Comenius

  • August 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Comenius as PDF for free.

More details

  • Words: 4,643
  • Pages: 11
1/. Tiểu sử và bối cảnh thời đại Gi.A.Cômenski(1592-1670)là nhà giáo dục ,nhà dân chủ lớn nhất ,nhà hoạt động xã hội xuất sắc của thế kỉ 17. Ông sinh ra trong một gia đình thợ xay bột: gia đình này là một thành viên của một tổ chức “cộng đông huynh đệ Tiệp” ở vùng Noravi Nam, đây là một tổ chức theo đạo Tin lành . Ông mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, nên sớm ra lao động thủ công . Năm 16 tuổi ,Gi.A .Cômenski được cộng đồng huynh đệ Tiệp cho đi học trường la tinh và sau 5 năm ông tốt nghiệp tại trường đó . Sau đó được cộng đồng huynh đệ Tiệp giúp đỡ tài chính sang Đức học đại học Hec-booc , sau đó chuyển sang trường Hayđenbec . Ở đây ông học nhièu quá đến nỗi yếu hẳn đi Năm 1604 ,lúc ông 22 tuổi , Gi.A.Cômenski trở về nước, vừa làm nha truyền giáo vừa phụ trách tổ trức tôn giáo lại vừa làm hiệu trưởng trường la tinh .Do tác hại củachiến tranh ( Tây Ban Nha - Tiệp) và do sự tiêu diệt đạo tin lành, vợ và hai con ông đều bị chết . Ông cùng với cộng đồng huynh đệ Tiệp phải rời Tổ quốc sang sống và hoạt động ở Ba lan trong nhiêu năm. Suốt thời gian này ông tích cực hoạt động giáo dục cả trong thực tiễn lẫn trên lý luận. Năm 1631, ông viết cuốn” Ngữ pháp nhập môn”.Năm 1632 ông hoàn thành cuốn “Trường học lòng mẹ”.Trong những năm 1633-1638, ông viết xong cuốn sách nổi tiếng “lý luận dạy học vĩ đại”. Ông bắt đàu biên sọan cuốn “Tri thức bách khoa”sau khi viết xong cuốn “Đường đời ngoắt ngoéo” để phê phán thói xấu của những kẻ thống trị và lũ nịnh thần. Những hoạt động giáo dục sôi nổi và có hiệu quả của ông đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia ở châu Âu .Người ta đã mời ông sang dạy học , nghiên cứu và viết sách về giáo dục .Năm 1642, ông sang Anh, rồi sang Thuỵ Điển . Năm 1650 ông sang Hung để giúp cải tổ các trường học . Ở đây , ông viết một lậot sách về giáo dục:” Loại trừ sự lười biếng ra khỏi nàh trường”,” Những quy tắc đạo đức cần cho thanh niên một trường tổ chức tốt”.v.v… Năm 1652 ông trở về Ba lan . Ở đây, chiến tranh cũng đã phá huỷ nhà cửa, của cải và nhiều tài liệu quý của ông. Ông được một người bạn cũ mời sang Hà Lan . Ở đây ông được mọi người quý mến .Toàn bộp tác phẩm

của ông được xuất bản tại đây. Tác phẩm cuối cùng của ông “Điều cần thiết duy nhất” cũng được hoàn thành và xuất bản tại đây. Ông mất ở Amsterdam (Hà Lan) ngày 18-11-1670 trong sự thương tiếc của mọi người . Ông để lại hơn 100 tác phẩm cho đời.

