New Microsoft Word Document

  • Uploaded by: bui ong tuyen
  • 0
  • 0
  • May 2020
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View New Microsoft Word Document as PDF for free.

More details

  • Words: 9,227
  • Pages: 22
SVTH: LÊ THỊ LÂM Lớp:05CTL, TrườngĐại học Sư phạm GVHD: THS. TÔ THỊ QUYÊN Khoa Tâm lí- Giáo dục, trường ĐHSP TÓM TẮT Hứng thú là một trong những vấn đề phức tạp của tâm lí học. Hứng thú học tập có ý nghĩa rất lớn đến thành tích, kết quả học tập của học sinh, sinh viên.Tâm lí học là một môn học căn bản của các trường sư phạm. Việc hình thành hứng thú học tập đặc biệt là hứng thú học tập môn tâm lí học sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo dục, tăng thêm lòng yêu nghề của các sinh viên sư phạm - những thầy cô giáo trong tương lai. Trong đề tài này, trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn chúng tôi khảo sát và đánh giá thực trạng hứng thú học môn tâm lí học của sinh viên năm thứ hai Đại học sư phạm Đà Nẵng. Từ đó chúng tôi đề xuất các biện pháp nâng cao hứng thú học môn tâm lí học cho sinh viên trường ĐHSP - Đh Đà Nẵng. Mở đầu: 1. Đặt vấn đề: Chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu hứng thú học môn tâm lí học vì các lí do sau: - Hứng thú học tập giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của các quá trình học tập, nhờ hứng thú mà trong quá trình học tập sinh viên có thể giảm mệt mỏi, căng thẳng, tăng sự chú ý, thúc đẩy tính tích cực tìm tòi, sáng tạo. - Tâm lí học là một môn học cơ bản trong các trường sư phạm. Việc nắm vững những tri thức tâm lí nói chung và tâm lí học sư phạm nói riêng là cơ sở để sinh viên – những thầy cô giáo tương lai hiểu học sinh, từ đó có thái độ và phương pháp giáo dục phù hợp. - Việc hình thành hứng thú học tập cho sinh viên, đặc biệt là hứng thú học tập môn tâm lí học sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo dục tăng thêm lòng yêu nghề cho các thầy cô giáo tương lai. 2. Khách thể nghiên cứu Chúng tôi nghiên cứu sinh viên kỳ cuối năm hai vì ở thời điểm này các bạn vừa học xong chương trình tâm lí học dành cho sv các khối sư phạm, đã có những nhận thức đầy đủ về môn học này. Khách thể nghiên cứu bao gồm 200 sinh viên cuối năm thứ hai của 6 khoa thuộc trường ĐHSP Đà Nẵng(khoa Toán, lí, hóa, tiểu học- mầm non, sử, địa). 3. Phương pháp nghiên cứu:

Chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát, phỏng vấn, điều tra, trò chuyện và một số phương pháp thống kê toán học để xử lí kết quả. Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008 190 4. Giả thuyết khoa học Chúng tôi đặt ra giả thuyết là: - Mức độ hứng thú của sinh viên còn thấp, không đồng đều giữa các khoa. - Hứng thú gián tiếp cao hơn hứng thú trực tiếp. Phần nội dung 1. Một số vấn đề lí luận: 1.1. Tổng quan các nghiên cứu về vấn đề. 1.2. Cở sở lí luận của vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Hứng thú “Hứng thú là thái độ đặc thù của cá nhân đối với một đối tượng nào đó do ý nghĩa của nó trong đời sống và sự hấp dẫn tình cảm của nó” (Côvaliôp) 1.2.2. Hứng thú học tập Từ định nghĩa về hứng thú của A.G Côvaliôp chúng tôi cho rằng: Hứng thú học tập chính là thái độ lựa chọn đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống của cá nhân. 1.2.3. Hứng thú học tập môn tâm lí học của sinh viên ĐHSP Đà Nẵng a.Vài nét về nội dung chương trình học môn tâm lí học của sinh viên khối ngành sư phạm b. Định nghĩa Dựa trên quan điểm về hứng thú nhận thức của A.G.Côvaliôp quan niệm về hứng thú học tập chúng tôi cho rằng hứng thú học tập môn tâm lý học là thái độ lựa chọn đặc biệt của người học đối với kết quả, quá trình của sự lĩnh hội và vận dụng những tri thức tâm lý học. Do ý nghĩa thiết thực và hấp dẫn của chúng trong cuộc sống trong quá trình học tập, làm việc của mỗi người. c. Những biểu hiện của hứng thú học tập môn tâm lý học của sinh viên 2. Thực trạng hứng thú học môn tâm lí học của sinh viên ĐHSP Đà Nẵng 2.1. Mô tả quá trình nghiên cứu 2.2. Mô tả phương pháp nghiên cứu 2.3. Kết quả nghiên cứu 2.3.1. Nhận thức về môn tâm lí học(xem bảng 2.3.1) Nhìn chung các sinh viên đã coi trọng các lí do nhận thức có liên quan trực tiếp đến môn học, củ thể là : + Môn tâm lí học giúp ta giải quyết các tình huống sư phạm một cách hợp lí(72%) đứng thứ nhất. + Môn tâm lí học giúp ta có cách ứng xử hợp lí với mọi người(71%), xếp thứ 2. + Môn tâm lí học giúp ta vận dụng hợp lí, có hiệu quả phương pháp giảng dạy bộ môn (62%) xếp thứ 3.

