1. Khái niệm chung về phong tục, tập quán hôn nhân và gia đình Phong tục, tập quán là một khái niệm phức tạp, tuy nhiên có thể được hiểu là: "những thói quen đã được mọi người tuân thủ tại một địa phương trong một hoàn cảnh bắt buộc phải chấp nhận lề thói ấy như một phần luật pháp của địa phương"(2). Như vậy, phong tục, tập quán thực chất là những qui tắc xử sự mang tính cộng đồng, phản ánh nguyện vọng qua nhiều thế hệ của toàn thể dân cư trong một cộng đồng tự quản (làng, xã, khu vực). Các qui tắc này được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung, quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng mang tính tộc người hoặc mang tính khu vực. Với vai trò như vậy, phong tục, tập quán và việc áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình mang những ý nghĩa cơ bản sau: Thứ nhất, phong tục, tập quán là một bộ phận cấu thành căn bản của truyền thống văn hoá và giá trị đạo đức trong gia đình Việt nam. áp dụng phong tục, tập quán là một là một trong các biện pháp cần thiết để bảo vệ các bản sắc văn hoá và chuẩn mực đạo đức truyền thống của gia đình Việt nam hiện đang có nguy cơ bị mất dần dưới tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và sự mở rộng giao lưu quốc tế. Gia đình Việt nam là một thiết chế xã hội, đồng thời được quan niệm như là một tập hợp các truyền thống văn hóa và giá trị đạo đức, sự phát triển của gia đình gắn liền với qui luật kế thừa và phát triển. Nghĩa là, trong gia đình các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức truyền thống cùng tồn tại với các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức được hình thành trong điều kiện kinh tế – xã hội mới. Một quan hệ hôn nhân và gia đình mới, phản ánh các giá trị và chuẩn mực đạo đức phù hợp với các điều kiện kinh tế – xã hội mới, chỉ thể hiện được tính chất tiến bộ, bền vững và phổ biến khi được xây dựng, củng cố trên nền tảng văn hoá và đạo đức truyền thống của gia đình. Ngược lại, việc xây dựng và củng cố các quan hệ hôn nhân và gia đình mới, tiến bộ là cơ sở và là tiêu chí để khẳng định, bổ sung và phát triển về chất cho các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức truyền thống. Một truyền thống, phong tục, tập quán trong điều kiện kinh tế – xã hội mới dù tốt đẹp đến mấy cũng không thể tạo ra bản sắc và tính bền vững cho gia đình nếu không đưọc bổ sung và phát triển bằng các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức được hình thành trong điều kiện kinh tế – xã hội đó. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng trên, việc ghi nhận kế thừa, phát huy truyền thống đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp trong gia đình là một trong các nhiệm vụ cơ bản của Luật HN-GĐ, không mâu thuẫn với nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ hôn nhân và gia đình mới. Ngược lại, chúng là hai mặt không thể thiếu trong thực hiện mục tiêu về gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra là: "Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm cho mỗi người. Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá trị văn hoá dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực hiện tốt Luật hôn nhân và gia đình"(3).
Thứ hai, Cùng với qui phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, phong tục, tập quán là công cụ điều chỉnh hữu hiệu các quan hệ hôn nhân và gia đình, đặc biệt các quan hệ hôn nhân và gia đình mang tính sắc tộc và khu vực Xuất phát từ bản chất vừa là thiết chế xã hội, vừa là tập hợp các giá trị truyền thống văn hoá và đạo đức, các quan hệ hôn nhân và gia đình đồng thời chịu sự qui định của cả qui phạm pháp luật và phong tục, tập quán. Thực tế đó đòi hỏi, để điều chỉnh tốt nhóm quan hệ xã hội này, cần có sự kết hợp hài hoà, hỗ trợ, bổ sung giữa các qui phạm pháp luật và phong tục, tập quán. Điểm chung giữa qui phạm pháp luật và phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình là cùng thực hiện mục tiêu làm ổn định các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, thúc đẩy sự phát triển của xã hội nói chung và gia đình nói riêng. Tuy nhiên, xét về đối tượng, phạm vi, cấp độ điều chỉnh giữa chúng có sự khác biệt nhất định. Các qui phạm pháp luật là công cụ điều chỉnh hữu hiệu, nhất thể và bao trùm trong xây dựng và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình. Song, pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính phổ biến, điển hình và khách quan, nên, dù xã hội đã phát triển ở trình độ cao, pháp luật HN-GĐ đã ở mức hoàn thiện, vẫn còn những quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình chưa có hoặc chưa được các qui phạm pháp luật điều chỉnh. Trong khi đó, trên thực tế, những quan hệ xã hội này vẫn tiếp tục tồn tại, không thể không có sự điều chỉnh để tạo sự ổn định và loại bỏ những mâu thuẫn trong sự phát triển của chúng. Để giải quyết mâu thuẫn giữa phạm vi điều chỉnh của pháp luật và nhu cầu khách quan của xã hội, cần thực hiện chính sách đa dạng hoá pháp luật, một trong các giải pháp là áp dụng các phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình. Nnư đã nói ở trên phong tục, tập quán thực chất là những qui tắc xử sự mang tính cộng đồng, phản ánh nguyện vọng qua nhiều thế hệ của toàn thể dân cư trong một cộng đồng tự quản (làng, xã, khu vực). Các qui tắc này được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung, quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng mang tính tộc người hoặc mang tính khu vực. Do đó, các thành viên của cộng đồng thường tin tưởng vào tính công bình, sáng suốt, chính xác của các qui tắc xử sự này, nên chúng thường có tính hiệu lực cao (đặc biệt, khi những phong tục, tập quán được phát triển dưới hình thức hương ước hoặc luật tục). Nếu biết sử dụng, kết hợp, phong tục, tập quán sẽ là sự hỗ trợ tốt cho các qui phạm pháp luật HN-GĐ trong điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội còn chưa phát triển. Thứ ba, phong tục, tập quán có một ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình tố tụng và đưa ra đường lối giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình mang tính tộc người và khu vực. Trong các tranh chấp về hôn nhân và gia đình mang tính tộc người và khu vực, phong tục, tập quán giúp các cơ quan và những người tiến hành tố tụng hoạt động có hiệu quả trong công tác điều tra, xác minh chứng cứ, hoà giải, xét xử, thi hành án… Từ đó, giúp cơ quan xét xử xác định rõ bản chất của mối quan hệ có tranh chấp, áp dụng pháp luật phù
hợp với mối quan hệ có tranh chấp, trong trường hợp cần áp dụng phong tục, tập quán thì xác định áp dụng tập quán nào là phù hợp nhất đam bảo không trái với các nguyên tắc Luật định. Cũng qua phong tuc, tập quán người thẩm phán có thể hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của các đương sự và giảiq uyết thấu tình đạt lý, đựoc sự đồngý của cộng đồng dân cư nơi xảy ra tranh chấp nói riêng và của xã hội nói chung.
Mối quan hệ của luật tục với pháp luật trong tự quản cộng đồng A- Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Pháp luật nảy sinh từ lịch sử và phát triển theo tiến trình riêng. Pháp luật ra đời từ khi nhà nước xuất hiện. Xét về phương diện khách quan, nhà nước và pháp luật cùng phát sinh từ một nguồn gốc, là kết quả của sự phát triển kinh tế và phân hoá xã hội. Xét về phương diện chủ quan, pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và trở thành một phương tiện của nhà nước để bảo vệ địa vị của lực lượng thống trị, điều hành và quản lý xã hội. Trong các tổ chức cộng đồng nguyên thuỷ trước đây, quan hệ giữa các thành viên được điều chỉnh bằng phong tục tập quán, điều chỉnh các quan hệ bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội, gọi là luật tục. Nhưng đến khi xã hội có sự phân hoá về giai cấp, nhà nước được hình thành, quốc gia được xác lập, thì luật tục không còn khả năng điều hành các quan hệ xã hội vốn luôn phát striển cả về phạm vi, mức độ, và tính chất. Để đáp ứng nhu cầu khách quan của xã hội đó, một loại quy phạm mới đã ra đời, đó là pháp luật. Tuy nhiên, trong lịch sử nhà nước và pháp luật luật tục được sử dụng nhiều trong hệ thống pháp luật của nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến. Trong nhà nước tư sản, luật tục vẫn tồn tại nhiều, nhất là ở các nước có chế độ quân chủ. Riêng ở Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, luật tục tồn tại khá nhiều ở các cộng đồng dân tộc ít người nhưng là nguồn của pháp luật, bảo đảm cho pháp luật mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam. Hệ thống luật tục giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng, trong tự quản ở cộng đồng dân cư, điều hòa xã hội, trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em với hơn 2000 năm hình thành và phát triển nên có nền văn hóa dân tộc rất phong phú và đa dạng. 54 dân tộc là 54 giá trị và sắc thái văn hóa riêng nhưng lại cùng chung một tình đoàn kết gắn bó trong việc bảo vệ Tổ quốc từ xưa đến nay. Nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, người Việt Nam đặc biệt là cộng đồng các dân tộc ít người đã chịu sự tác động rất lớn từ những mặt trái của xã hội, công tác tự quản của cộng đồng bản làng, thôn xóm cũng chịu sự tác động đó. Qua những khảo sát sơ bộ cho thấy, cộng đồng bản làng, thôn xóm cũng như công tác tự quản trong cộng đồng có nhiều hạn chế, tệ nạn xã hội phát triển nhanh và nhiều hơn, an ninh trật tự ngày càng phức tạp, đoàn kết cộng đồng không còn được như trước nữa, tài nguyên môi trường bị xâm hại...