2/. Vai trò của giáo dục và của người thầy 2.1. Vai trò của giáo dục: Comenski hết sức tin tưởng vào tác dụng của giáo dục. Theo ông chỉ có giáo dục mới làm cho người ta trở nên một con người đáng là con người. Nhà trường là công xưởng chế tạo ra nhân đạo, ra hạnh phúc, ra con người chân chính . Giáo dục cần thiết cho mọi người. Theo ông nếu con người được giáo dục chu đáo, không những trình độ đạo đức được nâng cao mà các cuộc đổ máu trên mọi trận địa đều được chấm dứt. Vì vậy, theo ông, mọi người đều phải họ. Nhưng tuổi cần học hơn cả là tuổi trẻ. Sáp mềm thì bóp, nặn dễ dàng; cứng rồi, thì làm mạnh sẽ gãy. Khi trình bày vấn đề cải cách tôn giáo mà ông nghiên cứu, ông đã có nhận định rằng chính quyền trần thế có khả năng thực hiện cải cách đó, nhưng tác dụng giáo dục còn kiến hiệu hơn nhiều. 2.2. Về vai trò của người thầy giáo và yêu cầu đối với họ: Comenski nhận thức trọng trách của người thầy giáo hết sức nặng nề và đầy vinh quang. Theo ông “ dưới mặt trời này, không có một chức vụ nào ưu việt hơn!” Ông ví người thầy giáo như một thợ nặn, nặn những tâm hồn của trẻ”, hoặc như một ngọn lửa xua đuổi hét những bóng tối trong trí óc. Đó là một quan điểm tiến bộ đối với người thầy giáo, vì trước đó nghề thầy giáo, đặc biệt nghề thầy giáo tiểu học không được tôn trọng. Mộtmặt, ông yêu cầu nhân dân tôn trọng người thầy giáo, nhưng mặt khác, ông yêu cầu người thày giáo phải nhận rõ chức năng quan trọng, phải là mẫu mực về lòng trung thực, tinh thần kiên trì , hăng hái, phải là người có học vấn và cần cù lao động, yêu nghề, đối xử với học sinh như người cha. Tất cả những phẩm hạnh đó là tấm gương sinh động để học sinh noi theo. Ông cũng đòi hỏi người thầy giáo phải ân cần, hòa nhã, phải có thái độ vui vẻ, thân mật, một tình yêu chân thành. Theo ông, nếu anh không thể làm như một người cha thì anh không thể làm như một người thầy.

3/. Tư tưởng giáo dục Những yếu tố chủ nghĩa duy vật tự phát , chủ nghĩa nhân đạo và tính dân chủ trong thế giới quan của Comenski.Trong các tác phẩm của Comenski đã phản ánh sâu sắc những tư tưởng mới của thời đại ông .Từ những phong trào nhân dân thời đại đó , đặc biệt từ cộng đồng huynh đệ Tiệp , Cômenski tiếp thu tính dân chủ, và tinh thần nhân đạo, sự yêu đời, tính lạc quan từ nền văn hóa phục hưng. Ông cũng vạch ra sự bất bình đẳng trong xã hội. người thì quá giàu quá sung sướng, người thì quá nghèo, quá vất vả. với tư tưởng “tất cả mọi người đều được học về mọi điều” Comenxki đã yêu cầu mọi trẻ em thuộc mọi gia đình giàu cũng như nghèo, con quí tộc cũng như con thường dân, có danh tiếng hay không danh tiếng, ở nông thôn hay thành thị, nam cũng như nữ đều được học trường quốc ngữ một cách bình đẳng. có thể nói lúc bấy giờ Comenxki đã đề ra tư tưởng phổ cập giáo dục tiểu học. Khác với những nhà nhân văn, nhà giáo dục của thời văn hóa phục hưng,ông đã tạo nên hệ thống giáo dục không phải cho tầng lớp quí tộc, mà để cho mọi tầng lớp trong xã hội. Trong thế giới quan của Comenski có tính chất nhị nguyên và điều đó cũng được thể hiện trong tư tưởng giáo dục của ông. Đó là những yếu tố của chủ nghĩa duy vật tự phát, thuyết hiện thực, có khuynh hướng dựa vào cuộc sống, một mặt dựa vào kinh nghiệm mặt khác lại dựa vào tôn giáo.

3.1. Tư tưởng giáo dục chủ đạo Tư tưởng giáo dục chủ đạo của ông là: một nền giáo dục đúng đắn phải được tổ chức và hoạt động sao cho thích ứng với thiên nhiên và góp phần xác lập các quan hệ công băng, hữu nghị giữa người với người và giữa các dân tộc. tư tưởng chủ đạo này trở thành nguyên tắc lớn nhất trong hoat động giá dục của ông và là sự phản ánh tổng hợp mối hiểu biết rộng lớn mà ông đã tích lũy suốt đời. Comenski cho rằng thiên nhiên là cái chuẩn, cái mẫu mà giáo dục phải áp dụng, phải bắt chước để có thể đạt được kêt quả mong muốn. theo ông mối quan hệ chi phối của thiên nhiên đối với giáo dục phản ánh mối

