I.
Ý tưởng chung:
1. Trong công nghiệp ngày nay, chuẩn truyền thông RS232 không thể đáp ứng được nhu cầu truyền thông nữa vì đường truyền không cân bằng (các tín hiệu đều lấy điểm chuẩn là đường mass chung, bị ảnh hưởng của nhiễu tác động) do đó tốc độ truyền và khoảng cách truyền bị giới hạn (khoảng cách truyền thông tối đa 100m). Vì vậy để đáp ứng nhu cầu truyền thông công nghiệp, người ta sử dụng chuẩn truyền thông RS485 khi cần tăng khoảng cách và tốc độ truyền thông (khoảng cách truyền thông tối đa 1200m và vận tốc truyền lên đến 10 Mbits/s). Nguyên nhân mà RS 485 có thể tăng tốc độ và khoảng cách truyền thông là do RS 485 sử dụng phương pháp truyền 2 dây vi sai (vì 2 dây có đặc tính giống nhau, tín hiệu truyền đi là hiệu số điện áp giữa 2 dây do đó loại trừ được nhiễu chung). Mặt khác do chuẩn truyền thông RS 232 không cho phép có hơn 2 thiết bị truyền nhận tin trên đường dây trong khi đó với chuẩn RS 485 ta có thể nối 32 thiết bị thu phát trên 2 dây. 2. Đề tài của đồ án xuất phát từ ý tưởng kết hợp sử dụng chuẩn truyền thông RS232 và RS485 để điểu khiển thu thập và xử lý dữ liệu, thông tin trong công nghiệp.Chúng tôi sử dụng vi điều khiển master để xuất địa chỉ đến các vi điều khiển slave, vi điều khiển slave sẽ thu thập dữ liệu thông tin đã được cài đặt sẵn sau đó truyền tín hiệu trả về master. II.
Linh kiện sử dụng trong mạch: 1.AT89C51: Đây là linh kiện vi điều khiển 8 bit với 4 Kbytes bộ nhớ nội có khả năng lập trình được và có khả năng xóa chương trình bằng điện. * CPU 8 bit được tối ưu hóa cho các ứng dụng điều khiển * Các khả năng xử lí các biến Boole mở rộng * Vùng địa chỉ nhớ chương trình 64K * Vùng địa chỉ nhớ dữ liệu 64K * 128 byte dữ liệu Ram trên chip * 32 đường I/O 2 chiều và có thể định địa chỉ riêng rẽ * 2 bộ đếm,mạch định thì 16 bit * UART song công (full duplex) * Cấu trúc ngắt 5 vector / 6 nguồn với 2 cấp ưu tiên * Mạch dao động xung nhịp trong chip
Sau đây là sơ đồ khối của AT89C51:
Và đây là sơ đồ chân của AT89C51:
Ý nghĩa các chân của AT89C51:
*AT89C51 có tất cả 40 chân trong đó chân 40 là chân nguồn, chân 20 là chân mass, chân 18 và chân 19 được nối qua 1 thạch anh 11.056Mhz để tạo dao động cho vi điều khiển. Chân 31 EA/ được dùng để chọn sử dụng Rom nội hay Rom ngoại, nếu chân này được nối lên nguồn thì ta sử dụng Rom nội còn nếu nối xuống mass thì ta sử dụng Rom ngoài. * PORT 0:là 1 Port 2 chức năng ,trên các chân 32-39. Trong các thiết kế nhỏ, nó có chức năng như các đường I/O. Đối với các thiết kế lớn với bộ nhớ mở rộng ,nó được dồn kênh giữa bus data và bus address. * PORT 1: là cổng dành riêng cho xuất /nhập trên các chân 1-8. Cổng này chỉ có chức năng giao tiếp với các thiết bị ngoài. * PORT 2:là 1 cổng công dụng kép trên các chân 21-28, được dùng như các đường xuất nhập hoặc là Byte cao của bus địa chỉ * PORT 3: là cổng công dụng kép trên các chân 10-17 ,.với các chức năng: Bit P3.0 P3.1 P3.2 P3.3 P3.4 P3.5 P3.6 P3.7
Tên RXD TXD INT0 INT1 T0 T1 WR RD
Địa chỉ bit B0H B1H B2H B3H B4H B5H B6H B7H
Chức năng chuyển đổi Dữ liệu nhận cho Port nt Dữ liệu phát cho Port nt Ngắt 0 bên ngoài Ngắt 1 bên ngoài Ngõ vào Timer/Counter 0 Ngõ vào Timer/Counter 1 Xung ghi bộ nhớ data ngoài Xung đọc bộ nhớ data ngoài
* PSEN :là TH ra trên chân 29. Nó là TH điều khiển để cho phép bộ nhớ chương trình mở rộng và thường được nối đến chân OE của 1 EPROM . 2.IC tạo nguồn áp chuẩn dương 7805: Đây là IC tự chỉnh định để tạo ra nguồn áp chuẩn dương +5V cung cấp cho mạch vi điều khiển. Sau đây là sơ đồ IC 7805.Chân 1 nối mass, chân 2 là ngõ vào của áp nguồn, chân 3 là ngõ ra +5V để cấp điện cho vi điều khiển và các linh kiện điện tử khác.
