu cầu thang này, thật chẳng có gì dễ dàng hơn để đoán ra những chuyện như vậy. Rồi hành khách đến và tôi bắt đầu bận rộn với công việc của mình, không nhìn về phía cầu thang nữa. Đến khi chuyến tàu 9 giờ 18 sắp sửa tới, tôi ngước lên và ngạc nhiên khi thấy chàng thanh niên vẫn còn đứng đó. Cô gái không đến trên chuyến tàu 9 giờ 18 hay chuyến 9 giờ 40. Khi tất cả hành khách của chuyến tàu 10 giờ 02 đã đến và rời khỏi sân ga, trông Harry khá là tuyệt vọng. Lát sau, thấy Harry đi đến gần cửa sổ phòng, tôi gọi với ra, hỏi rằng cô gái của cậu ta trông ra sao. Nếu có mặt ở đó, thấy cái cách mà cậu ta tiến đến và nửa như bò vào cửa sổ phòng tôi, có lẽ bạn nghĩ rằng tôi sẽ dò tìm tông tích của cô gái giữa đống hành lý trong phòng kiểm soát này. “Nàng nhỏ người và da ngăm đen", cậu ta nói. "19 tuổi và dáng đi nhanh nhẹn. Nàng có một gương mặt...", suy nghĩ một phút, “rất có hồn. Tôi muốn nói là cũng có khi nàng nổi nóng nhưng không bao giờ nóng giận lâu. Cặp chân mày của nàng giao nhau thành một điểm nhỏ ở giữa. Nàng có một áo lông thú màu nâu nhưng có lẽ nàng không mặc hôm nay”. Tôi không nhớ là đã trông thấy ai có những đặc điểm giống như những gì cậu ta miêu tả. Cậu ta đưa cho tôi xem một bức điện tín. Tôi đọc được dòng chữ ĐẾN VÀO THỨ NĂM ĐÓN EM Ở NHÀ GA. YÊU YÊU YÊU YÊU - MAY. Bức điện được gửi đi từ Omaha, Nebraska. “À”, sau cùng tôi nói, “Tại sao anh bạn không gọi điện về nhà? Có lẽ nàng đã về đó nếu nàng đến trước khi anh có mặt”. Cậu ta nhìn tôi rầu rĩ: “Tôi mới đến đây được hai ngày. Chúng tôi sẽ gặp nhau ở đây, sau đó xuôi về Nam. Ở đó, tôi được hứa hẹn sẽ có một chỗ làm. Nàng... nàng không có địa chỉ nào để lại cho tôi cả”.

Nói xong, cậu ta bước tới đầu cầu thang để nhìn hành khách xuống chuyến tàu 11 giờ 22. Hôm sau, tôi đến phòng làm việc và thấy cậu ta vẫn ở đó. Ngay khi trông thấy tôi, cậu ta tiến đến. Tôi hỏi trước: “Vậy trước đây nàng đã từng làm việc ở đâu không?". Anh chàng gật đầu. "Nàng là một thư ký đánh máy. Tôi đã gọi điện hỏi xem họ có biết hiện giờ nàng ở đâu không. Tất cả những gì họ biết là nàng đã nghỉ việc để lập gia đình”. Câu chuyện bắt đầu như vậy đó. Liên tiếp ba hay bốn ngày sau, Harry đứng đón từng chuyến tàu. Dĩ nhiên, trên từng chuyến tàu người ta đều có thể tiến hành kiểm tra hành khách và cảnh sát cũng như các viên chức ngành đường sắt đều tỏ ra quan tâm đến trường hợp “lạc người yêu” của Harry nhưng chẳng ai giúp gì được cho cậu ta. Tôi có thể đoán được rằng mọi người đều nghĩ chẳng qua May đã cho anh chàng "leo cây", có điều họ không nói ra mà thôi. Riêng tôi, không hiểu sao tôi không nghĩ như vậy. Khoảng hai tuần sau, trong một lần trò chuyện, tôi nói cho Harry nghe về lý thuyết xác suất của mình. "Nếu bạn có đủ kiên nhẫn đợi", tôi nói, "bạn sẽ trông thấy nàng bước trên các bậc thang đó". Cậu ta quay lại nhìn cái cầu thang như thể chưa trông thấy bao giờ trước đây, trong khi tôi tiếp tục giải thích cho cậu ta nghe về các con số của Tony, về các định luật xác suất... Hôm sau, khi tôi đến chỗ làm thì thấy Harry đang đứng sau quầy bán báo của Tony. Cậu ta nhìn tôi với vẻ ngượng ngùng và ấp úng: “À, tôi phải tìm một việc làm...". Thế là từ đó cậu ta bắt đầu làm việc cho Tony. Và cũng từ đó, chúng tôi không bao giờ nhắc đến May, cũng như không nói đến lý thuyết xác suất của tôi nữa. Nhưng tôi nhận thấy Harry vẫn luôn luôn nhìn theo từng người bước lên cầu thang. Khoảng một năm sau, Tony bị giết chết vì một vụ tranh chấp trong chuyện cá cược và cô vợ góa của Tony đồng ý cho Harry coi sóc toàn bộ quầy báo. Rồi ít lâu sau đó, khi cô ta đi bước nữa, Harry mua lại quầy báo. Cậu ta vay tiền mở một quầy bán nước soda, đồ tạp hóa và chẳng bao lâu công việc kinh doanh của cậu ta đã phát triển tốt đẹp. Cứ thế cho đến ngày hôm qua. Đang làm việc, tôi bỗng nghe một tiếng la lớn cùng tiếng đồ vật rơi đổ kêu loảng xoảng. Tiếng la là của Harry, còn tiếng loảng xoảng phát xuất từ các con búp bê và một số vật linh tinh khác bị đổ xuống khi cậu ta nhảy qua quầy hàng. Cậu ta chạy lại, chộp lấy một cô gái ở cách cửa sổ phòng tôi chừng ba mét. Cô gái có vóc người nhỏ nhắn, da ngăm đen và cặp chân mày giao nhau thành một điểm ở giữa. Họ đúng đó một lúc, ôm nhau vừa cười vừa khóc, nói những lời vô nghĩa. Cô gái thốt ra những gì đó, hình như là "Em muốn nói là nhà ga xe buýt...", còn cậu ta thì khóa miệng cô nàng bằng những nụ hôn rồi kể cho cô nghe cơ man nào là việc mình đã làm để tìm

cô. Chuyện xảy ra hơn ba năm về trước là May đã đến thành phố này bằng xe buýt chứ không phải bằng tàu hỏa và trong bức điện tín cô muốn nói là “nhà ga xe buýt" chứ không phải “nhà ga tàu hỏa”. May đứng đợi gặp Harry ở nhà ga xe buýt trong nhiều ngày và đã tiêu hết số tiền đem theo. Sau cùng, cô tìm được một chân thư ký đánh máy. “Cái gì?”, Harry nói, "Em đã làm việc ở thành phố này? Suốt thời gian qua?". Cô gái gật đầu. “Trời ơi? Thế em không bao giờ đi xuống nhà ga này à?". Cậu ta trỏ vào quầy tạp hóa của mình. "Anh đã ở đây suốt thời gian qua. Anh là chủ quầy tạp hóa này. Anh đã nhìn theo từng người bước lên cầu thang...". Mặt cô gái bắt đầu hơi tái đi. Lát sau, cô nhìn cái cầu thang, khẽ khàng. "Em... trước đây em chưa bao giờ đi đến cầu thang này. Anh biết không, hôm qua em có việc phải ra khỏi thành phố... Ôi Harry!”. Rồi cô vòng tay quanh cổ Harry và bắt đầu khóc. Một phút sau, cô buông Harry ra và chỉ thẳng về cuối sân ga phía Bắc. "Harry, trong suốt hơn ba năm qua, ròng rã hơn ba năm qua, em đã ở đó - làm việc ngay trong nhà ga này, đánh máy, trong văn phòng của sếp nhà ga". Điều tuyệt diệu đối với tôi là cách thức mà các định luật xác suất đã vận hành thật tích cực, bền bỉ, đến tận khi chúng cuối cùng đã khiến cho May bước lên các bậc thang của chúng tôi... Mái ấm và... điện thoại di động Ông C. là một thầy thuốc có uy tín ở Cần Thơ. Tuy đã ngoài 65 tuổi song ông rất tráng kiện. Vô tư, trong sáng, ít khi quan tâm đến mấy thứ lặt vặt nên ông sử dụng "cái cầm tay" cũng chỉ để nghe - nói. Đầu năm 2005, đứa con út từ TP.HCM về nhà chơi ra phố chẳng may bị móc mất cái di động nên tạm mượn máy của bố đôi ngày. Vì chưa lập gia đình nên anh con trai có rất nhiều bạn gái và cậu ta cẩn thận lưu vào máy bố số điện thoại bồ ruột mình kèm nick name: My darling (người tình của tôi) để tiện thầm thì mỗi đêm.

Chia tay gia đình trở lên thành phố, người con vui vẻ trả lại máy cho bố nhưng lại quên mất chuyện xóa dòng chữ My darling chết tiệt. Cơ khổ ông già ở nhà mang "bom sắp nổ" bên mình mà nào có hay. Một bữa ông để quên điện thoại trên bàn, thế là bà tranh thủ tra danh bạ xem ông giao dịch như thế nào. Ôi thôi, cái My darling lù lù hiện ra nhưng đó không phải là số máy của bà. Giận run và tức tối, bà gọi ngay cho My darling. Đầu dây bên kia một giọng con gái trả lời nhát gừng như trêu tức càng làm bà điên tiết.

Choang, cái điện thoại Nokia lập tức vỡ rời, tắc tị ! Về nhà thấy điện thoại bị bể kèm bộ mặt lạnh lùng "3 không" (không trò chuyện, không cơm chung, không ngủ chung) của bà, ông thật sự hoang mang khổ sở. Ông tự kiểm mình không rượu chè, không trai gái, đi đứng rất đúng giờ, mọi quan hệ đều trong sáng..., vậy là sao? Còn bà vì buồn quá nên bỏ cơm gọi điện cho con trai tâm sự. Lúc đầu thì nói xa gần bóng gió cuối cùng bà huỵch toẹt bố mày có bồ rồi ổng còn lưu vào máy dòng chữ My darling, đây số nó đây. Nhận xong số máy, cậu con trai phá lên cười sằng sặc "mẹ ơi là mẹ...!".

"Lạy ông con ở bụi này"

Ngày 27-6-2005, Viện KSND tỉnh Vĩnh Long đã tống đạt cáo trạng đến 29 bị can trong vụ án "môi giới mại dâm, chứa mại dâm, mua dâm người chưa thành niên" do Nguyễn Ngọc Tâm cầm đầu. Dự kiến tháng 8 tới đây tòa sẽ đưa vụ án ra xét xử cấp sơ thẩm. 3 bị can bị truy tố về tội mua dâm người chưa thành niên đều liên quan đến điện thoại di động. Thế mới thấy người nào sử dụng "con dế" không đúng chỗ sẽ rất phiền và nguy cơ tan vỡ gia đình là điều khó tránh khỏi.

Ngược thời gian một chút vào tháng 11.2003, Thái Hoàng Y. - cán bộ Đội Phòng dịch thuộc Trung tâm Y tế huyện Tam Bình lên thị xã Vĩnh Long công tác. Sau khi uống rượu, Y. đã đến khách sạn Hương Mai ở phường 4 mua dâm Trần Thị Út Th., sinh 1987. Y. còn cho biết mình tên Bình đang công tác ở Bệnh viện Tam Bình (Vĩnh Long) và bảo Th. lưu lại số máy di động để biết mà liên lạc.

Cũng giống như Y., Trần Văn N. (Vĩnh Long), Thái Lê Q. (Vĩnh Long) sau khi mua dâm Trần Thị Út Th. xong cũng vui vẻ cho số máy cầm tay của mình mà không tiên liệu bất cứ điều gì. Ngày 19-5-2004, Trần Thị Út Th. bị công an bắt, kiểm tra danh bạ điện thoại di động của cô đã phát hiện ra các số điện thoại của Y., N., Q., Th. khai cả 3 người đàn ông trên đều mua dâm khi cô chưa được 18 tuổi. Kết quả giám định pháp y của Phân viện Khoa học hình sự Bộ Công an cũng kết luận: Th. bán dâm ở tuổi vị thành niên.

Điện thoại di động rất cần cho cuộc sống hiện đại. Song sử dụng cái "ò í e" không đúng mục đích thì tai hại sẽ khó lường!

Ao ước Nếu bây giờ tòa án gọi ta tới và tuyên bố cấp cho ta Pass, một cái Pass tỵ nạn chính hiệu chứ không phải mảnh giấy Duldung (1) có hình ảnh con đại bàng dữ tợn và kiêu hãnh cho phép tạm dung từng tháng trong điều kiện nửa đêm cũng có thể bị lôi cổ dậy tống lên xe dông thẳng ra sân bay ấn lên khoang một cái máy bay nào đó quy cố hương thì ta sẽ làm gì?

Lê Minh Hà Đầu tiên là ngủ. Sẽ lên giường từ tám giờ đêm hôm trước, ngủ, thức, ngủ cho tới tám giờ đêm hôm sau. Rồi sẽ dậy, đánh răng rửa mặt, đóng bộ. Nhất định không phải là bộ đồ đen có đầy đủ nơ gilê vét mà nhiều thằng vẫn diện vào chụp ảnh gửi về nhà làm cả nhà lác mắt vì vẻ sang trọng của thằng con đương kim bồi bàn quán Tàu. Và sau đó? Sau đó tôi sẽ gọi taxi đưa tới nơi hôm trước tôi vẫn còn làm việc - một cái quán Tàu có tên là Hoàng Gia viết bằng tiếng Việt. Sẽ đi thẳng vào bếp, ung dung, cởi mở và không có vẻ gì định giúp đỡ đám đồng nghiệp cũ. Sẽ bình tĩnh đứng nghe gã chủ quán vốn là người Tàu chính cống nhưng không biết tiếng Tàu lắp bắp một hồi những câu chửi rủa đầy tức giận vì sự chậm trễ của tôi và vì sự trơ tráo của tôi. Rồi tôi tuyên bố tự Kăndigung. Đòi nốt số tiền tháng nào gã chủ cũng tươi cười bảo vay "thì cậu vẫn làm ở đây, tiền của cậu cũng ở đây chứ có đi đâu". Tôi, bao lâu rồi vẫn biết tiền của tôi đi đâu, nhưng vì không thể để mất chỗ làm chui dù sao cũng không dễ kiếm này nên đành tươi cười lại. Lần này thì đừng hòng! Tôi sẽ về nhà sớm hơn mọi ngày. Mọi ngày, thường phải một rưỡi hai giờ sáng tuỳ mùa đông hay mùa hè tôi mới lần mò về được đến nhà. "Con mèo nhỏ của tôi", trọng lượng nay chừng xấp xỉ bảy mươi cân chia cho chiều cao một mét năm ba đang say sưa ngủ. Chưa bao giờ nàng có ý định rời bỏ cái gối ôm để thức dậy ôm tôi và mang ra đặt trước tôi một cái gì đó. Một cái đĩa chẳng hạn. Tôi đã bao nhiêu lần thèm thấy một cái đĩa như thế, nguội lạnh cũng được, để được tin rằng ‘con mèo nhỏ’ của mình không trong quá trình phát triển thành cáo. Để được tin rằng... thèm ước bao giờ cũng là một thứ tự do không phải đóng thuế. Nàng cứ ngủ. Ngày hôm sau thức dậy coi như là tôi cũng đã ngủ, nàng đánh thức tôi bắt tôi đánh thức cái xe cà khổ để đưa nàng đi mua bán, đi thuê phim chưởng và phim tình cảm Hồng Kông. Nàng luôn luôn rời xe trong bộ dạng của một người chỉ nhân tiện có người mời thì đi cùng chứ không phải là đồng chủ xe với tôi. Nàng nói rất to ở những chỗ tôi chỉ muốn không ai để ý tới mình và gia đình mình. Điều đó không biết vì sao lại làm tôi đau đớn. Nhưng bây giờ thì đừng hòng. Việc nàng có được ở lại cùng tôi không phụ thuộc hoàn toàn vào cái Pass của tôi. Vậy thì tôi phải là chủ nhà như lẽ ra đã là. Vậy thì tôi có quyền quyết định. Cho em Urlaub (2) ở nhà. Anh sẽ làm một chuyến đi xa! Tôi sẽ sang Hung, sẽ tìm xem mặt cậu trai vợ tôi vẫn thường thư đi từ lại. Tôi biết cậu ta

đồng hương phố với tôi, cận thị như tôi, và ngoài ra, trong cộng đồng người Việt tại đó, đẹp trai nhất nước cộng hòa. Và tôi sẽ mời cậu ta, mời cả bồ cậu ta (nếu có) đi khắp nước Hung. Thành Eghe. Cánh đồng Mô-hat. Những ngôi sao trên bầu trời Budapest. Chúng tôi, tôi tin chắc thế, sẽ trở thành những người anh em tuyệt vời. Và khi trở lại Đức, chính tôi sẽ thư đi từ lại với cậu ta - cái việc mà bấy lâu nay tôi giao phó hoàn toàn cho vợ vì mệt quá buồn quá chán quá. Tôi sẽ đi Mỹ. Sẽ dọc ngang ở phố Bôn-sa. Sẽ xem mặt những ông bà người Việt nổi tiếng. Chẳng hạn như cái ông viết những lá thư từ Hoa Thịnh Đốn. Ông liến thoắng với ‘bạn ta’ sao mà tài. Ông đã làm tôi có lúc bị vợ tưởng là ngớ ngẩn khi ngồi cười hớn hở vào đúng lúc nàng sắp bão nổi lên rồi. Nàng im bặt, nhìn tôi chằm chặp đầy vẻ đau đớn kinh hoàng. Tôi thích vẻ đau đớn ấy của nàng và không giải thích rằng tôi vừa nhớ tới một lá thư ông ấy gửi ‘bạn ta’. Bi hài kịch gia đình ông ấy vẽ ra nhân một câu hỏi liên quan tới tình yêu của mẹ cháu sao mà đúng với hoàn cảnh của tôi từ khi trót dại với nàng đến thế! Thời gian dài nhất và phần tiền to nhất tôi sẽ dành cho chuyến sang Liên Xô. Liên Xô. Chứ không phải là nước Nga của ông tổng thống chiêu hồi mặt bị xị vì rượu bây giờ. Liên Xô - Đất nước mênh mông vĩ đại; Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Tôi biết bao nhiêu điều về Liên Xô. Dòng sông Neva. Ôn-ga Bec-gôn. Thành phố chín trăm ngày bị phong tỏa. Bức tượng Pi-e Đại đế. Những vườn hoa lặng lẽ và những pho tượng trắng lặng lẽ. Như thời gian. Những hàng rào gang tuyệt xảo. Tấm biển "Tránh đừng động vào cây mùa lá rụng" (3)... Thật lạ lùng là tôi có một ấn tượng sâu đậm như thế với Lê-nin-gơ-rat. Nơi tôi chưa đến bao giờ. Tôi sẽ đi Daghextan để xem ‘con người và những ngôi sao xa’ (4) ở đấy có gì khác từ khi Liên-xô vỡ vụn. Tôi sẽ tới Kiêcghidi ngắm núi đồi và thảo nguyên, thử thở mùi ngải cứu héo trong gió và nắng của xứ sở này, và sẽ nhớ, sẽ ước ao một người phụ nữ. Không bao giờ là vợ tôi. Mà là nàng Gia-mi-li-a kiêu hãnh, cam chịu, tha thiết và liều lĩnh. Từ ngày cái ông viết Gia-mi-li-a làm chính trị, nhảy vào rồi lại nhảy ra khỏi bộ sậu của Yeltsin chả thấy viết được một cái gì hay như thế. Nhưng ở Liên-xô còn có mộ Dũng. *** Anh thấy khó thở và vùng dậy. Sắp sáu giờ. Vậy là mình ngủ được có một tí. Trán, cổ, vai toát mồ hôi lạnh. Tay vợ anh âu yếm choàng qua ngực anh. Chị sẽ co mình, thở dài. Hơi ấm từ tấm thân mỡ màng của vợ làm anh dễ chịu. Anh sẽ sàng ngồi dậy, lần mò trong bóng tối về phía bếp, tự pha cho mình một cốc chè. Những hình ảnh trong giấc mơ đứt đoạn, không thể chắp nối và đã mất hết vẻ quyến rũ. "Nhưng đúng là mình có mơ về nó. Sao mà buồn!" Dũng chết rồi. Đã mười lăm năm. Như thế là đã mười tám năm anh không thấy bạn. Anh bây giờ bốn mươi. Dũng thì vẫn hai hai. Vẫn trẻ, vẫn tươi, vẫn tài hoa và quyến rũ.

Dũng quyến rũ cả anh. Đúng hơn là cuộc sống của gia đình Dũng quyến rũ anh. Đã có một thời anh luôn luôn phải dẹp bớt lòng ghen tị ngấm ngầm với Dũng. Anh học giỏi như Dũng. Nhưng anh không biết chơi phong cầm, không biết hát những bài tiếng Nga thịnh hành những năm tháng ấy - những năm tháng hai đứa cùng học phổ thông. Bao giờ anh cũng đến trường trong bộ quần áo lùng phùng và may lắm là chưa bị rách mà hai ông anh ban phát và ép buộc phải mặc để được tự do dùng phiếu vải bốn mét của anh. Còn Dũng, dép nhựa Tiền Phong màu trắng, quần simili, cặp da thật, và nếu không thì là đồng phục của câu lạc bộ thiếu niên thành phố. Không thể so sánh với Dũng, nhưng không thể không tị hiềm tủi thân ngấm ngầm. Ba Dũng là cán bộ giảng dạy đại học, lại đã đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Mẹ Dũng là cửa hàng trưởng một cửa hàng bông vải sợi. Dũng lại là con một. Bốn bà chị ở trên, đốt út là Dũng. Cái lúc anh vào cấp một và chẳng mấy khi dám mếu máo mách mẹ tội gì của hai ông anh để phòng thân những khi không có mẹ thì Dũng chẳng bao giờ phải nghĩ ra một mong muốn gì. Mọi ao ước đều chỉ được nhận ra khi bà mẹ và các bà chị chiều em làm cho trước. Những buổi chiều hè Dũng đi sinh hoạt câu lạc bộ thì anh thường đang ôm một cuốn sách ngồi trong bóng râm cứ mỗi lúc một co bé lại của một mái hiên nào đó, từng lúc lại phóng ra dãy mê rổ bìa các tông gạch cục để xem có đứa nào vứt cục gạch của mình đi chen ngang không. Đôi khi Dũng cũng đi cùng anh, cũng bê giúp anh bao gạo, xách hộ can dầu hay mớ rau mậu dịch tuỳ mùa. Nhưng đó không phải việc thường ngày của Dũng, nên Dũng rất phục anh khi anh bày ra bao nhiêu tem phiếu tính tính toán toán thoăn thoắt tháng này phải mua bao nhiêu mỡ bao nhiêu nạc tháng này được mấy lạng đường đổi phiếu gì lấy phiếu gì để tháng sau mua thêm mấy cân đậu phụ cho anh chị học trường xa về bồi dưỡng. Nhà một gái ba trai. Các anh chị đã nhót đi đại học, bố mẹ còn đi làm, bao nhiêu việc nhà dồn hết vào anh. Cũng nhiều khi anh với Dũng đi với nhau mà không phải bê xách gì. Dũng có một cái xe đạp thiếu niên Liên Xô, không thể đèo nhau và Dũng hay nổi hứng đi bộ cùng anh. Đường từ nhà tới trường có thể đi qua Lò Đúc lên Phan Chu Trinh, cũng có thể rẽ ra Yecxanh qua Tăng Bạt Hổ lên Lê Thánh Tông. Học buổi chiều. Trưa đánh xong bát ô tô cơm nguội mẹ để phần trước lúc đi làm là đến giờ đi. Dũng kể đủ thứ chuyện ở câu lạc bộ. Còn anh thì nhìn trời, nhìn cây, nhìn phố, nhìn đám học sinh học buổi sáng đi ngược lại đoán mò đứa nào chiều về sẽ phải đâm dặm đâm dụi như mình. Rất dễ đoán. Không biết vì sao. Gần chỗ rẽ vào trường trước cửa sứ quán Angiêri có hàng cây phượng non. Lá phượng trong nắng và gió trông dễ thương làm sao. Như Hoài Thư - cô bạn cùng học từ hồi cấp hai, lên cấp ba lại cùng lớp mà chưa bao giờ bắt chuyện. Thư xõa tóc ngang môi, mỗi lúc ngoái lại đằng sau tóc lại tung lên, xoay xoay. Êm ái và mướt mắt. Và khi Thư viết, cái cổ rất trắng với đuôi tóc mọc dài sau gáy cúi xuống, thơ ngây và bướng bỉnh. Có lần thi văn nghệ ở trường, Thư mặc một cái áo rất bà già, cổ tròn, màu sẫm. Khuôn mặt Thư thon nhỏ trong bồng bềnh tóc như một búp sen vươn trên chiếc bình men rạn đã làm anh muốn ngừng thở. Anh hiểu cảm giác muốn đưa tay vuốt gáy Thư, muốn lùa tay vào mái tóc như lụa của Thư là gì. Và xấu hổ. Khi đó anh và Dũng mười sáu tuổi. Khi đó là lớp chín.

Mùa hè năm đó thành đoàn tổ chức đội thiếu niên đi dự trại hè Arơtech. Dũng học giỏi, vừa chia với anh giải nhất học sinh giỏi toán toàn thành, chơi đàn từ bé, nói tiếng Nga choanh choách. Dũng là Liên đội trưởng Đội thiếu niên Hồ Chí Minh ba năm liền. Dũng là phó bí thư Đoàn trường. Dũng được đi. Ảnh Dũng đăng trên báo Tiền Phong và báo Thiếu niên. Ngày khai trường, bao nhiêu đứa chẳng biết mặt chẳng quen tên nhìn Dũng thì thào. Dũng hoàn toàn bình thản. Lúc đi qua hàng cây phượng non lấp lánh xanh như được rắc nhũ trong nắng sáng, Dũng hất đầu: "Cái Thư kìa!" Thư đi trên hè đường bên kia, nhìn sang, cười bối rối. Khi ấy, lần đầu tiên anh biết buồn. Khi ấy, anh không biết rằng những nỗi buồn như thế, nỗi buồn của người lớn, sẽ đeo đẳng anh nhiều năm sau. Thi đại học, hai đứa thừa điểm đi nước ngoài. Cả nhà anh không hy vọng nhiều. Bà chị và hai ông anh mấy năm trước đã bị gạt lại rồi. Lý lịch của ông bố thời kháng chiến hoạt động trong thành có một khoảng thời gian không xác minh được. Nhưng rồi anh được đi. Hạnh phúc không chờ đợi đến lúc thành thực làm người ta mệt mỏi. Dũng và anh mỗi đứa đi một nước. Ở Thanh Xuân (5) anh thân với Quyên, "Quyên đẹp trai", tính ngang tàng làm bọn con trai bất ngờ và hãi sợ đối với anh đầy quyến rũ. Sinh nhật Dũng, anh rủ Quyên cùng đi. Anh nhìn Quyên trao bó hoa hai đứa mua chung cho Dũng, giật mình. Dáng vẻ bối rối đó không phải là dáng vẻ của Quyên. Và Dũng, hào hoa như vẫn từng, nhưng hình như không bình thản. Nhà anh trở thành binh trạm tình yêu của Dũng và Quyên trong mùa hè cuối cùng còn ở trong nước. Anh sang Đức, quen và thân nhiều cô bạn. Vì anh đã thôi không còn rụt rè. Có cô bạn thích anh vì vẻ điềm đạm ít có ở một thằng con trai cùng tuổi ấy. Có cô lại ghét anh vì những câu hài hước độc địa mà ít thằng con trai tuổi anh nghĩ ra. Anh thản nhiên. Trong một cuốn vở của anh có câu này: "Tôi không xếp em vào con số thứ tự nào - Sao lại có điều kinh dị thế." Cuốn vở mới viết vài trang. Anh không ghi tiếp bài vào đó. Anh cất đi cùng những lá thư của Dũng và Quyên. Trong những lá thư đó có có những thông số về tình yêu của người này đối với người kia. Bây giờ anh không phải làm binh trạm trưởng binh trạm tình yêu cho họ. Nhưng anh vẫn là người thứ ba cần thiết và quan trọng. Bao giờ người ta cũng cần có một người nào đấy để có hai cái tai nghe và một nụ cười đồng tình. Quyên đã lấy chồng và ở lại nước ngoài. Từ đó tới nay anh bặt thư Quyên. Dũng đã chết. Mười lăm năm trước, trước ngày tốt nghiệp không lâu. Anh về nước, đến thăm nhà Dũng. Nhà Dũng đã chuyển khỏi khu tập thể. Dũng trên bàn thờ nhìn anh làm anh bứt rứt. Trong ảnh, Dũng không có cái vẻ bình thản tự tin đã làm anh mất tự tin vào mình nhiều năm. Dũng nhìn anh đau đáu. Cái nhìn của người đang kiếm tìm. Dũng kiếm tìm gì? Nếu một cuộc đời đích thực phải là không khổ thì Dũng đã không khổ, trong một nghĩa nào đó. Dũng không có một tuổi nhỏ vất vả đầy thèm nhạt như anh. Dũng không bao giờ là người trong hàng như anh. Dũng luôn luôn đứng ngoài hàng, được mọi người nhìn ngó. Dũng đã có Quyên, đã yêu và được yêu. Trong tình yêu, đưọc thấy cái mình ao ước đã là sung sướng, được có nó, đấy là hạnh phúc. Sung sướng và hạnh phúc cứ như là hai cánh của một vị thần bảo trợ vỗ bên đời Dũng.

Như thế là Dũng đã sống hết cuộc đời phải sống rồi. Nghe nói là Dũng chết không đau đớn lắm. Phát bệnh trong hai tuần. Thầy bạn lũ lượt đến thăm. Quyên bên cạnh cho tới phút cuối cùng. Một giấc ngủ dài. Rồi đi. Vậy thì tại sao anh lại nằm mơ thấy Dũng buồn như thế này? Anh nhớ buổi chiều tháng mười anh đến nhà Dũng sau hôm về nước. Trời chưa lạnh. Nhà Dũng đóng kín cửa. Nắng vàng óng hắt những vệt sáng đắm đuối qua cánh cửa chớp hơi vênh vào căn phòng âm thầm. Ba mẹ Dũng đã về hưu. Ông bố lê từ phòng trong ra, người cứng ngắc một cách kì cục, nụ cười ngây ngô, chỉ có bờm tóc bạc dợn sóng là cái còn sót lại của phong thái đường bệ cũ. "Bác trai không nghe được gì nữa đâu cháu ạ. Năm trước, bác nằm liệt tưởng không qua nổi. Đến lúc dậy được thì chỉ đi lại lệt bệt như thế này thôi." Mẹ Dũng bình tĩnh kể. "Như thế từ hồi nhận được tin Dũng. Hai bác muốn đưa Dũng về. Điện qua điện lại. Sứ quán bảo để Dũng bên đó tốt cho tình hữu nghị hai nước. Bạn cũng bảo thế, hứa chăm sóc phần mộ Dũng chu đáo. Thôi thì đành vậy. Bác muốn thu xếp sang Nga một chuyến thăm mộ Dũng. Nhưng bác trai ra thế này. Lại còn bà nội Dũng, chín mươi rồi, mấy chục năm tập kết ra đây không lo được cho bà, nay chỉ sợ đi thì nhỡ ra..." Hình như Dũng thừa hưởng của mẹ khả năng luôn luôn bình tĩnh này. Nhưng còn ánh mắt kiếm tìm kia? Hai đứa thân nhau, nhưng hai nhà khác cảnh nhau. Anh bao giờ cũng giữ vẻ lễ độ xa cách khi đến nhà Dũng. Anh chỉ gần với bà chị trên Dũng nhưng cũng hơn Dũng đến mười tuổi. "Chị Mai thế nào rồi bác? Chắc chị đã có gia đình?" "Chị về bây giờ đó cháu. Chị ấy tốt nghiệp trước giải phóng mấy năm. Cả khóa tăng cường cho chiến trường. Chị ấy ra trước khi cháu với Dũng đi nước ngoài một năm cháu nhớ không?" Giọng mẹ Dũng đột nhiên cạn hết sinh lực. "Bác giục chị ấy lấy chồng bao lâu rồi mà chị ấy cứ cười bảo các chị chồng con bận rộn chị ấy phải ở nhà trông nom hai bác. Hôm vừa rồi lại nửa đùa nửa thật hỏi bác có bằng lòng cho chị ấy nhận một đứa bé về làm con nuôi không? Cung cách này đến thành bà cô thôi cháu ạ. Không thì lẽ mọn. Ba chín tuổi rồi...". Vậy là chị ấy không quên anh Hoàng. Anh chị cùng một khóa. Cùng đi chiến trường làm bác sĩ quân y. Anh Hoàng hi sinh ngay trước ngày giải phóng. Anh Hoàng tóc quăn, chơi ghi ta, nhà ở khu tập thể bộ Y tế kề bên. Gần nhà xa ngõ. Ai cũng nghĩ anh Hoàng và chị Mai chỉ thân nhau. Nhưng Dũng và mình toàn đưa thư giúp anh Hoàng... Anh muốn đứng lên nhưng không đủ can đảm cắt ngang lời thổ lộ đầy tin cậy của mẹ Dũng. Ngày xưa bà luôn bận rộn, quả đoán và tự tin. Ngày xưa bà làm bên thương nghiệp, cả khu tập thể nhờ bà mua vải, công đoàn trường ba Dũng cũng phải nhờ hàng năm để cải thiện cho anh em. Ngày xưa bà ít khi cởi mở, nếu có thì mọi chuyện cũng chỉ bắt đầu và dừng lại ở Dũng. Lúc anh về thì trời đã tắt nắng. Căn phòng nhá nhem và nồng mùi người ốm làm anh khó

thở. Anh xin phép thắp một nén hương cho bạn, suýt chảy nước mắt, lại giật mình vì lời mẹ Dũng: "Cháu lúc nào rỗi rãi thì lại nhà chơi. Chị Mai nghe cháu về thì chắc mừng lắm. Có mấy đứa học cùng Dũng ở Liên Xô trước bao giờ cũng có mặt vào ngày giỗ Dũng. Hôm vừa rồi có cả con Quyên...". Quyên đang ở Hà Nội ư? Quyên có biết anh đã về? Giữa anh và Quyên có một mối tình sâu đậm, công khai của Dũng và Quyên, có một tình yêu say đắm và không thể công khai của riêng anh dành cho Quyên. Và có một người đàn ông nước ngoài xa lạ. Không bao giờ anh gặp lại Quyên. Và có lẽ không bao giờ anh còn có thể đến nhà Dũng. Anh đi làm. Rồi cơ quan giảm biên. Rồi đi xuất khẩu lao động. Thực ra anh không nằm trong danh sách dôi dư. Nhưng anh xin đi. Chính phủ vừa ban hành nghị định cấm tuyển người có bằng đại học và cao đẳng đi lao động xuất khẩu chống chảy máu chất xám. Chẳng khó gì. Năm chỉ đổi lấy một hồ sơ thật từ tên đến tuổi, chỉ ghi sai mỗi nghề nghiệp. Rồi anh thành người tị nạn nơi này. Anh có một người đàn bà cho riêng mình. Một người đàn bà đơn giản đến bất ngờ, thực tế đến bất ngờ, thường nhầm lung tung tên các nhà thơ nhà văn và có lần đã nổi khùng suốt mấy ngày trời chỉ vì anh trót cười sằng sặc khi cô hỏi ai là Lưu Quang Vũ ai là Vũ Trọng Phụng và than thở "sao mà lắm Vũ thế không biết!" Cô đi tất cả các đại nhạc hội, mua đủ bộ Thúy Nga Paris, mê phim bộ và thích hát. Khi cô đề vào băng là "ca nhạc thiện chiến" và réo rắt "cô bán giềng ơi" rút kinh nghiệm anh chỉ cười dịu dàng. Anh có với cô hai đứa con. Một đứa âm thầm giống anh. Một đứa sôi nổi vụng về giống mẹ. Tiếc là nó lại là con gái. Cốc chè đen ngai ngái đã nguội ngắt. Ở Tây bao năm rồi mà anh vẫn không thích được vị chè đen. Đã bảy giờ hơn. Sáng nay phải đi gia hạn Duldung. Anh liếc nhìn vợ ngủ say sưa, lẳng lặng mặc quần áo, lẳng lặng ra khỏi nhà. Hè đường đóng băng trơn trượt. Hơi lạnh xộc thẳng vào mũi làm trán anh nhức buốt. Anh đứng bên cái xe cà khổ, xốc cao cổ áo, ra sức cạo băng đóng trên kính xe, không nhận ra mình đã không còn nghĩ về bạn. Chỉ thấy thèm vợ, thèm được ôm lấy cái thân mình mỡ màng, nóng hôi hổi như một cái bánh mì mới ra lò, nồng nồng mùi hôi nách pha lẫn mùi thuốc chống hôi bôi không đều đặn ấy mà ngủ lịm đi. Có thể, trong giấc ngủ, giấc mơ đêm qua lại cùng anh trở về. _________________________ (1) Duldung: Giấy gia hạn tạm dung chuẩn bị trục xuất dành cho người tị nạn tại Đức.

(2) Urlaub: nghỉ phép (3) Thơ Onga Becgon (4) Tên một tập thơ của Megiêlaitis và Rasun Gamsatốp (5) Thanh Xuân: Trường đại học ngoại ngữ Hà Nội, trong có các lớp dành cho lưu học sinh, đóng tại Thanh Xuân, nơi tiếp giáp Hà Đông Hà Nội. Lưu học sinh thường gọi thời gian học ngoại ngữ ở đây là học ở Thanh Xuân. Cách gọi này khác cách gọi của sinh viên cùng trường nhưng học trong nước.

Mây trắng còn bay Máy bay cất cánh trong mưa. Tiếng càng bánh xe gấp lại có vẻ mạnh hơn bình thường dội độ rung vào thân máy bay. Tôi tiếc là đã không nghe lời vợ. Đáng lý nên trả vé, đừng theo chuyến này. Ngày xấu, giờ xấu, thời tiết xấu. Máy bay hẫng một cái như hụt bước. Tay vận complet ngồi bên cạnh tôi mặt nhợt đi, mắt nhắm nghiền, cặp môi run run. Tôi bấu chặt các ngón tay vào thành ghế. Con người tôi bé tí hin treo trên vực sâu đang càng lúc càng sâu thẳm. - Mây ngay ngoài, các bác kìa! - bà cụ ngồi ở ghế trong cùng, kề cửa sổ, thốt kêu lên. Chiếc TU đã lấy được độ cao cần thiết, bắt đầu bay bằng. Hàng chữ điện "Cài thắt lưng an toàn" đã được tắt đi. Nhưng ngoài cửa sổ vẫn cuồn cuộn mây. - Mây cận quá, bác nhỉ, với tay ra là với được - Bà cụ nói - Y thể cây lá ngoài vườn. Tay vận complet nhấc mi mắt lên. Môi y mím chặt, vẻ căng thẳng đổi thành quàu quạu. - Vậy mà sao nhiều người họ kháo là tàu bay trỗi cao được hơn mây bác nhỉ? Tay nọ làm thinh. - Chả biết đâu trời đâu đất thế này biết lối nào mà về bến, thưa các bác? Không được trả lời, bà cụ chẳng dám hỏi han gì thêm. Bà ngồi im, ôm chặt trong lòng một chiếc làn mây. Hình vóc bé nhỏ, teo tóp của bà như chìm lấp vào thân ghế. Khi cô tiếp viên đẩy xe đưa bữa điểm tâm đến, bà không muốn nhận khay đồ ăn. Bà bảo cơm nước lạ kiểu chẳng đũa bát gì chẳng quen, mấy lại đã ăn no bụng hồi sớm, mấy lại cũng

thực tình là già chẳng có lắm tiền. Cô gái ân cần giải thích để bà cụ yên tâm rằng giá của suất ăn này đã được tính gộp trong tiền vé. - Thảo nào hai lượt tàu bay những triệu bạc - bà cụ nói - Vậy mà lúc biếu già tấm vé các chú không quân cùng đơn vị với con trai già ngày nọ bảo là tốn có trăm ngàn. Các chú ấy cho già thì có, chứ còn tính ở quê đừng nói triệu với trăm ngàn, ngàn với trăm cũng khó. Bà cụ hạ chiếc bàn gấp xuống song không bày bữa ăn lên đấy. Tất cả các thứ hộp thứ gói trên khay bà dồn hết vào chiếc làn mây. Bà chẳng ăn chút gì. Lúc người ta mang đồ uống đến, bà cũng chỉ xin một cốc nước lọc. Bà hỏi cô tiếp viên: - Đã sắp đến sông Bến Hải chưa con? - Dạ thưa - Cô gái nhìn đồng hồ đeo tay - Còn chừng dăm phút nữa ạ. Nhưng thưa cụ vì chúng ta bay trên biển nên không ngang qua sông mà sẽ chỉ ngang qua vùng trời vĩ tuyến 17. - Lát qua đấy con bật dùm già cái cửa tròn này con nhé, cho thoáng. - Ấy chết, mở thế nào được ạ. Cô gái bật cười. Ngoài cửa sổ nắng lóe lên, cánh máy bay lấp lánh, nhưng chỉ trong chốc lát. Trên rất cao này, trời vẫn còn mây. Người tôi nôn nao như ngồi trên đu quay. Chưa chuyến nào thấy mệt như chuyến này. Có lẽ vì cơn bão đang hoành hành ở miền trung nên không trung đầy rẫy ổ gà. Máy bay chòng chành, dồi lắc, bên thân và dưới sàn khe khẽ phát ra những tiếng răng rắc như sắp rạn. Tay vận complet xòe diêm châm thuốc. Là dân nghiện nhưng lúc này tôi thấy gai với khói. Lẽ ra y nên xuống phía dưới mà thả khí chứ chẳng nên phớt lờ hàng chữ "không hút thuốc" sáng nay trước mũi y như vậy, tôi sẽ uể oải thầm nghĩ, đậy tờ báo lên mặt và nhắm mắt lại. Giấc ngủ thiu thiu chầm chậm trườn tới. - Làm cái gì vậy? Hả! Cái bà già này! Tôi giật bắn mình. Tôi bị giằng khỏi giấc ngủ không phải vì tiếng quát, tay ngồi cạnh tôi không quát to tiếng, chỉ nạt, nạt khẽ thôi, đủ nghe. Nhưng âm hưởng của nỗi hoảng hốt và sự cục cằn trong giọng y như tát vào mặt người ta. Thận trọng, tôi liếc nhìn. Khói thuốc và cặp vai to đùng của y che khuất cả bà cụ già, cả ô cửa sổ. - Này, cô kia, cô nhân viên! - Y sang trọng đứng dậy mắng - Tới mà nhìn! Đây là hàng không hay là cái xô bếp? Là phi cơ hay là cái miếu thờ thế này, hả? - Van bác... - Bà cụ sợ sệt - Bác ơi, van bác... Chẳng là, bác ạ, bữa nay giỗ thằng cả nhà tôi. Non ba chục năm rồi, bác ơi, tôi mới lên được đến miền cháu khuất.

Tay nọ gần như bước xéo lên đùi tôi, xấn ra lối đi. Bộ mặt hồng hào bừng bừng giận dữ và khinh miệt. Bà cụ ngồi, lặng phắt, lưng còng xuống, hai bàn tay chắp lại, gầy guộc. Trên chiếc bàn gấp bày đĩa hoa cúng, nải chuối xanh, mấy cái phẩm oản và ba cây nhang cắm trong chiếc cốc thủy tinh đựng gạo. Một bức ảnh ép trong tấm kính cỡ bàn tay để dựng vào thành cốc. Cô tiếp viên vội đi tới. Cô đứng sững bên cạnh tôi. Không hề kêu lên, không thốt một lời, cô lặng nhìn. Máy bay vươn mình nâng độ cao vượt qua trần mây. Sàn khoang dốc lên. Cái bàn thờ nhỏ bé bỏng của bà cụ già hơi nghiêng đi. Tôi xoài người sang giữ lấy cái khung ảnh. Tấm ảnh được cắt ra từ một tờ báo, đã cũ xưa, nhưng người phi công trong ảnh còn rất trẻ. Khói nhang nhả nhè nhẹ, bốc lên dìu dịu, mờ mỏng trong bầu không khí lành lạnh của khoang máy bay. Những cây nhang trên trời thẳm tỏa hương thơm ngát. Ngoài cửa sổ đại dương khí quyển ngời sáng.

Bùa yêu Ngày trẻ bà ngoại là cô gái đẹp trong làng - Nhưng đường tình duyên chẳng hề may mắn. Thùy Dương Hai đời chồng, bà có hai cô con gái và ở vậy từ năm 29 tuổi. Khi đã già, bà lại nuôi cháu cho con gái. Bà thường kể đủ thứ chuyện khi dỗ tôi và em gái ngủ. Lớn lên trong tôi chỉ còn rõ nhất câu chuyện về cô Thảo đẹp nhất làng, yêu người trai nghèo không lấy được đã nhảy sông tự vẫn. Đêm tối trời, cô thường hiện lên hết khóc rồi lại hát, kết các loại bùa yêu thả chúng bay khắp nơi... Mùa thu. Trời xanh nao lòng và nắng vàng cũng ngơ ngẩn. Tôi chạy chân trần đuổi bắt những con chuồn chuồn ớt. Đâm sầm vào bụi cúc tần, tôi bắt gặp màu vàng nồng nàn của những búi tơ hồng vấn vương. Những chiếc lá vàng lơi lả mà chú tiểu trong chùa vun lại, đủ cho tôi chơi nửa ngày không chán. Trong không trung, thỉnh thoảng có sợi tơ trăng mỏng mảnh nhẹ nhàng bay ngang, lúc căng dài lúc co tròn lại. "Bùa yêu..." tôi hét lên và chạy đuổi theo. Khó khăn lắm tôi mời bắt được chúng. Đám bạn trong làng ngơ ngác nhìn tôi. Một bà lão móm mém đi qua nhổ một bãi quết trầu, day day đôi mắt mờ đỏ lắc đầu "Trông như cô Thảo ngày xưa ấy ư... Rõ khổ!". Mẹ đón tôi về thị xã (thực ra cách nhà bà ngoại có 2-3 cây số). Sau mấy năm đi Tây cùng

chồng -trông mẹ đẹp ra và chẳng hề thay đổi. Chỉ có điều mẹ luôn luôn trong trạng thái nôn nóng và bồn chồn: "Bố mày ở lại bên đó và chạy theo con... Cái đồ gái Tây thô bỉ... Rồi mẹ đến phải sang nữa thôi!". Tôi tròn mắt nhìn mẹ, một nữ trí thức xinh đẹp, quần áo lúc nào cũng hợp mốt, duyên dáng, lại có thể thốt ra những lời đó sao. Mà tôi đã nói bao lần rồi mẹ chẳng chịu nghe cho. Tôi không thể gọi ông ta - chồng của mẹ - bằng bố. Ai thì cũng chỉ có một người bố duy nhất - dù người đó đã bỏ hai đứa con gái 7 tuổi và hơn 2 tuổi ra đi. Căm giận bố, mẹ đã cấm cửa ông, gửi phắt chúng tôi về bà ngoại và cũng đi tít mít. Bây giờ mới về được vài tháng thì đã thế... "Năm nay con đã vào đại học, rồi mẹ sẽ chuẩn bị cơ sở để con có thể tự lập được và lo cho cả em. Mẹ phải sang để cột lão ta lại...". Chẳng nhìn tôi, mẹ cứ lẩm bẩm như một mụ hàng xén đang tính toán với gánh hàng của mình. Ừ thì mẹ đi. Chị em tôi dường như không quen rồi đến phải quen và đã quen với những ngày tháng dằng dẵng xa mẹ. Tôi cũng đã quen tháng tháng ra bưu điện lĩnh mấy cân hàng rồi mang đến nhà người quen bán đi, trang trải mọi thứ cho ba bà cháu, trả tiền học thêm cho hai chị em... Chỉ khổ thân cho mẹ - sao cứ bồn chồn, bứt dứt không yên thế!? Có phải do yêu mà mẹ cứ long đong mãi sao? Tiếc rằng mẹ chẳng có bùa yêu... Không giữ được tình yêu với bố, mẹ lao đi tìm và tìm bằng được những người giống, hoặc hao hao giống bố. Ông bố dượng hiện thời của chúng tôi là một ví dụ không phải đầu tiên nhưng cũng chưa hẳn cuối cùng. Mẹ yêu ông ta, than thở, trách giận ông ta lẫn với hờn ghen, giận dữ đối với bố. Bao nhiêu năm rồi chúng tôi chưa gặp mặt bố, chỉ nhận những món quà do ông gửi qua bưu điện. Nhưng mẹ lại biết rõ từng đường đi nước bước của ông, những mối tình và trắc trở mà ông gặp. Mẹ kể lại những điều ấy với bà, với chị em tôi giọng hả hê, đắc thắng xen lẫn sự ghen tuông không giấu giếm. Thật là kỳ lạ. Rồi mẹ lại đi khi biết tin bố tôi cũng trở sang bên ấy và người chồng của mẹ có một cô bồ mới. "Con gái lớn rồi phải biết giữ thân con ạ. Tốt nhất là đừng có xiêu lòng trước những lời tán tỉnh của bọn con trai. Bao giờ lấy chồng con sẽ chọn người đàn ông nào yêu con nhất. Đàn bà mà yêu nhiều rồi sẽ khổ..." "Như mẹ phải không?" Tôi thầm hỏi trong lòng và ôm lấy mẹ, cảm thấy hơi ấm nồng nàn từ đôi bầu vú mẹ phả vào ngực và cảm nhận được cả những cái run rẩy từ đôi vai để trần của mẹ. Năm thứ hai đại học thì tôi yêu. Anh ấy đẹp, và dường như hứa hẹn, lấp lánh một tài năng nào đó. Tôi đến nhà anh và reo lên khi thấy bó hoa cắm ngoài phòng khách. Những bông hoa trắng xanh khiêm nhường thường mọc chốn đồng quê có cái tên hết sức bình dị thật thà. Nhưng với tôi chúng mang một cái tên đặc biệt khác: Hoa sương. Bởi những bông hoa chẳng khác nào những chiếc mạng nhiện mắc đầy sương "Hoa sương ư? Em hay thật...". Anh cười kéo tay tôi "Mốt thời thượng đấy mà - người ta chở từ quê ra thành phố đủ các loại hoa, cỏ dại khờ?". Trong phòng của anh duy nhất chỉ có một bông hoa hồng trắng ngậm sương, "Đây mới chính là anh - em biết không - và là cả em nữa!". Chúng tôi hôn nhau bên bông hồng. Hương hoa quyện trong hương vị của nụ hôn đầu tiên - ngọt ngào, man mác, chẳng thể nào quên. Bốn tháng, sau những lần hò hẹn, những nụ hôn dài mê mải đắm say, tôi bỗng nhận được một lá thư ngắn ngủi và đầy sự có lý của anh. "Chúng ta phải chia tay. Đừng hỏi anh vì sao em yêu ạ, cũng như anh không hỏi vì sao những loài hoa dại đã có tên mà em vẫn cứ

đặt những cái tên ngộ nghĩnh, dễ thương khác cho nó. Chúng ta đã có những giờ phút có thể gọi là hạnh phúc, dễ chịu bên nhau. Em đã đem niềm vui cho anh và anh với em cũng vậy. Thế là hoà và vì điều ấy, xin em đừng tìm gặp hay căn vặn gì anh. Chúc em may mắn và hạnh phúc!". Câu cuối cùng như cười giễu tôi. Hạnh phúc ư - Có thể hạnh phúc được không khi phải chia tay với mối tình đầu của mình, với chàng trai đầu tiên mà mình yêu? Tôi bỗng nhớ lại câu nói của anh ta hôm nào: "Những loài hoa cỏ dại khờ mang từ quê ra...". Có lẽ tôi lúc ấy cũng là một kiểu mốt thời thượng của anh ta... Tôi phá lên cười, xé tan lá thư và ném nó vào gió. Những mảnh giấy trắng như những cánh bướm bay tan tác, lung tung. Nước mắt tôi tràn ra, chảy ướt cằm. Chiều thu. Tôi lang thang trong dãy phố nhỏ, ấm thấp và u ám. Những chiếc lá vàng thả chầm chậm, quấn lấy bước chân. Tôi thèm được trở lại ngày xưa, chân trần chạy khắp nơi, chẳng hề biết trên đời lại có nỗi buồn trĩu nặng lòng và dư vị ngọt ngào lân cay đắng của mối tình đầu vương vấn mãi, bỗng một gương mặt nhăn nhúm ló ra từ ô cửa sổ: "Mời cô vào trong này. Cô vào đi!" Như một cái máy, tôi bước vào ngôi nhà cổ có đến hàng trăm năm, tường đã chóc lớp vứa trát, lộ ra cả màu gạch hồng hồng. Ông già lôi ở đâu đó ra một chiếc thước dây đã xỉn màu, chẳng nói chẳng rằng loay hoay đo đo, tính tính. "Cô là người của mùa thu. Tôi sẽ may cho cô bộ váy áo kết bằng nắng vàng và tơ trời mùa thu. Tôi đã để dành và chờ đợi từ 60 mùa thu trước. Tuần sau, vào buổi chiều này, cô nhớ đến lấy... Nhớ chưa!". Tôi vâng dạ chào ông ấy ra về. Cũng chẳng thấy ngạc nhiên, dù chưa hề có ý định may sắm gì trước đó. Đôi chân cứ tự đưa tôi đến khu phố cổ. Chẳng dám gõ cửa, tôi e dè đứng trước căn nhà khép kín. Bỗng có cô gái đẩy cửa bước ra: "Trao cho cô gái đến đây bác tôi dặn đi dặn lại như thế. Tiền nong à? Tôi không thấy bác nói gì hết. Tôi không dám nhận đâu. Bác tôi già rồi, sống một mình và kỹ tính lắm. Được nếu có ai về quê - tôi sẽ hỏi giúp chị...". Tôi giũ tung bọc giấy. Một bộ váy áo vàng nồng nàn điểm những sợi trắng mỏng manh. Tôi khoác chúng lên người. Trong gương, một cô gái mắt mở lớn, sáng lóng lánh - một màu vàng say như sắc mật. Làn da mịn như ngà ửng sáng... Cô gái nhoẻn miệng cười những đốm trắng cũng nhấp nháy cười theo. Tôi khép cửa bước ra đường. Ánh nắng thu nhảy nhót theo bước chân. Bao người đi đường nhìn tôi có nhiều người đi xa còn ngoái đầu nhìn lại... Tôi, bộ váy áo màu vàng và cùng với nắng thu cuốn nhau đi nhẹ êm, không ồn ã. Anh ta đứng trước mặt tôi, cái người tôi đã yêu với mối tình đầu ấy, và chết sững nhìn. Tôi dường như thấy nhẹ nhõm trong lòng. "Em đi đâu vậy? Dạo này em sao rồi?" "Em ư - bình thường thôi mà!". Anh ta nắm lấy tay tôi thì thào: "Trời ơi - sao mà màu mắt em lại vàng óng lên thế". Trước đây sao anh chẳng nhận thấy và chẳng hề biết nó đẹp đến như vậy... Chúng mình đi cùng nhau được không?" "Không đâu - em đang bận". "Bận gì nào anh sẽ cùng làm với em!" "Em còn bận thương nhớ Mùa thu - có làm với em được không?". Tôi phá ra cười giòn giã, vô tư khi nhìn lại guơng mặt tẽn tò ngớ ngẩn của anh ta. Sao ngày xưa tôi lại thấy gương mặt ấy hứa hẹn điều gì đó như tài năng nhỉ? Thời gian trôi qua rồi. Lúc tôi yêu và chờ đợi - sao anh ta chẳng đến. Giờ đây tôi không còn là cô bé ấy nữa và anh đã trở thành người xa lạ.

Bà ngoại bê lên một bát canh rau tập tàng hái trong vườn nhà, mấy ngọn dền cơm, nắm lá ớt, khoai lang rau muống, rau đay và mấy nụ mướp... Trên mâm chỉ độc có một bát tép rang khế và chiếc nồi gang còn vương tàn rơm, thơm hôi hổi mùi cơm mới. Tôi sà vào xới cơm. Canh bà nấu ngon hơn tất cả những thứ trên đời tôi đã từng ăn. Bà vừa quạt cho tôi vừa mắng yêu: "Cha mẹ nhà chị - rõ là lớn quá rồi. Cơm gạo nuôi quả là không phí. Thế có đám nào chưa - nói bà nghe xem...". "Sắp rồi bà ạ... Chỉ ít lâu nữa là cháu dẫn về để bà xem mặt". Bà quay đi thở dài: "Con gái trông thế kia - khéo lại cao số cũng nên. Mà con mẹ thì dễ đến ba năm rồi mà chẳng về qua nhà lấy một chốc!". Tôi ôm ngang lưng bà, cái lưng mảnh khảnh đã còng còng. "Cháu lớn rồi, sắp đi làm đến nơi. Cháu sẽ lo được cho bà và cái Nhu mà...". Mắt bà rân rấn: "Phần bà đâu có lo gì. Lo là lo cho mày kia kìa... con ạ". Cái Nhu chở tôi ra bến. Nó láu táu: "Chị có nhớ chuyện ngày xưa bà kể không - Cô gái đẹp đêm đêm hiện lên bờ sông thả bùa yêu ấy... Cái anh trai làng không lấy được cô đã bỏ đi biệt xứ - giờ mới trở về đây. Eo ơi giờ ông ấy đã ngoài 70 tuổi rồi, chẳng vợ chẳng con gì cả...". Tôi giật thót cả tim - vậy ra ông ấy đấy ư. Nhưng có khi không phải. Trên đời này thiếu gì chuyện trùng hợp. Sắp tới lúc xe chạy, cái Nhu mới bảo: "Em sẽ thi Cao đẳng sư phạm chị ạ. Vừa học gần nhà, ra trường có thể xin dạy ngay tại thị xã". Tôi không tin vào tai mình nữa. "Sao em lạ thế. Sức em đủ để vào đại học kia mà. Trên ấy lại có chị có em. Mẹ cũng đã nhờ người tìm mua cho chúng mình một căn hộ nhỏ". Nó kiên quyết lắc đầu: "Em thích nghề giáo viên - lại muốn ở gần bà. Em đã quyết định rồi. Tối nay em sẽ viết thư cho mẹ". Tàu chạy, nhìn bóng em gái bé nhỏ, lọt thỏm giữa sân ga, nước mắt tôi trào ra: "Nhu ơi nghĩ lại đi em. Chúng mình sẽ được ở bên nhau...". Thư Nhu viết ngay tối hôm tôi lên trường: "Chị đừng lo gì cho em. Em không giống mẹ và cũng không giống chị. Mẹ luôn luôn theo đuổi cái mà mẹ đã đánh mất. Chị luôn đi tìm những điều chị khao khát - dù có thể chính chị cũng chẳng hiểu nó là cái gì. Còn em đơn giản hơn nhiều. Em bằng lòng với những cái mà mình có. Em sợ những cuộc phiêu lưu, sợ đánh mất mình và hạnh phúc của mình...". Thư của tôi gửi về tới tấp. Những suy nghĩ trăn trở và cả những dự định về tương lai của hai chị em mà tôi vẽ ra đầy hào hứng đã không được nó chia sẻ. Bình tĩnh và cương quyết nó làm theo ý mình. Mẹ tôi bay về một tháng cũng chẳng thay đổi được gì. Bởi ngoài quyết định của nó, bà ngoại là người ủng hộ mạnh mẽ không kém. Mẹ và tôi đành bó tay. Tôi gặp anh trong một dạ tiệc. Anh có sức hút đặc biệt đối với tôi. Tôi cảm nhận rõ một dòng điện xuyên suốt từ anh sang tôi. Bất cứ anh ở góc nào đang làm gì, dù chẳng hề nhìn thì tôi cũng biết rõ... Lại có cảm giác rằng anh sẽ làm được một điều gì đó to lớn hoặc phi thường lắm. Tôi chẳng hề hỏi mình xem anh có đẹp trai hay không - như những lần tôi vẫn nhận xét một cách hờ hững nhưng người đến với mình. Trong tôi lúc này chỉ duy nhất có một điều đang được nhắc đi nhắc lại hàng trăm, hàng nghìn lần. Anh ấy đấy!

Nhưng tôi biết giấu cảm xúc của mình - hay chính tôi tưởng thế. Trong trang phục đen, dường như tôi kiêu kỳ và bí ẩn. Chỉ một lần duy nhất đứng đối diện nhau, tôi đã nhìn chiếu vào mắt anh. Tôi thả cho cảm xúc của tôi được tự do. Ngay sau cái nhìn đó tôi quay đi, rời bàn tiệc. Đêm. Tôi ngủ thật ngon lành. Sáng ra trở dậy tôi bỗng xôn xao về một điều gì... Mùa thu đã trở về sao? Tôi lục tung tủ quần áo và bắt gặp màu vàng rực rỡ của bộ váy áo ngày nào. "Ôi mùa thu...". Tôi giật mình ngẩng lên khi nghe ai đó gọi. Là anh. Anh nhìn vào mắt tôi. Tôi cũng nhìn lại. Trong mắt tôi là những đốm lửa vàng nóng sáng đang nhảy nhót lung linh. Dường như chúng tôi đã gặp, đã yêu và đã tin nhau từ lâu lắm rồi - ở một nơi nào đó, từ một kiếp nào trước đó và cho đến tận bây giờ vẫn bên nhau! Tôi nhảy bổ về nhà chỉ để kể cho em gái nghe những cảm xúc kỳ lạ của mình. Nó chăm chú nghe và mỉm cười đầy vẻ bà cụ non: "Niềm khao khát và tình yêu của chị đã gặp nhau, hoà làm một. Chị có nghe bà vẫn bảo không: Gái ham tài, trai ham sắc. Điều đó bà nói về chị đấy?". Tôi vội vàng quay trở về Hà Nội. Anh đã đợi tôi ở sân ga từ lúc nào. Tôi ngả đầu vào tấm lưng rắn rỏi, hít hít cái hương vị dễ chịu toả ra tử anh và lòng dâng lên một cảm giác lạ lùng. Chỉ muốn nhắm mắt ngủ trên lưng anh - yên ổn - hạnh phúc. Tôi ngạc nhiên rồi sửng sốt khi bắt gặp cô gái lạ chờ trước cửa phòng ở của mình. "Tôi đã lấy hết can đảm để có thể đến gặp chị. Anh ấy là của tôi từ rất lâu rồi, từ ngày tôi còn là một cô bé thích chơi trò hoàng tử công chúa. Ngày ấy chúng tôi đã có chung một đứa con là cậu búp bê tóc xoăn miệng rộng. Anh ấy bảo không thể để thằng bé không cha như anh. Lớn lên anh hứa sẽ lấy tôi làm vợ - suốt đời. Mọi việc đã gần như thành sự thật thì chị xuất hiện... Chị có thể gặp được người như anh ấy hay tốt đẹp hơn cả anh ấy. Chị thừa sức để làm điều đó. Nhưng tôi thì chẳng bao giờ... Tôi chỉ có mỗi anh ấy thôi - Chị hiểu không...?". Cố giấu vẻ tuyệt vọng trong đáy mắt, cô gái cúi mặt và lặng lẽ bỏ đi. Tôi không thốt được lời nào để bảo vệ mình, bảo vệ tình yêu của mình. Bàn chân tôi chạm nền đá hoa cứ run rẩy không vững. ở bên anh, suốt đời tôi sẽ chẳng cảm thấy yên ổn và hạnh phúc nữa mỗi khi nhớ đến ánh mắt tuyệt vọng của cô ta! Nhu đã ra dáng một thiếu phụ lắm rồi. Cái bụng tròn tròn nhu nhú, hai tay ve vẩy khoan thai mỗi bước đi. Chị em tôi dắt nhau đi chợ. Nó thèm ăn đủ các thứ linh tinh. Tôi dốc tiền ra mua cho nó hàng lô hàng lốc các thứ quà, ăn đến mấy ngày chả hết. Nó bắt tôi ngồi rồi tự mình thu vén dọn dẹp căn nhà nhỏ sạch sẽ tinh tươm đến phát sợ rồi chốc chốc lại ngong ngóng ra phía cửa. Tôi phát nhẹ vào vai: "Sáng nay chồng em đã nói là trưa không về - sao còn mong gì nữa". Nó cười ngượng nghịu: "Em biết vậy mà vẫn cứ

mong...". Bà đón chúng tôi từ ngõ, nghe tôi kể tội nó bà móm mém cười: "Thì nó bao giờ chẳng thế. Chồng bận công tác đưa sang đây với bà mà cứ ngóng ra ngóng vào. Mà chị mày lớn đầu còn dại, chẳng hiểu cái gì sất. Khi con Nhu đòi học cao đẳng bà biết ngay. Nó với thằng Huy quý yêu nhau từ thời còn lê la nghịch đất. Sáng nào thằng ấy chẳng sang rủ con Nhu đi học... Chả là con bé này sợ ngỗng đuổi mà...". Bà lại nấu canh rau tập tàng, ép chúng tôi mỗi đứa ăn thêm lưng bát cơm rồi gạt đũa chép miệng: "Mẹ mày thì có lẽ bà chết mới về. Chị em ruột thịt phải thương xót đùm túm nhau con ạ - Mà con bảo đưa người yêu về cho bà xem mặt đâu? Chúng mày tổ chức đi, bà còn khoẻ, bà lên bế cháu cho...". Bà vừa nói chuyện vừa gà gật ngủ. Bà đã già quá rồi còn gì... Tôi cảm thấy trên vai mình thêm một gánh nặng phải mang. Cái Nhu kéo tôi vào buồng, vạch khoe tôi cái bụng tròn thu lu nổi rõ một đường sọc nâu nâu. Gương mặt nó nghiêng nghiêng như lắng nghe mầm sống cựa quậy trong mình và tràn trề hạnh phúc, bỗng dưng tôi liên tưởng em gái tôi với cô xa lạ hôm nào. Thả lá thư vào nhà anh, tôi thấy trống trải và bơ vơ lạ lùng. Giờ này chắc anh vẫn mỏi chân chờ tôi ở chỗ hẹn. Anh trở về nhà đi. Rồi bùa yêu sẽ hết, anh sẽ chẳng thể nhớ gì về em. Và anh sẽ, trở về với cô gái ấy - người đã gắn bó với anh từ những ngày thơ ấu... Tôi cùng với bộ váy áo mùa thu nhiệm màu cứ đi lang thang trong thành phố. Vừa đi vừa nức nở, tôi cồn cào mong sẽ có một người nào đó - như anh nhận ra tôi và khẽ gọi: "Ơi mùa thu!". Bí ẩn của làn nước Các dòng sông trôi đi như thời gian, và cũng như thời gian, trên mặt nước các triền sông biết bao nhiêu là chuyện đời đã diễn ra. Bảo Ninh Nhất là về đêm, trên làn nước của dòng sông quê hương tôi lấp lánh hằng hà những đốm sáng bí ẩn, có cả điều bí ẩn của đời tôi. Năm ấy, nhằm trúng đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mỹ phá tan vệt đê canh giữ đằng trước làng tôi. Dứt dây nổ của bom và tiếng gầm ghê rợn của máy bay cường kích là chuỗi ầm ầm long lở của dòng sông phá bung đê tràn ngang vào đồng ruộng. Từ trên điển canh tôi chạy lao về làng. Hồi chiều nghe tin vợ ở nhà trở dạ nhưng tôi không thể rời vị trí hộ đê. Bây giờ giời đất sập rồi, trong tôi chỉ còn con tôi, vợ tôì. Tôi dốc toàn lực bình sinh vào đôi chân. Đằng sau, cơn đại hồng thủy đuổi bén gót. Nước đã ngập làng. Tôi về, kịp dìu vợ leo lên mái thì vừa đợt dâng nước thứ hai. Mái nhà tranh của vợ chồng tôi bị lôi đi trong đêm. Đến khi mái rạ sắp rã tan ra thì ơn trời nó vương vào thân đa trước đình làng.

Đã cả một đám đông bám trên các cành. Nhiều bàn tay chìa xuống giúp tôi đỡ vợ con trèo lên. Vợ tôi ôm khư khư đứa con mới sinh, nhất định không để tôi bế đỡ. - Con trai... con trai mà... yên tâm, con trai... Để yên em ẵm, anh vụng lắm... Nhiều giờ trôi quạ. Mưa tuôn, gió thổì. Mực nước không dâng cao hơn, nhưng chảy xiết hơn. Cây đa đầy người hơn. Tôi mỏi nhừ. Tay ôm chặt vợ, tay níu mình vào chạc cây. Vợ tôi yếu lả, ướt lướt thướt, lạnh ngắt. Khoảng gần sáng, bỗng có tiếng quẫy nước ngay dưới cành đa của vợ chồng tôì. Một giọng nghẹn sặc với lên: - Cứu mẹ con tôi mấy... cứu mấy... con gái tôi... Một bàn tay nhớt và lạnh như tay ma rờ vào chân tôi đang buông thõng. Tôi vội cúi xuống, đưa tay rà. Nhưng bàn tay của người đàn bà dưới nước truội đi, chìm nghỉm. Cành đa kêu rắc, chao mạnh. Vợ tôi "ối" kêu một tiếng thảng thốt, và "ùm", con trai tôi, đứa con sơ sinh tôi chưa được nhìn thấy mặt, tuột khỏi bọc ni lông trên tay mẹ nó, sa xuống làn nuớc tối tăm. - Trời ơi! Con tôi ...! - Vợ tôi hét rú lên và lao ngay lập tức xuống hòng chụp lấy con. Tôi phóng mình theo. Nước lạnh, ngầu bùn, sâu hút và cuốn mạnh. Tôi vớ kịp thằng con, nhao vội lên, trao nó cho những bàn tayđang chìa xuống, rồi lại lặn tiếp ngay để cứu vợ. Nhiều người phi xuống theo để trợ sức tôi ... Tôi tỉnh lại, thấy trời sáng rồi và đã tạnh mưa. Tôi nằm trong khoang một ca nô cứu nạn đầy ắp ngườì. Hồi đêm, tôi đã vật lộn điên dại quyết sống mái một phen với làn nước giết người, nhưng tôi đã thua cuộc, ứa ra cả máu tai máu mũi mà không những không cứu nổi vợ, đến thi thể cô ấy cũng bất lực không tìm thấỳ. Khi ca nô quân đội tới, mọi người đã phải dùng sức để buộc tôi rời mặt nước. Kiệt sức, tôi ngất đì. Khổ đau, tôi tỉnh dậy, nước mắt nóng rực, tê nhói. Một chị phụ nữ chen tới bên tôi, lên lời an ủi: - Phận chị ấy đã vậy, thôi thì anh phải nén lòng lại, giữ sức khoẻ mà nuôi con. Ơn trời, anh còn kịp cứu được cháu. Chao ôi, vừa kịp khóc chào đời đã trải một cơn kinh hoàng hú vía. Anh coi con anh này. Cứ như không. Đã bú, đã ngủ rồi đây này. Ngoan chưa này ... Ôi chao, nó tè dầm rồi này. Chị nựng nịu, và từ từ giở bọc chăn chiên đang ủ kín con tôì. Chị thay tã cho nó. Tôi nhìn. Choáng váng, chết lặng, tôi nén một tiếng kêu thất thanh. - Con tôi ... - Tôi òa khóc, đỡ lấy bọc chăn. - Con tôi! ***

Từ bấy tới nay, thời gian trôi qua và triền nước trôi đi, tôi đã có tuổi và con gái tôi đã thành một thiếu nữ đẹp nhất làng. Nó là đứa con của làn nước, mọi người đều nói thế bởi vì chuyện nó sa xuống dòng nước lụt rồi được cha nó cứu lên thì cả làng ai cũng biết. Nhưng điều bí mật kia thì không ai hay, kể cả con gái tôi nó cũng không thể biết. Chỉ có dòng sông biết. Có ngày nào mà tôi không ra đê ngắm làn nước trôi. Vợ tôi, con trai tôi và người đàn bà vô danh nhìn tôi từ đáy nước. Thời gian, năm tháng cứ trôi, dòng sông và lịch sử, tất thảy đều đổi thay nhưng mà niềm đau của đời tôi thì khôn nguôi bởi vì ấy là một niềm đau không thể nói nên lời.