quan hệ giữa thiên nhiên và con người: con người là một bộ phận của thiên nhiên; phương thức tồn tại và vận động của thiên nhiên cũng là phương thức tồn tại và vận động của con người. vì vậy con người phải tuân theo những qui luật phổ biến của thiên nhiên. Thiên nhiên theo cách hiểu của ông có nội dung rất rộng và ở mỗi con người, thiên nhiên trước hết là bản tính của người đó. Chính vì vậy ông luôn nhìn thấy sự giống nhau giữa con người và thiên nhiên. Vì vậy con người phải được giáo dục ngay từ nhỏ. Trên quan điểm thích ứng với thiên nhiên, ông chỉ ra rằng: “trật tự chính xác của nhà trường cần phải được vay mượn từ thiên nhiên, cần phải xuất phát từ quan sát những quá trình mà thiên nhiên thể hiện khắp mọi noi trong những hành động của mình”. Ông co ý thiết lập những qui luật giáo dục bằng phương phép tương đồng với những quy luật của thiên nhiên . Comenski đã đi đến những khái quát sâu sắc của mình trong lĩnh vực giáo dục và dạy học sâu sắc từ sự quan sát đời sống xã hội ,tình trạng ,giáo dục ,từ kinh nghiệm sư phạm.Trên cơ sở hoạt hoạt động giáo dục của bản thân và những kinh nghiệm tiên tiến của thời đại mình những tư tưởng sâu sắc về mặt lý luận đã nảy sinh và hình thành ở ông mà điều đó được thể hiện ở trong cuốn “Lý luận dạy học vĩ đại ”.Điều đó khác với trước đây người ta lý giairmootj luận điểm giáo dục đều dựa vào những luận điểm tôn giáo được trích dưới dạng những tín điều. Cùng với quan niệm về nguyên tắc thích ứng thiên nhiên của giáo dục như là theo những quy luật phổ biến của tự nhiên ,Comenski còn vận dụng nó để lý giải sự phân kì lứa tuổi ,hệ thống nhà trường và một số nguyên tắc và qui tắc dạy học .Ông dã chia cuộc đời thế hệ trẻ đang lớn lên thành bốn thời kì lứa tuổi ,cứ 6 năm một thời kì :thời thơ ấu từ lọt lòng đến 6 tuổi ,thời kì này đặ trưng bằng sự tăng trưởng mạnh mẽ về mặt thể chất và sự phát triển các giác quan .Tuổi thiếu niên :từ 6 tuổi đến 12 tuổi ,đươc đặc trưng bằng sự phát triển trí nhớ ,tưởng tượng với những cơ quan thực hiệnngôn ngữ và tay .Tuổi thanh xuân :từ 12 dến 18 tuổi ngoài những dặc trưng trên còn thể hiện ở sự phát triển tư duyowr trình đô cao hơn (hiểu và suy luận ).Tuổi trưởng thành :từ 18 dến 24 tuổi được đặc trưng bằng sự phát triển ý chí và năng lực bảo đảm sự hài hòa . Tương úng với 4 lứa tuổi đó Comenski vạch ra 4 bậc học :trường lòng mẹ,trường quốc ngữ ,trường la tinh và viện hàn lâm (học viện trường

quốc ngữ ở các bản ,làng ,địa phương cư trú: trường La tinh ở thành phố, học viện ở từng quốc gia hoặc trong những vùng lớn”

3.2. Mục tiêu giáo dục Giáo dục phải chuẩn bị cho con người vào đời không những vào cuộc đời tinh thần mà cả cuộc đời trần thế, cuộc đời xã hội. vì vậy nhà trường phải xây dựng cả hai mặt đó cho con người để họ có thể làm tốt mọi việc theo chức năng của mình trong đời sống xã hội và chẩn bị cho cuộc đời trường cửu sau này.

3.3. Nội dung giáo dục 3.3.1. Nội dung dạy học: Từ mục tiêu giáo dục và từ khẩu hiệu: “dạy mọi điều cho tất cả mọi người”, ông đã xây dựng một nội dung giáo dục theo nguyên tắc: “ngoài phạm vi giáo dục tôn giáo và đức dục, chỉ giáo dục những gì có lợi ích tức thời mà thôi” vì sống trên trần thế cần tìm hiểu những gì căn bản trên trần thế. Do đó ông chủ trương: giáo dục phải cung cấp cho học sinh những tri thức thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau, cấn thiết đối với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoan giai cấp tư sản đã lớn mạnh. Song nhưng tri thức đó phải là hữu ích và cơ bản. Theo ông: “ người hiền minh không phải là người biết nhiều mà là người biết cái điều hữu ích” và “ lát bánh mì và hớp rượu có ích cho dạ dày con người hơn là máng ăn đầy cam và rác bẩn”. do đó ông đề ra là phải học khoa học tự nhiên thay thê cho văn học và cổ ngữ. nếu học tiếng thì trước hết phải học tiếng mẹ đẻ, sau đó học các sinh ngữ để làm phương tiện giao dịch với nhau. Còn cổ ngữ chỉ có tác dụng để đọc các tài liệu cổ mà thôi. Và ông đã xây dựng nội dung day học cho từng cấp học. về vấn đề này công lao to lớn của ông ở chỗ ông là người đàu tiên trên thế giới đã soạn tài liệu hướng dẫn giáo dục trước tuổi họctrường lòng mẹ. Ngoài ra theo ông để mội người có thể dễ dàng học tập thì phải có tài liệu, sách giáo khoa trình bày dễ hiểu. mỗi môn học phải lựa chọn nội dung cần thiết, hữu ích đối với cuộc sống, nội dung cơ bản và dược trình bày ngắn gọn