Đứng trước những thách thức về những ảnh hưởng không tốt của nền kinh tế thị trường đối với thuần phong mỹ tục của các dân tộc, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: "Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chư viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc; tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm văn hóa của nhân loại" [14]. Đến Đại hội X một lần nữa Đảng ta lại khẳng định: "Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế-xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội" [15]. Vấn đề vận dụng phong tục tập quán, luật tục của các dân tộc vào quản lý xã hội, quản lý cộng đồng là yêu cầu khách quan, phù hợp với định hướng lãnh đạo của Đảng Cùng với vai trò gắn kết cộng đồng và điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một bản làng, thôn xóm hay một tộc người, tuy nhiên luật tục chưa được coi trọng để kết hợp với pháp luật quản lý và tự quản trong cộng đồng. Từ vị trí và vai trò ý nghĩa và quan trọng của luật tục trong hệ thống pháp luật nêu trên, tôi xin chọn đề tài "Mối quan hệ của luật tục với pháp luật trong tự quản cộng đồng" cho bài tiểu luận của mình. - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật trong tự quản cộng đồng. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài gồm: + Luật tục trong tự quản cộng đồng. + Giải pháp để vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích của đề tài này là phân tích trên cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất các giải pháp vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng phù hợp với tình hình hiện nay. Phù hợp với mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận về vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng, cụ thể là khái niệm, đặc điểm, vai trò của luật tục trong tự quản cộng đồng; khái niệm cộng đồng, tính cộng đồng; mối quan hệ giữa luật tục và luật pháp. - Phân tích các yêu cầu vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng, sử dụng luật tục trong hệ thống luật pháp. - Đề xuất các giải pháp vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng, sử dụng luật tục tiến bộ trong pháp luật hiện nay. 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về dân tộc và các quan điểm của Đảng về đổi mới Nhà nước và pháp luật. Phương pháp nghiên cứu là các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác-Lênin trên cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp xã
hội học và luật học so sánh. Với quá trình lịch sử phát triển lâu dài và phong phú, đề tài luật tục đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu có một số công trình nghiên cứu sau: - "Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam", (kỷ yếu hội thảo khoa học), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000. - "Tìm hiểu luật tục các dân tộc ở Việt Nam", GS Ngô Đức Thịnh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2003. - "Luật tục Thái ở Việt Nam", GS Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003. - "Luật tục và vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên; những gợi ý nhăm hòa hợp luật thành văn và luật tục châu á", John Ambler - Mỹ, Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000. 4. Kết cấu đề tài: Bài tiểu luận được chia như sau: A- Phần mở đầu B- Nội dung Chương 1: Khái quát về luật tục: 1.1. Khái niệm luật tục. 1.2. Đặc điểm của luật tục. 1.3. Vai trò của luật tục trong tự quản cộng đồng. Chương 2: Mối quan hệ của luật tục trong tự quản công đồng và các giải pháp để vận dụng. 2.1. Mối quan hệ của luật tục và pháp luật trong tự quản cộng đồng. 2.2. Khắc phục những hạn chế của luật tục. 2.3. Vận dụng luật tục tiến bộ dưới hình thức hương ước mới. 2.4. Kết hợp chặt chẽ giữa luật tục và pháp luật. 2.5. Đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật, luật tục trong nhân dân. C- Kết luận D- Danh mục tài liệu tham khảo
B- Nội dung Chương 1: Khái quát về luật tục 1.1. Khái niệm về luật tục Luật tục hay tập quán pháp là một hình thức pháp luật cổ xưa nhất, giữ vai trò thống trị trong các xã hội tiền nhà nước. Trên thế giới, từ kiểu nhà nước chủ nô đến kiểu nhà nước phong kiền, hay ở các nước có chế độ quân chủ trong nhà nước tư sản, luật tục đã được sử dụng khá nhiều trong hệ thống pháp luật với vai trò là một nguồn luật cơ bản. Đối với Việt Nam, ngay từ nhà nước đầu tiên thời đại Văn Lang - Âu Lạc, luật chung của người Lạc Việt căn cứ theo lời tâu của Mã Viện với vua Hán Quang Vũ ("luật Việt khác luật Hán mười điều") thì rất có thể đó chính là một thứ luật tục hay tập quán
pháp. Tài liệu dân tộc học cũng cho biết, ở xã hội các cư dân Tây Nguyên cũng như ở các xã hội sơ khai khác, mỗi cộng đồng tộc người đều có luật tục (hoặc thành văn, hoặc truyền miệng). Trong xã hội sau này, kể cả dân tộc đa số như dân tộc Kinh cũng có luật tục (hương ước) và các dân tộc khác đều có luật tục để điều chỉnh quan hệ trong cộng đồng mình. "Luật tục là những qui tắc xử sự chung mang tính chất bắt buộc do các cộng đồng làng xã xây dựng nên và được truyền từ đời này sang đời khác".[1, tr 528] Luật tục phần lớn mang tinh thần bình đẳng của cả cộng đồng trên các phép tắc tín ngưỡng cổ truyền cho nên khi có nội dung phù hợp với tiến bộ xã hội, trật tự xã hội thì được Nhà nước thừa nhận, còn nếu cổ hủ , lạc hậu, mê tín dị đoan thì sẽ bị Nhà nước cấm đoán. Luật tục có thể tồn tại bằng truyền miệng hoặc có thể được ghi bằng văn bản. Văn bản luật tục có thể tồn tại dưới hình thức đơn giản như hương ước, nhưng cũng có thể được xây dựng dưới dạng bộ luật như bộ luật tục của dân tộc Ê-Đê: 11 chương, 236 điều. Luật tục khác với tập quán thông thường ở tính bắt buộc thực hiện bởi vì đó chính là pháp luật của các cộng đồng làng xã hoặc của cả một dân tộc thiểu số. Luật tục hay tập quán pháp là một hiện tượng phổ biến của nhân loại ở thời kì phát triển tiền công nghiệp và còn tồn tại đến ngày nay ở nhiều tộc người trên thế giới, châu á và châu Phi. ở Việt Nam, luật tục của các dân tộc thiểu số và hương ước của người Việt còn tồn tại khá phổ biến và được nhà nước quan tâm phát triển những bản sắc truyền thống tốt đẹp cùng với việc thừa nhận chúng là một hình thức pháp luật. Tuy nhiên, luật tục trên thế giới cũng như ở Việt Nam không hoàn toàn giống nhau mà có nét riêng biệt về tín ngưỡng, tôn giáo, các quan hệ xã hội và tục lệ của mỗi cộng đồng làng xã và dân tộc mình.Chính vì thế, khi thừa nhận luật tục, nhà nước luôn phải có sự tìm hiểu về văn hóa cũng như tục lệ của địa phương để có sự quản lí tốt hơn về việc tự quản cộng đồng, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Đặc điểm của luật tục Luật tục là sản phẩm của những xã hội cổ truyền, phản ánh những điều kiện, đặc điểm riêng của xã hội đó. Nội dung của luật tục cũng phản ánh những đặc trưng của xã hội cổ truyền ấy. Đó là các hình thức sở hữu đất đai, rừng núi, mà phổ biến nhất là hình thức sở hữu của cộng đồng, bản làng. Luật tục có sự hình thành và phát triển trước luật pháp, các nhà nước chủ nô và phong kiến trước đây thường sử dụng nó làm tiền đề để xây dựng pháp luật. Hiện nay, luật tục tiến bộ được coi là một hình thức pháp luật (tập quán pháp) nếu được Nhà nước thừa nhận. Tuy nhiên, luật tục có những điểm không đồng nhất với luật pháp, thậm chí có những điểm còn trái ngược với luật pháp. Giữa luật tục và pháp luật có những điểm tương đồng và cũng có nhiều điểm khác biệt nhau: - Sự tương đồng giữa luật tục và pháp luật: •
Trước hết, cả luật tục và pháp luật về cơ bản đều có cùng mục đích là tạo ra sự trật tự và ổn định cho xã hội, vì chúng điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cách cư xử của cá nhân theo khuôn mẫu chung.
•
Hai là, pháp luật và luật tục đều có nội dung điều chỉnh phong phú, liên quan tới nhiều mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
•
Ba là, cơ cấu, tính chất của luật tục có nhiều nét tương đồng với pháp luật như các quan niệm về tội phạm, về tang chứng, về chế tài...
•
Bốn là, cả luật tục và pháp luật được thực thi trong sự kết hợp với các yếu tố khác như: đạo đức, dư luận, thiết chế.
- Sự khác biệt giữa luật tục với pháp luật : •
Một, tuy luật tục và pháp luật đều có mục đích chung là điều hoà các quan hệ xã hội , nhưng phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội lại khác nhau. Pháp luật điều chỉnh trong phạm vi cả nước, còn luật tục điều chỉnh trong phạm vi một cộng đồng hẹp hơn (như dân tộc Êđê hay bản mường của người Thái). Do vậy, luật tục mang tính riêng, tính đặc thù trái với pháp luật bao giờ cũng mang tính phổ quát.
•
Hai, luật tục thể hiện ý chí và sự đồng thuận của cộng đồng bản làng, còn pháp luật mang tính nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và có tính áp đặt cao.
•
Ba, luật tục có sự hình thành lâu dài trong lịch sử, chủ yếu là sự tích lũy, chắt lọc các kinh nghiệm trong đời sống và sinh hoạt xã hội, không do một cá nhân nào qui định mà bao gồm tình cảm, ý nguyện của cả một cộng đồng. Trái lại, mỗi văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước do một nhóm người soạn thảo, đề xuất, thể hiện ý chí giai cấp thống trị trong xã hội đó.
•
Bốn, về cơ bản, luât tục tồn tại dưới dạng truyền miệng hay các câu châm ngôn mang đậm phong tục địa phương (như "Luật Mường" của dân tộc Thái) do vậy nó mềm dẻo,uyển chuyển hơn trong thực thi; còn pháp luật thì tồn tại dưới dạng văn bản, người dân phải học, phải đọc mới nhớ.
•
Năm, cơ cấu các điều luật cụ thể và việc thực thi pháp luật của nhà nước khác biệt nhiều so với luật tục. Luật tục có các điều luật đơn giản, cơ động hơn so với pháp luật; các hình thức chế tài của luật pháp khá chi tiết và chặt chẽ, còn luật tục thì ngoài hình thức khuyên răn, giáo dục là chính thì các hình phạt chủ yếu là đền bù tài sản và thực hành nghi lễ để tạ tội; pháp luật đi liền với các công cụ tạo án, nhà tù, còn luật tục chủ yếu là hoà giải, không có hình phạt giam cầm và nhà tù...
Đặc trưng của luật tục đó chính là hình thức trung gian giữa hai yếu tố "luật" và "tục". Hay nói cách khác, nó là hình thức phát triển cao của phong tục, tục lệ và là hình thức sơ khai, hình thức tiền luật pháp. Chính vì thế, hình thức luật tục này phù hợp với xã hội tiền công nghiệp, phù hợp với các cộng đồng nhỏ hẹp gắn với từng nhóm tộc người, từng địa phương cụ thể. Mặt khác, luật tục cũng chính là tấm gương phản chiếu nhiều mặt của đời sống: môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội, thế giới trần tục và thế giới linh thiêng,
quan hệ sản xuất và phân phối trong xã hội, quan hệ xử lí trong gia đình và dòng họ, tổ chức chính trị xã hội, tín ngưỡng và tôn giáo, luật pháp và đạo đức...Đặc biệt, luật tục tìm cách xử lý những mối qua hệ giữa xã hội con người với xã hội linh thiêng. Có thể thấy điều đó ở khắp nơi trên thế giới như luật tục của người theo đạo Do Thái được thể hiện theo kinh Talmud, luật tục của người theo đạo Kitô được thể hiện trong kinh thánh, luật tục của người theo đạo Hồi được thể hiện theo kinh Coran...Qua các luật tục ấy có thể thấy rằng luật tục không những chỉ quan tâm tới mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác trong xã hội loài người mà còn quan tâm xử lý mối quan hệ giữa thế giới trần tục và thế giới linh thiêng, giữa con người và thần linh.