+ Môn tâm lí học có nội dung hấp dẫn, lí thú(25,5%), xếp thứ 5. Các lí do liên quan đến môn học chỉ được sinh viên đánh giá thấp, lựa chọn ít: + Dễ thăng tiến trong cuộc sống, chiếm 7,5% ở vị trí thứ 8 + Được xã hội đấnh giá caochiếm 11%, ở vị trí thứ 7 2.3.2. Mức độ yêu thích môn tâm lí học Mức độ yêu thích môn học( xem bảng 2.3.2) Số sinh viên yêu thích môn học chiếm ưu thế (68%), chỉ có một phần nhỏ(25%) có cảm xúc bình thường với môn học. Và số người không yêu thích chiếm tỷ lệ thấp(7%) Lý giải các lí do yêu thích môn học: Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008 191 Phần lớn sinh viên đã coi trọng các lí do có liên quan trực tiếp với môn học. Đây là dấu hiệu đáng mừng. Còn các lí do có liên quan gián tiếp đến môn học bị coi nhẹ hơn. 2.3.3. Sự biểu hiện của hứng thú học tập môn tâm lí học bằng các hành động tích cực, chủ động hàng ngày của sinh viên.(xem bảng 2.3.3) Đại bộ phận sinh viên đều thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ học tập của mình, với các biểu hiện sau chiếm ưu thế cao: + Ghi chép bài đầy đủ, chiếm 63%, đứng thứ 2. + Đi nghe giảng đầy đủ, đúng giờ, chiếm 60%, đứng thứ 3. Bước đầu đã có một số ít sinh viên chú ý đến cách thức học tập, cách vận dụng các tri thức tâm lí học vào thực tế, thể hiện mức độ hứng thú cao với môn học. Mới có một số ít sv thể hiện hứng thú học tập ở mức độ cao nhất: + … “ tự đọc thêm sách, tài liệu tham khảo”(12%), đứng thứ 6. +…. “ có sổ tay ghi chép bộ môn để ghi lại những phương pháp giải quyết các tình huống sư phạm điển hình, có hiệu qủa cao”(5.5%), đứng thứ 7. 2.3.4. Tương quan mức độ hứng thú giữa hai khối tự nhiên và xã hội. Thông qua phương pháp phân tích tương quan thứ hạng SPEARMAN, chúng tôi đánh giá tương quan về cả 3 chỉ số: cảm xúc, nhận thức, hành vi.Kết quả thu được là tương quan nghịch về hứng thú giữa hai khối tự nhiên và xã hội. Sinh viên các khối tự nhiên có mức độ yêu thích cao hơn, nhưng sinh viên khối ngành xã hội lại có những biểu hiện học tập tích cực hơn. Điều này phản ánh sự không tương đồng về hứng thú học tập môn tâm lí học của sinh viên hai khối. Kết quả tổng hợp chung cho thấy: + Phần lớn sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của môn học, có xúc cảm tích cực với nó, nhưng giữa nhận thức và hành động lại có sự mâu thuẫn. Sinh viên chưa có hứng thú trực tiếp với nó, đa số đều có hứng thú ở mức độ thấp.

+ Có sự khác biệt về mức độ hứng thú giữa hai khối tự nhiên và xã hội, sinh viên khối tự nhiên có mức độ xúc cảm và nhận thức cao hơn nhưng sinh viên khối xã hội lại có những hành động học tập tích cực hơn. 2.4. Đề xuất một số biện pháp nâng cao hứng thú học tập môn tâm lí học Là một mặt biểu hiện của xu huớng nhân cách, một trong những thành phần trong hệ thống động cơ của con người. Do đó muốn nâng cao hứng thú thì trước hết phải hình thành động cơ học tập, giáo dục động cơ học tập, nhi cầu học tập đúng đắn. Động cơ học tập tốt không tự dưng mà có mà cần phải được xây dựng hình thành trong quá trình sinh viên đi sâu chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của thầy giáo. Động cơ học tập là muôn hình muôn vẻ, muốn phát động được động cơ học tập đúng đắn, động cơ chiếm lĩnh tri thức thì trước hết cần phải khơi dậy ở các em nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học tập – vì nhu cầu chính là nơi khơi nguồn của tính tự giác, tính tích cực trong học tập. Mặt khác hành vi của con người phụ thuộc vào nhiều khả năng khách quan nhất là ở những sinh viên có nhân cách chưa hình thành ổn định, chưa có mục đích sống chỉ đạo cho nên môi trường khách quan cần có những điều kiện thuân lợi, là mảnh đất màu mỡ để ươm mầm cho hứng thú phát triển, như thư viện phong phú các đầu sách, phòng thí nghiệm thực hành đầy đủ, những kì vọng, sự động viên của thầy cô… Hứng thú học tập của sinh viên được tăng cường một phần rất lớn chịu ảnh hưởng bởi cán bộ giảng dạy. Do đó giáo viên cần không ngừng trau dồi kỹ năng phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp, cải tiến phương pháp giảng dạy, đảm bảo việc truyền thụ tri thức ngày càng chính xác, hấp dẫn, có chất lượng. Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008 192 Giáo viên cần giúp cho sinh viên thấy được ý nghĩa, vai trò, sự cần thiết của những kiến thức tâm lí đối với hoạt động sư phạm sau này. Giúp sinh viên biết cách học môn tâm lí học, tăng cường thời lượng, chất lượng thực hành cho môn học này, nắm vững lí thuyết, luôn có sự vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống và giải quyết các tình huống sư phạm theo các khía cạnh khác nhau. Ghi lại các phương pháp hay có hiệu quả. Cần làm phong phú các thành phần, động cơ học tập của sinh viên, xác định đúng

động cơ gồm động cơ xa, gần. Số lượng các động cơ tích cực tạo nên phạm vi động cơ học tập càng nhiều thì hoạt động học tập càng có kết quả. Trong những trường hợp này thì kết quả đạt được là do kích thích của động cơ nhận thứ, trong trường hợp khác là kết quả của việc ý thức về sự cần thiết của tri thức lình hội được đối với việc nắm vững nghề nghiệp…Trong thực tiễn mỗi cán bộ giảng dạy cần phác thảo những chiến thuật độc đáo là tăng tính cấp bách của tất cả các động cơ học tập không chỉ trên mỗi tiết học mà còn trong mỗi bước của quá trình nhận thức. Những bài giảng nêu vấn đề, giờ thảo luận trong lớp học, những trò chơi mang tính chất giáo dục, các hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên sẽ là yếu tố kích thích hứng thú học tập. Quá trình kích thích hứng thú không chỉ diễn ra ở bài giảng này đến bài giảng khác mà phải diễn ra trong suốt cả quá trình. Do đó trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần tạo ra các hoàn cảnh “có vấn đề” để kích thích sự hứng thú của sinh viên.Giảng dạy nêu vấn đề tạo ra tâm thế tìm tòi chân lí, tăng tính tích cực trí tuệ. Trong giảng dạy nên chú ý định hướng vào tương lai, nêu lên những vấn đề trong lĩnh vưc khoa học và nghề nghiệp còn chưa giải quyết được để kích thích tính tò mò, sáng tạo… chỉ ra được cái mới, cái phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, tính chất sáng tạo và triển vọng trong hoạt động học tập thì mới có hứng thú vững chắc được Để nâng cao hứng thú học tập giáo viên nên có những yêu cầu ngày càng cao đối với sinh viên trong quá trình học tập môn học này. Cần thường xuyên yêu cầu các em đọc các tài liệu tham khảo của môn học, hướng dẫn các em cách sưu tầm, cách đọc và cách sử dụng tài liệu tham khảo. Cho sinh viên có điều kiện tiếp xúc với thực tế, tiến hành thảo luận trong giờ học để sv hiểu bài một cách dễ dàng hơn bởi lí thuyết môn học này rất trừu tượng khó hiểu. Tạo điều kiện để sinh viên có điều kiện tiếp xúc, gặp gỡ với các chuyên gia có thành tích xuất sắc trong lĩnh vực nghề mà sinh viên được đào tạo. Thường xuyên tổ chức các hoạt động mang tính tập thể … học tập, sinh hoạt trong môi trường tập thể sẽ kích thích sự hăng hái thi đua, cạnh tranh lành mạnh. Thầy cô nên có những đánh giá, ghi nhận thành tích hay những tiến bộ trong học tập của sinh viên một cách kịp thời nhằm củng cố những thay đổi tích cực.