Comenxki cũng như Rabbơle đều chủ trương nội dung giáo dục phải có tính bách khoa, toàn diện,nhưng khác với Rabơle ở chỗ ông đã lí giải,chứng minh về mặt triết học và về mặt xã hộichủ trương đó. Theo ông với nội dung giáo dục có như vậy thì mới cần thiết cho con người ra đời hoạt động và đấu tranh được. Hơn nữa thế giới là một thể thống nhất,các khoa học phản ánh từng mặt vận động của thế giới.khi học đầy đủ các khoa học đó với tinh thần bách khoalàm cho các sự vật được gắn liền với nhau bởi các quan hệ logic và làm như vậy sẽ tạo nên cái móng thắt chặt các bộ phận của hệ thống chung và nhờ vậy mà hệ thống đó càng thêm vững chắc. Về nội dung đào tạo đạo đức ông thường nhấn mạnh những phẩm chất đạo đức sau đây: sự sáng suốt, sự khôn ngoan, tính ôn hòa,lòng dũng cảm và tính công bằng, trong đó ông đặc biệt chú ý tới những biểu hiện cụ thể của lòng dũng cảm và tính công bằng. Lòng dũng cảm ở thanh niên phải được thể hiện ở sự thẳng thắn,sự tốt bụng, bền bỉ, dẻo dai trong lao động. 3.3.2. Nội dung giáo dục đạo đức: Cũng như Platông, Aristốt, Cômenski cho rằng phẩm hạnh cơ bản là sự sáng suốt, sự khôn ngoan, tính ôn hòa điều độ, lòng dũng cảm và tính trung thực. Sự suy luận đúng đắn về những sự vật là cơ sơ của những phẩm hạnh, do đó sự sáng suốt là người chỉ đạo cuộc sống phẩm hạnh. Tính ôn hòa, điều độ cần thiết đối với con người để thể hiện đúng mức, không đi đến chỗ thái quá. Lòng dũng cảm, đó là phẩm hạnh bao gồm những nét đặc tính như sự tự chủ, tính kiên trì, khi hoàn cảnh đòi hỏi sự thực hiện nghĩa vụ. Ngoài những phẩm hạnh cơ bản đó ông khuyên cần phải phát triển cho trẻ tính khiêm tốn, sự vâng lời, sự hảo tâm đối với những người khác, sự chỉnh tề, tính cẩn thận, tính lịch thiệp, sự tôn trọng người lớn tuổi, tính cần cù. Phương tiện giáo dục đạo đức, theo ông là tấm gương của các bậc cha mẹ, giáo viên, bạn bè, khuyên bảo, trò chuyện với con cái những hành vi đạo đức( đặc biệt khi giáo dục làng dũng cảm, chống lại sự bê tha lười biếng, sự thiếu suy nghĩ chín chắn, tính vô kỷ luật. Trong quá trình giáo dục ông đặc biệt chú trọng hình thành thói quen tốt.