1.3. Luật tục trong tự quản cộng đồng 1.3.1. Cộng đồng và tính cộng đồng Khái niệm cộng đồng (community) được sử dụng rộng rãi trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội (như cộng đồng kinh tế châu Âu, cộng đồng các quốc gia Đông Nam á, cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên...). Theo nghĩa này, cộng đồng vừa mang những giá trị chung mà mỗi thành viên thừa nhận và tuân theo, vừa tôn trọng sự phát triển độc lập của mỗi thành viên trong các quan hệ hợp tác với nhau. ở Việt Nam, khái niệm cộng đồng được dùng rộng rãi trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội như cộng đồng dân cư, cộng đồng làng xã, cộng đồng văn hóa... Theo nhiều nhà khoa học, cộng đồng được hiểu: "là tập hợp người có tính chất một xã hội, chung sống, có nhiều đặc tính của cải và quyền lợi chung" [5, tr.214]; "là một tập thể có nhiều thành viên gắn bó với nhau bằng những giá trị chung. Cộng đồng có một sự cố kết nội tại không phải do những qui tắc rõ ràng, những luật pháp thành văn, mà do những liên hệ sâu hơn: huyết thống, truyền thống..." [2, tr.45]; "là khối người cùng chung một tổ chức" [3, tr.137]; "là toàn thể những người sống thành một xã hội, nói chung có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối " [4, tr.205] ... Như vậy, qua phân tích ở trên có thể rút ra khái niệm cộng đồng một cách khái quát nhất, chung nhất như sau: Cộng đồng là một tập thể, có những thành viên gắn bó với nhau thành một tổ chức và cơ bản có chung mục đích. Khái niệm cộng đồng có quan hệ với khái niệm tính cộng đồng. Tính cộng đồng là một yếu tố gần như bẩm sinh của con người bởi vì con người có nguồn gốc bầy, cộng với một quá trình tiến hóa dài từ cuộc sống bầy đàn mới sang giai đoạn cá nhân. Tính cộng đồng cũng trải qua những thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Lúc đầu, trong các xã hội cổ xưa, tính cộng đồng lấn át tính cá nhân, không công nhận cá nhân như một thực thể độc lập. Trong xã hội có quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển, các quan hệ sở hữu tư nhân phổ biến, tính cộng đồng chỉ là một mặt của đời sống con người, bên cạnh tính cá nhân phát triển ngày càng cao. Mối quan hệ giữa tính cộng đồng và tính cá nhân luôn mang những mâu thuẫn, thậm chí xung đột, nhưng bao giờ cũng có tính hữu cơ, không thể có tính cá nhân thật sự mà không có tính cộng đồng thật sự và ngược lại. Tìm kiếm một sự kết hợp tối ưu của tính cộng đồng và tính cá nhân là một đòi hỏi không thể thiếu đối với mọi học thuyết về sự phát triển xã hội. Người ta càng thấy rõ rằng không có những cá nhân phát triển thì không thể có một cộng đồng tự do của con người, cũng như không có tính cộng đồng (ý thức trách nhiệm với cộng đồng) thì cũng không thể có các cá nhân phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều chương trình của nhiều tổ chức trong nước và quốc tế đã phải dựa vào cộng đồng để làm cơ sở cho định hướng phát triển, Các mục tiêu phát triển cộng đồng ở Việt Nam được thể hiện trong rất nhiều chính sách về văn hóa, xã hội và kinh tế. Đây là những chính sách được xây dựng chung cho toàn xã hội và có mục tiêu khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế đồng thời duy trì tính công bằng, đoàn kết, thống nhất của các mối quan hệ cộng đồng trong toàn quốc. Với các khu vực nông thôn nghèo của đất nước, từ lâu Chính phủ đã có những chính sách, chương trình tập trung phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là đối với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Những chính sách, chương trình nói trên là những cơ chế phân phối lại, trong đó hỗ trợ bộ phận còn yếu của xã hội, những khu vực nghèo của đất nước qua việc chuyển giao tài chính từ ngân sách nhà nước và qua việc nâng cao nhận thức của xã hội với vấn đề cộng đồng. 1.3.2. Vai trò của luật tục và pháp luật trong tự quản cộng đồng - Pháp luật và luật tục có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Làm rõ nội dung mối quan hệ đó có ý nghĩa về nhiều mặt, vừa làm phong phú thêm pháp luật vừa đảm bảo hiệu lực điều chỉnh của pháp luật, phát huy được pháp luật trong hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện luật tục. Tuy nhiên, vấn đề này rất phong phú và phức tạp nên trong đề tài này tôi chỉ tập trung làm rõ các nội dung của mối quan hệ trên như sau: •
•
•
Thứ nhất, luật tục và pháp luật là những yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, đều bị quy định bởi cơ sở kinh tế nhất định trên nền tảng kinh tế xã hội phù hợp. Luật tục và pháp luật do vậy có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi con người. Pháp luật tác động ở phạm vi rộng, bao quát các quan hệ quan trọng, cơ bản. Luật tục tác động ở phạm vi hẹp nhưng cụ thể, vì thế mà luật tục như " cánh tay kéo dài" của pháp luật, hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật. Thứ hai, luật tục và pháp luật cùng có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, cùng hướng đến trật tự xã hội. Nếu pháp luật hướng đến trật tự xã hội chung thì luật tục hướng đến trật tự cộng đồng; pháp luật tạo lập đồng thuận xã hội thì luật tục tạo lập, củng cố đồng thuận cộng đồng. Song, trật tự xã hội chỉ có thể tồn tại trên cơ sở trật tự của các cộng đồng. Ngược lại, trậ tự xã hội được xác lập sẽ làm cho trật tự cộng đồng thêm vững chắc, ổn định. Thứ ba, trong điều chỉnh quan hệ xã hội, pháp luật có vị trí ưu trội hơn luật tục về hiệu lực, về cơ chế và hình thức. Pháp luật ra đời nhằm duy trì trật tự trong xã hội đã có sự phân chia thành các giai cấp đối kháng, nên pháp luật có tính giai cấp. Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị, đàn áp sự phản kháng của các giai cấp và tầng lớp khác. Pháp luật được thi hành bằng cưỡng chế của Nhà nước. Là luật thành văn nên Nhà nước có thẩm quyền ban hành pháp luật theo một thủ tục, trình tự chung có tính quy phạm chặt chẽ cả về nội dung và hình thức. Pháp luật có hiệu lực, hiệu quả cao, có tính thống nhất về nội dung và tính phổ biến rộng rãi. Do vậy, trong mối quan hệ với luật tục, pháp luật có hiệu lực cao hơn, cơ chế điều chỉnh được định hình chặt chẽ hơn. Trong trường hợp giữa pháp luật và luật tục có sự xung đột thì luật tục phải tuân thủ pháp luật, thể hiện ra ở sự tuân thủ pháp luật. Pháp luât có vai trò hướng dẫn, định hướng luật tục, làm cho luật tục ngày càng tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
- Vai trò của luật tục
Từ mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật trong tự quản cộng đồng có thể thấy luật tục có vị trí độc lập tương đối với pháp luật. Và từ đây, việc vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng đòi hỏi một mặt phải coi trọng pháp luật, đề cao pháp luật, song phải biết phát huy tính độc lập tương đối của luật tục, cụ thể là chú ý những vấn đề có tính chất phương pháp luận sau: •
Một, luật tục trong điều kiện nhất định có khả năng thay thế pháp luật. Pháp luật có tính thống nhất trong phạm vi quốc gia và phản ánh được trình độ páht triển chung của xã hội. Song, trình độ phát triển ở từng vùng, từng địa phương là khác nhau, thậm chí chênh lệch nhau rất lớn cả về trình độ phát triển, đời sống văn hoá, tinh thần, do đó không phải ở lúc nào, ở đâu pháp luật cũng thâm nhập được vào cuộc sống, cũng có tác dụng điều chỉnh. Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những qui định của pháp luật trên nhiều khía cạnh còn xa lạ đối với cộng đồng của họ. Trong khi đó, luật tục với những giá trị tích cực của nó lại có tác dụng thay thế cho pháp luật, đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể. Thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực khi mà pháp luật chưa thật sự thâm nhập sâu vào trong thực tế thì vai trò của luật tục thay thế pháp luật là rất cần thiết, nhất là trong tự quản ở cộng đồng dân cư.
•
Hai, bên cạnh việc có thể thay thế pháp luật, luật tục trong nhiều trường hợp còn có khả năng bổ sung cho pháp luật. Trong điều kiện một quốc gia có nhiều sắc tộc cùng sinh sống với trình độ phát triển khá chênh lệch nhau, vơi trình độ xây dựng luật pháp của các cơ quan nhà nước còn hạn chế thì pháp luật càng không thể điều chỉnh hết các tình huống xảy ra trong thực tiễn. Trong khi đó, mỗi tộc người đã có một hệ thống luật tục được đúc kết, sàng lọc qua nhiều thế hệ, được kiểm nghiệm qua thực tiễn điều chỉnh các quan hệ trong nội bộ tộc của người đó, và phần nào đã khẳng định được vai trò điều hòa xã hội thì rõ ràng ở đây luật tục sẽ bổ sung các quy định còn thiếu của pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật thực hiện được vai trò quản lý xã hội có hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu khách quan trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cộng đồng.
•
Ba, luật tục có khả năng hỗ trợ cho pháp luật. Thực tế trong nhiều trường hợp các qui định của pháp luật chưa hẳn được áp dụng và chấp hành chính xác, đầy đủ trong một cộng đồng dân tộc thiểu số. Trong trường hợp này, pháp luật và sự thực hiện pháp luật chỉ có thể diễn ra nếu có sự hỗ trợ của luật tục bởi vì luật tục có khả năng cố kết cộng đồng, khả năng cụ thể hóa, chi tiết hóa các qui định của pháp luật thành chuẩn mực đạo đức, cách cư xử của cộng đồng. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là mối liên hệ của luật tục với pháp luật, những khả năng thay thế, bổ sung, hỗ trợ của nó đối với pháp luật là mối quan hệ chặt chẽ, không thể rách rời, có giá trị to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay.