Tổ chức các buổi ngoại khóa, trò chuyện, giao lưu giữa các khoa về chủ đề tâm lí học nhằm khắc phục những khó khăn gặp phải khi học môn tâm lí học, từ đó tìm thấy tiếng nói chung, sự đồng thuận giữa sinh viên các khoa, cùng giúp nhau học tập tốt hơn môn học này. Kết luận khuyến nghị 1. Kết luận Việc thực hiện đề tài một mặt giúp nắm bắt được mức độ hứng thú học môn tâm lí học của sinh viên. Đó là cơ sở để đề xuất các biện pháp phù hợp để hình thành và nâng cao hứng thú học tập của sinh viên nhằm giúp các bạn đạt kết quả học tập tốt hơn. Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008 193 Thực tế điều tra cho thấy phần lớn sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của môn học, tuy nhiên giữa nhận thức và hành động lại có sự mâu thuẫn. Nguyên nhân căn bản là do chưa có động cơ học tập đúng đắn. Kinh nghiệm dạy học cho thấy sinh viên chỉ có thể có kết quả học tập cao khi họ có hứng thú thật sự với môn học. Việc tạo hứng thú học tập cho bản thân có lẽ là điều kiện tiên quyết, là một cách tốt giúp ta lĩnh hội tri thức cũng như đảm bảo cho sự thành công của cuộc đời của mỗi cá nhân. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho hoạt động giáo dục là phải tổ chức dạy và học như thế nào để hình thành và nâng cao hứng thú cho sinh viên. Những kết quả thu được từ đề tài hi vọng sẽ cung cấp một phần nào đó những cơ sở để thực hiện nhiệm vụ vô cùng phức tạp và khó khăn đó. 2. Khuyến nghị. - Đối với ngành giáo dục - Đối với đội ngũ giáo viên - Đối với bản thân sinh viên TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Quang Uẩn(chủ biên), 1997, Tâm lí học đại cương, Nxb ĐHQG Hà Nội. [2] Hồ Ngọc Đại, 1983, Tâm lí học dạy học, Nxb Giáo dục. [3] A.G.Côvaliôp, Tâm lí học cá nhân, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội,1971. [4] A.V.Daparogiet, Tâm lí học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,1974. [5] A.N. Lêonchiep, Hoạt động- Ý thức- Nhân cách, Nxb,1987. [6] G.I.Sukina, Vấn đề hứng thú nhận thức trong khoa học giáo dục, Tài liệu dịch- Tổ tư liệu trường CĐSP Hà Nội, 1973. [7] www. Tamlihoc.ne Bai tham khao 2

Đối tượng của chủ đề này: Là các bạn học sinh ,sinh viên (chủ yếu là sinh viên năm nhất ) Và những ai muốn hòan tất chương trình học đại học. Mục tiêu của chủ đề này là cung cấp cho các bạn cái nhìn ban đầu về phương pháp học ở bậc đại học.Từ đó xuất phát từ vị trí người học ,tôi đề xuất các phương án để các bạn tham khảo ,để các bạn rút tỉa được những định hướng ,kinh nghiệm phù hợp nhằm xây dựng cho chính mình nhưng phương pháp đánh giá,chọn lựa và kỹ năng học tập hiệu quả. Học dại học khác với các cấp học thấp hơn mấy điểm : 1.Cách học ở bậc phổ thông thụ động hơn cách học đại học kiến thức ở bậc đại học rất rộng cho nên người học phải tự học là chính .Do vậy tinh thần chủ động sáng tạo trong học tập ở địa học cần được phát huy mạnh mẽ. 2.Học ở bậc đại học ,vấn đề căn bản ,quan trọng nhất là tìm được phương pháp học chứ không phải nhồi nhét cho nhiều kiến thức .Chúng ta phải từ bỏ những phương pháp học tập mang tính từ chương trong thời kỳ học phổ thông mà chúng ta vô ình bị tiêm nhiễm ít nhiều . 3.Ở bậc đại học ,thầy cô có vai trò tư vấn ,hướng dẫn ,thẩm tra hơn là truyền thụ theo kiểu từng li từng tí và thời gian hiện diện của họ trong tiến trình học tập là thường ít hơn so với bậc địa học trước đó .Người học phải từ bỏ tâm lý trông chờ ,ỷ lại vào giáo viên và cần thừa nhận tinh thần :"Thầy đáng quý nhưng chân lý quý hơn "Và "Mỗi người hãy tự tlà thầy dạy cho chính bản thân mình" 4.Việc tham dự lớp học ở đại học tương đối tự do và linh động so với bậc phổ thông nên dễ làm người học dễ nải .vắng mặt với nhiều lý do khác nhau .Vì vậy tính tự giác học chính là yêu cầu buộc cho những ai là sinh viên . Nói chung ,có ba thứ chúng ta phải học là kiến thức .kỹ năng và phương pháp tiếp thu,xử dụng kiến thức ,kỹ năng đó . Nói chung kiến thức là vô biên ,học suốt đời không hết .Kiến thức có trong tài liệu , thầy cô giáo ,bạn bè và rất nhiều từ các ngồn khác . Hiện nay ,xã hội tràn ngập thông tin từ các phương tiện truyền thông .Dường như có quá nhiều thứ để xem,nghe,đọc,học tập và nguyên cứu ..Là sao chúng ta không bị quá nhiều thông tin gây nhiễu loạn ? Điều gì giúp ta gạc lọc và xử lý thông tin một các hữa hiệu ?Đó chính là phương pháp ,là cách thức của mỗi người chúng áp dụng khi học tập và ứng dụng trí thức mình thu được. Thông tin là không khí giúp chúng ta hô hấp ,phương pháp như cách chúng ta hít thở .Ai có cách híc thở tốt sẽ có nhiều dưỡng khí và có lợi cho sức khỏe phải không bạn ?Thông tin có thể lạc hậu nhưng phương pháp thu nhận xử lý thông tin phải tồn tại và không ngừng cải tiến . Phương pháp cũng có nhiều loại thích hợp cho người này có loại thích cho người kia điều chính yếu là chúng ta phải biết những