Long lanh mắt bão Đêm nào cũng rơi vào hoảng loạn mê sảng, tôi thấy mình trôi trong nước, tôi thấy mình bay, đôi lúc thấy mình trong vòng tay một người hoàn toàn xa lạ, chỉ có tay chân chứ chẳng thấy mặt mũi. Trang Thanh Người ấy cho tôi bao nhiêu tiền bạc, tôi cầm lên thì tất cả hóa vụn tro vàng mã, năm ngón tay vấy tàn đen phồng rộp lên vì bỏng. Đêm nào tôi cũng mê, đám ma và đám cưới, khóc khóc cười cười, vũ trường, quán bar, đường phố, những vũng lầy, vết nứt, thảm cỏ và những cặp tình nhân, thung lũng và bước chân hẫng xuống vực... Tất cả các nhân vật chính đều là tôi. Tôi và nàng luôn ở hai cực của một thế giới khác biệt. *** Một tối thứ bảy nàng nhận lời đi chơi với người đàn ông hơn nàng tám tuổi, tốt nghiệp Đại học Ngoại thương đã bốn năm, đang làm việc cho một công ty nước ngoài, lương khá, đã có nhà riêng. Nói chung rất ổn. Anh chàng tóc cắt ngắn gọn gàng, cằm nhẵn bóng, chân đi giày Tây, áo quần tươm tất. Anh ta có một nốt ruồi khá to cách cánh mũi khoảng hai phân, nhìn vào mặt sẽ thấy nó đầu tiên sau đó mới thấy cái mũi cao, khuôn mặt hơi xương xương, hàm bạnh, cặp mắt mí rưỡi hơi Tàu. Lúc chuẩn bị lên ngồi sau chiếc xe máy hạng xoàng đã cũ, nàng nhìn khắp lượt trên người anh ta. Đây là lần đầu tiên nàng ngắm một người đàn ông mới quen kỹ thế, nghĩ đến những cuộc tình rơm lửa lâu ngày bén nhau, chợt buồn cười. Thiên hạ triệu người vạn kiểu. Nếu anh ta phong trần hơn chút nữa thì mình cũng cảm tình hơn. Họ dạo loanh quanh các phố đối với nàng còn xa lạ. Bốn năm học ở Hà Nội nàng hầu như không bước chân ra khỏi ký túc xá. Đến trước con đường chạy ngang lăng Bác, nàng nhìn tấm biển ghi đường Hùng Vương, anh ta bảo, hay ta ngồi đây hóng gió. Nàng đưa

mắt lướt một lượt khắp quảng trường bê tông, chắc ban ngày nóng thế thì bây giờ ngồi xuống sẽ vẫn bỏng mông. Trước mắt nàng toàn các ông bà già, hoặc những bà trung niên béo núc ních sải những bước dài, tay vung vẩy tập thể dục hòng tiêu mỡ giảm eo. Nàng thấy họ như một lũ vịt bơi cạn, chân vát chéo, mông vênh vểnh, vú lắc phải lắc trái theo nhịp tay, kinh kinh khi chợt nghĩ lúc mình già cũng béo ị và chảy nhão thế này. Tụi trẻ thì đứa béo phì, đứa còi xương suy dinh dưỡng, lon ton chạy nhảy đá bóng hoặc nhảy dây hoặc ăn kem ăn cháo ăn hoa quả bỏng ngô đủ thứ, đứa nào cũng có bố mẹ anh chị giám sát xa hoặc gần. Một vài đôi trai gái đi lại ngáo ngơ, chắc vừa ở quê ra. Nàng nghĩ thế, nói " không". Anh ta hỏi vậy em thích đi đâu? Có rất nhiều khi nàng không biết làm gì đi đâu gặp ai nói chuyện gì chứ chẳng riêng lúc này, nàng chẳng thuộc lấy vài kilômét đường phố. Nhưng để tỏ ra sành sỏi nàng khoát tay trái chỉ đi hướng này, anh ta liền ngoan ngoãn đưa nàng đi. Hồ Tây mờ ảo dần hiện ra trước mắt, vô số chiếc đèn phân thân một nửa sáng trên cao một nửa chìm sâu dưới đáy nước. Lúc này nàng mới biết mình đang trên con đường Cổ Ngư huyền thoại. Cổ Ngư đẹp như trong cổ tích, nàng đã ao ước được dạo trên đó cùng Vĩnh không chỉ một lần. Tự ngượng với lòng mình đã rủ đàn ông đến nơi chốn của tình ái, nàng im lặng mặc anh ta lách qua những hàng gánh tù mù đèn nến rồi tà tà lượn sát vào hàng rào bao quanh mép nước. Có rất nhiều xe máy dựng sẵn và từng đôi trai gái trên xe ôm nhau siết chặt. Họ thừa lãng mạn và thiếu tiền bạc ở xứ này. Ngồi trên xe, trên ghế đá hay nằm dài trên cỏ hàng giờ ôm ấp nhau, các cặp tình nhân chẳng sợ ai phán xét tư cách, bất kể ngày hay đêm. Đói, họ có thể ăn qua quýt củ khoai củ sắn bánh mì..., thậm chí cả bún đậu chấm mắm tôm chanh của các mẹ các chị nhà quê ra thành phố, tuy có bốc lên cái mùi khăm khắm nhưng lại nịnh miệng, có người ăn nhiều đâm nghiền. Ăn xong, lại có kẹo cao su năm trăm đồng một cái đủ các mùi chanh cam bạc hà để tráng miệng. Khát, họ có thể ăn kem uống nước dừa quả, trà ủ sẵn trong các ấm các bình, rót ra cái cốc nhựa cáu vàng, bỏ vào ít đá làm từ nước máy đập nhỏ, nước nhân trần cũng thế, lúc nào cũng sẵn và được chào mời tận mặt. Hầu như không ai bị nhiễm khuẩn, đau bụng, vì ở xứ này cơ thể con người dường như có thể tiết ra chất gì đó đặc biệt có khả năng miễn dịch. Chưa bao giờ Vĩnh đưa nàng đến con đường Cổ Ngư mơ ước này. Anh cho những chốn xô bồ đầy cạm bẫy sẽ làm vẩn đục tâm hồn trong trắng và ảnh hưởng đến việc học tập của nàng. Chốn riêng của hai người là khuôn viên ký túc xá, góc tường sau thư viện, nhà trông xe, trên sân thượng, nơi nào cũng nhờ nhờ tối để hai người đủ mờ ảo trong nhau. Cũng một đôi lần, Vĩnh bảo, để em đỡ nhớ nhà, anh đưa em ra cánh đồng gần trường, hay lắm. Đi trên những bờ cỏ mượt đầy thi vị, khi đẫm sương lúc lại giăng đầy hoa cỏ may, cả hai cùng thấy tâm hồn hòa hợp đến lạ kỳ. Lần cuối cùng Vĩnh đưa nàng ra khỏi ký túc xá là để đến công viên Thủ Lệ. Họ quấn lấy nhau trên ghế đá suốt một ngày, lúc đói cũng ăn uống qua loa như chẳng có gì quan trọng bằng nụ hôn cháy môi, nhất là khi mùi thơm của thức ăn lại lẫn trong mùi khai nồng của nước đái khỉ, mùi hôi của phân dê và mùi tanh nặc của nước hồ tù đọng. Nàng như đứa trẻ được khám phá. Tất cả đều khác lạ với những thứ ở quê nàng, kể cả hương lúa lên đòng và mùi hăng của cỏ, khi xa nhà nó khiến nàng nôn nao. Còn phố phường thì thật mê cuồng, đẹp và sang trọng như trong cổ tích. Ở đâu bên Vĩnh nàng

cũng thấy hạnh phúc đến mụ mị. Không hiểu sao sau lần đó Vĩnh đã viết cho nàng: "Em là hiện thực tôi không thể với tới, tôi đau đớn mà yêu em". *** Vĩnh cách nàng một sải tay với, áo kẻ ca rô cộc tay buông thả phong trần như nàng thích, cánh tay trần đen cháy vòng ôm một cô gái cao gầy tóc xõa ngang vai, váy hai dây ngắn bó sát cái eo thon và cặp đùi dài thẳng. Nàng mặc chiếc quần ka ki trắng cũ của một đứa bạn cho với chiếc áo xanh nước biển may thụng, có hai cái túi to dán chỗ ngực, là chiếc áo "hàng thùng" nàng mua ở vỉa hè. Bộ quần áo này khiến nàng dễ che giấu tấm thân gầy guộc. Nàng trông rõ Vĩnh, choáng váng ngã từ trên xe xuống: "Anh...". Nàng không hề cảm thấy sự lố bịch nào, dù bản thân cũng đang đi vào chốn tình ái cùng một người đàn ông khác. Chân nàng khuỵu xuống cỏ đau đớn như quỳ trên tấm trải bằng vỏ ốc. "Cô có chuyện gì thế?". Lơ mơ, nàng nghe Vĩnh hỏi. Rồi Vĩnh quay sang với cô gái: "Không có gì đâu em". Nàng cũng lặp lại vô hồn: "Không, không có gì". Rồi nhào lên chiếc xe có người đàn ông nãy giờ vẫn chưa hết ngạc nhiên: "Đi, đi mau lên anh, đưa em ra khỏi chỗ này". Cổ Ngư đặc quánh ái tình lùi xa, đến một con phố đẹp cũng có một công viên nhỏ kề bên, anh ta rẽ vào. Tâm trí nàng bấn loạn như muốn lên cơn thần kinh. Anh ta dựng xe, ôm vai nàng dỗ dành: "Có chuyện gì với em thế?". Nàng không nói gì. Anh ta hỏi đến câu thứ ba thì nàng bảo: "Anh đưa em đi uống cà phê". Quán cà phê tồi tàn anh ta đưa nàng vào hôm ấy không có lấy một người khách. Cô chủ ngái ngủ ngồi vỗ muỗi nhìn nàng rũ rượi ra chiều ái ngại nhưng vẫn nghiêm cẩn pha một ly cà phê đen đặc sánh theo yêu cầu của nàng. Lần đầu tiên nàng nốc hết cốc nước sánh đen nghét đắng đó. Anh ta không can ngăn nàng, chốc chốc lại hỏi: "Có chuyện gì hả em?". Nàng trở về với cái đầu như treo ngược trên giàn lửa, bụng dạ cồn cào như có người xóc sỏi không dứt bên trong và suốt đêm không sao ngủ được. Nàng nhớ mẹ, muốn nhảy tàu về cái làng Cả quê nàng, gục giữa tiếng côn trùng mà khóc. Nàng lại nhớ Vĩnh, muốn chạy băng đến với anh. Vĩnh sẽ ôm nàng vào lòng, sẽ dỗ dành an ủi và nàng lại thấy được yêu thương che chở như ngày nào. Kỳ lạ là nàng đã không phát điên khi ấy. Nàng đã nghĩ những ai đau khổ không thể khổ hơn nàng, và cả những ai bị say cà phê cũng không thể điên loạn cồn cào hơn nàng. Thật kỳ lạ sao nàng đã không phát điên. *** Suốt ngày hôm sau nàng nằm dính bệt trên giường như tàu lá héo. Trọng lượng của nàng lúc này cân nắn nót được ba bảy ký trong khi nàng cao một mét năm tám. Cô bạn gái ở cùng lay cái xác bất động của nàng xổ ra một tràng như sách viết: "Dậy đi, chuẩn bị nó đến rồi đi chơi... Mà Lam ơi, nhìn cái nốt ruồi của thằng này tao đoán nó ki bo lắm. Nhưng mày cứ gật đi, chấm dứt những ngày lang thang mì tôm không người lái trong cái xó nhà ổ chuột này đi. Nó có thể xin cho mày một việc làm khá khẩm hơn cái việc trông quầy hàng sách chán ngấy của chúng mình... Mày dậy đi. Ôm cái mối tình chết héo của mày bốn năm thế là đủ lắm rồi. Mày không còn ra hồn vía con người nữa, lại còn bố mẹ ở quê...".

Nàng thấy mình như gần chết, khẽ cựa mình thì tấm trải vỏ ốc lại vặn lên. Từ khi hai đứa ra trường, cứ vài hôm nó lại đay nghiến nàng. Có cho tao sống đến mười đời tao cũng không chịu nổi kiểu yêu đương hoang tưởng như thế, tự nhảy xuống sông rồi tự dìm mình chết chìm. Rồi nó đứng trước nàng, móc tay vào túi lôi ra một nắm tiền lẻ, đếm cẩn thận được mười bảy nghìn, nhìn nàng đầy ẩn ý. Mùi chua của tiền cũ qua tay hàng tôm hàng cá xộc vào mũi làm nàng lợm giọng. Nàng ngớ ngẩn gật gật liền mấy cái, chẳng biết vì điều gì. Khi anh ta đến thì cả bọn kẹp ba trên một chiếc xe máy, chạy thẳng vào khu Bách Khoa. Mặt đường nhựa còn tỏa ra thứ hơi nóng như rang người. Đi qua một dãy dài ki ốt, mắt nàng mệt mỏi lướt trên các biển hiệu chè Huế - ốc luộc - quẩy nóng - mực nướng - cá chỉ vàng - cơm bia - các món xào - phở bò Nam Định - chuyên bò đặc biệt... Đầu lưỡi nàng tiết ra thứ nước nhạy cảm, dấu hiệu đầu tiên của sự thèm ăn sau hơn một ngày nhịn đói lại say cà phê. Họ vào một quán nhỏ biển hiệu kem Tràng Tiền Thủy Tạ Hoàng Cầu - sữa chua đánh đá - nước hoa quả - chè đỗ đen. Anh ta hỏi các em ăn gì, gọi đi, tự nhiên. Bạn nàng gọi kem, quay ra bảo nàng phải ăn cái bánh ngọt lót dạ đi đã, nàng lắc đầu. Thật ra nàng chẳng thiết gì cả. Cuộc ăn uống này là của nó, để thỏa mãn cái trò tướng số ăn theo nói leo dớ dẩn mà nó mới đọc được ở sách báo nào đó. Nó ăn xong cái kem thì thêm hộp sữa chua nữa, nàng cũng ăn như thế, bụng sôi èo èo, chắc là vì lạnh, không khéo nàng đau bụng. Anh ta trách nhẹ nàng làm khách, bảo anh còn ăn mười cốc nữa, kem cốc là món khoái khẩu nhất của anh, các em cứ thoải mái nhé. Nàng quay nhìn ra đường, chóng mặt, người và xe đuổi nhau quay như điên, trong khi lượng vỏ cốc trên bàn cứ thế đầy thêm, cuối cùng lên tới con số mười tám, bốn của nàng và bạn, mười bốn của anh ta. Cô bạn hết đụng chân lại nháy mắt với nàng. Nàng hiểu ý nó, anh ta có vẻ không ki bo mà ngược lại, hết sức vô tư hồn nhiên, được đấy. Nàng phì mũi, thật thô lậu, nó phản cảm đến mức, ngoài sự vô cảm, trong nàng hoàn toàn trống rỗng. Họ về đến phòng trọ, cô bạn ý tứ kiếm cớ tắm gội, mất hút phía sau nhà. Nàng thấy kiệt sức, ngồi dựa lưng vào tường, tóc rũ như cô hồn. Anh ta hỏi câu gì nàng cũng chỉ không gật thì lắc. Nàng tưởng tượng đến người đàn bà nghịch cát trong một bộ phim cùng tên mà nàng mới chỉ được xem qua ảnh đăng trên báo. Có rất nhiều người đã bảo lúc buồn ngồi xõa tóc trông nàng giống nhân vật này. Hình như ai gặp nàng cũng có một câu gì đó về số phận. Nàng chìm nghỉm đi trong một cơn choáng váng lạ lùng. Trời bỗng giông gió rồi mưa đổ ào ào, anh ta bảo phải về cất quần áo phơi trên gác từ chiều kẻo ướt. Anh ta đi rồi, nàng sốt như hóa dại, nửa đêm cô bạn phải đi gõ cửa một hiệu thuốc bên đường mua Efferagan, về pha đổ vào miệng nàng. *** Trong khuôn viên ký túc xá, các cặp tình nhân thoải mái ôm ngang lưng nhau đi như múa. Có cặp lại kéo ri-đô nằm ôm nhau trên giường tầng. Đã có thời người ta gọi tình yêu của sinh viên là tình yêu ri-đô, tình yêu bếp dầu. Hôm

nay những cặp tình ri-đô của phòng nàng tự phá cách thành tình cà phê hay tình công viên không biết nữa. Vừa xong kỳ thi chuyển giai đoạn, chưa biết kết quả nhưng ai cũng thấy nhẹ nhõm. Nàng nhưng nhức nhớ Vĩnh. Cái nhìn đầu tiên của Vĩnh khi họ vô tình gặp nhau ở hành lang khoa Báo chí, Trường Nhân văn, nơi nàng học, khiến tâm trí nàng bấn loạn. Họ quấn quít nhau, trong mắt những người bạn học họ trở thành những kẻ hư hỏng từ kiếp trước. Vĩnh đẹp trai, dáng điệu phong trần và đầu óc đầy hiểu biết, một chàng trai Hà Nội hơn nàng bốn tuổi đủ để nàng tự tin trước bạn bè và hạnh phúc trong tình yêu. Đọc lại dòng chữ: "Em là hiện thực tôi không thể với tới, tôi đau đớn yêu em", nàng nhớ những lúc bên nhau, cay đắng hiểu Vĩnh muốn nói gì. Người bạn trai học khoa Địa lý cùng Vĩnh đến rủ nàng đi ăn ốc luộc. Nàng thích ăn ốc. Những kẻ cô đơn vẫn thường có cách hợp lý khi tìm đến nhau. Thành gặp nàng ngày đầu tiên nàng lơ ngơ xách đồ đến cổng ký túc xá, giúp nàng khênh giát giường về phòng trọ. Sau đó họ thân với nhau như anh em, cùng là sinh viên nghèo xa nhà. Nàng nghèo đến mức suốt bốn năm học không mua nổi cái quạt điện con con, cứ mùa hè thì nằm nhờ các bạn, còn mùa đông thì dưới trải chăn nhỏ của nàng làm đệm, đắp chung chăn to với bạn ở trên. Quanh năm suốt tháng nàng phải ăn cơm cắm quán, lúc ra trường rồi còn đeo một cục nợ to lù. Một nhóm trong đó có Thành và nàng bị xếp vào hàng dặt dẹo ở ký túc xá. Vĩnh và Thành thân nhau trong chuyến đi thực tập đo lưu lượng nước dọc sông Hồng. Chừng mười giờ khuya, chỉ còn vài đám con gái ngồi hóng gió, cuối sân là dãy hàng ăn đêm sáng đèn. Những con ốc trễ nải qua tay nàng có vị đắng, chẳng hiểu ốc không ngon hay nàng muốn ốm. Thành nhìn nàng ăn, tủm tỉm cười. Nàng nhìn Thành uống rượu như uống nước lã, bảo uống vừa vừa thôi, ngày nào thấy anh cũng say xỉn. Thành bảo rượu ngon lắm, em uống thử. Nàng nhướng mắt một cái, bưng cốc lên. Nàng nghĩ đến Vĩnh cũng thường uống rượu như thế này, có gì ngon nhỉ? Vĩnh và Thành chạm cốc rồi nâng chén ngang mày, rất ra dáng quân tử, mà trên bàn nhậu chỉ có mấy hạt lạc. Nàng ngửa cổ nhắm mắt uống cạn một cốc lớn, cay rát không những cổ mà cả mắt mũi tai, phải khêu thật nhanh thật nhiều ốc nhét vào miệng để khỏi phải khạc nhổ. Cái đèn dầu chao chao, các thứ nước chấm gừng vàng ớt đỏ rượu trắng rượu tím trên bàn đung đưa một hóa hai hai hóa bốn. Khuôn mặt Thành trắng sáng, đẹp hơn rất nhiều so với nước da đen nhuộm nắng An Giang của anh ta. Những khi có chút tiền học bổng, anh ta mời nàng đi ăn bát bún để đêm khỏi sôi bụng mà ngủ ngon hơn, nàng không thấy anh ta trắng sáng như thế này, dù bao giờ anh ta cũng uống rượu. Anh ta cầm tay nàng, bảo đứng lên đi, em say rồi. Nàng cười mệt mỏi mà khuôn mặt, vì rượu, lại rạng lên như đóa hoa, bước bên Thành nhẹ như bấc. Cổng sắt chắn lối vào khu nhà nàng ở đóng im ỉm. Nàng mơ hồ nghĩ sẽ trèo qua như có lần đi chơi cùng Vĩnh về muộn đã trèo. Nhưng chân nàng chừng nhũn, đứng không vững, tay nàng chừng lỏng, treo trên vai như một mớ vải rách ướt nước. Thành xốc vào nách nàng, dìu nàng đi. Ra khỏi khuôn viên ký túc, nàng vịn vào Thành nôn thốc ra tất cả những gì đã nhét vào bụng từ chiều. Em say rồi, nàng cười, em say rồi, không đi được

nữa đâu. Anh có thương em không? Nàng không biết đã hỏi Vĩnh hay hỏi Thành vào lúc ấy, vì trong mắt nàng lúc này một hóa hai hai hóa bốn hết cả. Rồi người nàng dính chặt vào người Thành để Thành mang nàng đi, đến khi cả hai đứa mệt lả dựa lưng vào bức tường thư viện ký túc xá ẩm mốc, muỗi nhiều như vơ được, nàng làu bàu vài tiếng rồi thiếp lịm. Thành ngồi bên cạnh nàng, đầu óc lơ mơ chẳng say chẳng tỉnh. Thành thấy vẻ đẹp của nàng trở nên mê hồn như chưa từng có, cũng lại chua xót nhận ra nét tàn tạ bắt đầu nhuốm lên nàng một màu ủ dột, lần đầu tiên nghĩ đến Vĩnh thấy căm giận. Đã từ lâu Thành cũng đem lòng yêu nàng. Nàng đã ngủ, nhưng cả khi tỉnh thức nàng cũng không hề hay biết điều này. Tang tảng sáng hôm sau, tiếng chổi tre quét phía cuối vườn trường đánh thức nàng và Thành dậy, ngơ ngác nhìn sững nhau một giây. Nàng chẳng nói gì, chỉ giấu mặt chạy về phòng mình, thấy cửa vẫn khép hờ đợi nàng từ đêm qua. Nhón chân lách vào như một con mèo ăn vụng, nàng không để phát ra một tiếng động nào, lặng lẽ mắc màn, lên giường nằm vờ ngủ. Tất cả các bạn của nàng, không ai biết nàng đã trải qua một đêm như thế. Ai cũng say ngủ vì hôm nay chủ nhật, tất cả được nghỉ học. Nàng nằm co như con mèo hen mùa đông, trong đầu lóc xóc vài cái vỏ ốc đá đã bạc đi vì bị tróc hết lớp vỏ rêu, lộ ra màu xương vôi trắng. *** Tôi cũng nằm co ro như con mèo hen mùa đông, như dáng nằm cô đơn của nàng, trong đầu không có vỏ ốc mà là những viên sỏi, dài và nhọn. Tôi cũng như nàng, chúng tôi không dám trở mình vì đang giả vờ say ngủ, và cả vì mỗi lần trở mình thì toàn thân lại đau đớn như đang nằm trên tấm trải đan bằng vỏ ốc. Tôi cũng như nàng, chúng tôi đang cố hiểu vì sao đã trải qua một đêm như thế, cái đêm định mệnh của tôi và nàng, mà không thể. Hai tháng sau, nàng hoảng loạn thì thầm với tôi rằng, hình như nàng có cái gì đó trong bụng, nàng muốn nôn ra, như nôn món ốc luộc, như nôn rượu, ớt và cả gừng cay, muối đắng, nhưng mà hình như không phải là ốc luộc, không phải muối ớt và gừng, mà là một cái thai, một đứa trẻ, đang kêu gào trong bụng nàng. Món ốc luộc cũng bốc lên cái mùi men thối rữa của nó trong bụng tôi. Toàn thân tôi tơi tả, lúc này tôi không thể giúp gì cho nàng. Thành bỏ học về An Giang, đem theo nước da cháy nắng mà trong một đêm nào đó nàng bất chợt thấy nó sáng trắng lên trong men rượu, một lần cháy trong nàng một lần hủy hoại. Trước khi bỏ đi Thành chỉ gặp nàng có một lần, nói với nàng rằng lạy trời em hãy giữ đứa con cho anh, anh sẽ đưa em về quê nói với ba mẹ. Nàng sợ chết khiếp. Vĩnh bắt Thành và nàng quỳ xuống nhận tội. Thành quỳ, cắm mặt xuống đất. Nàng thì nhìn cả hai thằng đàn ông đau khổ mỗi thằng một kiểu đầy thách thức, các người đã làm khổ tôi, giờ thì các người mặc tôi, các người cút đi! Chẳng ai trong các người xứng đáng với tôi cả.

Chỉ một mình Thành bỏ đi, còn Vĩnh đưa nàng đến bệnh viện, lại nói sẽ tha thứ cho nàng. Nhưng món ốc luộc có mùi định mệnh thì không cách gì bay ra khỏi cuộc đời nàng, trở thành nỗi chết trên gương mặt xám xịt của Vĩnh và gương mặt nàng mỗi ngày một xanh xao héo úa. Trong những quầng mây đỏ buổi chiều bao giờ cũng ẩn chứa mầm giông bão, mà tôi không thể hiểu được vì sao họ vẫn yêu nhau. *** Nàng không tổ chức kỷ niệm ngày sinh như các bạn trong phòng. Vĩnh đem đến một bông hồng tặng nàng. Hai người lên sân thượng ngắm trăng thượng tuần, ăn hai quả táo và uống chung một lon Coca cola. Vĩnh ôm nàng, chúc cho nàng những điều tốt đẹp nhất. Chợt Vĩnh rút tờ giấy trong cặp bật lửa đốt, cặp mắt rượi buồn ngước lên trời thành kính: "Nếu tôi làm điều gì khổ cho em thì tôi không đáng sống dưới gầm trời này!". Nàng run lên vì cảm động, thương Vĩnh, xót xa mình, lần đầu tiên trong đời tin một cách mù quáng vào hai chữ số phận đã khiến hai người không thể xa nhau. Chúa ơi, tất cả đã qua rồi! Những ngày đã qua trôi trong mắt nàng như ảo ảnh. Sẽ không bao giờ anh rít lên với em: "Tại sao cô phản bội tôi? Tại sao cô có thể ngủ với cái đồ giẻ rách đen đúa và bẩn thỉu như thằng móc cống? Chắc không chỉ một lần. Cô nói đi, nói đi, vì sao cô phản bội tôi!". Cái dùi sắt nằm dưới đáy hòm của nàng đã gỉ sét. Vĩnh đã bắt nàng giữ nó kể từ cái ngày tai họa, để nếu Thành một ngày quay lại, chiếc dùi đó sẽ dành một "bản án cho thằng móc cống". Nàng chẳng nhớ đã bao nhiêu lần Vĩnh xộc đến chỗ nàng: "Cái dùi ấy cô còn giữ không?". Nàng giật thót, rồi nhẫn nhục gật. "Đưa đây cho tôi, cái thằng anh khốn kiếp của cô lại ra đấy". Mắt nàng đẫm lệ, nàng lặng lẽ lấy chiếc dùi ra cho Vĩnh, miệng mếu máo: "Em xin anh đừng làm điều gì tội lỗi". Vĩnh cầm chiếc dùi lao ra khỏi nhà nàng khiến nàng thất kinh. Rồi Vĩnh mất tích luôn mấy ngày. Rồi lại trở về đầy yêu thương. Nàng không hiểu cái thằng An Giang oan nghiệt ấy có trở lại thật không, vì không ai ngoài Vĩnh có thể nói cho nàng biết điều gì về nó. Vĩnh chỉ răn đe nàng: "Cô hãy nhớ nó sẽ là bản án cuối cùng nếu cô còn phản bội tôi lần nữa!". Rồi Vĩnh ôm lấy nàng, đổ gục bất lực lên nỗi chết trên thân thể nàng. Rồi Vĩnh và nàng lại yêu nhau như điên dại trong những khát khao không bao giờ với tới được, những nụ hôn họ trao nhau có mùi cay gừng ớt và mùi ốc luộc lên men chuyển thành mùi tử khí. Nàng nghĩ, không cần nói gì với anh cả, đêm nay mình sẽ vứt nó đi, chắc lúc này anh đã quên nó rồi. Nhưng nàng đã quên việc ấy. Người ta thường mù quáng khi ảo tưởng về hạnh phúc, còn nàng, nàng nhầm lẫn, về bản chất cả hai là một, tôi có thể trách gì được nàng. ***

Họ không nói lời chia tay, nhưng cũng không có cuộc hẹn hò nào nữa. Tất cả lặng lẽ kết thúc sau một lần nàng đến, Vĩnh mở cửa: "Em đấy à? Có việc gì không?". "Không! Em đến thăm hai bác". "Vậy mẹ anh ở nhà ngoài. Chào em nhé!". Cánh cửa sắt từ từ đóng lại. Nàng lao bừa vào một con ngõ mà chưa hề biết nó sẽ dẫn nàng tới đâu, hay chỉ là ngõ cụt lại hất ngược nàng trở về với niềm tê tái bị xua đuổi. Trước mặt nàng chỉ có nắng, nắng nhảy nhót qua làn nước mắt cay đắng. Nắng xiên những tia ma quái vào mặt, vào tay vào lưng nàng cháy rát. Đã quá quen với những ứng xử thất thường của Vĩnh, nhưng đây là lần đầu tiên, nàng thấy mình lố bịch. Nếu nàng có một chút tỉnh táo, thì đã không xảy ra chuyện ở Cổ Ngư. Sống trong đời, chỉ những người yêu thương, thân thiết, ngày ngày sống quanh ta, mới làm khổ ta, còn người dưng nước lã, có liên quan gì mà hành hạ ta được. Nàng và Vĩnh, đã yêu mà không yêu được nhau, đã phản bội mà không phải phản bội, đã tha thứ nhưng rồi không quên được. Cả hai cùng nhỏ bé và bất lực giữa thế gian này. Rốt cục, họ chẳng phải hai kẻ trời đày xuống chốn nhân gian để làm hại nhau. Tôi nhủ nàng, chẳng có lúc nào tệ hơn lúc này, quên Vĩnh đi. Không một ai biết giữa họ đã xảy ra điều gì. Tôi biết nhưng vì nàng, lạy trời, tôi im lặng. Nàng đã yêu đến thế, đã sống đến thế, đến và đi với nàng không bao giờ là cơn bão cuối cùng. Ai cũng tiếc cho Vĩnh và nàng, lại bảo Vĩnh đã tốt với nàng quá, có khi lòng tốt ấy còn hơn cả tình yêu. Mẹ của Vĩnh có lần cũng bảo Vĩnh rất thương nàng. Tôi không thể nói với nàng rằng tình thương của Vĩnh đã trùm lên nàng một tấm lưới. Trong tấm lưới của Vĩnh, nàng giữ trong mình nết ngây thơ chết người! Nếu tôi có thể hóa kiếp thành con cá nhỏ, nàng sẽ an toàn trước những miệng cá lớn nanh ác. Tôi cũng cầu an cho nàng. Sự lãng mạn không thể học được, cũng không bắt chước được. Tình yêu cũng thế. Hai tuần sau đêm Cổ Ngư định mệnh, cả hai bỗng lặng lẽ, bình thản và già nua. Với nhau, họ đã thành người lạ. Vĩnh bảo nàng đưa lại chiếc dùi sắt. Nàng thản nhiên trao. Chiếc dùi không lao vào Thành, Vĩnh cũng không ném lại phía nàng bài ca thê thiết ngày nào nữa. Vĩnh nói: "Thực ra, anh đã tha thứ cho em ngay từ ngày đó, nhưng chúng ta đã không đủ khôn lớn để hiểu mình và hiểu nhau. Coi như số phận". Con sẻ nâu trước khi chết còn kêu lên những tiếng thảng thốt. Nàng chẳng muốn nói gì mà cũng muốn vĩnh biệt thế gian này. Đêm nào cũng rơi vào hoảng loạn mê sảng. Tôi thấy mình trôi trong nước, tôi thấy mình bay, đôi lúc thấy mình trong vòng tay một người hoàn toàn xa lạ, chỉ có tay chân chứ chẳng thấy mặt mũi thế nào, người ấy cho tôi bao nhiêu tiền bạc, tôi cầm lên thì tất cả hóa vụn tro vàng mã, năm ngón tay vấy tàn đen phồng rộp lên vì bị bỏng. Đêm nào tôi cũng mê, đám ma và đám cưới, khóc khóc cười cười, vũ trường, quán bar, đường phố những vũng lầy, thảm cỏ và những cặp tình nhân, thung lũng và bước chân hẫng xuống vực... Tất cả các nhân vật chính đều là tôi.

Tôi và nàng luôn luôn ở hai cực của một thế giới khác biệt. Tôi chẳng biết phải làm sao để nàng bớt cô đơn trong thế giới của nàng. Có một họa sĩ mà tôi nghĩ sẽ hiểu nàng trong đau khổ tỏa ra ánh hào quang của người đàn bà nghịch cát. Nhưng rồi không phải. Lại có người đàn ông quê mùa nhưng đứng đắn và tốt bụng, yêu nàng như yêu một nữ thần, còn nàng có thể dựa vào anh ta như dựa vào một cái bóng lớn. Nhưng mọi cố gắng của tôi nếu không khiến nàng nhìn cuộc đời u ám hơn thì cũng như hóa dại. Sẽ không bao giờ là tình yêu với người đàn ông nào mà nàng phải gặp đến lần thứ ba mới hiểu, như anh chàng có nốt ruồi trên má với niềm đam mê ăn kem mãnh liệt ngày nào. Nàng chỉ tin vào những ánh chớp. Hơn một năm sau, nàng ký tên vào đơn xin kết hôn với một người đàn ông khác. Tôi nhìn những giọt lấp lánh đã quá lâu rồi mới trở lại trong ánh chớp đôi mắt đẹp của nàng mà biết rằng mắt bão. Nhưng tôi cũng biết nàng dũng cảm, cứ để cho cơn bão cuốn nàng đi.

Ánh lửa ma ! Ma quỉ đã có từ đời thượng cổ, và ở bất cứ nơi nào trên thế giới, những câu chuyện ma thường được kể vào những buổi tối mà thính giả luôn luôn là một lũ trẻ con ngồi trên giường với những đôi chân nhỏ bé rút lên vì sợ. Mà sợ cái gì? Sợ giữa lúc đang say sưa nghe chuyện, lỡ một bàn tay lạnh buốt nào đó từ trong gầm giường thò ra nắm chân lôi xuống thì lôi thôi... Ở Âu châu, đã có một thời, người xứ Wales tin tưởng mãnh liệt vào "ánh lửa ma" và đã có rất nhiều câu chuyện về loại lửa này được kể đi kể lại.

Ánh lửa ma có hình dạng một ngọn lửa nhỏ xuất hiện trên đường đi của đám tang. Những người có đủ can đảm tới gần ánh lửa ma sẽ có thể thấy mặt người sắp chết. Lửa xanh báo hiệu cái chết của trẻ con và lửa vàng dành cho người lớn.

oOo

Một ngày vào đầu thế kỷ trước, trong một ngôi làng nhỏ ở miền Bắc xứ Wales, có hai cậu bé bà con gần tên là Tom Llewellyn và Evan Pugh ở hai trang trại cận kề và là đôi bạn thiết.

Khi Tom 18 và Evan 16, hai người phải chia tay khi gia đình Evan dọn tới một ngôi làng khác cách ngôi làng cũ khoảng 10 cây số. Đã từ bao năm qua, đôi trẻ vẫn luôn chơi đùa bên nhau, nên bây giờ khi phải chia tay, cả hai cảm thấy như bị mất mát một cái gì rất quan trọng, họ cảm thấy rất nhớ nhau dù cả hai bà mẹ đều hết lời khuyên giải.

Một thời gian sau, hai cậu đã tìm ra một giải pháp: Cứ mỗi cuối tuần, hai cậu lại thay phiên tới thăm nhau.

Một ngày cuối tuần vào cuối mùa thu, đến lượt Evan tới thăm Tom. Sau một ngày chơi đùa thỏa thích trong hai ngày trời mát dịu, giữa vẻ đẹp hiền hòa của miền quê, trong cái nắng trong vắt như pha lê, cuối cùng đôi bạn cũng phải chia taỵ Theo tục lệ xứ Wales, chủ nhà thường tiễn khách một đoạn đường và Tom lấy một cái khăn quàng thật dầy quấn quanh cổ, đưa tiễn Evan trên con đường làng, vừa đi cả hai vừa thảo luận cho chương trình tuần sau, khi đến lượt Tom tới thăm Evan.

Đi được một đoạn thì trời nhá nhem. Evan nói với bạn:

- Cậu đã tiễn tôi hơn ba cây số rồi. Thôi cậu về đi.

Tom đáp:

- Ờ, tới chỗ nhà thờ thì tụi mình chia tay.

Trên đường tới nhà thờ, cả hai đi ngang một nghĩa trang lạnh lẽo, bao quanh bằng những hàng cây gầy guộc. Đột nhiên không hiểu tại sao, Evan bỗng rùng mình run lẩy bẩy. Thấy thế Tom bảo bạn:

- Nếu lạnh, cậu lấy cái khăn choàng này của tôi đi. Evan lắc đầu:

- Không, tôi không lạnh, nhưng hôm nay tự nhiên sao tôi cảm thấy sợ hãi lạ lùng. Có thể vì nghĩa trang này! Nhưng tụi mình đã đi ngang đây nhiều lần mà chưa bao giờ tôi có cảm giác hãi hùng này.

Tom liếc nhìn bạn với vẻ tinh nghịch:

- Ờ, có lẽ vì mấy cành cây khẳng khiu này trông giống những cánh tay ma đang vươn ra tính chụp lấy cậu đó.

Nói rồi, Tom quơ quơ hai tay trên đầu bạn, miệng giả bộ rên la như tiếng ma kêu qui? khóc. Evan bật cười đưa tay chụp lấy tay Tom, nhưng Tom đã lanh lẹ rụt lại rồi phóng mình chạy về phía hàng cây bao quanh nghĩa địa. Trong bóng tối mịt mù, bóng Tom khi ẩn khi hiện, Evan chi? nhắm hướng và nghe tiếng chân bạn mà chạy theo. Khi vừa chạy tới thảm cỏ mịn màng bên ngoài hàng cây, chợt Evan bị một bàn tay lạnh buốt chụp lấy và nghe thấy một giọng nói thì thầm bên tai:

- Evan! Đứng thật yên. Coi kìa!

Phía bên kia nghĩa trang lạnh lẽo chập chờn một ánh lửa mạ Khi hai cậu bé chăm chú nhìn, ánh lửa như bùng lên. Evan nuốt nước miếng một cách khó khăn, thì thầm hỏi bạn:

- Cái gì đó Tom?

Giọng nói của Tom đầy khích động:

- Ánh lửa ma! Nó chỉ xuất hiện để báo tin cho người sắp chết.

Tóc gáy Evan đột nhiên dựng đứng. Cậu ráng thều thào hỏi bạn:

- Ai đang cầm ngọn lửa đó.

- Không ai hết. Nhưng ngọn lửa có hình khuôn mặt người sắp chết.

Ánh lửa chập chờn vẫn chậm chạp di chuyển giữa những ngôi mộ im lìm. Evan lập cập nói với Tom:

- Đi đi, lẹ đi Tom! Nó đang tiến về phía tụi mình.

Tom nắm chặt tay bạn:

- Không, cứ ở đây đi. Nó không làm gì được tụi mình vì nó chỉ di chuyển trên đường đi của người chết.

Yên lặng một chút, Tom nói tiếp:

- Tôi muốn biết người sắp chết là ai. Cậu có muốn đi với tôi không? Evan cảm thấy hết sức hãi hùng, toàn thân run lẩy bẩy. Cậu chỉ muốn chạy về nhà thật lẹ tìm một nơi ấm cúng giữa những người thân nên cậu ú ớ: - Không... không... Tôi không đi đâu.

Tom hoàn toàn không có vẻ gì là sợ sệt:

- Cậu đừng sợ. Coi kìa, nó đâu có tiến tới phía tụi mình. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nó dù vẫn nghe lão già Price thường xuyên nhắc nhở. Đi! Nếu mình tới trước cửa nhà thờ trước khi ánh lửa tiến vào bên trong, mình có thể thấy được khuôn mặt của người sắp chết. Cậu có đi với tôi không?

Evan không nói nổi nữa mà chỉ rên rỉ:

- Không... không... Tôi không muốn biết ai sắp chết... Tôi không muốn thấy ngọn lửa mạ.. Tôi không muốn thấy gì hết...

Tom nhún vai:

- Được rồi! Nếu cậu cứ run rẩy như con gái thế này thì tôi đi một mình. Evan nắm tay bạn:

- Tom, đừng đi. Tôi sợ quá! Tụi mình rời khỏi nơi này ngay đi.

Tom có vẻ náo nức:

- Đừng sợ! Tôi không thể bỏ qua dịp may hiếm có này. Tôi không tin lão Price và lần này tôi sẽ có thể chứng minh được là lão ta nói láo. Tôi hỏi cậu lần chót, cậu có đi với tôi không?

Evan vẫn run lẩy bẩy:

- Không! Đó chỉ là loài ma quái mà tụi mình nên tránh xạ Không, tôi không đi và cậu cũng đừng đi.

Tom cả quyết:

- Nếu không muốn đi, cậu lên chờ tôi trên đường. Coi xong mặt xác chết tôi chạy lên với cậu ngay.

Dứt lời, Tom chạy thẳng về phía nhà thờ đứng chờ ngọn lửa ma trong khi Evan lập cập chạy ngược lại, nhẩy qua mấy bụi cây ven dường rồi ngồi run rẩy trên thảm cỏ chờ bạn mà tim đập liên hồi.

Trong nghĩa trang, Tom vừa chạy vừa theo dõi ánh lửa ma vẫn đang từ từ di chuyển giữa những tấm mộ bia lạnh lẽo. Cậu không hề sợ hãi mà chỉ cảm thấy tò mò. Khi tới gần cửa nhà thờ, cậu ngạc nhiên khi thấy hai cánh cửa mở rộng. Tom tự hỏi không biết có nên bước vào hay không, nhưng rồi cậu quyết định đứng núp sau một thân cây nhỏ bên ngoài chờ đợi, vì tuy không nhát gan, cậu cũng hơi mê tín. Biết rằng Thánh David chỉ dùng ngọn lửa để báo hiệu một cách thân thiện, giúp những ai sắp về với Chúa biết trước để dọn mình chứ Thánh David không bao giờ làm hại ai, và cũng nghĩ rằng một ánh lửa cỏn con không thể làm hại được mình, nhưng những câu chuyện truyền kỳ về ngọn lửa ma luôn luôn là những câu chuyện kinh hoàng khiến Tom cảm thấy ở bên ngoài dầu sao cũng vẫn an toàn hơn. Nếu bước vào trong, lỡ hai cánh cửa đột nhiên đóng sập lại rồi đèn nến bên trong đột nhiên tắt ngóm và ánh lửa chợt biến thành một cái gì khủng khiếp thì quả là hết thuốc chữa.

Đang suy nghĩ miên man, Tom thấy ánh lửa ma đã tới thật gần. Nó lập lòe vượt qua tấm mộ bia cuối cùng và chậm chạp tiến về phía cửa giáo đường. Tom nín thở đợi chờ và đột nhiên cậu cảm thấy toàn thân lạnh ngắt...

Ánh lửa vẫn chập chờn tiến tới... Tom nhìn trừng trừng như bị thôi miên. Khi ánh lửa tới gần hơn nữa, Tom nhận thấy thoạt tiên nó chỉ là một đốm xanh lập lòe, rồi đột nhiên biến thành khuôn mặt trắng bệch của một xác chết, khuôn mặt mà Tom biết nhưng không thể gọi tên.

Tới sát bên Tom, khuôn mặt của xác chết chợt mở bừng đôi mắt đỏ ngầu, nhìn cậu bằng một ánh mắt ma quái, hai khóe miệng đầy nhớt rãi nhếch lên thành một nụ cười khủng khiếp...

Tom la lên một tiếng hãi hùng làm vang động cả nghĩa địa im lìm như muốn đánh thức tất cả những hồn ma đang nằm yên dưới đáy mộ. Rồi cậu phóng chạy giữa những mộ bia như bị ma đuổi, té lên té xuống nhiều lần để cố tránh thật xa khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quái.

Khi nghe tiếng bạn la, Evan đã đứng bật dậy lo lắng đợi chờ. Khi Tom xốc xếch chạy tới như kẻ mất hồn, Evan vội vàng hỏi bạn:

- Cái gì thế? Cậu thấy cái gì thế? Có điều gì ghê gớm đã xẩy ra phải không? Mặt tái ngắt không còn hột máu, Tom thở hổn hển:

- Không... Không có gì hết... Có điều... lão già Price chỉ là một thằng điên! Evan nắm tay bạn, mặt đầy vẻ lo âu:

- Không có gì hết? Thật không? Tại sao cậu lại la hét thất thanh như vậy?

- La hét? Tôi có la hồi nào đâu! Mà có hay không... tôi cũng... không biết nữa! Evan vẫn thắc mắc:

- Cậu nhìn thấy cái gì? Cậu thấy khuôn mặt người chết qua ánh lửa ma phải không?

Tom run lẩy bẩy:

- Không... tôi không thấy gì hết... Thôi, cậu về đi, về ngay đi kẻo trễ quá rồi.

Evan hỏi tiếp:

- Cậu thấy khuôn mặt của ai? Có quen biết với tụi mình không? Tom vẫn run lẩy bẩy, cố gắng trả lời bạn một cách khó khăn:

- Không... không có gì hết... không có ai hết... trễ quá rồi... cậu về đi.

Evan nhìn bạn lo lắng:

- Ừ, trễ thật rồi, nhưng cậu có sao không? Tôi lo quá!

Tom cố trấn an bạn:

- Không, tôi không sao đâu. Thôi cậu về đi, tuần tới tụi mình gặp lại.

Evan nói một cách miễn cưỡng:

- Thôi được! Tôi về. Tuần tới tụi mình gặp lại.

Rồi Tom và Evan chia taỵ Trong khi Evan rảo bước về ngôi làng của cậu thì Tom vẫn chưa hết vẻ kinh hoàng, vừa đi vừa run lẩy bẩy.

Khi cậu về tới nhà, mẹ cậu nhìn con hỏi bằng một giọng đầy kinh ngạc:

- Tom, con có sao không? Sao mặt con xanh mướt như vậy?

Tom như chợt tỉnh, nói với mẹ:

- Dạ không, con không sao hết. Có lẽ tại trời hơi lạnh và con hơi mệt.

Đêm hôm đó, Tom thao thức mãi. Khuôn mặt ma quái mà cậu nhìn thấy buổi chiều lúc nào cũng như đang trừng trừng nhìn cậu trong đêm tối. Cậu cố xua đuổi khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quái, nhưng khi chỉ vừa chợp mắt, cậu thấy mình đang đi trong nghĩa địa và khuôn mặt trắng bệch của xác chết lại xuất hiện qua ánh lửa, nhìn cậu nhếch mép cười khiến cậu la lên một tiếng hãi hùng, mở bừng mắt, mồ hôi toát ra như tắm.

Mấy ngày sau đó, mọi việc diễn ra một cách bình thường. Tom đã có vẻ phục hồi sau cơn xúc động, tuy những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa trang hoang vắng không thể nào rời khỏi đầu óc cậu. Nhiều khi trong lúc đang làm việc, Tom ngưng lại, nhìn trừng trừng về phía trước thật lâu cho tới khi cha cậu thúc cậu, cậu mới như chợt tỉnh tiếp tục làm việc.

Tới sáng thứ sáu Tom cảm thấy vô cùng mệt mỏi, chân tay cậu như rã rời. Thường thường mỗi chiều thứ sáu sau khi làm việc, Tom và Evan lại gặp nhau. Tuần này, đáng lẽ Tom chạy sang nhà Evan, nhưng tới buổi chiều, cậu bị ngất xỉu cả thẩy ba lần. Lần cuối, sau khi té xỉu trong phòng khách, Tom không còn đứng dậy được nữa. Mẹ cậu rờ trán cậu:

- Con nóng quá! Cái thời tiết quái gởn ày làm cho con tôi bị cảm lạnh rồi. Thôi, con về phòng nằm nghỉ đi.

Tom gắng gượng phản đối:

- Tuần này con phải đi thăm Evan.

Mẹ cậu lắc đầu:

- Con yếu quá đi làm sao được. Thôi, con cứ nghỉ ngơi cho khỏe đi cái đã. Tuần này con không đi thăm nó được rồi.

Tom im lặng vì biết mình không đi nổi. Cha cậu phải bồng cậu vào giường. Nằm trên giường, đôi mắt Tom mở trừng trừng như muốn nhìn xuyên qua cái trần nhà trắng xóa. Nhiều lần cậu muốn nói với mẹ về những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa địa vào tuần trước nhưng lại thôi. Mẹ cậu đem vào cho cậu một tô cháo nóng hổi nhưng cậu không thể nào nuốt nổi. Cuối cùng, cậu thều thào nói với mẹ:

- Mẹ Ơi! Con muốn gặp Evan. Mẹ làm ơn gọi nó đến đây cho con.

Mẹ cậu lắc đầu:

- Không được đâu con. Con không được khỏe, gọi nó tới làm gì. Thôi, con chịu khó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vài ngày cho khỏe đi đã, rồi cuối tuần tới Evan sẽ tới gặp con chứ có lâu la gì.

Tom cố năn nỉ mẹ bằng một giọng nói đứt quãng:

- Mẹ làm ơn... gọi nó tới... tới đây cho con... Con phải gặp nó... ngay tối naỵ.. Con không thể... chờ... lâu... hơn... nữa...

Mẹ Tom cương quyết:

- Con mệt quá rồi. Con cần phải nghỉ ngơi. Con đang bệnh, nếu Evan tới đây nó cũng chẳng làm gì được cho con. Thôi con cứ nghỉ cho khỏe đi đã, sáng mai mẹ sẽ nhờ người nhắn lại với nó, chắc chắn nó sẽ thông cảm. Mẹ nghĩ rằng ngày mai nó sẽ có thể tới thăm con.

Nước mắt dâng ngập đôi mi, Tom muốn gặp Evan ngay nhưng cậu không thể cãi mẹ, vì dù có muốn cãi, cậu cũng không thể nói nên lời. Cuối cùng, cậu gắng gượng thều thào:

- Mẹ... mẹ.. làm ơn...

Rồi Tom lại ngất xỉu. Mẹ cậu vội gọi chồng lấy nước lạnh lau mặt cho cậu. Đứng nhìn khuôn mặt trắng bệch và đôi mắt sâu hoắm của con, bà Llewellyn cảm thấy thương xót vô cùng. Bà nghĩ thầm, biết đâu khi gặp Evan con bà lại chả khá hơn. Bà bèn nói với Tom:

- Thôi được. Để mẹ nhờ ba sang đón Evan. Bây giờ, con phải ráng ngủ một chút nghe không.

Cha của Tom vội lấy xe ngựa sang đón Evan. Đang nóng ruột không biết tại sao trời đã tối mà Tom chưa tới, vừa thấy chiếc xe ngựa thoáng hiện bên ngoài trang trại, Evan vội vã phóng ra. Khi được cha của Tom cho hay tự sự, Evan bèn xin phép cha mẹ, lấy vài món đồ cần thiết bỏ vào cái túi nhỏ, nhảy lên xe ngựa.

Từ giã cha mẹ Evan, cha Tom đánh xe chạy về nhà thật lẹ. Chỉ độ trên dưới nửa tiếng đồng hồ, xe ngựa đã về tới nơi. Evan nhảy xuống, chạy thẳng vào phòng ngủ của bạn. Vào tới nơi, Evan vô cùng kinh ngạc vì người nằm trên giường trông không giống người bạn thân của cậu chút nào. Thân thể Tom co rúm lại như chỉ còn một nửa. Con người đầy sinh lực của Tom dược thay thế bằng một thể xác ốm yếu tong teo. Khuôn mặt tươi vui hồng hào của Tom bị thay thế bởi một khuôn mặt hốc hác, tái mét của một người lạ mặt. Evan bước tới bên giường cầm tay bạn. Cậu cố nén lòng nhưng nước mắt vẫn trào ra. Đôi mắt Tom nhắm nghiền dù mí mắt có hơi lay động. Evan bóp chặt tay bạn và bắt đầu khóc rấm rứt. Đột nhiên Tom mở mắt nhìn Evan chăm chăm. Evan hỏi:

- Tom, cậu có nhận ra tôi không? Evan đây.

Đôi mắt Tom vẫn nhìn Evan trừng trừng. Một lát sau, Evan thấy đôi môi bạn mấp máy nhưng không thành tiếng. Evan quì xuống, ghé tai sát vào miệng bạn. Trong sự yên lặng nặng nề của căn phòng nhỏ, Evan nghe bạn thều thào: - Evan... cậu... ánh lửa... nghĩa trang...

Chỉ nói được mấy tiếng, Tom ngưng lại thở một cách mệt nhọc. Evan siết chặt tay người bệnh như muốn truyền thêm sinh lực. Cậu nói nho nhỏ:

- Tom, nếu cậu mệt thì cứ nghỉ đi. Tôi ở lại đây với cậu trong dịp cuối tuần này mà. Cậu nhắm mắt lại ngủ cho khỏe đi.

Tom vẫn nhìn bạn bằng đôi mắt vô hồn:

- Không... tôi phải nói... Evan... hãy hứa... giữ... bí mật... đừng nói... với... ai...

Nói tới đây, đôi mắt Tom như lạc thần khiến Evan hoảng hốt lắc mạnh tay bạn:

- Tom, Tom, cậu có sao không?

Tom lắc đầu thật nhẹ, cố thều thào:

- Evan... cậu hỏi tôi... thấy gì... tôi thấy... mặt... người chết...

Nói tới đây, đầu Tom hơi nghiêng sang một bên khiến Evan vội buông tay bạn, rồi dùng cả hai tay đặt đầu Tom lại trên gối cho ngay ngắn. Tom tiếp tục thều thào:

- Lúc đó... tôi không... nhận rạ.. nhưng đó là... khuôn mặt... của... tôi... Dứt lời, đầu Tom ngoẻo sang một bên. Giọng nói Tom tắt lịm. Hơi thở yếu ớt của Tom cũng tắt theo.

Evan bàng hoàng đứng dậy nhìn thẳng vào Tom. Trước mắt cậu là xác chết của một người trông hoàn toàn xa lạ, người đã nhìn thấy khuôn mặt chết chóc của chính mình qua ánh lửa ma.

Khi người ta khóc Hạnh vào nhận trực, niềm vui vẫn còn phảng phất trên gương mặt khả ái. Con gái cô vừa nhận được giấy báo trúng tuyển vào trường chuyên Lê Hồng Phong. Quá khứ như cuốn phim quay chậm, những biến cố cứ diễn ra tuần tự rồi ráp lại với nhau đúng chỗ, đúng thời điểm, hợp lý một cách lạ kỳ như có bàn tay vô hình sắp đặt vậy. Có lẽ đó là số phận. Khi người ta khóc Minh Anh Hạnh vào nhận trực, niềm vui vẫn còn phảng phất trên gương mặt khả ái. Con gái cô vừa nhận được giấy báo trúng tuyển vào trường chuyên Lê Hồng Phong. Quá khứ như cuốn phim quay chậm, những biến cố cứ diễn ra tuần tự rồi ráp lại với nhau đúng chỗ, đúng thời điểm, hợp lý một cách lạ kỳ như có bàn tay vô hình sắp đặt vậy. Có lẽ đó là số phận. Anh trở về sum họp với gia đình đúng vào năm cuối cấp của con gái, không khí gia đình đầm ấm đã giúp cô bé có được kết quả ngày hôm nay. Vừa thay quần áo đồng phục vừa suy nghĩ miên man, tiếng bác sĩ Thái hô lớn: “Bóp bóng, lấy máy thở nhanh lên!”, lập tức đưa cô về với thực tại. Cô nhanh chóng đội nón, đeo khẩu trang, chạy ra bệnh phòng hòa vào bước chân hối hả của các đồng nghiệp. Người thì hút đàm nhớt, bóp bóng, người thì ép tim, người chạy đi đẩy máy thở, cô mở vội hồ sơ xem y lệnh và chuẩn bị bàn thuốc chích đẩy đến giường bệnh nhân. Cô rút máu thử khí máu động mạch, cắm thêm một chai dịch truyền mới, chích thêm hai lọ Atropin. Lát sau, bệnh nhân đã hồng hào trở lại nhưng vẫn hôn mê sâu.

Sau khi bàn giao thuốc men, dụng cụ, hồ sơ cho tua sau, mọi người lục tục ra về. Thư không quên nhắc cô: Theo dõi sát đấy, nặng lắm, ngộ độc thuốc rầy nằm ở bệnh viện Tiền Giang hai ngày mới chuyển lên khoa mình hồi sáng, một thiên tình sử sắp kết thúc rồi. Thư dị ứng nặng với những ca tự tử nên thường châm biếm, cô cho rằng ai muốn chết thì cứ để họ chết, cần gì phải cấp cứu tốn công tốn của rồi vài tháng sau lại gặp họ nữa. Hạnh cố thuyết phục Thư rằng không phải ai tự tử cũng đều muốn chết, họ lỡ rơi vào một cơn “muốn chết” và đã không làm chủ được mình để rồi ân hận nài xin: Bác sĩ cứu em, em chỉ muốn dọa anh ấy thôi! Nhưng Thư quá từng trải và sắc sảo, không bao giờ chấp nhận sự thiếu kiểm soát bản thân. Cô đã từng khổ nhiều, thất vọng nhiều nhưng chưa bao giờ nghĩ đến cái chết mà luôn tìm đường thoát ra, tiến không được thì lùi, lùi không được thì tiến, tiến thoái lưỡng nan thì bay lên tầng trên, bỏ lại sự việc ở tầng dưới cho thời gian giải quyết, xìu xìu ển ển như Hạnh chỉ có khuyến khích người ta tự tử thôi. Thư có tầm nhìn rộng về xã hội, cô tin có thiên đàng, có địa ngục, sống nhiều đọc nhiều giúp cô lý giải mọi việc đến tận ngọn nguồn. Đối với cô không tồn tại hai từ “bế tắc” và “không thể”, chỉ những người muốn ì ra trong tình trạng hạnh phúc đã qua mới thích dùng hai từ này, họ cố xin xỏ, thậm chí dùng cái chết để dọa dẫm thì cũng chỉ được thương hại ban cho của bố thí mà thôi. Lý lẽ của Thư khóa chặt Hạnh lại, cô không thể thốt thêm lời nào nhưng trái tim có lý lẽ riêng của nó, không phải ai cũng tu luyện được như Thư. Đến giờ thăm bệnh, một người đàn ông khoảng 30 tuổi dẫn một bé gái đến bên giường cô gái trẻ đang nằm bất động, trên người chỉ đắp một tấm drap mỏng. Người đàn ông thinh lặng nhìn vào khoảng trống, nét mặt vô cảm, khó có thể đoán được anh đang nghĩ gì. Hạnh hỏi thì anh trả lời một cách máy móc, không có phản ứng gì trước ánh mắt trách móc của những người xung quanh. Bé gái cứ quanh quẩn bên giường mẹ, nó lạ lẫm nhìn ngắm những thứ rối rắm xung quanh, nó nắm tay mẹ lắc lắc gọi: Mẹ ơi, dậy đi, dẫn con đi đạp vịt! Không thấy mẹ nói gì, nó chạy đến ôm chân người đàn ông cầu khẩn: Ba gọi mẹ về đi, sao mẹ ngủ lâu thế? Người đàn ông nhìn con thẫn thờ. Hạnh quay đi nhưng không kịp, một giọt nước mắt đã rơi xuống trang bệnh án làm nhòe đi dòng chữ: Tiên lượng tử vong. Hạnh khóc vì chính mình, hình ảnh của cô ba năm về trước như sống lại nơi cô gái này. Bé gái của cô ngày ấy đã vào lớp 6 và cú điện thoại định mệnh của con bé đã cứu cô thoát khỏi bàn tay tử thần. Anh đã bỏ đi ba tháng rồi. Cũng ngần ấy tháng cô sống vô định. Cô vẫn đi làm đều đặn, đưa đón nấu nướng cho con bé nhưng cô hầu như không thuộc về thế giới này nữa. Người nhẹ hẫng, không có cảm giác trời đang nóng hay lạnh, trước mắt cô mọi thứ đều nhạt nhòa không rõ nét, bỗng dưng cô phải đeo kính cận. Khó khăn lắm cô mới hiểu những câu hỏi của con bé, những câu đùa dí dỏm của nó trước đây thường làm hai mẹ con cùng cười ngặt nghẽo nay không lay được trái tim cô. Cô như ngọn đuốc tẩm xăng đang cháy, như dòng nước lũ bị bờ đê chặn lại. Ban ngày cô giành việc của các bạn để làm, những công việc đã quen thuộc đến mức trở thành bản năng không cần suy nghĩ, nhưng chỉ cần ngồi ghi hồ sơ cô đã quên mất hôm nay là ngày bao nhiêu. Cô luôn đói khát nhưng chỉ ăn một miếng, uống một ngụm là đã no. Đêm đêm, dòng nước lũ ấy dội ngược vào trong khiến chốc chốc cô phải ngồi dậy để thở, giấc ngủ lơ mơ chìm đắm trong kỷ niệm. Lúc nào cũng là anh, anh đang giảng bài cho lớp điều dưỡng năm 2, ánh mắt dõi về cô bé nhút nhát ngồi thu lu ở cuối lớp, anh vui buồn tùy theo tâm trạng cô. Hình ảnh anh tan ra, vỡ vụn. Rồi hơi ấm của anh mơn man trên da thịt, cái ôm siết của

anh đẩy niềm hạnh phúc đến tận tế bào. Cô ngạt thở ngồi dậy nhìn quanh, cũng chỉ mình cô và con bé đang ngủ ngon lành. Nước mắt trào ra ướt gối, cô cố ru giấc ngủ. Và anh lại đến, sau hai tuần không liên lạc với cô, anh khóc vì ba anh không đồng ý, ba muốn sau khi học xong anh phải đi du học và phải lấy một người môn đăng hộ đối. Cô im lặng, anh quỳ xuống bên cô xin cho anh thời gian, cả hai sẽ cùng chinh phục gia đình. Cô là người vợ trong thâm tâm anh, hai tuần đủ cho anh hiểu cô đã là máu thịt của anh. Cô trao thân gửi phận cho anh, rồi cô sinh bé Linh, ôm con vào lòng mà mặt anh rạng ngời hạnh phúc. Khi bệnh viện yêu cầu làm giấy khai sinh, anh mới nhớ ra mình chưa có hôn thú, anh bảo: Đó chỉ là thủ tục thôi, tuần sau sẽ có đủ các loại giấy cho em xem, giấy tờ không bảo đảm hạnh phúc cho mình nhưng nó cần cho xã hội. Cô ngủ say trong hạnh phúc. Sáng hôm sau đưa con đi học xong, vào đến bệnh viện cô vẫn lâng lâng, tin rằng mình đang sống trong hạnh phúc đêm qua, còn hiện tại chỉ là một trò đùa tai ác của ma quỷ để thử thách tình yêu của cô, lòng chung thủy của cô đối với anh. Suốt mười mấy năm yêu nhau, cô chưa hề bị thử thách, chỉ có anh phải đứng giữa ngã ba đường không biết bao nhiêu lần. Sau khi sinh bé Linh, gia đình nhỏ của cô về thăm ông bà nội như không có gì xảy ra. Lúc đầu ông không tiếp, chỉ có bà xuýt xoa thương cháu, mua đồ chơi, quần áo cho nó. Những dịp lễ tết, giỗ chạp và đều đặn hai tuần một lần, vợ chồng cô lại về chăm sóc nấu nướng cho ông bà. Sau lần ông bị tai biến mạch máu não, yếu nhẹ nửa người, ông mới nhận ra mình có một cô con dâu đằm thắm, chu toàn, có tình nghĩa, điều mà ông thấy khó tìm nhất trên đời. Ra viện, ông quyết định công khai với bà con họ hàng bằng một tiệc cưới thân mật, ấm cúng. Sống với niềm tin hạnh phúc được vài ngày, cô lại rơi vào thực tại. Cô không tin chỉ còn hai mẹ con trong căn phòng hạnh phúc, cô ngắt vào da thịt mình để biết chắc mình không mơ nhưng cô không thấy đau, có cái gì đó đã làm tê liệt các đầu dây thần kinh, cô nhìn cô lạ lẫm. Cô sống hết lòng với anh nhưng cô không hiểu ước mơ được khẳng định mình của một thằng đàn ông. Cô giận khi anh hay tham gia công tác xã hội. Công việc ở bệnh viện, các khóa học sau đại học, các chuyến công tác từ thiện đã khiến quỹ thời gian dành cho gia đình rất hạn hẹp. Không khí gia đình ngày càng nặng nề, anh chia sẻ những ước mơ của mình với một đồng nghiệp, rồi anh bị cuốn hút bởi tư tưởng của cô ấy lúc nào không hay. Dường như con người yêu thương của cô vẫn bám theo anh như hình với bóng, còn con người đang đứng trước gương đây thật lì lợm, vô cảm, ích kỷ bo bo giữ anh làm của riêng mình. Cô căm thù con người này, chính nó đã khiến anh phải ra đi. Cô vào bếp tìm dao, cô muốn đâm vào ngực trái để cho máu đen chảy ra hết và anh lại trở về với dòng máu đỏ biết yêu thương thông cảm của cô. Điện thoại reo cắt đứt cơn cuồng nộ, cô nhấc máy, đầu dây bên kia tiếng bé Linh hổn hển: Me ơi đón con, cô bận việc cho nghỉ hai tiết cuối, mẹ đón ngay nhé! Con bé có linh cảm thì phải, giọng nó rất xúc động, nó vẫn thường bị ảnh hưởng bởi cảm xúc của cô mà. Cô cất dao vào tủ, cô phải nuôi dạy con bé nên người dù cô đang vui hay buồn, muốn sống hay không. Cô chợt thấy mình cảm thông với ước muốn của anh hơn bao giờ hết, sống cho mình là điều đương nhiên nhưng sống như thế thì chưa đủ. Ba năm liền cô chỉ lo cho mình những nhu cầu căn bản, cô dồn sức làm việc, chăm con và học thêm đại học điều dưỡng. Đêm đêm cô phải đối đầu với nỗi cô đơn của mình nhưng cô vẫn thầm mong có một đêm anh sẽ trở về vì cô đã khác xưa nhiều rồi. Gia đình

chồng an ủi, nâng đỡ cô, mẹ anh bảo cô cứ kiên nhẫn, bà hiểu con trai mình là người chân tình. Hè năm bé Linh chuẩn bị vào lớp 9, cô nhận được thư anh. Anh xin cô tha thứ, thông cảm cho sự ngộ nhận của anh. Anh đã bị cuốn hút bởi tư tưởng của cô bạn đồng nghiệp nhưng sống với cô ấy anh luôn bất an, không thể yên tâm làm việc được. Chỉ có cô mới đúng là một nửa của anh, cô êm dịu đằm thắm lấp đầy nửa tâm hồn trống vắng của anh. Cô đón nhận anh tự nhiên và thân thuộc như lỗi lầm đó cũng là của chính cô vậy. Gia đình cô được hàn gắn sau chuyến du lịch của ba người. Bé Linh như được chắp cánh, hăng say hẳn lên, nó bảo việc học của nó bây giờ là chuyện “nhỏ như con thỏ”. Gần sáng thì gia đình cô gái xin về. Mọi người xầm xì: Dại chưa, bây giờ nó được tự do rồi, cứ trơ trơ ra, không nhỏ một giọt nước mắt, lấy con nào chẳng được. Sáng hôm sau, Thư kể cho Hạnh nghe về thiên tình sử ấy: Hai người quen nhau từ dưới quê nhưng gia đình người con trai không đồng ý. Họ cùng lên thành phố học, anh ra trường làm bên xây dựng, cô làm nữ hộ sinh. Có nghề nghiệp ổn định họ mướn nhà, tự tổ chức đám cưới rồi có hai đứa con. Kinh tế eo hẹp, anh bỏ nhà nước ra ngoài làm thầu xây dựng, làm ăn thất bát nợ nần, anh về quê mượn tiền cha mẹ nhưng họ không cho. Xóm bên có một gia đình giàu có, con gái lỡ dại ăn cơm trước kẻng nên muốn tìm một người làm cha hờ. Anh đồng ý với điều kiện sau đám cưới họ sẽ trả nợ. Đám cưới rình rang đi qua nhà cô vợ thật, gia đình điện thoại lên thành phố hỏi mới vỡ lẽ là cô không hề hay biết. Vốn kín đáo ít nói và quen tự quyết mọi việc, cô gửi con cho bà chị rồi mua một chai thuốc rầy kết liễu đời mình. Thư kết luận: Như mày mà khôn, biết nịnh gia đình chồng, đến khi thằng chồng lỡ dại còn có đồng minh. Chuyện đau buồn của người ta mà Thư biến thành chuyện tiếu lâm làm Hạnh đang ủ rũ xót thương cũng phải bật cười. Không biết Thư có bao giờ khóc không? Có lẽ có, vì thỉnh thoảng Hạnh thấy nó đeo kính đi làm, hỏi thì nó bảo: Đau mắt đỏ mà, hỏi mãi, muốn lây thì lột kính tao ra...

Người không nhan sắc Họ đứng ngay chỗ quãng ngoặt. Anh dựa chiếc xe của mình vào tường rồi đỡ lấy chiếc xe Sài Gòn của cô xếp bên. Hai chiếc xe xếp nép bên nhau như một cặp tình nhân âu yếm. Cô lại nhắm mắt lại để trấn tĩnh. Khi mở mắt cô đã thấy mình trong vòng tay anh. Và một đôi môi nóng bỏng cúi xuống. Cô rùng mình bủn rủn chân tay. Đôi môi đàn ông đầu tiên trong đời một cô gái hai mươi chín tuổi... Nguyễn Anh Thư

Người đàn ông không rẽ vào đường Tràng Thi như Hương tưởng. Anh ta tụt xuống đàng sau Hương rồi qua bên phải đi song song với cô. Hương hơi ngạc nhiên về hành động này. Không lẽ anh ta lại đi theo cô? Một cô gái khẳng khiu, hao gầy từ khuôn mặt cho đến hình hài, như hiện thân của một cành bàng trơ trụi trong mùa đông. Từ khi ý thức được mình cũng thuộc giới đàn bà, cô chưa từng thấy một người phía bên kia nào đi ngang cô mà không dửng dưng, không thờ ơ như đi ngang qua một bà già đã tàn. Vậy mà giờ đây có một người đàn ông đã đi theo cô. Trái tim trống vắng của cô đang rung lên trước hiện tượng bất thường. Lẽ nào tình yêu đã bắt đầu gõ cửa cuộc đời mình? Hương gắng đem hết ý chí để giữ cho dáng vẻ của mình được bình tĩnh, tự nhiên. Cô vẫn đi theo hướng về nhà mình. Thẳng qua một ngã tư. Hai ngã tư, rồi một ngã tư nữa. Cả một phố dài Quang Trung sắp trôi qua, họ vẫn đạp xe sát bên nhau, lặng lẽ cùng một tốc độ. Hương thấy mình mỗi lúc một tiến sâu hơn vào làn hoa sữa nồng nàn quá mức. Hương hoa đậm đặc gây cho cô cảm giác hăng hăng trong mũi, trong cổ, vừa ngột ngạt, vừa bồn chồn. Có lẽ đã quá khuya. Đường phố vắng teo, lạnh lẽo. Đó đây, vài bóng người lặng lẽ guồng xe, cổ áo dựng lên tránh những ngọn gió lạnh mát đầu thu từ hồ Thuyền Quang thổi về. Không còn nén nổi được tò mò. Hương khẽ đưa mắt liếc sang. Anh ta khoảng gần bốn mươi tuổi, mặc quần bò, áo budong, giầy thể thao. Anh ta vẫn to cao dù đã đi trên một chiếc xe Liên Xô nam. Dáng vẻ của một người đàng hoàng, tự tin. - Xin lỗi, chị cho tôi hỏi phố Trương Định đi lối nào? - Người đàn ông phá tan sự im lặng bằng một giọng thiếu tự nhiên. Hương bàng hoàng. Không lẽ đi cùng một đoạn đường dài đến như vậy bên cạnh nhau, lại đầy vẻ thân mật nữa chỉ để hỏi đường? Trái tim côi cút của cô suýt tan ra vì thất vọng. Vậy mà nó đã vội mơ tưởng... Thật tội nghiệp cho nó biết bao! Mà hình như anh ta là người Lào! Đã là người Hà Nội, lại ngần ấy tuổi, ai không biết đường đến phố Trương Định! Cô cố mỉm cười nhìn sang, dù sao thì anh ta cũng là người nước ngoài, phải lịch sự. - Anh cứ đến đầu hồ kia rồi rẽ trái - Hương thành thật chỉ dẫn - Đến một dãy phố song song với phố này, anh đi tiếp lên phía trước. Đến cuối phố lại rẽ trái, gặp một phố nữa thì rẽ phải. Đi thẳng sẽ tới phố Trương Định. - Chao ôi! Cứ như đang đọc truyện "Đôi mắt" của Nam Cao vậy! - Người đàn ông thốt lên vẻ ngao ngán, buồn phiền. Hương suýt phì cười trước lời nhận xét của anh ta. Có vẻ như anh ta khá rành về văn học Việt Nam.

- Tôi cũng đi về hướng đó - Cô buột miệng và ngay lập tức lấy làm hối tiếc. Nhà cô ở trong ngõ Mai Hương thật, song cô không muốn đi với một người nước ngoài, dù rằng anh ta cũng giống người mình. - Chị sẽ không phiền nếu tôi đi theo một đoạn cho dễ tìm địa chỉ chứ? - Cũng chẳng sao đâu! - Hương cố nén sự chán nản. - Kìa! Có chắc là em không nhận ra người quen cũ? - Người đàn ông nói vẻ trách móc. - Người quen? - Hương ngỡ ngàng. Chẳng lẽ anh ta là người Việt! - Làm gì có! - Đúng thế đấy! Em cứ nghĩ kỹ xem! - Hay anh là một ca sĩ? Hoặc một diễn viên? - Cô nhún vai - Những người đó luôn có cảm giác rằng trên khắp cả trái đất này đến cả con kiến cũng biết họ là ai. - Sao mà mình không ưa cái lũ ấy thế. - Anh nói giọng ghét bỏ. - Vậy thì chịu đấy! - Cô ngừng lại giây lát thăm dò - Lại "Những người thích đùa" rồi! - Ồ, Azit Nexin bên Thổ Nhĩ Kỳ kia! Nghe lời khẳng định đó, Hương vui hẳn lên. Anh ta là người Việt và lại có học thức. Bằng chứng là chỉ có những người có học làm công tác nghiên cứu mới có kiểu tư duy: Nhắc tới tác phẩm nào là nhớ tên tác giả. Anh ta có vẻ rất hóm hỉnh. Cô nhận thấy những người có tính hài hước thường tốt bụng. Như vậy có thể giao tiếp mà không đáng ngại. - Nhà em cũng ở Trương Định à? - Ồ kìa, anh là người quen của em kia mà! - Cô giễu cợt. - Anh đùa ấy mà! - Người đàn ông ngượng ngùng - Vừa nhìn thấy em ngay lúc đầu anh đã linh cảm thấy có một điều gì đó thật lạ lùng. Nếu không nói vậy, làm sao anh có thể làm quen với em. Còn từ lúc anh hỏi thăm em đến giờ thì chúng ta đã chẳng đã biết nhau rồi sao? Có đúng không? - Anh quả là lém lỉnh - Cô mỉm cười - Và thông minh nữa. - Em nói cứ như mẹ anh vậy! Chỉ có khác tí xíu. Mẹ anh bảo: "Cái thằng Minh ranh con thật là láu cá". Cám ơn em đã khen anh. Cô thầm nghĩ, chắc anh rất yêu quý mẹ mình, nên ngay cả lúc như thế này anh cũng nhớ đến mẹ.

Những người đàn ông kính phục mẹ mình thì cũng coi trọng phụ nữ. Cô cảm thấy yên tâm vô cùng khi đi bên anh. Câu chuyện của họ trở nên cởi mở, chân thành. Nó ngược về thời thơ ấu của mỗi người rồi lại lùi về thủa sinh viên. Minh học đại học Thuỷ lợi bên Nga mấy năm, về nước đi bộ đội. Hết nghĩa vụ, anh được vào làm việc ở Học viện Thủy Lợi. Còn cô: "Em tên Hương - Thu Hương, từng là học sinh Trung cấp văn thư lưu trữ nay đã bỏ nghề. Hiện em là nhân viên đánh máy của một tờ báo nhỏ của ngành". Rôm rả, vui vẻ, họ mỗi lúc một thân mật hơn. Quãng đường trôi qua thật nhanh, chẳng mấy chốc cô đã phải phanh xe đột ngột trước ngõ Mai Hương. - Sao thế? - Minh chống chân xuống đất, lo lắng hỏi. Sự chăm sóc đó trong giọng nói của anh làm trái tim cô thẫm đẫm nỗi ngọt ngào. Từ xa xưa tới nay, trừ bố mẹ cô ra chẳng có ai quan tâm, lo lắng ra lời với cô đến thế. Ngay cả các anh chị cô cũng vậy. Mặc dù vô cùng yêu thương nhau, nhưng hễ phải nói chuyện với nhau là y như rằng cộc lốc, cục cằn. Dường như họ sẽ bị yếu đuối đi, trái tim sẽ bị móc ra, phơi bày trước bàn dân thiên hạ, mất hết lớp vỏ bảo vệ, dễ bị tổn thương, nếu như họ dịu dàng với nhau. Nói với nhau những lời yêu thương da diết ư? Nó gắn với tội lỗi. Nó gần như loạn luân vậy. - Rất tiếc là em đã phải về! - Cô khẽ cười với vẻ buồn rầu - Nhà em ở trong đó. - Chẳng lẽ chúng ta chia tay nhau như thế này sao? - Anh hốt hoảng. - Biết làm thế nào được - Cô thở dài - Có lẽ mười một rưỡi rồi. - Anh biết ngay mà. Ngay từ đầu anh đã nói với em rằng anh linh cảm thấy một điều gì đó thật kỳ lạ. Bây giờ anh mới biết đó là gì! - Anh than thở. - Nó là gì? - Cô tò mò. - Nó là Ngày-Bất-Hạnh-Nhất-Đời-Anh! - Anh nhấn từng từ - Ngay từ đầu anh đã biết em là một cô gái giàu nghị lực. Em sẽ không muốn kết bạn với một kẻ ngang đường như anh - Anh lắc đầu, nhếch mép buồn bã - Nào đi vào. Ít nhất em cũng ban cho anh một niềm vui là được tiễn em thêm một đoạn đường nữa chứ? - Chỉ đến quãng đường ngoặt kia thôi nhé! - Cô lí nhí thanh minh - Em sợ người trong nhà nhìn thấy em đi với một người đàn ông lạ hoắc lúc quá khuya. Ở đó có thể nhìn thấy nhà em được. Em sẽ chỉ cho anh. - Anh rất tiếc là ngày mai đã phải đi công tác xa, chưa thể đến nhà em chơi được - Anh trầm giọng.