•
Bốn, những giá trị tích cực trong hệ thống luật tục của các tộc người thiểu số đã được đúc kết qua nhiêù thế hệ, là tinh hoa văn hóa dân tộc, có giá trị xây dựng, cố kết cộng đồng lớn lao. Do đó, trong quá trình nghiên cứu xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, bên cạnh khả năng thay thế, bổ sung và hỗ trợ cho pháp luật thì luật tục còn có thể thành nguồn trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm phong phú pháp luật. Luật hóa luật tục trở thành một trong các phương thức xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam mà ĐCS Việt Nam đã và đang chú trọng tại Nghị quyết 48/NQ - Nghị quyết của bộ Chính trị khóa IX.
Từ sự trình bày trên có thể khẳng định, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, hệ thống luật tục của các dân tộc đã được chắt lọc trở thành tinh hoa, sắc thái riêng của mỗi tộc người, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam. Với những đặc điểm riêng, hệ thống luật tục của các tộc người thiểu số luôn có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật, tạo nên một cơ chế điều chỉnh hoàn chỉnh, đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, góp phần điều hòa và cân bằng xã hội, giúp cho xã hội luôn ổn định và phát triển.
Chương 2: Các giải pháp để vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng 2.1. Mối quan hệ của luật tục và pháp luât trong tự quản của cộng đồng. Pháp luật và luật tục có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Làm rõ nội dung mối quan hệ đó có ý nghĩa về nhiều mặt, đó là vừa làm phong phú thêm pháp luật vừa đảm bảo hiệu lực điều chỉnh pháp luật phát huy được vai trò của pháp luật trong hỗ trợ bổ sung, hoàn thiện luật tục. Tuy nhiên, đây là vấn đề lý luận quan trọng, phức tạp, do khuôn khổ có hạn, bài tiểu luận chỉ tập trung làm rõ các nội dung của mối quan hệ như sau: •
Thứ nhất, luật tục và pháp luật là những yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, đều bị quy định bởi cơ sở kinh tế nhất định trên nền tảng kinh tế xã hội phù hợp. Luật tục và pháp luật có quan hệ bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi con người. Pháp luật tác động ở một phạm vi rộng, bao quát cá quan hệ quan trọng, cơ bản. Luật tục tác động ở phạm vi hẹp nhưng cụ thể, vì thế mà luật tục như "cánh tay kéo dài" của pháp luật, hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật.
•
Thứ hai, luật tục và pháp luật cùng có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, cùng hướng đến trật tự xã hội. Nếu pháp luật hướng đến trật tự xã hội chung thì luật tục hướng đến trật tự cộng đồng, pháp luật tạo lập đồng thuận xã hội thì luật tục tạo lập, củng cố đồng thuận cộng đồng. Song, trật tự xã hội chỉ có thể tồn tại trên cơ sở trật tự của các cộng đồng. Ngươc lại, trật tư xã hội được xác lập sẽ làm cho trật tư cộng đồng thêm vững chắc, ổn định.
•
Thứ ba, trong điều chỉnh quan hệ xã hội, pháp luật có vị trí ưu trội hơn luật tục về hiệu lực, về cơ chế và hình thức. Pháp luật ra đời nhằm duy trì trật tự trong xã hội đã có sự phân chia thành các giai cấp đối kháng, nên pháp luật có tính giai cấp. Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị đàn áp sự phản kháng của các giai cấp và tầng lớp khác. Pháp luật được thi hành bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Là luật thành văn được nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một thủ tục, trình tự và quy phạm chặt chẽ cả về nội dung và hinh thức, pháp luật có hiệu lực, hiệu quả cao, có tính thống nhất về nội dung và phổ biến rộng rãi. Do vây, trong mối quan hệ luật tục, pháp luật có hiệu lực cao hơn, cơ chế điều chỉnh đươc định hình chặt chẽ hơn. Trong trường hợp giữa pháp luật và luật tục có sự sung đột thì luật tục phải tuân thủ pháp luật, thể hiện ra ở sự tuân thủ pháp luật. Pháp luật có vai trò hướng
dẫn, định hướng luật tục, làm cho luật tục ngày càng tiến bộ hơn, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Từ mối quan hệ giưa luật tục và pháp luật trong tự quản của cộng đồng có thể thấy luật tục có vị trí độc lập tương đối với pháp luật. Và từ đây, việc vận dụng trong tự quản của cộng đồng đòi hỏi một mặt phảI coi trọng pháp luật, đề cao pháp luật, song phải biết phát huy tính độc lập tương đối của luật tục, cụ thể là chú ý những vấn đề có tính chất phương pháp luận như sau: •
Một, luật tục trong điều kiện nhất định có khả năng thay thế pháp luật. Pháp luật có tính thống nhất trong phạm vi quốc gia và phản ánh được trình độ phát triển chung của xã hội. Song, trính độ phát triển ở từng vùng, từng địa phương là khác nhau, them chí chênh lệch nhau rất lớn cả về trình độ phát triển, đời sống văn hoá, tinh thần, do đó không phảI lúc nào ở đâu pháp luật cũng thâm nhập được vào cuộc sống, cũng có tác dụng điều chỉnh. Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những quy địng của pháp luật trên nhiều khía cạnh còn xa lạ đối với cộng đồng của họ. Trong khi đó, luật tục với những giá trị tích cực của nó lại tác dụng thay thế cho pháp luật, đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể. Thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực khi mà pháp luật chưa thâm nhập sâu vào trong thực tế thì vai trò của luât tục thay thế pháp luật là rất cần thiết, nhất là trong tự quản ở cộng đồng dân cư.
•
Hai, bên cạnh việc có thể thay thế pháp luật, luật tục trong nhiều trường hợp còn có khả năng bổ sung cho pháp luật. Trong điều kiện môt quốc gia có nhiều sắc tộc cùng sống với trình độ phát triển còn khá trênh lệch nhau, với trình độ xây dựng pháp luật của cơ quan nhà nước còn hạn chế thì pháp luật càng không thể điều chỉnh hết các tình huống xảy ra trong thực tiễn. Trong khi đó, mỗi người đã có một hệ thống luật tục được đúc kết, sàng lọc qua nhiều thế hệ, được kiểm nghiệm qua thực tiễn điều chỉnh các quan hệ trong nội bộ tộc người đó, và phần nào khẳng định được vai trò điều hoà xã hội có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu khách quan trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cộng đồng.
•
Ba, luât tục có khả năng hỗ trợ cho pháp luật. Thưc tế trong nhiều trường hợp các quy định của pháp luật chưa hẳn được áp dụng và chấp hành chính xác, đầy đủ trong một cộng đồng dân tộc thiểu số. Trong trường hợp này pháp luật, sự thực hiện pháp luật chỉ có khả năng cố kết cộng đồng, khả năng cụ thể hoá, chi tiết hoá các quy định của pháp luật thành chuẩn mực đạo đức, cách xử sự của cộng đồng. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là mối liên hệ của luật tục với pháp luật, những khả năng thay thế, bổ sung, hỗ trợ của nó đối với pháp luật là mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời, có giá trị to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xay dựng và áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay.
•
Bốn, những giá trị tích cực trong hệ thống luật tục của các dân tộc người thiểu số đã đươc đúc kết qua nhiều thế hệ, là tinh hoa văn hoá dân tộc, có giá trị xây dựng, cố kết cộng đồng lớn lao. Do đó, trong quá trình nghiên cứu xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, bên cạnh khả năng thay thế, bổ sung và hỗ trợ cho pháp luật thì luật tục còn trở thành nguồn trong hoạt động
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm phong phú pháp luật. Luật hoá luật tục trở thành một trong những phương thức xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam mà Đảng Cộng Sản Việt Nam chú trọng trong chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tại nghị quyết 48/ NQ – Nghị quyết của Bộ chính trị khoá IX.
Từ sự phát triển và hoàn thiện hệ thống luật tục của các dân tộc đã được chắt lọc trở thành tinh hoa, sắc tháI riêng của mỗi tộc người, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc độc đáo của dân tộc Việt Nam. Với những đạc điểm riêng, hệ thống luật tục của các dân tộc người thiểu số luôn có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật, tạo nên một cơ chế điều chỉnh hoàn chỉnh, đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, góp phần điều hoà và cân bằng xã hội, giúp cho xã hội luôn luôn ổn định và phát triển.
2.2. Khắc phục những hạn chế của luật tục. Để khắc phục chính xác, đầy đủ những hạn chế của luật tục nhất là trong điều kiện đa số các luật tục đều đang ở dạng bất thành văn, đòi hỏi chính quyền khi vận dụng luật tục trong tự quản cộng đồng cần chú ý những vấn đề sau: Một là, tiến hành sưu tầm luật tục. Để tiến hành công tác này cần xây dựng chương tình, kế hoạch, trong đó xác định rõ: •
Phạm vi sưu tầm là ở các cộng đồng dân tộc thiểu số trong cả nước, cần phải tiến hành trong phạm vi nhỏ như bản, mường...rồi mới đúc kết thành những kho tư liệu lớn trong phạm vi cả nước. Quá trình thực hiện cần lưu ý những bản gốc, những bản có niên đại càng lâu càng phải sưu tầm kỹ lưỡng hơn.
•
Thời điểm sưu tầm theo phương châm thực hiện "càng sớm càng tốt", nếu làm chậm thì ngoài những tài liệu thành văn vốn viết bằng chữ cổ lại chưa được bảo quản đúng cách sẽ hư hỏng, thì những già làng, trưởng bản hay những người am hiểu tường tận về tập quán, luật tục, chữ cổ do lớn tuổi nên khi họ mất đi việc sưu tầm sẽ càng gặp nhiều khó khăn.
•
Các cơ quan chức năng cần phải vạch ra một kế hoạc hợp lý, lộ trình phù hợp, thời gian phải phù hợp với khối lượng công việc. UBND cấp tỉnh phải kết hợp với Ban dân tộc miền núi, phòng tư pháp phải kết hợp với phòng văn hóa thông tin cùng điều hành phối hợp thực hiện.
•
Thành phần nhóm sưu tầm, nghiên cứu: mời các nhà khoa học pháp lý ở Viện Khoa học pháp lý TW, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, các nhà sử học, luật học để chủ trì; ở các tỉnh mời các thành viên thuộc các cơ quan chuyên môn tham gia; mỗi huyện, mỗi xã cử những người có trình độ văn hóa, sự am hiểu về luật tục của các dân tộc tại địa phương để tham gia nghiên cứu. Ngoài ra, nhóm sưu tầm, nghiên cứu nên thông qua chính quyền cơ sở và các Trưởng bản, già làng, những người cao tuổi có vai vế trong làng, bản để tìm hiểu sâu hơn, cụ thể hơn luật tục trong vùng.