phương pháp nào,đâu là phương pháp thích hợp với mình mà áp dụng cụ thể . Học tập vừa là những hoạt động nhất vừa là cả quá trình suốt đời .Có người nói “Chỉ cần học qua đại học cho có mảnh bằng đại học là xong,Cần gì nhiều chữ ?”.Điếu này không sai nếu như anh ta chỉ cần và có thể.Nhưng bạn là doanh nghiệp muốn thuê nhân công ,người này đến xin việc bạn có nhận không ? “Vậy mà có người nói với tôi là nhận đó !Anh ta nói rằng: “chỉ cần có mảnh bằng đại học là anh ta có thể đứng trên bục giảng trở thành một giáo sư trong các hệ thống giáo dục ViệtNam bằng rất nhiều đường khác nhau như quen biết bà con họ hàng và rồi sẽ được nhà nước trợ cấp đi du học cao hơn nữa sau này trở thành thạc sĩ tiến dễ như chơi!hay vào các công ty thuộc nhà nước quản lý ! “. Học đại học không chỉ để có tấm bằng như ai ,mà cao hơn nữa ,học đại học bồi đắp kiến thức thiết thực cho mình ,để sau này làm được công việc ma thị trường học đòi hỏi .Cao hơn nữa,học tập còn là cách thức tối ưu để người ta làm biến đổi chính bản thân và cuộc sông của mình ,và nó là cơ sở để thúc đẩy cho sự phát triển của xã hội Bai tham khao3 Mở đầu 1.Lý do chọn đề tài - Sinh viên là đội ngũ trí thức tương lai của đất nước, sự phát triển của đất nước đòi hỏi phải có lực lượng lao động có trình độ khoa học, tay nghề cao, có sức khỏe tốt… Chính vì vậy công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng sinh viên luôn được coi trọng. - GDTC là một học trong chương trình đào tạo ở bậc Đại học với mục đích góp phần tạo nên sự phát triển hài hòa toàn diện cho sinh viên không chỉ về trí tuệ mà cả về sức khỏe, ý chí… Tuy vậy, chất lượng giảng dạy và học tập GDTC ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn đang ngày càng giảm sút. Sinh viên không thích học môn này, kết quả học tập thường là thấp. Từ lí do như vậy chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu của mình là: Tìm hiểu hứng thú học tập môn GDTC của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. 2.Mục đích nghiên cứu - Làm rõ thực trạng hứng thú của sinh viên với môn học GDTC. - Tìm ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng hứng thú của sinh viên với môn học này. - Đề xuất, kiến nghị góp phần làm cho việc giảng dạy và học tập môn học này được tốt hơn. 3.Đối tượng nghiên cứu Hứng thú học tập môn GDTC của sinh viên.

4.Khách thể và phạm vi nghiên cứu 4.1.Khách thể nghiên cứu: 300 sinh viên thuộc khác khoa Tâm lý học, Xã hội học và Văn học đã học tập môn GDTC. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nhận thức của sinh viên về vai trò, mục đích, sự cần thiết, ý nghĩa của môn học GDTC. - Xúc cảm, tình cảm của sinh viên với môn học và thầy cô giảng dạy GDTC. - Hành động của sinh viên với môn học GDTC: Hành động học tập trên lớp, luyện tập thể dục ở nhà, sưu tầm đọc thêm các tài liệu về GDTC… - Nguyên nhân gây ra thực trạng hứng thú của sinh viên với môn học GDTC, cả từ phía sinh viên và các thầy cô giảng dạy. 5.Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ sở lí luận của đề tài: - Lịch sử nghiên cứu vấn đề hứng thú. - Làm rõ các khái niệm: hứng thú, hứng thú nhận thức, hứng thú học môn GDTC. 5.2. Nghiên cứu thực tiễn: - Thực trạng hứng thú của sinh viên với môn học GDTC. - Nguyên nhân của thực trạng trên. 6.Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp phỏng vấn sâu. - Phương pháp phân tích tài liệu. - Phương pháp thống kê toán học. 7.Giả thuyết nghiên cứu - Đa phần sinh viên đã nhận thức đúng được vai trò, mục đích, chương trình giảng dạy của môn học GDTC. Tuy nhiên, xúc cảm của sinh viên với môn học này lại không tốt và sinh viên chưa chăm chỉ, thường xuyên học tập môn học này. - Nguyên nhân của tình trạng trên là do sinh viên không đáp ứng được các yêu cầu của môn học (như sức khỏe yếu…); coi đây là môn học phụ nên không chăm học. Mặt khác, phương pháp giảng dạy của các thầy cô còn chưa gây hứng thú cho sinh viên. Thực trạng hứng thú học tập môn GDTC của sinh viên - Nhận thức của sinh viên về mục đích, chương trình đào tạo, tác dụng vai trò của môn GDTC ngoại trừ 69,4% cho rằng GDTC nâng cao sức khỏe, các câu trả lời của các bạn đều thể hiện mức độ nhận thức thấp, nhận thức cảm tính về môn GDTC. Các bạn sinh viên đa phần chưa thấy hết được học GDTC có tác dụng như thế nào trong cuộc sống; không biết được chương trình đào tạo môn GDTC được thực hiện như thế nào. Từ kết quả nghiên cứu đã cho thấy giả thuyết nghiên cứu của chúng tôi đưa ra là sinh viên đã nhận thức đúng được vai trò, mục đích, sự cần thiết… của môn học GDTC là chưa đúng.