- Anh đi? - Cô rùng mình, cảm thấy buốt hết sống lưng. Cô đã chờ đợi bao nhiêu năm để được một người đàn ông để mắt tới. Vậy mà vừa nói chuyện lần đầu, anh ta đã phải ra đi. - Em buồn ư?... Em này, chính vì thế mà... Em có tin rằng có những quyết định trong giây lát mà đúng đắn không? - Có thể lắm chứ! - Cô quả quyết. Cho tới trước tối nay cô chưa từng có một chút tự tin nào trong người. Mới chỉ từ lúc gặp anh đến giờ, cô cảm thấy mình như được lột xác. Cô không còn nhận ra mình nữa. - Còn anh thì chưa bao giờ quyết định sai. Vậy anh muốn biết ngay bây giờ. Em có yêu anh không? - Kìa anh - Cô sững sờ - Chẳng nhẽ vừa gặp, anh đã hỏi thế sao? - Bởi ngày mai anh đã đi xa. Anh không muốn mất em. Anh muốn có một người chờ đợi ở quê hương. Anh đã từng đi qua bao nước, nhưng chưa có một cô gái nào bắt được anh dừng lại. Vậy mà anh không thể đi qua em. Anh muốn em trả lời: Em có chờ anh không? - Minh nôn nóng. - Có! - Hương nhắm mắt run rẩy đáp. Mặc dù cô chẳng biết anh đi đâu. Có lẽ anh đi ra nước ngoài. Anh vừa nói "...Anh từng đi bao nước...". Nếu cô hỏi: "Anh đi đâu?" Anh sẽ cho rằng cô cũng như bao cô gái khác: Tò mò. Mà cô lại chẳng muốn giống bất kỳ một cô gái nào. Bởi anh vừa nói cô bắt được anh dừng lại vì cô thật đặc biệt. Cô phải thể hiện cho anh biết rằng: cô sinh ra trên đời này chính là để cho anh - Em sẽ... chờ! Họ đứng ngay chỗ quãng ngoặt. Anh dựa chiếc xe của mình vào tường rồi đỡ lấy chiếc xe Sài Gòn của cô xếp bên. Hai chiếc xe xếp nép bên nhau như một cặp tình nhân âu yếm. Cô lại nhắm mắt lại để trấn tĩnh. Khi mở mắt cô đã thấy mình trong vòng tay anh. Và một đôi môi nóng bỏng cúi xuống. Cô rùng mình bủn rủn chân tay. Đôi môi đàn ông đầu tiên trong đời một cô gái hai mươi chín tuổi... Mọi chuyện diễn ra như trong tiểu thuyết vẫn tả. Anh đã dạy cho cô biết thế nào là hôn theo kiểu Pháp... Lúc chia tay không thể trì hoãn thêm được nữa, có lẽ đã mười hai rưỡi, hoặc một giờ sáng. Cô nắm chặt tay anh như bám một chiếc phao trong cơn bão biển. - Đừng đi chơi buổi tối nhé bé! - Anh thì thầm - Anh sợ người ta sẽ ăn cắp mất bé của anh khi anh đang ở xa! - Sẽ không ai có thể ăn cắp được em. Trừ một người - Cô khe khẽ trả lời, giọng ngập dần trong nước mắt - Người đó là anh! - Cám ơn em! Nhưng anh sẽ không ăn cắp. Anh sẽ đến đón bé đoàng hoàng, có xe hoa, có pháo nổ thật long trọng.

- Em sẽ chờ ngày đó! - Hương lặng đi rồi thì thào - Em sẽ hạnh phúc biết bao... Đừng tàn phá niềm tin của em, nghe anh! - Đừng coi thường anh như thế! - Anh cau mày, vờ giận - Hãy luôn cầu mong sự bình an cho anh nhé bé! - Vâng! - Sẽ không có sự thay đổi chứ? - Không! - Cô bặm môi. Một giọt nước mắt lăn dài trên má. - Sẽ không có sự phản bội chứ? - Anh làm cho cô cảm thấy mình như một bà hoàng. - Vâng! Hãy nhớ đến em! Anh lên xe vẫn còn nghe cô với theo. - Hãy nhớ đến em! - Đợi anh nhé, dù anh không về! - Em sẽ đợi! - Cô gái nhắc lại lời thề mà không biết: từ lúc nhấn chân lên bàn đạp, anh đã chẳng còn tên là Minh. *** Quang hít một luồng không khí mát lạnh, khoan khoái mỉm cười hài lòng. Bao giờ cũng vậy, trước một cú làm ăn to ở xa, anh luôn tìm cho mình một vì sao hộ mạng. Không biết như vậy có mê tín không, song anh luôn nhận thấy: mỗi lần có một cô gái mới ngoan ngoãn, nhân hậu thành tâm cầu nguyện cho anh thì thế nào anh cũng vào cầu lớn. Những cô gái cả tin bao giờ cũng là những người bảo trợ vĩ đại. "Chỉ tiếc nỗi, - Quang tặc lưỡi lần này hình thức hơi kém!".

Hy vọng ở tình yêu Liên có nụ cười tươi, đôi môi đỏ tự nhiên, miệng cười, mắt cười, hàm răng như những hạt bắp non còn thơm mùi nắng và gió, mùi đất đai, thảo mộc, mùi tươi nguyên của thiên nhiên mới mẻ và bền vững. Khi Liên cười với Bảo, anh tự nhủ: “Tiêu đời rồi, cô ấy chỉ dành nụ cười này cho riêng mình thôi”. Bỗng nhiên Bảo thấy anh như một tù binh bị dẫn giải đến nơi giam giữ, đó là trái tim Liên.

Đoàn Thị Phương Nhung Sáng nay Liên gặp Bảo, vất vả bao nhiêu cô mới gặp được anh, thế mà gặp Bảo, Liên cứ run lên, cảm giác những vết thương ở chân như bị đau trở lại. Lòng dạ Liên bồn chồn khó tả. Sợ sệt và bối rối, Bảo thì ngược lại, anh như người vừa mới bắt được một tài sản lớn. Như người vừa trúng số độc đắc. Anh hồ hởi nói cười, thậm chí còn hơi thái quá. Đã rất lâu, Bảo không quan tâm đến người con gái nào, thú thực cũng chẳng ai quan tâm đến anh nhiều trừ thằng con. Thế mà sáng nay gặp Liên bỗng dưng Bảo có một cảm giác kỳ lạ, nó như đánh thức các giác quan của Bảo. Bảo thấy mùi nước hoa Liên dùng, hương thơm ngọt ngào, dịu nhẹ. Khi Liên bắt tay, Bảo cảm giác được sự rụt rè đan xen nhiều tình cảm khác lạ. Bảo như thấy có một sức hút từ lòng bàn tay cô. Đôi bàn tay ấy không mấy kiêu sa, không quá đẹp nhưng có một điểm đặc biệt là các ngón mềm và ấm. Liên có nụ cười tươi, đôi môi đỏ tự nhiên, miệng cười, mắt cười, hàm răng như những hạt bắp non còn thơm mùi nắng và gió, mùi đất đai, thảo mộc, mùi tươi nguyên của thiên nhiên mới mẻ và bền vững. Khi Liên cười với Bảo, anh tự nhủ: “Tiêu đời rồi, cô ấy chỉ dành nụ cười này cho riêng mình thôi”. Bỗng nhiên Bảo thấy anh như một tù binh bị dẫn giải đến nơi giam giữ, đó là trái tim Liên. Sáng nay, Liên mặc một cái áo cổ sâu màu tím than để lộ “khu vực giải tỏa” hơi bị rộng, da Liên màu nâu sáng, mịn màng và gợi cảm. Ngay lúc ấy, Bảo đã lên kế hoạch để có cớ được gặp Liên. *** Liên sống một mình, công việc của cô là phụ bán cà phê cho một quán nho nhỏ, kín đáo. Bảo không hỏi về quá khứ, song Liên kể cho anh nghe về hoàn cảnh của mình. Tất nhiên, anh đã biết Liên chỉ có một mình. Điều đó càng làm anh thấy cần có Liên hơn ai hết. Khi gặp Bảo và cảm nhận được tình thương của anh, bao lần Liên định chạy trốn, cô không xứng đáng với anh. Trình độ, gia đình, địa vị xã hội... tất cả đều khập khiễng...Nhưng càng nghĩ đến điều đó cô càng không đủ ý trí để xa Bảo. Gặp anh cô thấy mình thật sự biết yêu, y như lần đầu được yêu, bởi vì cô đã bao giờ yêu ai và đã có ai yêu cô thật sự ngoài việc một người được và một người mất... hay khắt khe hơn cả hai người cùng được. Từ khi quen Bảo, Liên như biến thành con người khác, bỗng nhiên cô dữ dằn tới mức ai đó động vào cô là cô nổi đoá lên. Khi biết mình nhiễm HIV nghĩa là mang cái án tử hình còn treo Liên đã định tự tử, cô luôn luôn bắt khách phải sử dụng dụng cụ mà không mấy

ai thích dùng. Liên bảo “Muốn sống thì đeo vào” thằng nào cũng sợ xanh mắt mèo. Có thằng yếu bóng vía quẳng tiền lại rồi chạy thẳng, giống như bỏ của chạy lấy người. Dạo này, Bảo hay lui tới nhà Liên vào buổi tối vì Bảo chỉ biết Liên là người bán cà phê đơn thuần. Hay nói cách khác anh biết quá ít về Liên. Anh cố tình đến nhà Liên buổi tối để cô phải xin nghỉ làm. Bảo nói “Anh không có thành kiến gì về nghề nghiệp của em. Nghề nào cũng quý. Nhưng anh muốn tìm cho em một công việc khác, chí ít em cũng phải làm chủ quán”. Liên bảo “Em mới học hết cấp II làm bà chủ sao nổi, để em làm thuê là ăn chắc”. Bảo ngồi ngắm Liên cắm những bông hoa màu trắng, anh hay theo dõi những cử chỉ của Liên, cử chỉ nào cũng đẹp, cũng đáng yêu, duy chỉ có những bông hoa màu trắng đôi khi làm cho Bảo thấy rờn rợn. Liên thanh minh “Em thích màu trắng vì màu trắng có vẻ đẹp riêng của nó, vẻ đẹp trong veo, thanh khiết, dịu dàng nhưng cũng rất mong manh” *** Từ hôm Liên bị ngã xe được Bảo đưa đến viện, rồi Liên đến toà soạn đăng tin cảm ơn và tìm người cứu mình thì lại gặp được người cần tìm. Thật là một sự ngẫu nhiên thú vị. Nhưng còn một điều bí mật đó là Liên đến toà soạn đăng tin tìm người để muốn cảnh báo cho người đó cô có HIV nhỡ đâu người cứu cô có vết trầy xước gì thì coi như người đó lĩnh án tử hình. Nhưng khi nhìn thấy Bảo, cô không thể nói gì được, nhỡ đâu anh ta không làm sao, nói ra chẳng phải là đường đột hoặc bất tiện? Rồi Liên lại nghĩ: nếu không nói mình bị thế, biết đâu anh ta lây nhiễm rồi lại truyền cho người khác thì phải tội. Cứ dằn vặt trong ý nghĩ ấy suốt, Liên đến mất ăn mất ngủ. Liên quen Bảo đã 6 tháng trời, Bảo chưa được gần gũi Liên. Có lúc anh phát điên lên vì Liên ăn mặc khêu gợi quá, da thịt Liên thơm tho quá, Liên cười xinh xẻo quá, đáng yêu quá. Bảo cứ định đụng vào Liên là cô giẫy nảy như đỉa phải vôi, có lúc Bảo nghi ngờ tình yêu của Liên. Yêu nhau sao giữ gìn khiếp thế, Liên đã nói từng yêu mấy người rồi là gì. Còn Bảo, anh đâu phải là trai tân? Nhiều đêm, Liên nằm khóc một mình, đời người mấy ai không nếm trải khổ đau, nhưng Liên thì nhiều quá, tới mức Liên không nghĩ đến nỗi đau của ai khác được nữa. Bố mất từ khi Liên 8 tuổi, bảy năm sau mẹ đi lấy chồng. Liên có thai với ông bố dượng và bỏ đi biệt tích tới giờ. Thằng chó đểu, nó rủ Liên chơi trò chơi hay lắm. Nếu ngoan không nói với ai thì sẽ có quần áo đẹp, bánh kẹo ăn suốt ngày. Đồ lừa đảo, Liên chẳng biết gì cả, cho tới khi... Thế là từ đó, Liên thù đàn ông. Nếu chưa gặp được Bảo, Liên cứ nghĩ đàn ông rặt một lũ chỉ biết húc cái của nợ ấy của người khác giới. Nhiều đêm nằm một mình, Bảo lại nghĩ giá mà gặp được Liên sớm hơn. Cũng từ khi gặp

Liên, Bảo mới nghĩ lại rằng cần phải có một mái ấm gia đình. Ngày xưa Bảo hô “ Độc thân muôn năm” thì bây giờ Bảo nghĩ “Độc thân là dại dột”. Mười một rưỡi đêm, thường thì giờ này, Liên hay gọi điện cho anh. Nhưng hôm nay cu Bin gọi điện nói muốn mua tặng bố một đôi giày và hỏi bố đi giày size bao nhiêu. Bảo à ừ rồi nói “Thực ra, bố cũng không nhớ nữa, ước gì có người phụ nữ nhớ cho bố những điều đó”. Lát sau, nó lại nhắn tin “Bố lấy vợ đi, con không buồn đâu, cô Liên cũng xinh đấy chứ?”. Lúc đó, Bảo chỉ muốn gào lên cho cả thành phố biết anh yêu Liên đến nhường nào. Bảo đâu biết lúc đó, Liên đang khóc, những giọt nước mắt trong như pha lê nhỏ từ khoé mắt bên này chảy sang khoé mắt bên kia rồi chảy xuống thái dương, xuống tóc và gối. Liên ít khóc trước mặt Bảo, Liên sợ Bảo buồn, sợ mình không tỉnh táo và nói ra sự thật khủng khiếp ấy với Bảo. Có lần, Bảo nhắn tin “Ước gì anh đổi cả trái đất này để có được em”. Liên đau đớn tới mức nếu Bảo ở bên cô, cô có thể chết đi được. Liên nhắn lại “Anh đã có sổ đỏ chưa?”. Lần nào nhắn tin cho Liên, Bảo cũng để điện thoại trên ngực. Một lần, Bảo nói với Liên “Anh thấy em như một phần cơ thể của anh, thật đấy”. Liên sà vào lòng Bảo và nói “Kỳ lạ thế, em cũng vậy, ước gì cuộc đời có anh”. Bảo giật mình “Sao em nói gì lạ thế, có em là mong ước lớn nhất của anh mà, chỉ cần em gật đầu đồng ý là anh làm đủ thủ tục pháp lý để cưới em làm vợ”. Liên mân mê ngón tay Bảo và nói “ Em biết rồi, cho em thời gian”. Chỉ cần Liên nói vậy là Bảo đã tràn đầy hy vọng. Tình yêu của Liên ập đến với Bảo y như một trận sóng thần, nó xoá đi những tình cảm trong quá khứ để làm mới lại tất cả. Bảo cứ nghĩ trong cuộc đời ai cũng bị những tai nạn trong tình yêu như vậy, có chăng là nó đến sớm hay muộn, đến vào thời điểm nào, độ tuổi nào trong cuộc đời mà thôi. Có lần, Bảo nhắn tin, khi đó anh vừa về đến nhà sau một chuyến công tác xa: “Chúng ta phải xứng đáng với tình yêu, biết đâu chỉ có một lần trong đời”. Liên nhắn lại “Đừng làm đau lòng em, anh ơi. Em yêu anh hơn hết thảy mọi thứ trên cuộc đời này”. Bảo nhắn lại: “Với em, anh thấy mình thực sự biết yêu, vững vàng hơn trong tình yêu, có thể xả thân cho tình yêu. Anh thấy mình đang nhỏ bé bỗng chợt lớn lên trong tình yêu vĩ đại”. Nhắn tin xong, Bảo đến nhà Liên. Ví von theo kiểu Nam Cao thì khi đó Bảo như Chí Phèo vác dao đến nhà Bá Kiến. Căn hộ của Liên nhỏ, chỉ chừng hơn 20m2, tối om. Bảo khẽ nhấn chuông, không một tiếng động nào báo hiệu là Liên có nhà, Bảo lại bấm chuông lần nữa, cánh cửa vẫn lặng im. Không biết Liên đi đâu vào giờ này, Bảo gọi điện, Liên nói “Em đang ở trong nhà”. Liên bật đèn ở phòng ngoài, ánh sáng vàng nhạt làm Liên đẹp lên bội phần, Liên mặc

chiếc váy ngủ màu trắng cổ rộng đến nửa ngực, Liên không mặc áo lót, tóc buông ngang lưng, từng lọn tóc xoăn lơi lả ôm lấy vai cô làm Bảo không thể đừng được. Anh đến bên Liên và ôm ngang người cô rồi hôn lên cổ, lên trán. Liên bình tĩnh nói: “Anh chờ em một chút được không?” rồi Liên đẩy Bảo ra và đi vào buồng ngủ. Liên bật đèn ngủ, đèn ngủ có hình bông sen bọc bằng lụa màu phớt hồng “Anh vào đây với em”. Đêm đó, Bảo ở bên Liên, anh được ngắm cái eo lưng như thể lần đầu tiên anh biết thế nào là “thắt đáy lưng ong” như các cụ thường nói. Anh hạnh phúc như một nhà thám hiểm, vừa khám phá và chinh phục được một vùng đất màu mỡ và mới mẻ. Khi đó, Bảo thấy mình như người được chèo thuyền trên mặt hồ vào mùa thu êm đềm và dịu mát, từng đợt sóng lan tỏa đến tận cùng các giác quan của Bảo. Bảo nghe được tiếng thì thầm từ làn da, từ mùi hương của cơ thể Liên, từng lời thì thầm ngọt ngào và cháy bỏng. Liên vẫn bắt Bảo dùng cái thứ của khỉ ấy ngay từ đầu. Anh có vẻ tự ái, nhưng rồi Bảo cũng làm theo. Liên khóc, nước mắt Liên rơi lã chã xuống vai anh, Bảo bỗng thấy mình vụng về y như lần đầu. Anh lấy tay lau nước mắt cho Liên và nói “Nín đi em, em sẽ là tình yêu lớn nhất của cuộc đời anh được không nào? Chúng mình sẽ cưới nhau, anh sẽ không làm em thất vọng”. Liên càng khóc to hơn, cô cảm thấy từng hồng cầu trong cô đang bị hủy hoại. Cô nhìn thấy mình nằm trong quan tài, nhìn thấy vài người đến viếng nhưng không thấy mặt Bảo. Đêm đó, Bảo tỉnh dậy, Liên nằm chéo chiếm gần hết giường, gương mặt đẹp như tranh. Bảo thấy mình nửa như chết chìm trong hạnh phúc, nửa như đang từ từ rơi xuống vực. Bảo thơm ngón chân cái của Liên, anh thấy ngón chân Liên đẹp như nụ hoa nhài. Bảo bắt đầu nghĩ về tương lai, đúng hơn là Bảo lo cho tương lai chu đáo và kỹ càng hơn trước. Anh nghĩ là mình phải sửa lại nhà, mua thêm một ít đồ đạc, đóng cho Liên một cái giá sách đàng hoàng, đặc biệt là mua chiếc lò vi sóng rồi tìm việc làm cho Liên. Bảo nói với Liên kế hoạch của mình. Liên nói: “Từ từ, em thấy ngôi nhà anh chưa cần phải sửa, thôi để tiền lo cho cu Bin vào đại học. Em chỉ cần một cái giá sách thôi. Em thích đọc sách”... Bảo nói: “Em đừng lo, anh đã gửi ở ngân hàng cho nó 20.000 USD. Việc trước mắt là lo cho chuyện chúng mình”. Liên lại nói: “Từ từ thôi anh ạ”. Liên thấy Bảo già hẳn đi khi lo chuyện cưới xin. Liên không biết phải thoái thác lời đề nghị đó thế nào, ba chữ “Từ từ thôi” Liên đã nói đến hàng trăm lần rồi, bây giờ biết nói như thế nào cho Bảo hiểu. Từ khi được gần gũi Liên, Bảo như trở thành người khác, anh vui vẻ hẳn lên, làm gì Bảo cũng nhớ đến Liên, nghĩ đến tương lai của hai người. Lúc nào Bảo cũng chỉ muốn được nhìn thấy Liên trong tầm mắt của anh. Liên nấu nướng, đọc sách, cắm hoa hay dọn dẹp nhà cửa, hễ không nhìn thấy Liên là Bảo không yên tâm. Chưa bao giờ, Liên cảm giác ham sống đến như thế, chưa bao giờ Liên thấy cuộc sống có

ý nghĩa đến thế, chưa bao giờ cô thấy yêu đời và yêu người đến thế. Trái đất có thêm một tình yêu là bớt đi một bất hạnh, nghĩa là càng nhiều tình yêu thì niềm tin và ước mơ càng nhiều. Liên nghĩ vậy và nghĩ cho thân phận mình. Nhưng cuộc sống của Liên giờ đây mong manh quá, biết bao giờ dừng lại, biết bao giờ lịm tắt. Liên không dám nghĩ đến chuyện Bảo biết cô nhiễm căn bệnh này thì anh sẽ xử sự như thế nào, chắc chắn là anh sẽ ra đi. Đây đâu phải thời Romeo và Juliet. Liên đọc ở đâu đó câu thơ. “Đâu phải thời Romeo và Juliet/Nên chẳng có đứa nào dám chết/ Đành lòng thôi mỗi đứa một phương...”. Tuy câu thơ này không liên quan gì đến hoàn cảnh của cô, nhưng cô cứ nghĩ thời buổi này chết vì nhau thật hiếm, vì cuộc đời nhiều cám dỗ quá. Liên nghĩ đến hôm cô bị tai nạn, Liên sợ, chân tay cô bê bết máu, Bảo bế cô lên taxi và đưa cô vào bệnh viện, không may anh bị lây cô từ hôm đó… ý nghĩ Bảo bị lây cô cứ lởn vởn quanh đầu Liên. Còn Liên thì đang như kẻ tội phạm mà án treo đối với cô còn khổ sở hơn án tử hình. Chiều nay, Bảo ngồi thử cắt nghĩa chuyện tình cảm của anh và Liên, anh thấy đó như là một ơn huệ mà cuộc đời ưu ái dành cho anh. Liên cũng vậy, nhưng cô không biết diễn đạt tình cảm của cô bằng từ ngữ. Bảo như hiểu được điều đó, anh nói: “Anh cảm thấy trái đất này nhỏ tới mức không đủ chỗ cho tình yêu, không gian này không đủ không khí cho tình yêu, chỉ có một con đường đi đến tình yêu thôi em ơi, đó chính là tình yêu. Bọn mình phải cưới nhau thôi, em có ràng buộc gì đâu, anh cũng vậy”. Liên lại nói: “Từ từ, có cần vội vã vậy không anh ?” Liên nấu cho Bảo bát chè long nhãn hạt sen, Bảo xúc động lắm: - Ngoài em, lâu rồi, anh không được ai nấu cho ăn cái gì, hình như những người thân của anh họ chỉ nghĩ đến việc anh cần cho họ như thế nào chứ không nghĩ rằng họ cần phải hiểu và chia sẻ cho anh. Gặp em, anh thấy đời anh đầy đủ ý nghĩa lắm rồi. *** Bảo đổ vật xuống cửa nhà Liên, thân hình như một cây to vừa bị một cơn bão lớn quật ngã, Liên hốt hoảng dìu anh vào nhà “Trời ơi, anh làm sao thế này?”. Liên lấy dầu gió bôi vào thái dương, lòng bàn chân, bàn tay Bảo rồi đi pha cho anh cốc nước cam nóng. - Anh nói cho em xem có chuyện gì với anh vậy ? - Ừ, anh bị nhiễm nước mưa đêm qua. Liên ôm Bảo thật chặt - Anh nói đi, chắc chắn là có chuyện nghiêm trọng, đúng không? Bảo lấy cái ví đưa cho Liên, cái ví vẫn còn ẩm.

- Em xem đi, cơ quan anh mới kiểm tra sức khoẻ cho cán bộ Liên đã hiểu tất cả, cô để ví xuống bên cạnh anh, nước mắt lại rơi, sao nhiều nước mắt thế. Đêm nào Liên cũng khóc, thế mà sáng ra Liên lại khóc ngay được. Liên cảm thấy có một tảng đá lớn đè lên ngực cô khiến cô không thể nói được. Tự dưng Liên có cảm tưởng Bảo đã nhìn thấu được quá khứ khổ sở, cùng cực, thiếu thốn và tối tăm của Liên. Cô hổ thẹn vô cùng, vì cô là thủ phạm đã đem đến những đau đớn lớn lao nhất đến với Bảo. Ngược lại thì cô vẫn thấy những ngày có anh trong cuộc đời cô là một sự kiên trọng đại, là một niềm vinh hạnh cho trái tim cô. Bỗng Bảo hốt hoảng - Em ơi, anh là kẻ tồi tệ. - Không, em mới xứng đáng với câu nói ấy. - Tại anh mà, trước khi gặp em, anh có đi chơi đêm mà không dùng dụng cụ gì... Anh xin lỗi. Anh có lỗi với tình yêu của chúng ta. Đúng là tại anh rồi. Liên đã hiểu tất cả, anh không thể nghĩ Liên là người truyền bệnh cho anh khi cô bị ngã xe, những khi gần gũi nhau, cô thường bắt anh dùng “dụng cụ bảo vệ” cho nên anh không nghĩ chính Liên lại là người truyền bệnh cho anh. Liên nói: “Anh cứ bình tĩnh, bây giờ, anh nằm đây, em đi mua thuốc cảm cho anh uống đã, biết đâu họ nhầm”. Nói vậy nhưng cô biết họ không nhầm, cái điều mà cô sợ nhất đã đến. Thế là những hy vọng của Liên vỡ tan, cô đã hy vọng, biết đâu anh không lây cô, biết đâu cô nghĩ đến việc đó là thừa. Những hy vọng đã được Liên xây lên như lâu đài nay đã bị một cơn động đất làm biến mất. Liên chạy ra ngoài và một ý nghĩ chợt đến, hay là Liên trốn đi thật xa để không ai còn biết Liên là ai, không ai biết căn bệnh ấy hình thù thế nào, thế là cuộc đời bằng con số không, tình yêu là con số không... Cô mua thuốc, trong lòng xáo trộn những ý nghĩ đầy mâu thuẫn. Chần chừ một lát rồi cô lại quay về nhà. Cô dằn vặt với ý nghĩ phải giành giật lấy Bảo, cô sẽ nói sự thật, nhưng cô không thể đánh mất Bảo, đó là một thách thức lớn, một phút còn sống cô cũng không để mất anh. Những ngày sống với anh quả là những ngày trọng đại. Đối với cô, hai từ tình yêu dường như chưa đủ cho tình cảm của mình. Lẽ ra nhân loại phải tìm được từ gì đó vĩ đại hơn... Nghĩ cho cùng cuộc sống là một hành trình tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc, cô đã tìm thấy hạnh phúc và cô phải giữ lấy nó bằng bất cứ giá nào. Cô phải quay về với Bảo, không thể hèn nhát mà bỏ trốn. Cô biết anh đang chờ cô trong một tình cảm nâng niu, trân trọng, cảm thông và những ước mơ bình dị. Bảo và Liên vẫn có quyền hy vọng vào tình yêu. Cô nghĩ thế và cũng tin như thế.

Nghệ thuật khỏa thân

Mới đến giờ lên đèn mà Thổ Khôi đã rửa xong chân tay mặt mũi. Vợ hắn đang ngồi trước ti vi xem phim. “Tách” - Thổ Khôi tắt cái tivi. Hôm nay hắn vào thành phố làm ăn, gặp may kiếm được khá nhiều tiền, nhưng mệt bã người, bây giờ buồn ngủ lắm rồi, muốn đi nằm sớm. Thúy Hoa chiều ý chồng, lặng lẽ chui vào màn như một con chuột. Đợi khi Thổ Khôi đã lên giường, cô bèn tắt đèn. Nghệ thuật khỏa thân Mi Guo-xian (Trung Quốc) Mới đến giờ lên đèn mà Thổ Khôi đã rửa xong chân tay mặt mũi. Vợ hắn đang ngồi trước ti vi xem phim. “Tách” - Thổ Khôi tắt cái tivi. Hôm nay hắn vào thành phố làm ăn, gặp may kiếm được khá nhiều tiền, nhưng mệt bã người, bây giờ buồn ngủ lắm rồi, muốn đi nằm sớm. Thúy Hoa chiều ý chồng, lặng lẽ chui vào màn như một con chuột. Đợi khi Thổ Khôi đã lên giường, cô bèn tắt đèn. “Tắt đèn làm đếch gì!” - Thổ Khôi lầu bầu, lại bật đèn lên, rồi hai tay hắn quờ quạng ôm lấy vợ. “Cái lão quỷ này, không biết xấu hổ à... Bị ma ám hay sao thế hả?”. Thổ Khôi chẳng nói chẳng rằng, loáng một cái đã lột hết quần áo lót của vợ. Cưới nhau đã ba năm, làm cái chuyện kia bao nhiêu lần rồi, thế mà hôm nay lần đầu tiên hắn mới nhìn thấy thân thể người đàn bà. Mắt hắn đờ ra, đầu óc như mụ đi. Cặp vú có hai núm nhỏ màu sẫm trông như hai cái sừng dê mới nhú, trông đẹp bằng mấy thứ vú làm bằng cao su bày trong cửa hàng trên phố và mê ly hơn nhiều. Cái lưng thon thon, đôi chân dài dài, làn da trắng trẻo mịn màng như cây cải bắp mới lớn. Mình phải “làm” thôi, Thổ Khôi mút mút đầu lưỡi. Thúy Hoa của mình còn “nghệ thuật” hơn nhiều so với những bức tranh vẽ các cô gái trần truồng hắn vừa nhìn thấy trên thành phố sáng nay. ... “Ai mua vé không, ai mua vé không? Phim Giọt máu trinh nữ, phim Mỹ loại độc đây. Cơ hội hiếm có!”. Lũ phe vé mất dạy, vé giá 5 hào mà chúng bán đắt gấp 10 lần. Thổ Khôi đắn đo mãi mới dám mua một chiếc. Khi vào rạp chiếu bóng, nhân viên soát vé bảo: “Đây là vé xem triển lãm hội họa ở gian bên chứ không phải vé xem phim, bác mắc lừa chúng nó rồi”. Thổ Khôi giận điên người định xé béng chiếc vé ấy, nhưng nghĩ lại, vé đã trót mua rồi, triển lãm lại ở ngay bên cạnh, tội gì chẳng đảo qua một tí, xem thiên hạ vẽ thế nào cũng hay chán. Vào triển lãm rồi, Thổ Khôi mới cảm thấy kỳ lạ làm sao. Ôi mẹ ơi, trên tường treo bao nhiêu là tranh vẽ đàn bà không mặc tí tẹo quần áo nào mới kinh chứ! Hắn len lét liếc nhìn xung quanh, sau khi không thấy có người quen nào mới thở một hơi dài khoan khoái. Người trong xóm mà biết mình vào đây thì “dư luận” gay lắm!

“Này cậu gì ơi, tranh vẽ người trần truồng thế này mà sao bên công an người ta lại không có ý kiến gì nhỉ? Thằng cha Vương Tiểu Nhị xóm tớ chỉ bán có mấy bộ tú lơ khơ vẽ đàn bà ở truồng thôi mà đã bị công an tóm cổ đưa lên đồn đấy!”. “Đấy là những thứ văn hóa phẩm khiêu dâm. Còn đây người ta gọi là nghệ thuật. Khác nhau đấy!”. Đầu óc Thổ Khôi bỗng sáng ra như căn phòng tối được thắp đèn. Trên đường về nhà trọ, hắn mê mẩn người, trong óc hiện lên toàn là hình đàn bà trần truồng các kiểu. Nghĩ mãi, rồi hắn cũng nghĩ tới cô vợ Thúy Hoa của hắn. Vợ mình xinh nhất xóm đấy chứ, mặt xinh này, thân hình cũng gọn gàng này, chỉ có điều suốt ngày mặc bộ quần áo rộng thùng thình, mọi đêm mình có làm cái chuyện kia thì cũng tắt đèn tối như hũ nút, chẳng được ngắm nghía gì, thật phí của. Lần này về nhà quyết phải bắt cô ấy “nghệ thuật nghệ thuật” một tí chứ. Thế là Thổ Khôi tạt vào chợ đêm mua cho vợ một bộ váy loại lụa mỏng tang nhìn thấy cả da thịt. ... Dưới ánh đèn sáng, Thúy Hoa trần như nhộng ra sức giãy giụa. Mọi khi cô ấy vẫn ngoan ngoãn theo hắn kia mà! Lần chống trả này chỉ khiến cho Thổ Khôi càng thêm hăng tiết. Hắn thở phì phò ráng sức đè vợ xuống... Xong việc, Thổ Khôi cảm thấy hôm nay mình mới được làm người đàn ông thật sự. Hắn ngồi dậy, tợp một ngụm trà rồi định làm tiếp lần nữa. Ai ngờ cô vợ bỗng bật khóc hu hu. Mới đầu Thổ Khôi còn có chút khoái chí vì đắc ý, nhưng rồi hắn lập tức cảm thấy tình hình có chiều hướng nguy hiểm. Người đàn bà càng khóc càng to, càng thương tâm. Cuối cùng, tiếng gào khóc ấy khiến ông bố Thổ Khôi chạy đến đập cửa vào phòng. Mẹ Thổ Khôi mất từ khi hắn còn ẵm ngửa. Ông bố một mình gà trống nuôi con nên người, cho nên Thổ Khôi rất kính nể, sợ bố một phép. Cái nhà ba người này, Thổ Khôi vâng lời bố, bố hắn nghe lời con dâu, Thúy Hoa là cao nhất, cái trật tự ấy chẳng ai dám đảo lộn. “Nói cho tao xem nào, có việc gì thế hả? Đang yên ổn không đâu lại bắt nạt con Thúy Hoa, mày có muốn để tao xé xác ra không hả, thằng kia?”. “Thưa bố, không có chuyện gì đâu ạ”. “Không có chuyện, lại còn không có chuyện gì hả, đồ vô lương tâm, hu hu!” - thấy được bố chồng bênh, Thúy Hoa khóc càng to. Đang khóc, bỗng nghĩ đến cái túi xách chồng mang về chiều nay, cô bèn chạy đến lục túi. Quả nhiên Thúy Hoa lấy ngay ra được cái váy kia. Bây giờ thì càng rắc rối to rồi! “Bố xem, cái thứ váy này chẳng hiểu anh ấy mua cho con đĩ nào đây... Đổ đốn ra thành phố chơi bời với lũ đàn bà ngoài ấy, về nhà lại định học đòi bắt nạt con... Trời ơi! Hu hu! Con không muốn sống nữa!”. Thổ Khôi chớp chớp mắt, tròng mắt trắng dã, mồ hôi toát ra như tắm. Bị ông bố truy hỏi mãi, cuối cùng hắn đành ấp úng kể lại đầu đuôi mọi chuyện. Ông bố giận tái mặt, những đường gân xanh trên trán ông run bần bật. Ông cầm chiếc ống điếu phang một cái vào đầu Thổ Khôi: “Đồ con mất dạy, mất dạy! Tám đời nhà ta thế là bị mày làm tan tành sụp

đổ cả rồi, Lại còn nghĩ ra chuyện đi xem đàn bà ở truồng nữa cơ, mày không thấy thằng Nhị Tiểu vừa bị người bên công an tóm cổ lôi đi hả?”. “Thưa bố, chuyện này khác ạ. Người ta làm chuyện khiêu... khiêu gì gì ấy cơ ạ. Còn con chỉ xem nghệ thuật thôi ạ”. “Đồ súc sinh, lại còn già mồm hả!”. Cái ống điếu lại phang một cái nữa vào đầu Thổ Khôi, lần này phang mạnh hơn. “Lần sau mà mày còn vào thành phố thì ông chặt chân, nghe chưa!”. Cũng chẳng hiểu tại sao, hôm sau người trong xóm trông thấy Thổ Khôi ai nấy đều chỉ chỉ trỏ trỏ, ghé tai nhau thì thầm cứ như chỉ sau một đêm mà trên đầu hắn bỗng mọc sừng hay sao ấy. Biết là chuyện lan ra ngoài xóm rồi, cho nên trông thấy ai là Thổ Khôi lẩn ngay. Thế nhưng cũng có lúc chẳng trốn đi đâu được. Mụ Hai, cái mụ gái góa trong xóm ngày thường vẫn bám riết tán tỉnh Thổ Khôi ấy, hôm nay mặt mày hớn hở tươi roi rói hẳn lên. Mụ õng ẹo chặn đường Thổ Khôi: “Thế nào, muốn xem mụ già này cởi truồng hả? Nhà tớ không có ai đâu, vào đây tớ cho xem này”. Thổ Khôi ngượng chín người chỉ muốn độn thổ. Tối hôm ấy trước khi lên giường, hắn chủ động tắt đèn chứ không để vợ tắt như mọi khi.

Chị Hai ơi! Chẳng biết bây giờ Trúc ở đâu, còn sống hay đã chết. Cứ mỗi lần sờ tay trúng vết sẹo trên vai, tôi lại nhớ mùa hè ngây dại của tuổi hai mươi, có lùm cây che khuất cửa sổ, có tiếng ve râm ram giữa trưa hè. Bất giác tôi nhắm mắt lại gọi thầm: "Chị Hai ơi!".

Trần Thuỳ Mai Hè năm ngoái, từ Sài Gòn về, tôi ngạc nhiên: ra mở cửa không phải mẹ tôi mà là một thiếu phụ có cặp mắt to đen láy. Chị nhanh nhẹn đỡ lấy cái túi tôi đang mang: - Út Hiệp đây phải không, chao, lớn ghê! Tôi hơi phật lòng vì cái lối chào hỏi dành cho trẻ con. Đã hai mươi mốt tuổi, sắp tốt nghiệp Đại học Sư phạm, tôi đâu có phải là con nít. Đến bữa cơm, mẹ tôi bảo: - Má vừa có con gái, từ rày, con phải gọi nó là chị Hai. Khi chỉ có hai mẹ con với nhau, mẹ tôi mới thủ thỉ kể: Chị Trúc là người ở Lăng Cô, vợ chồng bỏ nhau, nhà cửa thân thích không có. "Tội nghiệp, má đào phận bạc vậy đó con. Cho nó ở đây sớm hôm với mẹ cho vui khi con vắng nhà".

Có chị Trúc mẹ tôi đỡ vất vả. Mẹ tôi bày ra nuôi gà vịt, làm ruốc biển... Toàn là việc mệt nhọc mà các chị tôi đều đã lấy chồng, chẳng ai san sẻ được. Suốt ngày tôi càu nhàu: "Thằng Tí con chị Hai nó quậy phá, ồn ào con chịu hết nổi". Mẹ tôi an ủi: - Kệ, chịu khó đi con, rồi má biểu con Hai không được thả cu Tí vô chơi trong buồng con là yên. Chị Trúc biết nỗi khó chịu của tôi nên cố gắng vừa cặp con vừa làm việc nhà. Quần áo tôi thay ra, vứt giữa giường, chị vuốt lại phẳng phiu rồi treo lên móc. Vẻ nhẫn nhịn của chị làm tôi áy náy cảm thấy mình giống như một tên... bạo chúa. Một hôm, thấy chị tay ôm con, tay giã ruốc, tôi ngượng ngùng cười cười dỗ đứa bé: - Ơ... Để cậu bồng chơi, cho mẹ đỡ mỏi, nghe cu Tí. Thằng bé bạo dạn, nó ngả vào tay tôi ngay. Chị Trúc ngước lên nhìn tôi, cái nhìn biết ơn từ đôi mắt đen láy. Tôi ôm đứa bé mà không hiểu sao không thể nào đứng dậy nổi! Nhưng thằng bé lại nhào qua lòng mẹ, quờ tay với vào đôi bầu ngực phập phồng dưới chiếc áo cánh lụa. Vội vàng, tôi phải bế nó đi... Từ đó thỉnh thoảng chị Trúc lại nhờ tôi bế cu Tí. Mỗi lần tôi tung hứng thằng bé, khiến nó cười vang khoe hàm răng sữa ngây ngô, chị lại ngước lên nhìn tôi biết ơn. Cái nhìn xoáy buốt làm tôi nhận ra chị thật đẹp, khuôn mặt trái xoan, nước da rời rợi trắng. Không hiểu sao người như thế mà chồng chị lại nỡ lòng chê bỏ? Những lúc rảnh rỗi, chị ôm con ngồi trên bậc cửa, mắt nhìn mông lung về phía xa. Chắc chị đang nhớ đến căn nhà hạnh phúc ngày xưa của mình. Có hôm chị tâm sự: - Hiệp biết không, chị học tới lớp đệ nhị thì mẹ mất. Không còn ai nữa, đành lấy chồng sớm để nương tựa. Tưởng yên thân, ai dè ông chồng phi công của chị đã có vợ trước rồi! Vậy là bồng con đi liều vào trong này mong nhờ bà con, nhưng bà con cũng hắt hủi. Nhiều lần chị đã nghĩ tới chuyện chết... Chị không khóc mà mắt tôi đỏ. Tôi an ủi: - Đừng buồn chị Hai. Hổng cần chồng, hổng cần bà con. Chị cứ ở đây với mẹ con Hiệp, cũng vui chán. Câu nói ngớ ngẩn làm chị bật cười. Nụ cười với cái răng khểnh mới thơ dại, tươi tắn làm sao. Năm ấy chị hai mươi bảy tuổi, lẽ ra là những năm đẹp nhất đời người. Một buổi chiều, tôi vác đàn ra sân hát nghêu ngao: Cây trúc xinh... (tang tình là) cây trúc mọc

(Qua lối nọ í như) sân đình Chị Hai xinh... (tang tình là) chị Hai đứng, đứng một mình (qua lối í như) cũng xinh. Chị Trúc đang giặt áo quần, liếc nhìn tôi rồi nguýt một cái sắc như nước. Từ đó chị đâm cảnh giác với thằng em. Làm gì chị cũng lầm lì, tìm cớ tránh xa tôi. Tôi thì như thằng khùng, cứ đeo theo chị như bóng với hình. Gặp lúc vắng, tôi kéo tay chị, chị rãy ra dẩy nẫy như đỉa phải vôi: - Này, cậu tưởng chị Hai là mẹ mìn, thích bắt cóc trẻ con hay sao. Đi mà tán các cô hàng xóm ấy! - Chị ơi, nhưng Hiệp hổng nằm mơ thấy mấy cô ấy. Hiệp cứ nằm mơ thấy chị Hai thôi. Chị Hai không thương Hiệp, hết hè Hiệp không thèm đi học nữa. - Chưa thấy ai lì như cậu. Buông ra cho chị đi, không má thấy thì chết. Chị giật áo ra, không thèm ngó cái mặt si dại của tôi. Tôi phát giận, không thèm ăn cơm mấy bữa liền. Mẹ tôi sợ quýnh, mua thuốc giải cảm, mua dầu cù là Mac Phsu, mua chuối tiêu hột gà. Rồi mẹ lại còn sang ông lang cắt mấy thang thuốc bổ. Tôi phát ngượng, đành phải ra ăn cơm. Đến tối, mỏi lưng quá, mẹ tôi ôm cu Tí nằm ngủ, giao siêu thuốc cho chị Trúc. Đêm khuya, nằm trong phòng, tôi ngửi thấy mùi thuốc bắc lan tỏa khắp nhà. Mùi vị đắng đắng, ngọt ngọt vừa nôn nao vừa dễ chịu. Tiếng than dưới đáy siêu reo lách tách... Rồi mùi thuốc dịu xuống, lửa tàn, tiếng than im bặt. Mặt lát khá lâu sau, tôi mới nghe tiếng chị Trúc khẽ khàng: - Hiệp ơi, ra uống thuốc. Tôi lặng im không ư hử. Chị Trúc lại gọi, tiếng chị hơi run run. Mãi không thấy tôi ra, chị đành bưng bát thuốc vào. Chỉ chờ có thế, tôi vùng lên ôm đại lấy chị. Chị hốt hoảng, thuốc đổ tung toé xuống giường: - Hiệp, buông ra không chị la lên cho má đánh chết. Tôi cứ giữ rịt lấy chị. "Đố chị có gan la lên. Má đánh chết Hiệp không lẽ chị không thương tí nào sao?". "Đồ quỷ, không thấy ai liều như cậu". Hai tay chị ra sức vả vào mặt tôi nhưng chẳng ăn thua. Rồi hai tay và cả thân mình chị đã bị tôi giữ chặt. Tôi vùi đầu vào vai chị, hít mãi mùi cơ thể chị nồng mặn và ngọt ngào, mắt tôi nhắm lại, mê man... Bất chợt tôi mở choàng mắt, vai nhói đau, rụng rời. Chị đang ngóc đầu lên, lấy hết sức lực cắn thật mạnh. Hàm răng chị dứt da dứt thịt tôi. Tôi bặm môi chịu đau chứ không chịu buông. "Chị cứ cắn đi, rồi ít bữa chị nhớ đưa Hiệp đi chủng ngừa". Chị Trúc không trả lời, răng vẫn nghiến chặt. Đau hết chịu nổi, tôi đành buông chị ra. Vai tôi ứa máu. Chị

Trúc vùng dậy, hốt hoảng vừa xoa vết thương cho tôi, vừa mếu máo: - Trời đất, có sao không, Hiệp ơi! Lúc ấy, toàn bộ sinh lực trong người tôi đang dồn ứ bỗng tiêu tan. Tôi rã rời như một cái thây ma, chỉ còn sức gạt mạnh tay chị: "Thôi đi đi! Mặc xác tôi!". Đến mai, vai tôi sưng vù, nhức nhối. Lần này tôi sốt thật sự nhưng vẫn phải ra ăn cơm uống nước kẻo sợ mẹ tôi hỏi han. Khốn khổ, trời Nha Trang tháng sáu nóng như thiêu như đốt nhưng trưa nào tôi cũng mặc áo sơ mi nghiêm chỉnh để che cái dấu răng thật đáng ngờ. Mười ngày sau, vết thương lành, để lại một vết lũm sâu tròn. Dấu chiếc răng nanh mọc khểnh của chị. Da thịt lành nhưng tâm hồn tôi nặng trĩu. Điều làm tôi lo lắng nhất là dường như sinh lực của tôi đã ra đi hẳn, không bao giờ trở lại nữa, thân xác tôi hoàn toàn nguội lạnh. Chị thì ngược lại. Hình như có điều gì đấy đã vùi chôn giữa thất vọng, muộn phiền và những công việc buồn tẻ thường ngày, nay chợt thức dậy, nhuộm trên toàn thân chị một vẻ gì khó tả. Dường như vóc dáng chị mượt mà hơn, mắt nhìn da diết hơn... Rồi một hôm rằm, mẹ tôi đi chùa, dẫn cả cu Tí đi theo. "Nó đã lên ba rồi, cho nó quy y để phật phù hộ cho nó". Còn lại có hai người, chị Trúc có vẻ sờ sợ, ra ngoài sân xắt chuối cho vịt ăn, không dám vào nhà. Thật ra lúc ấy tôi buồn rười rượi như cơm nguội, đâu có gì đáng cho chị sợ. Chợt giữa đàn vịt con đang ăn lúp súp, một chú vịt nhỏ bỗng quay đơ ra đất, giãy đành đạch. "Chắc là nó bị dịch, đang giãy chết" nghĩ vậy tôi phóng ra, chị Trúc cũng chồm tới, cùng đưa tay nắm lấy con vịt. Kỳ lạ thiệt, chú nhóc chỉ lảo đảo vì... nghẹn có một lúc rồi lại tươi tỉnh, còn tay chúng tôi lúc nãy cầm con vịt thì bây giờ lại cầm lấy tay nhau... Như sực tỉnh, chị Trúc rụt lại, nhưng tôi đã giữ lấy bàn tay chị: - Chị đừng sợ, Hiệp chẳng làm gì chị nữa đâu. Tôi cũng muốn thổ lộ nỗi lo lắng của tôi cho chị nghe nhưng xấu hổ không sao nói được. Chẳng hiểu từ lúc nào, hai chúng tôi đã ở trong tay nhau. Chị vừa phục tùng, vừa dẫn dắt tôi. Cơ thể tôi dần dần hồi sinh trở lại... Đó là lần đầu tiên trong đời tôi biết đến thân thể một người đàn bà. Trưa hôm ấy trời nắng, ngoài cửa sổ phòng tôi có lùm cây nhỡn xanh ngắt rung rinh, tiếng ve râm ran thật gần, có lúc lũ ve vùng kêu to làm Trúc giật mình, tôi phải ghì thật chặt để chị khỏi rời tôi... Những ngày sau đó tôi tươi như cây khô gặp mưa. Chiều chiều, tôi lại vác đàn ra ngõ hát vang: Cây trúc xinh, (tang tình là) cây trúc mọc (Qua lối nọ í như) sân chùa Chị Hai không yêu, (tang tình là) tôi đây cũng bỏ đạo bùa (Qua lối nhỏ í như) cùng yêu...

"Mày hát cái gì đấy, hở út?" Tôi giật mình quay lại. Chị Ba Thìn, chị ruột tôi sang chơi từ sáng, đang đứng tỉa rau dền trong sân mà tôi đâu có hay. Tôi ấp úng: - À... Em hát... hát dân ca. Chị Ba trừng mắt lên: - Dân ca à? Dân ca cái con khỉ! "Thiệt là bà chằn, người ta hát mắc mớ chi tới mình?" Tôi lầm bầm. Chị Thìn về, tôi chẳng nhớ, cũng chẳng thắc mắc gì thêm. Lúc đó tôi có để ý gì đâu, tôi chỉ thấy trời đất thật đẹp, tiếng ve thật du dương, tôi ước sao mùa hè dài vô tận. Trúc cũng vậy, chị đẹp ra trông thấy, má đỏ và mắt cứ ướt long lanh. Chị không ngồi bậc cửa và trông xa vời về phía quê nhà nữa... Một hôm, cây hoa râm nở thơm ngát, tôi hái một chùm, chạy xuống bếp đưa lên mũi Trúc. Chị đang rửa bát, né người qua bên, nhìn quanh rồi thầm thì: - Khi nào cô Ba đến, thì Hiệp phải ý tứ nghe. - Mình việc gì phải sợ. Khi chị Ba lấy anh Hải, cả nhà phản đối, riêng Hiệp còn ủng hộ nữa. - Hai chuyện khác nhau lắm, Hiệp nói dở òm. - Khác gì mà khác. Rồi đây mình cũng cưới nhau thôi, để chị Ba khỏi thắc mắc lộn xộn. Trúc giật mình, tôi phải chộp lấy cái chén trên tay chị để cho khỏi rơi. "Không được đâu Hiệp ơi!" Trúc vừa nói vừa rưng rưng rưng nước mắt. "Được! Nhất định được!". Tôi vừa ôm chị vừa nói như rìu chém xuống đá. Nước mắt chị tuôn chảy trên vai tôi, nước mắt hối tiếc, nghẹn ngào. Lát sau, chị kéo áo lau mắt trấn tĩnh lại: - Nói bà xàm. Ai thèm lấy đồ con nít. Tôi tức mình: "Con nít được à? Từ nay phải gọi Hiệp bằng anh". - Gọi không được, khó gọi vậy lắm Hiệp ơi - Chị thật thà bảo tôi. - Ít nữa thì phải gọi nhau bằng tên, không được xưng chị với Hiệp nữa. Tôi bắt chị thay đổi cách xưng hô cho được. Cuối cùng rồi chị cũng ngoan ngoãn nghe lời tôi. "Nhưng Hiệp phải giữ gìn làm sao cho má và cô Ba đừng ghét Trúc đó nghe". Nước mắt đã ráo, Trúc cười, mặt ánh lên niềm vui thơ dại. Có lẽ Trúc đã dần dần tin rằng chúng tôi sẽ ở bên nhau mãi mãi.

Hôm sau tôi nói với mẹ: "Má ơi, con muốn lấy vợ". Mẹ tôi vừa cơm nước xong, thủng thỉnh vừa xỉa răng vừa nói vần: Nực cười cái chuyện ó đâm Trai tơ đòi vợ khóc rầm cả đêm Dỗ hoài mẹ phải mắng thêm Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mày! Chị Ba tôi phá ra cười nghiêng ngả. Trúc ở dưới bếp thất kinh, đưa tay ra dấu cho tôi đừng nói nữa. Tiếng cười của chị Ba làm tôi tự ái. Tôi quyết định không cần nói thêm gì hết. Hè đã sắp qua, tôi sẽ vào trường, học thật giỏi, sẽ có nghề, sẽ tự lập, sẽ lấy vợ, và gia đình phải nghe tôi... Vào Sài Gòn, tôi cắm đầu cắm cổ học. Nhưng mới vừa được một tháng, nhớ Trúc quá, tôi vội vã về thăm nhà. Ra mở cửa chỉ có mình mẹ tôi, dáng gầy mệt mỏi vì một mình lam lũ với bao công việc. Trên dây phơi, những cái áo cánh, những cái quần nhỏ xinh xinh của cu Tí không còn nữa. - Má ơi sao không thấy... - Tôi run run không hỏi được hết câu, vì mẹ tôi đã nghiêm ngay nét mặt: - Lại còn hỏi à, tao đuổi nó đi rồi! Mày tưởng qua mặt được tao sao? - Trời ơi, đi đâu? - Tôi sững sờ. - Đi đâu mặc xác! Tao đã thương mà chứa chấp, không biết ơn lại quyến rũ con tao, thì tao bỏ hẳn, cho nó chết cho biết thân! Tôi thả cái xách rơi xuống đất. Muốn khóc mà không dám khóc! Mẹ tôi hiền hậu là vậy, mà bây giờ mặt đanh lại, mắt long lên, như dáng vẻ con gà mái bảo vệ bầy con trước nanh vuốt lũ diều. Mẹ ơi! Mẹ làm sao hiểu, có bao giờ Trúc quyến rũ con đâu? Tết năm ấy, tôi nói dối là ở lại Sài Gòn học thi, đi ra tận Lăng Cô xa xôi, tìm xem Trúc có ở quê hay không? Chuyến tìm kiếm vô vọng, tôi về Sài Gòn, người gầy rộc đi như que củi. Đến hè, tôi lại một lần nữa ra Lăng Cô, theo lời chỉ dẫn của người làng tìm đến Huế, gặp người chồng cũ của Trúc. Ông này đang sống yên ổn với vợ con, không biết mà cũng không muốn nhắc đến số phận của con người từng là nạn nhân của mình. Ông ta nhìn tôi như thể nhìn một thằng nhóc bị bệnh tâm thần, đã cất công lặn lội chỉ vì một chuyện vớ vẩn. Tôi nghẹn ngào ra đi, đầu óc hoang mang không sao hiểu nổi: tôi còn chưa vợ, Trúc không có chồng, vậy mà sao chúng tôi không được sống với nhau?

Trúc đi hẳn. Không âm vang, không tin tức. Nhưng mấy mươi năm qua rồi, trên vai tôi vẫn còn một vết sẹo, dấu của chiếc răng khểnh. Bây giờ nhớ lại, tôi biết mình đã may mắn hơn nhiều bạn trai cùng lứa tuổi. Bài học vỡ lòng về điều bí ẩn của tồn sinh, tôi đã không phải học với những cô gái làng chơi gian dối, mà trong vòng tay ấm áp của một người đàn bà dịu dàng, chân thật và thương yêu tôi. Chẳng biết bây giờ Trúc ở đâu, còn sống hay đã chết. Cứ mỗi lần sờ tay trúng vết sẹo trên vai, tôi lại nhớ mùa hè ngây dại của tuổi hai mươi, có lùm cây che khuất cửa sổ, có tiếng ve râm ram giữa trưa hè. Bất giác tôi nhắm mắt lại gọi thầm: "Chị Hai ơi!". Chung vách Chính không tin vào mắt mình nữa, tình cờ tháo tờ báo gói đôi dép nhựa Thu mới mua để anh đi trong nhà, anh bỗng nhận được tin một người bạn cũ của mình bị đình chỉ công tác. Không tin, bởi khuyết điểm anh ta mắc phải chính là những điều mà trước kia, khi chưa nắm quyền, anh ta đã đấu tranh dẹp bỏ... Cơn nhức đầu đeo đẳng Chính suốt tháng nay lại có phần gia tăng khi đọc mảnh báo ấy. Cộng thêm nỗi bực chờ cơm vợ mặc dù cháu vợ anh, con bé Hải đã báo tin, mợ dặn cậu cứ ăn cơm trước đi, hôm nay mợ đi làm đầu, có lẽ về hơn muộn... Thu vẫn là người rất chu đáo, dù không về ăn cơm cùng, cô vẫn chỉ đạo con Hải làm những món ăn Chính đi ưa thích: cá lạt chiên dòn rồi chưng với tương, bún tàu, mướp... Canh củ cải muối với thịt nạc. Thịt bò xào cần, cà chua... Đó không phải là món ưa thích của hai đứa con anh. Con Thiên Hoa sợ mướp như sợ thuốc đôc, nó cứ lén liệng miếng mướp xuống cho con chó Mi-nô dớp... mà Mi-nô thì cũng chê mướp, nó ngủng ngoẳng bỏ đi, tỏ vẻ bực mình tại sao lại đánh giá nó thấp tới như vậy... Thằng Thiên Tú thì bị ám ảnh mấy miếng củ cải muối khi chưa xắt ra giống mấy con chuột chù nên cương quyết không đụng vô món canh ngọt lịm. Mới được lưng chén cơm thì có tiếng chuông, con Hải rón rén ra bảo khách chờ... Chính ăn không ngon hai chén còn lại... Bực quá sức bực... Tám tiếng ở cơ quan tiếp khách đã ngán ghê, về tới nhà với vợ con vài tiếng đồng hồ cũng không được yên thân... Vợ thì đi uốn lại một mái tóc mới uốn cách đây hai tuần, khách đến đây không xin xỏ duyệt giấy tờ cũng nằn nì lơ cho khuyết điểm này nọ... Bỗng nhớ lại X, cái thằng, dở thật... Và cơn nhức đầu lại đến, giật buốt lên mạch máu đập hai bên thái dương... Đến lúc mâm cơm được dọn sạch, tăm trà được đem lên, người khách được đưa vào, ông ta mới biết mình lầm sau mười lăm phút đợi chờ... Người ông ta cần gặp là ông Chiến, người láng giềng ở sát vách của Chính... Chính thở phào nhẹ nhõm nên không tiếc gì vài câu xã giao với khách... Chú quen làm sao với ông Chiến? Bà con ở ngoài Bắc mới vào à? định tá túc ở đây sao? Không ổn đâu! Nếu anh còn một chỗ ở nào khác thì tới đó tốt hơn... Cái đó thì chú gặp ông Chiến khắc biết... Ông khách hốt hoảng cáo từ vác đồ quay

lụi. Bỗng Chính trở thành một tên nhiều chuyện. Không khéo mình cũng như vướng vào khuyết điểm mà trước đây mình rất chống, chính vì ngại sự điều tiếng, thị phi, mình mới rời cái biệt thự mênh mông để chui vào chung cư này sống. Lẽ ra mình không nên xía vào chuyện người nhất là khi người đó lại là ông Chiến, một sĩ quan của chế độ cũ và được ân xá về nhân dịp lễ lớn này. Còn anh lại là một cán bộ lãnh đạo được đào tạo và lớn lên bởi chế độ xã hội chủ nghĩa. Cuộc đời Chính tương đối không gặp gì trục trặc đáng kể. Cha mẹ đều giữ những chức vụ quan trọng của nhà nước... Hai ông bà ở một villa rất lớn gần chung cư này. Đó là nỗi khổ tâm duy nhất của Chính. Anh không thích ở chung với cha mẹ. Anh không thích mang tiếng mọi thứ được là do vợ. Vợ anh cũng thuộc loại người có chức có tiền. Cơ quan hai người đều có tiêu chuẩn nhà riêng, nhưng muốn lấy được nhà phải trục xuất nhóm người khác đang ở bất hợp pháp. Không muốn phiền phức, với số tiền sẵn có, họ đi sang căn phòng đôi chung cư này với giá vài chỉ, cho xong. Phòng họ nằm ở cuối dãy hành lang lầu bốn. Chính cho lín của mình đến làm một mình đến làm một vách gỗ ngoài hành lang ngăn họ lại với những gia đình xô bồ bên ngoài... Khó mà xác định được thàn phần của các gia đình ấy. Dân trí thức cũ có, dân mánh mung có, dân trí thức chuyển hướng mánh mung cũng có... Chủ toàn chung cư là một người ấn, dựng ngôi nhà lên hoàn toàn với mục đích thu lợi. Giá tiền từng căn hợp với hạng công chức trung lưu. Thuê phòng còn có các cô ca sĩ phòng trà, những bà me Tây chuyển sang me Mỹ, diễn viên của các đoàn ca múa nhạc kịch xiếc..., các cậu con nhà giàu đi bụi đời. Sau giải phóng, chủ đi, dân thuê nhà trả giá tháng rẻ mạt cho Sở quản lý nhà đất thôn qua tổ trưởng khu phố... Chính sang lại căn phòng đôi ca sĩ Nguyên Oanh - Hồng Ninh sau khi họ đã có giấy xuất cảnh đi chính thức... Bà mẹ Chính rất phiền bực chuyện vợ chồng con cái anh sang ở với thành phần mà họ cho là lộn xộn... Ngược lại, Chính rất vừa lòng với cái không khí mạnh ai nấy sống, chẳng ai để ý đến ai... Tuy thế, Chính vẫn giảm tối đa chuyện tiếp khách ở nhà riêng... Trẻ tuổi, có tiền, có quyền, anh chẳng mong chi hơn là được yên thân, anh không muốn sa vào các vụ tiêu cực để báo chí moi móc, đứt ngang cuộc sống đã ổn định của anh. Mà cái loại khách đến nhà riêng, thường là để nhõng nhẽo yêu sách một chuyện gì đó, chuyên gây khó xử cho anh. Bạn cũ hoặc bà con xa, không giúp thì nghe trách, giúp thì kẹt... Với tất cả lòng thành của một con người mà nói, anh chẳng ham làm lãnh đạo vhút nào. Anh chỉ muốn yên ổn để làm việc. Còn biết bao chuyện muốn làm. Trước ngày ông Chiến trở về, vhính thật sự thoải mái, đạt được phần nào nhu cầu yên thân làm việc đó. Láng giềng sát vách của anh bấy giờ chỉ là cô con gái xinh đẹp của ông Chiến. Cách đây năm năm, khi Chính mới về, cô bé chỉ mới mười lăm tuổi, sắc đẹp sớm thấy như một đoá hồng mới nứt nụ. Cô bé có vẻ như một người được giáo dục đàng hoàng, sống ít bạn bè, không se sua, cúng đi sớm về tối dường như đi học hay di làm ở một nơi tử tế nào đó... Khoảng mười tám tuổi, cô nhỏ có một anh chàng bạn trai, cũng sáng sủa đẹp đẽ như cô, thường hay đưa đi đón về. Hai đứa cúc rúc cù rù mỗi tối như hai con chim câu bé... Thu cho Chính hay, bởi thăm thì nghe con bé khoe đợi ba về sẽ làm

đám cưới... Hai vợ chồng Chính có một gái, một trai: Thiên Hoa bảy tuổi và Thiên Tú sáu tuổi... Họ chăm sóc con kỹ rất sợ láng giềng hư làm ảnh hưởng tới trẻ nhà mình. Một năm trở lại đây, chiếc Pianô hiệu Yamaha được khiêng lên nhà hai vợ chồng để Thiên Tú tâph đàn dù thằng bé không hào hứng lắm... Cũng một năm trở lại đây, dường như cô con gái ông Chiến không còn được đi học hoặc đi làm chỗ cũ nữa... Chàng bạn trai xinh đẹp cũng chẳng thấy tới lui... Thu nói chuyện với chồng tỏ vẻ htắc mắc sao con bé cứ ở nhà hoài thì Chính cứ gạt đi. Mình đã không muốn ai để ý tới mình thì càng không nên để ý tới ai... Nói là vậy, nhưng làm sao Chính không thấy sự khác thường này, sau một buổi trưa, nghe tiếng búa đóng cộp cộp bên kia tường, Thu không ngủ được, sang quở mắng con bé nhẹ tay một chút thì bắt gặp nó đang lúng túng với hai tấm màn vải tám in hình con chó con có cột nơ trên đầu nhái theo vải ngoại. Thu phải phụ nó luồn mấy cái khuy vải máng vào hai sợi dây kẽm mềm rồi cột siết vào mấy cái đinh mới đóng để ngăn cái phòng ra làm ba... Bắt đầu từ đó, căn phòmg ấy xuất hiện nhiều người lạ mặt. Họ đến vài tiếng rồi đi. Chính ngỡ con bé ở một mình buồn nên kêu bà con tới ở cho vui. Thu thì nghe con bé bị người lớn lợi dụng, biến chỗ này làm một tụ điểm tổ chức buôn lậu hay vượt biên, dựa trên cơ sở ba nó vốn đã đi học tập về rồi nhưng dính lại lần hai vì nghe đâu bị bạn bè khai rằng có liên quan tới những tổ chức làm ăn phi pháp của họ. Chính không biết gì về người sĩ quan chế độ cũ này. Chỉ nghe viên tổ trưởng nói về ông Chiến với một vẻ trân trọng hiếm có. Ông ấy là một người thổi kèn cho đoàn quân nhạc hồi xưa. Ông ấy sống rất có tình với lối xóm bà con. Dạo còn được tự do, dù bản thân gặp rất nhiều khó khăn sau khi vợ bỏ đi lấy chồng. Ông ấy vẫn luôn tìm cách giúp đỡ mọi người xung quanh khi có dịp. Tầng trệt, bà Nhuận gây lộn với chồng về nhà mẹ ở, ông Nhuận đi nhậu nhẹt, Ông Chiến phải xuống hướng dẫn bọn trẻ tổ chức gia đình. Chồng cô Tuyến tầng sáu là một người viết báo, khi nóng lên vẫn thích ghè đầu vợ bằng ghế và tự hào rằng chung cư này không ai dám dạy vợ như anh ta, chỉ có ông Chiến là can đảm lên can mà không sợ anh chàng nổi khung giở giọng ghen tuông như với người khác. Nghe Thu nói giọng ác cảm với con bé con ông Chiến. Chính thường tặc lưỡi "Em khéo tưởng tượng thì thôi, có lẽ hoàn cảnh mẹ bỏ đi, cha không được ở cạnh, lại mất việc làm, nó cho họ thuê nhà kiếm tiền đi chợ thôi chớ có chuyện gì đâu". Để ý hơn, hai vợ chồng thấy con bé vẫn không se sua, vẫn ít bạn bè, vẫn chưa có người yêu mới... Đúng là nó chỉ kiếm tiền chợ! Còn bọn làm bậy dễ biết lắm, đồng tiền phi nghĩa thường xui họ xài vung vít, như người ta vẫn nói: "Xài như đĩ". Cính nhăn mặt khi nghe Thu nhắc đến ba chữ này trước mặt con... Cũng may, thằng bé Thiên Tú đang mướt mồ hôi với ông thầy dạy đờn nên không để ý. Anh hơi xấu hổ với cậu thanh niên trẻ tuổi, sinh viên năm thứ ba Nhạc viện đang dạy kèm con anh. Nếu có người là se sua nhất chung cư này bầy giờ thì phải kể vợ anh. Thu mới sắm một chiếc Honda lùn màu trắng xen cam trông ngộ nghĩnh như một món đồ trẻ con phòng lớn. áo toàn xoa bóng, xuýt gân... Quần thì thứ dzin chà chùi bằng đá của Mỹ chớ không chơi đồ Thái Lan, cỡ nửa chỉ một cái. Có người quen nói riêng với anh, chị diện thế nào tôi cũng nhận ra chị không phải là người Sài Gòn cũ. Chính tra hỏi mãi anh ta mới nói. Dù cũng đều mắc tiền, nhưng áo đó không phải đi với quần đó bao giờ. Chính giúp vợ hì hục chỉnh "gu" lại. Anh chàng đó vẫn cười, vẫn bảo nhận ra... Cũng gặng hỏi mãi, anh ta

mới tiết lộ: nguyên bộ ấy ở đây chẳng ai mặc vào người trong hoàn cảnh ấy. May mà Thu không nghe. Mọi chuyện ăn diện của cô không ngoài mục đích đừng ai biết ngày xưa cô ở rừng về. Không hiểu sao càng ngày Chính càng cảm thấy cuộc đời anh thêm rắc rối chứ không trơn tru nữa... Không, vợ chồng anh không hề nhúng tay vào việc làm gì phi pháp... Thu chỉ là người khéo xoay, biết gởi tiền vào những chỗ làm ăn tin cậy được để kiếm lãi suất hàng tháng tiêu dùng. Mà những chỗ ấy đều có môn bài hơp pháp hẳn hoi. Con anh vẫn xinh xắn... Thiên Hoa hát hay, có được lên Truyền hình trong chương trình Những bông hoa nhỏ. Thiên Tù thì đã tập được những bài khó của Chopin, Schubert. Vợ anh tuy thay đổi bề ngoài nhưng vẫn thuỷ chung với anh... Công việc ở cơ quan anh vẫn tiến triển đều. Trong đợt báo chí rộ lên những nơi tiêu cực, quan liêu... cơ quan anh lẫn Thu đều khôn dính... Cái rắc rối ấy, phải chăng cồm cộm như một cái mụn trên mặt, chỉ nặn một cái là không ảnh hưởng gì tới sức khoẻ, sắc đẹp người mang nó... Nó chỉ là diện mạo anh hơi xấu đi một chút... Và phải chăng nó nằm nơi căn nhà sát vách gia đình anh. Trước khi ông Chiến về một tháng, một trận cãi nhau dữ dội ở nhà con gái ông làm mọi chuyện vỡ lở ra. Hoá ra con bé nghe lời ai không biết, ngăn phòng ra làm ba cho các cặp tình nhân lén lút đến thuê giờ. Trả tiền rồi mà không được thoải mái vì bên kia tấm màn cũng có người, họ đòi con bé trả bớt tiền. Nhưng nó cũng khôn, lấy tiền đủ từ đầu, không trả lại... Thật ra chuyện con bé sinh nhai bằng nghề này sau khi thất ngiệp ai cũng biết, nhưng họ lơ cho nó làm ăn, theo đúng tinh thần mạnh ai nấy sống. Ông tổ trưởng thì nể tình ông Chiến, có kêu nó la và con nhỏ hứa lần lữa là sẽ dep... Té ra vợ chồng Thu và Chính là là hai người biết cuối cùng... Thu tái mét như bị trúng gió khi hay tin này. Cô tỏ vẻ hối hận đã không nghe lời cha mẹ đút đầu vào cái ổ nhền nhện này cho vướng tơ. Hai vợ chồng nhất trí cùng kiếm chỗ ở mới. Những đã mười hai năm sau giải phóng. Vấn đề nhà cửa càng ngày càng khó khăn thêm, đâu dễ gì kiếm được một chỗ vừa ý như lúc mới về. Cha mẹ Chính kêu thôi sang nhà ba mẹ mà ở. Ba mẹ cũng về hưu cả rồi, rất muốn sống gần con cháu cho vui. Thu hối Chính dọn đi lẹ trong lúc chờ kiếm được nhà riêng. Thậm chí đôi khi lỡ ngồi tựa vào tấm vách chung, cô vội bật ra, chạy vào sàn nước ói mửa khi liên tưởng bên kia đang có mấy cặp tình nhân. Và rồi ông Chiến được tha về, đời sống con bé được ổn định, họ mới thôi có ý định chuyển nhà. Ông Chiến được cho về nhân dịp lễ lớn trong năm. Ông được về sớm còn là vì không đủ chứng cớ buộc tội, một người tình cũ của vợ ông túng quá khai liều. Hôm ấy, Chính đi làm về cùng lên cầu thang một lượt với ông. ở ông có vẻ gì khác thường khiến Chính chú ý ngay. Gần như ai cũng sử dụng những bậc thang này thay cho bậc thang máy ngày xưa đều có vẻ mệt nhọc, kiềng riềng, dù không ra lời nói cũng ra vẻ mặt không được thoải mái lắm. Còn ở người đàn ông này. Chính bắt gặp một sự tĩnh lặng hiếm có của mặt hồ quê nhà trong những đêm hè khi anh còn bé. Chính đâu ngờ sự tĩnh lặng ấy cứ cuốn hút lấy tâm trí anh ngay cả trong giờ làm việc cơ quan là một chuyện chưa hề xảy ra trước đó... Anh đâm ra tò mò muốn biết nhữgn suy nghĩ gì đằng sau khuôn mặt gần như vô hồn ấy, chẳng biết anh sẽ giải quyết chuyện nhà ra sao. Nghe phong phanh tin cha về, con bé, dưới sự tác động của vien tổ trưởng, đã đuổi sạch bọn thê giờ chỉ cho một cặp vợ chồng có hôn thú hẳn hoi thuê tháng.