Hai là, tiến hành phân loại và đánh giá luật tục trên cơ sở kết quả sưu tầm:
Hệ thống luật tục ở Việt Nam được hình thành, phát triển trên cơ sở nền kinh tế thấp kém, xã hội còn lạc hậu.Vì vậy hệ thống luật tục đang còn chứa đựng nhiều hạn chế với những hủ tục lạc hậu, không còn phù hợp thậm chí cản trở sự phát triển của xã hội. Đó là các qui định về bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị (thể hiện tính bất bình đẳng của luật tục), các lễ nghi rườm rà, các quan niệm lạc hậu...Do đó, vận dụng luật tục trong tự quản ở cộng đồng bản dân tộc và làng xã nông thôn, vừa phải lược bỏ các hạn chế, các luật tục lạc hậu còn tồn tại trong xã hội trong cộng đồng đó, vừa phải tiếp thu, cải tiến những qui định mang tính tiến bộ cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới, vừa phải xây dựng mới các qui định để có thể điều chỉnh các quan hệ mới nảy sinh trong cộng đồng, đảm bảo cho luật tục luôn phát huy được vai trò trong điều kiện, hoàn cảnh mới. Đây là một công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải thực hiện trong một quá trình lâu dài nhằm tiến tới mục đích là phải nâng cao hệ thống luật tục để tiếp cận được văn minh của thời đại. Việc phân loại và đánh giá luật tục phải được tiến hành ngay sau khi kết thúc các hoạt động sưu tầm. Luật tục được phân loại trên cơ sở các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh như: hôn nhân và gia đình, tín ngưỡng tôn giáo, bảo vệ trật tự cộng đồng... Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu và sưu tầm đánh giá luật tục theo ba nội dung sau: • • •
Những nội dung tiến bộ có thể vận dụng ngay vào công tác quản lý xã hội ở cộng đồng. Những nội dung có thể vận dụng vào công tác quản lý nhưng cần phải loại bỏ những mặt hạn chế, chưa phù hợp trong nội dung đó. Những nội dung đã lạc hậu của luật tục, không phù hợp với thời đại hiện nay, sẽ được loại bỏ nhưng có thể lưu giữ làm tư liệu nghiên cứư lịch sử.
Ba là, tổ chức lấy ý kiến góp ý kết quả phân tích, đánh giá luật tục: Sau khi thu thập luật tục các cơ quan chức năng cần tổ chức những cuộc họp thảo luận để đưa ra sự thống nhất cơ bản giữa quan điểm của các nhà khoa học và người đại diện nhân dân nhằm rút ra những giá trị tích cực, trong đó lưu ý hai cuộc hội nghị và hội thảo sau: + Hội nghị nhân dân + Hội thảo khoa học Sau khi tiến hành hội nghị, hội thảo, các nhà sưu tầm, nghiên cứu luật tục tiến hành tổng hợp ý kiến, chắt lọc các ý kiến. Từ đó, so sánh các qui định của luật tục với các qui phạm pháp luật hiện hành để làm cơ sở đánh giá, kết luận trước khi đưa các nội dung của luật tục vào vận dụng trong thực tiễn.
2.3. Vận dụng luật tục tiến bộ dưới hình thức hương ước mới Để luật tục có thể đi vào đời sống nhân dân dưới hình thức hương ước mới, trước hết phải đối chiếu giữa hệ thống luật tục được phê chuẩn với yêu cầu và nội dung hương ước mới để xác định những luật tục nào cần "hương ước hóa". Khi đã xác định rõ những luật tục tiến bộ cần được vận dụng phát huy, cần tiến hành so sánh các qui định của hệ thống luật tục với qui định của pháp luật hiện hành để đánh giá tính hợp pháp, hợp lý của các nội dung trong hệ thống luật tục ở các lĩnh
vực như: lĩnh vực Luật hình sự, Luật tài nguyên và môi trường, Luật hành chính, Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình... Việc đối chiếu thực hiện trên cơ sở những vấn đề sau đây: •
Đối chiếu về phạm vi điều chỉnh: Luật tục trước đây có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng (toàn bản, toàn cộng đồng dân tộc), còn phạm vi điều chỉnh của hương ước mới ngày nay gắn liền với yêu cầu tự quản của thôn bản nên phạm vi điều chỉnh hệp hơn. Do đó cần dựa vào đó để thay đổi phạm vi điều chỉnh của luật tục.
•
Đối chiếu về đối tượng điều chỉnh: hương ước ngày nay có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn luật tục vì hương ước yêu cầu tự quản trong phạm vi thôn bản. Mặt khác, luật tục ra đời trong nền kinh tế - xã hội ở trình độ thấp nên đối tượng điều chỉnh còn lạc hậu so với hương ước.
•
Đối chiếu về qui phạm điều chỉnh: Qui phạm điều chỉnh của luật tục thực tế là qui phạm phong tục tập quán, điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một tộc người nhất định. Do vậy, nếu không đối chiếu qui phạm điều chỉnh của luật tục với hương ước mới thì sẽ gây ra nhiều khó khăn khi dự thảo hương ước mới.
•
Đối chiếu về hình thức thể hiện: Thông thường, nội dung diễn đạt của luật tục thường là thơ xuôi, tục ngữ, thành ngữ, ít có chế tài và mang tính chất giáo dục, răn đe là chính. Hương ước mới ngày nay trước hết phải tuân thủ nguyên tắc qui định của Nhà nước và thường thể hiện dưới hình thức mệnh lệnh hành chính, nên khi vận dụng để xây dựng hương ước mới cần đối chiếu với luật tục và khi đưa vào vận dụng cũng cần phải phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Như vậy, mục đích của việc đối chiếu nêu trên là nhằm làm cho quá trình vận dụng luật tục trong xây dựng hương ước mới đi đến thống nhất cả nội dung lẫn hình thức thể hiện ngay từ ban đầu, sát sao với thực tế và sẽ được cộng đồng đón nhận và thực hiện có hiệu quả hơn. Sau khi thực hiện quá trình đối chiếu, các cơ quan chức năng cần thực hiện "hương ước hóa" luật tục: Về nguyên tắc, việc xây dựng hương ước mới phải đảm bảo tính dân chủ, khách quan trên cơ sở nền tảng văn hóa, vừa phải tôn trọng các nguyên tắc bắt buộc của pháp luật hiện hành. Hương ước mới cần phải xây dựng trên tinh thần pháp luật thì khi đó mới trở thành công cụ quan trọng, bổ sung cho pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ nảy sinh trong cộng đồng. Quá trình xây dựng và thực hiện hương ước mới cho cộng đồng là quá trình "luật tục hóa pháp luật". Nếu khéo léo đưa pháp luật, luật tục vào các qui định của hương ước và dùng những qui định đó điều chỉnh hành vi của người dân thông qua hoạt động tự quản thì sẽ làm tăng thêm hiệu lực của việc thực thi pháp luật mà vẫn giữ gìn và phát triển được bản sắc của địa phương. Sau khi xây dựng nguyên tắc vận dụng và quy trình vận dụng luật tục để dự thảo hương ước mới thì tiếp tục ban hành hương ước mới để đưa vào cuộc sống.
2.4. Kết hợp chặt chẽ giữa luật tục và pháp luật
Nhiệm vụ trước mắt và lâu dài được đặt ra cho công tác quản lý là: Cần vận dụng, kế thừa có chọn lọc luật tục vào việc xây dựng nếp sống văn hóa, làng bản văn hóa theo đường lối xây dựng xã hội của Đảng và Nhà nước, phù hợp với pháp luật. Nghiên cứu luật tục một cách thấu đáo trên cả phương diện qui định và phương diện vận hành của luật tục; xem xét, chọn lọc những yếu tố tích cực, tiêu cực. Sự tồn tại song song của luật tục và pháp luật đặt ra vấn đề là phải nghiên cứu và đề xuất những giải pháp thiết thực có hiệu quả, vừa để pháp luật được đảm bảo thực hiện thống nhất, vừa phát huy được kinh nghiệm quản lý cộng đồng. Các cơ quan Nhà nước Trung ương nên chỉ đạo và phối hợp, hỗ trợ các cơ quan địa phương cùng chú trọng công tác giáo dục ý thức pháp luật thường xuyên trong nhân dân. Song song tiến hành các công tác: xây dựng nếp sống văn minh, tuyên truyền về pháp luật, phát triển đời sống kinh tế - xã hội, giao thông, thông tin liên lạc; nâng cao dân trí, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân; xây dựng hệ thống tự quản bản làng, thôn xóm vững mạnh; củng cố đội ngũ trưởng thôn, trưởng bản, bí thư chi bộ, từng bước nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật và năng lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội cho họ. Trong nghiên cứu, khảo sát luật tục, các cơ quan Nhà nước luôn giữ vững quan điểm chỉ đạo, đó là tham gia vào việc xem xét, giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục. Phải xem luật tục như là một sự bổ sung cho pháp luật, bởi vì trên thực tế pháp luật không thể bao quát hết được mọi đặc thù của từng dân tộc, từng bản làng cụ thể nhưng cũng không thể đối lập luật tục với pháp luật mà phải đưa luật tục vào trong khuôn khổ của pháp luật. Hiện nay, nông thôn và vùng miền núi Việt Nsm đã có nhiều biến đổi, trình độ dân trí được nâng cao hơn trước một bước. Đã có luật pháp của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nên hệ thống luật tục cổ có phần nào không còn phù hợp. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta hiện nay chưa hoàn chỉnh, nhiều mặt trong cuộc sống xã hội của các tộc người ở nông thôn miền núi vẫn chưa được pháp luật ghi nhận. Vả lại, dân trí ở những vùng này chưa cao nên hiệu lực pháp luật chưa có hiệu quả, người dân đa phần còn xa lạ với các qui định của pháp luật. Trong tình hình như vậy, cần có những bản hương ước, qui ước mới ra đời nhằm để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh mà nhà nước chưa điều chỉnh. Luật tục là từ đời sống cộng đồng mà hình thành, là hệ thống tri thức về quản lý cộng đồng, là ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của các tộc người. Xã hội càng hiện đại, càng phát triển thì việc quản lý từ đơn vị cơ sở càng phải được chú ý. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải kết hợp hài hòa, có sự hỗ trợ, bổ sung giữa luật pháp chung của Nhà nước với luật tục trong các hoạt động quản lý ở cơ sở và hoạt động tự quản ở cộng đồng bản, làng, thôn, xóm một cách có hiệu quả.