- Về mặt xúc cảm tình cảm, trong mỗi câu hỏi đề cập đến vấn đề này đều cho thấy nhiều nhất cũng chỉ 30% các bạn cho GDTC là môn cuốn hút hấp dẫn sinh viên. Đa số các bạn sinh viên còn lại đều cho rằng GDTC là môn học bình thường hoặc không hấp dẫn, nhàm chán. Như vậy, giả thuyết nghiên cứu chúng tôi đưa ra đa số sinh viên không có những xúc cảm, tình cảm tốt đẹp với môn học này là đúng. - Về mặt hành động, các bạn sinh viên tuy có đi học đầy đủ, nhưng chỉ là bắt buộc còn các hành động khác thể hiện sự quan tâm, hứng thú với môn học GDTC thì hầu như ít có. Các bạn sinh viên hầu như không có những hành vi thể hiện sự tìm tòi đào sâu về môn học này. Qua đó, đã khẳng định giả thuyết nghiên cứu chúng tôi đưa ra ban đầu là sinh viên chưa chăm chỉ, thường xuyên học tập môn này là đúng. Kết quả học tập môn GDTC không cao cũng là hệ quả tất yếu của việc ít sinh viên có hứng thú học tập GDTC. - Nguyên nhân của những điều trên là do điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho học tập GDTC còn chưa đầy đủ; sức khỏe năng lực của các bạn sinh viên không đáp ứng được với môn học này; GDTC lại là môn học phải học vào ngày nghỉ cuối tuần; các bạn sinh viên cảm thấy được sự cần thết của GDTC trong cuộc sống của các bạn sau này. Trong khi các thầy cô giảng dạy nhiều khi còn chưa hấp dẫn, yêu cầu cao tạo cho các bạn sự không thoải mái, ức chế… - Các kiến nghị, ý kiến của sinh viên với nhà trường và bộ môn GDTC tập trung chủ yếu vào cải thiện cơ sở vật chất cho việc giảng dạy và học tập GDTC (như sân bãi, dụng cụ học tập, cấp nước lọc cho các bạn dùng khi học), thay một số nội dung môn hộc (như bỏ một số môn đòi hỏi quá cao về sức khỏe, thay vào các môn nhẹ nhàng và phù hợp hơn), các thầy cô giảng dạy cùng với sinh viên học tập vui chơi thể thao, khi đánh giá sinh viên cần căn cứ nhiều hơn nữa vào sức khỏe, thể trạng của các bạn, nhất là đối với sinh viên nữ… Thực tế trong quá trình giảng dạy, các thầy cô vẫn luôn chú ý tới điều này. Có bạn sinh viên nữ sức khỏe hầu như không thể đảm bảo yêu cầu của môn học, nhưng các thầy vẫn tạo điều kiện để các bạn thi đủ điểm 5. Kiến nghị - Trong khi giảng dạy, các thầy (cô) cần giải thích nâng cao nhận thức của sinh viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học GDTC. Từ đó để thúc đẩy các bạn nỗ lực hơn trong học tập GDTC. - Nhà trường quan tâm đầu tư trang thiết bị cho dạy – học môn này nhằm lôi cuốn các bạn sinh viên trong học tập như tăng cường phương tiện, công cụ luyện tập, tạo điều kiện phục vụ nước uống cho các thầy cô và các bạn sinh viên trong giờ giải lao, các lớp mặc quần áo thể thao đồng phục khi học GDTC, không bố trí lịch học vào cuối tuần… - Cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy môn GDTC theo hướng tăng cường thực hạng, phát huy tính tích cực tự giác của sinh viên trong học tập thay thế đưa vào một số môn học cho phù hợp với sức khỏe và sở thích của các bạn sinh viên như bóng đá, bóng đá, bóng bàn, cầu lông, nhịp điệu… hoặc sinh viên được học môn thể thao tự chọn mà họ yêu thích. Không để các bạn sinh viên sức khỏe yếu phải luyện tập các môn thể thao đòi hỏi nhiều thể lực như chạy dài… - Trong giờ học GDTC, các thầy cô cho phép các bạn sinh viên được chơi thể thao và nếu có thể cùng tham gia với các bạn như làm trọng tài… Để kích thích các bạn học tập, các thầy cô giảng dạy v cần vui vẻ gần gũi với các bạn sinh viên hơn nữa. Không đánh giá khắt khe với các bạn trong khi thi hết môn. - Các bạn sinh viên cần phải luôn có ý thức tự giác cao trong học tập, tránh làm cho các thầy cô giảng dạy GDTC có ấn tượng các bạn học không nghiêm túc, thậm chí coi thường môn học. Mặt khác các thầy cô giảng dạy GDTC cần thường xuyên bồi

dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình. tham khO 4 Ðây là phiên bản html của tệp http://www.taybacuniversity.edu.vn/elib/Giao%20duc/Thuc%20trang%20hung%20thu%20hoc%20tap%20mon%20Gi ao%20duc%20hoc...%20(Mai%20Trung%20Dung).pdf. G o o g l e tự động tạo ra những phiên bản html của các tài liệu khi chúng tôi crawl web.

Page 1 THỰC TRẠNG HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC HỌC  CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM HỆ CAO ĐẲNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC  Mai Trung Dũng  Bộ môn Tâm lý giáo dục  Absract. The studying motivation plays a very important role in enabling students to be the actual agents in  their studying activities. In pedagogical universities, pedagogy takes a vital role in upgrading teaching and learning quality. Therefore, teaching pedagogy to students as well as seeking for students’ studying motivation  on this subject pay to be necessary and focal matter. 

Đặt vấn đề:  Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại đã đặt ra những yêu cầu rất  cao về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Sản phẩm của giáo dục, đào tạo đại học là những  sinh viên tốt nghiệp. Liệu họ có khả năng đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mà cuộc sống đặt  ra hay không? Làm thế nào để người học có hứng thú tập trung chú ý trong học tập, nắm được  những tri thức khoa học cơ bản, đặc biệt, họ có khả năng tự học, tự nghiên cứu, có kỹ năng,  kỹ xảo để đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng của thực tế.  Trường Đại học Tây Bắc trong những năm qua, bộ môn giáo dục học cùng với các bộ môn khác đã góp phần quan trọng vào việc đào tạo những đội ngũ giáo viên phục vụ đắc lực  cho sự nghiệp giáo dục Tây Bắc nói riêng và cho đất nước nói chung. Tuy nhiên, việc học  môn giáo dục học của sinh viên hiện nay nói chung chất lượng còn thấp, sinh viên chủ yếu  nắm được tri thức lý thuyết môn học còn khả năng vận dụng vào thực tiễn lại rất yếu; thái độ học tập chưa cao, việc học chủ yếu là nhằm vào thi cử; phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là  thuyết trình, nặng về đọc chép, dạy chay vẫn là phổ biến. Do đó, việc dạy môn giáo dục học  cho sinh viên cũng như việc tìm hiểu hứng thú học môn giáo dục học là rất cần thiết và đang  được quan tâm nghiên cứu.  Trong phạm vi bài này, chúng tôi không đi sâu nghiên cứu tất cả của vấn đề hứng thú  học tập môn giáo dục học của sinh viên mà chỉ tìm hiểu, mô tả thực trạng về đặc điểm hứng  thú học môn giáo dục học cho sinh viên sư phạm hệ Cao đẳng trường Đại học Tây Bắc. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu 175 sinh viên sư phạm hệ Cao đẳng, trong đó có 92 sinh  viên khối Tự nhiên và 83 sinh viên khối Xã hội  I. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của việc học môn giáo dục học trong nhà  trường sư phạm.  1. Nhận thức của sinh viên về ý nghĩa của việc học môn giáo dục học trong nhà trường sư phạm.  Để tìm hiểu thực trạng này, chúng tôi đưa ra câu hỏi “Theo bạn, học môn giáo dục  học có tầm quan trọng như thế nào đối với sinh viên sư phạm?”. 