Không biết Thu nghe ai kể, rằng khi nghe thuật lại việc làm của con gái, ông Chiến chẳng nói tiếng nào, chỉ rê thuốc hút... Nhưng sau đó vài ngày, nghe tiếng nổ lép bép, Chính chạy ra thấy ông đang cắt vụn mấy tấm màn bỏ vào chậu sành, đốt sạch.Những người ở gần có vẻ phiền hà vì sợ hoả hoạn nhưng kể cả ông tổ trưởng, chẳng ai dám can. Họ có vẻ gì sờ sợ ông Chiến dù đó là hành động khác thường duy nhất của ông. Dường như ông có yêu cầu cặp vợ chồng có hôn thú kia rời khỏi nhà ông ngay nhưng họ xin một tháng kiếm nhà. Trong lúc chờ đợi, sáng sớm ông rời nhà đến tối mịt mới về. Chính biết chỗ nghỉ của ông. Đó là một cái kho chứa đồ cũ nằm áp mái cạnh nhà Chính. Thể tích của của nó bằng cỡ bốn cái hòm chồng lên, vách dày ra hành lang của nó là một tấm lưới ô mắt cáo. Có đêm, sau một buổi liên hoan vì yêu cầu ngoại giao ở khách sạn S, hai vợ chồng trở về ngang đó, thấy ông nằm xoay trở, dường như không ngủ được... Trong nhà vẳng ra tiếng cười hồn nhiên của cô con gái xinh đẹp của ông. Thế rồi, thật là vô duyên, cơn mất ngủ bỗng đến với Chính. Không ngủ được, anh đâm ra suy nghĩ lan man, nhớ đến những lùm tre, tiếng ếch, uểnh oang thuở nhỏ, những tối sợ ma phải băng qua cánh đồng ngun ngút để đem bánh tới nhà ông ngoại ở bìa thôn. Bố mẹ năn nỉ mãi ông ngoại vẫn không chịu về chung sống. Ông sợ người vợ sau của ông, bà ngoại ghẻ của Chính buồn... Chính nhớ lõm bõm lời ông ngoại nói: "Căn nhà, ngoài việc che mưa trú nắng, còn là chỗ dựa tinh thần không thể thiếu được trong cuộc sống con người. Cái xó anh ở tuy bé, tồi tàn, xộc xệch nhưng nó là cái góc của riêng anh... Hằng đêm, bên cạnh anh khuôn mặt bóng lớp kem dưỡng da, Thu vẫn ngủ rất ngon. Phòng bên cạnh, con Thiên Hoa, thằng Thiên Tú, con Hải, con chó Mi-nô và cả chung cư này nữa, dường như ai cũng ngủ rất ngon. Anh có cảm giác toàn khu nhà này chỉ có anh và ông Chiến thức. Dường như an hnghe rõ, thật rõ, nhịp tim đập, tiếng thở khẽ khàng của người đàn ông bên kia bức vách. Thật là phiền, khoẻ khoắn biết bao nếu anh tuyệt đối theo phương hướng sống của mình không để tâm tới chuyện người khác. Cớ sao, anh cứ bị người đàn ông mà anh chưa hề một lần trò chuyện ấy quấy rầy. Có đêm, dường như anh nghe tiếng kèn của ông lúc nửa đêm, nghe nẫu lòng như tiếng chó tru trăng những đêm băng đồng tới nhà ông ngoại. Anh lay Thu dậy thì tiếng kèn bỗng bặt im. Không, có lẽ chỉ là ảo giác của anh thôi. Thu có đưa anh đến bác sĩ tư, họ tống cho anh một mớ thuốc an thần... Chínhh lén vợ ném thuốc đi. Thuốc men bệnh tật gì đâu. Anh làm việc nhiều, tiếp khách đến chóng mặt, phệ bụng vì bia, nhức đầu vì những khó khăn mình biết đó nhưng không thể không sai phạm. Ông Chiến được cho về nhân dịp lễ lớn trong năm. Ông được về sớm còn là vì không đủ chứng cớ buộc tội, một người tình cũ của vợ ông túng quá khai liều. Hôm ấy, Chính đi làm về cùng lên cầu thang một lượt với ông. ở ông có vẻ gì khác thường khiến Chính chú ý ngay. Gần như ai cũng sử dụng những bậc thang này thay cho bậc thang máy ngày xưa đều có vẻ mệt nhọc, kiềng riềng, dù không ra lời nói cũng ra vẻ mặt không được thoải mái lắm. Còn ở người đàn ông này. Chính bắt gặp một sự tĩnh lặng hiếm có của mặt hồ quê nhà trong những đêm hè khi anh còn bé. Chính đâu ngờ sự tĩnh lặng ấy cứ cuốn hút lấy tâm trí anh ngay cả trong giờ làm việc cơ quan là một chuyện chưa hề xảy ra trước đó... Anh đâm ra tò mò muốn biết nhữgn suy nghĩ gì đằng sau khuôn mặt gần như vô hồn ấy, chẳng biết anh sẽ giải quyết chuyện nhà ra sao. Nghe phong phanh tin cha về, con bé, dưới sự tác động của vien tổ trưởng, đã đuổi sạch bọn thê giờ chỉ cho một cặp vợ chồng

có hôn thú hẳn hoi thuê tháng. Không biết Thu nghe ai kể, rằng khi nghe thuật lại việc làm của con gái, ông Chiến chẳng nói tiếng nào, chỉ rê thuốc hút... Nhưng sau đó vài ngày, nghe tiếng nổ lép bép, Chính chạy ra thấy ông đang cắt vụn mấy tấm màn bỏ vào chậu sành, đốt sạch. Những người ở gần có vẻ phiền hà vì sợ hoả hoạn nhưng kể cả ông tổ trưởng, chẳng ai dám can. Họ có vẻ gì sờ sợ ông Chiến dù đó là hành động khác thường duy nhất của ông. Dường như ông có yêu cầu cặp vợ chồng có hôn thú kia rời khỏi nhà ông ngay nhưng họ xin một tháng kiếm nhà. Trong lúc chờ đợi, sáng sớm ông rời nhà đến tối mịt mới về. Chính biết chỗ nghỉ của ông. Đó là một cái kho chứa đồ cũ nằm áp mái cạnh nhà Chính. Thể tích của của nó bằng cỡ bốn cái hòm chồng lên, vách dày ra hành lang của nó là một tấm lưới ô mắt cáo. Có đêm, sau một buổi liên hoan vì yêu cầu ngoại giao ở khách sạn S, hai vợ chồng trở về ngang đó, thấy ông nằm xoay trở, dường như không ngủ được... Trong nhà vẳng ra tiếng cười hồn nhiên của cô con gái xinh đẹp của ông. Thế rồi, thật là vô duyên, cơn mất ngủ bỗng đến với Chính. Không ngủ được, anh đâm ra suy nghĩ lan man, nhớ đến những lùm tre, tiếng ếch, uểnh oang thuở nhỏ, những tối sợ ma phải băng qua cánh đồng ngun ngút để đem bánh tới nhà ông ngoại ở bìa thôn. Bố mẹ năn nỉ mãi ông ngoại vẫn không chịu về chung sống. Ông sợ người vợ sau của ông, bà ngoại ghẻ của Chính buồn... Chính nhớ lõm bõm lời ông ngoại nói: "Căn nhà, ngoài việc che mưa trú nắng, còn là chỗ dựa tinh thần không thể thiếu được trong cuộc sống con người. Cái xó anh ở tuy bé, tồi tàn, xộc xệch nhưng nó là cái góc của riêng anh... Hằng đêm, bên cạnh anh khuôn mặt bóng lớp kem dưỡng da, Thu vẫn ngủ rất ngon. Phòng bên cạnh, con Thiên Hoa, thằng Thiên Tú, con Hải, con chó Mi-nô và cả chung cư này nữa, dường như ai cũng ngủ rất ngon. Anh có cảm giác toàn khu nhà này chỉ có anh và ông Chiến thức. Dường như an hnghe rõ, thật rõ, nhịp tim đập, tiếng thở khẽ khàng của người đàn ông bên kia bức vách. Thật là phiền, khoẻ khoắn biết bao nếu anh tuyệt đối theo phương hướng sống của mình không để tâm tới chuyện người khác. Cớ sao, anh cứ bị người đàn ông mà anh chưa hề một lần trò chuyện ấy quấy rầy. Có đêm, dường như anh nghe tiếng kèn của ông lúc nửa đêm, nghe nẫu lòng như tiếng chó tru trăng những đêm băng đồng tới nhà ông ngoại. Anh lay Thu dậy thì tiếng kèn bỗng bặt im. Không, có lẽ chỉ là ảo giác của anh thôi. Thu có đưa anh đến bác sĩ tư, họ tống cho anh một mớ thuốc an thần... Chínhh lén vợ ném thuốc đi. Thuốc men bệnh tật gì đâu. Anh làm việc nhiều, tiếp khách đến chóng mặt, phệ bụng vì bia, nhức đầu vì những khó khăn mình biết đó nhưng không thể không sai phạm. Cơn nhức đầu đeo đẳng anh suốt từ lúc biết tin X bị đình chỉ công tác đến giờ vẫn càng lúc càng gõ giật đầu anh với tiết tấu dồn dập hơn. Thu đã về, cho biết ăn cơm rồi, thấy Chính có vẻ mệt mỏi vội đem thuốc tới ép uống. Cô có vẻ thoả thích lăm với kiểu tóc đơn sơ cúp ngắn vào hai bên tai, kẹp ngược về phía sau trán gọi là kiều "Việt Kiều". Chính thì thấy kiểu tóc này không hợp với lứa tuổi vợ anh nhưng không muốn vợ cụt hứng nên khen vài câu chiếu lệ. Bỗng anh giật bắn cả người khi nghe tiếng búa đóng đinh cồm cộp ở bức vách bên kia. Thu lại định sang than phiền nhưng Chính níu vợ lại... Đêm qua, cũng một buổi đi dự liên

hoan có tính cách ngoại giao cho cơ quan về, ngang qua mảnh sân dưới đất, lúc ấy toàn chung cư đang họp tổ dân phố, anh ngh loáng thoáng ông tổ trưởng đề cập tới vấn đề ông Chiến chưa có việc làm, tạm thời có lẽ bố trí ông tăng cường Tổ bảo vệ chung cư. Nhưng ông Chiến đã đứng lên từ chối, ông nói ông có nghề thổi kèn, có lẽ tháng sau xuống miền Tây làm nhạc công cho một đoàn cải lương tỉnh. Chỉ xin bà con lối xóm chăm sóc giùm cô con gái nếu ông có dịp phải đi xa... Chính kêu vợ gọi điện thoại xin phép cơ quan cho mình nghỉ buổi chiều. Hôm nay, hai vợ chồng có hôn thú đã dọn đi, ông Chiến có ở nhà buổi trưa, người đóng đinh không thể là con bé nữa. Chính tự mắng mình khéo giàu tưởng tượng. Cứ gì đóng đinh vào tường lại phải là cái chuyện ấy. Có lẽ mình bị chuyện của X ám ảnh chăng? Anh bỏ sang phòng bên. Cậu sinh viên năm thứ ba Nhạc viện đang nói về người nhạc sĩ điếc nhưng vẫn say sưa ság tác được những tác phẩm bất hủ... cho thằng bé Thiên Tú nghe. Thằng bé thì mải theo dõi một con diều lạc lõng giữa nắng trưa ở sân thượng lầu dưới bay lên. Có tiếng búa, nó không vang ở vách nhà bên cạnh nữa, mà vang trong đầu anh, cồm cộp, cồm cộp, đều đặn trầm buồn như tiếng búa gõ vào nắp áo quan... Cho dù anh lẩn trốn chỗ nào! Nguyễn Thị Minh Ngọc Trò đùa Mấy năm qua đắm chìm trong hạnh phúc gia đình cô cứ ngỡ mình đã quên đi dĩ vãng đau đớn. Nào ngờ chỉ một thoáng tình cờ cũng đã khơi dậy tất cả. Vết thương lại toác miệng và trái tim cô lại rỉ máu. Những hình ảnh cũ ào ạt tuôn về. Quá khứ tràn đầy tâm thức. Thủy nâng chiếc kính vào đúng vị trí thường đeo trên mắt. Đất trời bừng sáng, mọi vật như xích lại gần. Cô khẽ lắc nhẹ đầu sang hai bên, mắt vẫn nhìn thẳng đằng trước. Các hình ảnh cô nhìn được trong tầm mắt không hề bị lay động. Không có cảm giác bị chóng mặt. Vậy là tốt rồi. Kinh nghiệm đeo kính cận lâu năm cho biết cô đã chọn được kính hợp với mắt mình. Cửa hiệu kính này đang rất có tiếng. Bây giờ, với cặp mắt kính mới tinh trong veo này, cô lại có thể nhìn thấy rõ nét mặt của từng người đi ngang qua đường. Bỗng một cặp trai gái líu ríu dừng lại ngay cửa ra vào của hiệu kính. Người thanh niên có vẻ như là một Việt kiều hoặc một du khách Đông Nam á đang lúng túng trước đề nghị gì đó của cô bạn gái. Cô ta uốn éo bám lấy eo lưng của người thanh niên, lôi kéo, thúc giục, âu yếm, vuốt ve thản nhiên như xung quanh không bóng người. Cô ta mặc một chiếc quần soóc mini đỏ chót bó chặt hông. Đôi chân mập mạp ngăm ngăm đi một đôi giầy da đen ngắn cổ, loại đang thịnh hành. Một chiếc áo vàng không khuy buộc thắt ở đằng trước, ngắn đến ngang lưng hở một đoạn ở rốn. Mặt cô ta bự phấn son, mắt tô xanh, cái miệng đỏ chót liến thoắng, nũng nịu - Ôi quen quá!

Thủy bỗng giật nẩy người như phải bỏng. Cô nép vào cánh cửa một cách không ý thức, như một phản xạ tự nhiên trước nguy hiểm. Loan, cái con mèo cái ấy! Hơn mười năm đã qua rồi, nhưng nỗi đau vẫn còn nguyên chẳng thể chữa lành. Chuyện bắt đầu từ hôm cô và Công đi xem các loại thiếp mời, chuẩn bị cho đám cưới sắp tới của họ. Sau một hồi bát phố, họ dừng lại ở Tràng Tiền ăn kem. Kem Tràng Tiền thuở đó ngon có tiếng và đông nghìn nghịt. Thủy đứng trông xe nhìn Công chui vào đám đông chen vai thích cách thể hiện vai trò hiệp sĩ của mình. - Này Thủy! Lâu lắm mới gặp - Có tiếng một cô gái gọi giật ngay bên tay, sau một cú đập tay nhẹ vào vai thân thiện. Thủy ngoảnh lại nhíu mày tò mò. Một cô gái xinh đẹp nhưng son phấn nặng nề mọc lên trước mặt Thủy. Cô ta mặc rất diêm dúa lòe loẹt, đầu uốn kiểu xù mì. - Không nhận ra tớ à? - Cô gái bíu vào tay Thủy xoắn xuýt niềm nở - Loan đây mà. - Ờ, Loan 5c! - Thủy nhớ ra rồi. Cái Loan thô kệch, ù lì, học dốt ngày xưa. Vậy mà nay nó bỗng trở nên xinh đẹp, nhanh nhảu, chải chuốt như lột xác. Hồi đó Thủy học giỏi nhất lớp và chỉ chơi với nhóm "tứ quái" tức bốn đứa học giỏi, thường chia nhau hết các điểm 9, 10 của lớp nên cũng không quan tâm đến Loan mấy. - Sao lại đứng đây một mình? - Loan hỏi tự nhiên như thể họ vừa chia tay nhau hôm qua. - À, tớ chờ... - Thủy hất hàm về phía đám đông. Vừa lúc đó Công chui ra, hai tay cầm mười que kem vẻ đắc thắng. - Chiến lợi phẩm đây! - Anh vẫn thường tự hào về cái tài chen ngang của mình. Nhìn thấy Loan đứng đó vẻ thân mật e lệ bên Thủy, Công hơi sững lại một giây trước ánh mắt cầu thân của Loan rồi điệu đà nghiêng mình chào cô ta. Anh nhún vai, lắc đầu ra vẻ chỉ vì vài que kem vớ vẩn mà anh không được chỉnh chu cho lắm khi ra mắt Loan - Xin thứ lỗi! Những cử chỉ điệu bộ của lần đầu Công gặp gỡ Thủy! Linh tính như mách bảo cô một điều gì đó chẳng mấy tốt đẹp. Nhưng Thủy vội gạt đi. - Xin giới thiệu với Loan đây là anh Công, chồng sắp cưới của mình. - Rồi quay sang Loan, Thủy nói - Đây là Loan, bạn học với em từ hồi lớp 5. Em chỉ học cùng có một năm nên từ đó đến nay không gặp lại, Loan đã chuyển sang trường khác... - Phải cố kiềm chế lắm Thủy mới không nói nốt rằng Loan học dốt, bị đúp 3 năm 1 lớp nên không được học tiếp ở trường. Cô cảm thấy không thích cuộc gặp gỡ này. - Một tháng nữa chúng tôi làm lễ cưới. Rất vinh hạnh được quý cô nương kiều diễm đến dự ngày vui với chúng tôi. Còn bây giờ thì xin mời - Anh đưa cho Loan ba chiếc kem Xin chúc mừng cuộc hạnh ngộ của chúng ta ngày hôm nay. Thủy hơi ngạc nhiên trước những lời lẽ hoa mỹ cải lương của anh. Mọi khi Công rất ghét

những kẻ nói năng uốn éo. Bản năng lại mách bảo cô một điều gì đó nguy hiểm. Nhưng cô cố gạt đi. Cô phải tin anh, chẳng gì thì họ cũng đang chuẩn bị cho đám cưới của mình. Khi chia tay, Công nhận xét: "Con bé đó chỉ được cái mặt, còn nói chuyện thì nhạt hoét, rỗng tuếch lại còn uốn éo. Chân tay thì thô kệch cứ như chân vú Ngò trong AQ. Thẩm mỹ thật kinh khủng đến lố lăng...". Có vẻ như có bao nhiêu nỗi xấu xa Công đổ hết lên cô ta. Thủy cảm thấy hơi hổ thẹn vì hình như mình đã ghen tuông một cách vô lối. Cô muốn chữa lại bất công cho Loan bằng cách bênh vực cô ta. - Làm gì mà anh cứ như mẹ chồng xem xét nàng dâu mới thế? Cũng có người thế này thế nọ chứ. Nó bảo rằng đám đàn ông lúc nào cũng muốn ăn sống nuốt tươi nó như ăn gỏi ấy. Chứng tỏ cũng khối anh thích những gu như nó. - Anh thì anh chẳng thích - Công hăng hái khẳng định - Từ thuở bé đến nay anh chẳng ăn gỏi bao giờ. Sau đó mấy ngày, như thể tình cờ, tiện miệng anh kể, vừa gặp lại Loan ngang đường một cách vô tình. "Con bé đến khiếp, mồm mép liến thoắng. Chẳng quen biết gì mấy mà cứ xoắn xuýt đến vô duyên...". Thủy lại ra sức biện hộ cho bạn. Những ngày sau đó Loan đến chơi liên tục, để giúp Thủy chuẩn bị đám cưới và cũng để giải nỗi buồn trong lúc thất nghiệp. Cô ta học lớp trung cấp thương nghiệp đã tốt nghiệp được hai năm chẳng nơi nào nhận. Có lần Loan đến nhờ Thủy viết cho một bức thư bằng tiếng Anh nội dung đại khái là muốn trốn đi nước ngoài và nhờ các ông trong lãnh sự quán giúp đỡ. Loan giấu không cho Thủy biết họ là người nước nào. Kinh hoàng trước một việc động trời như vậy, Thủy chối từ với lý do vốn tiếng Anh của mình quá kém không đủ khả năng viết nổi một bức thư quan trọng đến thế. Cô ta không ấy thế làm mất lòng. Qua vài lần giao du, Thủy biết Loan đã mấy lần vượt biên nhưng không thoát. Lại có lần chị gái của Loan kể cho Thủy biết Loan đã từng bỏ nhà đi đâu mất ba ngày, khi trở về cô ta tàn tạ như một nắm giẻ rách. Loan quẳng ra giường một nắm tiền rồi ngủ suốt một ngày. "Ba chị tra hỏi nó, nhưng nó chẳng khai gì. Nó gan lắm. Sau này công an người ta đến báo cho nhà chị biết Loan có tên trong sổ đen vì tội "giao du quá mức" với người nước ngoài. Nó luôn hy vọng được ai đó bảo lãnh cho ra nước ngoài. Nhưng nó chỉ toàn bị lợi dụng rồi bị ném ra đường...". Chỉ vài lần gặp gỡ, Loan đã mở mang, khai trí cái đầu óc thủ cựu của các cô gái mới lớn trong khu tập thể của Thủy khá nhiều. Mỗi lần Loan đến chơi là cả bọn xúm xít quanh cô ta, tròn mắt nghe cô ta dạy những bài học vỡ lòng về cách cưa cẩm đàn ông. "Đàn bà là phải tình tứ một chút. Cứ khô khan, đứng đắn quá đàn ông họ cũng không thích...", "Muốn làm anh nào chết chỉ cần ba chớp mắt, một cúi đầu e lệ, tức là hãy nhìn anh ta một cách say đắm trong vài giây sau đó chớp chớp mắt rồi cúi đầu e thẹn như thể: Anh đáng yêu quá! Em xấu hổ lắm! Trái tim em rạo rực quá! Thế là xong. Đảm bảo anh ta sẽ cun cút đi theo mình..." Thủy không thể tin điều đó, nhưng cũng không thể bác bỏ ma lực của Loan. Bằng chứng là ông anh ruột của Thủy thuộc loại mực thước, đứng đắn có tiếng, và cũng đang có một mối tình rất sâu sắc nên thơ, lại nổi tiếng là sợ người yêu, vậy mà cũng mất hẳn một tối thứ bảy đèo Loan đi khắp Hà Nội với lý do ngớ ngẩn là tìm Thủy cho cô ta gặp mặt. Chuyện đó thật kỳ cục nhưng lại đáng tin vì ngay cả Thủy nữa, đàn bà con gái

hẳn hoi cũng khó lòng từ chối điều gì khi Loan nhờ vả bằng cái giọng thật nũng nịu, thật ngọt ngào. Cũng vì cái giọng ấy, có lần Thủy đã đèo Loan đi suốt mấy phố Tạ Hiền, Hàng Buồm... vòng đi vòng lại mấy lần, canh chừng công an cho cô ta bán thuốc lá ngoại lậu. Sau này Thủy mới hiểu rằng những lời lẽ của Công khi đó, thật ra không phải là để nói cho cô nghe mà chính là đang cố gắng trấn an những bất ổn trong lòng mình. Anh không còn bàn luận về đám cưới của họ một cách sôi nổi như trước nữa. Chỉ còn một tuần nữa sẽ đến ngày dự định tiến hành đám cưới, bỗng Loan đến tìm cô. - Tớ có chuyện định nói với cậu... - Loan ngần ngừ... Nhưng mà thôi cũng được. - Chuyện gì thế? - Thủy ngạc nhiên không hiểu sao hôm nay Loan lại có bộ mặt quan trọng đến như thế - Cứ nói đi. Làm gì mà úp úp mở mở, quanh quanh co co... - À, ừ, ... nhưng cậu phải bình tĩnh. Cậu phải hứa với tớ là sẽ không làm gì ầm ĩ, tớ mới nói. - Sao vậy? - Thủy sửng sốt rồi tò mò - Cứ nói đi, tớ hứa là sẽ không làm sao hết. Có chuyện gì thế? Làm sao lại có thể có chuyện gì liên can đến tớ. Cậu lại định vượt biên nữa à? Tớ có viết thư hộ cậu đâu? - Không phải là chuyện đó mà là chuyện ông Công kia. Ông ấy đang đợi Loan ở nhà ông ấy... - Loan dừng lại thăm dò rồi nói tiếp giọng đầy thương hại, nhưng cũng không giấu vẻ ban ân - Tớ đang trên đường đến đó, nhưng nghĩ đến Thủy dù sao cũng là bạn Loan nên Loan rẽ vào để báo cho Thủy biết... Thủy lặng người. Con tim cô bỗng quặn buốt tái tê. Một nỗi đau điếng lan nhanh ra toàn thân. Cổ cô tắc nghẹn. A vì thế mà lúc nãy anh rẽ vào báo cho cô biết: Chiều nay anh bận đèo mẹ đi lo một số công chuyện. Mẹ anh đấy ư? Chao ôi là man trá. Cô muốn gào thét một câu gì đó cho thỏa giận nhưng cố nén. Phải bình tĩnh. Bình tĩnh! Cô căm hận ai đây? Hận Loan hay hận Công? Phải gào vào mặt ai đây mới thỏa đáng? Mặt Công hay mặt Loan? - Kìa, Thủy không sao đấy chứ? - Loan hốt hoảng lay Thủy. - Mặt Thủy tái mét đi kìa! - Không! Không sao! Kể tiếp đi - Thủy gạt tay Loan ra một cách phũ phàng và đứng dựa vào tường, cố giấu đôi chân đang run rẩy - Kể tiếp đi. - Nhưng Thủy phải hứa là sẽ không sao cả Loan mới kể. Bởi vì với Loan chuyện này chẳng là gì nữa rồi. Nhưng Loan biết với Thủy đây là lần đầu tiên. Ông Công đã nói cho Loan biết Thủy hoàn toàn trong trắng khi đến với ông ấy. Đồ khốn khiếp! Đồ bẩn thỉu! Đồ phản bội! Thủy muốn thét lên. Nhưng cô chỉ nhếch mép

- Hừ, kể tiếp đi! Thủy đủ nghị lực để nghe tất cả. Thủy hứa sẽ không có chuyện gì. Thủy cần biết sự thật. - Được, nếu thế Loan sẽ kể. Hoàn toàn là sự thật, không thêm không bớt... Những ngày gần đây ông Công luôn đi qua cửa nhà Loan. Loan và ông ấy hay chào hỏi nhau dăm ba câu. Chiều qua ông ấy mời Loan về nhà chơi. Ông ấy năn nỉ Loan đến xem tranh ông ấy vẽ và hứa sẽ vẽ cho Loan một bức chân dung. Nể ông ấy là người yêu của Thủy nên Loan cũng đến. Vào nhà, ông ấy pha nước mát bằng chanh ngâm muối, mang bánh ra mời Loan, rồi bật những băng nhạc mà ông ấy nói rằng ông ấy yêu thích cho Loan nghe. Ông ấy bê những bức tranh của ông ấy vẽ ra cho Loan xem, giảng giải cho Loan về cái đẹp của hội họa... - Nghe Loan kể Thủy hình dung ra buổi đầu gặp gỡ của cô và Công. Mọi việc diễn ra giống hệt. Cũng cốc nước chanh trái mùa, nhờ sự khéo léo tẩm ướp, vừa lờ lợ vừa hăng hắc, đăng đắng, Cũng những chiếc bánh quy, những bản nhạc, những bức tranh và mùi nước hoa cạo râu của Công sực nức trong phòng như vẫn đang còn phảng phất đâu đây. Chỉ có điều nhân vật nữ trung tâm của sự đón tiếp long trọng, gallant ấy bây giờ là Loan. Cô đau đớn thừa nhận rằng đó hoàn toàn là sự thật. Sự thật như buổi đầu Công đón tiếp Thủy. ... Ông ấy đã hôn tớ và cả... - Giọng Loan vẫn đều đều, mỗi lời như một nhát gươm đâm vào tim Thủy. Thủy nín thở lắng nghe trái tim mình như một con thú nhỏ đang tuyệt vọng giãy giụa, đau đớn giữa một rừng gươm dao. - Thủy biết đấy, đối với Loan chuyện đó chỉ còn như một sự giao tiếp, sinh hoạt xã hội. Kìa Thủy! Đừng có thất thần đi như thế. Thủy phải tỉnh táo lại. Loan xin lỗi vì đã làm Thủy đau khổ. Nhưng Loan nghĩ Thủy nên biết sự thật... Ông ấy không yêu Thủy lắm! Thủy không sao đấy chứ? Đừng đau đớn quá thế! - Đau đớn ư? Không! Tao chỉ thua thôi - Thủy buột miệng cay đắng mỉa mai. - Sao lại thua ? - Loan ngạc nhiên. - À... - Thủy định giải thích rằng trong cuộc chiến giành giật tình yêu, cô đã thua Loan. Phải cô, một cô gái trong trắng, ngây thơ và chân thành, học hành giỏi giang lại thua một ả lẳng lơ, thập thành, học hành dốt nát... Trong cuộc chơi tàn nhẫn này Loan và Công thắng thì được một chút vui vẻ, thua thì chẳng mất gì. Còn cô có thắng thì mối tình đầu cũng đã trở nên kém thiêng liêng, nó đã bị hoen ố, còn khi thua thì cô mất tất cả. Cô đã thua. Cô đã mất tất cả sự ngây thơ trinh bạch lẫn tình yêu, cả đám cưới lẫn niềm tin vào cuộc đời. Chao ôi, giá cô có thể trở nên mất trí để đừng phải đối diện với thực tại thì hạnh phúc biết bao. Không thể như thế! Không thể như thế được. Cô đã thua. Cô bỗng cười phá lên như điên dại: - Thủy đã thua. Thủy thua mất 5 hào kẹo lạc. Thủy đã ca ngợi Loan. Thủy đã tin tưởng Loan là một người từng trải, vậy mà sao Loan lại đổ một cách quá ư là dễ dàng - Thủy nín thở một lát rồi trút ra một cách khoan khoái. - Mình đã thách anh ấy cưa đổ Loan! - Kìa! - Loan sững sờ quắc mắt giận dữ. - Sao mày lại dám làm như thế với tao? Tại sao? Tại sao hả? Trời ơi!

Giờ thì Thủy cảm thấy trái tim mình đã bớt đau đớn đi nhiều, như thể những chuyện cô vừa nói hoàn toàn là sự thật. Không biết sự nhẫn tâm chưa từng xảy ra của cô có độc ác bằng sự vô tâm tàn nhẫn của họ không? Loan bỏ chạy trong khi miệng vẫn lẩm bẩm: "Tại sao? Tại sao hả?" Có vẻ như cô ta vẫn chưa hết bàng hoàng. Chỉ khi đó Thủy mới chui vào buồng tắm, vặn nước xối xả cho át đi tiếng nức nở nghẹn ngào. Bây giờ cô có thể để mặc cho nước mắt tuôn rơi xót thương cho tình cảm thiêng liêng nhưng lầm lạc của mình. Tối hôm đó Công vẫn đến rủ Thủy đi chơi như thường lệ vào những tối thứ bảy. Thủy cố gắng giữ bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra, nhìn thẳng vào mắt Công. - Thế nào, chiều qua anh vui không? -Thủy bắt gặp một thoáng thảng thốt khi Công nghe câu hỏi, nhưng anh ta bình tĩnh được ngay. - À, chiều qua anh gặp Loan. Nó cứ nằng nặc đòi đến nhà anh chơi. Nể nó là bạn thân của em nên anh đành phải chiều. Hì, hì, con bé đó tự nhiên quá cứ vô tư như ở nhà... Lại còn đòi anh phải vẽ một bức chân dung cho nó nữa chứ... Có mà dở hơi, thóc đâu mà đãi gà rừng... -Công cười vẻ lấy lòng. - Anh này! - Thủy cười buồn, giờ thì cô hiểu chẳng ai xứng đáng để cô phải buồn vì họ. -Em đã biết hết rồi. Nó đã đến và kể cho em nghe. Chứng tỏ nó cũng không tôn trọng gì anh hết. Nó cũng chẳng yêu anh gì cho lắm. Em rất buồn cho anh và cho em. Cho nên để giữ thể diện cho cả hai chúng ta và vì những tình cảm thiêng liêng đã từng có của em, em đã nói dối nó rằng có chuyện đó là vì em đã thách anh cưa đổ nó. Rằng đó chỉ là chuyện đùa... Còn giờ đây thì mình hãy chia tay nhau. Em nghĩ rằng như thế sẽ tốt hơn cho cả hai chúng ta. Anh hãy đi đi. Đừng ngoái lại. Đừng nói gì hết. Như thế em sẽ tôn trọng anh hơn. Hãy để cho em nguyền rủa cái ngày mà số mệnh đã run rủi cho em gặp anh. Hãy để cho em căm dận cái phút giây em đã nhận lời yêu anh còn hơn phải căm hận anh. Hãy để cho em được vô cảm với quá khứ để còn có thể làm lại cuộc đời. Em vẫn còn yêu cái thế giới này, còn yêu bố mẹ, anh chị em của em, em chưa muốn chết. Vậy hãy làm ơn cho em một lần cuối, nếu anh còn một chút tình nghĩa nào với em, đó là hãy vĩnh viễn biến mất khỏi cuộc đời em. Thôi đừng nói gì cả... Em không bao giờ có thể tha thứ cho mình vì tội đã lầm lẫn yêu anh... Chưa bao giờ như lúc này, Thủy bỗng thèm khát bộ ngực lực lưỡng của chồng, vòng tay ấm áp, âu yếm đầy che chở của chồng mình. Cô muốn về nhà - chốn nương thân - hang ổ cuối cùng nơi che chắn mọi bất hạnh của đời cô. Thủy cẩn thận bước ra đường ngó nghiêng. Một làn khí ấm mọng nước khẽ lướt trên đôi gò má nóng bừng của Thủy, để lại những bụi sương li ti chưa đủ để nhìn thấy trên làn da mỏng manh. Đôi trai gái ngoài cửa hiệu kính thuốc đã mất tăm giữa dòng người đông đúc. Đó đây, loáng thoáng những cành đào gần như trơ trụi, lác đác vài nụ hoa đỏ rực như những đốm lửa nhỏ thắp giữa búp lá xanh biếc, bên những mặt người hớn hở ngược xuôi trên dòng xe cộ. Thủy bỗng nhận ra: Mùa xuân đã đến! Cả cái mùa đông rét buốt của đời cô vĩnh viễn trôi qua rồi. Hơn mười năm đã qua đi, cuộc đời của Thủy ba năm nay thật yên ấm. Chồng cô là một người tuyệt vời, tuyệt vời trên cả mong ước của cô. Nhưng cô vẫn sợ. Sự xuất hiện

của Loan, ai dám bảo sẽ không là một nỗi nguy hiểm cho gia đình đang hạnh phúc? Cô cần bảo vệ tổ ấm của mình. Cô không muốn gặp lại Loan. Dù rằng cô đã tha thứ. Dù về một khía cạnh nào đó cô biết ơn Loan. Nếu không có "trò đùa" nghiệt ngã ngày hôm ấy, không biết đời cô rồi sẽ trôi đến đâu bên một người chồng lang chạ như Công. Chỉ biết rằng sau "trò đùa" ấy, không phải chỉ có cô không muốn gặp lại hai người đó, mà họ cũng không bao giờ dám nhìn lại mặt nhau. Ngoại tình Nàng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện gặp gỡ hay thân mật hơn với một người đàn ông nào khác từ ngày có chồng. Vợ chồng dù không mặn nồng đi nữa nhưng thật khó cho nàng khi nghĩ tới ai ngoài chồng. Nàng cũng chẳng còn gì để bất cứ người đàn ông nào khác nghĩ tới. Là nàng nghĩ vậy thôi. Có chồng rồi, không chưng diện, không ai nhìn là phải. Tuy nhiên, với khuôn mặt tròn và mái tóc ngang vai, nàng dù sắc diện có buồn buồn đi nữa nhưng nếu để ý kỹ, nàng vẫn còn đôi mắt thu hồn lắm. Ai trách được nàng, những ngày mới quen, chồng nàng và nàng ấm cúng đến vậy. Rồi đám cưới, cuộc sống chung như cuốn hai người đi, ngụp lặn trong bể đời tìm quên thời gian, tìm kế sinh nhai cho gia đình, nhặt nhạnh tài sản cho con cái về sau nếu may mắn chàng và nàng có được. Mỗi ngày về nhà, chồng mệt, nàng chỉ biết lấy hình ảnh chồng đang ngủ ngon, thở đều làm hạnh phúc. Có ai biết trong nàng vẫn ấp ủ mộng yêu thương, ôm ấp và ân ái như những ngày mới quen nhau đâu. Mà cũng đâu cần ai biết, chồng nàng biết được rồi. Nhưng họa thay, anh như không còn màng tới. Cái hình ảnh gia đình hạnh phúc là có mặt nàng thôi, còn phải làm sao cho nàng hạnh phúc như thể là đang nằm ngoài suy nghĩ của anh. Buồn thật. Mỗi ngày đi làm về, không con cái, nàng lấy niềm vui dạo vòng các khu shopping nổi tiếng. Đi chán cũng hết. Bao cái áo ngủ khêu gợi nằm trong tủ chưa từng được lôi ra. Nàng biết phải chìu chồng nhưng thật ra nàng đã làm điều đó bao giờ đâu. Trước đây đâu cần phải làm vậy hai người vẫn gần gũi nhau đấy thôi. Nàng chuyển qua tập tành nấu những món chàng thích. Nhìn chàng ăn ngon miệng, nàng cũng hạnh phúc nhưng cái hạnh phúc đó vẫn không đủ để thoả mãn điều gì đó trong lòng, nàng chưa hiểu ra được. Ở sở, nàng có liên lạc với vài người bạn cũ hồi trung học. Vài người trước đây rất mến mộ nàng, nay liên lạc lại đôi lúc cũng bóng gió chơi cho vui. Đàn ông mà, miễn là mình không có gì được rồi, nàng trộm nghĩ. Trong số đó Trung là người bạn liên lạc với nàng đều nhất. Ngày xưa, nàng chả còn nhớ gọi Trung bằng gì, tên hay mày tao, mà lúc này hai người cứ ông, cứ bà cho vui tai. Những email lần lượt qua lại, ban đầu chỉ là hỏi thăm, những câu hỏi cá nhân còn đượcdấu kín, càng về sau, bắt đầu từ Trung, anh như không còn giữ được mình, cô đơn chăng làm anh bộc lộ ra những suy nghĩ về cuộc sống với nàng.

Ly dị vợ vì gia đình vợ đòi hỏi anh nhiều thứ anh không thích. Nàng tự xét sao Trung lại trẻ con đến vậy. Là gia đình vợ thôi, phải vợ đòi đâu mà bỏ đi. Dần dà Trung nói cho nàng nghe nhiều hơn. Trung từ cái tội lỗi đã bỏ đi đã bộc lộ xem có ai hiểu mình hơn không. Trung từ từ nhận ra nàng là người bạn sẳn sàng nghe tất cả và thông cảm cho anh. Nàng cũng dần nhận ra từ lâu mình và chồng chưa từng nói chuyện sâu như vậy trong suy nghĩ ai đúng, ai sai của một hoàn cảnh, ngay cả trong những hoàn cảnh nàng và chồng đã và đang đối đầu. Đôi lúc trong đầu nàng như có hình ảnh muốn ráp lại cái sâu lắng của Trung trong cái thân thể của chồng mình. Nàng hiểu rõ như vậy, nhưng sao nàng sợ. Nàng thấy như nàng đang muốn ôm ấp Trung, muốn san xẻ với Trung, muốn Trung đỡ khổ đau cho quá khứ hay chính nàng, nàng muốn lấp đầy những khoảng trống trong cuộc đời của riêng mình. Nàng lắc đầu thật mạnh xua đuổi ý nghĩ đó đi, đáng sợ quá, nàng có cảm giác như nàng đang đi xa thực tế, đang sống trong ảo giác. Ôi Trung, thôi Trung, ông làm ơn đi Trung. Trả em về với những ước mơ xưa Khi bàn tay và trái tim em vẫn nóng Chưa buông xuôi, chưa ưu tư, tuyệt vọng Sao anh đành, quên lãng những ngày vui Hôn nhân ơi sau những giấc ngủ vùi Ta thức dậy với cõi lòng chán ngán Tóc rối tung, những suy nghĩ tản mạn Biết đến bao giờ hạnh phúc về đây Nàng nhớ Trung và sao thật muốn cùng Trung chèo trên chiếc xuồng của những con người đơn độc. Nàng lại sợ hãi hiểu ra ước muốn gần Trung của mình ngày một tăng dần. Chồng nàng bên cạnh, trở mình, quay sang ôm nhẹ nàng. Không, em muốn nhiều hơn vậy. Anh ơi!. Hình ảnh Trung lại trong đầu. Những ngày không có email Trung, nàng như lên cơn sốt. Đánh bạo viết hỏi thăm vài chữ không thấy Trung trả lời, nàng chột dạ nghĩ mình là hư hỏng. Trong đầu hỗn loạn, hoặc là ông đâu rồi, hoặc là tôi nhớ ông lắm mau mau mà trả lời mail đi. Ôi nàng ngoại tình rồi. Không, đừng kết tội nàng. Nàng cô đơn, cô đơn lắm. Cô đơn như Trung thì dễ hiểu rồi, cô đơn như nàng, mấy ai hiểu được, chồng cạnh đó mà như không. Ôi nàng sao thế này. Nàng kéo lê lết suy nghĩ của mình vào vùng sáng sủa hơn, nàng bắt đầu tự trấn tĩnh mình. Không, không, Trung là bạn, hãy để cho Trung bình yên, thanh thản với những gì Trung đang có, đừng kéo Trung vào tội lỗi... kéo cả mình nữa. Bẵng đi thời gian, Trung và nàng không liên lạc. Nàng cũng dần trở về thực tại

Một hôm nàng nhận được email của Trung " Dear Mai, Hỏi thăm bà nha, lâu lắm rồi, còn đi tìm cô dâu cho bà dự đám cưới nè, nếu bà chưa có chồng thì bà đã thành cô dâu của tôi rồi " Take care nha Mai " Thân Ái Trung " Nàng vội đánh vài chữ cho Trung "Ông Trung, Tôi ok, mong mọi chuyện suôn sẻ nha, đi đám cưới là đi à. Ông cũng take care nha Thân ái Mai " Tiếng chồng làm nàng giật mình: "Em chuẩn bị xong chưa Mai, off máy đi em, coi chừng trễ chuyến bay đó" Nàng off máy, trên tay cầm hai chiếc vé đi vacation tại Hawaii một tuần. Nàng tự nhủ sẽ tâm sự với chồng nhiều lắm trong đó có chuyện ngoại tình không... Làm gì có, nàng vẫn nghĩ nàng đã thắng. Tư tưởng thôi mà, vật lộn với những ý nghĩ sai đúng trong tâm tưởng cũng là chiến trường khốc liệt chứ bộ. Nàng bước ra xe với chồng miên man một niềm vui trong lòng không tả được.

27 bước chân là lên thiên đường Em nghĩ về anh. Anh là người đàn ông đang trên bệ phóng của danh vọng. Hằng đêm trong chương trình thời sự luôn thấy hình ảnh của anh. Nhưng tất cả những thứ đó không quan trọng với em. Cái dẫn đến giây phút em đang tận hưởng là vì em yêu và ngưỡng mộ anh. Em đã rất ngưỡng mộ anh và khao khát một tình yêu. Em đã run lên khi nghe cú điện thoại của anh. Em nằm úp mặt xuống gối và nghe tiếng tim đập thùm thụp. Có một tiếng nói từ đâu đó vọng đến. Hãy tắt máy điện thoại đi. Khi tắt máy điện thoại thì sự liên lạc giữa anh và em sẽ không còn nữa. Vậy mà em lại với nó để sát vào người em hơn. Trong khoảng khắc điện thoại chưa đổ chuông, tim em đập rung lên và ngực em co tròn lại, tức ở hai bầu vú. Đầu em toang tuyếch. Em muốn đến với anh và em cũng muốn mình vượt qua sự cám dỗ ngọt ngào này. Chuông điện thoại đổ gắt gao: - Em đã sắp đi chưa?

- Chưa. - Sao lại không đi? - Em sợ? - Em sợ gì chứ? - Em chỉ muốn ngồi bên anh trong một quán cà phê nhỏ. - Ừ thì cứ đến đây đi, mình sẽ đi uống cà phê. Đi đi em. Anh đang chờ em đấy. Em bật dậy ra khỏi giường và trang điểm cẩn thận. Em kẻ viền mắt thẫm hơn và thoa thêm phấn hồng lên má. Tim em vẫn đập gấp gáp. Em dừng taxi ở phía bên kia đường và mua một thỏi singum. Em chợt nhớ ra chưa kịp đáng răng. Em có thói quen chỉ đánh răng vào buổi sáng và chiều nay là một ngoại lệ. Vì thế mà em quên. Anh ra cửa đón em. Anh bảo: - Em mặc đồ hiện đại đẹp hơn. Em mặc quần bò và chiếc áo thun đen. Em hiểu anh đã so sánh với những lần anh đã gặp em khi thì em mặc áo dài khi thì mặc lụa. Em theo anh vào khách sạn với những bước đi run rẩy. Chiếc sắc em cầm trong tay cũng rung lên. Anh bảo em ngồi xuống nghế. Anh cũng ngồi xuống bên cạnh em. Anh nhìn vào mắt em và nắm lấy tay em. Tay em đang rất lạnh. Tay anh ấm và khô. Em cảm nhận được sự ấm áp từ tay anh truyền sang. Anh cười. Em ấp úng và tránh cái nhìn của anh: - Mình đi một quán cà phê nào đi anh. - Ừ ở đây cũng có cà phê. Nhưng có lẽ mình vào một phòng nào đó để nói chuyện và uống cà phê. Người em đông cứng lại. Em biết điều gì sẽ chờ em trong căn phòng đó. Anh ra quầy lễ tân lấy chìa khoá. - Đi em. Em theo anh như một chiếc bóng vô hồn. Trong phòng có hai chiếc nghế. Anh ngồi xuống một chiếc và em ngồi xuống chiếc đối

diện. Anh lại nhìn vào mắt em. - Em sợ gì thế? Nói gì đi em. Em sợ gì nào? Em không nhìn vào mắt anh mà quay cái nhìn ra cửa. Dưới tay nắm cánh cửa có một tờ giấy ghi dòng chữ: quý khách nhớ chốt cửa. Cửa anh chưa đóng chặt vẫn mở he hé. Em cảm thấy yên tâm hơn. - Em sợ ngày mai. - Sao lại sợ ngày mai? - Ngày mai em phải đối diện với những sự thật. Em sẽ nhìn mọi thứ đúng với tên gọi của nó. Và điều đó làm em khốn khổ. - Hàng ngày thiên hạ đang sống với nhau một cách giả dối. Mình không sống được thật lòng với nhau hay sao? Em cũng thích anh chứ? Em gật đầu. - Anh cũng rất thích em mà. Anh áp hai tay lên tay em. Tay anh vẫn rất ấm. Tay em đã bớt lạnh. - Nào đã hết sợ chưa em? Em ngước nhìn anh cái nhìn bối rối. Anh đứng lên kéo em ấp vào người anh. Cái hôn đầu tiên anh đặt lên má em. Em run rẩy như không thể đứng vững. Em tựa vào người anh. Anh ghì chặt em vào người anh. Trước khi tan biến em còn cảm nhận được môi anh cũng rất ấm trên ngực em. Em đã tan biến vào anh rồi. Người em cong cứng. Anh đã làm dịu em lại bằng những cái hôn. Nhưng ngay cả cái hôn cũng không làm dịu em được. Em mút chặt lưỡi anh và một biển nước ào ạt như muốn nhấn chìm em. Thực ra em đã muốn làm điều này với anh từ lâu rồi. Ngay sau cái lần anh nhìn rất lâu vào em trong cái đám đông người ấy và nói em đẹp. Nhưng em lại muốn cả tình yêu nữa. Sự cảm nhận của em đã truyền sang anh. Anh nói trong hơi thở gấp gáp: - Em thế này làm sao anh quên em được. Nước mắt em tràn trề vì hạnh phúc. Em nằm duỗi người, hai tay để lên đầu. Em thả lõng người thoải mái. Anh lại hôn em.

Môi anh vẫn nồng ấm. Anh đã kết thúc và rất thoả mãn. Một tay anh để lên ngực em xoa nhẹ. Em muốn khóc nức nở. Em đã cố gắng để không khóc. Em bắt ý nghĩ quay về một điều gì đó. Em chợt nhớ ra cửa anh vẫn để he hé. Và em bỗng sợ. Em nhổm người dậy để nhìn. Cửa đã được đóng chặt và cài kín từ bên trong. Em cố nghĩ xem anh đã cài kín cửa từ khi nào? Em đã không nhớ. Anh vào nhà tắm. Tiếng nước xối ào ào. Em buồn ngủ. Muốn ngủ một giấc thật ngon. Nhưng em lại nhớ câu nói của anh: - Em thế này anh làm sao mà quên em được. Em đã cưỡng lại cơn buồn ngủ, cố thức để tận hưởng cảm giác. Em nghĩ về anh. Anh là người đàn ông đang trên bệ phóng của danh vọng. Hằng đêm trong chương trình thời sự luôn thấy hình ảnh của anh. Nhưng tất cả những thứ đó không quan trọng với em. Cái dẫn đến giây phút em đang tận hưởng là vì em yêu và ngưỡng mộ anh. Em đã rất ngưỡng mộ anh và khao khát một tình yêu. Em, một người đàn bà bình thường nhưng thông minh. Cái thông minh nhất của em là em nhận chân được mình là ai? Chỗ đứng của em ở chỗ nào trên trái đất này? Em cũng rất nhạy cảm. Em cảm nhận được ánh mắt đang chĩa về em nặng nhẹ thế nào? Em biết trong một người đàn ông dẫu có quyền lực và địa vị thế nào thì vẫn có một phần của con người bình thường. Em đã yêu cái phần người bình thường đó trong anh. Em đã không nhầm. Cái giây phút như tan biến trong nhau ấy. Em đã bừng tỉnh để nhận ra sự nức nở của anh trên ngực em. Trong cơn vọt trào của cảm xúc anh đã rên rỉ bằng tiếng của chú mèo chứ không phải tiếng gầm của sư tử. Em tự hào vì đã làm cho anh sung sướng. Anh ra khỏi nhà tắm, quấn chặt mình trong chiếc khăn bông trắng. Nhìn thấy em vẫn nằm ngạo nghễ trên giường anh lấy chiếc chăn mỏng phủ lên người em. Em muốn đùa với anh. Em hất tung chăn và duỗi dài chân tay. Anh lại lấy chăn phủ lên người em. Em lại hất tung chăn ra. Lần thứ 3 em đã nhìn thấy ánh mắt bực bội của anh. Em bật dậy vào nhà tắm. Em soi mình vào gương. Da thịt em sáng loáng. Môi em đỏ mọng và hơi trễ xuống. Mắt em sáng long lanh. Em ra khỏi nhà tắm và quấn mình trong chiếc khăn bông trắng. Anh đã mặc quần áo chỉnh tề. Em nhìn vào mắt anh, không còn ánh mắt bực bội nữa. Cái nhìn của anh đằm thắm và bao dung. Anh đến phía sau em cầm chiếc khăn lau vai cho em và nói: - Vai em còn đọng nhiều nước quá. Người em lại mềm ra để đón nhận một chiếc hôn vào vai. Và em còn xoay người để đón một cái hôn nữa vào môi. Nhưng anh chỉ hôn vào má em.

Đã xong. Quần áo em đã gọn gàng. Đầu tóc cũng gọn gàng. Môi em không trễ tràng nữa. Em ngồi như một tội đồ trên ghế. Anh cũng không nhìn em. Thời gian như đông cứng lại. Em sợ những khoảng khắc như thế này. Em bảo anh: - Mình về đi. - Ừ. Em đứng lên và anh vẫn ngồi - Anh không còn nhớ mấy câu thơ này là của ai nữa? Lemontop hay Puskin. Nhưng anh rất thích nó. Tạm biệt nhé nếu là lần cuối... Người em như có hào quang toả ra. Em líu lo hát những bài hát từ trái tim. Mắt em cười và má em ửng đỏ. Em đã không kiểm soát được các hành vi của mình. Em đã hăm hở bước 26 bước gần đến thiên đường. 24 giờ sau. Đúng cái khoảnh khắc ấy, tim em lại đập loạn lên. Em chờ điện thoại của anh. Em chờ đúng cái khoảnh khác ấy. Cái khoảng khắc vào xế chiều, khi công việc đã vãn. Em đếm từng phút 5, 10, 15... 45. Đã sắp hết giờ làm việc. Tim em muốn nổ tung ra. Em không thể chờ được nữa. Em run rẩy bấm số điện thoại của anh. - Alô, tôi nghe đây. Em nghi ngại không biết có phải giọng nói của anh không? - Cho tôi hỏi thăm, đây có phải là... - Vâng tôi đây. - ... là em, anh quên em rồi phải không? - Em đấy à. Anh làm sao mà quên em được. Đúng là giọng nói của anh hay nói với em rồi. Nhưng là giọng của công việc chứ không phải là giọng của nồng nàn. - Em khoẻ không? Anh cũng đang định gọi cho em đây. - Vâng. Em không biết nói gì thêm nữa. - Tý nữa anh còn có một cuộc hẹn. Chúc em trẻ, khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. - Và giữ vững lập trường, tư tưởng nữa phải không anh.

- Đúng thế. Vào một thời gian thích hợp nào đó chúng mình sẽ gặp nhau nữa nhé. À này em, khi tình cờ gặp nhau ở đám đông chúng mình nên tế nhị nhé. - Vâng, em hiểu rồi. Chân tay em run lẩy bẩy như mới ốm dậy. Nỗi buồn làm em đổ sụp xuống. khi em đến chỗ hẹn cùng anh, em cũng đã nghĩ đến điều này như là một sự rủi ro. Nhưng em đã gạt nó đi bằng niềm tin và hy vọng. Trong nỗi buồn em vẫn còn hy vọng. 48 giờ, 72 giờ... Em vẫn chờ và hy vọng và sợ hãi. Nỗi sợ hãi bị tổn thương lần nữa đã làm em không thể nhấc điện thoại để gọi cho anh. Những ý nghĩ khốn khổ đã bủa vây em và nhấn chìm em xuống. Em là người đàn bà như thế nào đây, trong suy nghĩ của anh? Em hám danh vọng và hám tiền tài ư? Không, em đã có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và danh vọng cần có của một người đàn bà bình thường. Em còn có cả lòng tự trọng. Bây giờ thì em biết chắc anh đã rất hiểu điều này khi chọn em phải không anh? Còn trong suy nghĩ của em, em là một người đàn bà dễ dãi hư hỏng ư? Không, em đã mê đắm anh để từ bỏ một người đàn ông đã yêu em thực lòng. Em sống không luỵ người khác. Thiên đường và địa ngục của em cũng không giống của người khác. Thiên đường cách cuộc sống của em 27 bước chân. Em đã bước được 26 bước rồi. Chỉ cần một bước chân nữa thôi em sẽ được lên thiên đường. Sau cái khoảnh khắc tan biến vào anh, bước chân cuối cùng ấy em tưởng tượng ra đó chính là lời anh thổ lộ rằng anh yêu em. Sau 48 giờ, 72 giờ... thì chỉ cần những cú điện thoại hỏi thăm em dịu dàng. Kỳ lạ thay cái thiên đường. Adam và Eva vì yêu nhau mà phải đầy xuống hạ giới. Còn em chỉ vì thiếu tình yêu em không được lên thiên đường. Còn anh, anh đang ở đâu?Anh có ở thiên đường của anh không? Mỗi buổi tối em vẫn thích xem chương trình thời sự. Em vẫn không thể dời mắt khỏi anh. Em nhớ anh nói với em rằng, một thời gian thích hợp nào đó mình sẽ gặp nhau. Và em cũng nhớ câu thơ cuối anh đọc cho em, anh không phải là anh bây giờ. Em biết. Và em cũng không phải là em bây giờ. Trong khi những ý nghĩ quay cuồng làm khổ em, em đã tìm cho mình một lối thoát. Em đã lấy câu chuyện của một cô gái bán hoa để làm bài học răn mình. Câu chuyện rằng, một đêm cô đi bán hoa bị khách chơi trả cho một tờ bạc giả. Thay vì sự rên rỉ cô đã tự an ủi mình: Mình bị hiếp rồi. Thực chất, thiếu một bước chân em đã bị sa xuống địa ngục rồi. Dưới địa ngục con người vô cảm, không còn cảm giác buồn đau và sung sướng nữa.

Mùa hoa cải bên sông Rồi đêm sau cô lại tìm cách lên bờ. Và trước khi trở lại thuyền, cô lại ngắt những chùm hoa cải đem về. Nhưng đến đêm thứ ba thì có người phát hiện ra việc làm của cô. Đó là một chàng trai chừng ba mươi tuổi mặc một bộ quân phục đã cũ.

Đêm xuống. Con thuyền neo lại giữa sông. Ngọn lửa bếp trên mui thuyền hắt một vầng sáng dịu dàng xuống mặt nước. Người trong xóm trại trên bến Chùa không biết con thuyền này từ đâu đến neo lại trên khúc sông này đã hơn một tháng nay. Hàng ngày những người trong gia đình trên chiếc thuyền ấy làm một công việc là lấy cát rồi bán cho các gia đình trên thị trấn nhỏ bên kia sông đang thi nhau xây nhà. Hơn một tháng không ai thấy những người trên chiếc thuyền lên bờ. Họ đội cát bằng những cái thúng to, đi nhún nhảy trên tấm ván. Khi đến đầu tấm ván nối lên bờ, họ đổ cát xuống bãi cỏ cho người mua, bàn chân không hề chạm mặt đất. Hàng xóm của họ là những chiếc thuyền đánh cá, thuyền chở hàng thuê... Chủ chiếc thuyền cát là một ông già ngoài sáu mươi, mái tóc dài được búi gọn trên đầu, chàm râu bạc xòa che gần kín bồng ngực vồ lên như tảng đá. Đôi vai ông u lên, đỏ sậm và rạn như vai trâu cày. Cơ thể ông đanh lại như đá tạc, nhưng đôi mắt thì khác, đôi mắt lúc nào cũng u buồn, ngơ ngác như vừa đánh mất một điều gì. Ông Lư (ông già chủ thuyền) ngồi im lặng trên sàn gỗ của mui thuyền. Bên cạnh ông là một quả bầu khô lớn đựng rượu, một thứ rượu do ôngcất lấy ngâm với củ cỏ gấu, loại củ già đen bóng như sừng. Trước ông là một đĩa cá sông nướng và một chiếc rổ con đựng những con trùng trục đã hấp chín với gừng khô. Chiều nào ông cũng ngồi uống rượu như thế cho tới khuya và không hề động đến một hạt cơm. Chỉ những đêm mưa bão ông mới chịu ở trong chiếc nhà thuyền. - Anh cả đâu? Ông khẽ gọi. Tiếng ông trầm và nặng đổ xuống mặt sông đêm. - Dạ bố bảo gì con? Một người đàn ông gần bốn mươi tuổi trong nhà thuyền chui ra. - Mai nghỉ việc, lặn mặt trời thì đi Bãi Yên. Nói chị cả chuẩn bị mọi thứ cho đủ. Ông nói, người không nhúc nhích, đôi mắt mở to nhìn hút về xa. Ngày mai cả nhà ông sẽ đi Bãi Yên. Đó là đoạn sông rộng và êm chạy ven chân một dãy núi đá vôi. ở dưới đáy khúc sông đó là mộ người vợ bất hạnh của ông. Thế là đã hơn mười năm rồi. Con sông đổ biết bao nhiêu nước ra biển cũng như ông có biết bao thay đổi trên đời.Vào mùa hè cách đây mười hai năm. Đó là mùa hè đầy bệnh tật và đói kém. Dọc hai bên bờ sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm thiết và thấp

thoáng sau những lùm tre gầy nhằng, úa vàng là những chiếc cờ tang vật vờ bay. Rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn ấy. Bà để lại cho ông ba đứa con. Đứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi. Trong suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui thuyền trước xác vợ. Hai đứa con trai ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái của mình ốm yếu khóc ngặt nghẽo suốt ngày. Ông cập thuyền vào những đám dân cư hai bên sông để xin được chôn cất vợ. Nhưng không một nơi nào chấp thuận. Họ xua đuổi gia đình ông như xua đuổi một thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc cái chết. Họ sợ bị lây bệnh dịch. Ông không còn biết về đâu. Ông sinh ra trên chiếc thuyền này. Ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. Đến tối ngày thứ ba, ông ôm xác vợ khóc. Giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật vờ trôi với một ngọn đèn dầu héo hắt trên mui thuyền. Cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận. Ông chôn vợ xuống đáy dòng sông ở chỗ khúc sông rộng và êm nhất. Ông cùng hai đứa con dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào một cái hố dưới đáy sông và để người đàn bà yên nghỉ ở đó. Họ chở một thuyền đá xanh xếp lên thành chiếc mộ để tránh nước cuốn đi. Đêm đó ông xõa tóc, đốt hương lễ thần sông. Ông đổ hết một bầu rượu lớn xuống sông và nguyền rằng: tất cả những người trong gia đình ông sẽ không bao giờ đặt chân lên mặt đất. Họ sẽ sống một cuộc đời trên sông. Ông luôn luôn nói với con cái rằng: Nếu chúng nó để gót chân chạm vào mặt đất đôi bờ thì trái tim chúng sẽ biến thành trái tim quỷ, chúng sẽ trở thành những con thú độc ác. Hằng năm cứ đến ngày giỗ vợ, dù công việc bận thế nào gia đình ông cũng nghỉ. Ông sắm sửa lễ vật và khi mặt trời khuất núi thì cả gia đình chèo thuyền đến Bãi Yên. Ông xõa tóc và mặc áo, đây là ngày duy nhất trong năm ông mặc áo trừ những ngày đông rét mướt. Sau khi làm lễ ông cùng hai người con trai lặn xuống đáy sông sửa sang lại ngôi mộ. Ít năm sau người con trai cả lấy vợ. Cô dâu là con gái một bạn thuyền của ông. Ngày cưới con, ông cho đứa con trai thứ hai bơi chiếc mủng nhỏ đi suốt mấy ngày dọc một bãi sông mời bạn thuyền. Đám cưới được tổ chức ở Bãi Yên với hàng chục chiếc thuyền các loại kết lại thành một chiếc bè lớn. Đêm hôm sau, khi vầng trăng cuối tháng hiện lên phía ven trời thì chiếc thuyền từ Bãi Yên trở lại bến Chùa. - Bố ! Ông nghe tiếng cô con gái út run run gọi ông ở phía sau. Cô ngồi xuống bên cạnh và ôm lấy cánh tay ông - Bố đưa mẹ lên bờ đi. Bố đừng để mẹ ở mãi dưới sông nữa. Đã bao nhiêu lần cô nói như van lạy ông. Nhưng lần nào ông cũng nhìn cô bằng đôi mắt ngầu đỏ, u uất. - Không đứa nào trong nhà này được nói đến điều đó - Ông rít lên - Không đứa nào được giẫm lên lời nguyền của ta. Nhưng ngay sau đó chính lòng ông đầy đau khổ, giày vò. Ông nhìn con xót xa. Chinh, đứa con gái duy nhất của ông, đã sinh ra trong chiếc thuyền trong dòng sông này. Ngày Chinh ra đời, ông cắt rốn con thả xuống dòng sông và cầu nguyện cho con. Chinh lớn lên khỏe mạnh, dịu dàng và âm vang như dòng sông. Là đứa con gái duy nhất, nhưng cô xông xáo táo bạo hơn các anh cô. Những đêm trăng mùa hạ, cô thích thả mình xuống

dòng sông. Cô bơi mềm mại như một nàng tiên cá trong chuyện cổ. Đâu đây có những đàn cá lạ lấp lánh ánh trăng xuyên qua mặt nước bơi theo cô. Thỉnh thoảng cô co người lại, hai tay ôm bó gối để cho cơ thể tuổi dậy thì lóng lánh như một giọt thủy ngân lắng dần xuống đáy sông. Rồi bất chợt, cô ngoi lên khỏi mặt nước gọi bố và cười vang. Ông Lư ngồi trên mũi thuyền nhìn về phía cô gọi, đôi mắt chợt non tơ đến ngỡ ngàng. Ông không lo lắng gì khi thả cô xuống dòng sông ngay cả mùa nước lớn, nhưng ông lại lo sợ nếu như con gái ông để gót chân chạm vào đất đôi bờ. Nhưng cô thèm khát đôi bờ. Thuở mẹ cô còn sống, cô vẫn được mẹ cô đưa lên bờ đi chợ hoặc kiếm củi khô trên những bãi vải, bãi ổi ven sông. Sau ngày mẹ cô mất, các anh cô và cô không ai dám bước chân lên bờ. Và thế là hơn mười năm rồi, cuộc đời cô chỉ có con thuyền và dòng sông. Cô thèm khát được đặt chân lên dải đất mịn màng phù sa. Cô muốn được nằm trên thảm cỏ xanh ven đê làng. Có nhiều đêm cô bơi sát vào bờ và khi nghe thấy tiếng lá ngô khua xào xạc, khi ngửi thấy mùi râu ngô non dịu ngọt và mùi cỏ non hăng hăng, người cô lại cảm thấy nao nao, nhịp tim cô dồn dập. Nhưng sau đó cô phải trườn mình quay lại con thuyền ngay khi nghe tiếng mõ gọi của bố. Có một lần cô nhìn thấy xác một người chết trôi qua thuyền. Mặt nạn nhân bị chém nhiều nhát, vết thương đã rữa tỏa mùi tanh nồng nặc. Cô ôm lấy bố run lên: "Trời ơi, ai làm sao vậy bố ? Bố vớt người ta lên bờ đi". "Người trên mặt đất họ giết nhau đấy". Ông Lư trả lời lạnh băng và đẩy cô vào nhà thuyền. Suốt ngày hôm đó cha cô không cho ai chạm vào dòng sông. Ông nói: "Hãy để nước sông đêm cuốn đi mọi bẩn thỉu của mặt đất. Đừng chạm tay vào nước sông cho đến sáng mai". Một lần khác cô hỏi Sỏi- người anh trai cả của cô: "Anh không thích lên bờ à ?" - "Trên bờ có cái quái gì mà lên" - Sỏi nói - "Cứ ở đây, chẳng phải động chạm đến đứa nào. Làm gì thì làm. Ngày xưa ở trên bờ tao thấy chúng nó suốt ngày cãi chửi nhau. "Lúc nào anh cũng ngày xưa, thế còn anh Cát?", cô quay sang người anh trai thứ hai. Cát đang nằm ngủ trên sàn thuyền: "Tao chán cảnh này lắm rồi, cứ như ở tù" - "Mày tưởng tên bờ là thiên đường chắc? Nhà tù đấy em ạ, gà vịt cũng còn bị tù nữa đấy!". Sỏi nhìn Cát càu nhàu. "Nhưng chắc chắn đó cũng là cái nhà tù rộng rãi hơn cái nhà tù thuyền này!" -"Ai, ai tù mày? Bố tù mày hay tao, hay con Chinh tù mày?" - Sỏi thốt lên giọng the thé, Cát thủng thẳng: "Chẳng có ai tù ai hết cả. Ngu dốt nó tù tất cả". Nói xong anh ngửa mặt lên cười. Rồi anh chống tay đứng dậy đi lảo đảo và cười. Rồi tiếng cười vụt tắt. "Trời ơi - anh kêu lên nức nở - Một ông già độc đoán tự cho mình quyền ngự trị tất cả. Ông bỏ tù chính ông, bỏ tù một cặp đực cái, bỏ tù một thằng hèn hạ như tôi, bỏ tù cả con bé đẹp nhưng mù chữ. Tất cả ỉa đái xuống dòng sông rồi lại nói nước sông trong sạch, lấy nước sông ăn, lấy nước sông uống!" - "Câm đi đồ mất dạy. Bố mà ở nhà bố sẽ giết mày". "Mất dạy hả? Có đứa nào được dạy dỗ gì đâu mà mất". Buổi tối ông Lư trở về. Cô con dâu thì thọt kể lại chuyện cãi nhau giữa hai anh em Sỏi cho ông nghe. Ông nhìn Cát rồi nói: "Mày muốn lên bờ hả? Được. Tao sẽ chặt đứt đôi chân mày và vứt mày lên bờ để xem mày có phải bò về với dòng sông không?" - Nói rồi ông cầm lấy lưỡi rìu ấn mạnh vào bắp tay, máu trào ra. Ông lấy lưỡi rìu lau máu và chém phập vào mạn thuyền: "Hãy nhìn lưỡi rìu đi. Máu tao đã chảy ở đó. Sáng mai mày hãy trả

lời xem mày có thích lên bờ không?" Rồi Cát cũng không lên bờ. Con thuyền lại tiếp tục các công việc của nó. Thế rồi một mùa xuân lại đến. Chinh đã lên tuổi mười bảy. Một buổi sáng thức dậy ra mạn thuyền vo gạo, cô bỗng thấy trên bãi sông Bến Chùa, một thảm màu vàng tươi, một màu vàng xôn xao, ấm áp ùa vào mắt cô. Hoa cải gặp gió ấm đêm qua đã bung nở. Mỗi khi có ngọn gió chạy qua, cả bãi hoa vàng rợn lên như sóng. "Đẹp quá" - Chinh khe khẽ thốt lên. Cái rá gạo từ từ tuột khỏi tay cô trôi theo dòng nước. Suốt cả ngày hôm đó cô không thể nào rời tâm trí khỏi thảm hoa vàng kia. Một cái gì náo nức vẫy gọi cô. Cô đã bước sang tuổi mười bảy. Thỉnh thoảng có đêm thức giấc, cô cảm thấy một cái gì chập chờn, quấn quít ở đâu đây. Không phải tiếng nước sông chảy trong đêm, không phải tiếng reo của ngọn lửa, không phải hương ổi chín từ bãi sông đưa lại, cũng không phải tiếng gọi nhau của bầy chim ri từ những lùm dứa dại ven đê. Một cái gì đấy làm cô đang chải tóc chợt dừng tay. Cái đó chợt đến, chợt đi, chợt rời ra, quấn quýt. Một hôm, sau bữa cơm chiều, cô nói với bố là cô đi thả lưỡi câu. Ông Lư chiều con và dặn: "Đi về sớm, trời lạnh đấy". Cô vội vã cởi dây thừng neo chiếc thuyền mủng. Cô không thả lưới mà bơi mủng vào bờ. Cô cắm mủng ở đó và đi về phía bãi cát. Đêm lạnh nhưng trời có trăng. Cô ngồi xuống bên cạnh luống hoa. Đôi tay nâng khẽ những chùm hoa cải ướt sương. Một ngọn gió lướt qua những bông hoa đong đưa chạm vào má cô. Người cô run lên. Những bông hoa nhảy múa và trò chuyện với cô. Cô khẽ áp đôi môi mình vào hết chùm hoa này đến chùm hoa khác. Bỗng cô nghe tiếng mõ tre từ chiếc thuyền cái. Tiếng mõ được quy định thay tiếng gọi nhau của những người sống trên sông. Một lúc sau tiếng mõ lại vang lên. Chinh cuống quít, cô quơ tay đứt những chùm hoa cải. Lần thứ ba, tiếng mõ nghe gấp và chói. Cô biết bố cô đã nổi giận. Cô ôm bó hoa gãy nhàu chạy xuống bờ sông. Vừa ngồi vào mủng, cô vội gõ trả lời và hối hả bơi về thuyền. "Mày đi đâu mà không trả lời". "Con tưởng bố gọi anh cả". Ông im lặng, nghi ngờ nhìn cô. Rồi đêm sau cô lại tìm cách lên bờ. Và trước khi trở lại thuyền, cô lại ngắt những chùm hoa cải đem về. Nhưng đến đêm thứ ba thì có người phát hiện ra việc làm của cô. Đó là một chàng trai chừng ba mươi tuổi mặc một bộ quân phục đã cũ. Những ngày trước đó bà mẹ chàng trai thường xuống bến sớm và phát hiện những luống hoa cải bà để giống cho vụ sau bị ai đó ngắt nham nhở từng quầng. Bà ca thán với con và chàng trai quyết rình bắt cho được kẻ phá hoại. Khi Chinh đang quỳ trước đám hoa cải vừa vuốt ve chúng vừa thì thầm trò chuyện thì nghe tiếng quát khẽ nhưng rất gắt của chàng trai. Cô giật mình hoảng hốt quay lại, và vẫn trong tư thế quỳ, cô ngước mắt lên nhìn chàng trai, người run lên vì sợ hãi. Cô không khái niệm đuợc sự sai trái do việc làm của mình, mà sợ hãi vì trước cô trong đêm trăng lạnh là một người lạ. - Cô là ai? Cô làm gì ở đây? Chàng trai hỏi và bước lại gần cô. Cô lúng túng đứng dậy. Chợt những làn mây mỏng tan đi. Ánh trăng trong veo đổ tràn gương mặt cô. Bây giờ thì đến lượt chàng trai giật mình. "Đẹp quá!". Anh thầm kêu lên. Sao trong đêm tĩnh lặng trên bãi sông ở một làng quê hẻo lánh này lại xuất hiện một người con gái đẹp như thế? Chiếc áo tối màu và ánh trăng làm ngời lên đôi bàn tay, cái cổ thon và gương mặt đẹp. Đôi môi cô khẽ mím lại còn đôi mắt

thì mở to. Chàng trai hồi hộp, liếc nhanh cơ thể cô và nhận ra dưới lớp trăng mỏng, dưới lớp áo tối màu, là tuổi dậy thì nóng hổi, dịu dàng và phập phồng thở. - Em ở đâu đến? - Chàng trai nói bằng hơi thở. Giọng nói và gương mặt đàn ông đầy độ lượng của anh đã làm cô hết sợ. Cô mỉm cười nhìn xuống dòng sông, ở đó tỏa một quầng sáng đèn dầu. "À", anh chợt hiểu. Hàng tuần về thăm mẹ, anh vẫn thấy chiếc thuyền cát ấy neo ở bến sông làng anh. Biết vậy nhưng anh vẫn hỏi lại: - Em ở dưới thuyền à ? Cô gật đầu. - Em thèm ăn rau cải à? Chinh bật cười. Nụ cười ngộp lên người anh. Anh thấy mình mê đi trong khoảnh khắc. - Thế em muốm gì? Anh lúng túng hỏi. Chinh không trả lời mà giơ một nắm ngọn cải nhiều hoa ra trước anh. - Hoa cải? Em thích hoa cải? - Anh ngạc nhiên hỏi. Cô gái lại gật đầu. - Em về đây. Bố em gọi! Anh bỗng hoảng hốt sợ cô biến mất. Anh đứng lặng nhìn cô và rồi vội vã ngắt những chùm hoa cải. Chinh nhận bó hoa cải từ tay anh rồi quay người đi xuống bến. - Này em! - Chàng trai chạy theo - Tên em là gì? - Chinh. - Anh là Thao. Nhà anh ở kia kìa. Mai em lên nhé. Hoa cải nhà anh đấy. Chinh mỉm cười gật đầu và đi xuống bến. Anh nhìn theo. Đến lúc này anh mới nhận ra mái tóc như thiên thần của cô. Anh ngửa mặt lên trời. Có lẽ mái tóc ấy đã từ vầng trăng chảy xuống. Sáng sau, Thao dậy sớm. Suốt đêm qua hầu như anh không ngủ. Anh nghe tiếng bà mẹ ca thán dưới bếp: "Không biết đứa nào lại phá luống hoa cải đêm qua". Thao mỉm cười sung sướng. Anh chạy theo con đường nhỏ xuống bờ sông. Ở giữa sông, chiếc thuyền của gia đình Chinh nằm bình yên trên mặt nước. Một ngọn khói xanh tỏa ra từ con thuyền lặng lẽ tan xuống mặt sông như sương. Thao đứng trên bờ hồi hộp đợi, nhưng không thấy bóng một người con gái nào. Chỉ có hai người đàn ông đang loay hoay làm gì đó trên mui thuyền. Hay là đêm qua anh nằm mơ. Có phải thật sự đêm qua anh đã gặp một người con

gái như thế không? Thao chờ mãi và cuối cùng anh buồn bã trở lại bãi hoa cải. Bên luống hoa vẫn còn in những dấu chân. Và cạnh đó là những cánh hoa cải rụng lấm tấm vàng. Rồi một đêm sau đó ít ngày, Chinh lại chèo chiếc mủng nhỏ lên bờ. Họ đứng nhìn nhau trong ánh sáng mờ mờ của trăng bị mây mỏng che khất. Họ chưa biết gì về nhau nhưng cả hai đều nhận thấy có một cái gì đó mỏng, trong suốt đang quấn vào họ như tơ nhện. - Bố em đi rồi - Chinh thì thào. - Đi đâu? - Bố đi có vệc mấy ngày tận cuối sông. - Đêm nay em ở lại trên bờ với anh nhé. Em đừng về. - Bữa trước ở dưới thuyền em nhìn thấy anh, nhưng em không dám ra. Em gọi anh thì bố em giết chết em. - Sao lại giết? Thao hỏi và bật cười. - Thật đấy. Cô nói và nhìn anh bằng đôi mắt buồn, rồi cầm tay anh đi về phía bãi hoa. Họ ngồi xuống giữa những luống hoa cải. Hơi thở họ phả nóng mặt nhau. Xung quanh họ hoa cải vàng lấp lánh dưới trăng. - Anh yêu em! Anh nói như cố gắng hết sức mình. Cô nhìn anh lặng lẽ như không hiểu điều anh nói. Anh nâng gương mặt cô lên. - Anh yêu em. Chinh vẫn im lặng. Gương mặt cô như đang ngủ trong lòng đôi bàn tay anh. Anh cúi xuống hôn cô và thấy cô rùng mình. Đôi môi cô khẽ mím. Cô không biết đó là tình yêu. Cô chỉ thấy rằng ngực cô như bị nén chặt. Người cô bừng nóng. Cô cảm thấy hơi nóng của mẹ cô từ những năm tháng xưa đang tỏa vào cô. Cô vội đứng dậy. Thao ngơ ngác đứng theo. Bỗng cô ôm lấy anh khóc nức nở. Một lúc sau, cô ngước lên nhìn anh và hỏi: - Anh là người mặt đất à? - Trước đây, anh là một người lính - Anh nói. *** Trời mỗi ngày một ấm lên. Những cánh hoa cải rụng xuống mỗi ngày một nhiều. Rồi đến

một hôm anh giật mình nhận thấy hoa cải đang rụng gần hết, chỉ còn lại những bông nở muộn. Anh cứ cảm thấy rằng khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống thì Chinh sẽ biến mất. - Em phải ở lại đây với anh. Em sẽ ở nhà anh với mẹ. Em không đuợc đi đâu cả. Cô nhìn anh lắc đầu. Anh rút trong túi ra một tờ giấy đưa cho cô. - Anh chép thơ tặng em đấy. Thơ Tago em biết không? - Em không biết chữ. - Sao, có thật thế không? Anh ngạc nhiên hỏi và lòng anh bỗng xót xa, anh đỡ cô ngồi xuống và ôm cô vào lòng. - Anh sẽ dạy em học. Anh cũng đang đi học đấy. Bây giờ anh giúp gì được em nào, em nói đi! Chinh xoay người ngồi tựa vào lòng anh. Cô kể cho anh nghe cuộc đời của gia đình cô. Cuối cùng cô quay lại nhìn anh và nói: - Em muốn nhờ anh một việc. Em muốn đưa mẹ em lên bờ. - Lên bờ ! Đúng rồi. Chúng mình sẽ đưa mẹ lên bờ. Chúng mình sẽ để mẹ yên nghỉ ở bãi sông này. Anh sẽ trồng nhiều hoa cải bên mộ mẹ. Cô gật đầu cười hạnh phúc. Thế là gần một năm gia đình ông Lư ở lại bến sông làng Chùa. Đôi khi họ cũng vắng bóng dăm ba ngày. Một mùa hè lại đến. Đêm đêm Chinh thích thả mình xuống dòng sông. Bơi bên cô là Thao. Anh có một cơ thể khoẻ mạnh cân đối. Năm năm rèn luyện trong lực lượng đặc công nước đã cho anh vốn sức khoẻ và sự phát triển cơ thể ấy. Sau ngày giải ngũ, anh thi vào đại học ngoại ngữ khoa tiếng Anh. Những đêm trên dòng sông dịu dàng chảy, họ quấn quýt với nhau như một đôi cá thần. Dòng sông bí mật truyền vào cuộc đời họ sức mạnh hạnh phúc và sự khổ đau. Một lần khi đang bơi bên anh, Chinh thấy chóng mặt, cô ôm lấy vai anh thở dốc. Dòng sông chợt dừng chảy, im phắt lắng nghe cô, rồi bỗng trào lên những ngọn sóng reo vui, nhảy nối nhau loan báo cho các loài thủy tộc biết điều hạnh phúc thiêng liêng. Quanh họ, có những con cá bay lên khỏi mặt nước như một mảnh trăng con lấp lóa. Như thường lệ, vào ngày giỗ bà mẹ, cả gia đình ông Lư nghỉ việc nhổ neo về Bãi Yên. Cũng chính ngày này Thao thay Chinh đốt những nén hương cắm trên mộ của bà mẹ. Thao đã bí mật đưa phần mộ của bà lên bờ mấy tháng nay và chôn ngay trong vườn nhà anh. Ở Bãi Yên sau khi làm lễ xong, ông Lư sai Sỏi lặng xuống đáy sông để kiểm tra lại ngôi mộ. Gần một phút sau, tăm nổi lên sùng sục và Sỏi nhao lên khỏi mặt nước kêu thảng thốt: "Mộ bị phá! Mộ bị phá rồi". Một ngọn lửa bỏng rát táp vào mặt ông Lư. Ông lao xuống sông hít một hơi dài và lặn xuống. Những hòn đá xanh đã bị vứt ngổn ngang.