3.IC tạo nguồn áp chuẩn âm 7905: Đây là IC có chức năng giống như IC 7805 nhưng nó tạo ra áp chuẩn âm -5V nhằm cung cấp áp cho các linh kiện hay các module cần sử dụng nguồn áp âm hay nguồn áp lưỡng cực. Sau đây là 3 dạng chân cấu tạo và chức năng từng chân của IC 7905 ngoài thị trường.
4.IC Max 232: Max 232 dùng để chuyển tín hiệu logic +5V của vi điều khiển sang tín hiệu của chuẩn truyền thông RS 232 và truyền đi trên đường dây RS232.
Max 232 gồm có 2 bộ phát chuyển đổi tín hiệu TTL ngõ vào thành tín hiệu RS 232 ngõ ra và có 2 bộ thu nhận tín hiệu RS 232 ngõ vào và chuyển đổi thành tín hiệu CMOS tương ứng ngõ ra. 5.IC Max 485: Thật ra đây đơn thuần chỉ là 1 bộ chuyển đổi từ tín hiệu của chuẩn giao tiếp RS 232 sang tín hiệu của chuẩn giao tiếp RS 485 để có thể truyền tín hiệu đi trên đường dây RS 485 và từ đó có thể truyền tín hiệu đi xa và nhanh được. Đây là sơ đồ chân của Max 485: 8 8
U 6 7
G N D
VC C
A A
A
X 4
1 O 2 E 3 E 4 D I
8 5 5
M
R R D
Max 485 gồm bộ lái và bộ thu, tín hiệu vào bộ lái D logic TTL đổi thành 2 tín hiệu A và A\ , khi tín hiệu điều khiển DE mức thấp thì 2 chân AA\ cách ly với vi mạch. Tín hiệu vào bộ thu là A và A\ , tín hiệu ra R logic TTL tùy thuộc hiệu điện áp giữa A và A\ , khi RE\ logic 1 thì R cách ly với vi mạch. Mạng 485 làm việc theo chế độ master-slave, master cho DE mức 1 để truyền dữ liệu, còn các slave có DE=0, RE\=0 chờ nhận dữ liệu. Khi master muốn nhận dữ liệu thì DE=0, RE\=0 còn slave phát sẽ có DE=1, RE\=1. Ta điều khiển các đường DE, RE\ bằng tín hiệu RTS hay mạch định thì.
III.
Các khối mạch giao tiếp: 1.Khối tạo nguồn:
Đây là mạch dùng để tạo ra nguồn áp chuẩn 5V . Ta sử dụng IC 7805 để tạo ra áp chuẩn +5V và IC 7905 để tạo áp chuẩn -5V. 2Khối power:
Chân B của transistor được nối với chân power (P1.0) của master. Nguồn 5V nối vào qua transistor C885 rồi lấy dòng ra ở chân B nhằm hạn dòng trước khi đưa vào master.
3.Khối reset:
Khi nhấn nút reset thì áp 5V được nối vào chân reset của master để khởi động lại hệ thống.