Page 2 Bảng 1: Nhận thức của sinh viên về ý nghĩa của việc học môn giáo dục học Cần thiết  Có hay  không cũng được  Không cần thiết 

Mức  độ Khối  SL  %  SL  %  SL  %  Tự nhiên(92)  78  84,8  14  15,2  0  0,0  Xã hội(83) 78  94,0  5  6,0  0  0,0  Chung(175) 156  89,2  19  10,8  0  0,0  Nhận xét:  Đa số sinh viên được điều tra cho rằng : Học môn giáo dục là cần thiết và quan trọng  đó với sinh viên sư phạm (chiếm 89,2 %), số sinh viên này nêu lên một số lý do cho rằng học  môn giáo dục học là cần thiết vì: Muốn trở thành nhà giáo vững vàng, tự tin đứng trên bục  giảng sau này thì đối với mỗi sinh viên sư phạm không chỉ được trang bị những tri thức  chuyên môn mà còn phải trang bị cho mình hệ thống tri thức kỹ năng, kỹ xảo nghiệp vụ sư phạm, nếu người giáo viên thiếu hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghiệp vụ thì không thể tiến hành giảng dạy và giáo dục được. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn (10,8 %) số sinh viên  cho rằng: học môn giáo dục học “Có hay không cũng được”. Rất may là không có sinh viên  nào cho rằng “Không cần thiết”  Nếu so sánh giữa sinh viên khối Tự nhiên và khối Xã hội thì sinh viên khối xã hội  nhận thức về mức độ “Cần thiết” cao hơn so với sinh viên khối Tự nhiên, cụ thể: (94,0 %)sinh  viên khối xã hội cho rằng là cần thiết và quan trọng, sinh viên khối Tự nhiên là (84,8%), với  độ chênh lệch là 9,2 %. Điều này do nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó đáng chú ý hơn  cả là do tính chất môn học (các môn khoa học xã hội khác với các môn tự nhiên) đã phần nào  chi phối ý thức của họ 2. Nhận thức của sinh viên về tác dụng của việc học môn giáo dục học Để tìm hiểu thực trạng nhận thức của sinh viên về việc học môn giáo dục học, chúng  tôi đặt câu hỏi: “Theo bạn, học môn giáo dục học có tác dụng gì đối với bản thân và nghề nghiệp sau này?” 

Bảng 2: Nhận thức của sinh viên về tác dụng của việc học môn giáo dục học Tự nhiên  Xã hội  Chung  Khối Các tác dụng %  T.B  %  T.B %  T.B  Hiểu biết hơn về nghề 69,6  3  57,8 3  63,7 3  Nâng cao lòng yêu nghề, mến trẻ 58,7  4  48,2 4  53,4 4  Lĩnh hội được kinh nghiệm nghề nghiệp  73,9  2  68,7 2  71,3 2  Hình thành và rèn luyện kỹ năng dạy học  và giáo dục  84,8  1  79,6 1  82,2 1 

Page 3 Các tác dụng khác  6,3  5  18,0 5  12,1 5  Nhận xét: Tác dụng của việc học môn giáo dục học được sinh viên đánh giá theo các  mức độ(%) khác nhau. Trong một số tác dụng của việc học môn giáo dục học theo tự đánh giá  của sinh viên thì tác dụng “Giúp sinh viên rèn luyện và hình thành các kỹ năng dạy học và giáo dục” được sinh viên đánh giá cao nhất (chiếm 82,2 % số sinh viên được hỏi cho là như vậy). Tiếp đến là tác dụng “lĩnh hội được kinh nghiệm nghề nghiệp”(chiếm 71,3 %, giữ vị trí  2). Chính nhờ lĩnh hội được kinh nghiệm nghề nghiệp mà các em “hiểu biết hơn về nghề” của  mình, về công việc của người thầy giáo(chiếm 63,7 %, giữ vị trí 3). Từ sự hiểu biết hơn về nghề nghiệp của người thầy giáo đã làm nảy sinh ở sinh viên tình cảm đối với nghề nghiệp,  làm cho các em cảm thấy “Yêu nghề, yêu trẻ hơn”(chiếm 53,4 %, giữ vị trí 4). Các tác dụng  khác là 12,1 %  II. Thái độ của sinh viên đối với việc học tập môn giáo dục học trong nhà trường sư

phạm  1. Thái độ của sinh viên đối với việc học tập môn giáo dục học  Bảng 3: Thái độ của sinh viên đối với việc học tập môn giáo dục học Thích  Không thích  Mức độ Khối  SL  %  SL  %  Tự nhiên  77  83,7  15  16,3  Xã hội  78  94,0  5  6,0  Chung  155  88,6  20  11,4  Nhận xét :  Đa số sinh viên được điều tra cho rằng thích học môn giáo dục học(chiếm 88,6 % số sinh viên được hỏi cho là như vậy). Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn khoảng (11,4 %) số sinh  viên được điều tra cho rằng “không thích học” môn giáo dục học. Nếu so sánh giữa hai khối  thì tỉ lệ (%) số sinh viên thích học môn giáo dục học của khối Xã hội cao hơn khối Tự nhiên,  Cụ thể: 94,0% sinh viên khối xã hội cho rằng thích học môn giáo dục học, sinh viên khối Tự nhiên là 83,7 %, với độ chênh lệch là 10,3 %. Điều này cũng hợp lý xét theo góc độ tính chất  môn học và khuynh hướng học của sinh viên hai khối (Các môn xã hội khác với các môn tự nhiên, sinh viên xã hội thường thích học các môn xã hội và ngược lại) đã phần nào chi phối  thái độ của họ đối với việc học môn này. Vậy, những lý do nào dẫn đến sinh viên thích học  môn giáo dục học? 2. Lý do dẫn đến sinh viên thích học môn giáo dục học?  Bảng 4: Lý do dẫn đến sinh viên thích học môn giáo dục học  Tự nhiên  Xã hội  Chung  STT  Khối  Lý do  X

TB 

X

TB  X

TB  1  Giáo viên dạy hấp dẫn  2,29 3  1,6 4  1,95 3 

Page 4 1  2  Môn học có ý nghĩa  3,55 2  3,6 3  2  3,59 2  3  Môn học có tác dụng đối với bản thân và  nghề nghiệp  3,94 1  4,3 9  1  4,17 1  4  Dễ học  1,47 5  1,6 6  3  1,57 4  5  Học đạt kết quả cao  1,55 4  1,5 7  5  1,56 5  Chú thích: X