Ông Lư biết không phải nước mà có một người nào đó đã phá ngôi mộ. Nhưng ai đã làm việc đó? Câu hỏi ấy làm máu ông sôi lên. Không ai biết ngôi mộ này ngoài những ngời trong gia đình ông. Ông ngoi lên và ra lệnh: "Thả gầu xúc cát xuống". Họ bắt đầu đào. Sau gần nửa tiếng đồng hồ ông mệt mỏi trèo lên thuyền. Ông lẩy bẩy bước đến cửa nhà thuyền đỡ lấy quả bầu khô đựng rượu, ngửa cổ lên uống. - Đứa nào? - Ông gầm lên - Đứa... ưa... ưa... na...ào... ào? Tiếng ông kéo dài như tiếng rú khản đặc dội vào đôi bờ, vọng lại rền rền trên mặt sông. Tất cả những người trên thuyền cúi đầu im lặng. Trong góc nhà thuyền, Chinh ôm chiếc gối vào lòng kinh hoàng. Đến gần nửa đêm chiếc thuyền mới quay trở lại bến Chùa. Ông Lư ngồi gục đầu trên mui thuyền, trông ông già đi hàng chục tuổi. Hai anh con trai im lặng chèo thuyền. Buổi sáng hôm sau mọi người dậy rất sớm. ở ngoài mui thuyền ông Lư vẫn ngồi đấy. Ông đã ngồi như thế suốt đêm qua. Bỗng cô con dâu chạy từ trong nhà thuyền ra. - Bố! - cô gấp gáp gọi ông và giúi vào tay ông một xếp giấy cũ nhàu. - Cái gì thế này? ông hỏi và giơ những tờ giấy ra... Ông không biết chữ nhưng linh cảm thấy một điều không bình thường trong những tờ giấy. - Cả đâu! - Ông gọi. Sỏi đang hút thuốc lào vội chạy ra - Mày đọc xem cái gì đây. Sỏi cầm lấy những tờ giấy và đọc. Trước khi mẹ Sỏi mất, ông Lư vẫn gửi Sỏi đến học một trường làng cùng con một ông bạn thuyền làm nghề chở đò ngang. - Thưa bố. Đây là thư của một đứa nào đấy gửi cho con Chinh. Chúng nó nói chuyện yêu đương. nhưng con Chinh có biết chữ đâu nhỉ. - Con Chinh đâu? Ra đây. Ông Lư gầm lên, từ trong nhà thuyền, Chinh vừa khóc vừa chui ra. Cô đã nghe thấy câu chuyện vừa rồi. - Đứa nào? Của đứa nào? - Ông gầm lên và giúi nắm giấy vào mặt cô. Cô khóc nấc lên. - Của... của anh ấy. Con xin bố. Con lạy bố! Ông Lư giáng một cái tát vào mặt cô. Chinh ngã vật xuống sàn thuyền. Cô chống tay ngồi dậy khóc nức nở. Cô chắp tay lạy ông. - Con xin bố. Con lạy bố. Con và anh ấy yêu nhau.

- Trời ơi! Ông Lư kêu lên - Thế là nó đã lên bờ rồi. Nó đã đạp lên lời nguyền của ta. Nó giết chết cả gia đình này rồi! Ông túm lấy mái tóc dài của cô, giúi đầu cô xuống sàn thuyền và vung rìu chặt đứt mái tóc. Ông nắm phần tóc bị đứt ném xuống sông. Một cơn gió ở đâu ào đến. Gió cuốn mái tóc lên không. Mái tóc bay rối bời, quằn quại. - Đánh tuốt xương nó ra - Ông nói và rút chiếc cần câu trên mái liếp của nhà thuyền quất vào cô vun vút. Chinh vòng tay ôm lấy bụng. Người cô giật lên từng cơn. Một lúc sau ông dừng lại, túm lấy áo cô giật mạnh. Chiếc áo rách chỉ còn lại hai đoạn vạt áo. - Tao sẽ lột hết quần áo và vứt mày lên bờ... Ông nói đến đó bỗng dừng lại, mắt mở tròn. Những người trong gia đình cô cũng chững người lại nhìn cô. Trước mắt họ cô đang ngồi khóc không thành tiếng, mái tóc dứt nham nhở dính bết vào lưng cô đầy máu. Đôi vú cô hơi sệ xuống, núm vú thâm lại, chiếc bụng chửa đã năm tháng của cô bây giờ bỗng to hẳn lên, hổn hển thở. - Nó có chửa. Nó có chửa, bố ơi! Sỏi thảng thốt kêu lên. Đôi mắt ông Lư đờ đẫn. Chân tay ông run lên như bị bệnh thần kinh. - Thảo nào... - Cô con dâu chặc lưỡi - Đúng là con của ma của quỷ nên nhìn đẹp đến lạnh cả người. Đúng lúc đó Thao bám mạn thuyền nhảy lên. Anh chạy lại ôm lấy Chinh. - Anh ơi! - Cô nấc lên. - Các người không được làm thế. Các người thật dã man. Thao rít lên, lòng anh đầy đau đớn và uất hận. Ở sân nhà, anh đã nghe thấy tiếng kêu gào, khóc lóc của Chinh. Anh chạy xuống bến và nhận thấy ông Lư đang đánh Chinh trên thuyền. Anh không kịp cởi quần áo dài, cứ thế bơi đến nơi con thuyền đậu. - Mày, chính là mày - Ông Lư bước lại trước Thao - Mày đã hại đời nó. Tao sẽ giết mày. Tao phải giết mày. - Chính ông đã giết chết cuộc đời cô ta. Ông đã chôn vùi bà mẹ dưới đáy sông lạnh lẽo tối tăm, ông đã chôn vùi cuộc đời con cái ông trên chiếc thuyền này. - Trời! Ngôi mộ... ngôi mộ. Ở đâu? Mày, mày... ngôi mộ. - Đúng. Chính tôi đã đưa ngôi mộ bà mẹ lên bờ. Con gái của ông đã nhờ tôi. Cô ta đã làm đúng lương tâm và lòng hiếu thảo của một người con. Chính ông và gia đình này phải

cảm ơn cô ấy. Bây giờ ông chỉ biết quyền lực của ông. Chỉ vài năm nữa ông chết đi. Nhưng ông đã và đang đày ải những người khác sống một cuộc đời tối tăm vô nghĩa. Bây giờ ông phải cho cô ấy lên bờ. Anh cúi xuống nhìn xót xa tấm lưng cô, lưng Chinh bầm tím và ứa máu. Rồi anh ngẩng nhìn mọi người nói: - Áo đâu? Đưa áo cho cô ấy mặc. Cát lặng lẽ đi vào nhà thuyền và mang ra một chiếc áo đưa cho anh. Anh mặc áo cho cô và đỡ cô vào nhà thuyền. Một lúc sau anh bước ra nhìn ông Lư và nói: - Ông phải cho cô ấy lên bờ và chính cả ông nữa. Tôi yêu cô ấy và tôi sẽ cưới cô ấy làm vợ. - Mày là một con quỷ. Mày đã phá hại gia đình tao. Mày phải mang trả lại cho tao ngôi mộ. - Nếu ông chấp nhận cho cô ấy lên bờ thì tôi sẽ chỉ cho ông biết ngôi mộ ấy ở đâu. Nhưng ông cũng không được đưa ngôi mộ ấy trở lại dòng sông. Bây giờ tôi về lấy thuốc cho cô ấy. *** Khi Thao đi mua được thuốc cho Chinh trở về thì chiếc thuyền không còn trên bến Chùa nữa. Ông Lư đã cho chiếc thuyền nhổ neo ngay sau khi anh rời chiếc thuyền. Anh không biết con thuyền đi về hướng nào. Anh quyết định chạy theo hướng dòng sông chảy. Ông Lư biết trước chuyện đó. Ông căng buồm cho thuyền chạy ngược dòng. Ông ngồi giữ bánh lái. Còn Sỏi và Cát phải lên bờ để kéo phụ cho chiếc thuyền đi nhanh hơn. Mây đen bỗng cuồn cuộn đổ về. Mưa mùa hạ ập xuống như trút nước. Dòng sông rộng nên gió càng thổi mạnh. Thao vừa đi vừa thở trong mưa. Đất trời mù mịt. Trên dòng sông lác đác có những con thuyền cập vào hai bờ tránh bão. Cứ thấy bóng một con thuyền Thao lại cất tiếng gọi. Nhưng chỉ thấy gió bão trả lời anh. Anh rét run lên rồi trong ngực như có một ngọn lửa. Ngọn lửa đốt nóng rát lồng ngực. Ngọn lửa chui qua cổ anh lên mũi, lên mồm. Thao phải quay về nhà. Anh không đủ sức đi tiếp. Vừa về đến nhà thì cơn sốt lên đến lúc cao nhất. Anh cố gắng thay quần áo và nằm vật ra giường. Bà mẹ hốt hoảng đắp chăn cho anh và đi rang cám đánh cảm cho anh. Mọi người vội vã đưa anh đi bệnh viện. Mỗi khi tỉnh lại anh lại hỏi: - Thuyền về chưa? Không ai hiểu câu anh hỏi. Mọi người nhìn anh lo lắng. Còn anh cứ mỗi khi nhắm mắt thiếp đi lại thấy chiếc thuyền, thấy dòng sông và Chinh bơi đến bên anh. Bỗng Chinh dừng bơi, ôm chặt lấy anh kêu lên khe khẽ. Gương mặt cô vừa đau đớn vừa hạnh phúc. Cô mỉm cười và trán đẫm mồ hôi. Rồi anh nghe tiếng trẻ khóc. Tiếng khóc âm vang náo nức cả dòng sông. Anh bế đứa bé nâng lên khỏi mặt nước. Nhưng rồi đôi tay anh nhẹ

bẫng. Anh giật mình, đôi mắt dài dại mở ra nhìn mọi người, môi anh thì thào: - Thuyền đã về chưa? Khi cơn sốt chưa kịp khỏi hẳn, anh quyết định đi tìm Chinh. Anh nói với bà mẹ rằng có lẽ hai tuần tới anh không về nhà. Anh phải đọc một số sách cho năm học mới. Anh lấy xe đạp và bắt đầu cuộc hành trình dọc sông Đáy nhưng suốt một tuần đầu anh không được một tin gì về Chinh. Anh la cà ở những nơi thuyền tụ tập đông đúc. Anh kể cho những người làm nghề sông nước về gia đình cô. Có người nói họ nhìn thấy chiếc thuyền đó qua nơi họ đã ở mấy hôm trước. Ở trên mui thuyền có một cô gái hai tay bị trói vào cọc. Có người lại kể rằng họ thấy một thuyền câu nhỏ cứ quay tròn trôi theo làn nước, trong thuyền có một đứa bé mới đẻ. Một đôi vợ chồng già không có con đã đón đứa bé ấy về nuôi. Rồi lại có người nói rằng họ nghe đồn có một người đàn bà chết trôi, trên bụng có một đứa bé mắt tròn như mắt cá. Đứa bé ấy nhìn vào bờ cứ cười ba tiếng lại khóc ba tiếng... Thao cứ đi mãi theo những lời đồn đại như chuyện cổ tích của những người dân chài cho đến khi ra đến biển. Biền tít tắp không bờ không bến và rền rĩ tiếng sóng. Cho đến một buổi sáng Thao dậy sớm. Suốt cả bãi sông làng anh rực vàng hoa cải. Những bông hoa cải nhỏ nhắn, mềm mại, ấp áp đung đưa trong gió. Thao bỗng thấy trái tim rung lên đập hối hả. Anh chạy ùa xuống bến. Bỗng anh quỳ xuống bên luống cải. Trước mắt anh, trên mặt phù sa rụng lấm tấm những cánh hoa mỏng và từ đó kéo dài xuống bến sông là những dấu chân mỏng và nhỏ nhắn.

Cây số 16 Thường vào khoảng tháng giêng, tháng hai là bệnh viện tôi lại đón những sinh viên các trường lân cận về thực tập. Bao giờ tôi cũng được giao một vài sinh viên để hướng dẫn vì tôi là một y tá lâu năm trong nghề. Gặp Thoại lần đầu tiên tôi đã có cảm tình ngay. Tôi hỏi: "Sao em không làm làm nghề gì mà đi cọn cái nghề y tá chi cho cơ cực?".

Thoại nói: "Em mới qua được mấy năm. Phải học nghề gì sớm có việc làm. Ba má em còn dưới quê chị ạ". Tôi hỏi: "Ở Việt Nam em làm gì?". Thoại kể: "Em ra bác sĩ ở Đại học Y khoa, nhưng không có việc làm. Những bệnh viện lớn ở tỉnh đủ người rồi. Em đi làm Y tế học đường được mấy tháng, nhưng chán lắm. Em ở nhà lấy vợ". Tôi thắc mắc: "Không lẽ các bác sĩ ra trường như em không tìm được việc làm gì đúng với khả năng chuyên môn của mình hay sao?".

Thoại nhăn mặt: "Thiệt ra thì cũng có, nhưng phải về xã, về huyện...". "Vậy em không về xã, về huyện sao?" - tôi cố hỏi. Thoại thở dài: "Chị ơi, về xã, về huyện thì lấy gì ăn?".

Tôi không hỏi nữa. Câu nói như có cái móc cào vào vết đau đã nằm sẵn trong tim. Năm mười tám tuổi, tôi thi rớt Đại học Y khoa và được nhận vào trường Trung học Y tế thành phố. Cùng lớp với tôi có Hoàng, cũng là bạn trong xóm. Bác Hanh - ba Hoàng - chuyên vá xe đạp nên Hoàng cũng kiêm luôn nghề ấy. Cái tên Hoàng "lốp xe" cũng từ đó mà ra.

Nhà Hoàng đến chín anh em. Ngoài Hoàng và thằng Út là con trai, còn khoảng giữa là bảy chị em gái. Hoàng hiền lắm, đôi khi có vẻ ngây ngô. Trong lớp có 28 học sinh thì 26 là nữ rồi. Được vài tuần thì anh chàng nam sinh thứ hai kia trốn biệt, còn lại mình Hoàng giữa đám con gái và chỉ biết cười cho qua chuyện khi có ai chọc ghẹo. Có lẽ nhờ ở trong gia đình có quá nhiều con gái nên Hoàng chẳng lấy gì làm khó chịu. Anh cứ tỉnh bơ trong khi bọn con gái chúng tôi cảm thấy mất tự nhiên, nhất là khi học về cơ thể phụ nữ. Cái tên Hoàng "lốp xe" được đổi thành Hoàng "nữ hộ sinh". Tôi thấy anh không phàn nàn gì về cái tên mới này. Anh lạc quan và tin tưởng ở nghề nghiệp của mình.

Hai năm sau, Hoàng và tôi ra trường với tấm bằng y tá thực thụ. Khó khăn nhất là vấn đề phân công nhiệm sở. Ai cũng muốn ở lại thành phố. Hoàng nói: "Tôi đi đâu cũng được, miễn là không phải ở nhà". Trời đã chiều cái ước muốn dễ dãi ấy. Anh được điều đi làm việc ở một trạm y tế miền núi gọi là trạm "Cây số 16", thuộc huyện X., tỉnh Lâm Đồng. Người được phân công cùng nhiệm sở với Hoàng là... tôi. Mẹ tôi giậm chân kêu trời: "Con tôi đang ở thành phố sao lại đẩy lên cái xó xỉnh miền núi ấy". Bà ngoại tôi nói: "Con gái đi xa nguy hiểm lắm, lại đi cùng với thằng Hoàng. Trai gái gần nhau như lửa gần rơm. Tốt nhất là cho nó ở nhà lấy chồng".

Ba tôi nói: "Nó vừa học xong ra trường, không lẽ không cho nó đi làm việc". Mẹ tôi khóc thút thít. Bà ngoại ra vào ca cẩm mãi cái câu "lửa gần rơm". Tôi mới ra trường, còn tươi roi rói như con cá vừa vớt dưới sông lên mà phải chịu ngồi nhà lấy chồng à? Tôi năn nỉ và hứa với mẹ tôi rất nhiều, rằng học sinh mới ra trường đều phải nhận việc ở xa, sau 2 năm sẽ được chuyển về thành phố, rằng..., đủ thứ hết. Nói riết mẹ tôi đành miễn cưỡng để tôi đi. Năm ấy tôi vừa tròn 20 tuổi.

Trạm xá miền núi chỉ có một nhân viên duy nhất là chị Lương, y sĩ thường trực. Chị đã trên 40, có vẻ nhà quê và khá luộm thuộm. Ngày đầu tiên đến, tôi thấy chị đang ngồi bệt dưới đất chẻ những thanh tre nho nhỏ trên tấm thớt gỗ như người ta vẫn ngồi róc mía. Tôi

hỏi chị chẻ tre làm gì, chị nói để làm dụng cụ khám phụ khoa. "Hàng tuần chỉ có một bác sĩ đến đây khám bệnh vào thứ hai và thứ tư - chị Lương nói - Những ngày còn lại chúng ta phải tự điều động công tác. Trước mắt chúng ta phải thực hiện cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch cho đồng bào miền núi theo chỉ thị của phòng y tế huyện".

Mọi thứ đối với tôi đều mới mẻ. Ngày thường chúng tôi loay hoay làm việc. Bệnh nhân nhiều hay ít, nặng hay nhẹ gì thì cũng chỉ có chừng đó thuốc. Những hôm rảnh rỗi, tôi hay theo Hoàng và mấy đứa con của chị Lương vào chơi trong rẫy bắp, rẫy khoai. Chẳng hiểu thế nào mà một hôm chị Lương lượm được một bài thơ của Hoàng. Bài thơ có tựa là "Hoa bắp", viết rất giản dị.

"Hoa bắp im lìm Đứng xanh ngăn ngắt Vườn ai cửa đóng Anh về, cô miên"

Chị Lương đọc thơ xong bảo: "Thôi chết, thằng Hoàng tương tư cô nào rồi". Tôi giấu luôn bài thơ không trả lại cho Hoàng, không hiểu sao tôi lại thấy buồn khi nghe Hoàng đã phải lòng ai đó. Mấy hôm sau tự nhiên tôi thấy mắc cỡ khi gặp Hoàng, nhất là khi chiều đến, chỉ có tôi và anh ngồi ăn cơm trong cái bếp của trạm xá heo hút giữa rừng. Bữa cơm thật sơ sài. Tôi nói: "Chiều nay chỉ còn chút tép rim và canh bầu thôi". Hoàng nói: "Vậy mà Hoàng ăn rất ngon. Râu tôm nấu với ruột bầu, Nga có nhớ cái câu...".

Hoàng chợt dừng lại như lỡ lời. Tôi luống cuống nghe tim đập thình thịch. Có phải Hoàng định nói là chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon. Tôi nói mà không hiểu mình định nói gì: "Hoàng thích thơ lắm à?". Hoàng bẽn lẽn: "Hôm trước Hoàng có viết cho Nga bài thơ nhưng làm mất rồi". Tôi hỏi: "Bài thơ gì?". Hoàng đáp: "Bài Hoa bắp". Tôi nghe mặt mình nóng ran. Có cái gì rất lạ len vào trong tim tôi mà trước đây chưa hề có. Tôi nhìn Hoàng và thột nhiên hoảng sợ bước vội ra sân. Rừng núi vẫn bạt ngàn, cô tịch với những "bếp nhà sàn thở khói âm u". Tôi ôm ngực thở dốc, Hoàng ơi...

Nhưng rồi thôi, tất cả hình như chỉ có thế. Mỗi tối, Hoàng vẫn yên lặng xuống ngủ trong kho để thuốc và giấy tờ linh tinh, và sáng ra chúng tôi lại bắt đầu một ngày làm việc mới. Cái "ngọn lửa gần rơm" chưa kịp cháy bùng lên thì gia đình tôi được ra đi đoàn tụ với chị tôi ở Hoa Kỳ. Tôi buồn lắm, buồn như chưa bao giờ buồn. Tôi cảm thấy như mình vừa bắt được một cái gì đấy và đã đánh mất ngay. Tối hôm ấy, tôi chập chờn không sao ngủ

được. Trong trí tôi hiện lên hình ảnh những đêm Hoàng hấp tấp gọi tôi dậy rồi cả hai vừa trùm áo lạnh, vừa vơ lấy cái túi cứu thương chạy vào trong xóm núi.

Tiếng trẻ thơ oa oa khóc chào đời trong những ngày đói kém nhất. Những ca mổ không đủ bông băng và thuốc sát trùng. Trời còn tối mịt, tôi lẳng lặng gom góp đồ đạc, viết vài chữ để lại cho Hoàng rồi rón rén mở cánh cổng bằng nứa của trạm xá bước thẳng ra ngoài. Tôi cầm cây đèn pin, nhìn thật lâu vào cây cột mốc có hàng chữ "Cây số 16" như nhìn một người tôi vừa chớm yêu là đã phải xa, một người yêu mà có phải vì quá nghèo đã không giữ được bước chân tôi?

Mười mấy năm sau tôi chưa lần nào trở lại trạm xá miền núi cô đơn ấy. Cuộc sống mới khoả lấp dần những kỷ niệm xa xôi. Tôi có viết thư về cho Hoàng nhưng có lẽ thất lạc, tôi không nhận được thư trả lời nào cả. Thời gian chồng chất lên những nỗi buồn và mong nhớ vu vơ. Nhiều khi tôi không hiểu mình đang sống hay cuộc sống đã nuốt chửng mình. Một hôm tôi nhận được bức thư từ xa. Mắt tôi nhoè đi. Thư của Hoàng.

"Cây số 16 ngày... tháng... năm... Tình cờ gặp một bạn cũ, biết được địa chỉ của Nga nên Hoàng viết thư thăm Nga đấy. Nga khoẻ không? Hoàng vẫn còn làm việc ở trạm xá cũ, nay đã tăng cường thêm hai bác sĩ và hai y tá mới ra trường, cũng lớ ngớ như bọn mình ngày trước ấy mà. Chị Lương đã về hưu rồi. Hoàng đã có vợ và hai con. Sáng hôm ấy mới hay Nga đã đi. Hoàng bước vào thấy căn phòng trống trơn. Mà Nga vội quá nên bỏ quên lại một vật, Nga còn nhớ là cái gì không? Nga bỏ quên lại cái ống nghe đấy...".

Nước mắt tôi trào ra. Sự ra đi, những lý lẽ, những cái đúng và không đúng bây giờ đối với tôi không có ý nghĩa gì nữa cả. Tôi chỉ thấy nhớ, cái nhớ thôi thúc đến sốt ruột, đến bồn chồn. Sau bức thư ấy tôi liên lạc lại được với Hoàng. Tôi về thăm gia đình anh và đóng góp vào việc xây dựng trạm xá. Thật ra chỉ như muối bỏ biển, nhưng ít ra tôi thấy mình đã làm được một cái gì.

Tôi đặt bàn tay lên cây cột mốc ngày xưa và cảm thấy lòng mình mềm hơn bao giờ hết. Những rung động ngày nào chỉ còn là kỷ niệm nhưng tôi biết là tôi thương nơi ấy, cho đến suốt cuộc đời. Mỗi ngày đi làm, nhìn toà nhà đồ sộ của bệnh viện, tôi không thể nào không nhớ tới trạm xá miền núi èo uột kia. Bên tai tôi lúc nào cũng như còn nghe câu nói của Thoại: "Chị ơi, về xã, về huyện thì lấy gì ăn?".

"Cây số 16" là một trong những địa chỉ thương nhớ suốt đời của một người con gái dù đi xa đến đâu cũng luôn nặng lòng với quê hương xứ sở.

Tác giả Thi Nam tên thật là Cao Thanh Phương Nghi, sinh năm 1968 tại Sài Gòn, định cư tại Hoa Kỳ năm 1992, hiện làm việc tại UCI Medical Center, thành phố Orange.

"Cây số 16" được giải nhì trong cuộc thi viết do báo Người Việt (California, Mỹ) tổ chức năm 2005

Hạnh phúc lang thang Chiều, ngồi đọc truyện ngắn của một tác giả nữ đăng trên báo văn nghệ - nghĩ xa xôi, buồn nghẹt thở. Nắng muộn cứ xục xịch chạy lên chạy xuống yếu ớt như bước đi của người vào tuổi xế chiều. Nàng bỗng nhớ những cái nắng sóng sánh leo vội qua con dốc lên chùa Huyền Không Thượng ở Huế trong mùa hè cuối của thời sinh viên.

Nàng thả phịch người xuống giường, chìm đắm vào biển người mênh mông mà nàng đã từng thương, từng nhớ, từng yêu. Chìm đắm và lao theo những bóng người vụt qua, lúc chậm lúc nhanh, mỗi người bước cùng nàng một đoạn ngắn. Chẳng có khuôn mặt nào rõ ràng. Cố tìm trong biển người đó một đôi mắt, một nụ cười hay khả dĩ một bàn tay nào đó mà nàng đã từng dựa dẫm, bấu víu tìm chút hơi ấm. Một thời nàng lang thang tìm hơi người qua những bàn tay. Nhưng rồi tuyệt nhiên không có. Tuyệt nhiên biến mất. Lại nghẹt thở rồi. Cứ hễ một chút khuấy đảo nào của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào đánh boong vào tim là nàng lại nghẹt thở. Lồng ngực không thu kịp dưỡng khí để đuổi theo những cuộc truy bắt bất tận của ý nghĩ về một thuở, một thời.

Có tiếng đàn ghita của cậu sinh viên gần nhà. Những tiếng giật thột chưa thành giai điệu của người mới tập đàn. Từng nốt, từng nốt rời rạc nhưng dường như vẫn cố đánh cho ra giai điệu. Tiếng đàn không hay, không dở - chỉ là những âm thanh bình thường nhưng lại lôi tuột nàng vào mê trận của lộn xộn ý nghĩ về những tháng năm hạnh phúc, những ngày giờ tìm kiếm quái vật trên không... Loài quái vật cứ lởn vởn trong vô thức. Ý thức bất lực

vì không kiểm duyệt được và cứ thế nàng cứ trôi trong trạng thái tìm kiếm, chờ đợi cái điều hư ảo ấy. Người ta không sợ những điều chưa biết, không biết. Người ta chỉ sợ và khiếp hãi vì những thay đổi bất thường, biến mất khôn lường của những cái đã biết. “Bi kịch hay hài kịch cũng đều tùy thuộc vào em thôi. Em nhìn tích cực thì nó là hài kịch và ngược lại”. Nàng không còn nhớ người đàn ông nào đã từng nói với mình như thế. Nhưng kể cả lúc ấy và bây giờ nàng vẫn đinh ninh một điều rằng hài kịch không nghĩa là cười và bi kịch không hẳn là khóc.

Anh yêu nàng. Một tình yêu bất tử. Không vì bất kỳ điều gì và sẵn sàng bất chấp mọi thứ để được sống bên nàng. Còn nàng chỉ đơn giản là sự xúc động bất tử trước tình yêu của anh. Những trở lực từ phía gia đình đã đẩy anh vào vòng xoáy của những cuộc chinh phục bất tận công danh, sự nghiệp. Và nàng lặng lẽ nhìn theo không xúc động, không buồn vui, không tiếc nhớ. Một trạng thái mà theo nàng đáng phỉ báng nhất của loài người. Đã 3.650 ngày không gặp mặt, không bất cứ một tin tức gì khả dĩ nhận được ngoài sự tồn tại của mỗi người.

Nàng khóa cửa, một động tác mà nàng luôn cho là thừa thãi nhất mỗi lần ra khỏi phòng trọ. Phòng trọ như hũ nút, cửa ván ép, chỉ cần giật tay mạnh một cái là bay vèo. Đồ đạc trong phòng, quý nhất là chiếc máy vi tính đã sử dụng cách đây mười năm; cũ kỹ, hư lên hư xuống. Lúc nó bẳn tính, chẳng thể dùng được. Đời vốn vậy, khóa cứ phải khóa. Lắm lúc chẳng có một thứ gì đáng quý người ta vẫn khóa - một kiểu an tâm học được nhiều người công nhận nhưng lại chưa có bất cứ một học thuyết nào.

Thụy đến đúng giờ như mọi khi. Phanh kít chiếc xe mới toanh giữa sân, hất đầu mũ về phía nàng, huýt sáo ngụ ý giục. Nàng thở dài: chúa tể thời gian mà việc gì cũng cuống lên như người ta chỉ còn một canh giờ nữa là chui xuống lỗ, vĩnh biệt cõi ta bà này. Nàng bước thong thả như đã quen. Thụy gào lên: định biến thế giới này thành rùa đấy hử?

Thụy - đứa con gái ngỗ nghịch và bất cần đời. Hai mươi tám tuổi cũng gọi là trải và nếm được tí chút vị ngọt đắng mà cuộc sống ưu ái ban cho. Nhà Thụy giàu thuộc hàng “đại gia” ở thị xã tỉnh lỵ này. Mẹ mất sớm nên bố Thụy sẵn sàng cung ứng bất cứ yêu cầu nào của cô con gái rượu. Ông bù đắp cho cô tất cả những gì một người đàn ông độc thân có thể. Nói là ngỗ nghịch nhưng Thụy thụ hưởng tính cương trực của cha và nàng luôn bảo đó là điều may mắn của Thụy.

Nàng quen Thụy trong lần đi làm công tác từ thiện ở một xã vùng cao huyện Phước Sơn. Hai đứa không quen tự dưng mê tít nhau rồi thân nhau chỉ vì một điểm chung: thích đứng hàng giờ trên đỉnh đèo Lò Xo để ngắm tất thảy mọi sinh linh đang vần vũ nhau dưới kia. Từ thị trấn Khâm Đức chạy hơn 60 cây số đường quanh co, vắng vẻ lên đến đỉnh đèo chỉ làm mỗi một việc: chiêm ngưỡng tặng vật mà hoang vu tạo hóa đã ban cho. Đẹp thần kỳ như bức tranh phong tình mà những cuộc tình của Zeus đã trải qua. Chiều một mình đứng giữa núi rừng, trong cái không khí ẩm ướt, mù sương trên đỉnh đèo; nghe hoang vu của đất trời, hoang liêu của chính mình, chẳng còn thú vị nào bằng. Lúc đó bao giờ nàng cũng ước: giá được như ngày xưa - hóa đá thành tượng, ngàn đời ở đây, mặc rêu phong thời gian phủ kín. Và chìm vào quên lãng.

Thụy yêu người đàn ông bằng tuổi bố mình, đã thê tử đề huề. Một tình yêu thánh thiện còn sót lại ở thế kỷ 21 này. Thụy yêu, cho và không bao giờ đòi hỏi bất cứ điều gì ở người đàn ông ấy.Thụy không chấp nhận kiểu gắn bó như nàng: xúc động bất tử vì cần người chăm sóc cho mình, cần người luôn luôn tôn thờ và đặt mình ở vị trí quan trọng nhất, tuyệt đối nhất. Thụy bảo: mày chẳng việc gì phải như thế. Sẽ khổ thôi. Không yêu chẳng sống với nhau được. Nàng không dám đôi co lại, giữa nàng và Thụy ai khổ hơn ai đây?

Chiều chủ nhật. Hai đứa lòng vòng hết mọi đường phố của thị xã, tìm nhặt xác ve trên thân cây hoàng lan. Thụy khe khẽ: chẳng biết khi nào mình thôi lang thang?

Dòng sông tật nguyền l - Bây giờ đang là cuối đông, những trận gió mùa tràn về dứt từng chiếc lá cuối cùng trên cây bàng già nua bao năm đứng trân trân chịu trận bên bờ sông. Cây bàng có từ bao giờ tôi cũng không biết, nhưng quanh năm suốt tháng, mỗi khi từ đồng về, người ta lại đem bầy trâu buộc vào mấy cái rễ trót mọc lồi lên trên mặt đất.

Phạm Thanh Khương

Chỗ đất buộc trâu lúc nào cũng nham nhở, nhầy nhụa, lở loét, khai và khăn khẳn mùi phân. Những ngày nắng ráo còn đỡ chứ phải ngày mưa không một ai dám đặt chân vào,

đất ở đấy sủi bọt lục bục như lỗ trạch lòng mương nước. Từ những vũng trâu đằm, mùi khắm, khai, thối, bốc lên theo gió loang xa cả một vùng sông nước. Rồi nước từ những vũng trâu đằm ấy chảy xuống sông, hòa vào nước mặc người đôi bờ hì hụi gánh về đổ bể lấy nước ăn. Những ngày như thế, cha thường bắt tôi chèo thuyền ngược lên hướng thượng nguồn mới cho nổi lửa nấu cơm.

Mùa hè, từ mờ sáng cho đến nửa đêm, lũ trẻ trâu tóc cháy đỏ hoe râu ngô, người ngập ngụa mùi bùn tanh nồng trèo đầu cưỡi cổ, vặt lá bẻ hoa, lần theo mấy cái cành đua ra mặt nước, hò nhau nhảy xuống. Đôi khi lũ trẻ nhoai người hái bàng chín, gặp phải cành yếu, rơi từ trên cao xuống, máu mũi, máu miệng chảy đỏ ngoe đỏ ngoét theo nước lẫn vào màu da đen cháy. Đối diện phía bên kia bờ là bến nhà tôi, nơi cha tôi thường neo thuyền lại nghỉ ngơi sau mỗi lần đi xa về.

Nói là bến nhà tôi cho oai chứ thực ra chả của ai cả, chẳng qua là thuyền nhà tôi thường về đậu ở khúc sông này, lâu ngày thành quen rồi tiện mồm cứ gọi thế cho dễ nhớ, dễ hình dung. Tôi không thể nào nhớ nổi tôi đã đi bao nhiêu con sông trong vùng đồng đất mà người ta cứ cho đó là vựa thóc của đồng bằng sông Hồng. Ai muốn gọi thế nào cũng được vì nó chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống nhà tôi.

Bản thân tôi cũng không có nơi sinh chứ nói gì chỗ cắm sào là của mình. Biết mình không có nhưng ai hỏi vẫn phải nói có. Nhiều khi tôi nghĩ, khổ nhất ở đời này rõ ràng không nhưng cứ tự nhận mình có, nếu không nó thèn thẹn, xâu xấu thế nào ấy. Những chuyện như thế, cha tôi nghe thấy, nếu ông đang ngồi thường nhấc đít lấy tay phủi phủi mông kiểu người ta phủi bụi, còn đang đứng, thế nào ông cũng chạy ra mui thuyền vạch quần đái rồi khạc nhổ quá bằng có cục đờm to đút nút lấy cổ.

Năm nay trời lạnh cá cũng không chịu đi ăn đêm, và khi người khôn của lại hiếm. Cứ như hiện nay, các loại cá sông có đẻ hằng đêm thì cũng khó mà duy trì được giống. Để đánh bắt con người không từ bỏ một thủ đoạn hay phương pháp nào. Trước kia, những gia đình sống bằng nghề sông nước tuy không ai quy định nhưng mọi người đều ngầm thống nhất các loại vó lưới dày mau không dùng vì còn để cá lớn. Nhưng nay thì khác, vó lưới dùng loại dày, rồi kích điện, đánh mìn, hóa chất. Cộng thêm vào tệ đánh bắt không cần biết hậu quả về sau, thuốc sâu từ đồng ruộng chảy xuống, nước thải từ các nhà máy công nghiệp chảy vào, từ các khu dân cư vô tư đổ đến. Một thời sông trong trẻo, thơ mộng cho những ai yêu văn thơ tha hồ sáng tác, còn nay sông một màu đùng đục xam xám đen tang tóc. Hầm cá trong lòng thuyền nhà tôi ngày xưa lúc nào cũng nhung nhúc, chiếc sạp lát sàn đêm đêm cá quẫy nước bắn ướt đầm phải lên mui mới ngủ được, còn bay giờ hôm nào nhiều chục con, ngày ít hai ba con.

Ngày ấy, khi cá còn dễ đánh bắt, kho nấu cá bao giờ cha tôi cũng chặt vứt bỏ khúc đầu, đuôi chỉ lấy khúc giữa. Ông thường bảo tôi rằng, ở đời ăn uống từ đầu chí cuối mất cả phần con cháu, đồ phàm phu tục tử, không đáng sống. Mặc ông nói thế nào tôi cũng kệ, thực ra tôi nghĩ chẳng qua là do ông làm nghề chài lưới, kiếm con cá con tôm không vất vả khó khăn như những người khác nên thế thôi. Mà lạ lắm, tất cả các món ăn chế biến từ cá ông thích nhất là món kho mể. Món kho mể chẳng có gì cầu kỳ phức tạp, người làm cá chỉ mỗi việc mổ cá, để nguyên cả máu rồi cho vào nồi đất, đổ nước xăm xắp cho lên bếp đun, bao giờ cá chín nhừ là bắc ra ăn, múc cả khúc cá với nước cá kho còn nóng nghi ngút khói. Nước kho cá chan cơm ăn còn ngon gấp mấy lần nước mắm đầu nong đầu nia, nước mắm cất. Thích thế nhưng dẫu có ngon đến mấy, ông chỉ ăn một bữa còn lại đem đổ hết xuống sông, không bao giờ để lại ăn bữa thứ hai. Có một lần tôi thấy cá ngon, tiếc của giời đem cất đi tối lấy ra. Vừa nhìn thấy, ông chẳng nói chẳng rằng quăng luôn cả nồi cá xuống sông, xong chửi, bảo tôi là đồ khốn, giống hệt tính cái con mẹ đẻ ra tôi. Những gì ông không thích, những khi ông bực, ông lại chửi tôi như thế. Lúc ấy tôi rất sợ, nghe giọng ông chửi, tiếng rít qua kẽ răng, người tôi cứ co rúm lại, chân tay tự nhiên run bần bật, không thể nhúc nhắc, chẳng khác gì người ta đem dây trói chân trói tay tôi lại.

Tối qua trước khi đi ngủ cha tôi nói như giao hẹn:

- Sáng mai nhổ neo, liều liệu tính toán cơm nước mà đi sớm - Ông lầm bầm - Cứ thế này rồi không có cả cứt mà đổ vào miệng.

Chả cần biết mọi người có nghe thủng việc không, ông lấy vò rượu, đổ đầy bát tô, uống cạn một hơi rồi chui vào khoang thuyền trải chiếu nằm ngủ.

Nghe ông nói, tôi hãi im thin thít làm theo, không đám ho he gì. Cô Hến cũng thế, cun cút dọn dẹp các thứ cho vào cái hòm đựng đồ bằng sắt tây đã hoen gỉ. Biết tính ông chỉ nói một lần, không nhắc lại, sáng nay mọi người dậy sớm để chuyển thuyền lên khúc sông trên.

Tôi quên không nói, nhà tôi hiện tại có ba người. Tôi, cha tôi và người đàn bà cha nhặt ở bến Trầm, còn người đàn bà sinh ra tôi đã bỏ dòng sông cùng những chuyến phiêu bạt gió sương đi đâu không rõ. Việc bà bỏ tôi và cha ra đi có một phần lỗi thuộc về tôi, còn cha tôi, từ ngày bà bỏ đi, cứ uống rượu là ông chửi mặc dù không hề nhắc đến tên ai nhưng

tôi biết, người ông nguyền rủa, thâm thù, cay đắng không ai khác chính là bà, người được ông nhặt lên từ mó bỏ mồi cá ngày nào. Cũng sau ngày bà bỏ đi, đến bến nào, nghỉ ở khúc nào, miễn là nơi chiếc thuyền có thể cắm sào, gặp người đàn bà nào có thể nhặt được là ông nhặt. Rồi như con thuyền, cắm sào một chốc một lát nhổ neo đi, người đàn bà ông nhặt ấy sau một vài ngày cũng bị ông vứt trả lại bờ không thương tiếc.

Mờ sáng tôi dậy thu xếp chài đem buộc lên cái cọc cắm ở đầu thuyền như cây nêu để phơi, công việc này trước đây là của mẹ tôi, còn bây giờ, tất cả những người đàn bà kia, những người ông nhặt sau bà đều không được làm. Khi tôi lụi cụi phơi chài, cô Hến hì hụi nhóm lửa phía cuối thuyền thổi cơm. Tôi đang đứng trên mui giũ chài thì thấy loảng xoảng rồi tùm tũm xoong nồi, rổ rá và cả chiếc kiềng gang ba chân theo nhau rơi xuống sông. Đuổi theo tiếng đồ vật rơi là tiếng chửi của cha tôi, tiếng chửi nhằm nào cô Hến chứ không vô chủ như mọi lần, lời chửi gay gắt và độc địa.

- Đồ ngu, nhóm bếp thế thằng bố mày ngủ được à. Không biết làm sao gì hơn việc cong tưỡn cái mông lên hay sao?

Khốn nạn. Sự khốn nạn đến tận cùng, nhưng người đàn bà cha tôi nhặt trên bến sông Trầm vẫn không hé răng nói lấy một lời, cô nhẫn nhịn chịu đựng, nem nép chui qua khoang nhà thuyền ra phía đầu mũi ngồi lặng lẽ lấy vạt áo chấm chấm mắt. Khổ quá, ở thuyền sáng mai ra đàn bà con gái không bao giờ được ra mũi thuyền ngồi, vừa ăn chửi xong lại ra đấy không chừng vớ cái đạp lộn xuống sông bây giờ. Nghĩ thế tôi bỏ dở công việc len lén tụt xuống kéo cô lên mui ẩy về cuối thuyền trong khi cha tôi chui lại khoang trùm chăn ngủ tiếp. Cô Hến không biết rằng, khi ngủ, bao giờ bố tôi cũng cắm hai sào, một phía mũi, một ở cuối để phòng khi đêm trở gió thuyền không xoay ngang xoay dọc làm mất giấc. Sáng ra, khi nấu cơm phải nhổ sào tháo dây phía cuối thuyền để cho thuyền ngược hướng gió thì khói mới không vào khoang.

Vì không biết nên cô Hến đã để khói bay vào khoang, mà khoang nhỏ thì có khác gì hun chuột. Bài học vỡ lòng đời thuyền không xong chắc không sớm thì chày cô Hến lại được cha tôi vứt lên bờ như những người đàn bà khác.

2 - Những người đàn bà đi qua cuộc đời cha tôi đều là những người ông nhặt được trên sông và trên bờ từ nhữmg chuyến đi kiếm ăn lênh đênh sông nước. Người đàn bà đầu tiên và cũng là người sinh ra tôi là người ông nhặt được từ một mó bỏ mồi cá.

Người làm nghề chài lưới trên sông không phải ai cũng có nghề như nhau mà thực ra mỗi người, mỗi vạn chài có một nghề riêng. Có người cả đời sông nước chỉ sống độc một nghề thả câu, có người buông lưới, có người quăng chài, có người đi te hay đóng đăng, đóng túi. Cũng như cha tôi, cả đời chỉ có một nghề đánh chài mò. Trong các nghề sông nước, nghề chài mò là nghề vất vả nhất.

Người làm nghề chài mò phải có sức khỏe, khả năng lặn sâu, lâu, chịu được sức ép của nước, ai không có sức khỏe làm nghề này rất nguy hiểm đến tính mạng. Đã có một vài người tưởng nghề chài mò dễ kiếm ăn lao vào, hôm trước hôm sau phải bỏ vì không chịu được. Độ sâu để đánh chài mò thường phải từ hai mét trở lên. Mỗi khi quăng chài, người đánh phải lặn xuống, dùng chân dận cho bốn xung quanh mép chân giềng chài ngập sâu vào bùn mà phải làm nhanh nếu không cá sẽ theo mép chân giềng chui ra ngoài. Người chịu được không sao, người nào yếu, khi làm xong việc đó, lúc nổi lên mặt nước ộc máu mồm máu mũi, nếu ai chảy máu tai coi như cầm chắc cái chết.

Trước đó, người đánh phải lặn xuống sông lấy tay hoặc chân gạt lớp bùn non, đào một cái hố sâu (gọi là mó) khoảng hai mươi đến ba mươi phân, rộng bằng cái thúng lồi bỏ mồi vào. Mồi để đánh thường làm bằng cám rang, trộn với thóc, phân người tươi, phân trâu bò và các loại xác giun, cào cào châu chấu. Sau khi đã trộn các loại đó với nhau, người la lại đem trộn với bùn rắn hoặc đất thật cho thịt nhuyễn rồi chia ra thành nhiều phần, mồi phần to bằng cái ấm chuyên pha trà bỏ xuống một mó. Ngày còn bé, mỗi khi cha tôi làm mồi thường bắt tôi phải ị vào cái vại sành để lấy phân trộn mồi. Hôm nào không muốn đi phải rặn đến đỏ cả mặt nổi gân nổi guốc. Những lần như thế ông thường chửi tôi là đồ toi cơm, vô tích sự rồi đuổi tôi ra và kéo quần ngồi luôn vào đấy làm công việc cung cấp nguồn nguyên liệu làm mồi. Mà cũng lạ, cái giống cá chép sông sao thích loại mồi có phân người tươi thế không biết. Mồi gì thì mồi, có làm thơm đến đâu mà không trộn phân tươi là không hấp dẫn được nó.

Năm ấy mùa đông như kéo dài hơn, rét nhiều hơn, cá mú dường như cũng ít hơn và con người sống cũng ít tốt hơn. Ấy là theo cha tôi nói thế chứ tôi lúc đó còn đang ở bờ tre gốc dứa nào chưa biết. Sau khi đã uống cạn bát nước mắm trước khi xuống nước, ông quăng chài, nhưng chả hiểu sao, đáng lý phải quăng chài bẩy, nghĩa là chài dài sải ba (bẩy thước bắc bộ, mỗi thước bốn mươi phân, chài bẩy chiều dài bằng hai mét tám) ông lại quăng chài chín. Vì chài chín quá dài, cá dễ lặn xuống bùn chui qua giềng ra ngoài nên ông quăng chài xong sực nhớ ra vội vàng xuống sông ngay. Sau khi lặn dận chân giềng ông có cảm giác không có cá, vì như mỗi lần, khi lặn dận chân giềng là thế nào cũng chạm cá sao ra. Giống cá chép, khi bị động thường tìm một chỗ bùn lõm để ép mình vào đó tránh. Đánh chài mò, quăng chài xong phải xuống dận chân giềng để cá khỏi ra ngoài và cũng là

để cho cá rúc xuống chỗ chân vừa đi, chính chỗ đó đã có các túi lưới, cá vào đó rồi thì không thể nào ra được. Đấy cũng chính là thói quen chết người của bầy cá chép sông, cứ tưởng tránh được cái chết ai ngờ tự chui đầu vào chỗ cho người làm thịt.

Linh tính mách bảo thế nào, nếu như mọi lần, sau khi lặn dận chân giềng xong thường phải lên thuyền ngồi chờ mươi mười lăm phút, đợi cho cá rúc chân giềng mới xuống mò thì ông lại xuống mò ngay. Lặn mò hết cả một vòng chân giềng không thấy cá lao ra động chân giềng ông bèn lặn vào kiểm tra mó mồi. Và ông đã thấy người đàn bà sau này sinh ra tôi nằm cuộn tròn trong mó. Chẳng nghĩ ngợi gì, ông để chài đấy đưa bà lên bờ, dốc ngược hai chân vào vai, đầu chúc xuống đó chạy huỳnh huỵch mấy vòng.

Tuổi thơ của tôi là những ngày lênh đênh sông nước, nay đây mai đó, không có điểm dừng. Nơi cha tôi thả mồi và nhặt được bà từ mó cá không bao giờ ông cho thuyền về đó đậu. Đêm đêm ngày ngày tiếng cá quẫy lòng thuyền là niềm vui của gia đình, nhiều khi cái âm thanh tù túng, vây hãm của bầy cá trong khoang làm tôi toét miệng cười. Tiếng cười, nét mặt tôi khi đó như thế nào không rõ nhưng mỗi khi như thế cha tôi thường nhăn mặt có vẻ khó chịu. Năm tôi lên bảy tuổi, có một lần mẹ rắng với cha.

- Con nó năm nay đến tuổi đi học rồi đấy, ông xem gửi con vào đâu cho nó học kiếm cái chữ kẻo rồi lại vất vả cả đời như cha mẹ, nó lại oán trách sau này.

Vẫn giữ nguyên nét mặt đầy khó chịu, cha bảo, giọng rít qua kẽ răng.

- Thằng bố nó không học có chết đâu, vẫn sống nhăn răng ra đấy thôi. Học vào rồi mà nứt mắt tý tởn. Không ăn mới chết chứ không có chữ chưa thấy ai chết bao giờ.

Nghe ông nói, nét mặt mẹ đang tươi như hoa bỗng xịu xuống chẳng khác gì gặp trận gió quét, rũ xuống, bã bời, tơ tướp. Không phải đi học tôi càng thích. Tôi nhảy cẫng lên, để nguyên cả quần áo tôi lao rầm xuống nước, lặn một hơi bơi ra rõ xa mới ngoi đầu lên. Túm tóc đuôi gà bết nước cuốn chặt lấy cổ. Mẹ tôi thấy thế giấu mặt vào sau tay áo.

Cuộc sống nhà tôi cứ thế, đều đặn diễn ra. Sáng mẹ lấy vợt xúc cá dưới khoang thuyền mang đi chợ bán đong gạo, mua rau dưa, dầu đèn và các thứ linh tinh khác. Chiều cha làm mồi rồi chờ chập choạng mang ra bỏ mó, đợi khi trăng lên hay gió nổi hây hẩy, mẹ chèo thuyền cha đứng đầu mũi nhẹ nhàng lướt đến chỗ chiều cha bỏ mồi. Bao giờ mũi thuyền cách mó bỏ mồi chừng sải tay, mẹ dựng mái chèo cho thuyền đứng lại. Cha trên đầu mũi, hơi xoay, vặn người về sau rồi cũng rất điệu nghệ, ông tung chiếc chài lên nở bồng trên mặt sóng, đường chân giềng đã được kẹp chì bung đều vòng tròn, chụp xuống chỗ đã bỏ mồi. Tiếng chân giềng chạm mặt nước chỉ nghe cái rụp. Chỉ bằng một cú quăng ấy lũ cá trót dại vào ăn trong mó khó lòng thoát khỏi bàn tay của cha. Trong khi chân giềng chìm dần từ mặt nước xuống chạm lớp bùn dưới đáy, nếu là mùa đông, cha bưng bát nước mắm đặc sánh uống một hơi rồi nhẹ nhàng như con rái cá ông lao xuống sông. Bao giờ đường chân giềng chắc chắn đã được giấu sâu trong bùn khi đó mới thấy ông ngoi lên mặt nước.

Mỗi lần quăng như thế cha thường phải lặn lên lặn xuống từ năm đến sáu lần. Một đêm, cha thường bỏ ít mười mó, hôm nào thấy có nhiều tăm ông làm mười bốn mười lăm mó. Những hôm như thế, tiếng cá tranh phần nước lấp sấp trong lòng khoang thuyền lục cục cả đêm. Và tôi phải lên trên mui ngủ, còn cha tôi sẽ lên trên mũi, mẹ tôi, bà phải xuống ngủ phía đuôi, nơi cạnh bếp để sáng mai cơm nước sớm cho cha và chuẩn bị đi chợ. Chẳng biết có phải vì làm nghề chài mò lặn nhiều hay không mà ngực cha tôi vồng lên, những thớ thịt căng đầy cuồn cuộn những cơ là cơ. Vồng ngực căng đầy của cha tôi theo năm tháng làm nghề chài mò lép dần, lép dần không gì níu giữ được.

3 - Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn ước giá không có cái buổi chiều khốn khó đó thì đã không mất mẹ, cuộc sống của cha con tôi cũng có khi vẫn chung niềm vui ăm ắp tiếng cá quẫy hằng đêm trong lòng khoang thuyền rộn rạng. Mẹ tôi sáng sáng vẫn te tái cơm cơm nước nước lo cho cha và tôi cùng lời nhắc nhở trước khi cắp chiếc rổ lên bờ đi chợ. Rằng hai cha con ở nhà chờ bà chợ về cơm nước, đừng sợ muộn mà tự nấu nướng lấy rồi cả nhà lại phải ăn cơm sống. Và tôi, từ lúc mẹ bước lên bờ sẽ leo lên mui ngồi ngóng bà chợ về mua cho bơ bò hạt dưa người ta nhuộm phẩm nhấm nhắt cho đỏ môi. Còn cha, bà sẽ mua cho lạng thuốc lào. Nhận gói thuốc từ tay bà, ông vân vê, vuốt vuốt từng sợi, viên viên hạt bi đặt nhẹ nhàng vào chiếc nõ đã được lấy mũi dao nhọn khoét, gọt, gạt những bớn khói thuốc bám đen xung quanh, tay gẩy gẩy chiếc đóm ruột tre ngâm phơi khô, hơ hơ trên miệng điếu rồi hút một hơi thật sâu, tiếng nõ nổ tanh tách. Đoạn, ông ngửa cổ, chụm môi nhẹ nhàng nhả từng sợi khói phơ phất bay mỏng mảnh như dây chỉ trắng lên trời. Cha quay ra khen: Hôm nay bà nó mua thuốc lào của ai mà hút có hậu thế. Nói có khi chưa xong câu, ông đã nằm quay ra sàn thuyền lơ mơ nghĩ những gỉ những gì không biết và bật cười. Mẹ nghe thế nguýt cha một cái rõ dài, tủm tỉm cười theo. Tôi thuộc lòng chẳng hiểu đầu đuôi thế nào cũng lăn xuống sàn, giơ hai chân lên trời giẫy giẫy cười hùa theo. Đêm ấy không có gió, thuyền nhà tôi cũng bồng bềnh, dập dềnh nô giỡn với sóng, trăng và nước.

Ấy là ước giá thế thôi chứ cái cảnh đó bây giờ nó đã quá xa với tôi rồi. Tôi cũng không còn nhớ là đã phải xa nó năm năm hay sáu, bẩy năm gì nữa, xa như tiếng cá quẫy lòng khoang thuyền của cha con tôi bây giờ vậy. Nhiều hôm thấy tôi ngồi bần thần ông chửi.

- Nhớ nhớ nhung nhung cái gì. Cái mặt mày rồi lại như con đẻ mẹ mày, quân ăn cháo đá bát. Loại người gì sống không bằng loài chó. Mà chó nó cũng không bao giờ bỏ con như cái con mẹ mày đâu. Ngồi đấy mà thuỗn cái mặt rặn ỉa ra cho ngứa mắt.

Ông chửi thế tôi phải chịu chứ thực lòng, không phải tôi không có lúc giận mẹ. Cái ngày đầu tiên tôi có tháng, thấy máu tự nhiên chảy ra tôi lo đến thắt gan thắt ruột. Tôi học cách người ta cầm máu, vơ không biết bao nhiêu là lá, nhai rồi đắp đến mỏi cả mồm, căng cả bụng nước mà nó vẫn cứ chảy. Bực mình, tôi phải lấy cả một vạt áo cuộn nút lại mới được. Tháng đầu tiên của người con gái tôi phải mất cả cái áo cánh trắng chĩ chụm chắt bóp mãi mới có được. Cũng may, sau đó hơn tuần cha tôi nhặt được một người đàn bà ở trên bến Sủi, bà đã bảo cho tôi biết. Người đàn bà này cũng chỉ kịp bảo cho tôi biết cách làm thì cha tôi đã lại vứt trả bà lại bờ. Giá tôi có mẹ thì làm sao tôi phải mất oan cái áo như thế, làm sao phải để một người đàn bà lạ hoắc dạy bảo tôi chuyện đó. Những lần như thế tôi giận mẹ lắm, chỉ có điều, tôi giấu cái giận vào trong lòng. Giận thì giận nhưng tôi vẫn nhớ bà nhiều lắm. Giận mẹ một tôi căm thằng chủ cai thầu thợ đấu gấp mười, thậm chí cả trăm lần. Chính nó đã làm tôi mất mẹ và cũng chẳng biết bây giờ mẹ tôi đang phiêu bạt nơi nào. Sau lần ấy nó đã giũ áo bỏ đi để mặc mẹ tôi gánh chịu. Cũng chính nó làm tôi bây giờ nhìn mặt bất cứ thằng đàn ông nào trên đời cũng thấy gian gian, đểu đểu, không thể tin được. Tôi luôn cảm thấy sự khốn nạn ẩn chứa sau vẻ mỹ miều, ngon ngọt, chả biết có đúng thế không.

Năm ấy khúc sông Ghềnh sao nhiều cá đến thế, cha tôi đánh cả tháng mất tăm vẫn sủi lên như bong bóng mưa. Không mấy khi gặp được nơi như thế cha quyết định dừng thuyền ở đấy chứ không như những lần khác, chỗ nào nhiều nhất cha cũng chỉ cắm sào hai đến ba hôm là cùng rồi lại nhổ neo đưa thuyền sang khúc khác. Theo ông, đánh bắt mãi một chỗ cá chẳng kịp lớn rồi ra chẳng còn cửa mà làm ăn. Sống nhờ cá mà không biết cho con cá kịp lớn, kịp sinh đàn dài lũ thì cũng là quân vô ơn bạc nghĩa. Những chỗ đã đánh bao giờ cha tôi cũng phải đợi hai ba năm sau mới quay lại. Có nhiều khúc sông, khi thuyền nhà tôi quay lại tôi còn không nhận ra nơi ấy đã từng neo đậu vì cảnh vật thay đổi quá nhiều, mặc dù sự thay đổi thường là chán đi chứ chẳng mấy chỗ đẹp lên. Chỗ thì làng mạc tiêu điều xơ xác, cây cối chẳng còn xanh tốt như ngày đến. Chỗ thì bãi lở vào sâu nhôm nhoam, ghẻ lở. Nơi hàng chục chiếc tàu hút cát hùng hục đào bới, tiếng máy nổ rồi khói, váng dầu xả ra đen đặc cả khúc sông. Cái sự mưu sinh của con người cũng ghê gớm,

tham lam vô cùng, chẳng biết thế nào cho đủ. Gặp những cảnh như thế, cha tôi thế nào cũng chửi đổng vài câu rồi mới cho chèo thuyền đi khúc sông khác.

Cũng vì nhiều cá cha tôi cho thuyền neo lại lâu nên việc sáng sáng mẹ tôi đi chợ cũng thành thói quen của nhiều người gần bến. Có một lần mẹ cho tôi theo đi chợ. Từ bến đậu thuyền nhà tôi đến chợ cứ theo con đường nhựa chả biết làm từ bao giờ nhưng đến nay nó đã trốc mặt, những hố là hố, có nhiều cái to hơn cả mó bỏ mồi của cha tôi. Hai bên đường, dọc theo con ngòi, người ta thi nhau đẩy thuyền, những chiếc thuyền nan đầy đất quật thành từng ô vuông vức lấp mấy đoạn ngòi. Mẹ bảo tôi người trên bờ đất chật người đông nên không còn đất để ở phải lấy đất dưới lòng các con ngòi rồi quật cao làm nền nhà. Sống mỗi người mỗi nhà nhưng chết phải chung nghĩa địa, cái lý của người trên bờ là thế. Mẹ thở dài.

- Bao giờ nhà ta mới có tấc đất cắm dùi. Sống không có đất ở, chết không có đất chôn.

Nghe mẹ than thở nhưng thực lòng lúc ấy tôi chả hiểu gì chỉ nghĩ nhà tôi cần gì đất làm nhà. Cả nhà sống trên thuyền, ăn nước sông, uống nước sông, sống nhờ sông. Khúc sông này còn cá thì ở, hết cá thì đi, nhổ con sào đẩy một cái là đến chỗ khác. Ở nhà thuyền, mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm, con cá con tôm lúc nào cũng tươi, nhẩy tanh tách chả sướng gấp mấy lần trên bờ phải chen nhúc chật chội hay sao. Mẹ tôi ước làm gì cho khổ. Nhìn những người lặn ngụp, ngâm mình dưới nước vác từng tảng đất vất lên thuyền rồi lại phải quật cao thành gò thành ụ để làm nhà sung sướng nỗi gì. Mẹ bảo tôi những người ấy là thợ làm đấu. Những người này ăn khỏe lắm, vì thế mới có câu ăn đấu làm khoán. Cả ngày ngâm mình dưới nước nên lúc nào cũng đói. Chả trách cha tôi mỗi bữa ăn bẩy tám bát vẫn kêu đói. Tôi len lén nhìn những người thợ đấu, người nào người nấy vâm váp, bắp tay, cơ ngực cuồn cuộn như dây chão, dây lèo giằng chèo, kéo cột dựng buồm.

Khi hai mẹ con tôi đi qua chiếc lều bạt dựng cạnh đường, nơi có chiếc xe máy mầu đỏ dựng bên cạnh thì có ai đó gọi:

- Này cô chài, có cá tươi bán cho mấy mớ.

Nghe tiếng gọi, mẹ tôi tong tả đến trước cửa lều, đặt rổ cá xuống đon đả:

- Hôm nay em có mấy mớ cá còn tươi lắm. Mấy anh xem mua cả giúp em cho gọn.

Từ trong lều đi ra là một người đàn ông cao ráo, khuôn mặt vuông vức, hàng râu mờ mờ xanh bao kín cả hai bên má xuống cằm. Đi sau anh ta là ba bốn người nữa. Một người trong đám nghe mẹ tôi nói thế cười, sán đến, ngồi xuống bên cạnh.

- Cá của em thì tươi rồi nhưng có lạ không em?

Mấy người đi theo cười hô hố, nhe cả hàm răng to như bàn cuốc, đen thui đít nồi. Mẹ tôi đỏ mặt xấu hổ. Người đàn ông cao ráo có khuôn mặt vuông vức lừ mắt, mấy người kia vội im bặt.

- Cô đừng giận, họ hay đùa tếu táo thế thôi. Hôm nay tôi có nhiều thợ làm. Cô lấy bao nhiêu để tôi mua cả. Cá nhà cô là cá sông, mấy hôm trước tôi mua của cô, kho mặn mà ai ăn cũng khen ngon, thịt thơm lắm.

Giọng người đàn ông nhẹ nhàng, thủ thỉ nghe ấm áp:

- Người xinh thì cá cũng ngon phải không cô. Hôm nào có cá cứ mang đến đây tôi mua cả cho không phải đi chợ bán nữa, vất vả người bán mà cá cũng mất tươi.

Mẹ tôi lại đỏ mặt, lấy tay kéo vành nón giấu khuôn mặt đang hồng lên sau lời khen. Hôm ấy hai mẹ con tôi đi chợ không phải lo bán cá nữa nên có thời gian cho tôi đi chơi, mua sắm các thứ. Mẹ mua cho cha và tôi mỗi người một bộ quần áo mới. Vui quá tí nữa thì hai mẹ con tôi quên đến giờ về nấu cơm trưa. Tôi vui ra mặt, nhảy chân sáo suốt đường về. Còn mẹ, tôi đoán, chắc mẹ cũng vui nên thỉnh thoảng cười tủm, hai má hồng hồng dưới vành nón. Một quãng mẹ lại gỡ nón nhìn nhanh vào chiếc gương nho nhỏ mà người ta khéo léo gài phía trong áp chóp.

Thuyền nhà tôi cắm sào ở lại khúc sông này đã lâu mà nhìn xuống nước vẫn thấy tăm cá nổi lên. Sáng ra, cha bảo mẹ mang hết cá ở khoang chứa đi bán, không cần để dành làm gì, đánh tối nay nữa rồi đi. Mẹ tôi bảo ông đang đánh được tại sao lại đi vội thế. Ông lừ mắt nhìn mẹ giọng chì chiết:

- Cá đánh lắm cũng hết, người ở lâu dễ hư. Ma quỷ yêu quái chẳng qua là ở mãi một chỗ mà thành. Mèo già hóa tinh thành cáo, chó dữ nuôi lâu phát rồ. Đi hay ở cô không phải nói nhiều, tôi khắc biết.

Nói đoạn, ông chui vào khoang lấy bộ quần áo mẹ mua cho hôm có tôi đi cùng mặc vào. Sau khi đã lên bờ ông quay lại nói vọng xuống thông báo ông đi ăn cưới ở vạn chài khúc sông trên trưa nay không về. Ông còn dặn ở nhà hai mẹ con chuẩn bị sẵn mồi chờ ông về để bỏ mó. Mẹ bắt hết chỗ cá đi chợ, còn tôi, mấy đứa trẻ trâu xóm bãi rủ đánh trận giả rồi chơi trò trốn tìm. Tôi lật mấy tấm ván đầu mũi thuyền chui nấp vào trong đó, xong lắp lại như cũ. Tôi nấp ở đây tài thánh cũng không ai có thể tìm được. Nằm cuộn trong khoang mũi trốn, tụi trẻ xóm bãi rà đi rà lại tìm mấy lần không thấy chúng bỏ đi nhưng tôi nghĩ chúng nó giả vờ để lừa tôi ra bắt nên cứ yên trí nằm trong đó mặc cho chúng nó đi tìm. Đánh trận giả đã thấm mệt bây giờ nằm trốn trong khoang mũi nên tôi lúc đầu chỉ nghĩ lim dim một chút cho đỡ mệt ai ngờ ngủ béng đi mất. Khi tôi đang ngủ thì thuyền tròng thành làm đầu tôi đập vào khung xương gá ván tỉnh giấc. Tôi chưa kịp lật ván chui ra thì đã nghe thấy tiếng thở dốc của mẹ và giọng nói nhẹ, ấm rất quen thuộc, rằng mẹ làm ông ta mệt quá. Tôi hé mắt qua khe ván, chiếc xe máy mầu đỏ đang dựng bên vệ đê lối xuống bến. Tôi cứ nằm trong khoang mũi chờ cho mẹ mà người đàn ông bước đến chỗ xe máy tôi mới lật ván chui ra, ngồi bệt xuống mặt sàn. Khi mẹ trở lại thuyền thấy tôi ngồi sẵn đó, bà ngồi xuống cạnh hỏi có phải vừa ở trong khoang mũi không. Tôi không trả lời mà tự nhiên òa lên khóc, gạt bà ngồi ra xa.

Câu chuyện vỡ lở, tôi tưởng cha sẽ đánh cho mẹ một trận hay phải gầm lên chửi mắng. Nhưng không, cha bắt mẹ đến xin người đàn ông ấy một đồng tiền mà không cần biết tiền to hay nhỏ. Sau khi mẹ mang về đưa cha, ông vuốt cho phẳng phiu rồi cất kỹ vào một chỗ. Cũng từ hôm ấy, ông giặt chài phơi phóng thật khô cho vào chiếc hòm sắt khoá lại, không làm nghề chài mò nữa. Đến bữa, trước khi cả nhà ăn cơm, ông lại lấy tờ tiền ấy ra, đặt lên mâm và bảo tôi, giọng rất nhẹ nhàng nhưng tôi vẫn nhận ra tiếng gió rít nhẹ trong kẽ chân răng:

- Con cứ ăn đi. Từ nay nhà ta không ai phải làm gì nữa, đã có mẹ con đi làm kiếm tiền về nuôi bố con mình rồi.

Một tuần ròng rã, tôi nghe mẹ van xin cha nhưng ông vẫn tịnh như không nghe thấy gì. Mỗi bữa ăn là nước mắt mẹ lưng tròng chan cơm. Rồi một sáng, mẹ cắp rổ đi chợ và không bao giờ trở lại nữa. Đến tối, cha không thấy mẹ quay về, ông chèo thuyền đúng ba ngày ba đêm đưa tôi sang khúc sông khác. Ông làm nghề chài mò trở lại nhưng cũng từ đấy ông đổi tính đổi nết, hay uống rượu và thường đưa những người đàn bà lên thuyền, rồi sau đó một hai hôm ông vứt trả lại bờ. Cá đánh được ông không cho mang lên chợ bán, ai muốn mua xuống bến nói cần con to hay nhỏ, nặng bao nhiêu là ông chui vào khoang, lật tấm ván lát thuyền bắt mang lên.

Bây giờ ngồi nhớ lại, tôi vẫn thấy căm thù mấy đứa trẻ trâu xóm bãi đã rủ tôi chơi trò trốn tìm. Tôi muốn đập nát cái khoang mũi để cho tôi nằm trốn trong đó. Tôi hận với chính tôi đang chơi lại lăn ra ngủ và tại sao lại tỉnh giấc vào lúc ấy. Liệu hôm đó tôi cứ lang thang chơi với lũ trẻ trâu xóm bãi bắt cào cào châu chấu hay trò ném pháo đất thì mẹ có phải bỏ tôi đi như thế không? Và nữa, nếu cha không căn vặn tôi vì sao lại khóc, bỏ cơm không chịu ăn để tôi phải nói cho cha biết? Nếu tôi biết nói dối? Nếu cha không ném đồng tiền năm nghìn xanh lét xuống mâm trước mỗi bữa ăn cùng câu nói mười lần như một thì mẹ có ở lại với cha và tôi không? Mẹ bỏ tôi mà đi có một phần do lỗi của tôi? Mẹ ơi, giờ này mẹ đang phiêu bạt nơi nào. Thương mẹ, nhớ nhẹ, tôi chỉ dám gọi thầm trong bụng.

4 - Có một chiều chỉ có hai cha con ngồi ăn cơm trước khi ông đi bỏ mồi, tôi hỏi.

- Tại sao lại có sông hả bố?

Vừa bưng bát cơn lên và, ông nói giọng còn lụng bụng trong miệng.

- Vì đời sinh ra bố.

Nghe ông nói thế tôi không dám hỏi thêm kẻo bát cơm ông đang bưng lên tay có cánh bay sang mặt tôi. Mấy năm trước, cha tôi cũng nhặt được một người đàn bà trên bờ đưa xuống thuyền. Cô này nói luôn mồm, thấy cái gì cũng hỏi mà hỏi đến cu ty tỉ muội. Một lần cũng trong bữa ăn, cô hỏi bố tôi về chuyện tại sao con sông này có tên gọi là Bo, con

sông kia có tên là Mã, con sông nọ có tên là Sứ. Sau mấy câu trả lời ậm ừ, cô ấy cứ hỏi mãi. Chẳng nói chẳng rằng, ông ném luôn bát cơm đang bưng trên tay vào mặt, chửi.

- Miệng thối như cứt mà ăn cơm cứ nói lắm. Bọt phun phè phè ra hết mâm còn ai dám ăn. Cô về hỏi thằng bố cô ấy.

Dứt lời, ông đứng lên bế thốc cô ném thẳng lên bờ, nhổ neo đẩy thuyền đi tịnh không thèm ngoái đầu nhìn lại. Tính ông là thế, không thích lằng nhằng, làm chài thì cứ việc giỏi bỏ mồi bắt cá, ông chúa ghét thói lính canh ngó chuyện triều đình, đầu không ra đầu mà cuối cũng chẳng ra cuối, vạ rách chuyện. Ăn cơm mốc nói chuyện tám thơm. Biết tính ông thế nên tôi thôi. Ừ, thì cứ coi ông là dòng sông đi. Sông cũng có khúc lở khúc bồi, khúc trong khúc đục, có tội lỗi, có tật nguyền như con người trên bờ kia, cũng có kẻ này người nọ, nếu không làm sao mẹ bỏ tôi khi mới hơn mười tuổi đầu mà ra đi cho được.

Để giúp cô Hến nhóm lửa nấu cơm, tôi nhẩy xuống sông mò tìm lại mấy thứ cha lôi vừa quăng xuống nước. Với tôi, không nói khoác, là con gái thật đấy nhưng chuyện bơi, lặn khó có thằng trai trên bờ nào thắng nổi. Có một lần duy nhất trong đời cha nói vui với tôi. Ông bảo tôi sau này lấy chồng, nếu nó léng phéng con cứ lôi nó xuống sông mà dần.

Ăn cơm nước xong cả nhà đang chuẩn bị nhổ sào chuyển đi khúc sông khác thì chả hiểu sao, cô Hến múc nước rửa bát ngã xuống sông. Tôi còn đang mải thu dọn các thứ, sắp xếp cho gọn, vì trong ngôi nhà thuyền rộng năm, sáu mét vuông nếu không biết cách sắp xếp thì đến chỗ đặt chân cũng chẳng có. Thực ra công việc này là của cô Hến vì dù muốn hay không cô cũng là người phụ nữ nhiều tuổi nhất trong nhà, thương cô nên tôi làm giúp. Mới lại, không biết cô có tồn tại bên cha tôi được lấy ba bẩy hai mốt ngày không hay lại như những người đàn bà trước đây, lâu thì một ngày, nhanh thì một đêm đã bị ông quẳng lại bờ cùng mấy tờ bạc nhàu nhĩ tanh mùi cá. Dẫu sao, tôi cũng là người biết tính biết nết của cha và đã quen với sự sắp đặt trong khoảng không gian chật chội này rồi. Mải làm nên khi cô ngã xuống sông tôi không để ý và với những người nhà chài như cha con tôi, ngã xuống sông là chuyện vặt. Rơi xuống rồi thì bám vào thành thuyền mà trèo lên. Người nhà chài có ai chết đuối bao giờ. Còn cha tôi, khi cô ngã ông biết nhưng mặc. Với ông, muốn ở nhà chài thì phải biết tất cả những gì của đời chài cần có, cho dù nó vất vả, khốn khó đến mấy, bằng không, quy luật cuộc sống sớm muộn nó cũng đào thải. Con người ăn, uống vào rồi cũng phải thải ra, không thải ra được sẽ chết. Nhìn thấy cô ngã song ông vẫn ngồi điềm nhiên hút thuốc.

Đời chài động một tí là chạm nước, không những thế, tất tần tật những gì gọi là sự khắc nghiệt của thiên nhiên người chài phải chịu hết. Tắt nắng mưa đến bão gió, người làm chài phải hứng chịu nguy hiểm hơn người trên bờ vì không được nương tựa vào đâu. Rồi hơn thế, vào mùa lũ, người trên bờ làm ầm ĩ lên nhưng thực ra cũng chỉ nói cho to, đứng để xem chứ có làm được gì. Người làm chài thì khác, phải trực tiếp đối diện với nó. Lũ, năm nào chả thế. Lũ đến rồi đi, dăm bẩy lần cũng chả nhằm nhò, hề hấn gì. Lũ là việc của trời, còn chúng tôi, đánh chài bắt cá là việc của chúng tôi. Trời có lúc nắng lúc mưa thế thôi. Để tồn tại được những người sống trên sông nước phải tự thích nghi với cuộc sống.

Ngày mới lên hai, để có thể tồn tại được với cuộc sống sông nước, cha ném tôi xuống sông mặc tôi chìm nổi tập bơi, giẫy giụa quẫy đạp trong nước chỉ đến khi nào sắp chìm mới lấy vợt xúc lên. Những ngày đầu tôi uống căng bụng nước, ông cầm hai chân dốc ngược rồi quay vòng tròn cho nước tháo ra ngoài. Mẹ tôi thắt gan thắt ruột nhưng không thể làm trái ý ông. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, cứ chiều chiều là ông quẳng tôi xuống nước. Lúc đầu chân tay còn quềnh quàng như chó, lũm bũm đập nước để ngoi lên, sau rồi quen dần, tôi tự học được cách bơi như thế nào cho nhanh, cho đỡ tốn sức. Những đứa trẻ dân chài lên hai phải biết bơi, lên ba đã phải tập chèo thuyền, vá lưới, phân biệt chài năm, chài bẩy hay chài chín. Lên bốn tập nhìn sóng biết gió, nhìn nước biết độ nông sâu. Năm tuổi, nhìn tăm biết cá, biết mưa đi đàn tìm nơi sinh sản. Sáu tuổi, đêm nằm ngửa mặt lên trời biết mai nắng mưa hay bão gió, bấm đốt ngón tay tính được ngày con nước. Bảy tuổi đã trở thành dân chài thực thụ, một mình có thể xoay sở tự kiếm sống, xòe bàn tay chai dày như người làm rèn, đánh búa. Cha bảo tôi, chẳng có trường lớp nào bằng cuộc sống đang bày ra trước mắt, để sống con người phải tự biết làm gì. Kẻ ở rừng phải biết cưỡi ngựa bắn cung. Kẻ làm ruộng phải biết cày, bừa, cấy lúa. Kẻ sông nước phải biết bơi lặn, quăng chài.