4.Khối master:
Vì chương trình sử dụng ROM nội nên ta nối chân EA với nguồn 5V . Dùng thạch anh 11.056 MHz nối vào chân XTAL1 vaø XTAL2 để tạo xung clock .
5.Khối giao tiếp: 5.1.Max232:
Ta nối chân RXD của master vàoT1OUT, nối TXD của master vào R2IN.Các chân T1IN, R2OUT, R1OUT, T2IN dùng để nối vào các chân IN của Max485. 5.2.Max485:
Max485 dùng để chuyển tín hiệu trên đường dây RS232 thành tín hiệu trên đường dây RS485 và dùng chuẩn giao tiếp này để truyền tín hiệu đi xa.Chân T1In của Max232 nối với chân RO của Max485 và các chân R2OUT, R1OUT, T2In được nối tương tự như hình vẽ. IV. Mạch hoàn chỉnh:
V.
Chương trình phần mềm: 1. Giải pháp xử lý phần mềm:
Giải pháp xử lý phần mềm là xử lý từng tác vụ thông qua phương pháp lập lịch , với sơ đồ giao tiếp của Master và Slave như sau:
Ta cần tạo một vòng “siêu lặp”(Supper Loop) làm cơ sở xử lý cho một chương trình nhúng trong C. void main(void) { /* Chuẩn bị cho tTác vụ X */ X_Init(); while(1) /* 'không bao giờ kết thúc' (Super Loop) */ { X(); /* Thực hiện tác vụ */ } } Trong hàm main trên có từng tác vụ xảy ra mà ta cần phải xử lý chúng. Khái niệm tác vụ (task) cũng hay được sử dụng bên cạnh quá trình tính toán. Có thể nói, tác vụ là một nhiệm vụ xử lý thông tin trong hệ thống, có thể thực hiện theo cơ chế tuần hoàn (periodic task) hoặc theo sự kiện (event task). Các dạng tác vụ qui định trong chuẩn IEC 61131-3 (Programmable Controllers – Part3: Programming Languages) được minh họa trên hình sau. Ví dụ : Một tác vụ thực hiện nhiệm vụ điều khiển cho một hoặc nhiều mạch vòng kín có chu kỳ trích mẫu giống nhau. Hoặc, một tác vụ có thể thực hiện nhiệm vụ điều khiển logic, điều khiển trình tự theo các sự kiện xảy ra. Tác vụ có thể thực hiện dưới dạng một quá trình tính toán duy nhất, hoặc một dãy các quá trình tính toán khác nhau.
Để tổ chức việc thực hiện các tác vụ được hiệu quả, một hệ thống thời gian thực ta cần các phương pháp lập lịch. Trước hết, cơ chế lập lịch thực hiện cho các tác vụ có thể được thực hiện theo hai cách: * Lập lịch tĩnh: thứ tự thực hiện các tác vụ không thay đổi mà được xác định trước khi hệ thống đi vào hoạt động. * Lập lịch động: Hàm xác định lịch sau khi hệ thống đã đi vào hoạt động. Sau khi xác định được cơ chế lập lịch, Hàm cần sử dụng một sách lược lập lịnh (strategy) để áp dụng đối với từng tình huống cụ thể. Có thể chọn một trong những cách sau: * FIFO (First In First Out): một tác vụ đến trước sẽ được thực hiện trước. * Mức ưu tiên cố định/động: tại cùng một thời điểm, các tác vụ được đặt các mức ưu tiên cố định hoặc có thể thay đổi nếu cần. * Preemptive: còn gọi là sách lược chen hàng, tức là chọn một tác vụ để thực hiện trước các tác vụ khác. * Non-preemptive: còn gọi sách lược không chen hàng. Các tiến trình được thực hiện bình thường dựa trên mức ưu tiên của chúng. Việc tính mức ưu tiên của mỗi tiến trình được thực hiện theo một trong số các thuật toán sau: * Rate monotonic: tác vụ nào càng diễn ra thường xuyên càng được ưu tiên. * Deadline monotonic: tác vụ nào càng gấp, có thời hạn cuối càng sớm càng được ưu tiên.