= Điểm trung bình ; T.B = Thứ bậc  Nhận xét:  Khi lý giải các lý do dẫn đến thích học môn giáo dục học thì phần lớn sinh viên đánh giá cao  các lý do liên quan trực tiếp đến môn học. Cụ thể:  + Môn học có tác dụng cho bản thân và nghề nghiệp ( X

= 4,17; xếp bậc 1). (

X

= 3,59; xếp bậc 2).  + Môn học có ý nghĩa Những lý do có liên quan gián tiếp đến môn học, có khả năng mang lại hứng thú học tập  cao nhưng sinh viên lại đánh giá thấp hơn. Cụ thể:  + Giảng viên dạy hấp dẫn sinh động ( X

= 1,95; xếp bậc 3).  ( X

= 1,56; xếp bậc 5).  + Học đạt kết quả cao Nếu so sánh các lý do dẫn đến hứng thú học môn giáo dục học của sinh viên hai khối (Tự nhiên và Xã hội) thì không có sự chênh lệch đáng kể về thứ bậc. Đồng thời, để so sánh sự sắp xếp thứ tự các lý do dẫn đến hứng thú học môn giáo dục học của sinh viên hai khối (Tự nhiên và Xã hội) chúng tôi sử dụng công thức hệ số tương quan của Specman cho thấy  R  = 0,95 thể hiện lý do dẫn đến hứng thú học môn giáo dục học của sinh viên hai khối là tương  quan chặt.  III. Mức độ biểu hiện hứng thú học môn giáo dục học của sinh viên.  Bảng 5: Mức độ biểu hiện hứng thú học môn giáo dục học của sinh viên.  Tù nhiªn  X∙ héi  Chung  Khối  Biểu hiện SL  %  SL  %  SL  %  Đi học đúng giờ 82  89,1 72  86,7  154  88,0  Chú ý nghe giảng và ghi chép bài  đầy đủ 63  68,4 72  86,7  135  77,1  Tích cực phát biểu ý kiến  9  9,8  15 

18,0  24  13,7  Cảm thấy nuối tiếc khi phải nghỉ giờ giáo dục học  21  22,8 20  24,0  41  23,4 

Page 5 Thường độc những tài liệu có liên quan đến giáo dục học  48  52,1 43  51,8  91  52,0  Thường đọc những tài liệu về giáo dục học  9  9,8  16  19,3  25  14,3  Thường học bài và làm bài tập  đầy đủ trước khi đến lớp  36  39,1 41  49,4  77  34,0  Luôn luôn suy nghĩ về vấn đề khó  hiểu  42  45,6 38  45,8  80  45,7  Boăn khoăn không vui khi chưa  hiểu bài  46  50,0 47  56,6  93  53,1  Mỗi khi có boăn khoăn, thắc mắc  tôi thường gặp thầy, gặp bạn để trao đổi 

7  7,6  9  10,8  16  9,2  Nhận xét:  Hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc có nhiều biểu hiện khác nhau và mức độ các biểu hiện đó ở sinh viên là không như nhau:  * Các biểu hiện hứng thú có tỷ lệ cao là:  + Đi học đúng giờ (chiếm 88,0 %, giữ vị trí 1). + Chú ý nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ (chiếm 77,1 %, giữ vị trí 2). + Boăn khoăn không vui khi chưa hiểu bài (chiếm 53,1 %, giữ vị trí 3). + Thường đọc những tài liệu có liên quan đến giáo dục học (chiếm 52,0 %, giữ vị trí 4).  * Các biểu hiện hứng thú có tỷ lệ thấp:  + Luôn luôn suy nghĩ về vấn đề khó hiểu (Chiếm 45,7 %, giữ vị trí 5).  +Thường học bài và làm bài tập đầy đủ trước khi đến lớp (Chiếm 34,0 %, giữ vị trí 6).  + Cảm thấy nuối tiếc khi phải nghỉ giờ giáo dục học (Chiếm 23,4 %, giữ vị trí 7).  + Thường đọc các tài liệu giáo dục học (Chiếm 14,3 %, giữ vị trí 8).  + Tích cực phát biểu ý kiến xây dựng bài (Chiếm 13,7 %, giữ vị trí 9).  + Mỗi khi boăn khoăn, thắc mắc tôi thường gặp thầy, gặp bạn để trao đổi (Chiếm 9,2 %, giữ vị trí 10).  IV. Những nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh  viên sư phạm hệ Cao đẳng trường Đại học Tây Bắc. Để hiểu những nguyên nhân ảnh hưởng tới hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên  sư phạm hệ Cao đắng trường Đại học Tây Bắc chúng tôi đã đưa ra 9 nguyên nhân và yêu cầu  sinh viên chọn 5 nguyên nhân và xắp xếp thứ tự ưu tiên: 1 là quan trọng nhất.  Bảng 6: Nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh

Page 6 Tự nhiên  Xã hội  Chung  Khối  Nguyên nhân  ĐTB  TB  ĐTB TB  ĐTB TB  Giáo viên giảng bài không hấp dẫn,  sinh động  2,7  1  2,19 3  2,46 1  Giáo viên ít liên hệ với thực tiễn  giáo dục  2,08  3  1,77 5 

1,93 5  Hiểu biết của giáo viên về lĩnh vực  giáo dục chưa rộng  1,51  7  0,93 8  1,22 8  Giáo viên khắt khe, ít vui vẻ, cởi mở với sinh viên  1,69  6  1,18 7  1,44 6  Môn giáo dục học không hữu ích  cho bản thân và nghề nghiệp  0,19  9  0,16 9  0,18 9  Giáo dục học là môn học khô khan  nhàm chán  0,85  8  1,69 6  1,27 7  Khó học  1,88  4  2,13 4  2,00 4  Tài liệu học tập thiếu  2,18  2  2,66 1  2,42 2  Trang thiết bị dạy học không đầy đủ 1,86  5  2,26 2  2,06 3  Chú thích:  X

= ĐTB = Điểm trung bình ; T.B = Thứ bậc  Nhận xét:  Nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên sư phạm hệ Cao đẳng trường Đại học Tây Bắc rất đa dạng, gồm 9 nguyên nhân khác nhau với mức độ gây  ảnh hưởng cũng khác nhau.  * Nhóm các nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên  được xếp ở thứ bậc cao  ­ Giáo viên giảng bài không hấp dẫn, sinh động  X

= 2,46, xếp bậc 1.  ­ Tài liệu học tập thiếu với điểm trung  X

= 2,42, xếp bậc 2.  X

= 2,06, xếp bậc 3.  ­ Trang thiết bị dạy học không đầy đủ với điểm trung  ­ Khó học với điểm trung  X

= 2,00, xếp bậc 4.  * Nhóm các nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh  viên được xếp ở thứ bậc thấp.  X

­ Giáo viên ít liên hệ với thực tiễn giáo dục với điểm trung  = 1,93, xếp bậc 5.  X

= 1,44, xếp bậc 6.  ­Giáo viên khắt khe, ít vui vẻ, cởi mở với sinh viên với điểm trung  X

= 1,27, xếp bậc 7.  ­ Giáo dục học là môn học khô khan, nhàm chán với điểm trung  ­ Hiểu biết của giáo viên về lĩnh vực giáo dục chưa rộng với điểm trung  X

= 1,22, xếp bậc  8. 