Khi chợt nhớ ra cô Hến là người trên bờ làm sao biết bơi như tôi thì cô đã chìm dưới nước không còn thấy cánh tay giơ lên quờ quạng cầu cứu. Từ trên mui thuyền tôi lao vội xuống sông, lúc này chắc cha tôi cũng nhận ra cô Hến không phải người chài, ông phóng mình từ trong khoang lao xuống không khác gì con nhái.

Tôi không nghĩ sau sự việc xảy ra cô Hến lại là người chủ động ra đi mà không cần cha tôi quăng trả cô lại bờ như những người đàn bà khác. Trước lúc đi, cô nói với cha giọng thật nhẹ nhàng mà sao nghe tha thiết lạ:

- Em biết rồi anh cũng ném trả em lại bờ như những người đàn bà khác. Để anh làm điều đó anh vừa mang tiếng mà em cũng chẳng sung sướng gì. Thôi thì, một ngày nên ngãi, em xin đi để giữ tròn điều tiếng cho anh. Trước khi xa anh và con, em chỉ xin nói với anh

một điều, hận thù chỉ làm cho con người tăm tối. Rồi còn con nữa, nó sẽ sống ra sao khi cuộc đời chỉ một màu đen của lòng căm giận.

Nghe cô nói cha không có phản ứng gì. Ông ngồi bất động, tay xoay xoay chén nước trà mà cô Hến vừa pha cho. Chén trà đặc, nóng khi uống còn đăng đắng trong cổ, uống xong mới thấy vị ngọt và hương thơm của trà, thói quen, ý thích của cha như hút thuốc lào ngon vậy.

Nói xong, cô đưa tay kéo tôi vào lòng, vuốt nhẹ lên tóc. Vô tình, ngón tay cô vướng vào mấy sợi tóc rối. Cô lấy hai tay giẽ giẽ ra rồi khẽ khàng luồn vào như chải thêm một lần nữa. Tự nhiên tôi ép đầu vào ngực cô. Từ ngực cô, tôi nhận thấy có một mùi rất quen mà tôi đã ngửi thấy lâu lắm rồi, không thể nhớ nổi.

5 - Cô Hến bỏ đi chả hiểu sao cha cũng từ bỏ ý định di chuyển sang khúc sông khác như dự kiến ban đầu. Ông cũng nghỉ làm chài mấy hôm, chỉ ngồi hút thuốc lào và uống nước chè mặc tôi làm gì thì làm. Lấy cớ nhà hết gạo, rau ăn tôi xin phép cha đi chợ mua sắm.

Cắt đường tôi tìm về bến Trầm. Cô Hến đón tôi niềm nở trong ngôi nhà ba gian mái ngói nằm khuất sau rặng tre gai cuối xóm. Ngôi nhà quạnh vắng, âm ẩm, vôi trên các bức tường tróc loang lổ để lộ ra những đường mạch xây lở loét. Ngay chiếc bàn gỗ uống nước kê ở gian giữa khi chạm tay tôi có cảm giác lành lạnh. Tất cả các đồ đạc trong nhà được xếp đặt ngăn nắp chứng tỏ chủ nhân của nó là người chỉn chu và rất sạch sẽ.

Ôm tôi trong lòng mà nước mắt cô rơi lã chã. Nép đầu vào ngực cô, tự nhiên tôi lại bắt gặp mùi quen quen mà tôi đã gặp ở đâu đó lâu lắm rồi còn lưu lại trong tiềm thức. Cô luồn tay vào trong tóc tôi, nhẹ nhàng gỡ những chỗ tóc gió làm rối khi tôi đi đường. Nói cái gì, bảo cái gì cô đều gọi tôi là con. Cô hỏi cha tôi mấy hôm nay như thế nào, sức khỏe ra sao rồi tất tần tật các chuyện ăn uống, sinh hoạt hàng ngày từ khi mẹ tôi bỏ đi đến nay. Mới có ba bốn hôm mà cô hỏi cứ như đã xa cả năm cả tháng. Và tôi không thể tin được những điều cô kể, sự thật đấy nhưng sao nó đến nhanh và bất ngờ quá, một sự thật đến phũ phàng, tàn nhẫn.

Nhà cô có hai chị em. Mẹ cô sinh ra cô thì chết do băng huyết. Bố cô một mình làm lụng nuôi hai chị em đến khi cô lên năm thì ông đổ bệnh và cũng mất. Người chị lên bẩy,

người em lên năm phải sống dựa vào sự đùm bọc cưu mang của bà con lối xóm. Thời gian cứ trôi đi, cuộc sống cũng dần dần ổn định khi cả hai chị em đã lớn. Để có thời gian lo toan cho người em ăn học mong sao có ngày ngẩng mặt nhìn đời, chị cô đã từ chối tất cả những chàng trai trong xóm đến cầu hôn. Rồi người em cũng học xong trung cấp sư phạm và lên dạy trên vùng cao. Người chị ở lại nhà, sau thời gian nuôi em ăn học lúc này tuổi cũng đã lớn. Nhà quê, con gái hai lăm hai sáu tuổi đã chẳng có người con trai nào để ý. Rồi một ngày có một người trai làng bên đến ngỏ lời yêu thương, người chị đã dồn tất cả tình cảm của mình cho người đó. Khi biết mình có mang, người chị nói cho chàng trai đó biết. Không ngờ, khi nghe chị cô thông báo, chàng trai đó đã từ chối và tìm cách lảng tránh. Lo lắng cùng quẫn, sợ điều tiếng, người chị đã bỏ nhà đi đến khúc sông làng bên rồi tự tử những mong rửa sạch nỗi nhục nhã mà đời đang lại. May mắn người chị được một người làm chài trên sông cứu sống. Nghĩ đấy là duyên phận trời định và cũng để trả nghĩa, người chị đã ở lại làm vợ người đó. Bao nhiêu năm người chị đã phải giấu giếm thân phận và sự thật để sống một cuộc sống không phải của mình. Nhưng rồi vì người đàn ông đó tính tình khô khan, cuộc sống sông nước không có hy vọng, gặp quá nhiều khó khăn lại vô tình gặp một người đàn ông khác, nói năng cư xử không như người chồng, kinh tế lại khá giả được người đó chiều chuộng nên đã sa ngã. Biết đó là nỗi nhục của cuộc đời, người chị đã cố gắng làm mọi việc mà ông yêu cầu để mong cứu vãn gia đình. Nhưng người chồng đã không tha thứ, mỗi khi đến bữa ăn, ông lại đem đồng tiền mà người vợ ông bắt xin của kẻ đối địch về bỏ xuống mâm. Nhục nhã ê chề, người vợ đã dứt ruột bỏ con ở lại để đi tìm cái chết. Trước khi chết, người đàn bà ấy đã viết thư nói toàn bộ sự việc cho người em đang làm giáo viên trên miền ngược và nhờ cậy cô trông nom con gái và người đàn ông đã cứu sống mình. Thương chị, người em đã bỏ dạy về để đi tìm. Một lần ra bến sông, cô vô tình nhìn thấy người con gái con ông thuyền chài đang tắm có cái bớt đỏ bên vai trái như lời người chị dặn lại. Và cô đã trở thành người đàn bà ông nhặt được ở bến Trầm này. Người ấy chính là cô Hến và người chị không ai khác là người đàn bà mà cha đã nhặt được ở mó bỏ mồi cá ngày nào, người đã sinh ra tôi.

Kể xong cô Hến đưa tôi đến trước tấm gương tủ, kéo vai áo trái tôi xuống. Chiếc bớt đỏ tròn như đít bát nằm ngay đầu xương bả vai trái, chiếc bớt đã có bao năm rồi mà tôi không hề biết. Cô đưa tôi đến trước bàn thờ kéo tấm vải che. Trên bàn thờ có ba tấm ảnh, hai người đàn bà và một người đàn ông. Trong hai người đàn bà ấy có một người là mẹ tôi. Nhìn sâu vào tấm ảnh của bà, hình như bà đang khóc, một vệt trắng mờ chảy dài xuống má. Bất giác tôi gào lên: Mẹ ơi. Tôi ngã quỵ xuống.

Tôi lao ra ngoài, theo cánh đồng trước mặt cắm đầu chạy. Tôi không biết chạy đi đâu, chỉ biết rằng chạy thật xa, xa thật nhanh sự thật mà cô Hến vừa cho biết. Trên cánh đồng đang chờ đổ ải, những thửa ruộng đất phơi nắng vỡ dưới chân, bàng bạc trắng, bước chân tôi trật truội, xiêu vẹo vô định giữa một khoảng không gian mênh mông... Một toán đánh dậm quây tròn, tru tréo như bầy sói săn vớ được mồi. Chúng dằn tôi xuống triền đê. Tiếng cúc áo đứt, tiếng xé vải áo, tiếng lột quần... Trong ánh sáng nhờ nhờ và tiếng thở đứt quãng, tôi nhận ra có một khuôn mặt đứa trẻ chăn trâu ngày trước chuyên rình, nhìn trộm

tôi tắm dưới sông. Có cả mùi máu tanh tanh bọn con trai leo cành bàng ngã rơi xuống sông ngày nào bị gãy tay. Khi tất cả đã mệt nhoài vì no nê, thỏa mãn, chúng hè nhau đứa cầm tay, thằng túm chân ném tôi xuống sông...

Theo dòng chảy tôi trôi xuôi, đôi tay quờ quạng, giật mình nhận ra đang nằm trong mó bỏ mồi cá mà lớp bùn chưa kịp lấp đầy và cứ nằm đó, rất muốn nằm đó thật lâu cho dòng nước xoa dịu nỗi cồn cào như sóng cắn dứt ở trong lòng.

6 - Khi tôi tỉnh lại đã thấy nằm trong lòng thuyền, cô Hến đang hì hụi làm gì ở bếp cuối đuôi thuyền. Còn cha, ông ngồi cạnh bậu cửa phía khoang mũi, hai chân buông dưới sạp, tay vê vê điếu thuốc lào, như ngày nào mỗi khi mẹ tôi đi chợ về mua cho ông lạng thuốc, ông quay người lại khen mẹ mua thuốc ngon.

Đêm qua, cha tôi ngồi im phắc, chong chong đèn, thức trắng đêm. Ông nhìn tôi xanh lướt, bấy dậy như cua lột gặp bão. Ngọn đèn chai lù mù hắt bóng ông lên vách cong mui thuyền, chập chờn. Tôi nằm gọn như con mèo vào lòng cô Hến, không còn nước mắt mà khóc nữa. Nhưng cha tôi thì lại khóc, khóc lúc gần sáng. Tôi thấy ông hai lần lén nâng tay áo chùi nước mắt. Những giọt nước mắt hiếm hoi, lần đầu tôi nhìn thấy trên mặt người cha.

Sáng trắng. Cha tôi không đem mồi đi mó đánh chài. Ông rút sào, giọng nói chắc nịch không biết nói với tôi hay với cô Hến:

- Từ nay, nhà ta chuyển thuyền về bến Trầm. Dứt khoát không về đây đậu thuyền nữa.

Có tiếng ai đó gọi phía bờ bên kia, nơi cây bàng già nua có những cái rễ mọc trồi lên làm chỗ buộc trâu:

- Bác chài ơi. Sáng mai có cá để lại cho tôi mấy con nhá.

Tôi nhoài người ra nhìn về phía bên kia bờ, ngước lên cây bàng. Cây bàng đã trút sạch lá, phía đầu chót cành có những chiếc búp nhỏ mầu sâm sẫm nâu. Cây bàng đang vào mùa thay lá mới. Tôi nhìn xuống dòng sông. Trên mặt nước, một vài đám bèo tây trôi lững lờ, thỉnh thoảng lại có vài ba đám rều, rác trôi theo. Những dòng sông cha và tôi đã đi qua có con sông rộng, có đoạn sông hẹp, có lúc nước trong, có mùa nước đục, có nơi nhiều cá, có khúc ít cá. Con sông thưỡn thẹo nằm thườn thườn mệt mỏi, vô hồn. Nếu dòng sông là cuộc đời thì những người làm chài sẽ có hai cuộc đời, một cuộc đời của người và một cuộc đời của sông. Trong cuộc đời ấy, những căn nhà thuyền, những chiếc máy sùng sục ngày đêm hút bùn, đào bới, khoan khoét, những rều rác phải chăng là vết sẹo năm tháng còn hằn sâu đời sông. Dẫu trong hay đục, dẫu mùa mưa hay mùa khô, dẫu là gì đi chăng nữa thì sông vẫn cứ là sông. Nơi ấy tôi đã sinh ra. Tôi chỉ cần biết thế. Và sông ơi, còn những điều khác nữa, sông hãy giấu giùm tôi sông nhé, những khiếm khuyết tật nguyền của cuộc đời. Đời đã sinh ra cha để cho những dòng sông, còn tôi, sông đã sinh ra để cho những cuộc đời như cha, mẹ và cô Hến.

Không, không phải thế, anh yêu em Gác máy điện thoại lên, kéo rèm cửa lại, theo lối cửa sau và biến. Đó là cách mà tôi vẫn thường làm để giảm bớt căng thẳng ở cơ quan. Tám giờ vàng ngọc mà không làm được việc gì cho ra việc. Ngồi với cái máy tính mãi thì cũng chán, hoa mắt, nhức đầu. Tốt nhất là ra quán.

Tôi tốt nghiệp cử nhân ngữ văn bằng khá! Ở quê tôi, những tiếng ấy xướng lên kêu như mõ, đủ làm mát lòng những bậc phụ huynh khó tính nhất.

Thế mà đem ra khỏi làng cũng chỉ là hạng cùng đinh.

Ba năm cấp ba chỉ giỏi mỗi môn thể dục, đăng ký thi khối C vì may ra giở được bài văn mẫu, không ngờ thế rồi đỗ thật, học thật và ra trường thật. Cử nhân ngữ văn chém cả tháng không hết.

Mấy thằng bạn đang còng queo ở nhà ăn hại bố mẹ, thế mà tôi đã xin được việc làm, tuy phải đi miền núi nhưng cũng còn hơn khối đứa. Mẹ ở nhà khoe với hàng xóm:

- Thằng Tuấn bây giờ là cán bộ huyện cơ đấy, cũng may nhờ có bác Hạnh...

Lúc đầu nghe thế tôi đỏ mặt, nhưng không tiện cải chính, nghe lâu rồi thành quen. Ừ, thì cán bộ huyện cũng được mà đọc báo pha trà mời khách thì cũng thế, như nhau cả.

Tất nhiên, công của bác Hạnh là rõ rồi. Bác Hạnh vốn là bạn chiến đấu với bố, hết bom đạn, bố về cày ruộng, bác Hạnh làm ở xã rồi sau đó lên huyện, bây giờ thì đã là chủ tịch huyện, nơi tôi vừa xin vào công tác.

Mỗi lần nhắc đến bác Hạnh, mẹ tỏ ý sùng kính ra mặt, bác Hạnh bảo thế này, bác Hạnh bảo thế kia, đến nỗi bố phải gắt: “Thì nó là Phật sống đấy!”.

Mẹ dài môi dưới: “Thì cũng còn hơn khối người, như ông đấy...”.

Bố đấm bàn cái rầm, tôi nhảy vô làm trọng tài, can mãi mới hạ hỏa.

Trong bụng nghĩ thầm: Mai mốt, mình đi rồi thì không khéo các cụ ở riêng mất, chuyện trò đến câu thứ ba là bất đồng ý kiến, khổ!

Đi làm được hai tháng thì quen khắp lượt các quán nhậu trong thị trấn, từ chủ quán cho đến tiếp viên. Cữ nửa chiều là tót ra quán ngồi. Ngồi thu mình vào một góc, gọi con chim nướng và một cút đầy, nhấm nháp.

Ở rừng có khác, mồi tươi, chất lượng, giá vừa phải. Rừng có cái hay của rừng. Quán Hương Rừng nằm ngay sau lưng ủy ban, rất tiện! Bà chủ quán mắt híp sợi chỉ lúc nào cũng cười:

- Cậu mới tới không biết chứ quán chị đây với ủy ban ta thân nhau như người nhà đấy chứ.

Quán khá sạch, thoáng mát, phía trước treo giàn phong lan rất đẹp. Mấy em tiếp viên ăn mặc theo mốt người rừng dây rợ lằng nhằng hở sau hở trước.

Buồn cười, từng ấy vải trên người gom lại may ra thì đủ may một chiếc quần đùi. à, có một em răng khểnh, khá xinh, nhưng mặt hơi buồn. Làm vài ly tưng tưng, tôi xuất nhạc sến: “Sơn thủy hữu tình cớ sao lại buồn vậy em, là lá la...”.

Răng khểnh cười nhạt đáp trả, nhạt phèo! Tôi nghĩ bụng: Mặt đưa đám, thế nào rồi mày cũng bị đuổi việc cho mà xem. Kể ra, với chị em phụ nữ nói chung, tôi vốn sẵn ác cảm.

Mẹ tôi, chị gái tôi, những người phụ nữ từng khốn khổ vì tôi ấy lại làm cho tôi phát khiếp vì họ. Kể từ lúc tôi biết nghe tiếng người cho đến giờ, tôi chưa nghe được một câu nào mẹ nói với bố cho ra hồn, toàn là tôi khổ vì ông, ông khổ vì ai hay đại loại thế cả.

Còn chị tôi lại cai quản một ông giáo làng nghiện rượu. Ước mơ lớn lao nhất của ông anh rể tôi là chừng nào cầm được quyết định về hưu thì đánh chị tôi một trận cho bõ tức vì tội hay hỗn láo.

Hồi còn học phổ thông tôi cũng có để ý một em ngồi cạnh. Mối tình áo trắng ấy qua mau như một cơn mưa bất chợt. Cái mùi hoi hoi ngầy ngậy của tuổi mới lớn ấy qua lâu lắm rồi. Diễm đã chồng con đề huề từ mấy năm nay.

Bà mắt híp cắt ngang:

- Này, nó là gái nhà lành đấy, cậu xem thế nào, Diễm ơi, ra anh Tuấn hỏi gì này.

Trời ạ, lại Diễm! Chúng nó đang câu tôi đấy mà. Với tôi, bọn nhà hàng chẳng mấy đứa trong sạch. Nhưng thôi, mất mát gì, thử xem.

Hôm ấy, hứng chí thế nào, bà mắt híp đãi tôi món óc khỉ. Một con khỉ lông nâu buộc sẵn vào cột đúng tư thế của một thằng lãnh án tử hình. Con khỉ vẫn còn sống nguyên, mặt nó nhăn thê thảm.

Bà chủ cầm dao, em răng khểnh cầm rượu đứng cạnh. Món óc khỉ phải ăn tươi mới ngon, bà ta bảo thế. Đột nhiên, con khỉ ré lên một hồi dài rồi lịm hẳn, người nhũn ra.

Có lẽ nó đã sợ đến chết khiếp. Bà béo giục: Mau mau, cởi trói, kê đầu lên thớt mà hớt không hỏng mất. Em răng khểnh luýnh quýnh cởi dây. Nhưng dây vừa bung ra thì khỉ ta vùng dậy, nhanh như cắt chạy thẳng vào buồng trong, chui tọt vào gậm giường.

Thì ra nó chơi trò chết giả. Nhưng mà rủi thay, nó đã nhầm đường! Nếu nó nhanh chân phóc lên mái nhà thì còn có đường thoát, nhưng đằng này lại chui vào ngõ cụt. Cuộc vây ráp diễn ra, ba bốn thằng văn minh vây bắt một đứa dã man. Cuối cùng, nó đành chịu tóm.

Bữa rượu hôm ấy rôm rả hẳn. mọi người đều có ý hỏi xem tôi có thấy ngon không. Em răng khểnh phục vụ riêng tôi. Tôi biết, mình đang được hưởng lộc của ông Phật sống.

Giả sử tôi không phải là người nhà của bác Hạnh chủ tịch mà là một thằng dân lao động thử xem, nó chém thẳng vào tay như chém khỉ ấy chứ. Tôi múc một thìa óc đút vào miệng răng khểnh, em nhăn mặt nuốt.

Tối ấy, tôi say không biết đường về. Nửa đêm, miệng đắng ngắt, tỉnh dậy thấy mình đang nằm trong phòng lạ hoắc, bên cạnh em răng khểnh đã cởi hết dây rợ.

Tôi lay dậy, hỏi: “Tại sao thế này?”. Em răng khểnh ngơ ngác dụi mắt: “Lúc đêm anh bảo anh không muốn về, anh bảo anh yêu em...”. Trời ơi, đồ ngu, sao lại tin lời thằng say hả?”.

Diễm ôm mặt khóc: “Vâng, em ngu...”. Biết mình quá lời, tôi nằm xuống, bắt tay qua trán. Diễm nói: “Nhưng mà em yêu anh”. Chậc, yêu thì có sao. Cái nết liều trong tôi trỗi dậy rất nhanh. Mùi da thịt đàn bà, mùi rượu cứ bện chặt lấy tôi cho tới sáng.

Từ hôm ấy, tôi thay đổi hẳn. Phải chăng những khoái lạc xác thịt đã mở mắt cho tôi, hay là tình cảm chân thành của Diễm đã làm cho tôi thay đổi quan điểm về cuộc sống?

Dù sao thì Diễm cũng rất đáng yêu, xinh nữa là đằng khác. Diễm kể cho tôi nghe về gia đình: Diễm mồ côi cha, mẹ rước về một ông ba bị mắt trắng môi thâm chuyên rình xem trộm con gái tắm. Diễm đã hắt cả một chậu nước bẩn vào mặt hắn rồi bỏ đi.

Đã hai năm nay, Diễm không về. Kể đến đấy, Diễm khóc: “Em biết làm cái nghề này chẳng ai tin, nhục lắm, nhưng không phải ai cũng là đồ bỏ đi cả, phải không anh?”.

Thằng bạn cùng văn phòng tròn mắt: “Mày dính vào thật hả, chớ nghe ca ve kể chuyện, đừng nghe con nghiện trình bày, hiểu chưa thằng văn chương cám hấp!”. Tôi qua loa cho xong chuyện: “Tao bị bỏ bùa rồi. Không thể nào thay đổi được đâu”.

Mẹ nghe tin đồn hỏa tốc lên thăm, rên như bị voi giẫm: “Con gái thiếu gì mà lại dính vào mấy đứa nhà hàng hả con, mẹ ăn nói làm sao với chòm xóm đây hả giời...”.

Cha tuyên bố thẳng thừng: “Mày mà lấy con hở rốn ấy là tao từ mặt, đồ khỉ!”. Đến nước này thì tôi phát hoảng, giá như hôm ấy tôi đừng say rượu, giá như...

Ba hôm liền tôi cáo ốm không đến cơ quan, đến hôm thứ tư thì sốt thật. Diễm gọi điện bảo: “Anh sợ rồi phải không, nếu cần em sẽ ra đi, không dám làm phiền anh nhiều hơn nữa. Hóa ra anh cũng hèn thế thôi”.

Tôi quên sốt, hét lên trong máy: Không, không phải thế, anh yêu em, đồ ng... Tôi chưa kịp nhả hết câu chửi bậy quen thuộc thì Diễm đã cúp máy. Tôi hụt hẫng nghe lòng mình đắng ngắt. Nhìn qua cửa sổ thấy những giò phong lan tím ngần vẫn đong đưa như không hề có chuyện gì xảy ra.

Không, tôi không muốn mất không một thứ gì cả, không muốn mất Diễm, mất những người thân thiết nhất, bố mẹ, chị tôi, cả ông anh rể nghiện rượu của tôi nữa. Đã ba mươi tuổi, người ta có quyền giữ lại những thứ mà mình cảm thấy gần gũi nhất, phải thế không, Diễm?

Tôi khóa trái cửa lại và bước ra đường, hôm ấy là đã cuối mùa đông. Sau những mùa trăng Không hẹn trước mà lần nào trở về tôi cũng gặp trúng mùa trăng. Mùa trăng có ý nghĩa với người miền núi nhiều lắm. Đỗ Bích Thúy

Thường thì người ở trên nương cứ thấy khói bếp dưới bản bay lên là bảo nhau về, nhưng vào mùa trăng thì ai cũng cố nán lại. Thêm một gùi, hai gùi cũng cố, vì người già bảo hạt lúa, bắp ngô cuối ngày bao giờ cũng mẩy hơn, chắc hơn buổi sáng. Thế nên nhiều hôm về đến nhà thì trẻ con đã ngồi chờ cơm gà gật bên bếp.

Đã mấy lần trăng lên rồi trăng tàn tôi không về. Mấy mùa trăng là mấy lần mẹ mang mẹt thuốc ra phơi, rồi lại mang vào cất đi. Ngày tiễn tôi đi, cha tôi bùi ngùi: "Mày đi thì tốt cho cái thân mày chứ ở đây mãi cũng như tao, như anh mày thôi, tóc bạc, mỏi chân, cũng chỉ có chín bậc cầu thang với cái ngưỡng cửa. Cố mà học lấy cái khôn vào đầu nhưng phải nhớ giữ cái lưng cho thẳng, giữ cái đầu không cúi xuống... Lìn à". Lúc ấy, nhìn vào mắt cha, tôi đã định không đi, nhưng cha đẩy tôi lên xe. Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy cha. Vào đời, chưa kịp học lấy cái khôn vào đầu cho "mắt sáng ra, cho

miệng rộng ra" để mang về khoe với cha chì cha đã ra đi, sau cái chết đột ngột của anh Lân tôi. Từ đó, mỗi khi nhớ về căn nhà rộng thênh thang của mình, tôi không hình dung nổi nó ra sao khi thiếu vắng bàn tay sắp đặt kỹ lưỡng của cha.

Về đến con suối đầu bản tôi gần như vấp phải một người đang ngồi trên phiến đá rộng như mặt bàn. Một chàng trai còn rất trẻ, hai bắp vai vồng lên dưới lớp áo tà phủ còn thơm mùi lá nhuộm. "Làm gì mà ngồi ở đây một mình thế?". "Ngồi chơi trăng lên thôi". "A, lại thổi khèn gọi con gái nhà ai phải không?". Chàng trai cuối đầu ngượng nghịu. Tôi ngồi xuống cạnh anh ta, để nguyên cả giày sục xuống suối. Nước suối ấm, chầm chậm uốn quanh bãi lanh mọc cao hơn đầu người. Vì thế về bản phải lội hai lần trên cùng một con suối. Ngày nhỏ, anh em tôi với lũ bạn cứ nằm xoài ra, để nước cuốn trôi từ trên xuống dưới bãi lanh, đập nước mỏi chân vài lần là biết bơi.

Một tốp con gái đi nương về lội ào qua mặt tôi, phảng phất mùi của lá dẻ khô, mùi nương đồi, mùi cỏ cháy, buông lời chòng ghẹo. "Hôm nay lại có thêm một người nữa à. Anh gì ơi, đến Vần Chải tìm ai đấy?". "Chắc là tìm đứa con gái đẹp nhất rồi". "Thế thì không có đâu. Con gái Vần Chải ai cũng đẹp như nhau mà". Tiếng cười rộ lên, khuất sau bãi lanh rồi vẫn nghe tiếng cười, cả tiếng hát cất lên: "... Dêu hẩn lầu tẩu lốc, bản nuông bàu mi lóc. Lóc hẩn lầu tẩu lải, bản nuông bàu mi vai..." (Bản em không có nắng, lấy trời râm làm cảnh đẹp. Bản em không mưa phùn, thì chàng ơi hãy về)... Tiếng hát bay lên, dội vào vách núi cao ngất, xao động cả đêm đang xuống. Tôi đi qua bãi lanh, cảm giác hơi ấm của đám con gái vừa đi qua vẫn còn phảng phất.

Đến đoạn suối thứ hai, định lội ào qua rồi về nhà mình luôn thì tôi bắt gặp một người đang dầm mình dưới chỗ nước sâu. Trên bờ, một gùi củi cao ngất dựng cạnh bụi cây. Tôi ngồi thụp xuống sợ bất chợt người con gái quay lại nhìn thấy mình thì khó xử quá. Trăng đã bắt đầu lên phía sau ngọn Tạ Đú làm cả đoạn suối sáng bừng lên. Người con gái có đôi bờ vai rất tròn, cái cổ cao mà trắng như đá núi vỡ. Tôi nghe rõ cả tiếng khoả nước... Đang định đứng dậy, quay lại chỗ ban nãy, chờ cho cô gái đi trước rồi mới về. Thì cô gái đã đứng lên. Tôi cứng đờ như thằng ăn trộm bị bắt quả tang. Cô gái ú ớ không thành tiếng một lúc rồi kêu lên: "Ôi, chú Lìn. Chú Lìn phải không? Làm chị hết cả hồn. Chú về sao không báo trước cho mẹ mừng?". Tôi líu ríu: "Chị dâu! Sao đi nương về muộn thế, lại còn đi một mình!". "ừ. Cố một tí cho xong để mai còn sang nương khác". "Đưa gùi em mang cho." "Thôi, chú không gùi được đâu. Lâu lâu không gùi cái gì thì đau vai lắm". Chị cúi xuống xốc gùi củi lên vai. Gùi củi cồng kềnh lại nặng nên cả người chị phải lao về đằng trước. Đi sau, tôi nhận ra hơi nóng từ cơ thể chị làm cho váy áo ướt như có sương mù bay lên. ở miền núi, con gái phải tập gùi từ lúc 8-9 tuổi. Gùi mãi, đủ thứ trên lưng, già rồi vẫn gùi nên bao giờ lưng cũng còng sớm hơn lưng đàn ông. Chị dâu tôi còn phải gùi nhiều hơn người khác, gùi thay cả mẹ, thay cả tôi. Chẳng biết đến bao giờ mới

thôi không phải gùi nữa. Từ sáng sớm đến tối mịt, cái lưng chỉ thẳng ra mỗi lúc ngủ.Hai chị em mải miết đi, phía sau tiếng khèn lá đã cất lên.

Nhà tôi có ba anh em, anh cả, tôi và em gái út. Tôi với anh giống nhau y hệt. Ngày nhỏ, nghe hàng xóm hay đùa bảo mẹ tôi phải lấy nhọ nồi bôi lên mặt một đứa để còn biết đâu là anh, đâu là em. Hai đứa đã cãi nhau mà cãi không xong là đánh nhau. Vì chẳng đứa nào chịu nhận mình là người phải đánh dấu. Lớn lên tí nữa thì tôi lại cao vượt lên. Mười tám tuổi anh Lân mới chỉ đứng đến tai tôi. Ngày anh cưới vợ, tôi đã biết cầm dao chọc tiết con lợn gần một tạ, anh em thôi không còn cãi cọ nữa. Nhưng tôi đi chưa đầy năm thì anh bị lợn rừng húc chết trong một đêm lên nương canh ngô. Cha tôi đau buồn suốt mấy tháng trời vì chưa kịp có cháu nội. Không riêng gì cha mà cả họ đều trông chờ vào anh Lân. Nhưng chị dâu lúc ấy còn đứng thấp hơn cái khung cửa vài gang tay, một tay tôi cũng đủ sức nhấc bổng chị lên. Không biết có phải vì thế mà anh chị chưa kịp có con hay không?

Tôi bước lên cây cầu thang quen thuộc, kịp nhận ra sự thiếu vắng bóng đàn ông ngay trong ngôi nhà của mình. Một bậc cầu thang bị vỡ ra một miếng từ bao giờ chưa có ai thay, cái cặp tre cời bếp cháy nham nhở gần đến tay cầm vẫn cố dùng, cần giã gạo long ra, để chỏng chơ... ở nhà thì thế, còn khi trong họ, ngoài bản có việc gì lớn nhà mình không có đàn ông, đàn bà có đến cũng chỉ được ở dưới bếp, trưởng họ có nói gì không thuận tai cũng phải nghe theo. Lâu nay mẹ tôi đau yếu thế, chắc chị dâu cũng chẳng bao giờ mặc váy áo đẹp đi đâu. Mẹ sờ nắn khắp người tôi, bắt tôi ngửa hai bàn tay xem vết chai còn hay mất, nhìn tôi chăm chăm suốt bữa ăn. Dường như mẹ vẫn chưa hết ngỡ ngàng vì sự trở về đột ngột của tôi. Tôi đã xa ngôi nhà của mình quá lâu, lâu đến nỗi quên cả chỗ ngồi của mình trên tấm phản lớn nhất bên bếp.

Chị dâu mở tủ, lấy gói chè gói kỹ trong mấy lần giấy ra pha. Chị biết tôi nghiện chè, mà phải thứ chè nhà tự sao lấy. Thỉnh thoảng có người xuôi, tôi lại nhận được chè chị gửi. Chè ở đây mọc hoang. Dưới thấp người ta còn chặt đi để lấy chỗ trồng thứ khác chứ trên cao, tít trên đỉnh núi mặc kệ, muốn lớn đến đâu thì lớn. Mùa xuân nhà nào có người hay uống chè lại mang gùi lên lấy về mà sao. Đi hai lần là đủ chè uống cả năm, uống đến mùa xuân năm sau.

Mí quấn lấy tôi một lúc lại bỏ sang ôm cổ chị dâu đòi đi ngủ. Ngày chị về nhà tôi Mí mới được hơn 2 tuổi vẫn chưa rời vú mẹ, nó quấn quýt với chị cho đến giờ. Cả nhà chỉ mỗi mình Mí dứt khoát không gọi chị dâu mà gọi chị gái, mẹ nói thế nào cũng không nghe.

Tôi bảo với mẹ rằng lần này tôi về để đón mẹ xuống ở với tôi, lần sau thì đón cả chị dâu, cả em Mí, tôi muốn mọi người ở bên mình, muốn mọi người hết khổ. Mẹ nắm chặt đôi tay trên đầu gối: "Đấy là những gì mày học được từ khi ra khỏi nhà phải không Lìn? Mắt mày sáng ra bằng nào tao chưa thấy, chỉ thấy mày quên hết lời cha mày dặn thôi, quên cả lời hứa khi nào tinh như con cắt lúc rời tổ mày sẽ về, sẽ lấy vợ, có nhiều con trai. Mày nói ở quê khổ quá à? Khổ mà tao vẫn sống đến giờ, khổ mà trẻ con vẫn lớn được! Không có ai chết vì khổ được đâu, chỉ có chết vì trong bụng đựng toàn điều xấu thôi...".

Tôi muốn bảo mẹ rằng ý tôi không phải như mẹ nghĩ, nhưng không mở miệng được. Mẹ không cần tôi cho mẹ cuộc sống khác, mẹ cần một đứa con trai để ngày mưa gió có người dọi nhà, có người chèn cửa. Chị dâu khẽ khàng lên tiếng: "Chuyện ấy để mai hẵng nói, chú Lìn đi nghỉ kẻo mệt". Chị đã trải chiếu, mang chăn ra chỗ ngủ cho tôi từ lúc nào. Mệt, đau nhừ, mỏi rã rời mà không sao ngủ được.

Đã gần giữa thu, trời bắt đầu lạnh, những cơn gió hun hút luồn qua vách nứa. ánh trăng sáng trắng lọt qua ô cửa nhỏ, hắt cả một quầng sáng vào trong nhà. Cả bản tôi nằm gọn trong một thung lũng, bốn phía là rừng, qua rừng đến nương ngô, nương lúa, qua nương lại đến rừng rồi đến bản khác? Bản ở dưới thung lũng nên ngập trong ánh trăng. Ban đêm, những nếp nhà sàn lô nhô lẫn vào rừng cây trông không rõ đâu là nhà, đâu là những tán cây rậm rì, cao vút. Giữa mùa, trăng cứ rọi vào nhà cả đêm, trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau. Đêm trời càng gió, trăng càng sáng thì hôm sau càng nắng to.Hồi còn ở nhà, mùa trăng nào tôi cũng bám áo anh Lân tìm đến nhà nào có con gái đẹp thổi sáo suốt đêm. Anh Lân thổi khèn lá tài lắm, phiên chợ nào cũng có con gái quấn theo mãi, tối không về được. Thế mà về bản, đứng ở đầu hồi nhà người ta có khi ba đêm liền cũng không thấy ai ra. Ba đêm không được thì bảy đêm, bảy đêm cũng không được là hỏng rồi, sang nhà khác thôi. Lần anh đến nhà chị dâu tôi bây giờ cũng hết đêm thứ bảy mà không được gì đã định bỏ. Cả ngày hôm sau anh bỏ cơm, gắt om xòm. Đến đêm thứ tám lại mang mũ nồi giấu dưới gối, đi. Đêm thứ chín, trăng lên muộn lắm, tôi đã thiu thiu ngủ lại thấy anh dậy mặc áo.

Anh bảo: "Thôi đêm nay mày đừng theo tao nữa, muộn rồi. Tao đi, có khi ngủ luôn ngoài rừng không về". Gần sáng thì anh về, lật chăn ra, bắt tôi dậy để anh cho xem chiếc khăn tay màu xanh thêu mấy bông hoa trắng lấm tấm. Ít lâu sau, anh cưới vợ... Đêm khuya, bản đã yên ắng lắm, nghe rõ cả tiếng nước đập vào ghềnh đá rào rào ngoài sông, tiếng trâu thở phì phì đuổi muỗi, tiếng chim lợn rít lên cuối rừng... và càng rõ hơn tiếng khèn lá từ ngoài suối vọng vào. Tiếng khèn lúc gần lúc xa, lúc như tiếng gió dài lê thê, lúc ào ào như nước lũ, lúc cao vun vút, rộn rã như cánh chim buổi sớm... Tiếng khèn như thế nói được nhiều điều lắm, đủ để cô gái nào đó hiểu rằng chàng trai sẵn sàng làm tất cả vì cô, đổi tất cả những gì mình có để lấy ánh mắt của cô, bán tất cả để mua nụ cười của cô. Chàng trai ấy sợ đôi chân cô dẫm phải đá sắc lên nương, sợ gai cào tay cô, làm rách vành

khăn của cô lúc vào rừng. Chàng trai ấy nhìn cô cười để vui, nhìn cô khóc để buồn... Không biết chàng trai có đôi tay nổi bắp cuồn cuộn ấy gọi ai.

Đột nhiên có tiếng cọt kẹt của sàn nhà. Chị dâu từ trong buồng rón rén bước ra, vừa đi vừa vấn lại mái tóc dài đến eo lưng. Tự dưng tôi run bần bật, một cảm giác đau buốt nhói lên phía ngực. Tôi nhắm nghiền mắt. Hẫng hụt, như người rơi xuống đáy sông sâu hun hút...

Kéo chăn lên ngang mặt, chỉ hở hai con mắt tôi cố nén để không vùng dậy. Nhưng chị dâu chỉ đi ra bếp thổi lửa, mang lanh ra quấn. Ánh lửa bập bùng hắt lên gương mặt tròn của chị. Hình như đến giờ tôi mới thực sự hiểu ra vì sao ngày xưa anh Lân có thể thổi khèn lá tới đêm thứ chín. Đôi gò má căng, đỏ rừng rực, khuy áo bên trên bật ra trễ nải, để lộ ba ngấn cổ cao trắng ngần, khuôn ngực phập phồng nhè nhẹ... Tiếng khèn mỗi lúc một réo rắt, đôi tay chị quấn lanh nhanh hơn, cuống quýt mà ánh mắt thẫn thờ. Được một lúc, chị đứng dậy với thúng ngô trên gác xuống tẽ... Tiếng gà rừng tít thăm thẳm xa đã eo óc gáy. Răng cắn chặt môi tê dại. Lát sau tôi thiếp đi mãi đến lúc nghe tiếng cối xay ngô rền rĩ dưới gầm sàn mới tỉnh dậy. Chị dâu đã trở lại vẻ hoạt bát, thậm chí tôi không dám tin chắc có tiếng khèn đêm qua, nếu như cuộn lanh không rối tung nằm đó... Chị mang ấm nước nóng ra pha cho tôi rửa mặt: "Đêm qua ngủ có phải co chân không chú Lìn?". Tôi hấp tấp: "Đặt mình xuống là ngủ luôn chị dâu à. Lâu quá mới ngủ được một giấc ngon như thế". Chị dâu cười. Tôi thấy đầu óc váng vất.Trời còn chưa sáng rõ chị dâu đã xay ngô xong. Mẹ tôi bảo: "Năm nay nhà mình làm cốm được đấy con dâu?". "Vâng, có chú Lìn về mà!".

Ở quê tôi, mùa cốm là mùa hội. Sáng mười bốn âm lịch, mặt trời còn chưa lên đã mang đòn gánh lên nương lúa cao nhất "tan" lúa về. Buổi chiều, đàn ông xuống gầm sàn tìm chỗ đắp bếp đất, đàn bà nhóm lửa nướng thóc non. Đêm xuống trăng lên thì con trai con gái trong bản kéo nhau tới giã cho từng nhà. Giã cốm thâu đêm, hết cốm thì cho rơm vào giã, giã để còn được ngắm nhau, được nói lời hay với nhau mà không sợ ai nghe mất. Thế nên sáng hôm sau về nhà có ai hỏi đêm qua giã được mấy mẻ cốm, cốm năm nay có ngon hơn năm trước không cũng chẳng biết. Mấy năm rồi, đến mùa cốm chị dâu chỉ mang một cum sang gửi hàng xóm lấy cốm cho cái Mí ăn chứ nhà không làm. Chị dâu đi đến trưa mới về, bốn cum thóc nếp còn xanh mọng nặng trĩu hai đầu đòn gánh. Mẹ kêu lên: "Ấy da, lấy về nhiều thế con dâu? Định cho thằng Lìn ăn cốm thay cơm thay thịt hay sao?". "Để chú Lìn khỏi quên mùi núi rừng thôi mẹ à".Chập tối, hai chị em đắp bếp, nướng thóc, xếp sẵn một lượt vào cối dài thì đám thanh niên tới, chia ra mỗi bên hai, ba đứa con trai con gái xen nhau. Đứa con gái có cái lúm đồng tiền cất tiếng hát, hát xong, bọn con trai nhấc chày lên, lúc con trai giã xuống, bên kia con gái nhấc lên. Vừa giã vừa chòng ghẹo nhau, thỉnh thoảng lại rúc rích cười. Một đứa con gái nói to, át cả tiếng chày thụm thụp: "Chị Lân à, làm sao con gái có chồng rồi mà cứ đẹp mãi, ngày càng đẹp thế". "Em nói

ai?". "Còn ai nữa. Bao nhiêu đứa muốn hỏi chị đun nước lá gì gội đầu mà tóc đen thế, nhiều thế, đun củi gì mà má hồng thế đấy!". "Chỉ nói lung tung thôi. Chị già rồi mà". "Không già tí nào đâu chị ơi. Cứ đẹp mãi thế lại khối người Vần Chải khổ thôi". "Bậy quá. Không được đùa thế đâu". Mặc kệ, tiếng cười vẫn cứ lanh lảnh. Chị dâu bối rối, sảy mẹt cốm vãi cả ra ngoài.

Bốn cum thóc, chỉ một loáng, trăng lên đến ngọn cây dẻ cao nhất cuối rừng thì đám thanh niên giã xong, lại lũ lượt kéo nhau sang nhà khác. Còn một mình chị dâu lúi húi dọn dẹp. Chị khe khẽ hát. Bất chợt tiếng khèn lá đêm trước lại dội lên, chị luống cuống bê thúng cốm đi như chạy lên cầu thang, suýt vấp ngã. Chị cài chặt then cửa, lao vào buồng, tôi còn nghe tiếng thở dồn dập rất lâu.

Mẹ tôi ra khỏi buồng, đến trước bàn thờ cha tôi. Tôi chỉ nghe được tiếng thở dài nén rất nặng trong lồng ngực mỏng manh của mẹ. Sau khi làm hai đám ma, trong nhà tôi hầu như không còn gì. Bò, dê, gà, lợn mổ để thầy mo cúng làm lễ hết, ngô lúa cũng hết. Cha tôi mất tháng trước thì tháng sau trời nắng to, nắng ghê gớm, nắng từ lúc mặt trời chưa lên hẳn đến lúc mặt trời sắp lặn. Nắng từ ngày này sang ngày khác, già bản tụ tập tất cả bô lão trong làng lập dần cầu khấn mà trời vẫn không cho một giọt mưa. Trên nương, ngô vừa ra bắp bằng chuôi dao đã khô quắt lại, lúa ngả sang màu trắng, bông phất phơ như lau. Rừng già lách tách tiếng vỏ cây vỡ nứt. Rồi cháy, cháy khủng khiếp, cháy ba ngày ba đêm, thiêu trụi mấy cánh rừng, đến sáng thứ tư thì thôi. Đứng dưới bản nhìn lên chỉ còn thấy một màu đen của cây cháy. Đột ngột, kinh hoàng quá, không ai còn khóc được.

Nương sắn chưa đầy năm cũng nằm trong vùng cháy. Chị dâu mang dao, mang gùi đi từ sáng sớm đến trưa mới về, gùi một gùi sắn đã chín, củ nào cũng chỉ như ngón chân cái. Mí hớn hở ăn, rồi say, nôn ra máu. Nó ốm, tóc rụng trơ cả da đầu, nằm ẹp như một con mèo con, chỉ còn thấy hai hốc mắt. Mẹ cũng kiệt sức, ngồi bó gối bên giường Mí mấy đêm liền, đến lúc chị dâu đỡ mẹ nằm xuống, đôi chân vẫn co như đang ngồi. Ban đêm, lúc mọi người ngủ, chị dâu đốt đuốc ra suối lật từng viên đá lên tìm cua. Sáng sớm, lúc mọi người chưa dậy, chị đã mang ống bương qua hai quả núi đi lấy nước... Những ngày tháng ấy nếu không có chị dâu không biết điều gì sẽ xảy ra. Còn tôi, khi về được bản, nương lúa mới trỉa đã bắt đầu lên xanh, phủ dần màu đen của tro than. Như một sự trả nợ, vụ ấy trời cho được mùa, lúa ngô mang về không còn chỗ để.

Chú tôi đến chơi, bảo là "để xem bao giờ thằng Lìn mới chịu lấy vợ". Chú thím cố mãi cũng chỉ toàn con gái. Tưởng có mỗi chuyện ấy thôi nhưng đến lúc ăn cơm xong, đợi chị dâu mang bát đi rửa chú mới nói: "Chị à, con dâu ngày càng đẹp ra đấy, khéo mà giữ kẻo mang tiếng họ Bàn". "Chú nói gì? Nó đi đâu mà phải giữ. Đi từ nhà lên nương, từ nương

về nhà, mặt chỉ biết cúi xuống nhìn lối đi...". "Chị không biết rồi...". "Biết cái gì?". "Người già mà ngủ say được thế sao chị dâu? Ngủ say quá nên không nghe đêm trăng nào cũng có đứa đến gần nhà thổi khèn lá! Đứa ấy gọi ai? Gọi cái Mí chín, mười tuổi à? Con gái có chồng, cái bụng mà không nghĩ lung tung thì má không như hoa đào thế đâu".

Tiếng nước xối ào ào rồi lặng yên. Mẹ liếc nhìn chú, lại nhìn ra cửa. Chị dâu khệ nệ bưng chồng bát vào, nước bắn lên váy ướt lem nhem, dính vào đôi bắp chân tròn. Con gái miền núi có đôi bắp chân đẹp là nhớ quấn xà cạp lúc đi làm, lúc ra khỏi cửa, chỉ đêm mới tháo ra. Chú tôi vê điếu thuốc lào phả khói mù mịt, ngồi thêm lúc nữa rồi lẳng lặng ra về. Chị dâu rút nắm đuốc trên gác bếp châm lửa, đưa chú xuống cầu thang. Ngày trước, chú là người phản đối việc anh trai tôi đòi cưới chị. Chú chê chị bé, chê con gái mà ngực lép, lông mày rậm là không biết làm dâu, là có lúc cãi bố mẹ chồng. Sau này, khi anh tôi rồi cha tôi mất, chính chú lại là người thương chị dâu nhất, chuyện gì cũng nói như với con gái. Thế mà bây giờ...

Chú Phin về rồi, mẹ bảo tôi: "Mày mới về, nghe chú nói, biết thế, đừng nghĩ xấu cho nó". "Mẹ nghĩ thế nào?". "Tao làm dâu họ Bàn, nó cũng là dâu họ Bàn, chết đi làm ma họ Bàn. Muốn gì cũng không được đâu".

Chị dâu ngồi vào khung cửi. Chị bảo cố dệt để còn kịp đi phiên chợ tới. Tôi bảo để tôi thức cùng cho chị đỡ buồn, chị bảo đàn ông chỉ thức đêm ngoài sông, trên rừng, không ai thức cạnh khung cửi. Nghe tiếng lạch xạch, lúc gấp gáp, lúc trễ nải tôi không sao ngủ được.

Tiếng khèn lá vẫn réo rắt từng đêm, từng đêm. Đêm nào chị dâu cũng ngồi bên khung cửi, đống lanh trắng chất đầy hai quẩy tấu không hết. Từng đêm, từng đêm ấy, tôi nằm cứng đơ như khúc gỗ, nghiến mỏi hàm răng nhìn chị hai lần, ba lần đứng lên mang dây lanh ra buộc cửa, buộc thêm, thêm mãi, thành một đống rối tung to xù. Không biết có phải tại ánh trăng hắt từ bên ngoài vào hay không mà tôi thấy mặt chị đã không còn hồng, mà tái xanh, cặp mắt như mắt người say rượu. Đêm thứ tư, đêm thứ năm... đến đêm thứ bảy thì tôi vùng dậy, lao như một con thú ra cửa, giằng tay chị ra khỏi mớ dây lanh bùng nhùng. Chị giằng co với tôi, sợi lanh thô cứng cửa vào tay chị bật máu...

Tôi không nhớ mình đã nói gì để thằng con trai còn rất trẻ, tóc ướt sũng sương đêm ấy lủi thủi bỏ đi. Lúc trở về nhà, chị dâu đang đứng ở chân cầu thang, mắt nhìn chằm chằm vào bàn tay đang nắm chặt của tôi. Tôi đi qua chị không nói một lời nào, run lên vì hơi nóng

rừng rực đang toát ra từ đôi cánh tay trần phơi dưới ánh trăng, từ đôi mắt thăm thẳm của chị.

Chú Phin ốm, bảo tôi lên canh nương thay chú vài hôm. Tôi mang dao quắm, đèn pin đi. Nương ở xa nên chắc sẽ ở lại luôn đến hôm nào chú khỏi mới về. Buổi chiều, chị dâu lên, mang theo cá nướng với thịt dê. Chị cắm cúi dọn nồi niêu, chăn màn, không nói câu nào. Mãi đến lúc chị định về, tôi cũng mới mở miệng được: "Chị dâu à, em bảo thằng Sìn đem khèn lá đi nơi khác mà thổi. Nhìn vào mắt nó em không chịu được...". Chị dâu run run: "Chị không nghĩ đến thằng Sìn bao giờ đâu, chú đừng lo". "Thế thì chị dâu nghĩ đến ai? Ai hở chị dâu? Người ấy có ở Vần Chải không?". "Chú đừng hỏi nữa, chị xin...". Chị dâu khóc. Tiếng khóc bật ra như thác lũ thượng nguồn không gì ngăn được. Khóc như để trôi đi những bức bối trong lòng. Nước mắt chảy ròng ròng trên gương mặt bợt bạt, rớt xuống ướt ngực áo...

Cuối mùa trăng, tôi lại đi. Mẹ vẫn không một lời ngăn cản, mẹ mặc tôi. Tiễn tôi đi chỉ có chị dâu với em Mí. Đến chỗ con suối chảy qua chị dừng lại, cúi nhặt một viên sỏi đưa cho tôi: "Chú mang đi để khỏi quên đường về Vần Chải". Tôi cố nhìn chị, mắt chị rưng rưng, lấp lánh ánh trăng mờ xa cuối rừng chưa kịp lặn. Chị quay đi. Gió sớm từ trong khe núi lùa ra thông thốc làm váy chị, váy em Mí xoè ra.

Tôi mím môi bước đi. Bãi lanh còn đẫm sương đêm quệt vào mặt lạnh buốt. Ra đến đoạn suối bên ngoài lại nhìn thấy ngay trước mặt, trên phiến đá rộng, một người đang gục đầu lên hai cánh tay vòng trên đầu gối. Xung quanh, lá rừng bị xé tung tơi tả. Sìn! Đúng là Sìn. Ngẩng đầu lên nhận ra tôi hình như nó định đứng dậy, định chạy đi, nghĩ sao lại ngồi yên. Đầu tóc, quần áo Sìn ướt sũng, râu mọc tua tủa trên gương mặt tím tái...

Tôi đi qua Sìn. Hòn sỏi trong tay bỏng rát. Trăng cuối mùa vẫn chưa kịp lặn nhưng đã lẫn vào chân trời đang sáng dần lên...

Qua cầu chợt nghĩ thương mình Quầy nước của cô Tư Mín lèo tèo chỉ hai cái bàn nhỏ, vài cái ghế nhựa xanh đỏ nằm nép một góc bên hông nhà lồng chợ. Đỗ Tuyết Mai

Giá đặc biệt bình dân: cà phê đá nghìn rưỡi một ly, trà đá năm trăm, trà nóng uống miễn phí. Ngoài những mối quen biết ruột rà mua bán hằng ngày quanh khu nhà lồng, cô Tư còn một số mối lưu động cũng ruột rà không kém. Chiều chiều khoảng từ bốn rưỡi tới năm giờ - lúc chợ nhà lồng sắp đóng cửa - một nhóm gồm năm, sáu chị vai đeo túi xách, sau khi thu xong tiền hụi thường gom về đây. Vài ly trà đá đẩy đưa, sau đó là một ngàn lẻ một thông tin đa chiều xoay quanh chuyện hụi hè tha hồ nổ ra. Chuyện lãi hụi trong ngày trồi sụt ra sao; bữa nay choàng lắp hết mấy chân cho tay em; dây hụi cũ sắp mãn chưa, chừng nào thì nối đuôi dây mới; tình hình hụi hè dạo này êm xuôi hay có động tĩnh gì... Đoạn vĩ thanh thường là phần linh tinh thuộc lĩnh vực nhà cửa, chồng con, các loại mỹ phẩm chống nám, trắng da... Trẻ nhất là Tiên, tuổi chưa tới ba mươi, trắng trẻo, no mộng, có thâm niên làm chủ hụi trên mười năm - từ thời còn con gái chuyển qua gái hai con vẫn tiếp tục. Nga trông sên sến nhưng ăn nói có duyên. Thảo sắc đanh, đáo để. Liên quá diêm dúa cộng thêm kiểu nói năng táo tợn... Cứng tuổi nhất và cũng có vẻ mờ nhạt nhất là chị Luận, tuổi khoảng năm mươi. Mọi cái từ trong con người chị đều toát ra vẻ đơn sơ, giản dị.

Chiều nay cũng như mọi buổi chiều khác, cũng cảnh cũ, người cũ, nhưng có phát sinh tình tiết mới. Không biết thu thập thông tin từ đâu, vừa sà xuống ghế, Liên háo hức thông báo ngay: “Ê, hay gì chưa? Chồng bà Luận nghi chuyển qua ung thư, chở lên Sài Gòn rồi, hồi khuya, bao xe bốn chỗ ngồi”. Nga: “Sao lẹ vậy trời! Mới thấy chả còn ngồi sau yên xe ôm eo ếch vợ cứng ngắc đây mà, hỏng lẽ? Ê, mà thằng chả không phải ôm theo kiểu thường đâu nghen, như vầy nè, nhè mấy cái chỗ nghiệt ôm không mới chết chớ!”. Thảo: “Thiệt hông đó, cái miệng mắm muối của bà, tui nghi quá!”. Tiên: “Rồi, coi như xong. Vùng đất xa xôi cuối trời Tổ quốc thêm một góa phụ”. Nga: “Tính sao mấy dây hụi của bả đây trời!”...

Cô Tư nãy giờ bưng nước tới lui lắng tai nghe không bỏ sót câu nào. Cô cũng thấy lo lo. Bưng từng ly nước, dành dụm nuôi chân hụi mười ngày của chị Luận định mùa nắng tới hốt nâng cái nền nhà sau lên cho đỡ cảnh tát nước. Mấy năm nay, con kinh nhỏ nằm phía sau hai dãy nhà bị lấn vô tội vạ. Mạnh ai nấy lấn, nấy nâng nền. Lấn riết, lấn mãi, tới hồi nhìn lại thấy con kinh biến đâu mất. Mùa mưa xuống, không còn chỗ thoát, dòng nước của trời cứ mặc nhiên lang thang vô định, nhà nào nền thấp sẽ trở thành cái bể chứa. Ý định là vậy, nhưng nếu có trục trặc gì thì cảnh tát nước lại tiếp tục tái diễn mỗi khi mùa mưa tới. Mới loáng thoáng nghĩ vậy thôi mà cô Tư thấy mình có gì như không phải với chị Luận. Chồng người ta sống chết tới nơi không thấy cám cảnh sao mà còn nghĩ vẩn vơ này nọ? Trong thâm tâm, cô vẫn tin chị Luận là người đàng hoàng. Thầy giáo cô giáo không hỏng lẽ làm bậy? Cô nghĩ là dù có xảy ra chuyện gì, chắc chị Luận cũng thu xếp ổn thỏa. Uy tín con người là thứ vô giá không thể mua lại được một khi đã lỡ để mất. Nhưng biết đâu được, chuyện hụi hè mà, cũng giống như chuyện thiên tai địch họa vậy thôi, phải biết chấp nhận rủi may. Nhiều khi người ta đâu có chủ tâm giựt, nhưng có một

ngàn lẻ một hoàn cảnh đưa đẩy. Gần mười năm bán quầy nước tại đây, cô Tư chứng kiến tận mắt không biết bao nhiêu là cảnh nhiễu nhương do chuyện hụi hè gây ra! Gương con Kim Ngân vợ thằng cha trưởng khóm còn sờ sờ đó chớ đâu xa! Nó khoe với người này người nọ nó có tới bốn cái nền nhà toàn đất thổ cư trong thành phố. Thấy nó đeo vàng đỏ tay đỏ cổ tính chắc ăn, ngủ một đêm sáng ra nghe nó trốn mất. Hỏi mới biết bị bể hụi. Đám tay em đùng đùng kéo tới nhà vây thằng chồng đòi tiền, nó trả lời hụi hè gì vợ nó làm nó không biết, đi kiếm vợ nó mà đòi. Một thời gian sau con nhỏ lù lù về. Ai có tức quá thì tới đứng trước cửa nhà nó chửi mười bữa nửa tháng cho đã tức rồi huề. Chuyện thưa gởi bây giờ không linh nghiệm nữa đâu!

Sống trong thời buổi mà ai cũng ý thức được rằng đồng tiền là chìa khóa vạn năng mở được mọi cánh cửa, suy cho cùng thì chơi hụi cũng có lợi lắm chớ! Nó là chất men kích thích góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, hai bên hợp tác làm ăn cùng có lợi.

Người làm chủ được tiền cò, tay em có được số vốn để buôn bán, làm ăn. Cuộc chơi tất nhiên đòi hỏi người chơi phải bằng cái tâm trong trẻo, không khuất tất. Chơi hụi thực tế là có lợi nên dù biết là nó có xác suất tai biến cũng rất cao nhưng người ta cứ chơi và mọi sự đời may rủi cứ tiếp tục diễn ra. Chuyện chồng chị Luận nghi ngờ bị ung thư lan nhanh như sóng thần. Vài ngày sau giới hụi hè trong thành phố hầu như ai cũng biết - dĩ nhiên cũng có không ít người tỏ ra lo lắng. Có điều, cái sự biết sự lo đó tùy theo tầng văn hóa thấp cao mà mỗi người có một cách biểu hiện riêng. Người có tâm có tính thì giữ kín nỗi lo trong lòng; người nông nổi, hám lợi thì kêu la đong đỏng... Cô Tư Mín thuộc loại nghèo nhưng rất biết trong tình huống nào mình nên xem nhẹ đồng tiền. Cô thương chị Luận là thương một người đàn bà đa đoan, lúc nào cũng vì người khác hơn là vì bản thân mình. Cô nhớ hoài hình ảnh khật khờ của anh Châu chiều chiều ngồi đợi vợ trên chiếc ghế nhựa này. Người anh to nhưng tay chân yếu, cái ghế thì nhỏ nên anh phải giữ thăng bằng trong tư thế ngồi yên, hai tay để lên đùi, không dám động đậy nhiều sợ ngã không gượng nổi. Nhiều bữa ngồi đợi lâu, mỏi mệt, anh đổ quạu chửi bới ầm ĩ, chị Luận vừa trờ tới là lãnh ngay cái tát tay. Chị không giận chỉ đưa tay lên xoa xoa chỗ bị tát, rồi cười. Cô Tư nhìn thấy cảnh đó muốn ứa nước mắt. Trong đời cô chưa hề chứng kiến cảnh oái oăm nào tương tự như thế. Vợ đi thu hụi thỉnh thoảng phải chở chồng theo. Chị Luận hay tâm sự với cô là thỉnh thoảng ảnh cứ đòi theo, ở nhà một mình than buồn, không chịu. Tới đâu thì để ảnh ngồi đợi ở chỗ đó, thu hụi xong rồi mới tiếp tục chở ảnh đi. Cảnh đó diễn đi diễn lại mấy năm nay, từ ngày anh Châu bị trận tai biến nặng thoát chết, người đâm ra khật khờ, lơ lửng. Nếu để ảnh ở nhà không chở theo thì lại có nỗi khổ khác. Cứ khoảng một tiếng là ảnh bấm máy gọi di động cho chị một lần. Lúc nào ảnh gọi kêu về mà chưa kịp về thì kể như sau đó bị ăn tát tay.

Hơn mười ngày sau chị Luận về mặt mũi bơ phờ. Chồng chị bị ung thư thật, ung thư ruột! Từ Sài Gòn về, chị tất tả lao ngay vào chuyện hụi hè. Tới đâu chị cũng được đon đả bằng những câu hỏi đại loại như: ổng bị thời kỳ thứ mấy rồi? Trước đó có biểu hiện gì khác dữ hôn? Rồi trị theo cách nào? Liệu kéo tới được cỡ bao lâu? Tiếp tục làm hụi hay ngưng?... Mệt vì mất ngủ, vì lo cho chồng, vì chuyện hụi hè thì ít, mà mệt vì mấy cái miệng thích hau háu chuyện người, những ánh mắt soi mói, nghi ngại nhiều hơn là sự cảm thông, sẻ chia. Tìm đâu ra giữa chốn lao xao này một tấm lòng trắc ẩn, một ánh mắt biết sẻ chia?

Lúc chạy xe ngang qua cầu, nhìn xuống con sông vời vợi sóng nước, chị nghe lòng buồn lạ lùng! Trăm năm rồi con sông xưa vẫn thế, vẫn ngầu đục phù sa, vẫn âm thầm thao thiết chảy vắt vẻo giữa lòng thành phố đìu hiu xa hút ở cuối trời Nam này. Và chị nữa, bao nhiêu năm rồi, giữa lòng thành phố chật hẹp đua chen này, như con sông kia, chị cũng lầm lũi, cũng âm thầm sống cho hết kiếp con tằm. Giữa thế giới những người đàn bà ngày ngày sống chung lộn với tiền, chị thấy mình vô cùng mệt mỏi. Niềm vui của họ đến rất giản đơn, nó được nhân lên tỉ lệ thuận cùng với lãi lời ngày càng sinh sôi. Họ say sưa nói chuyện chồng con, chuyện sửa sang tu bổ từng ngày cho cái tổ ấm của mình. Hả hê rồi, họ chuyển sang săm soi những thứ trang sức lóng lánh trên người của nhau, mốt áo quần, kem phấn... Chán chê, họ lại bắt qua chuyện gối chăn, nghệ thuật giữ chồng... Nhiều lúc chị cũng không rõ mình đang muốn gì, chỉ thấy sao mình không giống ai. Mà tại sao mình lại kỳ lạ vậy? Chẳng phải mình cũng đang cật lực lao vào thế giới của những người đàn bà mình vừa nói đó sao? Chẳng phải mình cũng đang sấp ngửa, đang khổ ải chỉ vì đồng tiền đó sao? Sao chẳng có lúc nào mình cảm nhận được một cách trọn vẹn niềm vui trong cái thế giới làm người. Thuở mới mười tám đôi mươi, thời đẹp nhất của đời con gái mình cũng vậy. Có lẽ tại mình nghèo nên ít khi có được niềm vui. Người ta có tiền thì vung vít bay cao bay xa, vào đại học này đại học nọ tận đất Sài Gòn. Còn mình thì sao?

Thích dạy học nhưng nhà nghèo nên với được tới cái khóa sư phạm cấp tốc đã là cao lắm rồi. Buồn làm sao những buổi tan trường, một mình lững thững đi bộ về chỗ trọ. Trên đường về trăm lần như một, mình rất sợ khi phải đi ngang qua ngôi nhà cửa gỗ màu xanh có giàn hoa giấy nở bung trước cổng. Những chùm hoa mong manh tím ngắt phơ phất giữa bảng lảng trời chiều gợi trong lòng mình một nỗi gì buồn bã không thôi. Buồn cho số phận hay vì điều gì mình cũng không rõ nữa? Chỉ nghe nỗi buồn mục rữa ngày càng thấm sâu vào tận ngõ ngách của tâm hồn.

Những chùm hoa tím ngắt mong manh ấy mãi còn ám ảnh chị đến tận bây giờ.

Dạo chị mới ra trường về dạy học ở quê nhà, một buổi sáng đột nhiên nghe tin thằng bạn học bị viên đạn mồ côi xuyên đúng qua tim chết tươi khi còn đang nằm trên giường ngủ.

Hộc tốc chạy đến nhà thấy bạn mình nằm đó, gương mặt thảnh thơi như đang mơ. Chưa hết bàng hoàng thì đâu đó có tin về, thêm một người bạn, rồi một người bạn nữa vừa nằm xuống ở chiến trường. Chị thấy hoang mang, buồn chán.

Cuộc sống chung quanh sao quá nhiều bất trắc, tất cả chỉ là ảo mộng. Từ đó chị sống lặng câm như một chiếc bóng giữa lòng thành phố bé nhỏ này, không chút ước vọng cao xa. Ngày ngày đến trường dạy học là cách để chị tồn tại. Rồi chị lấy chồng như bao nhiêu người phụ nữ bình thường khác. Chồng chị dạy cùng trường với chị, một người đàn ông bình thường không có gì đặc biệt. Đồng lương khiêm tốn của giáo viên giỏi vun vén lắm cũng chỉ vừa đủ chi phí cho một gia đình gồm ba thành viên: hai vợ chồng và đứa con trai. Rồi chồng chị ngã bịnh lúc thằng con mới vào đại học ở Sài Gòn. Gia cảnh túng bấn, rối reng, không còn lối thoát, chị đành nghỉ dạy bung ra làm hụi, vừa nuôi người chồng bịnh tật, vừa nuôi thằng con học đại học. Từ một giáo viên lành hiền, rụt rè chuyển sang thế giới hụi hè là cả một quá trình lột xác đau đớn ghê gớm.

Lúc mới tấp tễnh làm quen với thế giới của đường phố, của chợ búa, chị rất hay bị sốc trước những tình huống vặt vãnh của đời thường. Mình đến nhà, họ nhìn thấy mình rõ mười mươi rồi mà họ cứ tỉnh khô quay lưng, tỉnh khô đi rửa chén quét nhà. Mình đứng đợi chán chê rồi họ mới sai con ra bảo với mình là ngày mai mẹ con mới có tiền đóng hụi, bữa nay kẹt. Thế là lùi lũi ra về, ngồi trên xe mà nghe nỗi buồn cứ thấm tới tận ruột tận gan. Hôm sau lại ghé, lại ái ngại không dám vào thẳng trong nhà sợ người ta bắt bẻ là mình sấn sổ, cứ thập thò ngoài cửa như kẻ trộm rình nhà. Có hôm bốn, năm giờ chiều rồi mình mới bước tới cửa nhà người ta, cô giúp việc từ nhà sau thủng thỉnh đi ra, lễ phép thưa: "Thưa, cô con đang ngủ. Dì cứ đi lòng vòng đâu đó một lúc đi rồi hãy quay lại”. Thế là lủi thủi quay ra. Lên xe nổ máy rồi mà chẳng biết đi đâu, cứ chạy lòng vòng ngắm người ngắm phố như kẻ đang nhàn tản, thảnh thơi. Kỳ thực là đang như có lửa đốt trong lòng. Sợ chuông điện thoại réo, sợ nghe tiếng ông chồng trong máy giật giọng bảo phải về ngay. Tới ngã tư, đèn đỏ, dừng lại, một ông trung niên dáng bảnh bao dừng xe bên cạnh quay sang bắt chuyện: “Tôi thấy chị hay chở ông chồng mặc quần sọt chạy tới chạy lui hoài trông thiệt là ngộ. Sao chị không để cho ổng chở chị, bộ ổng không biết chạy xe hả?... Thương chồng quá há...!”.

Chị nghe nghẹn đắng trong cổ họng.

Bây giờ khi cuộc sống đã dạy dỗ chị chán chê rồi, đã dạy chị biết “thế nào là lễ độ” rồi, chị trở nên bình thản trước mọi sự đời - bình thản đến độ khô cứng, ít quan tâm đến những thứ thuộc về hình thức bên ngoài. Tuyến - con bạn học thời trẻ rất lâu mới gặp lại, từ trên xe hơi mang bảng hiệu trắng bước xuống, người ngập ngụa vòng vàng, vỗ vai chị

cười tươi rói: “Lâu quá mới gặp mầy. Nhà ở đâu, bây giờ làm gì? Làm ăn có khá không? Sao thấy mầy có vẻ chán đời quá vậy?”. Nó nhìn chị một lượt từ trên xuống dưới có vẻ thương cảm. Chị cười: “Nhìn tao giống y như con cù lần nuôi trong sở thú chớ gì?!”. Nó cười ha hả kéo chị vô quán nước, hỏi linh tinh lang tang đủ mọi chuyện trên đời. Chị nhìn nguyên một hệ thống nữ trang vòng vàng đeo dọc dài từ đầu, cổ, xuống tới tận tay chân, cười, hỏi nó: “Chớ theo mầy, giữa người sang trọng đeo nhiều vòng vàng như mầy so với con cù lần như tao, ai sướng hơn ai?”. Nó cười ngặt nghẽo rồi từ từ nhỏ giọng: “Mầy thông cảm cho tao đi, hồi đó nghèo quá mà, mầy nhớ không, đi học mặc cái áo dài vá một lỗ tổ chảng, mắc cỡ với mấy thằng lớp mình gần chết”. Nó rơm rớm nước mắt, giọng uất nghẹn: “Bây giờ có tiền rồi thì tao phải trả thù đời, tao phải sống bù”.

Chị nhớ lại năm Tết Mậu Thân 68, căn nhà của nó bị đạn pháo bắn nửa đêm bốc cháy. Trong cơn hoảng loạn, lớp lo tránh đạn, lớp tránh lửa, nó xốc bao áo quần của cả nhà ôm chạy ra hầm tránh đạn. Chừng coi lại đó là bao trấu, còn bao quần áo đã cháy rụi. Những ngày sau tết, nó chỉ còn lại duy nhất cái áo dài trắng mặc tới trường. Một bữa trời mưa, áo ướt phơi chưa kịp khô, xách cái bàn ủi than ra ủi, nó vô ý để cục than rớt xuống áo làm cháy một lỗ, phải đem vá lại... Và bây giờ nó đã là bà chủ bự của một tiệm cầm đồ, cho vay, nó đã trả thù đời bằng cách đem dát vàng lên người, nó đeo tới tận những chỗ lẽ ra không nên đeo. Nó lý luận tỉnh khô: “Có vàng ngu gì hổng đeo. Có người chắt mót cả đời mới sắm được cái mặt dây chuyền vàng hình ông Phật, không sắm nổi sợi dây, phải lấy chỉ xỏ làm dây đeo cho đỡ buồn”.

Ngẫm lại lời của con bạn chị thấy nó có lý. Cũng là một cách nghĩ, một cách sống. Nó tỏ ra rất chăm chỉ trong việc ăn chơi. Từ Cần Thơ lúc trời đã chiều tối, nó với con nhỏ tài xế lái xe hơi xuống tận Cà Mau. Chủ tớ vô nhà hàng kêu một con cua gạch son, một dĩa bồn bồn xào, uống mỗi người một lon bia, rồi lên xe về ngủ.

Nó đang là người hạnh phúc - chị nghĩ thế. Đơn giản, vì sau một vòng đua chí tử nó đã đến được đích cuối cùng. Không cần phải giấu diếm che đậy gì cả, nó hả hê đến ngạo mạn. Khi chia tay, mấy lần nó căn dặn chị: “Có khó khăn gì cần giúp cứ liên lạc với tao. Tao sống có một mình, tiền nhiều có khi không biết để làm gì!?”, rồi cẩn thận móc card gởi chị.

***

Sau lần gặp và chia tay con bạn, đều đặn cứ khoảng một tháng, chị Luận đưa chồng đi Sài Gòn hóa trị một lần, về sau số lần thưa dần. Sau hơn một năm điều trị, bây giờ anh Châu còn lại có nửa người và một cái đầu láng trơn không tóc, cộng thêm tính khí ngày càng cáu gắt kỳ quặc.

Sáng nay vệ sinh cá nhân cho chồng xong, nhờ người nuôi bệnh giường kế bên trông giúp, chị Luận xách cà-mên đi mua cháo cho chồng. Lúc về tới gần cổng bệnh viện định băng qua đường, chợt nhìn thấy Liên - quần Jean trắng áo đỏ mượt mà ngồi trên chiếc Spacy đỏ lướt ngang, chị chỉ kịp ới lên “Liên ơi”. Bóng áo đỏ trước khi vụt biến khuất trong dòng người xe đông đặc còn kịp ngoái nhìn chị cười ruồi một cái. Chị cầm cái càmên cháo đứng lơ ngơ, có nhiều người đang đi trên xe ngoái nhìn chị.

Gần một năm trời nay, từ ngày Liên đột ngột biến mất tăm, chị cũng tuột dốc thê thảm. Đánh đậm một quả hơn năm trăm triệu, kéo theo một chồng, hai con, Liên chuồn thẳng. Cũng như trăm ngàn cuộc vỡ hụi khác, không khí nhao lên một lúc rồi cũng lắng xuống. Kẻ ôm được tiền cứ tiếp tục nhởn nhơ, người mất của thêm được bài học cảnh giác. Tuy không can dự phần thắng thua trong cuộc vỡ lỡ này, nhưng bứt dây thì động rừng, hậu quả dai dẳng đâu có loại trừ chị. Ngay sau trận đó, chị đã thoáng thấy nhiều ánh mắt e ngại mỗi khi chị đến thu hụi. Rồi thái độ cảnh giác bắt đầu lộ diện, họ tranh nhau bỏ lãi cao tới ngút trời. Lãi cao bao nhiêu cũng bỏ, miễn hốt được hụi thì thôi. Cô Tư Mín là người hiểu chị, thông cảm với chị nhiều nhất, mà sau khi mãn dây hụi cũ, cô cũng khéo léo lựa lời từ chối không chơi tiếp dây mới. Mỗi lần đi thu hụi về là thêm một lần chị buồn lo rã rượi. Buồn lo mà phải tỏ ra như thanh thản - cuộc đấu tranh buốt nhức tim óc để được tồn tại. Chị cảm thấy đầu óc mình kiệt quệ. Muốn hư đốn thì dễ, làm người đàng hoàng sao khó quá, cực nhọc quá! Những lúc như thế này chị bỗng nhớ tới Tuyến - con bạn học đồng bóng nhưng tốt bụng. Sao chị không quyết liệt trong cuộc ăn thua, không táo tợn như nó để có lúc mình cũng được mơn man sống trong cảm giác của kẻ bề trên nhỏ lòng thương xuống đứa thấp bé hơn mình? Sao chị không mang linh hồn của quỉ, không trơ tráo như Liên để thản nhiên sống phởn phơ mặc kệ nỗi đau của kẻ khác? Lành hay dữ, kiếp người cũng như nhau, cũng mong manh như ngọn gió chiều. Chị đã nhìn thấy cái chết đến dễ như không của một cô gái điếm về chiều, chết khi miệng còn đang nhai dở dang những cọng mì khô. Không quẫy đạp, không đau đớn, cũng chẳng cần trối trăn.

Trời ban cho chị trái tim đa cảm chẳng để làm gì, chỉ để lâu lâu tự dằn vật mình, rồi lâu lâu tới người khác dằn vật mình. Cái cà-mên cháo, chị vừa xách vào chưa kịp đặt xuống, anh Châu bất đồ bật khỏi giường quơ tay gạt đổ tung tóe, kèm theo lời đay nghiến hằn học: “Đi kiếm trai chớ mua cơm mua cháo gì tới giờ này?!”.