* Least laxity: tác vụ nào có tỷ lệ thời gian tính toán/thời hạn cuối cùng(deadline) càng lớn càng được ưu tiên. Bên cạnh phương pháp lập lịch, cơ chế xử lý thời còn đặt ra nhiều vấn đề khác nữa như quản lý và đồng bộ hóa việc sử dụng tài nguyên, giao tiếp liên quá trình, ... Mỗi hệ thống điều khiển là một hệ thời gian thực. Có thể nói, tất các các hệ thống điều khiển là hệ thời gian thực. Ngược lại, một số lớn các hệ thống thời gian thực là các hệ thống điều khiển. Không có hệ thống điều khiển nào có thể hoạt động bình thường nếu như nó không đáp ứng được các yêu cầu về thời gian, bất kể là hệ thống điều khiển nhiệt độ, điều khiển áp suất, điều khiển lưu lượng hay điều khiển chuyển động. Một bộ điều khiển phải đưa ra được tín hiệu điều khiển kịp thời sau một thời gian nhận được tín hiệu đo để đưa quá trình kỹ thuật về trạng thái mong muốn. Một mạng truyền thông trong một hệ thống điều khiển có tính năng thời gian thực phải có khả năng truyền tin một cách tin cậy và kịp thời đối với các yêu cầu của các bộ điều khiển, các thiết bị vào/ra, các thiết bị đo và thiết bị chấp hành. Tính năng thời gian thực của một hệ thống điều khiển phân tán không chỉ phụ thuộc vào tính năng thời gian thực của từng thành phần trong hệ thống, mà còn phụ thuộc vào sự phối hợp hoạt động giữa các thành phần đó. Trong thực tế, yêu cầu về tính thời gian thực đối với mỗi ứng dụng điều khiển cũng có các đặc thù khác nhau, mức độ ngặt nghèo khác nhau. Ví dụ:Cấu trúc phương pháp lập lich và các mảng tác vụ được sử dụng trong này là: void main(void) { /* Tạo scheduler */ SCH_Init_ T2(); /* Chuẩn bị cho một tác vụ*/ X_Init(); /*Nạp thời gian cho tác vụ */ SCH_Add_Task(X_Update,a, b); /* Bắt đầu scheduler */ SCH_Start(); while(1) { SCH_Dispatch_Tasks(); } } void SCH_Update(void) interrupt INTERRUPT_Timer_2_Overflow { /* Danh sách các tác vụ(task) */ ... } /* Vùng lưu trữ dữ liệu,nếu có thể được để việc xử lý diễn ra nhanh Tổng dung lượng bộ nhớ sử dụng cho một tác vụ(task) là 7byte */
typedef data struct { /* Con trỏ cho tác vụ( task) ('void (void)' function) */ void (code * pTask)(void); /* Khoảng trể cho hàm kế tiếp*/ tWord Delay; /* Khoảng thời gian lặp lại một chu trình kế tiếp */ tWord Repeat; /* Set lên 1 (bởi scheduler)khi tác vụ được thực thi */ tByte RunMe; } sTask; Các mảng tác vụ được ứng dụng trong suốt phương pháp lập lịch /* Mảng tác vụ( task) */ sTask SCH_tasks_G[SCH_MAX_TASKS]; *Vấn đề nạp các hàm trong phương pháp lập lịch: Cấu trúc Sch_Add_Task(Task_Name, Initial_Delay, Task_Interval); Ví dụ: SCH_Add_Task(Do_X,1000,0); Task_ID = SCH_Add_Task(Do_X,1000,0); SCH_Add_Task(Do_X,0,1000); Hàm Do_X() qui tắc thực thi như sau khoảng lập lịch là 1000 .Tác vụ đầu tiên thực thi ở T=300 thì các tác vụ tiếp theo là ở 1300;2300;…thì ta có cấu trúc lệnh sau: SCH_Add_Task(Do_X,300,1000); * Hàm Disphatcher SCH_Dispatch_Tasks() Hàm Dispatcher có nhiệm vụ khi có một tác vụ sẵn sàng thì lệnh SCH_Dispatch_Tasks() sẽ cho phép nó chạy. Hàm này được gọi trong vòng lặp của hàm main. void main(void) { ... while(1) { SCH_Dispatch_Tasks(); } *Vấn đề báo lỗi ta có các lệnh sau: tByte Error_code_G = 0; Để sao chép các lỗi này ta dùng các lệnh sau: Error_code_G = ERROR_SCH_TOO_MANY_TASKS;