Page 7 X

­ Môn học không hữu ích cho bản thân và nghề nghiệp sau này với điểm trung  = 0,18,  xếp bậc 9.  Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh  viên trong đó có cả nguyên nhân chủ quan và những nguyên nhân khách quan. Những nguyên  nhân cơ bản có ảnh hưởng nhiều nhất đến hứng thú học tập môn giáo dục học của họ là: Giáo  viên dạy không hấp dẫn, sinh động; tài liệu học tập còn thiếu, phương tiện dạy học chưa đầy  đủ và do tính chất của môn học khó học. Các nguyên nhân “Giáo viên ít liên hệ với thực tế”, “Giáo viên khắt khe, ít vui vẻ, cởi mở với sinh viên” ít gây ảnh hưởng hơn. Ngoài ra các  nguyên nhân khác (Giáo dục học là môn học khô khan, nhàm chán; hiểu biết của giáo viên về lĩnh vực giáo dục chưa rộng; môn học không hữu ích cho bản thân và nghề nghiệp sau này)  cũng có ảnh hưởng nhất định đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên ở các mức  độ khác nhau.  Nếu so sánh nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh  viên hai khối(Tự nhiên và Xã hội) thì không có sự chênh lệch nhau đáng kể. Đồng thời, để so  sánh sự xắp xếp thứ tự các nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học  của sinh viên hai khối chúng tôi dùng công thức hệ số tương quan Spécman cho thấy R = 0,8  thể hiện nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh viên hai  khối là tương quan chặt  V. Kết luận và kiến nghị.  1. Kết luận:  Qua kết quả nghiên cứu trên 175 sinh viên hệ cao đẳng trường Đại học Tây Bắc về thực 

trạng hứng thú học tập môn giáo dục học, chúng tôi nhận thấy:  Đa số sinh viên được điều tra nhận thức được việc học môn giáo dục học trong nhà  trường sư phạm là cần thiết và quan trọng(89,2 %); Giúp hình thành và rèn luyện các kỹ năng dạy học và giáo dục(82,2 %); hiểu biết hơn về nghề(63,7 %); Nâng cao lòng yêu  nghề mến trẻ(53,4 %)…  ­ Đa số sinh viên có thái độ thích học môn giáo dục học nhưng mức độ biểu hiện hứng thú  học môn giáo dục học chưa cao. Mức độ biểu hiện hứng thú học môn giáo dục học của  sinh viên khối xã hội cao hơn so với sinh viên khối tự nhiên.  ­ Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn giáo dục học của sinh  viên trong đó có cả nguyên nhân chủ quan và những nguyên nhân khách quan. Những  nguyên nhân cơ bản có ảnh hưởng nhiều nhất đến hứng thú học tập môn giáo dục học  của họ là: Giáo viên dạy không hấp dẫn, sinh động; tài liệu học tập còn thiếu, phương  tiện dạy học chưa đầy đủ và do tính chất của môn học khó học. Các nguyên nhân “Giáo  viên ít liên hệ với tế”, “Giáo viên khắt khe, ít vui vẻ, cởi mở với sinh viên” ít gây ảnh  hưởng hơn. Ngoài ra các nguyên nhân khác (Giáo dục học là môn học khô khan, nhàm chán; hiểu biết của giáo viên về lĩnh vực giáo dục chưa rộng; môn học không hữu ích  cho bản thân và nghề nghiệp sau này) cũng có ảnh hưởng nhất định đến hứng thú học tập  môn giáo dục học của sinh viên ở các mức độ khác nhau.  ­ 2. Kiến nghị: 

Page 8 Dựa vào kết quả điều tra về thực trạng và những nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học  môn giáo dục học của sinh viên sư phạm hệ Cao đẳng trường Đại học Tây Bắc, chúng tôi có  những kiến nghị sau:  ­ Phải làm cho sinh viên nhận thức được tầm quan trọng. ý nghĩa và tác dụng của môn  giáo dục học đối với cuộc sống, đối với nghề nghiệp tương lai. ­ Trong giảng dạy, cần kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Đặc biệt chú ý từng bước áp dụng quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm để kích thích sinh viên tham gia giải  quyết các tình huống, chủ động lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm. ­ Cần kết hợp và vận dụng linh hoạt giữa lý thuyết và thực tiễn thông qua các ví dụ minh  họa chính xác, phù hợp với nội dung bài giảng.  ­ Tích cực khai thác triệt để mối quan hệ giữa môn giáo dục học với các bộ môn khoa học  khác làm cho nội dung bài giảng giáo dục học hấp dẫn.  ­ Để áp dụng phương pháp dạy học mới, nhà trường cần tạo điều kiện hơn nữa về giảng  đường, hệ thống loa đài, đặc biệt là phương tiên, tài liệu học tập cho sinh viên… không nên  bố trí lớp học quá đông sinh viên làm hạn chế việc áp dụng phương pháp dạy học mới, ảnh  hưởng đến kết quả học tập của sinh viên.  ­ Cần tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ để kích thích sự say mê của các em đối với lĩnh vực giáo dục học. Qua đó, giúp sinh viên hiểu rõ hơn ý nghĩa của môn  học, sự cần thiết của môn học đối với cuộc sống, nghề nghiệp sau này.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. A.G.Côvaliop (1971), Tâm lý học cá nhân. Tập 1, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.  2. A.N.Petropxki (1989), Tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm. Tập 1,2, Nhà xuất  bản Giáo dục, Hà Nội.  3. Phạm Minh Hạc(1989), Tâm lý học. Tập 1,2, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội.  4. Vấn đề hứng thú nhận thức trong khoa học giáo dục(1973), Tổ tư liệu Trường Đại 

học sư phạm Hà Nội.  5. Hà Thế Ngữ ­ Đặng Vũ Hoạt, Giáo Dục Học. Tập 1,2, N x b Giáo dục, Hà Nội 

Related Documents


More Documents from ""