Chuyện bếp núc Mọi điều đều có vẻ hoàn hảo đối với người phụ nữ trẻ tuổi: từ công việc, con cái đến tình yêu đối với chồng. Nhưng câu chuyện bắt đầu từ khi người em trai chồng xuất hiện trong ngôi nhà của họ... Lê Minh Khuê

- Em không định gì đâu. Nhưng không hiểu sao chiều nay em chả muốn về nhà gì cả. Bao nhiêu là chuyện. Chẳng muốn nói ra nhưng em cứ nghĩ thế này chắc em chết mất. Bạn bè em toàn đứa vô tâm vô tính. Nói ra chúng nó lại bảo mình rách việc.

Cứ thích mua dây buộc mình. Mua rắc rối vào thân.

- Em uống nước chanh leo nhé. Cho nó bình tĩnh lại. Rồi nói với anh. Anh là cái hộp có thể giữ được vô khối bí mật trên đời. Anh vô hại như cát bụi thôi. Mấy khi em tìm đến với giới "thừa giấy vẽ voi". Ngành ngân hàng của em, thẻ nhân viên thị trường chứng khoán đâu phải thứ nghe rồi để đó. Đâu phải chuyện chơi. Anh kính phục em sát sàn sạt. Cho anh vào lãnh vực đó anh chết đứng như Từ Hải. Nào uống đi rồi từ từ kể cho thằng họa sĩ rách biết những gì đang làm cho cái máy rút tiền tự động phải chảy mồ hôi.

- Anh còn nói thế nữa em bỏ về liền!

- Thôi. Anh đùa. Bạn bè với nhau từ nhỏ còn chưa biết tính anh sao. Này. Uống nóng. Cái thứ quả lạ nhỉ! Gọi là chanh mà phảng phất mùi ổi chín. Ở đâu ra cái thứ quả quyến rũ này nhỉ!

Thiếu phụ tuổi hai nhăm trông ưu tư đón cốc nước quả từ gã đàn ông ăn mặc như giới trẻ theo đám híp hốp. Gã không tỉa tóc luống cày, không đội mũ len sụp hai tai, không quần thụng rách đầu gối, không đeo dây xích bạc như dây đeo cổ con chó trông nhà. Gã không làm vẻ bặm trợn hoặc khác đời như đám trẻ híp hốp, gã chỉ có vẻ quá tự tin đến mức như "kệ mẹ nó mọi sự". Bù lại hàm râu quai nón xanh xanh cái cằm vuông làm khuôn mặt gã đáng tin. Kiểu đàn ông làm ta có thể nói với anh ta chuyện con gián làm phiền ta trong

bếp, con kiến đốt sưng đùi thằng bé nhà em. Nói những chuyện "thấp bé nhẹ cân" ấy mà không sợ anh ta thờ ơ cho là mình dở hơi. Có những người đàn ông làm bạn ta trong cả khi ta có chuyện không muốn nói với bạn gái. Người đàn ông với tâm hồn ngay thẳng, cái nhìn trong sáng là cực kỳ hiếm hoi trong thế giới máy móc sáng choang cái gì cũng tiện cần gì với tay ra là được ngay nhưng cô đơn đến độ không biết chia sẻ với ai cả khi vui. Cũng như lúc muốn khóc.

Thiếu phụ nghĩ miên man. Rồi làm như đang nói dở câu chuyện.

- Anh ạ. Mọi việc bắt đầu khi em trai chồng em tốt nghiệp đại học trong nam không xin được việc làm trong ấy. Ở Sài Gòn hai năm làm từ chân móc cống đến gánh vôi gạch vẫn không có chỗ dừng chân. Thế là chồng em bàn với em, em bảo cứ đưa chú ấy ra rồi tính. Anh em kẻ nam người bắc như thời chia cắt thế thì làm sao còn gọi là ruột thịt đùm bọc... Chú em chồng xách va-li ra. Thuê nhà trọ thì tốn lại vất vả. Em bảo chú ấy về ở với bọn em. Từ khi cưới nhau bây giờ em mới được gặp chú em. Gặp. Em lập tức thấy như mình cắn củ khoai sượng. Hai anh em họ, mọi nét giống nhau. Nhưng mọi vẻ lại khác nhau. Anh có biết rất nhiều trường hợp như thế không. Giống nhau. Gần như hai giọt nước. Nhưng một người ngồi trên núi cao. Một người là bần hàn như ngọn cỏ hôi. Em dùng chữ không đúng lắm. Nhưng anh có thấy thế không?

- Được rồi. Hiểu ý em rồi.

- Nghèo. Không kiếm ra một xu. Nhưng lúc nào cũng tinh tướng. Hắn bảo với em: cái nghề của chị nghe thì có vẻ kêu. Nhưng ở cái xứ có một xu người ta cũng lận vào cạp váy thì bố ai ưa cái kiểu xem bảng chữ mua bán từng cắc. Nhìn mấy thằng làm trong thị trường chứng khoán mà xem. Chắc vài năm thằng nào cũng thần kinh. Chị cứ về làm nội trợ anh của tôi thừa sức nuôi. Đàn bà là phải ở trong bếp. Có thế mới sinh ra cái giống tóc dài chân mỏng như chân vịt.

Anh xem. Miệng lưỡi sắc như dao lam. Cái mặt hắn lúc ấy trông giống kiểu mặt gà mái. Em sởn cả gai ốc. Nhưng phận chị dâu thì phải làm. Em bảo: tháng này chị làm thêm được ít tiền. Chú cầm lấy tiêu vặt. Hắn dửng dưng tay đút túi. Thôi. Chị không phải bận tâm! Biết hắn sĩ diện hão, em để tiền trên nóc tủ lạnh. Lên gác, xuống đã thấy biến mất cái phong bì. Mấy lần như thế, mỗi lần một kiểu, hắn không có chút đàng hoàng nào. Trong nhà còn người này người kia. Đưa sao lại không lấy ngay. Sao cứ thích lén lút. Bữa ăn, hắn chê cái này, gẩy gót cái kia y như là nhà của hắn. Cứ như hắn sinh ra đời không

phải để ăn những thứ vớ vẩn này. Miệng thì chê. Tay thì gắp. Bất kể món gì em làm ra đều bị hắn chê. Như tát vào mặt. Nhưng không có gì ghê sợ bằng cái này. Dỗi. Có chuyện gì đó hắn bỏ lên phòng. Gọi ra ăn cơm không ra. Nhưng khi mọi người đi ngủ hắn lần xuống bếp. Mở tủ lạnh. Rón rén như con gián. Có điều này. Hắn thích ở trong bếp. Như một thứ bệnh. Mỗi lần vào bếp thấy hắn, em không dám vào. Hắn như một mụ đàn bà. Hắn vơ bên này, lau bên kia, chân di di từng hạt bụi, tay đập, miệng càm ràm như lên đồng. Cô giúp việc của em sợ quá xin nghỉ một thời gian, giao hẳn cái bếp ấy cho hắn.

Mà hắn hôi hám. Anh ạ. Quần áo chồng em mua cho hàng tủ, ngày nào hắn cũng thay. Nhưng đứng cạnh hắn em không chịu nổi. Hắn như các bà nằm ổ rơm ngày xưa. Ăn cao rắn cao dê cao ngựa.

Người lúc nào cũng bốc mùi lợm mửa. Chồng em thì vô tâm vô tư. Chịu được thằng em. Anh ấy không hề nghĩ đến là em không thể can đảm nổi...

- Mà sao anh lại thở dài?

Thiếu phụ hỏi gã họa sĩ đang uống cà-phê. Gã cười cười như đang nghĩ tới phần đáng nói của câu chuyện.

- Em cứ kể phần sau đi. Anh đoán ra một nửa rồi.

- Anh cứ làm như tinh lắm. Còn lâu.

- Thì kể tiếp đi!

Thiếu phụ ngồi thừ ra. Như không biết làm sao xua nổi ác cảm đang lớn dần lên nữa trong tâm hồn mình.

- Thằng cu nhà em đã được hai tuổi rồi. Cháu hay về bên ngoại. Em và chồng em vẫn sống như một đôi yêu nhau. Nhất là trong những đêm mùa đông. Anh ấy khỏe mạnh. Sạch sẽ. Nồng nàn. Như giới trẻ họ vẫn hát đấy. Nồng nàn, lúc nào cũng làm em không thở được. Mỗi bận là một cái gì mới. Không bao giờ lặp lại. Nhiều khi chồng em ngủ rồi, em nằm ngắm khuôn mặt anh ấy, phát khóc lên vì thấy mình may mắn hạnh phúc. Đi làm căng thẳng. Nhưng mỗi khi có chút thời gian, em đều nghĩ tới một đêm sắp tới với chồng. Được nghe tiếng thở, được xoa bàn tay lên cái lưng đẫm mồ hôi của anh ấy... Nói tóm, em yêu chồng đến độ mỗi đêm với em là được vào một vũ điệu mới. Tất cả trôi đi như trong điệu van. Nói văn vẻ thì như thế. Nhưng nó hay hơn thế nhiều.

- Được rồi. Anh hiểu rồi. Nghe em nói mà anh cũng nóng bừng cả người lên đây!

- Nhưng từ khi chú em chồng vào ở trong nhà em, không hiểu vì sao lại xảy ra nông nỗi này. Mỗi khi chồng em theo thói quen kéo em vào lòng, người em run bắn lên vì sợ hãi. Em ghê tởm. Cảm giác ghê tởm tràn ngập toàn thân. Người em, khô đi, khô từ ngón tay, từ sợi tóc. Em không còn một chút cảm xúc nào.

Thiếu phụ bưng mặt. Không khóc nhưng sự thổn thức như con sóng làm thân thể nàng như xốp đi, nhẹ bỗng, có thể tan biến.

- Cứ mỗi lần nghe anh ấy thở, mỗi lần ngón tay anh ấy theo thói quen dạo trên da thịt em, em lại nghĩ tới hắn - Chú em chồng. Em nghĩ hai anh em đã sinh ra từ trong một buồng trứng. Từng bú một bầu vú, một dòng sữa. Từng chơi với nhau từ nhỏ xíu. Sao chồng em không ngửi thấy mồ hôi toát ra từ con người kinh sợ ấy đang đầu độc không khí? Nghe nói những kẻ keo bẩn, bần tiện, ngu xuẩn, độc ác... thường có mùi rất nặng. Nghĩ đi rồi nghĩ lại. Suy xét, em lại thấy gã em chồng em đáng thương. Đáng thương quá. Vì mặc cảm nghèo, thua thiệt nên thường tỏ ra coi khinh mọi giá trị trên trái đất. Hắn chê từ cụ danh nhân nào đó có học vấn trên trời cho đến anh trí thức mua bằng trong xóm. Hắn chê tuốt mọi thành tựu. Cái gì hắn cũng bĩu môi xem như của rẻ. Cái gì cũng xem khinh. Hắn đáng thương như mấy anh trai làng chỉ nhìn thấy bờ ao xem thiên hạ như bụi cỏ.

Nhưng cảm giác ghê sợ hắn gây ra làm em tắc thở mỗi khi nằm trong chăn với chồng. Thân thể em chống lại quyết liệt dù lý trí em bảo rằng như thế là rất hỏng. Không được như thế. Đã hơn một tháng rồi em sợ mỗi khi tắt đèn. Em nghĩ cứ thế này mãi chắc điên... Nên, hôm nay em chả muốn về nhà. Gã em chồng em chuyển đi rồi anh ạ. Được năm

hôm. Chồng em chắc có đọc được cái gì đó nên đã thuê nhà cho hắn. Xin cho hắn một việc làm có kỳ hạn để đủ tiền thuê nhà, tiền ăn.

- Hắn chuyển đi rồi nhưng mọi việc vẫn thế chứ gì?

- Vâng. Em biết là trong nhà không có hắn nữa. Nhưng cái sự anh em ruột nó cứ ám ảnh em. Em nghĩ hay em cũng đã thành con bệnh. Chồng em mấy hôm đầu khi em nguội ngắt, có vẻ ngạc nhiên. Dần dần anh ấy nghi. Em bắt gặp anh ấy tìm cả trong túi đi làm của em xem có gì lạ. Ngửi cả khăn quàng của em. Có lần còn theo em lúc em đi sang nhà mẹ đón thằng bé. Mắt của anh ấy nhìn em thế nào em biết. Nhưng em vẫn không thể nào mềm lại trong tay anh ấy nữa. Hôm qua, lúc nửa đêm em thức dậy thấy anh ấy nằm nhìn trân trân lên trần nhà. Rồi anh ấy nói, đủng đỉnh, như là nghĩ từ lâu lắm ấy. Anh ấy bảo em nghĩ em là ai cơ chứ? Em là một trong hàng ngàn những con vẹt công nghệ. Bắt chước của người ta tài tình thế, máy móc giỏi thế, tiếng nói của người ta cũng nhai lại sành điệu thế, nhưng để biết quý trọng những gì trời cho một cách may mắn thì không. Em nghĩ tình yêu nó tự đến với em đấy à? Hay em hỏng... chi tiết nào trong cái máy người của em rồi...?

Anh ạ, em bị sốc. Khi anh ấy gọi em là con vẹt của công nghệ. Hôm nay em không muốn về nhà, lạ thế đấy. Em đâu phải con vẹt của công nghệ. Nếu như anh ấy biết vì sao...

- Ấy ấy. Đừng nói điều đó ra. Em ruột nghĩa là bản thân anh ta đấy. Em cứ bịa ra một lý do gì đó. Còn cái vụ kia, cái sự liên tưởng kỳ lạ kia, anh nghĩ rồi nó sẽ nhạt dần đi...

- Em không biết nó sẽ như thế nào. Nhưng gã em trai của anh ấy làm sao bằng anh ấy được. Nguyên cái việc anh ấy gọi em là con vẹt công nghệ, em cũng thấy nể rồi. Gã em trai anh ấy chỉ biết thô lỗ vì thấy mình thấp kém, thấy ghen tị với chung quanh. Chồng em không phải như thế. Ồ, em nghĩ lại rồi. Anh ấy hay bao nhiêu ấy chứ.

Gã họa sĩ nheo nheo mắt nhìn thiếu phụ. Gã nhắc, giọng như nói với đứa trẻ đang muốn vứt đi con búp bê đầu tiên:

- Mà anh ấy lại khỏe mạnh. Nồng nàn. Nhất là trong những đêm mùa đông. Phải không?

- Thôi em đi về đây anh ạ. Giờ này chắc chồng em đã về rồi. Em phải qua chợ mua ít thức ăn nữa.

Gã họa sĩ nhìn trời, nói trống không:

- Hôm nay lạnh lắm đấy. Ta nhen bếp lửa, ta lồng tấm chăn - gã cao hứng đọc thơ - thứ thơ tha thiết của thời tinh khiết bây giờ đọc lên người ta bảo đồ dở hơi nhưng câu chuyện của "con vẹt công nghệ" làm gã vừa buồn vừa hoang mang. Thực ra người ta cũng chả phải nguội từ tim gan nguội ra. Người ngợm bao giờ chả xưa như trái đất.

Bắt đầu một tình yêu Cô Sáu trở dậy lúc trời còn mờ tối. Hồi đó nhà cô không có đồng hồ, nhưng cô luôn dậy vào đúng lúc con chim cu sau núi cất tiếng gáy. Cứ đều đặn như thế, năm này qua năm khác, công việc của cô không hề thay đổi. Đoàn Phương Huyền

Cho bò, heo ăn xong, cô cầm cái liềm tất tả đi. Quãng đường gần ba cây số chẳng sá gì với con người đã quen làm công việc nặng nhọc. Cô đến nơi vào lúc trời hửng sáng. Len lỏi qua vùng đầm lầy, cô cắt đầy một gánh môn ngứa. Đây là nghề của cô. Cô muối môn chua bán. Cả làng ai cũng biết môn của cô là môn dại, thế nhưng nó luôn đắt khách. Cô mát tay. Môn đó người khác sờ vào có thể gãi chảy máu. Thế mà qua bàn tay cô, nó lại thơm ngon mới lạ. Lúc đầu mọi người ngại nhưng sau người ta bảo nhau: nó cũng như cô, dại mà không độc. Thế mà cô sống được.

Cô Sáu ở một mình trong căn nhà lá của cha mẹ để lại. Nhà cô có mười anh em. Những người còn lại đều đã có gia đình và ra ở riêng. Lúc cha mẹ cô mất, họ xúm lại họp hành phân chia gì đó. Cô đờ người trước nỗi đau. Cô không tham gia vào câu chuyện của họ. Sau này cô cũng chỉ biết mình vẫn được sống trong mái nhà của bố mẹ.

Không có của cải riêng, cô muối môn ngứa sống qua ngày. Ấy thế mà cô khá. Một mình, ăn chẳng đáng bao nhiêu, lại tiết kiệm nên cô cũng tích cóp được kha khá. Ông chú họ tốt bụng mua giùm cho cô con heo. Thế là cô có thêm nguồn vui. Con vật cô nuôi cũng vô tư như chủ nên lớn nhanh như thổi. Dần dần cô có thêm cả bò. Công việc có vất vả hơn nhưng chẳng là gì đối với cô. Cô vẫn sống vui.

Nắng ở quê cô mới kinh khủng làm sao. Bàn chân đã quen giẫm trên sỏi đá mà vẫn muốn phồng lên vì nắng. Cô không mệt. Cô thấy khát, khát muốn khô họng. Cô cố làm cho xong, bó hai bó môn thật chắc rồi quảy xuống suối. Cô ngồi trên cục đá bằng phẳng bên bờ suối, khoan khoái vốc từng vốc nước vã lên mặt. Cô khom người uống từng ngụm nước tinh khiết. Mỗi giọt nước như thấm vào từng thớ thịt trên người cô. Cô cứ uống, uống như chưa bao giờ được uống vì một nỗi sung sướng ngất ngây. Thế rồi, no nước cô lại thấy mệt. Một nỗi bứt rứt trong người thật khó tả. Không! Cô chẳng bao giờ nhận ra điều đó, cái bứt rứt của người con gái đến tháng. Cô khát và cô đã uống. Nắng và dòng suối đã cho cô bóng mát. Nhưng hình như cô vẫn thấy khát. Cô ngả lưng nằm trên phiến đá mát lạnh rồi nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ.

Cái tin cô Sáu có bầu nhanh chóng lan khắp làng. Anh em trong họ kéo đến chật nhà. Cô ngạc nhiên. Cô vội chạy đi giở cuốn sổ cũ kỹ nhàu nát xem hôm nay là ngày gì. Thế nhưng chẳng là ngày gì cả. Vốn tính hay quên, nên cô đã cẩn thận ghi ngày giờ giỗ chạp vào một cuốn sổ. Cô không hiểu mọi người tập trung đông đủ như thế để làm gì. Cô đâm ra sợ cái vẻ mặt hầm hầm giận dữ của anh cả. Cô trốn xuống bếp nấu nồi nước chè mang lên. Họ bàn bạc gì mà thấy căng thẳng ghê lắm. Cô chỉ nghe anh cả bảo “bỏ”, nhưng chị Ba và ông chú lại bảo “không được”. Có người thì bảo: “Tìm cho ra thằng đó rồi đập vào mặt nó”. Cô sợ hãi đứng nép sau ông chú nãy giờ chưa nói được lời nào. Rồi mọi người gọi cô lại. Cô sợ sệt. Song chẳng ích gì. Họ không khai thác được gì ở cô.

Chẳng có giải pháp nào đưa ra hợp lý. Cuối cùng mọi người im lặng ra về. Cô thở phào nhẹ nhõm. Ông chú tốt bụng lén nhìn vào cổ cô, nhìn xuống bụng cô rồi dặn dò: “Đừng làm việc nhiều nữa nha con. Phải giữ sức khỏe”. Cô cười toe toét. Cô thấy cô vẫn khỏe chán. Ông chú quay đi.

Chuyện cô Sáu có bầu không làm cho người ta khinh rẻ, nhưng nó khiến người ta tò mò. Người ta đoán già đoán non “tác giả” của nó. Người ta chửi cái thằng cha nào đó mất nết, cả người dại cũng chẳng chừa. Người ta lại mừng cho cô, sau này sớm tối có người thủ thỉ cùng. Song ai cũng lo cô không chăm sóc nổi con mình. Thế nhưng những người đàn bà thì biết rằng, bẩm sinh mỗi người phụ nữ đều đã được phú cho thiên chức làm mẹ. Ngay một đứa trẻ cũng có thể sắm vai một bà mẹ khi nó mới ở lớp mẫu giáo cơ mà.

Cô Sáu vẫn vô tư, dửng dưng trước những lời đồn đại. Nhưng đến một ngày cô đã nhận ra có sự thay đổi trong người mình. Thỉnh thoảng lại thấy mệt mỏi, buồn ngủ chứ không như trước nữa. Một hôm có người bảo với cô: “Có con rồi thích không?”. Cô bẽn lẽn đưa tay lên bụng như một cô gái mới lớn biết làm duyên. Niềm vui sóng sánh trong đôi mắt người đàn bà tội nghiệp.

Không ai ngờ rằng cô Sáu lại sinh ra một bé gái xinh xắn như thế. Cô bé có nước da trắng hồng, đôi mắt to đen láy. Nó chẳng giống cô. Nhìn đôi mắt ấy thì không thể giống cô được. Người làng đến thăm cô rất đông. Hiếu kỳ và đầy lo lắng. Thế nhưng tất cả sự lo sợ của họ qua đi khi đứa trẻ không giống một người đàn ông nào trong làng này. Người ta cười hạnh phúc với niềm hạnh phúc của cô. Có lẽ bố đứa trẻ là một người nào đó rất xa lạ với làng này. Anh ta đã cao chạy xa bay sau khi tạo ra một hình hài xinh đẹp. Mà cũng có thể anh ta chẳng biết mình đã để lại trong cô gái nọ giọt máu của mình. Thế nhưng có cần thiết không khi mẹ con cô đang sống thật vui vẻ trong vòng tay của người thân và bà con làng xóm.

* **

Mẹ tôi chết. Một cái chết nhanh và nhẹ như cuộc sống của mẹ. Sáng đó mẹ cũng dậy sớm để đi lấy môn ngứa, thế nhưng vừa ra đến bể nước để rửa mặt thì mẹ thấy chóng mặt rồi ngã vật ra. Đến khi mọi người phát hiện được thì mẹ đã không còn nữa. Mẹ tôi bị trúng gió. So với sức vóc ấy thì cái tuổi năm mươi mẹ còn trẻ chán. Thế mà một cơn gió độc đã mang mẹ đi mãi mãi. Tôi về đúng vào lúc người ta làm lễ nhập quan cho mẹ. May mắn cho tôi khi vẫn còn được nhìn mặt mẹ lần cuối. Vẫn vẻ mặt ngây ngô ấy mẹ ra đi. Nỗi đau ứ trong lòng mà tôi không khóc được. Ai cũng nhìn tôi lạ lẫm nhưng lại không dám tỏ vẻ gì. Người ta kính trọng cái danh nhà văn của tôi. Bài điếu văn dài dằng dặc vang lên, tôi không hiểu được lời nào. Không biết có phải tất cả những bài điếu văn đều dài như thế hay là bài điếu văn ấy chỉ dành cho mẹ của một nhà văn?! Người ta còn làm sẵn cho tôi một bài khóc mẹ. Cậu tôi, ông cậu đã kịch liệt lên tiếng đẩy tôi xa mẹ, nói nhỏ vào tai tôi: “Con xem bài văn ấy có được không? Tôi chua chát liếc qua trang giấy, ậm ừ cho qua chuyện. Rồi thì sau đó tiếng khóc bỗng rống lên. Hình như là người khóc mướn. Cậu tôi đã chuẩn bị tất cả. Cậu sợ tôi xa mẹ lâu sẽ không có tình cảm, như thế tôi sẽ chẳng thể nào khóc được. Mà đám ma không có tiếng khóc coi sao được.

Người khóc mướn bỗng nấc lên đầy thương cảm. Phải công nhận là đồng tiền có một ma lực. Chị ta đã học thuộc lòng bài khóc được soạn sẵn, cứ thế tha hồ mà kêu gào. Tôi

không ngỡ ngàng rằng chỉ ở thành phố mới có dịch vụ khóc thuê bởi những nhu cầu người dân quê cũng đang ngày một đòi hỏi cao hơn. Hơn nữa người đang nằm kia là mẹ tôi, mẹ của một nhà văn hẳn hoi. Thế thì đám ma cũng phải cho ra hồn chứ. Tất cả những điều đó làm tôi cay đắng đến nỗi không thể khóc được một tiếng cho mẹ và cho cả mình. Cả cuộc đời mẹ chưa một ngày được tôi phụng dưỡng đã vội ra đi. Mẹ đã không cho tôi kịp nói một lời tạ tội. Mà không, mẹ nào có trách tôi. Cả đời mẹ có trách ai bao giờ, dù tôi có xấu hổ vì mẹ là mẹ của tôi, dù ai đó có tỏ ra không tôn trọng mẹ.

* **

Con bé con càng lớn càng xinh đẹp. Ông chú đặt tên cho nó là Minh Hạnh. Ông mong sau này cháu ông sẽ khá hơn, sẽ sống cả cuộc đời mà mẹ nó còn chưa sống hết. Nó phải được sung sướng hơn người. Cô Sáu đúng là một người phụ nữ thực thụ. Thiên chức làm mẹ đã dạy cô cách chăm sóc con. Con bé hình như hiểu và thương mẹ. Nó không hề khóc lóc, bệnh tật mà cứ lớn nhanh như thổi. Hai mẹ con quấn quýt nương tựa nhau.

Bỗng dưng đùng một cái cô phải rứt núm ruột của mình trao cho người khác. Nỗi đau đớn giày xé tâm can người mẹ tội nghiệp. Năm ấy con bé Hạnh vừa mới vào học lớn hai. Một hôm cô đi lấy môn về nhà đã thấy nhà mình chật người. Người ta vẫn vào nhà cô tự nhiên như vậy. Cô lẳng lặng đi ra sau nhà rửa ráy. Đang khi ấy người anh cả gọi cô lên. Rồi cô lặng người khi nghe anh bảo: “Con bé Hạnh sẽ lên thành phố học”. Cô trợn mắt la lên: “Không!”. Anh cả dỗ dành: “Con bé ngoan, lại học giỏi, cô phải cho nó học hành đàng hoàng chứ. Cô không thương con à. Cô không muốn sau này nó thành bà này bà kia rồi nó sẽ đưa cô lên thành phố. Lúc ấy cô tha hồ mà sung sướng, không phải đi cắt môn ngứa như bây giờ nữa”. Cô không nói được lời nào. Cô không khóc mà lòng người mẹ cũng gào lên nức nở. Vậy là mẹ con cô phải xa nhau ư? Cô phải làm thế nào mới giữ con lại bên mình được. Cô không quen trái lệnh anh cả. Thế nhưng vì sao anh lại chia lìa mẹ con cô, lấy đi nguồn vui duy nhất của cô? Cô nhìn chú cầu cứu. Ông cúi đầu im lặng. Cô đâm ra giận dữ trước thái độ của ông. Cô đâu biết rằng ông đã nói hết lời với anh cả. Và rồi ông đau đớn nhận được một cái tát vào mặt: “Ông im đi! Ông là người ngoại tộc. Ông làm xấu mặt cả dòng họ chúng tôi như thế chưa đủ sao”.

Chiều hôm ấy người ta mang con bé đi. Nó sung sướng vì được ra thành phố. Nhìn con cười, lòng cô như xát muối. Cô ốm cả tháng trời. Song cô vẫn vượt qua được với hy vọng một ngày nào đó con cô sẽ trở về với cô. Cô mòn mỏi chờ đợi. Cô không biết đồng tiền đã cướp đi núm ruột của cô. Con bé không còn là của cô nữa, trừ khi tình mẫu tử trong nó không tự rứt bỏ cô. Cô vẫn chờ.

Hai mươi năm sau, nhà văn Mỹ Hạnh có mặt trên khắp các báo. Lần ấy ông chú đưa cho cô tờ báo, cô nhìn ảnh con mà cứ khóc rưng rưng. Đã hai mươi năm nhưng khuôn mặt con cô vẫn không thay đổi là mấy. Sau đó cô đem tờ báo đi khoe cả làng. Lúc ấy ông cậu nhận ra nhà văn kia là cháu của mình, ông muốn nhận lại cháu.

***

Ông chú nấc lên từng hồi mệt nhọc, mặt ông giàn giụa nước. Những lời nói của người sắp chết thường rất quan trọng. Khi biết mình sắp từ giữ cõi đời thì chẳng còn lý do gì để người ta phải giấu giếm sự thật. Tôi không muốn ông nói nhiều nhưng biết đây là giây phút thiêng liêng nên không thể nào ngăn chặn được. Sự thật về cuộc đời mình tôi đã biết cả. Tôi muốn ông được thanh thản ra đi.

Sau cái chết của mẹ tôi, ông suy sụp hẳn. Trước lúc ngã bệnh ông vẫn thay tôi hương khói cho mẹ. Tôi cảm nhận được tình yêu thương mà ông dành cho mẹ con tôi. Chính vì thế tôi đã giao lại cho ông căn nhà của mẹ. Tuy tôi không đòi hỏi, người ta vẫn giao căn nhà đó cho tôi. Tôi thì chỉ muốn mẹ vẫn được sống yên bình như lúc xưa. Tôi biết mình không lầm khi gửi ông chăm sóc linh hồn mẹ tôi. Và một lần nữa tôi trở về khi ông sắp ra đi.

Ông thở hắt ra, mệt mỏi. Ông nhìn tôi bằng đôi mắt tràn ngập yêu thương. Không lẽ không ai nhận ra được tôi có một đôi mắt giống ông như tạc? Cũng có thể người ta nhận ra, nhưng không cần thiết để nói ra nữa.

Ông đưa bàn tay xương xẩu nắm lấy tay tôi:

- Con hãy tha lỗi cho ta. Ngày đó ta đã không giữ được con ở lại với mẹ con.

Tôi lắc đầu, cố kìm giọt nước mắt nghẹn ngào, mãi tôi mới thốt lên được.

- Cha hãy nghỉ đi cha nhé.

Những tia sáng yếu ớt còn lại lóe lên trong ánh nhìn cuối cùng của ông. Ông thều thào:

- Ta mãn nguyện rồi.

Ông ra đi thanh thản và hạnh phúc. Tôi lại một lần nữa mất đi người thân yêu của mình, thế nhưng tôi đã mang đến cho họ niềm hạnh phúc. Trước khi ra đi, tôi đặt hai di ảnh bên nhau, trong ngôi nhà của mẹ. Cuối cùng thì họ cũng bên nhau. Một tình yêu công khai bắt đầu...

Chuyện tình của anh Trước cây thông xanh mơn mởn,tràn trề sức sống,anh đã kể lại câu chuyện tình của mình Anh và chị sống với nhau rất hạnh phúc.Tình yêu của anh và chị đang độ nồng nàn thì một tai nạn giao thông bất ngờ đã cướp đi người yêu thương nhất của anh.Mấy năm sau đó,anh vẫn ở vậy chẳng hề mơ màng đến ai,anh chỉ mật mình đơn côi.Anh từ chối hết tất cả những đám mà bạn bè mai mối.Tro xươngcủa chị đươc đựng trong một cái hộp.Anh chị vẫn luôn ở bên nhau.Anh đặt chị trên bàn viết cùng với những cuốn sách anh đang đọc.Với anh chị như vẫn còn đang sống.Anh thường thủ thỉ nói chuyện với chị trong hộp.Anh tin là chị sẽ nghe được những lời anh tâm sự

Thời gian thấm thoát thoi đưa.Đến ngày giỗ tròn năm năm của chị,anh bưng hộp tro xương lên đồi thông ở ngoại thành cách nhà không xa

Thông mã vĩ mọc kín núi.kín đồi.Đang là tiết xuân,hai bên con đường nhỏ dẫn lên đồi thôngnở đầy những bông hoa màu đỏ xen màu vàng,màu trắng.Lên đến lưng chừng đồi thông,chọn một chỗ đất đẹp,anh đào một cái hố trên thàm cỏ mịn như nhung.Nhẹ nhàng,anh đặt vào hố một cây thông con thân to bằng ngón tay cái,rồi anh mở nắp hộp thong thả rắc tro xuống cái hố mới đào.Một dòng tro màu trắng xám chảy xuống hố như dòng nước.Sau đó,anh gạt đất trên miệng xuống hố.Khi lớp đất màu nâu đã giữ cho cây

thông non đứng vững ở trong hố,anh nhìn cây thông non mới trồng,lặng đi hồi lâu.Anh thì thầm:"Anh sẽ thường xuyên đến với em"

Mưa xuân lất phất như giăng mùng.Những hạt mưa bụi li ti đã tắm mát cho cây thông non.Anh lại thầm nói:"Mưa xuân đấy em ạ!Em thật hạnh phúc"

Anh trở về trong mưa,lòng vô cùng vui sướng

Cây thông ngày một lớn.Mỗi lần đến thăm cây thông,từ xa,anh như nhìn thấy chị đang đứng chờ anh trong lùm cây xanh ở một góc công viên.Gió thổi váy áo bó sát người vào người chị.Chị mỉm cười trách yêu anh"anh đến chậm thế"

Chẳng bao lâu,đất quanh gốc cây thông đã ngã màu xanh rêu rồi dần dần hoà cùng màu xanh của thảm cỏ và cả cánh rừng thông.

Mùa hè đến,những cơn mưa rào hối hả trút xuống.Sau những cơn mưa,anh lên ngay đồi thông vun thêm đất cho cây.Cành lá nhẹ đong đưa dường như chị đang xúc động lắm,không nói nên lời.Anh nhớ khi còn sống,lúc có điều gì xúc động là chị không nói thành lời.Lúc ấy anh thường dịu dàng nói với chị:"Em uống một chén trà đi!Rồi thong thả nói cho anh nghe"

Cây thông lớn rất nhanh,lá ngọn có màu xanh rất đặc biệt khác hẳn những cây khác.Nhiều lúc,anh đã nhìn ra dáng vóc của chị từ cây thông.Anh hiểu đó chỉ là ảo giác.Nhưng khi bừng tỉnh thì đó lại là một cây thông đang độ sung sức,cành lá sum suê,tư thế dáng vóc rất mĩ lệ,nó toát ra cái phong thai của chị thuở sinh thời.Khi trời nắng lâu ngày,ngày nào cũng như ngày nào,anh thường mang cái bình nhựa xuống ao sen dưới chân núi xách nước lên tắm cho chị.Nhìn dòng nước trong vắt ngấm vào lòng đất,anh thầm thì nói nhỏ:"Em khát lắm phải không?Em thong thả mà uống nước đi!"

Trong mắt anh,dáng cây thông đã thể hiện một dáng người.Điều này chỉ có anh nhìn thấy.Vào độ gió thu về,lá thông reo vi vu,anh như thấy chị rất hào hứng,cành lá cứ rung rinh như cất lên tiếng nói thủ thỉ bên tai anh.Anh cứ đứng vậy nhỏ to tâm sự với chị

Thế rồi,một sự lạ xuất hiện.Chị hiện về.Chị mặc bộ váy màu xanh lá thông.Anh chạy đến dang hai cánh tay ôm lấy chị vào lòng.Anh cảm thấy mùi thơm dìu dịu toả ra từ da thịt chị.

Mái tóc của chị như mơn manlên má anh.Anh nghe thấy chị nói: _Anh đừng đến thăm em nữa! Nước mắt anh lăn dài trên má,anh hỏi: _Sao vậy em?Em không yêu anh nữa sao? Chị lắc đầu nói: _Không phải vậy,em rất yêu anh Anh nói: _Em đã từng nói yêu anh mãi mãi.Sao bây giờ em lại nói thế? Nước mắt ròng ròng chị nghẹn ngào nói: _Mấy năm qua,anh đã luôn ở bên em.Nhưng anh ơi,âm dương cách biệt,dù sao thì chúng ta cũng không chung sống cùng nhau được.Em muốn anh hãy tỉm một cô gái khác mà kết bạn nơi trần thế. Anh bảo: _Sao em lại nói với anh như vậy?Hay là em đã thay lòng đổi dạ? Chị khóc nức nở nói: _Anh thấy không?Rễ của em đã cắm sâu vào trong đất rồi.Rời khỏi đất em không sống được.Anh hãy đi tìm một cô gái khác đi.Đó là tâm nguyện của em.Em chúc phúc cho anh.

Anh bỗng thấy trong lòng trống trải quá chừng.Những cành lá sum suê cứ như vuốt ve trên má anh...

Một thời gian sau anh đến thăm chị.Lần này,đến thăm chị,anh không đến một mình mà cùng đi với một người con gái xinh đẹp,dáng vóc giống chị.Cây thông bỗng đong đưa cành lá,lá thông cất tiếng reo vi vu.Ánh mắt trời đậu vào từng kẽ lá nhấp nhánh như những nụ cười hân hoan.Trước cây thông xanh mơn mởn,tràn trề sức sống,anh đã kể lai câu chuyên tình của mình...

Chiếc nhẫn ngọc

Đó là chiếc nhẫn có số phận kỳ lạ mà vì ngốc nghếch hoặc tham lam, người ta đã luôn ngộ nhận về giá trị của nó. Một người đàn bà đã phải trả cho nó cái giá quá đắt, và một người đàn ông cũng suýt vì nó mà đánh mất hạnh phúc của mình. Trần Thùy Mai

Tuấn bước lên sân thượng khách sạn. Người đàn bà đang ngồi chờ anh. "Tên tôi là Manuelle, người ta thường gọi là Manu".

Làm việc với khách sạn hơn sáu năm, Tuấn đủ kinh nghiệm trong ngành du lịch để nhận biết khá nhanh về nhân thân của người khách lạ. Người đàn bà này lịch lãm, quen tiếp xúc với nhiều người. Tên tuổi như vậy, nói tiếng Pháp chuẩn như vậy, nhất định là dân Pháp. Nhưng mái tóc đen như thế thì người Pháp không có. Cũng không phải người Việt, người Việt không có đôi mắt này. Đôi mắt tỏa sáng huyền bí như mắt người Ấn hay người Mã Lai... Tuấn phân vân, nhưng anh không hỏi. Du khách đến khách sạn giống như đoàn lữ hành qua sa mạc, đến và đi với gió, họ thường không thích lưu lại dấu chân mình trên cát.

"Các bạn gái tôi giới thiệu anh. Họ bảo anh dễ mến lắm. Tôi đến đây chỉ có một mình".

Tuấn hiểu. Anh là một nhân viên khách sạn đẹp trai và khá khôn lanh. Nhiều nữ du khách đã trở nên thân thiết với anh sau một lần lưu trú. Anh luôn tìm hết cách để chiều lòng họ, và anh chẳng thiệt thòi gì. Nhưng hôm nay e phải chối từ: Mai là lễ ăn hỏi của anh. Sáng nay anh đã xin nghỉ, nhưng đúng một phút trước khi rời khách sạn thì nhận được tấm danh thiếp của người đàn bà lạ.

Tuấn nghĩ cách từ chối mà không phải nhắc đến vị hôn thê của mình. Anh là người sành tâm lý phụ nữ. Đàn bà, họ luôn muốn độc tôn, dù là trong mắt một người đàn ông xa lạ. Vả lại, Festival còn kéo dài đến hết tuần, mà đến ngày kia anh đã có thời gian rồi. "Thưa bà...".

Nhưng cũng đúng lúc đó người đàn bà mở miệng nói, nên theo phép lịch sự anh phải nhường lời cho phụ nữ. "Hôm nay tôi muốn đi một chuyến về phía tây. Các bạn tôi bảo anh có xe riêng rất tốt, phải không?".

Đúng vậy, anh đã mua xe để thêm thuận lợi trong công việc, cũng vì chiếc xe mà hiện nay anh còn mắc nợ ít nhiều. Anh rất muốn nhận chuyến đi này, nhưng không thể được. Liên rất hay hờn, vẫn thường giận dỗi bảo anh chỉ biết tham công tiếc việc, chẳng dành đủ thời giờ cho nàng. Anh đã lao đao nhiều lần suýt vuột mất cô bạn gái xinh xắn bé nhỏ, nếu bà mẹ nàng không luôn miệng bênh vực và tán dương ông con rể tương lai.

"Tôi sẽ không quên công anh". Manu nói, bà cử động hai bàn tay đang nắm lấy nhau trên mặt bàn, một cử động hết sức uyển chuyển làm nổi bật lên chiếc nhẫn ngọc xanh biếc. Theo Tuấn, cử chỉ ấy mang một ngụ ý khá rõ rệt. Thấy ánh mắt chàng trai, Manu hỏi rất tự nhiên:

- Anh có thấy chiếc nhẫn này đẹp không?

Tuấn gật đầu. "Ngọc lục bảo phải không?". Anh hỏi. Người đàn bà im lặng mỉm cười. Tuấn buột miệng:

- Phải đến ba nghìn đô-la?

Nói xong Tuấn chợt thấy ngượng, anh nhận ra mình đã có câu nói hớ hênh, không thanh lịch chút nào. Thật tầm thường, mình đã mở miệng hỏi giá tiền trong khi lẽ ra phải tán dương vẻ đẹp của nó. May sao Manu không có vẻ gì phản cảm với anh, bà ta chỉ vỗ vai chàng thanh niên với một vẻ bao dung:

- Anh sành giá cả như thế, nhất định biết rất rõ các thứ ngọc quý.

Tuấn lấy lại tự tin. Không biết tự lúc nào, anh đã quên mất lời cáo từ.

Tuấn cho xe lướt rất êm. Manu ngồi bên cạnh, cặp mắt sâu và đen nhìn đăm đăm về phía núi xanh trước mặt.

Điện thoại di động trong túi Tuấn rung nhẹ. Chắc chắn là Liên. Tuấn hơi bối rối, nhưng rồi anh quyết định để nó rung thoải mái cho tới khi tắt. Anh nhủ thầm sẽ cố xong mọi việc với Manu để về sớm, còn lý do để giải thích với Liên thì khi nào cũng sẵn có trong đầu anh, ngại gì. Tự thu xếp với mình như vậy, anh thấy yên tâm, nhận ra Manu đang hướng anh đi theo con đường dẫn lên A Lưới. Không sao, đường này anh cũng đã đưa du khách đi nhiều lần, khách nước ngoài rất thích du ngoạn những vùng đất hẹp trong sơn ao. "Chị muốn xem những vùng có người dân tộc phải không? Mình phải kịp về trước khi trời tối, ban đêm ở vùng cao không an toàn đâu. Tôi đã nhận trách nhiệm với khách sạn phải đưa chị đi về an toàn".

Anh đã nói dối, thói quen nói dối trơn tru không cần suy nghĩ. Đêm vùng cao ở đây chẳng có gì nguy hiểm cả, chỉ có điều anh đang cần về sớm. Manu xem chừng chẳng bận tâm mấy đến lời hăm dọa của anh, bà ta bảo:

- Tôi có bản đồ đây, tôi sẽ chỉ đường cho anh - Thấy Tuấn chưng hửng, Manu mỉm cười giải thích: Tôi là biên đạo múa ở Nhà Hát Trẻ thành phố S... Tôi đang dựng một vũ kịch trong đó nhân vật chính là cô bé Kalang - Nga, người Tà Ôi.

- Sao lại người Tà Ôi?

- Đúng vậy. Ở Pháp không có dân tộc ít người. Những đề tài về các dân tộc miền núi làm người ta quan tâm.

- Làm sao chị biết về người Tà Ôi, từ tít bên kia? Manu cười, đưa bàn tay có chiếc nhẫn, lật cuốn sổ có một trang ghi chú những con đường núi với những cái tên Tà Ôi đã phiên âm. Viên ngọc trên bàn tay phản chiếu ánh mặt trời, xanh biếc. "Có nhiều cách. Thư viện. Cộng tác viên. Và cả trí tưởng tượng nữa".

Manu quây kính xe lên, lập tức phía bên kia Tuấn cũng quây kín cửa lại cho khỏi gió. Người đàn bà cởi áo khoác. Đôi vai trần nâu mịn hiện ra trước mắt anh trên chiếc áo hai dây. Từ đôi vai anh có thể tưởng tượng ra cơ thể mảnh mai lạ thường mà phụ nữ trung niên thường không có. Có cảm giác như vừa uống một ly bia, anh bốc lên, dận ga cho xe lao rất nhanh trên đường đèo. Manu đặt một tay lên vai anh, như muốn bảo anh chậm lại. Hơi ấm từ bàn tay xuyên qua lần vải áo. Điện thoại đúng lúc ấy lại rung khẽ trong túi anh. Những hồi rung kéo dài, nối tiếp nhau, dai dẳng, như muốn níu giữ anh lại. Nhưng xe đã tiến lên dốc đèo Aco, ra ngoài vùng phủ sóng.

***

Sau gần sáu mươi cây số chạy xe và hơn một giờ đi bộ, họ tới nhà mộ Tà Ôi giữa thung lũng hoang vắng. Tuấn phải rút dao nhíp cắt bớt những nùi dây leo quấn quýt bít lối đi để đưa Manu vào đến tận nơi.

Mặt trời nghiêng xuống chiếu vào cây cột lớn trong nhà mồ, rọi những tia dữ dội lên hình mặt người khắc trên cột. Phía sau cột cái, một dãy quan tài nằm cạnh nhau, mỗi quan tài là một thân cây đẽo vuông vức. Manu đến chỗ quan tài lớn nhất, đặt lên đấy bó hoa hồng trắng. Bó hoa đã hơi ủ rũ sau nửa ngày đường, nhưng vẫn rất thơm, thơm ngát.

Hoa hồng trắng của một người phương Tây nơi nhà mộ hoang vu này... Tuấn thầm nghĩ. Manu lấy ra một gói lớn, bà ta trầm tư một lát rồi mở gói, đặt lên nắp quan tài những nén bạc lớn. Tuấn đếm được tất cả ba mươi nén bạc.

Họ liên quan gì đến nhau, Manu và những người chết ở đây? Tuấn nghĩ thầm nhưng không dám hỏi. Manu đã xăm xăm trở ra giữa hai bờ cỏ tranh. Tuấn chăm chú nhìn vào mái tóc quăn cuốn cao trên cái ót đầy đặn. Anh chăm chú quan sát vẻ mạnh mẽ uyển chuyển kỳ lạ trong từng cử chỉ của người đàn bà: Vẻ bí ẩn bao quanh bà ta giống như một thứ men rượu, kích thích và gieo vào anh một sự hưng phấn mãnh liệt.

Trời đã sẫm chiều. Khi ra đến chỗ để xe hơi, Manu ngồi bệt xuống vệ cỏ. Tuấn trải tờ báo ra, bày mấy thức ăn khô có sẵn trong xe. Manu uể oải nhai mẩu bánh mì với một lát xúc xích. Phần Tuấn đã đói cồn cào, anh ngốn hết những thứ đã mang theo. "Manu, mình về thôi". Manu nhìn lên, mặt tái xanh. Lúc đó Tuấn mới nhận ra dưới vẻ mạnh mẽ và tự

kiềm chế, người đàn bà đang xúc động cực độ. Anh hốt hoảng: "Manu, chị cần phải nghỉ một chút. Tôi đưa chị vào làng nhé?". Nghe câu nói của anh, Manu giật mình: "Khỏi cần, tôi không vào đâu, trên xe được rồi".

Tuấn lật ghế xuống, tạo thành hai cái giường song song. Manu ngả lưng xuống băng ghế sau, vẻ như kiệt sức. Tuấn giúp Manu kê đầu lại cho ngay ngắn, cởi giúp bà ta đôi giày đang bó chặt lấy cổ chân. Anh do dự không biết có nên giúp Manu nới những cái móc, cái cúc tế nhị hơn không. Rồi có lẽ được cảnh hoang vắng chung quanh khuyến khích, anh ôm choàng lấy Manu, ngực sát vào ngực người đàn bà. Hai bàn tay anh vuốt từ dưới gáy đến đôi vai, rồi dọc theo lưng, bằng cách đó anh làm cho người đàn bà thư giãn và tỉnh táo lại sau cơn xúc động. Mặt bà ta hồng lên, mắt mở. Tuấn cúi xuống, những lọn tóc rũ trước trán khiến khuôn mặt anh mang một vẻ buông thả mê muội. "Xem kìa, Tuấn, sao vậy?". Manu hỏi. Tuấn nói, không quanh co:

- Tôi thích chị.

Manu ngồi dậy, nói như hụt hơi:

- Cảm ơn, nhưng tôi không thể... Tôi lại có cảm tưởng như ở trong lễ pok ruông. Tôi sợ đến không thở được.

Tuấn bóp trán Manu, vầng trán giờ đây lạnh buốt, anh phải cố cho hơi ấm trong tay anh thấm vào.

"Đừng sợ, chị sẽ dễ chịu lại ngay thôi mà".

Trong tay anh, mạch cổ tay của Manu dần đập đều trở lại. Tuấn lấy tấm chăn có sẵn trong xe phủ lên người Manu. "Anh muốn biết pok ruông là gì phải không? Cứ ngồi với tôi một chút, tôi sẽ kể cho anh nghe".

Tuấn là người phóng túng, nhưng khi cần anh biết kiềm chế bản thân. Thôi không quấy Manu nữa, anh ngoan ngoãn ngồi bên bà ta trong tấm chăn ấm. Bên ngoài, sương xuống ướt ròng trên kính xe, chung quanh trời đất tối mịt thành một khối đen vô tận.

***

Kalang Nga vừa đi vừa thút thít khóc. Lúa đã về nhà rồi, chỉ còn nửa con trăng nữa là đến Tết. Tế thần Yang Tro xong, cả nhà sẽ được ăn cơm mới. Nhưng năm nay thì không được rồi. Nhà Aviet đã giục đón dâu, chỉ năm sáu bữa nữa là phải ra đi. Kalang Nga mười hai tuổi. Cả bản làng khen cô đẹp, phơi phới như lúa đầu mùa. Những người già nói Kalang Nga giống mẹ. Mẹ chỉ còn là người đàn bà đen đúa, gầy còm sau nhiều năm vất vả. Vậy mà ngày còn trẻ mẹ Kalang Nga nổi tiếng đẹp nhất vùng, có tài dệt thổ cẩm rất khéo, cha Kalang Nga đã phải đi vay ở nhà Aviet để nạp tiền "văn" - tiền thách cưới - mới đủ. Vì món nợ ấy, Kalang Nga vừa lọt lòng đã được chủ nợ đặt cọc. Bây giờ, mẹ Kalang Nga đã chuẩn bị cho con váy, áo và chiếu nằm. Kalang Nga bứt tóc van vỉ. "Cho con ăn cơm mới ở nhà ". Mẹ Kalang Nga lắc đầu:

- Không được đâu. Nhà trai đòi đón dâu từ hồi con năm tuổi. Khất nhiều nhiều rồi, không khất thêm được đâu.

Cha Kalang Nga thì trừng mắt bảo con:

- Mày làm dâu nhà Aviet là có phước lắm rồi, làm dâu nhà sang, được đeo dây Katteng ngàn sợi, không hơn ở nhà khó quanh năm ăn củ nưa à. Người lớn đã nói vậy, Kalang Nga chỉ còn biết nuốt nước mắt thôi. Bên nhà Aviet đã nối thêm gian mới. Aviet Khất giàu có, nhiều vợ, nhiều con cháu, nhà dài đến chín gian. Kalang Nga chưa đến gần bao giờ, nhưng cô bé sợ ông ta, sợ lắm. Aviet Khất là người thợ săn hùng mạnh và cũng rất hung dữ. Một lần khi lên tám tuổi, Kalang Nga đã nhìn thấy người vợ thứ ba nhà Aviet bị xử tội. Người đàn bà bị buộc vào sau ngựa và bị kéo lê đi khắp xóm, thân hình đầy máu.

Một hôm trước ngày đón dâu, cô bé đã chạy đến nhà Pasieng Rêm, người lái buôn thường về xuôi buôn bán sau mùa gặt. "Bác Rêm, cháu có nhiều đồ quý, bác bán giùm cháu được không?" Cô bé vừa hổn hển nói vừa quỳ xuống, buông vạt váy mà cô đang lật

lên, khư khư bụm lấy trước bụng. Một mớ hòn cuội trong, nhẵn bóng đổ ra trên sàn. Đó là tất thảy những viên cuội đẹp nhất mà cô bé Kalang Nga nhặt được trong những lần đi cõng nước ngoài suối trong suốt năm năm.

Pasieng Rêm ngạc nhiên. "Mày muốn gì?". Kalang Nga năn nỉ:

- Cháu nghe nói bác về xuôi, đem vật quý của rừng về đổi gạo, muối, bạc. Cháu muốn nhờ bác đổi những thứ này lấy bạc.

- Những hòn cuội, người Kinh họ không thích, mày cất đi mà chơi. Vả lại mùa này ta không đi buôn, đã có ông bạn người Kinh đây đem saphia, nồi đồng, thanh la, muối lên cho ta rồi.

Hy vọng tiêu tan, Kalang Nga rã rời quỳ phục trên sàn, không đứng dậy nổi. Cô không biết rằng trong tư thế ấy trông cô rất đẹp, tấm zèng ngắn quàng từ ngực xuống đầu gối co lên để lộ đôi chân tròn và bóng mượt như thân chuối non. Nước mắt cô chảy từ cằm xuống vành ngực bầu bĩnh sau đường hoa văn căng tròn trên tấm thổ cẩm. Người lái buôn miền xuôi ngồi bên gùi hàng nhìn cô đăm đăm... Khi Kalang Nga lượm lại những viên sỏi, buồn bã xuống đến chân cầu thang, một bàn tay giữ bờ vai cô lại.

"Tội nghiệp em. Em đừng sợ, tôi thương em lắm". Trong bóng tối, trên bàn tay người đàn ông hiện ra một vật lấp lánh sáng. Một chiếc nhẫn màu xanh. "Ngọc đấy".

Lần đầu tiên cô bé thấy một vật quý như vậy. Hai mắt cô không thể rời khỏi ánh xanh huyền ảo của nó. "Em ra gặp tôi ở bờ suối ngoài bìa rừng. Tôi sẽ giúp em".

Kalang Nga đã nghe dân làng nói về saphia và ngọc. Chúng rất quý, chỉ những nhà rất giàu mới có được. Nhưng cô bé cũng hiểu, lời hẹn ngoài rừng có nghĩa là gì. Cô run lên, giọng khàn đi:

- Tôi sợ lắm.

- Đừng sợ. Tôi thương em lắm mà. Từ chiều mai em có thể trả cho Aviet Khết gấp bốn gấp năm lần tiền "văn", còn phải sợ ai nữa.

Kalang Nga vã mồ hôi ra, em không biết luật tục sẽ xử trí như thế nào trong trường hợp này. Em muốn về nhà hỏi mẹ, nhưng không thể được, viên ngọc xanh như có sức thôi miên. Cô bé đờ đẫn bước đến gần, mắt dán vào chiếc nhẫn.

Kalang Nga ra bìa rừng. Người đàn ông chờ cô bên bờ suối. Cô bé sợ hãi và đau rát. Dù xinh đẹp phổng phao, nhưng cô cũng chỉ là một đứa trẻ. Một đứa trẻ đã biến thành đàn bà. Từ nay cô là một dạng trẻ con - đàn bà; đàn bà vì hai lẽ, cô đã biết đàn ông và đã có nữ trang.

Nhưng món nữ trang không dễ bán. Pasieng Rêm lầm lì cầm chiếc nhẫn, soi trước ngọn lửa, rồi bảo:

- Mày ngu quá. Đây không phải ngọc, chỉ là viên ve chai thôi. Tao trả mày ba đồng xu thôi.

Kalang Nga kêu lên thất thanh: "Không, nó là ngọc mà" "Tao đã bảo là ve chai" Pasieng Rêm giận dữ quắc mắt, nắm chặt nó vào bàn tay lão. Kalang Nga cũng không chịu thua, cô bé lăn vào, mắm môi, giật bằng được chiếc nhẫn. Cô quay mình, chạy băng băng xuống cầu thang, đuổi theo người đàn ông miền xuôi.

Ở cuối bản làng, gã miền xuôi đang buộc hai gùi hàng vào hông xe máy, chuẩn bị lên đường. Kalang Nga đâm bổ đến, tóc cô rũ rượi. "Pasieng Rêm bảo tôi, đây là chiếc nhẫn giả". Người đàn ông tức giận:

- Pasieng Rêm nói gian. Cái nhẫn đó quý lắm.

Kalang Nga lắc đầu, nước mắt đầy mặt:

- Tôi chỉ cần ba mươi nén bạc trắng thôi. Ông mua cái nhẫn cho tôi đi.

Gã lái buôn biết, cứ đôi co thế này thì dân trong bản sẽ đổ ra, tai họa sẽ ập xuống đầu cả hai. Bỗng một thoáng, trong óc người đàn ông lóe lên một ý nghĩ táo bạo, hắn ta xốc Kalang Nga lên, đặt ngồi lên xe trước mặt hắn và rồ máy...

Kalang Nga bị bắt cóc khi chưa về nhà chồng. Cha mẹ cô bé chẳng bao giờ có đủ tiền để trả của cho nhà Aviet.

***

Manu dừng kể. Trong đêm vắng, Tuấn nghe tiếng sương rơi lộp bộp trên trần xe.

"Rồi họ ra sao? Người Tà Ôi xử sự với họ như thế nào?"

"Luật Tà Ôi với tội bội hôn rất nghiêm khắc. Dù nhà gái có chạy đến góc biển chân trời nào cũng khó mà thoát, nhất định phải đền của cho nhà trai... Có khi còn bị chém giết... Pok ruông là như thế đấy". Cái rùng mình của Manu sát bên Tuấn khiến bất giác anh cũng thấy sởn gai ốc, cảm thấy như uy lực của ngôi nhà mồ Tà Ôi đang ngự trị đâu đây sát bên anh, trong bóng đêm.

"Còn Kalang Nga? Cô ta sau này ra sao?"

"Nhiều chuyện xảy ra với con bé, kể thì dài lắm. Cuối cùng, nó được đưa vào cô nhi viện của các nữ tu dòng Mến Thánh Giá. Sau đó thì được một người Pháp nhận làm con nuôi".

Bên ngoài xe, bóng đêm loãng dần, tiếng sương rơi thưa đi. Những rặng cây xa xa lờ mờ hiện ra trước một quầng sáng đang ửng lên: Mặt trời sắp mọc. "Kalang Nga lớn lên ở Paris, được học hành tử tế. Nó dần dần quên hẳn quá khứ. Khi mọi chuyện đã vượt quá sức một người, người ta chẳng còn cách nào hơn là quên đi để sống lại một đời khác.

Nhưng rồi sau nhiều năm, Kalang Nga bắt đầu có những thông tin từ nguồn cội của mình. Aviet Khết đã không giết và cũng không đòi nợ cha mẹ nó. Hóa ra ông ta không hoàn toàn khủng khiếp như nó tưởng. Trước chủ làng, ông ta nói họ không có tội".

"Kalang Nga kể với chị như thế sao?"

- Vâng. Theo tôi, ông ấy đã có suy nghĩ vượt hẳn những người cùng thời trong bộ tộc, ông đã phát hiện cái mà bây giờ ta gọi là trách nhiệm cá nhân. Tuấn gật gù, không nói.

"Từ đó Kalang Nga không hề ngủ được, tâm thức Tà Ôi sống dậy trong nó. Nhiều đêm nó mơ thấy mình bị chủ làng kéo lê trên mặt đất trong lễ rửa nhục. Anh biết đấy, người Tà Ôi không chịu ảnh hưởng đạo Nho như các anh, họ không có những quan niệm về lễ giáo. Với họ điều quan trọng là luật tục. Kalang Nga không thể sống yên khi chưa đền cho Aviet Khết ba mươi nén bạc trắng..."

- Còn chiếc nhẫn? Nó là giả hay thật?

Manu đưa bàn tay ra. "Anh nhìn xem. Nếu quả thực nó chỉ là một hòn thủy tinh, thì có thể nói Kalang Nga là một con ngốc không?"

- Không những ngốc mà là điên! Nhưng dù sao cũng hiểu được, vì đấy chỉ là một cô bé miền núi chất phác, trong một hoàn cảnh rất bức bách.

"Còn anh?" Manu tủm tỉm cười.

Tuấn không hiểu người đàn bà muốn nói gì, anh hơi ngỡ ngàng. Nhưng đúng lúc đó, điện thoại di động trong túi anh rung lên, những hồi rung dài, nối tiếp nhau, dai dẳng và khắc khoải.

Bên ngoài xe, trời đã sáng bạch. Tuấn nhớ sực ra, giờ này chắc Liên đang cuống cuồng đi tìm anh. Đã sáu giờ sáng. Tuấn bứt tóc: "Trời ơi, mình điên, điên thật rồi". Giờ nạp lễ được ấn định là chín giờ. Từ đây về thành phố phải mất bốn giờ, nghĩa là anh đã cầm chắc trễ. Nhưng thôi hãy gắng một lần, nếu chạy xe nhanh, thật nhanh...

Anh không lý giải được vì sao ở ngoài vùng phủ sóng mà điện thoại anh lại bỗng dưng bắt được tín hiệu. Về sau Tuấn mới biết: Thật may mắn, ngày hôm ấy là ngày sóng di động bắt đầu được phủ rộng trên vùng rừng núi phía tây. Đã bốn mươi năm qua từ câu chuyện của Kalang Nga đến câu chuyện của anh, nhưng sức thôi miên của chiếc nhẫn màu xanh thì vẫn không hề khác.

***

Liên gần như bật khóc khi vào phút cuối Tuấn lao mình vào nhà, tóc tai phờ phạc vừa đúng lúc họ nhà trai đang tiến vào cổng nhà gái chuẩn bị nạp lễ. Suýt chút nữa thì đám hỏi đã được hoãn lại, nếu cha của chú rể không liều mạng nhất quyết cử hành, với niềm hy vọng ông con trai quý hóa sẽ về vào phút chót.

Mấy hôm sau, Tuấn đi làm. Manu đã rời Huế đi Hà Nội. Người quản lý chuyển cho Tuấn chiếc phong bì và một cái hộp nhỏ. Trên phong bì là tên người gửi: Nghệ sĩ múa Manuelle Hardy, nghệ danh Manu le Cygne. Tuấn nhíu mày: le Cygne trong tiếng Pháp chính là Kalang Nga trong tiếng Tà Ôi, nghĩa là con ngỗng trời (thiên nga).

Trong hộp là chiếc nhẫn màu xanh. Tuấn nhìn kỹ nó, nhưng thật lạ, không có vẻ huyền ảo như lần đầu anh nhìn thấy, hôm nay trông nó trơ trụi và thô thiển hơn nhiều lắm.

Anh mở phong bì, đọc thư:

"Đêm qua tôi đã ngủ được một giấc ngon lành, hơn mười năm nay tôi mới được ngủ như thế. Anh thực sự là một người bạn đường dễ mến, vì vậy tôi rất cảm ơn anh và muốn nhờ anh một việc nữa. Tôi gửi lại anh chiếc nhẫn này. Sau khi sang Pháp tôi vẫn khư khư giữ nó, rồi khi lớn lên, khi đã biết chắc mười mươi chỉ là một hạt ve chai, tôi vẫn không thể vứt đi được. Có lẽ tôi đã trả cho nó một giá quá đắt nên không thể chấp nhận cái ý nghĩ rằng nó là một vật vô giá trị. Anh hãy làm việc đó giùm tôi nhé".

Tuấn cầm chiếc nhẫn lên, đeo vào tay, không thấy nó phát ra ánh xanh lấp lánh nữa. Hóa ra vẻ huyền ảo ma quái ấy có nguồn gốc từ sự tham muốn trong anh, chứ không phải từ chính nó.

Anh về nhà, lúc đi ngang hòn non bộ trong sân, anh dừng lại. Manu không biết rằng anh cũng suýt trả cho nó một giá đắt, vì thế giờ đây cầm nó trên tay anh cũng lưu luyến một cách vô cớ. Nhưng phải nhận lời ủy thác của Manu thôi. Tuấn mỉm cười, thả chiếc nhẫn xuống chân hòn non bộ.

Lắng sâu vào lớp rêu, nó chỉ còn là một viên bi ve lấp lánh vừa đủ để cho lũ cá vàng ngắm nghía mỗi lúc lượn qua.

Bốn khúc một bản tình ca Hôm đó, lần đầu tiên trong đời, nàng có người mời đi dạo dưới ánh trăng thơ mộng xứ Bavaria, xuôi thuyền theo dòng Đa nuýp, cưỡi lạc đà đi shopping ở Phiên chợ Ba tư..., và phóng xe đi ăn cháo cả quả ở Mai Hắc Đế!!!

Hồ Anh Thái Giới thiệu nhân vật A - Chàng Chàng vốn là một người làm nghề xoa đầu trẻ tại một trường sư phạm mà tới 95% học trò là nữ. Sau mười năm có vẻ lăn lộn với nghề (và cả với đám học trò thân yêu) mà chẳng thấy nên cơm nên cháo gì, vào một ngày đẹp trời chàng quyết định dứt áo ra đi tìm một chân trời mới. Số phận run rủi đã xô đẩy chàng tới một văn phòng báo chí có cái tên rất ấn tượng là “Chân trời lúc rạng đông” đến từ tận đất nước Phù tang, với chức danh được in trang trọng ngay chính giữa tấm cạc visit bằng tiếng Anh là “Press Servant”. Nhiều người cứ thắc mắc rằng tại sao một con người thông minh sáng láng như chàng lại chưa tìm đưọc người nâng khăn sửa túi trong số mười mấy khoá học trò mà chàng đã bỏ bao công sức vừa dạy vừa dỗ đó. Hay là chàng có vấn đề bệnh lý gì đó tế nhị mà các cô gái không dám gần? Hoàn toàn ngược lại. Theo lời chàng tâm sự, trong một lần nhậu hơi quá chén, cái hành trang tình yêu của chàng cũng nặng ra phết, nói phải tội chứ nếu chàng xuất cảnh theo diện đoàn tụ gia đình “hụt” (nghe bảo một trong những cô học trò yêu của thầy đi xuất khẩu lao động sang Nga hiện vẫn đang đánh hàng chủ yếu là đồ lót từ Mát về các vùng quê xa xôi) thì chắc chắn phải thuê hẳn một công tai nơ loại 40 feets chiều cao mới chứa hết. Thế nhưng cái số chàng nó mạt, cứ muộn nhất là đến cuối năm học thầy lại đường thầy, trò đường trò. Cũng chẳng dám bận tâm lắm bởi “con chị nó đi, con dì nó lớn”, cứ mỗi năm chàng nhúp một cô. Xin phép được trích dẫn ra đây một vài mối tình để khỏi mang tiếng cho chàng là người điêu ngoa, ăn không nói có, một căn bệnh nghề nghiệp mà thiên hạ thường ác ý gán cho những người làm báo như chàng. Mối tình thứ nhất đến khi lần đầu tiên chàng bước chân lên bục giảng. Cái giọng trầm, ấm áp và cài phong thái có vẻ phớt học trò của chàng khi dạy một bài thơ tình nổi tiếng của Đại Thi hào Puskin đã làm rung động trái tim khờ dại của một thôn nữ ngây thơ lần đầu tiên bước chân ra Thủ Đô. Suốt năm học đó, trong suốt các tiết học cô nàng chẳng làm được điều gì khác ngoài việc ngước cặp mắt đắm đuối nhìn thầy, đôi môi luôn mở trong tư thế sẵn sàng ăn vã từng “lời vàng ý ngọc” phát ra từ miệng thầy. Sự đam mê đến cuồng dại của cô học trò như tiếp thêm lửa cho những lời giảng của thầy, làm bùng lên tình yêu nghề nghiệp vốn đã rất dễ bén lửa của một thầy giáo mới ra trường, và kết quả là hầu như tiết nào thầy cũng bị cháy giáo án. Mối tình đầu bốc lửa đó bị dội một xô nước rửa bát, chuyện thường ngày ở khu nội trú sinh viên, vào một buổi chiều cuối năm tây. Hôm đó, cô nàng vào phòng thi vấn đáp, nói tiếng “lào” ra tiếng “ý”, bị đánh trượt, phải trở về quê làm nông nghiệp. Vài tháng sau, chắc vì vẫn chưa nguôi ngoai được cái kỷ niệm vừa giàu chất thơ vừa phũ phàng của mối tình đầu, nàng quyết định lấy quách một anh chồng làm nghề xe thồ. Nghe đâu bị ngược đãi kinh lắm: cứ trung bình một tuần một trận đòn, nửa tháng một lần bị dìm xuống ao, và một quý một lần bị quấn tóc treo lên xà nhà. Kể cũng tội, vì nàng chăm ơi là chăm: chăm làm, chăm ăn, chăm khuyên nhủ chồng,

chăm răn dạy con cái, chăm góp ý với hàng xóm, và cả chăm đẻ nữa (thấy bảo hai vợ chồng đã có với nhau năm thằng cu cái hĩm rồi). Phải mỗi cái tính lơ đễnh: ai đời đang ngồi quấy cám lợn, hay nhồi bánh đúc vào diều vịt cho chồng thồ ra Hà Nội bán, thỉnh thoảng lại đần mặt ra, rồi bất thần ngâm vống lên mấy câu thơ (thầy đã đọc tặng khi nàng từ tận quê lên trường mời thầy về ăn cỗ cưới), làm thằng chồng cứ tưởng xỏ xiên gì nó, nó đánh cho. Thương lắm! Xin được mạn phép thầy được đọc ra hai câu thơ đó ở đây để mọi người cùng phán xét cái bệnh ghen vô lý của một gã chồng thượng cẳng chân hạ cẳng tay: Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm Cầu cho em được người chồng như tôi đã yêu em Mối tình thứ hai là với một cô nhà ở làng hoa Nhật Tân, có cái tính cách mạnh mẽ đặc thù của dân ngoại đê. Mến thầy, bằng cái giọng vừa năn nỉ, vừa nũng nịu, cô nằng nặc xin được đến nhà thầy học phù đạo vào buổi tối. Cứ sau mỗi buổi học (thường kết thúc vào gần mười giờ đêm), cô lại chơm chớp mắt thỏ thẻ nhờ thầy đưa về. Tuy lúc đầu hơi ngại, nhưng nghĩ thân gái hơ hớ như thế đi đêm trên đê một mình nói phải tội chứ ngộ nhỡ có thằng nào nó liều thì phí một đời hoa, mà mang tiếng cho mình, thầy cũng tặc lưỡi gật bừa. Những cuộc đi dạo dọc con đê của hai con người “già nhân ngãi non thầy trò” này đã không may bị gián đoạn vô thời hạn do một sự cố bất ngờ. Đó là vào một đêm tháng Củ Mật, trời không giăng không sao. Sau khi đưa cô học trò yêu về nhà, đang túc tắc vừa đạp xe vừa chóp chép cái dư vị ngọt như mật hoa, hít hít cái dư hương thơm như hương như hoa của nụ hôn chia tay (thời đó nụ hôn không bị pha trộn vị gây gây của thịt chó và mùi găn gắt của mắm tôm như bây giờ - chú thích của tác giả), thầy bỗng cảm thấy có một vật gì cứng đập đánh bốp một cái vào trán. Một giải sao băng bỗng phụt loé lên trước mắt thầy trước khi đưa thầy vào cõi vô thức. Khi tỉnh dậy, quờ quạng khắp nơi thì thấy đầu, cổ, chân tay vẫn còn đủ cả. Chí có cái xe “Sputnik”, chiếc đồng hồ “Raketa”, chiếc áo bay và đôi giày cô-xư-ghin, gia tài dành dụm suột một năm đi Nga của thầy, đã theo giải sao băng bay vào vũ trụ bao la. May mà chiếc quần xibata sờn do đã bị tích kê hai miếng ở mông là còn sót lại. “Thôi của đi thay người” - thầy tự an ủi. Thế rồi bước thấp bước cao, co ro cúm rúm, thầy quá bộ về nhà, vừa đi vừa hát, hát cho đỡ lạnh, hát cho đỡ sợ, Đêm đông, ta lê bước chân không giầy trên đê Có ai thấu tình cô lữ đêm đông lưng trần Thầy phải nghỉ mất hai tuần để đi bệnh viện thẩm mỹ lại cái trán, nhưng dấu tích của chấn thương xương sọ thì vẫn còn lại đến tận bây giờ: phần tóc phải cạo khi giải phẫu đã không thể nào mọc lại được nữa. Mối tình thứ ba là với cô gái thuộc một gia đình Hà Nội cổ, nền nếp, gia giáo. Sau hơn nửa năm quen nhau, cô mới nhận lời đi chơi công viên Thủ Lệ với thầy, và dứt khoát đòi được ngồi ở chiếc ghế đá đặt dưới cột đèn cao áp. Trong lúc thầy đang say sưa thổ lộ tình cảm, cô học trò cứ cúi gầm mặt xuống đất. Thầy hỏi gì cô cũng cứ im lặng, dứt khoát không ngẩng đầu lên thầy lấy làm lạ, bèn ngó thử xuống xem dưới chân có cái gì thu hút

mạnh hơn cả giọng nói, nét mặt và cả đôi tay đang miệt mài bộc lộ tình cảm của mình. Thầy chợt choáng váng khi nhận ra rằng, trong khi vội vã đến điểm hẹn của tình yêu, thầy đã mang nhầm đôi bít tất rách, thò cả hai ngón chân cái ra ngoài. Vừa xấu hổ, vừa tự ái, thầy đứng bật dậy, phăm phăm ra lấy xe về một mình. Khi một người bạn đã nhiều lần trải qua những ca hiểu lầm kiểu này chân tình khuyên nhủ chàng thì chàng quát lên: - Với tư cách cá nhân tôi có thể tha thứ được sự thiếu nghiêm túc đó, nhưng với tư cách một người thầy thì không đời nào. Không thể nào chấp nhận được cái thái độ thiếu tôn trọng đối với một nghề nghiệp cao quý như nghề của chúng ta. Đây thuộc về phạm trù quan điểm. Đấy rồi ông xem, còn tôi, còn ông, cô này mà trở thành một cô giáo tử tế thì tôi sẵn sàng nuốt chửng đôi bít tất hôm nọ. - Ông dốt bỏ mẹ, chẳng hiểu tâm lý phụ nữ gì cả, anh bạn phá lên cười, thế mà cũng mang tiếng là kỹ sư tâm hồn. Người ta đường đường là con gái nhà lành, mới đi chơi lần đầu tiên mà ông tỏ tình bằng một dose mạnh như thế, bé sợ, không dám ngẩng lên nhìn cái mặt ông là phải. Tôi nói cho ông biết nhớ, không hạ đường huyết rồi ngất xỉu ngay tại chỗ là phúc tổ mấy đời nhà ông rồi đấy. Cô bạn của bé vừa mới mách nhỏ cho tôi là bé rất thích ông. Mà con gái là thích thì áo rách, quần rách họ cũng chấp nhận được chứ đừng kể đến bít tất rách như ông. Thôi đừng sĩ diện hão nữa, ông giáo Thứ, đến làm lành với bé đi. Nếu chưa mua bít tất, lấy bít tất mới của tôi mà xỏ. Hàng ngoại nhé Made in China hẳn hoi. Nhưng không không là không, đấng quân tử nhất ngôn nay vẫn kiên quyết bảo lưu ý kiến của mình. B - Nàng Nàng, từng là một cô giáo nuôi dạy hổ, do chán chinh phục cái thế giới đầy những tiếng quậy khóc, la hét đơn ngữ, sặc cái mùi tanh đặc trưng của mồ hôi trẻ con pha lẫn mùi toa lét, đã tìm đến một nơi huyền ảo hơn với những tiếng ồn đa ngữ và mùi thơm của khói thuốc lá, cùng với một thách thức mới là chinh phục thế giới người nhớn. Cho đến thời điểm chàng xuất hiện, nàng cũng kịp nhét vội vào trong cái rương đựng của hồi môn mang về nhà chồng của mình vài ba cái bọc tương tư. Anh chàng thứ nhất làm phù rể cho một đám cưới mà tình cờ nàng được mời làm phù dâu. Trong khi chú rể trao hoa, trao nhẫn và trao nụ hôn cho cô dâu, chàng phù rể cũng kịp trao cho nàng phù dâu mươi cái nhìn tình tứ, một tá nụ cười đầy ẩn ý, và thậm chí còn kịp dẫm vào chân nàng một cái. Họ cũng có dịp đi chơi với nhau dăm bảy lần trước khi chàng phải đi Sài Gòn công tác khoảng nửa năm. Thấy nàng chạy chiếc xe 81 đời đầu đã lên tới cốt 3, lại còn bị lệch càng (do đâm vào vỉa hè khi nhận được lời tỏ tình một gã lái xe lam), anh chàng có nhã ý muốn cho nàng mượn chiếc xe Astrea chưa hết thời hạn rốt đa. Nàng từ chối, nhưng anh chàng cứ để xe lại ở cơ quan nàng, và gửi chìa khoá lại chỗ thường trực nhờ chuyển hộ. Lòng tự trọng của một người con gái không cho phép nàng dùng chiếc xe của một người con trai mà nàng chưa nhận lời chính thức, tuy trong lòng đã cảm thấy xốn xang. Chiếc xe có lẽ cứ đành phải

nắm sưu tầm bụi giết thời gian ở nhà để xe cho tới khi anh chàng từ Sài Gòn ra, nếu như ba tháng sau ông thường trực không chìa ra cho nàng tờ invoice báo tiền gửi xe quý. Tính ra mỗi tháng nàng phải trả hơn 300 ngàn đồng (ở đây người ta tính tiền trông xe là 1 Mỹ một ngày đêm). Làm cho người nước ngoài cũng có cái khổ thế đấy! (Chứ không phải như ai vẫn tưởng bở?!) Phải công nhận cái nhà anh Xuân Diệu là hơi bị giỏi khi thốt lên: Yêu là mất ở trong mình một tí Vì mỗi khi yêu thì ví lại rơi... Của đau con xót, xót cho cả mình, xót cho cả anh bạn ngày nào cũng tốn tiền điện thoại liên tỉnh gọi ra thúc giục, van nài dùng xe, nàng nhấc ngay phone gọi đến cơ quan anh chàng hỏi thăm địa chỉ nhà riêng, và thuê hẳn một chuyến taxi tải Thành Hưng chở chiếc kỷ vật của tình yêu mang trả. Kết cục câu chuyện tình theo cách đó làm cả hai sau này đều thấy hụt hẫng. Chỉ có cha mẹ chàng trai là mừng, mừng như bắt được của! Chả là khi con đi Sài Gòn, không thấy để xe ở nhà, gọi điện hỏi thì cu cậu cứ ấm a ấm ớ, hai cụ nghi ngay. Cụ bà tru tréo lên với cụ ông: - Tôi biết ngay mà, cái thằng gà gô nhà mình lại phải lòng con phải gió nào rồi, hồn vía để trên mây, quên khoá xe để trộm nó lấy mất. Thảo nào, suốt một tuần thấy con về muộn, tôi hỏi thì nó cứ nhe nhởn ra cười. Hôm trước khi nó ra tầu, tôi cứ hỏi một đằng nó trả lời một nẻo, tôi đã thấy ngờ ngợ. Thật khổ cái thân già này, có mấy mẫu đất hương hoả ở quê bán tất cho con mua xe. Chúng con ăn ở xưa nay có đều tiếng gì đâu mà giời lại hại chúng con thế này, hở giời? Cái thằng ôn vật kia, mày mà vác cái mặt thớt của mày về thì mày biết tay bà! Bỗng dưng hôm đó, có một cô mặt mũi nghiêm trang như chụp ảnh chứng minh thư đến hỏi đúng tên tuổi, địa chỉ con mình, lại đề nghị được xem hộ khẩu, và trước khi giao xe còn bảo làm giấy biên nhận ghi rõ các bộ phận dễ tháo như cốp, xi nhan, gương, mặt nạ, đồng hồ, hay ổ khoá điện vẫn đầy đủ, hai cụ đoán ngay ra nàng là cảnh sát hình sự ăn mặc cải trang. Có mấy cân khoai sọ và một hũ tương ở quê mang ra biếu, cụ bà cho hết vào cái bị cói, và dúi vào tay nàng bắt nhận cho bằng được. Cụ bà còn xin địa chỉ “để khi nào em nó đi công tác về, vợ chồng chúng tôi sẽ bảo ngay nó đến cám ơn và hậu tạ chị”. Nàng chỉ lí nhí từ chối, và leo lên xe đi thẳng. - Các anh chị công an bây giờ tốt tốt là, thiên hạ họ nói thế nào ấy chứ, - hai cụ cứ tấm tắc khen mãi. Ngay hôm đó cụ ông đã viết lời cảm ơn gửi cho Đài THTW và Đài THHN, và tận cả mấy báo của ngành công an nữa. Anh chàng thứ hai là một thợ chuyên chữa máy photocopy. Khi lần đầu tiên đến chữa máy cho văn phòng nàng, uống có mỗi cốc sữa tươi do nàng pha mà anh chàng này đã như bị bỏ bùa mê, thuốc lú. Ai đời máy vừa chữa xong được ba ngày đã vội gọi điện hỏi xem đã hỏng lại chưa. Và từ đó cứ đều đặn mỗi tuần hai lần, vào thứ tư và thứ bảy, văn phòng đều nhận được lời hỏi thăm đầy tinh thần trách nhiệm về tình trạng sức khoẻ của chiếc máy photocopy. Vô phúc cho anh cu này là mấy lần sau gọi đến văn phòng đều gặp phải ông phân xã trưởng, một người đàn ông đầu tròn như quả bí ngô, tóc lơ thơ mấy sợi,

mặt lúc nào cũng xị ra như bị, lại xa vợ đã lâu nên rất ghét nghe những chuyện trai gái tầm phào. Đến lần thứ ba trong vòng có mươi ngày mà phải trả lời cùng một câu hỏi, ông này đã gằn giọng xuống trong máy điện thoại: - Anh hãy nhớ kỹ điều này: máy Nhật là siêu bền, chỉ có sức chịu đựng của người Nhật là có hạn thôi. Nghe nói sau này mỗi khi máy có trục trặc cái nhà ông Nhật Sằng này lại đích thân vác máy đến cửa hàng để sửa. Anh chàng thứ ba là một văn sĩ khá nổi tiếng, học cao biết rộng, viết lắm in nhiều, chỉ có mỗi cái tật nhỏ là không biết đi xe máy. Cứ mỗi lần đi chơi là nàng phải đèo, còn anh chàng ngồi sau ôm chặt lấy nàng chắc vì sợ ngã. Lúc đầu nàng cũng thấy chướng vì bị mọi người trêu chọc, nhưng anh chàng rất khéo vỗ về, nên nàng cũng đánh chữ “kệ” cho xong. Duy có một lần vào mùa mưa ở Hà Nội, xe bị ngập hết bánh, chết máy, nàng phải xuống đẩy bộ. Anh chàng văn sĩ đã không nhảy xuống đẩy giúp nàng thì thôi lại còn co chân lên ngồi xổm trên yên sau (chắc là sợ nước làm bung đế đôi giầy nàng vừa mua tặng). Sau khi đã an toạ ở vị thế mới, cảm hứng nghệ sĩ nổi lên, anh chàng vừa rung đầu gối đánh nhịp, vừa cất tiếng hát não nùng, xót xa cho những vất vả, gian truân mà nàng đang trải qua: Hà Nội mùa này lắm những cơn mưa Váy ngắn, giầy cao, chân em dầm trong nước lạnh Mưa vẫn rơi rơi, ta bên nhau một chiều lướt thướt Thật khổ em tôi, lặn lội cái thân cò... Dân tình đi đường trông thấy nghịch cảnh đấy đã không nhịn được cười, lại nghe anh chàng ngẫu hứng hát thì đồng loạt vỗ tay, hò reo “bis, bis...”, ầm cả hai bên đường. Nàng chẳng nói chẳng rằng đẩy nghiêng xe một cái làm chàng văn sĩ ngã tùm xuống nước. Chàng ta phải hụp lặn ở cái bể bơi lưu động đó mất hơn nửa tiếng mới tìm thấy cái kính cận đã bị vỡ mất một mắt, và đến gần nửa đêm cũng lần mò về được tới nhà. Nghe bảo anh chàng ngã bệnh, nằm liệt giường mất gần một tháng, trong cơn mê sảng cứ hát đi hát lại điệp khúc về mưa. Con người cao thượng này chẳng những không giận gì nàng mà trái lại còn yêu tha thiết hơn, tuy nhiên từ đây chỉ là tình yêu đơn phương, vì chẳng bao giờ nàng còn đến đón chàng đi chơi nữa. Ngày nàng lên xe hoa, tuy không được mời nhưng dò biết được qua bạn bè nàng, bất chấp cái cảm giác nhức nhối của vết thương lòng đang ngày một há to miệng, chàng văn sĩ thuê hẳn một chuyến xe ôm khứ hồi, hiệu Angel đời chót, đến dự đám cưới. Sau khi cơm rượu no say, văn sĩ lừ lừ khiêng bộ mặt đưa đám tới gần bàn cô dâu chú rể chúc mừng hạnh phúc, và tất nhiên là không quên dúi vào tay nàng một chiếc phong bì. Sau tuần trăng mật, khi kiểm kê chiến lợi phẩm, nàng phát hiện ra trong chiếc phong bì đó thay vì tiền mừng là một mảnh giấy được cắt tỉa theo hình một trái tim đã te tua, trên đó ghi đôi dòng thơ: Sông đã ra biển rồi, sao dòng vần thao thiết chảy Em đã có chồng, sao tôi vẫn tương tư