Error_code_G = ERROR_SCH_WAITING_FOR_SLAVE_TO_ACK; Error_code_G = ERROR_SCH_WAITING_FOR_START_COMMAND_FROM_MA STER; Error_code_G = ERROR_SCH_ONE_OR_MORE_SLAVES_DID_NOT_START; Error_code_G = ERROR_SCH_LOST_SLAVE; Error_code_G = ERROR_SCH_CAN_BUS_ERROR; Để báo lỗi ta dung hàm sau: SCH_Report_Status() *Các vấn đề báo lỗi khi có sự cố . Chúng ta biết rằng mỗi con vi xử lý hoạt động ở một nhiệt độ khác nhau,khi có sự thay đổi về nhiệt độ tốc độ xung clock sẽ thay đổi vì vậy cần có một chương trình đồng bộ xung clock.Trong úng dụng nay ta sử dụng chương trình SCU SCHEDULER (RS-485) for 8051/52.Trong chương trình này ta sử dụng một bộ watchdog timer sẽ báo tràn khi chu kỳ của con Slave có vẻ chậm(nhanh)hơn so với các khoảng thời gian ta đã định nghĩa. Khi truyền dữ liệu giữa Master và Slave mà Slave không nhận được các thong điệp kiểm tra từ Master thì timer sẽ tràn. Khi truyền dữ liệu giữa Master và Slave thì timer bị tràn và cơ chế lập lịch sẽ gọi hàm “update”.Và khi đó một byte dữ liệu sẽ được chuyển đến cho tất cả các Slave (thông qua UART). void MASTER_Update_T2(void) interrupt INTERRUPT_Timer_2_Overflow { ... MASTER_Send_Tick_Message(...); ... } Khi đã nhận dữ liệu các Slave được ngắt đồng thời lúc này việc lập lịch gọi hàm “update” là ở trong các Slave.Vì vậy các Slave sẽ gửi lại các thông điệp xác nhận cho Master(thông qua UART). void SLAVE_Update(void) interrupt INTERRUPT_UART_Rx_Tx { ... SLAVE_Send_Ack_Message_To_Master(); ... }
Cấu trúc của một chuỗi thông điệp: Mỗi Slave được định nghĩa bằng một địa chỉ ID(0x01 đến 0xFF) Mỗi thông điệp kiểm tra được gửi từ Master đến Slave có độ dài 2 byte được gửi theo từng khoảng (xung) riêng biệt.Byte đầu tiên chứa địa chỉ ID Slave , byte thứ hai chứa dữ liệu của thông điệp. Tất cả các Slave sẽ xãy ra ngắt khi nhận các thông điệp từ Master. Khi các Slave nhận các thông điệp với đúng địa chỉ ID của mình thì khi đó các Slave sẽ trả lời lại bằng các thông điệp xác nhận. Các thông điệp xác nhận cũng có 2 byte và được chuyển đi theo từng khoảng (xung) riêng biệt.Byte dầu chứa địa chỉ ID của Slave đó ,byte thứ hai chứa thông điệp trả lời. Ngoài việc chuyển một byte dữ liệu ta còn có thể chuyển nhiều thông điệp. Việc truyền dữ liệu sử dụng họ 8051 cho phép truyền 9-bit được mô tả như sau
Sử dụng UART ở mode 3 truyền/nhận 11-bits.Bit thứ 9 được truyền thông qua bit TB8 của thanh ghi SCON và việc nhận thông qua bit RB8. Byte địa chỉ được nhận dạng bằng cách set bit chung (TB8) lên 1, byte dữ liệu thì set bit đó về 0. Việc truyền dữ liệu có một khoảng trễ giữa timer trên Master và UART là cơ sở cho ngắt trên Slave.