2.5. Đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật, luật tục trong nhân dân Muốn vận dụng có hiệu quả cùng với việc thực hiện pháp luật nghiêm minh đòi hỏi các cơ quan chức năng phải quan tâm, chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và luật tục trong nhân dân. Công tác tuyên truyền giáo dục cần được đa dạng hóa về hình thức, chú trọng chất lượng, nội dung truyền đạt theo các hướng như sau:
- Giáo dục pháp luật, luật tục thông qua hội toàn thể nhân dân, hội nghị đại diện hộ gia đình. Đây là một trong những hình thức giáo dục khá phổ biến khi nhà nước cần tuyên truyền một chính sách nào đó tới nhân dân ở cấp cơ sở. Thông qua hội nghị này, pháp luật, luật tục (sau khi đã vận dụng thành hương ước, qui ước mới) sẽ đươc giới thiệu thông qua những nét chính, sau đó sẽ giải đáp những thắc mắc của bà con nhân dân về vấn đề này. Việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật cũng được thường xuyên lồng ghép cùng với các nội dung trong những hội nghị thôn bản trên, vừa nâng cao ý thức người dân, vừa nâng cao trình độ cho các trưởng bản, trưởng thôn. - Giáo dục pháp luật, luật tục thông qua sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thông qua các lễ hội. Thông qua các buổi sinh hoạt văn nghệ của chi hội nông dân, chi hội phụ nữ, chi đoàn thanh niên, ngày lễ hàng năm của địa phương, chính quyền có thể định hướng cho các hoạt động này những nội dung mang tính chất tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân chẳng hạn như thông qua các vở kịch tự biên, tự diễn, các tiết mục văn nghệ phỏng theo các giai điệu quen thuộc của địa phương để nhân dân dễ nghe, dễ nhớ. Và thông qua các hoạt động đó, các nội dung của pháp luật, các nội dung tiến bộ của luật tục xưa (đã được xây dựng thành hương ước mới) sẽ được khơi dậy trong nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Cách làm này một mặt góp phần giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc, một mặt nâng cao ý thức pháp luật, ý thức cộng đồng trong nhân dân, tạo ra không khí sinh hoạt vui tươi, đoàn kết, thúc đẩy mọi người hăng hái xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. - Giáo dục pháp luật, luật tục thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng Đây cũng là một trong những phương pháp giáo dục truyền thống mà chính quyền địa phương đã từng áp dụng rất hiệu quả. Thông qua sinh hoạt tập thể của các tổ chức lồng ghép các nội dung về pháp luật, luật tục để phổ biến cho các thành viên. Phương pháp truyền đạt phải linh hoạt, nhạy bén, giải đáp rõ ràng đối với những thắc mắc của thành viên trong tổ chức, đề cao tính dân chủ trong từng buổi sinh hoạt. - Giáo dục pháp luật, luật tục thông qua các Đảng viên sinh hoạt tại cộng đồng Hiện nay, ở các thôn bản đã có cấp ủy chi bộ cho nên việc phổ biến các chính sách của Đảng cũng như của nhà nước là rất thuận lợi. Bởi vì Đảng viên là những người có uy tín cao trong cộng đồng cho nên việc tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật, luật tục thông qua lực lượng Đảng viên sẽ tạo nên sức thuyết phục càng lớn trong nhân dân. - Giáo dục pháp luật, luật tục thông qua việc tổ chức hoạt động thực tiễn ở cộng đồng Đây là cách làm khá đơn giản nhưng không kém phần hiệu quả trong cộng đồng. Bởi vì chỉ cần thông qua các hoạt động thực tiễn của từng hộ gia đình: đám cưới, đám tang, mừng nhà mới... để định hướng cho người dân tổ chức thưo hương ước, qui ước mới của thôn, bản đã đề ra. Đặc biệt, ở các vùng miền núi, niềm tin vào tôn giáo của họ rất lớn, họ đề cao tín ngưỡng và có sự tôn trọng gần như tuyệt đối đối với những người đứng đầu cộng đồng (như già làng ở Tây Nguyên), hay những người thực hiện các hoạt động tín ngưỡng trong cộng đồng (như ông "mo", bà "một" của dân tộc Thái). Do vậy, việc tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật, luật tục hoặc qui ước mới nếu biết dựa vào những đối tượng trên thì những chủ trưong, chính sách sẽ dể đi vào lòng dân hơn. Tuy nhiên, để dựa vào họ, cần phải có những chính sách về tài
chính để nâng cao cuộc sống, đồng thời mở những lớp tập huấn để họ nắm vững hơn các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là nắm vững những hương ước mới của thôn bản để trả lời những khúc mắc của dân. Tóm lại, luật tục có vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, là sự bổ sung không thể thiếu được của pháp luật nhà nước. Do vậy, việc xem xét mối quan hệ của pháp luật và luật tục trong tự quản cộng đồng là cần thiết, từ đó vận dụng luật tục tiến bộ dưới hình thức hương ước mới để luật tục có thể trở thành công cụ hỗ trợ pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhân dân. Tuy nhiên, công việc này sẽ phải gặp nhiều khó khăn, bất cập nên rất cần sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền Trung Ương cùng với sự đồng thuận của cán bộ cơ sở và quần chúng nhân dân. Khi đó, mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật trong tự quản cộng đồng sẽ trở thành mối quan hệ khăng khít, thúc đẩy nhau trong quá trình nâng cao và phát triển xã hội.
C - Kết luận Trong kho tàng văn hóa, lịch sử của dân tộc, luật tục giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng, trong việc giữ gìn và bảo vệ bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh phát triển hiện nay, một số nội dung của luật tục không còn tiến bộ nữa nhưng vẫn có sức ảnh hưởng đáng kể đối với cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng dân tộc ít người. Hiện nay, đất nước ta đã thực sự hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập không chỉ là giữa Việt Nam và bạn bè quốc tế mà còn là sự hòa nhập về văn hóa truyền thống của chính dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta với mục tiêu chiến lược là đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN với nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Trong khi đó, luật pháp vẫn chưa hoàn thiện và theo kịp với sự phát triển xã hội cho nên việc xem xét mối quan hệ giữa luật tục và pháp luật trong tự quản cộng đồng, từ đó, vận dụng luật tục dưới hình thức hương ước, qui ước mới là rất cần thiết và phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Để luật tục được phát huy vai trò quan trọng của mình, góp phần vào quản lý xã hội, quản lý cộng đồng và giữ gìn bản sắc dân tộc thì các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền cần có nhận thức rõ bằng những hành động thiết thực đối với hệ thống luật tục hơn nữa. Có như vậy, vai trò của hệ thống luật tục mới được phát huy, góp phần xứng đáng vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam./.
Pháp luật và phong tục, tập quán có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi chính phong tục tập quán là nguồn hình thành pháp luật, pháp luật không thể tách rời phong tục tập quán, tuy nhiên ở mmọtt chùng mực nào đó thì Pháp luật cũng c ó sự tác động trở lậi đối với phong tục tập quán, ví dụ đói với các phong tục tập quán lạc hậu thì pháp luật chính là công cụ để thay đổi tập quán như tập quán sinh nhiều con, kết hôn, trong nam khinh nữ... và trong một trừng mực nào đó thì tập quán cũng là yếu tố xây dưng pháp luật, ví dụ như cá tập quán về thương mại (tập quán thương mại quốc tế-unidroi).Vì thế không đặt ra vấn đề cái nào dễ thay đổi hơn cái nào, hiện nay có những vùng miền vẫn phải áp dụng nững tập quán thay vì là pháp luật của nhà nước, nnưng xu hướng chung thì pháp luật vẫn chiến ưu thế vì đó là tập hơph của cả tập quán va khi mà nhận thức của người dân đã cao hơn!
Các mối liên hệ của pháp luật và những vấn đề đặt ra trong đời sống pháp luật 14:16' 13/4/2007 Đời sống pháp luật thường xuyên chịu sự chi phối, tác động mạnh mẽ của hàng loạt những nhân tố khách quan và chủ quan thuộc các lĩnh vực khác nhau từ chính trị, kinh tế, xã hội, tự nhiên; văn hoá, tâm lý, đạo đức; tư tưởng; lối sống; kỹ thuật, khoa học và công nghệ… Trên phương diện triết học và luật học, những vấn đề này thuộc nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của pháp luật.