Những mối tình như vậy đi qua đời nàng để lại một chút xao xuyến, bâng khuâng cộng với một tí ti hụt hẫng, nhưng không hề khiến nàng thất vọng, hay tìm đến làm bạn với seduxen. Thử một tí chơi cho biết, chứ nàng không thể quên được cái mục tiêu đã được khối óc, con tim và cái bản năng đàn bà của nàng thông qua với 66% phiếu thuận là tìm một tấm chồng cho ra tấm chồng, “bõ công trang điểm má hồng, môi son”! Câu hát ru của bà ngoại khi nàng còn bé vẫn còn như văng vẳng bên tai: Tình như bát bún riêu cua Trông qua đầy hụ, ba lùa hết ngay! Ai đã từng ăn bún riêu cua hẳn không thể quên được cái bát có hình dáng đặc biệt dành riêng cho loại đặc sản vỉa hè truyền thống này, được gọi bằng một cái tên rất “mơi” là bát yêu! Đó là một cái bát có miệng loe to tướng, lòng hóp lại đột ngột. Trên cái miệng loe đó, người ta nhìn thấy đủ cả bảy sắc cầu vồng: sắc tím của tía tô, sắc xám của mắm tôm, sắc xanh của hành lá, sắc nâu của thịt cua, sắc đỏ của cà chua, sắc da cam của gạch cua và sắc vàng của váng mỡ, tất cả nỏi bật trên cái phông trắng mịn của sợi bún. Người chưa từng ăn bún riêu cứ ngỡ sẽ thoả mãn được cái dạ dày háu đói của mình khi nhìn thấy một bát bún riêu đầy đặn như vậy. Nhưng, chẳng phải nói ngoa, đúng ba lần dùng đũa lùa bún vào mồm là sạch sành sanh bát. Nàng đã ăn đến bát thứ ba mà vẫn chưa thấy bõ bèn gì. Đúng là các cụ nói phải, chẳng gì bằng cơm, phải có tí bụng mới khỏi sôi. Sau này chán cơm ăn bún thì lại đi một nhẽ! Hà nội đêm trở gió Chàng gặp nàng ở phòng thường trực một khu building cho các văn phòng nước ngoài thuê, khi ra đó lấy báo. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, linh tính đã mách bảo với chàng rằng Con Tàu Mùa Xuân của chàng sẽ đỗ hẳn ở cái ga thứ 13 này. Chàng là người có đạo nên không bao giờ dám cưỡng lại số mệnh. Vả lại, đã thấy mệt mỏi nên chàng không muốn kéo dài thời gian trên đường làm gì nữa. Chàng mua ngay hai vé nghe nhạc giao hưởng thính phòng, cho vào hai chiếc phong bì, rồi cộp hai cái dấu “Kính Biếu” lên đó. Nhét một chiếc vào ngăn báo của mình, một chiếc bỏ vào ngăn báo của nàng, chàng chờ nàng xuống lấy báo, rồi làm như tình cờ, bước vào mở ngăn báo mình ra. Chàng reo lên khi mở phong bì: - Ồ, tuyệt vời quá! Gửi mua mãi không được vé, hết hy vọng rồi lại nhận được vé mời. Chương trình này cực kỳ, toàn những bản nhạc nổi tiếng thế giới, - chàng giải thích cho ông thường trực lúc đó đang ngủ gà ngủ gật vì người thay ca đã quá ba tiếng rồi vẫn chưa chịu đến. Nàng biết tỏng cái vở bắt quen của anh chàng, nhưng vẫn thấy hơi hiếu kỳ. Lần đầu tiên, nàng gặp một người chưa già lắm mà lại thích nhạc giao hưởng. - Ừ, cứ để yên xem sao, - nàng mỉm cười. Chiều thứ bảy đó, sau khi đá bóng xong, chàng từ chối đi uống bia với anh em đội bóng, phóng ngay về nhà tắm gội sạch sẽ. Chỉnh trang quần áo xong, xịt tí gôm lên đầu, xức tí

nước hoa vào người, chàng đến Nhà Hát Lớn đợi từ sáu rưỡi, tuy buổi hoà nhạc bắt đầu từ 8 giờ. Chàng mua một bịch hạt bí, chọn một chỗ khuất đứng đợi. Vừa chờ đợi, chàng vừa lo nàng không đến, bởi nếu thế không tiến hành test được. Yêu đương gió thoảng thì thôi, chứ một khi đã quyết định xe duyên vợ chồng, ăn đời ở kiếp với nhau thì phải “tét tiếc” cho nó đàng hoàng. Ai đã từng một lần đi nghe giao hưởng đều có thể rút ra một nhận xét này: trong cái tĩnh lặng rất có ý thức của phòng hoà nhạc, và trên cái nền rất du dương của những giai điệu cổ điển, người ta rất dễ buồn ngủ nếu không cảm thụ được loại hình âm nhạc bác học này. Theo ba rem mới của chàng, sau nhiều lần sửa đổi và bổ sung, nếu nàng có ngủ, vẫn có thể châm chước được. Đã từng là một người thầy, chàng đã quá hiểu sự què quặt của nền giáo dục nước nhà. Nhưng điều quan trọng là khi ngủ nàng không được ngáy; chàng là người rất thính tai, một tiếng hắt xì hơi của con thạch sùng cũng có thể làm chàng tỉnh giấc. Tám giờ kém năm phút, nàng lững thững bước lên bậc cổng nhà hát. Thế là yên tâm, cái test có thể thực hiện được rồi. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua, chắc độc giả cũng hồi hộp chẳng kém gì người viết, bởi vì nếu nàng không qua được cái test này thì chắc người viết phải vĩnh biệt độc giả ở đây. Rất may là mọi thứ đã trôi qua suôn sẻ, thậm chí nàng còn đạt điểm xuất sắc đến mức one-man jury, sau khi tranh luận một cách căng thẳng nhưng vẫn công tâm, đã đi đến thống nhất là nàng được miễn examination. Hôm đó, lần đầu tiên trong đời, nàng có người mời đi dạo dưới ánh trăng thơ mộng xứ Bavaria, xuôi thuyền theo dòng Đa nuýp, cưỡi lạc đà đi shopping ở Phiên chợ Ba tư..., và phóng xe đi ăn cháo cả quả ở Mai Hắc Đế!!! Tuy chỉ đi nghe nhạc vào thứ bảy, nhưng thực ra tối nào họ cũng có thời gian ở bên nhau, vì bốn buổi một tuần, chàng luôn đến đón nàng lúc tan học ngoại ngữ, sau khi đi chơi tennis về. Hai tối còn lại chàng đến nhà nàng. Cách đây một năm, nàng đã ghi danh theo học chương trình “Spoken English for tonight” (Tiếng Anh Nói Đêm Nay). Đây là chương trình tiếng Anh vào loại nổi tiếng nhất thế giới dưới góc độ tiện dụng. Nó tạo cho người học một tâm lý cực kỳ thoải mái và chủ động, tự mình cảm thấy khi nào đã đạt đủ trình độ thì xin thi lấy bằng. Chả thế mà có những người mới học có một nửa, thậm chí 1/3 khoá đã được cấp bằng loại ưu. Lại cũng có những người khác, số này ít hơn, học đi học lại tới bốn, năm khoá mà vẫn chưa được cấp bằng. Người ta cứ gọi tắt đó là chứng chỉ “Ai si em?” (ICM), chứ tên đầy đủ của nó là “The International Certificate of Multimedia”, dịch ra tiếng Việt nghĩa là “Chứng chỉ Quốc Tế về Truyền Thông Đa Phương Tiện”. Tệ cái thiên hạ cũng có lắm kẻ rỗi hơi cứ nghĩ xiên nghĩ xẹo, rồi đọc chệch ra thành “The Informal Certificate of Marriage”, tức là Giấy Đăng Ký Kết Hôn Không Chính Thức. Thành thử, đôi khi cũng có những ông bố, bà mẹ nhẹ dạ cả tin, nghe theo luận điệu tuyên truyền của những phần tử xấu, cấm con cái theo học những khoá này. Họ, vô hình trung, đã làm cản trở quá trình hội nhập của lớp trẻ ở Việt Nam. Nhưng mà thôi, ta hãy quên họ đi, hãy để cho lịch sử phán xét họ.

Đến nhà nàng chơi, chàng cảm thấy rất ngại hai ông bà già, người mà chàng đã thầm nhắm làm bố mẹ vợ, nên chẳng dám nói năng gì cả, ngoài hai câu chào lúc đến và lúc về. Ngồi không cũng vô duyên, chàng đành dán mắt vào chiếc TV 14 inches nội địa, màu chập chờn lúc có lúc không. Lâu lâu rồi cũng thành quen, chàng chăm chú theo dõi TV một cách thực sự. Đôi khi gặp những vấn đề hay hay, chàng còn lấy bút chì ra ghi chép để ngày hôm sau có tin cho sếp. Sau hơn nửa năm, mẹ nàng gọi nàng vào bếp: - Trong đám bạn bè con tới đây chơi, mẹ trông thấy có mỗi cái nhà bác này là ưng mắt mẹ. Trông đàng hoàng, tử tế lắm. Phải mỗi cái tội nghèo. - Mẹ biết gì mà bảo người ta nghèo? - nàng hỏi lại. - Thì mẹ thấy đến đây cứ chúi mũi vào cái vô tuyến, chẳng nói, chẳng rằng gì cả, mẹ biết ngay, - bà mẹ phân bua. - Thỉnh thoảng lại còn ghi ghi, chép chép nữa, con ạ. Đàn ông chịu khó học hành, phấn đấu như vậy là có phúc đấy, con ạ. - Nhưng mà con với anh ấy đã có gì đâu mà mẹ cứ cuống lên, - nàng giẫy nẩy lên, mặt đỏ ửng. - Cha bố nhà chị, tôi ngần này tuổi đầu, đã ba lần gả chồng cho các chị của chị, hai lần cưới vợ cho các anh của chị, tôi mà lại không đi guốc trong bụng chị à? Cứ nhìn cái vẻ mừng rỡ của chị khi anh ấy đến, rồi ánh mắt nuối tiếc của chị khi anh ấy về là tôi đoán được hết. Chả phải đợi chị thưa với tôi, - bà vừa nói vừa nheo nheo mắt nhìn cô con gái út. - Mẹ này, - nàng nũng nịu gục đầu vào vai mẹ. - Anh ấy đã nói gì với con đâu. - Thôi chả phải nói. Đàn ông nói in ít thôi. Bố chị ngày xưa cũng thế, - bà trầm ngâm nhớ lại, - Hồi đó, chúng tôi đâu có nhiều thời gian tìm hiểu như anh chị bây giờ. Người ta dẫn ông ấy đến nhà ông bà ngoại chị chơi để làm mối cho tôi. Ông ấy ngồi yên một lúc mà chẳng biết nói câu gì, hay tay cứ hết vặn vào rồi lại vặn ra. Bỗng nhiên, thấy cái điếu cày của ông ngoại chị để gần đó, ông ấy vồ lấy, vê thuốc, châm lửa rồi rít lên sòng sọc. Thấy vẫn chưa biết nói gì, ông ấy làm tiếp hai vê nữa, khói phả vả vào mắt tôi cay cay là. Xong vê thứ ba thì hình như ông ấy hơi say, lại đâm ra dạn. Ông ấy mồi tiếp một vê nữa, châm đóm rồi đưa điếu cho tôi: “Em thử đi, cái tăng điếu này hút đượm lắm!”. Tôi lúc đó chẳng nhịn được cười, ông ấy cũng cười. Rồi phải lòng nhau từ đấy. Chị xem, sống với nhau đã năm mươi năm rồi, có với nhau sáu mặt con, mà đã lần nào to tiếng với nhau đâu. Bà ngừng một tí để nhấp ngụm nước rồi nói thêm: - Chị với anh ấy bàn bạc với nhau liệu lúc nào tổ chức thì tuỳ, nhưng tôi nói trước là sang năm chị Kim Lâu không cưới được đâu nhá. Biết anh ấy nghèo, tôi cũng chẳng thách gì cho nó to tát cả, chỉ lo giúp tôi ít trầu cau, với cân chè Thái để chia cho hàng xóm, họ mạc là được. Cưới xong, nếu bên ấy chật, anh chị dọn về luôn đây mà ở cho vui, còn có

cái vô tuyến cho anh ấy nghiên cứu tình hình. Nàng vừa buồn cười vì mẹ “bé cái nhầm”, vừa vui vì thế là mẹ đồng ý. Nhưng mà tại sao chàng chẳng chịu nói gì cả? Hay là... Chẳng có “hay là” gì cả, chàng cũng muốn nói lắm, nhưng chẳng biết nói thế nào. Những lời tỏ tình trước kia chàng đều cảm thấy không thể diễn tả được cảm xúc của chàng lúc này, cảm xúc của một người rất muốn lấy vợ. Chàng cứ băn khoăn suy nghĩ mãi, mà ngày Nhà Giáo Việt Nam, thời điểm chàng thấy thích hợp nhất để tỏ tình (vì chàng và nàng đều xuất thân từ nghề giáo), đang đến gần. Sáng 20/11, chàng dậy từ 5 giờ sáng, ngồi vào bàn. Viết rồi lại vò đi, vứt sọt rác. Trong gần ba tiếng đồng hồ chàng đã làm hỏng tới 99 cái bưu thiếp. Còn chiếc cuối cùng, chàng đành viết bừa tâm trạng của mình lúc đó: Mỗi thu đi đời anh lại băm thêm một nhát Bởi băm nhiều nên nhát lắm em ơi (Năm nay chàng đã nhận nhát băm thứ bảy - Chú thích của tác giả) Rồi quên cả rửa mặt, chàng phóng vội đến chỗ làm để kịp nhét chiếc phong bì vào ngăn thư báo trước khi nàng đến. Sáng hôm đó, chàng bị sếp phê bình vì điểm nhầm báo ngày hôm trước. Trước khi ra về, chàng nhận được một bức FAX được gửi đi từ Bưu Điện Bờ Hồ, trên đó ghi vẻn vẹn có một câu: “Mẹ em bảo sang năm em Kim Lâu đấy!”. Đám cưới của họ có rất nhiều người tham dự, ai cũng vui mừng trước hạnh phúc của họ, chỉ trừ có anh chàng văn sĩ mà ta đã có dịp đề cập ở phần trên. Hạnh phúc đến quá nhanh làm cả hai đều thấy ngỡ ngàng, không biết là mơ hay thật. Ngay sau đêm tân hôn, chàng phải ra hiệu đặt in tấm ảnh cưới theo cỡ người thật, thuê đóng khung, và treo lên tường, ngay bên trên giường cưới. Kiểm kê xong tiền mừng, sau khi trừ đi các khoản đầu tư và trả nợ, chàng mua tặng bố mẹ vợ một chiếc Panasonic 21 inches, loại stereo đời mới nhất. Hà Nội ơi, sông sênh mùa cưới đợi chờ, Vẫn con đường Khâm Thiên ngày đó Có đôi uyên ương đi dạo trời đêm. Hồng hà ơi, ngực ai khe khẽ phập phồng, Chàng trai ngượng ngùng dụi đầu vào thiếu nữ, Tiếng yêu ngân vang trong trái tim nàng Mộng mơ nay hẹn ước cùng mùa xuân.

Nếu muốn ly hôn, hãy bế em ra khỏi cuộc đời anh

Vào ngày cưới của tôi, tôi đã ôm vợ trên đôi tay của mình. Xe đưa dâu dừng tại trước tổ uyên ương của chúng tôi. Đám bạn thân của tôi nhất quyết bắt tôi phải đưa nàng ra khỏi xe trên đôi tay của mình. Do vậy, tôi đã bế nàng vào nhà. Lúc đó, nàng là một cô dâu tròn trĩnh và e thẹn, còn tôi là một chú rể rất sung sức và tràn trề hạnh phúc.

Nhưng đó là cảnh của mười năm trước. Những chuỗi ngày sau đó cũng giản dị như một cốc nước tinh khiết: chúng tôi có con, tôi bước vào thương trường và cố gắng kiếm thật nhiều tiền. Khi của cải trong gia đình chúng tôi mỗi lúc một nhiều hơn cũng là lúc tình cảm giữa hai chúng tôi suy giảm dần.

Vợ tôi là một công chức nhà nước. Mỗi sáng chúng tôi cùng ra khỏi nhà với nhau và hầu như về nhà cùng một lúc. Con chúng tôi thì học tại một trường nội trú. Cuộc sống hôn nhân của chúng tôi nhìn bề ngoài hạnh phúc đến nỗi nhiều người phải ganh tị. Nhưng thật ra cuộc sống yên ấm đó gần như bị xáo trộn bởi những đổi thay không ngờ...

Dew đã bước vào cuộc đời tôi.

Đó là một ngày đầy nắng. Tôi đứng trước một ban công rộng lớn. Dew ôm vòng sau lưng tôi. Con tim tôi, một lần nữa, lại đắm chìm trong dòng suối yêu đương cùng nàng. Đây là căn hộ tôi mua cho cô ấy.

Dew nói: “Anh là mẫu đàn ông có sức cuốn hút với đàn bà nhiều nhất”. Câu nói của Dew đột nhiên nhắc tôi nhớ đến vợ mình. Hồi chúng tôi mới cưới, nàng nói: "Mẫu đàn ông như anh, khi thành đạt sẽ rất quyến rũ với phụ nữ". Nghĩ đến lời nói đó của vợ mình, tôi thoáng do dự. Tôi hiểu mình đang phản bội lại nàng. Nhưng tôi đã không thể cưỡng lại chính mình.

Kéo tay Dew sang một bên, tôi nói: “Em đi mua mấy món đồ nội thất nhé? Anh có vài việc phải làm ở công ty”. Hiển nhiên là nàng thất vọng rồi bởi vì tôi đã hứa sẽ cùng đi với nàng. Ngay lúc ấy, ý nghĩ phải ly hôn xuất hiện trong tâm trí tôi mặc dù trước đây ly hôn là một điều tưởng chừng không thể.

Nhưng tôi nhận ra khó mà mở lời với vợ về chuyện này. Cho dù tôi có đề cập nó một cách nhẹ nhàng đến đâu chăng nữa, cô ấy chắc chắn sẽ bị tổn thương sâu sắc.

Công bằng mà nói, cô ấy là một người vợ tốt. Tối nào, cô ấy cũng bận rộn chuẩn bị bữa ăn tối, trong khi tôi ngồi phía trước màn ảnh TV. Bữa ăn tối thường xong sớm. Sau đó, chúng tôi cùng xem TV. Không thì, tôi lại thơ thẩn bên máy tính, mường tượng thân thể của Dew. Đó là cách tôi thư giãn.

Một ngày nọ, tôi nửa đùa nửa thật nói với vợ tôi, “Giả dụ chúng ta phải ly hôn, em sẽ làm gì?”. Cô ấy nhìn chằm chặp tôi phải đến vài giây mà không nói lời nào. Hiển nhiên cô ấy tin rằng ly hôn là một cái gì rất xa vời với cô ấy. Tôi không hình dung được vợ tôi sẽ phản ứng thế nào một khi biết rằng tôi đang nói nghiêm túc về chuyện đó.

Luc vợ tôi bước vào phòng làm việc của tôi ở công ty thì Dew cũng vừa bước ra. Hầu như tất cả nhân viên ở văn phòng tôi đều nhìn vợ tôi với ánh mắt ra chiều thông cảm và cố giấu giếm chút gì đó khi nói chuyện với nàng. Vợ tôi dường như có nghe phong phanh vài lời bóng gió. Cô ấy chỉ mỉm cười dịu dàng với đám nhân viên, nhưng tôi đọc được nỗi đau trong đôi mắt ấy.

Một lần nữa, Dew lại nói với tôi: "Ninh, anh ly dị cô ấy đi? Rồi chúng mình sẽ cùng chung sống với nhau”. Tôi gật đầu. Tôi biết mình không thể chần chừ thêm được nữa.

Khi vợ tôi dọn ra bàn chiếc dĩa cuối cùng, tôi nắm lấy tay cô áy. “Anh có điều này muốn nói với em”, tôi nói. Cô ấy ngồi xuống, lặng lẽ ăn.

Tôi lại nhìn thấy nỗi đau trong đôi mắt nàng. Đột nhiên, tôi không biết phải mở miệng như thế nào. Nhưng tôi phải nói cho cô ấy biết những gì tôi đang suy nghĩ thôi. “Anh muốn ly hôn”. Cuối cùng thì tôi cũng đặt vấn đề hết sức nặng nề này một cách thật nhẹ nhàng.

Cô ấy tỏ ra không khó chịu lắm với lời tôi nói mà chỉ hỏi nhỏ “Tại sao?”. “Anh nói thật đấy”, tôi tránh trả lời câu hỏi của cô ấy. Cái gọi là câu trả lời của tôi đã khiến cô ta giận dữ. Cô ấy ném đôi đũa đi và hét vào mặt tôi “Anh không phải là đàn ông!”.

Đêm đó, chúng tôi không nói chuyện với nhau. Cô ấy khóc lóc. Tôi hiểu cô ấy muốn biết chuyện gì đã xảy ra với cuộc hôn nhân của chúng tôi. Nhưng tôi khó đưa ra được câu trả lời thỏa đáng bởi vì trái tim tôi đã nghiêng về Dew.

Trong tâm trạng tội lỗi tột cùng, tôi thảo đơn ly hôn ghi rõ cô ấy sẽ sở hữu căn nhà, chiếc xe hơi và 30% cổ phần trong công ty tôi. Nhìn lướt qua tờ đơn, cô ấy xé nó ra từng mảnh. Tôi cảm thấy tim mình đau nhói. Người phụ nữ chung sống với tôi suốt mười năm nay bỗng trở nên xa lạ chỉ trong một ngày. Nhưng, tôi không thể rút lại những lời đã nói.

Cuối cùng, điều tôi mong đợi đã đến. Cô ấy òa khóc trước mặt tôi. Tiếng khóc của cô ấy thực sự là liều thuốc an thần cho tôi. Ý định ly hôn dằn vặt tôi suốt nhiều tuần qua giờ đây dường như càng trở nên rõ rệt và mạnh mẽ.

Trời khuya, tôi về nhà sau tiệc chiêu đãi khách hàng. Tôi nhìn thấy vợ tôi đang cắm cúi viết tại bàn làm việc. Tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Nửa đêm, tỉnh giấc, tôi thấy cô ấy vẫn ngồi viết. Tôi trở mình và ngủ tiếp.

Vợ tôi đưa ra điều kiện ly hôn: Cô ấy không cần bất cứ thứ gì của tôi, nhưng tôi phải cho cô ấy thời gian một tháng trước khi chính thức ly hôn; và trong thời gian một tháng đó, chúng tôi phải sống với nhau một cuộc sống bình thường. Lý do chỉ đơn giản vì: tháng sau con trai của chúng tôi sẽ kết thúc kỳ nghỉ hè và cô ấy không muốn nó phải chứng kiến cuộc hôn nhân của chúng tôi đổ vỡ.

Cô ấy đưa cho tôi thư thỏa thuận cô ấy soạn sẵn và hỏi: “Anh còn nhớ em đã vào phòng cô dâu trong ngày cưới như thế nào không?”.

Câu hỏi này chợt làm sống tại trong tôi tất cả những kỷ niệm tuyệt vời ngày ấy. Tôi gật đầu và nói: “Anh còn nhớ”.

“Lúc đó, anh đã bế em trên đôi tay của anh”, cô ấy tiếp tục, “do vậy, em có một yêu cầu là anh phải bế em ra vào ngày chúng ta ly hôn. Từ giờ đến hết tháng này, anh phải bế em từ giường ngủ đến cửa nhà mình vào mỗi sáng”. Tôi mỉm cười đồng ý. Tôi biết cô ấy đang nhớ lại những chuỗi ngày ngọt ngào hạnh phúc và muốn cuộc hôn nhân của mình kết thúc lãng mạn.

Tôi kể cho Dew nghe về điều kiện ly hôn của vợ mình. Cô ấy cười to và cho rằng đó là một yêu cầu ngu xuẩn. “Cho dù cô ta có đưa ra mánh khóe gì chăng nữa, thì vẫn phải đối mặt với kết cục ly hôn mà thôi”, cô ấy nói một cách khinh bỉ. Lời nói đó của Dew ít nhiều khiến tôi cảm thấy khó chịu.

Vợ tôi và tôi đã không đụng chạm gì về thể xác kể từ khi tôi có ý định ly hôn. Chúng tôi đối xử với nhau như hai người xa lạ. Vì vậy ngày đầu tiên tôi bế cô ấy, cả hai chúng tôi tỏ ra khá lóng ngóng, vụng về. Đứa con trai vỗ tay theo sau chúng tôi: “Cha đang ôm mẹ trên tay”. Lời nói của con trẻ làm tim tôi đau nhói. Từ phòng ngủ đến phòng khách, sau đó mới đến cửa ra vào, tôi đã đi bộ trên mười mét với cô ấy trên tay. Cô ấy nhắm mắt và nói nhẹ nhàng, "Chúng ta sẽ bắt đầu từ hôm nay đừng nói gì cho con hay”. Tôi gật đầu và cảm thấy chút gì đổ vỡ. Tôi đặt cô ấy xuống ở cửa ra vào. Cô ấy đứng đó chờ xe buýt, còn tôi lái xe đến công ty.

Vào ngày thứ hai, chúng tôi “diễn” dễ dàng hơn. Cô ấy dựa vào ngực tôi. Chúng tôi quá gần nhau đến nỗi tôi có thể ngửi được mùi hương từ áo khoác của nàng. Tôi nhận ra rằng đã lâu lắm rồi tôi không nhìn kỹ người phụ nữ thân yêu của mình. Tôi nhận ra vợ tôi không còn trẻ nữa. Đã xuất hiện một vài nếp nhăn trên gương mặt của nàng.

Ngày thứ ba, cô ấy thì thầm vào tai tôi: "Vườn ngoài kia đang bị xói mòn đấy. Anh cẩn thận khi đi qua đó nghe".

Ngày thứ tư khi tôi nâng cô ấy lên, tôi có cảm giác chúng tôi vẫn còn là một đôi uyên ương khăng khít và tôi đang ôm người yêu trong vòng tay âu yếm của mình. Những tơ tưởng về Dew trở nên mờ nhạt dần.

Đến ngày thứ năm và thứ sáu, cô ấy tiếp tục dặn dò tôi vài thứ, nào là cô ấy để chiếc áo sơ mi vừa ủi ở đâu, nào là tôi phải cẩn thận hơn trong lúc nấu nướng. Tôi đã gật đầu. Cảm giác thân thiết, gần gũi lại trở nên mạnh mẽ nhiều hơn.

Nhưng tôi không nói với Dew về điều này. Tôi cảm thấy bế cô ấy dễ dàng hơn. Có lẽ mỗi ngày đều luyện tập như vậy đã làm tôi mạnh mẽ hơn. Tôi nói với cô ấy: “Có vẻ bế em không còn khó nữa”.

Vợ tôi đang chọn váy đi làm. Tôi thì đứng đợi để bế cô ấy. Cô ấy loay hoay một lúc nhưng vẫn không tìm ra chiếc váy nào vừa vặn cả. Rồi, cô ấy thở dài, “Mấy cái váy của em đều bị rộng ra cả rồi”. Tôi mỉm cười. Nhưng đột nhiên tôi hiểu rằng thì ra cô ấy đã ốm đi nên tôi mới bế cô ấy dễ dàng, chứ không phải vì tôi mạnh khỏe hơn trước. Tôi biết vợ mình đã chôn giấu tất cả niềm cay đắng trong tim. Tôi lại cảm thấy đau đớn. Theo phản xạ tự nhiên, tôi đưa tay chạm vào đầu cô ấy.

Đúng lúc đó, thằng con chúng tôi chạy đến "Cha à, đến giờ bế mẹ ra rồi" - nó nói. Đối với nó, hình như nhìn thấy cha bế mẹ ra đã là một phần tất yếu trong cuộc sống của nó rồi. Vợ tôi ra hiệu cho nó lại gần và ôm nó thật chặt. Tôi quay mặt đi vì sợ rằng mình sẽ thay đổi quyết định vào phút chót.

Tôi ôm cô ấy trong vòng tay, bước từ phòng ngủ qua phòng khách, qua hành lang. Tay cô ấy vòng qua cổ tôi một cách nhẹ nhàng và tự nhiên. Tôi ôm cô ấy thật chặt, tưởng tượng như chúng tôi đang trở về ngày tân hôn. Nhưng tôi thật sự buồn vì vợ tôi đã gầy hơn xưa rất nhiều.

Vào ngày cuối cùng, tôi thấy khó có thể cất bước khi ôm cô ấy trong vòng tay. Con trai chúng tôi đã lên trường. Vợ tôi bảo: “Thực ra, em mong anh sẽ ôm em trong tay đến khi nào chúng ta già". Tôi ôm cô ấy thật chặt và nói: "Cả em và anh đã không nhận ra rằng cuộc sống của chúng mình từ lâu đã thiếu vắng quá nhiều những thân mật, gần gũi".

Tôi phóng ra khỏi xe thật nhanh mà không cần khóa cả cửa xe. Tôi sợ bất cứ sự chậm trễ nào của mình sẽ khiến tôi đổi ý. Tôi bước lên tàu. Dew ra mở cửa. Tôi nói với cô ấy: “Xin lỗi, Dew, anh không thể ly hôn. Anh nói thật đấy”.

Cô ấy kinh ngạc nhìn tôi. Sau đó, Dew sờ trán tôi. “Anh không bị sốt chứ”, cô ấy hỏi. Tôi gỡ tay cô ấy ra. “Dew, anh xin lỗi”, tôi nói. “Anh chỉ có thể xin lỗi em. Anh sẽ không ly dị. Cuộc sống hôn nhân của anh có lẽ tẻ nhạt vì cô ấy và anh không nhận ra giá trị của những điều bé nhỏ trong cuộc sống lứa đôi, chứ không phải bởi vì anh và cô ấy không còn yêu nhau nữa. Bây giờ, anh hiểu rằng bởi anh đưa cô ấy về nhà, bởi cô ấy đã sinh cho anh một đứa con, nên anh phải giữ cô ấy đến suốt đời. Vì vậy anh phải nói xin lỗi với em”.

Dew như choàng tỉnh. Cô ta cho tôi một cái tát như trời giáng rồi đóng sầm cửa lại và khóc nức nở. Tôi xuống cầu thang và lái xe đến thẳng công ty.

Khi đi ngang tiệm hoa bên đường, tôi đặt một lẵng hoa mà vợ tôi yêu thích. Cô bán hàng hỏi tôi muốn viết lời chúc gì vào tấm thiệp. Tôi mỉm cười và viết “Anh sẽ bế em ra, vào mỗi sáng cho đến khi chúng ta già”.

Một đêm Em có về bôi mực tím đầy tay Cũng không ai bảo em là cô nhóc Em có về thả lá me trên tóc Cũng không ai gọi em là cô bé vô tư Âu Lan

Vậy thì em Hãy sống như những gì mình đã có Và bước vào cuộc đời bỏ ngỏ Đừng đắn đo!!! (Trích thơ…)

Tấm vé mời xem phim marathon đó đến với Khanh trong một thời điểm thật đặc biệt.

Đã hơn một tuần nay cô và Dương không e-mail cho nhau. Chuyện bắt đầu từ một cú điện thoại của Dương từ Việt Nam sang, hỏi cô về truyện ngắn mới ra của một nhà văn mà anh ưa thích và "em có thể tìm thấy nó trên mạng".

Ừ thì trên mạng. Suốt hơn 6 tháng nay cô và anh vẫn thường gặp nhau ở đó, mặc dù chờ đợi họ vào cuối năm sau là một đám cưới đã được lên kế hoạch kỹ càng. Suốt hơn 6 tháng nay, cô sống trong khí hậu khô lạnh đặc trưng của Úc châu và những căng thẳng của lối sống, bài vở. Sydney đang vào mùa đông. Có nhiều đêm nằm nghe tiếng mưa rơi trên phố thật xa lạ, buồn vắng.

Cô bấm số, chờ nghe giọng nói thân thuộc. Trò chuyện một hồi, Dương lại hỏi cô về truyện ngắn nọ. Có vẻ như anh để tâm đến nó nhiều. Cô ngần ngừ. Đúng là cô đã đọc truyện ngắn đó. Truyện kể về một cô gái và những suy tư khi ngồi trên chuyến tàu điện chạy ngang qua Tokyo cùng những mô tả về phố xá, tiệm ăn, nhà cửa, siêu thị. Nói chung không có gì đặc biệt ngoài một giọng văn đầy nữ tính, xen kẽ những hoài niệm về dăm ba mối tình nào đó trong đời. Tại sao Dương lại thích nó đến thế? Cô mỉm cười: "Thay vì đọc truyện ngắn mô tả quang cảnh Tokyo như vậy, chỉ cần xem một chương trình Discovery là đủ". Và rồi bỗng nhiên Dương nổi giận. Làm như anh không ngờ một người "tinh tế, nhạy cảm" như cô lại có cái nhìn hẹp hòi, thô thiển đến như vậy. Và làm sao cô có thể nhầm lẫn về thế giới văn chương và đem so sánh nó với Discovery, một chương trình "như là tập hợp của những bộ phim tài liệu"?

Cô càng giải thích, Dương lại càng giận hơn. Là nhân vật ngôi sao trong một công ty quảng cáo nổi tiếng, anh không chấp nhận một ý kiến "ngang phè, vô lý" đến như vậy. Và đến khi anh nói to trong điện thoại, ám chỉ cô là người không hiểu biết gì về văn chương, nghệ thuật thì câu chuyện giữa họ chấm dứt.

Cô buồn. Dạo gần đây họ cãi nhau luôn. Sự cãi cọ bắt nguồn từ những chuyện vu vơ như thế. Càng ngày, cô càng nhận rõ sự khác biệt giữa hai người và những đặc điểm trong tính cách ngày càng bộc lộ mạnh mẽ hơn của Dương. Lối suy nghĩ nặng về cảm xúc, những ý tưởng mang tính thống trị không cho phép ai được nói ngược lại của một người tự cho mình là kẻ thông minh khác thường... Ồ, chính là những đặc điểm đã thu hút cô trong thời gian đầu quen biết nhau.

Chuyện không dừng lại ở đó. Trong một buổi chiều mưa rơi mù mịt, cô đã "hắc" vào hộp thư của Dương và phát hiện ra những email của một cô gái nào đó với những chia sẻ đầy

đam mê về phim ảnh, âm nhạc và văn chương. Trong một email gần nhất, cô gái viết: "Anh sẽ không nhận ra em giữa đám đông đó đâu. Chỉ biết là em có trí thông minh của Jodie Foster, khuôn mặt của Jennifer Lopez và thân hình của Angelina Jolie".

Tấm vé marathon đến với cô trong thời điểm đầy tâm trạng như thế.

***

Với một tấm vé marathon, bạn sẽ làm gì? Và bạn có đủ sức để làm điều đó? Dù rất mê xem phim và đã ở Sydney hơn 6 tháng, cô vẫn chưa bao giờ thực hiện một đêm marathon, bởi cô không tin là mình có thể ngồi trong rạp từ 9 giờ tối đến 8 giờ sáng hôm sau để xem liên tiếp 5 bộ phim sặc mùi ma quỷ, hành động trong không khí im ắng và giá lạnh.

Nhưng bây giờ thì đã đến lúc phải nghĩ về nó rồi.

Tấm vé đó đến sau khi cô bước ra từ lớp học aerobic và chuẩn bị về nhà. Hắn gọi tên cô và mỉm cười. Chính là hắn.

Đừng nói là cô không để ý đến hắn, dù rằng trong tình yêu, sự lừa dối có thể làm tình yêu trở nên rẻ tiền. Lần đầu tiên cô nhìn thấy hắn là một buổi sáng cách đây hai tháng, khi cô và Lam, đứa bạn cùng phòng, đang ăn sáng ở căng tin trường. Lam học marketing, còn cô học về máy tính, chơi thân nhau bởi cùng có chung sở thích nghe nhạc lúc nửa đêm.

Lúc đang lựa chọn món ăn, cô nghe thấy một giọng nói ấm áp và truyền cảm vang lên bên cạnh mình: "Cho một bánh mì bơ tỏi".

Cái món ăn tầm thường đó, khi được gọi tên bằng một giọng trầm và thứ tiếng Anh chuẩn xác, bỗng nhiên trở nên mật thiết và huyền ảo. Cô quay sang bên cạnh và nhìn thấy một khuôn mặt Á Đông. Hắn cao hơn cô một cái đầu.

Lam còn nhận ra điều đó sớm hơn cô. Nó quay sang phía chàng trai, hơi mỉm cười và nói một câu tiếng Anh đầy vẻ mời chào: "Oh, you've got a sexy voice" (Ồ, anh có một giọng nói thật quyến rũ).

Khanh ngó lơ ra phía khác. Dù sao, người nói câu đó cũng không phải là cô. Lam từng nói, nó đang áp dụng ngôn ngữ marketing trong nhiều ngữ cảnh.

Cũng không ngờ, hắn bê phần ăn của mình đến ngồi chung bàn hai đứa. Cũng không ngờ, Lam đã biết hắn từ lâu. Hắn là Quang, học quản trị kinh doanh, hát hay và... đẹp trai nổi tiếng.

***

Khanh check mail. Vẫn không có gì. Biết đâu Dương bây giờ đang tìm được nguồn cảm hứng bên cạnh "Angelina Jolie"? Cô chờ đợi điều gì ở màn hình câm lặng đó? Một lời giải thích (mang tính tự nguyện, vì cô nào đã tỏ ra mình biết chuyện)? Một hồi đáp cho lựa chọn "không làm gì cả" theo lời tư vấn của Lam? Hay một "khoảng lặng" cần thiết để suy nghĩ về tấm vé mà cô rất muốn nhận lời? Thật lòng mà nói, mối quan hệ giữa cô và hắn chưa có gì thân thiết: dăm ba lần gặp nhau trong thư viện hay tiệm bánh pizza trong sân trường, những mẩu đối thọai không đầu không đuôi về bài vở mà trong đó cô đã gắng hết sức để không thốt ra những lời thở than mà làm ra vẻ mình rất chí thú và lạc quan với chuyện học hành. Và, một lần mới nhất (và sâu đậm nhất) là cách đây ba ngày, hắn và cô đã cùng nhau tham dự một buổi học đêm do thư viện trường tổ chức. Thật ra, cô đã học khóa học dạy cách trích dẫn trong bài luận này từ dạo đầu năm và thấy nó cực kỳ rắc rối và chi li. Không biết hắn đã học chưa nhỉ? Nhưng bạn có nghĩ rằng một kinh nghiệm mới mẻ, cho dù nó tẻ nhạt (trong bài học) và thăm dò (trong cảm xúc với người ngồi bên cạnh) đến mấy thì cũng làm giàu có thêm cho đời sống của chính mình?

Mà thôi, tuổi 28 của cô bây giờ không còn cần đến những bào chữa hay trăn trở. Đã đến lúc đơn giản là chỉ sống và làm điều mình thích. Cô đón xe bus đi về khu phố mua sắm quen thuộc. Ở đó, những tấm váy đẹp đẽ đang đồng loạt giảm giá từ 100 đồng xuống còn 20 đồng. Những người đàn bà với thân hình quá khổ đang cố gắng nhét mình vào mấy tấm váy đuôi cá hình hoa chuông rồi thở dài vô vọng. Vài ông bố kiên nhẫn cầm các tấm váy dạ hội đủ các kích cỡ đứng trước phòng thử đồ chờ ngắm xem các cô con gái mới lớn

xinh xắn như viên kẹo của mình. Cô chọn cho mình một chiếc váy trắng giản dị, dài quá đầu gối với những đường cong duyên dáng. Nói một cách khiêm tốn thì, cô là người khá tự tin về nhan sắc của mình.

Tối hôm đó trời mưa. Hắn đến đón cô sớm hơn giờ chiếu phim hơn một tiếng đồng hồ vì đường đi khá xa và đề phòng kẹt xe. Nhìn vào danh mục phim, cô nhận ra đa số thuộc thể loại hành động, kinh dị. Thế nhưng có ai biết rằng có những điều khiến cô thích thú còn hơn là những bộ phim đó - đọan đường dài băng qua những ngôi nhà trệt xinh xắn đang ngủ yên dưới những vòm dây leo, hay cơn mưa lất phất cùng cái lạnh buốt giá.

Hắn mở nhạc. Bài hát "Something about the way you look tonight" của Elton John. Cô thích nhạc Elton John, có lẽ vì sự lãng mạn thực sự chứ không ướt át kiểu "Hãy cho anh biết ý nghĩa của sự cô đơn" hay nhí nhảnh vờ vịt "Ô, em lại làm điều đó. Em chơi đùa với trái tim của anh, rồi lạc lối trong chính trò chơi của mình" (Hai bài hát Show me the meaning of being lonely của Backstreet Boys và Oops I did it again của Britney Spears).

Mà, liệu có thể hiểu đây là một lời tán tỉnh nhẹ nhàng? Suýt chút nữa thì cô bật cười với ý nghĩ chợt đến trong đầu. Thời mới lớn và những năm tháng chưa trưởng thành, cô đã không ít lần phải khổ sở vì những tưởng tượng và "dịch thuật" kiểu như thế. Nay thì hết rồi. Cô sửa lại mái tóc rối vì nước mưa. Nếu mình có con gái, mình sẽ dặn nó là đừng bao giờ để tâm đến những điều "lúc ẩn lúc hiện" như vậy và đời con sẽ đỡ khổ nhiều.

Bài hát kết thúc trong im lặng. Hắn tắt máy và đổi sang chương trình tin tức trên radio. Cái chết của Đức Giáo hoàng, rồi đám cưới giữa Thái tử Charles và người tình cũ Camilla…

Đến đây cô cảm thấy bối rối. Bối rối vì không khí im lặng quá lâu. Nhất là sự im lặng giữa hai kẻ mới biết nhau, chưa hề có một "thông tin nền" nào để bắt đầu câu chuyện một cách trôi chảy. Cô quen với không khí vui vẻ, dễ chịu rồi.

Hắn hỏi cô nghĩ gì về đám cưới này? Cô có thích nó? Cô tưởng tượng hắn là Lam, và trả lời: "Có hai điều mà Charles không thích về Diana: cô luôn mang giày cao hơn ông và cô quá nhanh chóng thân thiện với người lạ". Hắn quay sang và hỏi: "Còn Khanh thì sao?".

Cô lắc nhẹ đầu, lại gạt bỏ thêm lần nữa ý nghĩ là hắn có thể đang thăm dò mình. "Cũng còn tùy thuộc vào người lạ và hoàn cảnh nữa". Một câu trả lời nghe sáo mòn và bài bản nhưng đúng với con người của cô. Cô ít khi đặt sẵn một khuôn mẫu cứng nhắc trong đầu mình.

***

Rạp chiếu phim sáng trưng và nhộn nhịp. Hắn dắt cô đi xuyên qua những dãy phòng dài bên ngoài trang trí bằng những tấm áp phích in hình tài tử. Mùi bắp rang thơm rạo rực, bồi hồi. Và rồi, trước cửa rạp chiếu phim số 18, cô nhìn thấy Linh Lan, con nhỏ nổi tiếng hay cặp kè với đám con trai Úc trong một nỗ lực vô vọng được ở lại xứ người mãi mãi. Linh Lan vẫy tay chào cô bên cạnh Mark, cậu bạn cùng lớp có vòng bụng chắc phải hơn 100. Mark nở nụ cười ngây ngô phía trên hộp bắp rang to bự, một tay kia vòng qua eo lưng Linh Lan đầy vẻ sở hữu. Giữa những công dân Úc ăn mặc giản dị đa số là quần jeans hay váy nỉ, trông Linh Lan giống như một nữ công tước của thế kỷ 18 với chiếc áo đầm đen vạt xòe.

Linh Lan đi về hướng cô, và mỉm cười chào hắn thật duyên dáng. Sau vài câu chào hỏi, cả bọn đi vào tìm chỗ ngồi. Cô yên lặng bên cạnh hắn, nhìn lên màn hình đang nhảy nhót những hình ảnh quảng cáo vui nhộn, chợt nhớ đến email của một người bạn vừa gởi đến cho cô sáng nay: "Sau suốt mấy ngày đi khắp Hà Nội thăm chùa chiền, danh lam thắng cảnh cùng mấy người bạn, tao chợt thấy thèm nhớ cảm giác và tình trạng được trở lại một mình. Đi du lịch đối với tao giờ đây không còn có nghĩa là thăm thú danh lam thắng cảnh rồi cùng nhau rung động nữa rồi…". Đó cũng chính là tình trạng của cô mỗi khi bước vào rạp xem phim. Cô thích biết bao cảm giác đó - dù đi với ai, dù ngồi giữa một đám đông dày đặc, thì thế giới của những nhân vật trên màn hình vẫn mở ra trước mắt thật lôi cuốn và riêng tư, dẫn dắt cô qua thật nhiều tâm trạng và suy đoán.

Đêm nay là một ngoại lệ chăng? Có thể. Vì mở đầu cho đêm marathon này là phần 2 của bộ phim The Ring, một phim ma khá rùng rợn. Những hình ảnh quái dị, âm nhạc sắc như lưỡi dao buốt lạnh cùng không khí ngột ngạt kéo dài buộc cô phải tự trấn an mình bằng sự có mặt của hắn. Đến một đoạn cao trào khi cô gái trong phim mở tấm trải khuôn mặt nạn nhân ra thì cô phải quay mặt đi không dám nhìn vì sợ bị ám ảnh. Vẫn nghe thấy những âm thanh sắc lạnh, những tiếng hét của khán giả, vài tiếng hú hoang dã kiểu thổ dân. Tất cả thành một mớ hỗn độn. Và bỗng nhiên, giữa mớ âm thanh hỗn độn đó, cô như nghe thấy một tiếng thì thầm bằng thứ tiếng Anh rất chuẩn: "You're so beautiful" (Em rất

đẹp) ngay bên tai mình. Cô cũng không dám chắc vì âm thanh quá ồn, và tiếng nói đó thoảng qua như làn gió. Hay đó chỉ là ảo giác? Cô ngồi thẳng lại và trộm nhìn hắn thật nhanh. Hắn đang ngồi thản nhiên nhìn lên màn ảnh, khuôn mặt lạnh tanh không một chút cảm xúc. Một khuôn mặt rất hợp với bối cảnh phim ma.

Có phải là hắn, hay là con ma trong phim đã nói? Nhưng mà có hề gì. Cô và hắn chỉ là hai kẻ tình cờ đi cùng nhau trong một đoạn đường ngắn ngủi. Nhất là trong lúc này, khi cô cảm thấy mình như đang lạc lối trong một mối quan hệ mà cô từng tin rằng nó quá bền vững và ổn định.

Một vài cô gái cười lên sằng sặc trong khi màn hình vẫn âm thầm lướt qua các hình ảnh nghẹt thở. Những tràng cười sằng sặc đã rộ lên từ đầu phim nay vẫn không chịu ngừng như không thể tự chủ. Một số người la hét tức tối. Ai đó gọi bảo vệ. Khi trật tự trở lại cũng là khi người ta công chiếu bộ phim mới Constantine. Khác với The Ring 2, đây là bộ phim đánh nhau theo kiểu "kim khí, điện máy", suốt buổi chỉ toàn những tiếng loảng xoảng, chan chát, rầm rầm. Càng đánh nhau, cô càng nghe lòng mình hững hờ. Và cũng như lần trước, khi những tiếng loảng xoảng, chan chát, rầm rầm vang lên to nhất, khi cô thoáng xao lãng đi vì cho rằng không còn gì có thể lay động mình, thì cô lại nghe giọng nói đó thoáng qua như làn gió. Lần này, đó là ba chữ "I love you" (Anh yêu em).

Cô không trộm nhìn hắn nữa. Nếu hắn chính là người đã nói câu đó thì sao? Trò chơi của một kẻ tinh nghịch? Trò chơi có còn hiệu nghiệm đối với một người luôn tự dặn lòng là đừng bao giờ bị lung lay bởi những gì "lúc ẩn lúc hiện"?

Đến phần chiếu của bộ phim lãng mạn Shall we dance, lấy cớ mình không thích Richard Gere, cô bỏ ra ngoài hành lang lúc nửa chừng. Thật lòng, cô cảm thấy bối rối. Hình như, cô và hắn đã không còn là những kẻ xa lạ. Trong ánh đèn mờ ảo hắt ra từ những tấm áp phích, cô nhìn thấy Linh Lan đang đứng hút thuốc. Khóe mắt cô gái long lanh như đang khóc.

Cô không thích Linh Lan. Lý do chính có lẽ xuất phát từ việc cô nàng muốn ở lại Úc quá hăng hái và lộ liễu. Hơn 6 tháng ở Sydney, Linh Lan dành phần lớn thời gian cho việc hẹn hò với các chàng trai bản xứ, tìm hiểu các thủ tục để xin quyền cư trú vĩnh viễn và đổi sang nói tiếng Anh kiểu Úc nghe rất chướng tai vì sự không tự nhiên và uốn éo quá mức cho phép (so với một Linh Lan mà cô từng biết hồi còn học chung đại học - khá rụt

rè và giản dị). Cô không tin là sự thay đổi môi trường sống lại có thể khiến người ta lột xác đến mức đó.

Linh Lan đến gần cô. Những giọt nước mắt lăn dài trên đôi má bầu bĩnh. "Mark bỏ em rồi". Cô hỏi lại: "Vậy sao?". "Hắn cho là em có người khác". Cô không hiểu sao Linh Lan lại nói những điều này với mình. Có lẽ vì đêm đã quá khuya. Ngoài trời mưa rơi như trút. Những giờ phút khuya khoắt trống trải như thế này dễ làm người ta trút bầu tâm sự ngay với một người không hề thân thiết.

Linh Lan rút ra một điếu thuốc mới, trở lại với vẻ thản nhiên quen thuộc. "Chị và anh Quang thế nào rồi?". Cô trả lời: "Chỉ là bạn bè thôi". Linh Lan mỉm cười vẻ giễu cợt: "Sao lại thế? Chị phải biết nắm lấy cơ hội chứ". Cô im lặng. Chẳng lẽ lại trả lời thà làm người khờ dại còn hơn là rơi vào cảnh khổ sở vì tình yêu và thất bại như cô gái liều lĩnh và lanh lẹ này? Chẳng lẽ lại nói rằng, cái nghề của tôi vốn chỉ quen và tin vào những con số và dữ liệu lạnh lùng, hơn là những suy đoán đầy cảm tính kiểu phụ nữ? Cô quay trở lại rạp.

***

Kết thúc 18 tháng học, Khanh về Việt Nam. Ở đó, một công việc tốt đang chờ cô. Vài người bạn tâm giao. Vài tiệm ăn ưa thích. Cuộc sống như thế đã bao năm rồi.

Chỉ có điều là không còn đám cưới. Sau vụ Angelina Jolie vài tháng, cô và Dương quyết định chia tay. Quỹ thời gian của cô đang rút ngắn dần, không còn chỗ cho những trò đuổi bắt như kiểu "khi xưa ta bé" nữa. Và chắc Dương cũng thế.

Chiều mai cô sẽ gặp lại hắn. Hắn tỏ tình với cô cách đây không lâu, bằng một cách diễn tả thật rõ ràng. Sau Constantine, không có thêm một "lời thì thầm bất cẩn" nào. Nhưng tại sao cô cứ mãi nghĩ về nó, như một ám ảnh thật dai dẳng và nhẹ nhàng?

Ngày không tôi Hạnh phúc, bất hạnh, buồn, vui, sướng, khổ cứ tiếp nối mãi theo nhau trong 24 giờ mỗi ngày, trong tâm cảm mỗi người. Rồi từng ngày theo nhau đi qua, cho đến một hôm nào đó, tôi chợt nhận ra: Thử một ngày không tôi xem sao. Tất cả mọi việc đều bình thường! Người nào, công việc đó...

Nguyễn Lan Anh Khi tôi về nhà, ba tôi ra mở cửa. Người nhìn tôi ngầm hỏi kết quả nộp hồ sơ thế nào. Tôi xuê xoa: “Chờ đợi, phải chờ đợi!”. Ba tôi ngồi, chăm chú đọc mấy tờ báo. Tôi biết, người đang đọc trang quảng cáo tuyển nhân viên rồi sẽ khoanh tròn lại bằng mực bút bi đỏ. Tôi sẽ “nghiên cứu” những dòng chữ đó để rồi lại lao đi, bồn chồn nộp hồ sơ. Tôi mệt. Thú thực, tôi mệt. Không hiểu sao, lúc tinh thần xuống cấp, tôi lại muốn mình là con gái. Tôi thì thầm, niệm Phật cầu mong kiếp sau được làm thân gái. Ý muốn là thế, nhưng không có nghĩa kiếp này mệnh đàn ông của tôi đã hỏng. Nó vẫn hoạt động tốt. Ban đêm, khi ba mẹ ngủ, tôi giả vờ học tiếng Anh. Bật vi tính suốt đêm, lên Internet tải mấy đĩa sex bạn bè tôi gửi qua email. Gì chứ những vụ sốt dẻo như diễn viên đóng phim sex, bạn bè tôi, những đứa online 24/24 giờ lúc nào chả cập nhật superhot (siêu nóng hổi)! Bạn tôi cá cược rằng, đến đàn bà con gái trong công sở còn xem những thứ ấy như một lũ khát nước nữa là đực rựa tụi mình. Thế nhưng, tôi cũng biết ý. Chờ ba mẹ đi ngủ, tôi mới lọ mọ lang thang trên xa lộ ảo mênh mông... Cũng đến lúc, sex chỉ còn là một thú tiêu khiển nhàm chán. Nhàm chán đến mệt mỏi. Tôi không thích tò mò nhiều. Đôi khi còn buồn nôn, bởi những gì là vẻ đẹp, đã bị bản năng biến tấu xuống cấp như những loài thú vật. Những lúc ấy, chúng gây cho tôi sự phản cảm. Tôi bỗng cáu tiết với bản thân. Làm sao ta phải tò mò, phải nhìn thấy những hình ảnh này? Từ đó, tôi ít khi ham la cà đến những trang web kia đầy rẫy, nhan nhản trên net. Khi ba mẹ tôi hỏi: Sao con không chịu làm việc? Tại sao con có thể bỏ một chỗ mà rất nhiều người đang thèm khát? Con không biết rằng, con đã bao nhiêu tuổi rồi sao? Tôi muốn hét lên rằng: “Tôi chẳng biết, tôi chẳng nói, tôi chẳng thấy...”. Trả lời làm sao cho những người thế hệ trước hiểu rằng: Đó chỉ là tạm ngưng để rồi tiến. Tôi nghĩ, sao ba mẹ tôi không sinh thêm một đứa con nữa? Nó sẽ thế chân tôi, chịu tất cả sự quan tâm, yêu cầu, ước nguyện của ba mẹ tôi. Nó sẽ nghe những bài học trước bữa cơm, những lời thất vọng, ta thán về những điểm chưa đạt tới. Nó sẽ thay thế tôi, phấn đấu trở thành một đứa trẻ hoàn hảo, có phẩm chất của những thần đồng, những đứa trẻ xinh ngoan, chăm chỉ. Thế cho nên, từ nhỏ, tôi đã khao khát mẹ sinh em bé... Net bỗng trở thành một thiên đàng còn nhiều điều phải khai phá. Cái buồn, cái cô đơn không đáng có của một thằng con trai được net dẫn dụ, vãi tung tóe trên net những nhược điểm đó của tôi. Tôi tự hào, vì coi net vừa là nơi giải trí, vừa là bãi rác khổng lồ. Kiến thức thu nhặt được trên net, có chăng, chỉ là dăm ba thứ ngôn từ mang tính chất buôn dưa lê. Ở trên net, tôi có thể dùng đến vài ba cái nick name. Nick name traichuayeu để đi tán

lằng nhằng mấy cô bé 8x- thậm chí 9x. Mấy em nhỏ mà giọng đanh đá, ngây chả ra ngây, thơ chả ra thơ. Hiếm có em nào hiền lành chân chất thực sự, toàn những em trổ tài am hiểu cuộc sống bằng cách hỏi xem tôi Anh đi học hay đi làm, lương tháng bao nhiêu, hôm nào đi uống cà phê nhé. À, mà anh đi xe gì, xe Wave à? Ừ thế thì thôi vậy. Em tưởng anh đi xe gì đèm đẹp một chút, thì hôm nào em mặc váy ngắn, anh chở em đi thong dong trên phố, anh lại thấy đời tươi như con đười ươi ngay. Anh đi Wave, mà lại là Wave Alpha, đương nhiên chưa có người yêu là phải rồi! Choáng váng mặt mày, tôi chuồn thật nhanh kẻo mấy em nanh nọc lại dạy cho bài học đời trai thế kỷ 21 phải thế nào. Dùng nick name khongcanbiet, tôi nhảy vào một chủ đề có cái tên rất khêu gợi: DÀNH RIÊNG CHO NHỮNG NGƯỜI BẠN GHÉT. Ngay đầu chủ đề có những dòng viết: “Giận, hờn, buồn, thương, là những cảm xúc tự nhiên của con người. Có những điều bạn gặp, bạn bộc lộ cảm xúc. Đó là sự tất yếu. Quả thực là may mắn, hạnh phúc thay khi bạn được tự do cảm xúc. Thế nhưng, bất hạnh thay, vì điều kiện, vì hoàn cảnh, vì tình thế, mà chính bạn phải tự kiểm duyệt cảm xúc của chính mình. Bạn phải nín, bạn phải nhịn. Thay vì được nổ, được nhổ, thì bạn phải kìm, phải nuốt. Điều đó, vô cùng có hại cho bạn. Lâu ngày, cảm xúc của bạn sẽ bị chai lì. Nếu là phụ nữ, bạn sẽ bị biến thành một người đàn bà có bộ mặt của ma-nơ-canh (manequin). Nếu là đàn ông, bạn sẽ bị biến thành một người đàn ông có bộ mặt Fantomas, hoặc người đàn ông có bộ mặt cười, hoặc bạc nhược như những hoạn quan của thế kỷ 18. Còn chần chờ gì nữa, hãy vào đây, và xả cho hết những gì làm bạn bực bội, những người bạn ghét. Để rồi, bạn hãy mở lòng, hãy nhận thấy những người bạn ghét cũng đáng thương, không đáng để bạn phải giận dữ, ghét bỏ như vậy, để bạn lại có cách ứng xử thật tốt, bao dung với tất cả. Xin mời...”. Rất nhiều người đã viết về những gì làm họ căm ghét. Người ghét cay ghét đắng đồng nghiệp, chê đồng nghiệp “chuyên gia nịnh hót”, buôn bán, nói xấu bạn bè. Người ghét tiếng còi ô tô, người ghét tiếng rao bán báo... Hoặc, một quý bà than phiền con chó bé tí tẹo nhà hàng xóm có tên là Natasa, suốt ngày cứ chạy theo cắn váy bà. Điều quan trọng hơn, mỗi lần chủ nó quát: “Natasa, con Natasa khốn nạn kia!” là tim bà đau nhói. Đồ mất dạy thật, hồi trẻ, nhiều người bảo bà giống cô gái Nga, giống Natasa trong phim. Chắc hẳn hàng xóm căm bà cái gì đó, cố tình đặt cái tên để chửi? Ồ, vậy là tôi đã có nơi để xả xú-páp rồi. Tôi nhảy vào, thổ lộ tâm tình về sếp của tôi. Không nhiều lắm, chỉ dăm ba câu bất bình. Ngay ngày hôm sau, tôi đã nhận được khoảng chục câu trả lời đồng tình hoặc kể lể về sếp của họ. Chẳng giấu giếm che đậy gì, tôi không ưa sếp trước của tôi lắm. Từ dạo, tôi làm không đúng theo ý của ông ta, rằng đã là kế toán thì phải biết tự “cân đối, điều chỉnh” theo hướng có lợi cho công ty. Lợi. OK. Lợi. Ai mà chả thích, chả biết rằng bất cứ cái gì có lợi, có lộc, là phải làm. Tôi đã làm, đã theo, đã gian dối, đã lươn lẹo; tôi đã không là tôi từ lâu, từ khi làm cho dăm ba công ty, từ khi chuyển hết công ty này sang công ty khác. Tôi không là tôi. Ông sếp chửi đổng: “Ngu như chó!”. Trời ạ. Ở công ty, tôi đã không nói, tôi nhịn, như nhịn cơm sống. Tôi mặt trơ trán bóng khi nghe sếp quát nạt, hầm hè. Mặt mũi tôi khi nghe đến từ ngu như chó, đường tĩnh mạch ở cổ bắt đầu căng lên. Tôi nhớ đến chữ Nhẫn mà tôi đã xin được từ một tay chơi chữ trẻ tuổi ở Văn Miếu: “Nhịn được cái tức một lúc,

tránh được cái lo trăm ngày... Người chưa biết nhẫn, chưa phải người hay!”. Thế là bao nhiêu nỗi nghẹn ngào ứ ở cổ nay bị dồn lại, như đường sá Hà Nội tắc cục bộ vào mùa mưa bão. Tôi bỗng trở thành người câm trong lòng thành phố. Nó chỉ được vợi bớt đi mỗi khi tôi lang thang, ngoài quán cà phê, nhìn ra mặt hồ, một khoảng trống, hoang hoác như chính khoảng trống trong lòng tôi. Khi chiều tan sở, ánh sáng trong ngày dần tắt, tôi xách xe về nhà. Trong tôi, hiện lên hình ảnh sếp của tôi. Mái tóc pha sương. Ngày sếp được một tờ báo lăng xê gương mặt giám đốc điển hình, lương công nhân khá, cơ sở vật chất khang trang, làm ăn tiến tới... Hình như giám đốc tránh không nhắc đến tình trạng một công ty trách nhiệm hữu hạn với số vốn còi cọc đang nợ lương công nhân đến một tháng rưỡi chưa trả. Duy nhất có tôi kịp đọc tờ báo đó. Ông giám đốc đã giấu biến nó đi. Tay K., chạy vật tư hậm hực, để tao ra ngoài mua, xong dán bố nó lên trên tường kia kìa. Để tất cả cùng đọc, xem sự thực nó là cái gì. Ngay hôm sau, lại có vô số báo đến đòi phỏng vấn sếp của tôi. Cô nhà báo của địa phương đã được sếp dẫn đi Vincom mua một cái áo sơ mi cỡ kha khá tiền. Ấy nhưng, lại ấy nhưng, sức người có hạn. Bỗng một hôm tôi nhận ra rằng, việc quái gì mình phải chịu đựng như thế, việc quái gì mình phải nhịn. Tôi phải là tôi! Tôi bỏ làm. Quyết định một cách chóng vánh. Sếp niềm nở. Đúng là dị thường trên cả bất thường. Tôi ngắm sếp. Nụ cười của sếp hiền khô. Tôi nhếch mép cười đáp lại. Không phải, tôi không muốn cười. Nhưng bất chợt, tôi lại nửa muốn nửa không, thành ra, nụ cười không chút hoàn hảo. Sếp bảo: “Cậu Hưng, càng làm việc, tôi càng quý cậu. Đúng là làm lâu, tôi mới nhận ra. Tôi rất quý tuổi trẻ, làm được việc...”. Tôi ớ người. Vậy, từ “ngu như chó” trong một lúc nóng giận của sếp, cái từ văng ra trong một tập thể người là dành cho một số người, hoặc dành riêng ai đó, không phải tôi chăng? Về đến nhà, một lô những từ theo ngữ pháp, thường được dùng để đặt câu hỏi. Đó là “tại sao” mũ “n” lần. Đi kèm với chúng là “n” dấu chấm hỏi. Đầu tôi suýt nổ tung bởi vô số những quả bom mang hình dấu hỏi của ba mẹ tôi tung ra khủng bố đầu óc tôi. Thử một ngày không tôi xem sao. Tất cả mọi việc đều bình thường. Thế gian này không vì thế mà mất đi một nhịp đập. Các guồng quay vẫn tiến đều. Người nào, công việc đó. Mọi chuyện, mọi người, mọi sự vật, đó là cuộc sống. Tôi cũng đang sống. Và tôi lại đi xin việc làm từ đầu. Và ba của tôi ngày nào cũng mở cửa nhìn tôi không còn hỏi tại sao. Tối, tôi đi quanh các con phố. Ngõ nào nhỏ, tôi rẽ vào, đi luồn lách, tránh những dòng xe đi lại. Chật hẹp thật đấy, vậy ta thử đi, xem tài của ta đến đâu. Đi, đi thôi! Tôi gào lên trong ý chí. Đến quán nước, nơi một người bạn đang chờ ở đó. Hắn cười khẩy khi thấy tôi mang theo những cuốn sách dạy cách thành công trong cuộc đời. Hắn hất hàm: Quẳng đi, ông ngố ơi. Mày lật đôi bàn tay của mày ra. Đấy, nó. Cả cái này nữa. Hắn chỉ lên đầu. Chọc chọc vào đầu. Trí óc của mày. Và ghi nhớ điều này: Khôn quá cũng chết, ngu quá thì chết hẳn rồi. Thằng sống được là thằng biết lúc nào nên khôn, lúc nào nên giả ngu. Thôi, quên béng đi. Tôi nhìn hắn, nhìn vẻ lịch sự điềm đạm của hắn. Hắn nở nụ cười. Vỗ

vai tôi. Chiếc cà vạt đung đưa. Làm sao biết mình sai, mình yếu, mình lầm ở chỗ nào. Mạnh dạn lên. Thế thôi cậu à. Hắn quay ra nói chuyện đàn bà con gái. Chuyện làm ăn, chẳng cái gì liên quan đến cái gì, kể cả đàn bà. Tôi nghe rồi tôi kể cho hắn nghe chuyện tôi giấu kín trong lòng. Đó là mối tình cuồng dại, mối tình quá khứ của tôi. Nàng tên Mai. Xinh. Những ngón tay dài, đài các. Tóc nàng cũng dài, mi mắt dài. Tôi, vẫn là tôi. Tự do trong khuôn khổ. Cả nàng cũng vậy. Nàng muốn tôi trở thành một công chức, sáng sơ mi, cà vạt xanh đỏ, tay xách cặp. Chiều, loanh quanh, luẩn quẩn chờ đón con. Hạnh phúc là đấy, còn trông mong gì hơn. Thế rồi, khi tôi trở thành một người công chức mẫn cán, nhụt chí, nhụt danh dự, nhụt cả niềm tin thì nàng dần rời xa tôi. Vẫn cứ là tôi, chẳng biết tại sao em xa tôi cho dù tôi đã hỏi, đã nghìn lần tự hỏi. Bạn tôi gật gù. Thôi, chuyện xảy ra, không giải quyết nổi thì tìm hướng khác. Không lẽ cứ vì thế mà mày không thương không nhớ một đứa con gái nào? Chia tay thằng bạn, tôi đi thật chậm. Hít thật sâu hơi thở của thời gian. Cuối tháng 5, bằng lăng nở tím hai bên đường. Mùa hạ đã rực cháy, con tim tôi cũng vậy. Nó rực cháy trong sự mỏi mệt, trong những sự nghi ngờ, trong bước dừng để tiến. Tôi ngẫm nghĩ, thật kỹ. “Đi! Go! Allez!”. Cái ngôn từ thập cẩm ấy, chúng khuyến khích tôi. Vận mệnh nằm trong bàn tay bạn. Tôi nắm chặt tay. Đường khuya. Ngõ vắng. Ba tôi ra mở cửa. Không nói năng gì. Qua rồi, một ngày không tôi.

Related Documents

Nhug Mau Truyen Ngan
November 2019 19
Truyen Ngan
August 2019 12
Truyen Ngan Raymond Carver
November 2019 14
Truyen Ngan Hay 1
June 2020 8
Truyen Ngan Duong Thuy
November 2019 16
Truyen Ngan Arap
October 2019 9