Vấn đề kết nối song song hoặc nối tiếp
Giao tiếp thông qua RS485
2. Phần code hoàn chỉnh: #include "Main.h" #include "Port.h" #include "SCU_Bm.H" #define PRELOAD01 (65536 - (tWord)(OSC_FREQ / (OSC_PER_INST * 1063))) #define PRELOAD01H (PRELOAD01 / 256) #define PRELOAD01L (PRELOAD01 % 256) void main(void) { SCU_B_MASTER_Init_T1_T2(9600); SCU_B_MASTER_Start(); while(1) { SCH_Dispatch_Tasks(); } } void Hardware_Delay_T0(const tWord N) { tWord ms; TMOD &= 0xF0; TMOD |= 0x01; ET0 = 0; for (ms = 0; ms < N; ms++) { TH0 = PRELOAD01H; TL0 = PRELOAD01L; TF0 = 0; TR0 = 1; while (TF0 = = 0); TR0 = 0; } }
sbit RS485_Tx_Enable = P3^2; sbit RS485_Rx_NOT_Enable = P3^3; sbit WATCHDOG_pin = P1^7; sbit Network_error_pin = P2^7; tByte Tick_message_data_G[NUMBER_OF_SLAVES] = {'1','2'}; tByte Ack_message_data_G[NUMBER_OF_SLAVES]; extern sTask SCH_tasks_G[SCH_MAX_TASKS]; extern tByte Error_code_G; static tByte Current_slave_index_G = 0; static bit First_ack_G = 1; static bit WATCHDOG_state_G = 0; static void SCU_B_MASTER_Reset_the_Network(void); static void SCU_B_MASTER_Shut_Down_the_Network(void); static void SCU_B_MASTER_Switch_To_Backup_Slave(const tByte); static void SCU_B_MASTER_Send_Tick_Message(const tByte); static bit SCU_B_MASTER_Process_Ack(const tByte); static void SCU_B_MASTER_Watchdog_Init(void); static void SCU_B_MASTER_Watchdog_Refresh(void) reentrant; static const tByte MAIN_SLAVE_IDs[NUMBER_OF_SLAVES] = {0x31,0x32}; static const tByte BACKUP_SLAVE_IDs[NUMBER_OF_SLAVES] = {0x31,0x32}; #define NO_NETWORK_ERROR (1) #define NETWORK_ERROR (0) #define SLAVE_RESET_INTERVAL 0U static tWord Slave_reset_attempts_G[NUMBER_OF_SLAVES]; static tByte Current_Slave_IDs_G[NUMBER_OF_SLAVES] = {0}; static bit Message_byte_G = 1; void SCU_B_MASTER_Init_T1_T2(const tWord BAUD_RATE) { tByte Task_index; tByte Slave_index; EA = 0; SCU_B_MASTER_Watchdog_Init(); Network_error_pin = NO_NETWORK_ERROR; RS485_Rx_NOT_Enable = 0; RS485_Tx_Enable = 1; for (Task_index = 0; Task_index < SCH_MAX_TASKS; Task_index++) { SCH_Delete_Task(Task_index); } Error_code_G = 0; for (Slave_index = 0; Slave_index < NUMBER_OF_SLAVES; Slave_index++) { Slave_reset_attempts_G[Slave_index] = 0;
Current_Slave_IDs_G[Slave_index] = MAIN_SLAVE_IDs[Slave_index]; } PCON &= 0x7F; SCON = 0xD2; TMOD = 0x20; TH1 = (256 - (tByte)((((tLong)OSC_FREQ / 100) * 3125) / ((tLong) BAUD_RATE * OSC_PER_INST * 1000))); TL1 = TH1; TR1 = 1; TI = 1; ES = 0; T2CON = 0x04; T2MOD = 0x00; TH2 = 0xEC; RCAP2H = 0xEC; TL2 = 0x78; RCAP2L = 0x78; ET2 = 1; TR2 = 1; } void SCU_B_MASTER_Start(void) { tByte Slave_ID; tByte Num_active_slaves; tByte Id, i; bit First_byte = 0; bit Slave_replied_correctly; tByte Slave_index; SCU_B_MASTER_Watchdog_Refresh(); SCU_B_MASTER_Enter_Safe_State(); Network_error_pin = NETWORK_ERROR; Error_code_G = ERROR_SCH_WAITING_FOR_SLAVE_TO_ACK; SCH_Report_Status(); for (i = 0; i < 100; i++) { Hardware_Delay_T0(30); SCU_B_MASTER_Watchdog_Refresh(); } Num_active_slaves = 0; Slave_index = 0; do { SCU_B_MASTER_Watchdog_Refresh(); First_byte = 0; Slave_ID = (tByte) Current_Slave_IDs_G[Slave_index]; TI = 0;