Đời sống pháp luật thường xuyên chịu sự chi phối, tác động mạnh mẽ của hàng loạt những nhân tố khách quan và chủ quan thuộc các lĩnh vực khác nhau từ chính trị, kinh tế, xã hội, tự nhiên; văn hoá, tâm lý, đạo đức; tư tưởng; lối sống; kỹ thuật, khoa học và công nghệ… Trên phương diện triết học và luật học, những vấn đề này thuộc nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của pháp luật. Thông qua đó, thể hiện sự tác động qua lại giữa pháp luật và các hiện tượng, các quá trình của đời sống xã hội. Vai trò, hiệu lực và hiệu quả của pháp luật, kể cả sự quan hạn chế, yếu kém của pháp luật cũng qua đó mà bộc lộ. Đây là những vấn đề tuy không mới về tên gọi nhưng rất đa dạng, phức tạp, ngày càng có thêm nhiều nhân tố mới trên nền tảng cũ. Nghiên cứu thêm về những mối liên hệ, những nhân tố tâm lý – xã hội – tự nhiên – kỹ thuật tác động đến đời sống pháp luật do vậy có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong bối cảnh hiện nay khi mà pháp luật ngày càng thu hút sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Trong khi giữa các nhà lý luận Đông, Tây vẫn đang diễn ra những cuộc tranh luận về pháp luật, từ định nghĩa đến rộng hơn là quan niệm, mức độ điều chỉnh... thì trong cuộc sống vô cùng sinh động này, pháp luật vẫn tồn tại với chính đời sống thực của mình. Từ những ý tưởng, tư duy đến các chính sách rồi công nghệ làm luật, các loại hình dịch vụ pháp lý, phổ biến, giáo dục pháp luật, truy tìm, truy cập và pháp luật... Từ việc sử dụng, thực hành pháp luật của các cá nhân đến hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan công quyền... Luật pháp “phủ sóng” khắp mọi nơi, những điều luật cũ ra đi và những điều luật mới lại xuất hiện... Thế nhưng, cái cảm giác thiếu thiếu, thừa thừa pháp luật vẫn luôn thường trực trong mỗi người tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện, động cơ, mục đích, lợi ích khác nhau mà họ quan tâm, theo đuổi. Lý luận về các mối quan hệ của pháp luật do đó cần được bổ sung, nghiên cứu, khảo sát cho phù hợp với sự vận động của đời sống xã hội. Như chúng ta đã biết, pháp luật thâm nhập vào mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Các nhân tố xã hội có mặt trong quá trình hình thành, thiết lập, thực hiện pháp luật và văn hoá pháp luật nói chung. Những nhân tố đó rất đa dạng, có thể bao gồm: kinh tế, chính trị, văn hoá; đạo đức; phong tục, tập quán, văn hoá, nghệ thuật cùng các loại quy tắc xã hội khác; các thiết chế nhà nước, thiết chế xã hội; điều kiện và môi trường tự nhiên; địa lý; khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng; kỹ thuật, khoa học và công nghệ; tâm sinh lý; tính cách; lối sống, lối tư duy... Những nhân tố này có mặt trong sự hình thành nên những ý tưởng, những chính sách, những luật lệ, trong áp dụng pháp luật, ý thức pháp luật và nền văn hoá pháp luật của quốc gia, dân tộc. Lý luận pháp luật của chúng ta đã từ lâu nghiên cứu vấn đề này, nhưng chủ yếu là trên bình diện phổ quát, về các mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị, kinh tế, đạo đức; các thiết chế xã hội, với bản thân nhà nước. Sự phân tích chủ yếu là trong lĩnh vực xây dựng pháp luật – nghĩa là trong bản thân các quy định pháp luật về các mối quan hệ qua lại đó. Về phương diện thực hiện, áp dụng và ý thức pháp luật tuy lý luận cũng đã đề cập nhưng vẫn hãy còn khiêm tốn, ví như các nhân tố kỹ thuật, công nghệ, tâm lý, tính cách; các động cơ, mục đích và lợi ích của các chủ thể pháp luật đã có vai trò như thế nào trong quá trình họ đánh giá, cảm nhận và thực hành pháp luật, sáng kiến pháp luật. Trên thực tế, nhân tố tính cách, phẩm hạnh; tình trạng sức khoẻ của con người có vai tò to lớn trong sự hình thành, thiết lập các chính sách và các quy tắc pháp luật; các quyết định áp dụng pháp luật và cả trong các loại hình dịch vụ pháp luật. Về mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác về tính chất của mối quan hệ này vẫn còn nguyên giá trị. Tuy vậy, cũng như chính Mác đã nêu rõ: đời sau cần phải bổ sung vào lý luận của các ông cho phù hợp. Nếu chỉ đề cập đến nguyên lý về tính ưu trội của hạ tầng cơ sở đối với thượng tầng kiến trúc, nếu chỉ dừng lại ở việc nêu tính quyết định của kinh tế đối với nhà nước, pháp luật không thôi thì đúng mà chưa đủ. Sự tác động “hai chiều” của pháp luật đối với kinh tế cũng vậy, giờ đây cần xác định, đánh giá về vai trò của pháp luật đối với việc xác lập, bảo vệ các quan hệ kinh tế thị trường như thế nào. Thị trường và luật pháp, thị trường và nhà nước pháp quyền; thương mại và đạo đức, công bằng... liệu có phù hợp với nhau? Nếu như các quan hệ thị trường được xác lập trong pháp luật đảm bảo tự do và công bằng được vận hành trong hàng lang pháp lý thì không có sự đối lập nào giữa thị trường, thương mại và pháp luật. Sự phát triển của thị trường - pháp luật trong điều kiện đó chính là biểu hiện của quá trình dân chủ thống nhất. Từ triết lý đó mà xác định vai trò của pháp luật đối với kinh tế thời nay. Tất nhiên, mọi sự đều mang tính tương đối. Để có thể thực hiện được vai trò đó, pháp luật phải được đổi thay căn bản. Sự thay đổi trước hết phải bắt đầu từ các nhà làm luật. Theo đó, nhiệm vụ của họ là phải xác định được các giới hạn, các phương thức của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ, các hoạt động kinh tế. Pháp luật của nhà nước pháp quyền phải xác định cho các cá nhân, tổ chức một phạm vi tự do hoạt động, phạm vi xác định không chỉ những hành vi cần thiết mà còn là những hành vi có thể. Pháp luật phải thực sự là đại lượng của công bằng, lẽ phải, là đại lượng (phạm vi) như nhau đối với những người khác nhau - phạm vi tự do trong khuôn khổ pháp luật. Pháp luật cần quy định rõ ràng, minh bạch về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức; quy định hợp lý giữa tự do và trách nhiệm, giữa cái bị cấm và cái được phép làm để từng bước thực hiện các nguyên tắc của pháp luật trong nhà nước pháp quyền “được làm tất cả những gì luật không cấm” và “chỉ được phép làm những gì luật cho phép”. Tiêu chí cơ bản về hệ thống pháp luật đúng, tốt sẽ là hệ thống pháp luật nêu được những phương án cho sự lựa chọn các hành vi xử sự phù hợp quy luật khách quan, phù hợp hài hoà các loại lợi ích cá nhân, cộng đồng và xã hội, thể hiện các giá trị chân – thiện – ích mỹ. Pháp chế thời nay cũng phải được hiểu, được đánh giá và thực hành theo bộ công cụ kiểm định đó. Về mối quan hệ giữa pháp luật và cá nhân Là một trong những công cụ cơ bản về điều chỉnh hành vi và các quan hệ xã hội, pháp luật không thể liên quan đến con người – chủ thể sáng tạo, thực hành pháp luật. Nhưng có gì khác nhau khi đặt vấn đề: “nhà nước và cá nhân” với “pháp luật và cá nhân”?. Trong khi lý luận lâu nay đã khẳng định mối quan hệ biện chứng không thể thiếu nhau của nhà nước và pháp luật, ấy là chưa kể đến việc pháp luật thì lại cũng do nhà nước định ra, “được nhà nước đảm bảo thực hiện”...? Bên cạnh những điểm tương đồng, thống nhất, ví như khi đề cập đến “nhà nước” thì không thể không đề cập đến pháp luật trong mối quan hệ với cá nhân. Đã lựa chọn như một tất yếu là xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển xã hội theo lý tưởng nhà nước pháp quyền thì cần phải đi sâu nghiên cứu, khảo sát mối quan hệ giữa pháp luật và cá nhân, một pháp luật nhân văn vì con người và bởi chính con người – chủ thể sáng tạo và hoàn thiện pháp luật. Mọi tư duy, hành động coi nhà nước cao hơn pháp luật, chỉ huy, định đoạt tuyệt đối hay bất chấp pháp luật đều phải bị dỡ bỏ. Cả bên trong và bên ngoài với xã hội, nhà nước đều được pháp luật quy định, có thể nói một cách hình ảnh - nhà nước là một chế định pháp luật bao quát nhất, một "đại chế định pháp luật". Chỉ khi nào nhà nước được thiết lập như một tổ chức pháp lý hoạt động trên cơ sở pháp luật và phục tùng pháp luật thì khi đó tư tưởng nhà nước pháp quyền mới thực sự trở thành hiện thực[1]. Pháp luật thời hiện đại cần kết hợp hài hoà những phẩm chất tự nhiên của cá nhân với tư cách là một thực thể tự nhiên, sinh học và xã hội, cần hài hoà cả hai mặt để trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Thực hiện nguyên tắc được làm tất cả những gì luật không cấm và kết hợp với nguyên tắc đạo đức sẽ đảm bảo việc thực hiện yêu cầu đó. Chuyên sâu về vấn đề này xin được để ở một diễn đàn khoa học khác. Về mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị Là một vấn đề phức tạp, đa dạng, xét một cách chung nhất, chính trị thể hiện các mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp, các nhóm lợi ích; các dân tộc, đảng phái; các tôn giáo; các quốc gia, sự tham gia của con
người vào hoạt động của các thiết chế nhà nước và xã hội. Xu hướng của thế giới đương đại là nhà nước luôn phải ghi nhận, tìm kiếm sự đồng thuận của các thiết chế xã hội. Sự đa dạng về đời sống chính trị không làm mất đi vị thế quyền lực vốn có của nhà nước. Chính trị là hiện tượng xã hội rộng hơn nhiều so với hoạt động của nhà nước. Bên cạnh các thiết chế chính trị truyền thống như các đảng chính trị, thời hiện đại ngày càng có thêm nhiều thiết chế xã hội khác. Sẽ là cần thiết khi đặt vấn đề nghiên cứu, khảo sát về mối quan hệ giữa pháp luật và xã hội dân sự song hành cùng mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự. Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự đều cùng vận hành trong khuôn khổ pháp luật, mặc dù xã hội dân sự đa dạng, phức tạp hơn nhiều. Không thể đề cập đến nhà nước pháp quyền hay chính trị mà lại thiếu vắng xã hội dân sự được. Đồng thời, mối quan hệ giữa pháp luật và chính sách cũng là điều không thể không nghiên cứu. Lấy chính sách thay cho pháp luật hoặc bỏ qua chính sách đều không thể được. Về mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước Vấn đề tuy không mới nhưng vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ, vô cùng phức tạp trong thực tiễn và diễn đàn lý luận. Xây dựng nhà nước pháp quyền đã đem đến nhiều vấn đề cần phải đổi mới quan niệm, phải tư duy lại, trong đó có vấn đề mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật. Trong việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề xã hội, cần quan tâm lý giải mối quan hệ hữu cơ giữa các hiện tượng nhà nước - con người - pháp luật, và “đó là những vấn đề không thể xem xét trong sự tách rời nhau”[2]. Nhà nước và pháp luật trong thực tiễn sinh động nhiều khi có thể đi theo các hướng khác nhau, mâu thuẫn với nhau ở những mức độ nhất định tuỳ thuộc vào các điều kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ quan. Mâu thuẫn là tất yếu của các sự vật, hiện tượng ở trong một thể thống nhất. Nhà nước và pháp luật cũng không thể là ngoại lệ với quy luật khách quan ấy. Biện chứng của mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật là sự tác động của nhà nước đối với pháp luật không phải là tuyệt đối và ngược lại. Trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật không chỉ quan tâm đến sự thống nhất nội tại, sự cần thiết có nhau của nhà nước và pháp luật mà còn phải xem xét đến sự khác biệt, sự không tương thích, hay những mâu thuẫn tất yếu của nhà nước và pháp luật. Sự không tương xứng với nhau của nhà nước và pháp luật được thể hiện ở rất nhiều vấn đề cụ thể, ví như sự không phù hợp giữa cơ cấu, tổ chức của nhà nước với hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng, giải thích, phổ biến, giáo dục pháp luật. Trình độ, nhận thức, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ áp dụng pháp luật nhiều khi lạc hậu so với lý luận khoa học và thực tiễn, thậm chí với chính các quy định pháp luật mới. Trong điều kiện hiện nay, sự tương xứng giữa vai trò và năng lực là vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động của nhà nước và xã hội. Trong thực tiễn, việc chăm lo xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước phải thực hiện song song, đồng bộ với việc hoàn thiện pháp luật, tổ chức thực thi pháp luật. Về mặt xã hội, giáo dục pháp luật để nâng cao năng lực vận dụng pháp luật đúng đắn, có văn hóa là điều vô cùng quan trọng lúc này, như Bác Hồ đã dạy: nhà nước cần giáo dục cho nhân dân biết sử dụng các quyền tự do dân chủ của mình, dám nói, dám làm... trong khuôn khổ pháp luật[3]. Trong xây dựng văn bản pháp luật, thể hiện mối quan hệ nhà nước và pháp luật chính là việc quy định rõ không những chỉ về nội dung – các quyền, nghĩa vụ hay chế tài mà còn phải quy định rõ ràng, minh bạch về cơ chế thực hiện, chế độ trách nhiệm trong lĩnh vực pháp luật tương ứng. Trong áp dụng, thực hiện pháp luật nói chung, yêu cầu đặt ra là sự tương xứng giữa quy định pháp luật với năng lực, phẩm hạnh và kỹ năng của các chủ thể tương ứng. Ví như các quy định về dân chủ, tự do phải được thực hành bởi những con người yêu tự do, dân chủ, có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội và với chính bản thân mình. Mối quan hệ giữa pháp luật và các loại quy phạm xã hội khác Điều gì cần bổ sung, đi sâu nghiên cứu, khảo sát về mối quan hệ này vốn không phải là vấn đề xa lạ với chúng ta? Trong khi pháp luật ngày một lên ngôi trong điều kiện thị trường, nhà nước pháp quyền thì vị thế, thân phận của các loại “luật” khác như phong tục, tập quán, luật tục, hương ước… sẽ ra sao. Hơn thế nữa, trong điều kiện một xã hội dân sự, các thiết chế xã hội cũng có những bộ quy tắc tồn tại của mình. Chính vì
lẽ đó mà khi đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật và các loại quy tắc xã hội khác, chúng ta không chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung như sự tác động qua lại, sự khác biệt hay tương đồng của chúng mà phải đi sâu hơn, tấn công vào những cái có vấn đề. Một trong những cái có vấn đề đó là, tại sao trong xã hội hiện đại, thượng tôn pháp luật, các quy tắc xã hội nói chung không những không mất đi hay bị hạn chế phạm vi ảnh hưởng mà lại gia tăng vai trò trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ví như tập quán, hương ước liệu phải chăng chỉ như là một giải pháp tình thế trong khi chúng ta còn thiếu luật như nhiều người vẫn quan niệm? Chúng tôi thì lại không cho là như vậy. Pháp luật không có lịch sử của riêng mình xét một cách biện chứng trong tương quan với lịch sử xã hội và với cả lịch sử của tập quán. Bất chợt làm ta nhớ tới lời nhận xét sâu sắc của Ph. Anghen: nếu quên đi sự hình thành của pháp luật từ tập quán thì cũng khác nào như con người đã quên nguồn gốc của pháp luật từ các điều kiện kinh tế cũng như họ đã quên chính bản thân nguồn gốc của họ từ vương quốc của động vật[4]. Trên thế giới, đã bắt đầu xuất hiện quan điểm về sự đa dạng pháp luật hiểu theo nghĩa rộng, trong đó pháp luật của nhà nước có vị thế trung tâm nhưng không được phép triệt tiêu các loại luật lệ khác nhất là trong điều kiện xã hội dân sự pháp quyền. Do vậy, sẽ là hợp lý hơn là không nên có quy định: chỉ áp dụng tập quán trong khi còn thiếu luật. Thiếu luật chỉ là một trong những lý do cơ bản mà thôi. Tập quán, quyết không chỉ là một giải pháp tình thế trong khi còn thiếu các quy định pháp luật tương ứng. Việc kết hợp áp dụng pháp luật nhà nước và tập quán về nguyên tắc là song hành, là sự bổ sung, kết hợp tất yếu xuất phát từ chính thực tiễn cuộc sống. Vấn đề đặt ra chỉ là: nên áp dụng những loại tập quán nào, theo cơ chế nào và cách thức quy định trong pháp luật nên ở mức độ nào. Nhìn ra thế giới, nhiều quốc gia cũng đều giải quyết vấn đề này theo nguyên tắc chung đó. Trong số các loại quy tắc xã hội – các loại công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, đạo đức chiếm vị thế đặc biệt quan trọng. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức cần phải được tư duy theo truyền thống và hiện đại. Đặc biệt cần làm rõ giới hạn của pháp luật và đạo đức, sự giao thoa và độc lập tương đối, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa chúng. Phải khảo sát, đánh giá mối quan hệ này trong thực tiễn cuộc sống thông qua các quan hệ pháp luật và đạo đức, các hành vi đạo đức và pháp luật. Và cũng như triết lý của pháp luật và tập quán, lịch sử, sự vận động của pháp luật và đạo đức không thể nào xem xét tách biệt nhau. Pháp luật có giá trị đạo đức, là hiện tượng đạo đức. Suy cho cùng, pháp luật chỉ khác đạo đức theo nghĩa hẹp. Sự tác động của các quy phạm xã hội và pháp luật đối với nhau cũng theo nhiều chiều hướng, tích cực hoặc tiêu cực, hỗ trợ hay cản trở việc thực thi, xây dựng pháp luật. Xu hướng chung là các quy phạm xã hội ngày càng gia tăng vị trí, vai trò điều chỉnh quan hệ xã hội trong xã hội hiện đại và các nhà nước luôn nhận thức được vấn đề này để có những quan điểm, cách giải quyết cụ thể trong lĩnh vực pháp luật và điều hành xã hội. Những năm gần đây đã có sự chuyển hoá của quy phạm đạo đức vào nội dung pháp luật, vào hoạt động áp dụng pháp luật và lĩnh vực ý thức pháp luật. Đồng thời các yêu cầu của pháp luật cũng được chuyển tải vào các quan niệm, chuẩn mực đạo đức, ý thức và hành vi đạo đức của con người. Một khi những quy tắc, quan niệm đạo đức đã được luật hóa thì cũng được nội tâm hoá thành lẽ sống, thành tiêu chí đánh giá của con người. Vai trò của pháp luật và đạo đức đối với nhau và với đời sống xã hội thì đã rõ, nhưng việc thể hiện trong pháp luật và áp dụng pháp luật lại vô cùng khó khăn, đặc biệt là trong thực hiện pháp luật. Trong số các vấn đề đạo đức hiện nay, điều mà xã hội quan tâm nhất có lẽ là vấn đề đạo đức nghề nghiệp. Chúng ta cần tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia khác về đạo đức công vụ, đạo đức cho những ngành nghề có mối liên hệ mật thiết với quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều quốc gia trên thế giới, trong việc quy định và thực hiện dân chủ, họ luôn quy định vấn đề đạo đức và trách nhiệm – trách nhiệm chính trị, xã hội và pháp luật. Về mối quan hệ giữa pháp luật và các loại phương tiện điều chỉnh không mang tính quy phạm
Bên cạnh các phương tiện điều chỉnh quan hệ xã hội mang tính quy phạm như pháp luật, đạo đức, tập quán, luật tục; luật lệ tôn giáo… hành vi và các mối quan hệ của con người còn chịu sự điều chỉnh của các phương tiện điều chỉnh không mang tính quy phạm. Đó là các phương tiện như lương tâm, chính trị, văn hoá, nghệ thuật, thẩm mỹ, tư tưởng, khoa học; công nghệ, thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; tính cách, khí hậu, thời tiết... Trong số đó phải kể đến dư luận xã hội và tin đồn có hệ thống, tạo nên một sự phức tạp và tất cả đều hướng vào pháp luật, vào tư duy, quan niệm, chính sách, quy tắc pháp luật và áp dụng pháp luật của con người. Trong đời sống con người, các phương tiện điều chỉnh quy phạm và không mang tính quy phạm bao giờ cũng có mối quan hệ qua lại, tương tác lẫn nhau và cũng không loại trừ những mâu thuẫn tất yếu. Văn học nghệ thuật với các loại hình phong phú của chúng có vai trò đặc biệt to lớn trong việc điều chỉnh ý thức, hành vi của con người. Mặc dù văn học nghệ thuật không được thể hiện thành “điều”, “khoản”, không có cái gọi là “chế tài”, song trên thực tế lại có vai trò rất to lớn, có thể dẫn dắt con người theo nhiều cách xử sự, hướng thiện, hướng ác hay trung lập; cùng chiều hoặc ngược chiều với luật pháp và đạo đức xã hội. Lương tâm là phương tiện điều chỉnh không mang tính quy phạm và có vai trò to lớn trong cuộc sống con người. Các phương tiện điều chỉnh không mang tính quy phạm không nêu ra những yêu cầu cụ thể được mô hình hoá - quy tắc hoá, không có tính xác định chuẩn xác, không có tính mệnh lệnh bắt buộc, không thấy bóng dáng chế tài… mà chỉ thể hiện dưới dạng các nguyên tắc, quan niệm, mục đích và phương tiện. Nghiên cứu vấn đề tính cách, lối tư duy, các mối quan hệ của con người có ý nghĩa to lớn, thiết thực trong hoạt động lập pháp. Phương diện khách quan của các quy tắc pháp luật tự bản thân chúng không đưa đến cái gì cả, chúng phải đi qua lăng kính, qua sự soi xét của con người, nhà làm luật hay nhà áp dụng, phán xét pháp luật cũng là con người cả. Từ thực tế đó, cần phải đưa vào danh mục các mối quan hệ của pháp luật những nhân tố mới, những biểu hiện mới của những mối quan hệ truyền thống, phù hợp với cuộc sống. Điều này sẽ góp phần tích cực vào việc xây dựng và thực thi các chính sách, pháp luật. Đặc biệt, cần quan tâm nghiên cứu, khảo sát dư luận xã hội và pháp luật. Mảng đề tài này cũng chỉ mới được đề cập thời gian gần đây. Trên thực tế, hành vi và loại quan hệ xã hội của con người cùng lúc chịu sự tác động mạnh mẽ từ các phương tiện điều chỉnh mang tính quy phạm và không mang tính quy phạm. Trong đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật và xây dựng ý thức, lối sống tuân theo pháp luật cần đặc biệt quan tâm nghiên cứu đến sự tác động phối kết hợp này. Về phương diện lý luận, cần triển khai xây dựng, nghiên cứu, thực hành về xã hội học pháp luật, từ xã hội học hành vi, xã hội học lập pháp, xã hội học áp dụng pháp luật, xã hội học ý thức pháp luật… Luật học, lập pháp, hành pháp và tư pháp là những lĩnh vực hoạt động mang tính đa ngành, liên ngành cao, do vậy rất cần đến cơ sở xã hội học, tâm lý học và nhiều lĩnh vực khoa học xã hội – nhân văn, tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ.
d