TB8 = 1; SBUF = Slave_ID; Hardware_Delay_T0(5); if (RI = = 1) { Id = (tByte) SBUF; RI = 0; if ((Id = = Slave_ID) && (RB8 = = 1)) { First_byte = 1; } } TI = 0; TB8 = 1; SBUF = Slave_ID; Hardware_Delay_T0(5); Slave_replied_correctly = 0; if (RI != 0) { Id = (tByte) SBUF; RI =0; if ((Id = = Slave_ID) && (RB8 = = 1) && (First_byte = = 1)) { Slave_replied_correctly = 1; } } if (Slave_replied_correctly) { Num_active_slaves++; Slave_index++; } else { if (Current_Slave_IDs_G[Slave_index] != BACKUP_SLAVE_IDs[Slave_index]) { Current_Slave_IDs_G[Slave_index] = BACKUP_SLAVE_IDs[Slave_index]; } else { Slave_index++; } } } while (Slave_index < NUMBER_OF_SLAVES); if (Num_active_slaves < NUMBER_OF_SLAVES)
{ Error_code_G = ERROR_SCH_ONE_OR_MORE_SLAVES_DID_NOT_START; SCU_B_MASTER_Shut_Down_the_Network(); } else { Error_code_G = 0; Network_error_pin = NO_NETWORK_ERROR; } Message_byte_G = 1; First_ack_G = 1; Current_slave_index_G = 0; EA = 1; } void SCU_B_MASTER_Update_T2(void) interrupt INTERRUPT_Timer_2_Overflow { tByte Task_index; tByte Previous_slave_index; TF2 = 0; SCU_B_MASTER_Watchdog_Refresh(); Network_error_pin = NO_NETWORK_ERROR; Previous_slave_index = Current_slave_index_G; if (Message_byte_G = = 0) { Message_byte_G = 1; } else { Message_byte_G = 0; if (++Current_slave_index_G >= NUMBER_OF_SLAVES) { Current_slave_index_G = 0; } } if (SCU_B_MASTER_Process_Ack(Previous_slave_index) = = RETURN_ERROR) { Network_error_pin = NETWORK_ERROR; Error_code_G = ERROR_SCH_LOST_SLAVE; if (++Slave_reset_attempts_G[Previous_slave_index] >= SLAVE_RESET_INTERVAL) { SCU_B_MASTER_Reset_the_Network();
} } else { Slave_reset_attempts_G[Previous_slave_index] = 0; } SCU_B_MASTER_Send_Tick_Message(Current_slave_index_G); for (Task_index = 0; Task_index < SCH_MAX_TASKS; Task_index++) { if (SCH_tasks_G[Task_index].pTask) { if (SCH_tasks_G[Task_index].Delay = = 0) { SCH_tasks_G[Task_index].RunMe += 1; if (SCH_tasks_G[Task_index].Period) { SCH_tasks_G[Task_index].Delay = SCH_tasks_G[Task_index].Period; } } else { SCH_tasks_G[Task_index].Delay = 1; } } } } void SCU_B_MASTER_Send_Tick_Message(const tByte SLAVE_INDEX) { tLong Timeout; tByte Slave_ID = (tByte) Current_Slave_IDs_G[SLAVE_INDEX]; if (Message_byte_G == 0) { Timeout = 0; while ((++Timeout) && (TI = = 0)); if (Timeout = = 0) { Error_code_G = ERROR_USART_TI; return; } TI = 0; TB8 = 1; SBUF = Slave_ID; }
else { Timeout = 0; while ((++Timeout) && (TI = = 0)); if (Timeout = = 0) { Error_code_G = ERROR_USART_TI; return; } TI = 0; TB8 = 0; SBUF = Tick_message_data_G[SLAVE_INDEX]; } } bit SCU_B_MASTER_Process_Ack(const tByte Slave_index) { tByte Message_contents; tByte Slave_ID; if (First_ack_G) { First_ack_G = 0; return RETURN_NORMAL; } Slave_ID = (tByte) Current_Slave_IDs_G[Slave_index]; if (RI = = 0) { Network_error_pin = NETWORK_ERROR; return RETURN_ERROR; } Message_contents = (tByte) SBUF; RI = 0; if (Message_byte_G = = 1) { if (RB8 = = 1) { if (Slave_ID = = (tByte) Message_contents) { return RETURN_NORMAL; } } Network_error_pin = NETWORK_ERROR; return RETURN_ERROR; } else {
Ack_message_data_G[Slave_index] = Message_contents; return RETURN_NORMAL; } } void SCU_B_MASTER_Reset_the_Network(void) { EA = 0; while(1); } void SCU_B_MASTER_Shut_Down_the_Network(void) { EA = 0; Network_error_pin = NETWORK_ERROR; SCH_Report_Status(); while(1) { SCU_B_MASTER_Watchdog_Refresh(); } } void SCU_B_MASTER_Watchdog_Init(void) { } void SCU_B_MASTER_Watchdog_Refresh(void) reentrant { if (WATCHDOG_state_G = = 1) { WATCHDOG_state_G = 0; WATCHDOG_pin = 0; } else { WATCHDOG_state_G = 1; WATCHDOG_pin = 1; } }
VI.
Tổng kết: 1. Tổng kết về ý tưởng và khả năng ứng dụng thực tiễn của đề tài: Qua việc sử dụng kết hợp 2 chuẩn truyền thông giao tiếp thông dụng hiện nay và sử dụng phương thức thu thập, phân tán dữ liệu master-slave, ta thấy rằng việc thu thập và phân tán thông tin được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng hơn và đặc biệt là gần như cùng 1 lúc ta có thể giao tiếp với nhiều module trong mối quan hệ chặt chẽ, có thứ tự.Vi điều khiển master có thể giao tiếp với khoảng 256 module trên đường dây truyền thông RS-485 với thời gian thu phát dữ liệu giữa 2 module kế tiếp nhau là không đáng kể. Vì vậy ý tưởng của đề tài này có thể ứng dụng vào mạng truyền thông trong các nhà máy, xí nghiệp gồm nhiều bộ phận làm việc ở cách xa nhau mà việc thu thập và phân tán thông tin theo phương thức thủ công là không khả thi. Các bộ phận có trách nhiệm thu thập và phân tán dữ liệu chỉ cần ở tại vị trí của master để cập nhật và kiểm soát thông tin. Họ chỉ cần thiết kế hệ thống hợp lý phù hợp với nhu cầu và không gian của địa điểm làm việc là có thể giao tiếp với các bộ phận khác dễ dàng và nhanh chóng mà lại có được nội dung thông tin chính xác. 2.
Phương hướng phát triển của đề tài:
Ngày nay sự phát triển vũ bão của hệ thống truyền thông Internet đã làm bùng nổ một phương thức truyền thông mới nhanh hơn gấp nhiều lần, thông tin chính xác và rất thuận tiện cho người làm việc. Cho nên phương hướng phát triển của đề tài là thông tin từ vi điều khiển được cập nhật và truyền qua máy vi tính sau đó sử dụng hệ thống mạng Internet thông qua địa chỉ IP để truyền thông tin đến một người có trách nhiệm cao nhất ở bất kì 1 nơi nào đó trên thế giới xử lý và truyền thông tin ngược lại. Việc này vừa làm giảm thiểu được nguồn nhân công cố định tại nơi làm việc vừa làm giảm được không gian nhà máy. Tóm lại phương thức này sẽ trở nên phổ biến rộng rãi trong thời gian không xa tới đây.