3.4. Phương pháp giáo dục

3.4.1. Phương pháp dạy học: Trên cơ sở thuyết cảm giác luận ông đã cho kinh nghiệm cảm tính là cơ sơ của nhận thức dạy và học. Ông đã lí giải tỉ mỉ về mặt lý luận về nghuyên tắc trực quan. Trước ông những nhà giáo dục nhà văn hóa Phục hưng đã vận dụng nguyên tắc này khi trình bày các tài liệu in ấn, sách báo với các loại hình,nhưng hoàn toàn có tính chất kinh nghiệm,thiếu lý giải một cách có cơ sở ly luận. ông là ngueoèi đầu tiên thực hiện dược điều đó với cơ sở triết học. theo ông tính trực quan không chỉ trực quan thị giác, mà phải thu hút nhiều giác quan vào việc tri giác những sự kiện, hiện tượng. ông cho tính trực quan là nguyên tắc vàng ngọc của lý luận dạy học. Ông đòi hỏi làm sao viêc day học bắt đầu không phải từ những công viêc giảng dạy bằng lời về ngững sự vật sự quan sát cụ thể chung, và nếu có thể được thì quan sát trực tiếp sự vật trong thiên nhiên. Trong trường hợp không quan sát trực tiếp được thì cần thay chúng bằng tranh, hình vẽ, mô hình. Công lao hết sức to lớn của Cômeski là hình thành tính trực quan như một trong những nguyên tắc dạy học quan trọng nhất. Ông đã lí giải, khái quát, đào sâu, mở rộng những kinh nghiệm dạy học trực quan đã có vào thời gian đó, vậnn dụng rộng rãi tính trực quan trong thực tiễn, đưa vào sách giáo khoa của mình những hình vẽ. Ông đã kêu gọi nghiên cứu thế giới hiện thực bằng thí nghiệm. Điều đó chứng tỏ Cômenski đã quật mạnh vào hướng dạy học kinh viện một lối học nhồi nhét vào đầu thế hệ trẻ một mớ hổ lốn những từ ngữ, châm ngôn, ý kiến và đã kêu gọi hãy tìm cách thoát ra cái mê cung kinh viện đó. -Cômenski đã kịch liệt lên án lối học giáo điều, học vẹt, vu vơ vô nghĩa và đòi hỏi học tập phải tự giác. Ông viết: “không nên bắt học thuộc lòng một chút nào cả ngoài điều được hiểu rõ bằng lí trí”. Với sự giúp đỡ của giáo viên phải làm cho trẻ ý thức rõ ràng điều được học trong đời sống hàng ngày đã mang lại cho họ sự ích lợi như thế nào. Khi nghiên cứu những hiện tượng đó. Từng môn học khi có điều học sinh chưa hiểu thì phải dừng lại để làm cho họ hiểu rồi mới tiếp tục tiến hành.

-Cômenski đòi hỏi dạy học phải đảm bảo tính hệ thống. Ông đã chỉ ra sự cần thiết phải làm cho học sinh hiểu rõ mối liên hệ giữa các hiện tượng và tổ chức tài liệu học tậpnhư thế nào để họ không cảm thấy lộn xộn, trái lại được trình bày ngắn gọn dưới dạng một vài luận điểm cơ bản. Cần phải đi từ sự kiện đến kết luận, từ thí dụ đến quy tắc mà chúng giúp khái quát, hệ thống những sự kiện, thí dụ; cần đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ dễ đến khó, từ cái riêng đến cái chung và ngược lại. -Theo Cômenski, tính tuần tự trong dạy học có ý nghĩa hết sức to lớn. Tất cả những điều trình bày để học sinh lĩnh hội cần phân bố như thế nào để khi học tài liệu mới đều đã được chuẩn bị từ trước. Dựa vào đặc điểm lứa tuổi của trẻ, ông khuyên lúc đầu nên phát triển cảm giác, sau đó đến trí nhớ, tiếp nữa là tư duy và cuối cùng là ngôn ngữ và bàn tay. Vì đến lúc này học sinh phải biết biểu hiện điều mà họ đã lĩnh hội và họ vận dụng nó trong công việc. -Cômenski đòi hỏi trong dạy học phải đảm bảo cho học sinh lĩnh hội tri thức vững chắc. Càn phải hình thành cơ sở vững chắc, trong dạy học đừng vội vàng, mà làm sao học sinh hoàn toàn nắm vững những điều đã dạy. Muốn vậy, tất cả mối liên hệ đã có được dạy trong mối liên hệ đó; mỗi đề mục phải tóm tắt thành những quy tắc ngắn gọn và chính xác. Ngoài ra phải luyện tập, ôn tập tài liệu mà học sinh đã lĩnh hội, nhờ đó mà giáo viên thấy được điều mà học sinh chưa hiểu. Phải ôn tập nhiều lần bằng cách nói to sẽ làm phát triển kỹ năng biểu đạt điều mình đã nắm, nhờ vậy điều đã nắm trở nên rõ ràng và vững chắc hơn. Với mục đích đó, ông đã khuyên nên tạo điều kiện cho học sinh dạy lại điều họ đã nắm được cho người khác. -Cômenski cũng đã có những chỉ dẫn có giá trị về việc dạy học phải vừa sức đối với học sinh. Trong dạy học, theo ông chỉ cần cung cấp những điều gì mà nó phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Tính vừa sức trong dạy học chỉ đạt được bằng việc giảng dạy một cách rõ ràng, bằng việc thông báo điều cơ bản mà không quá nhiều chi tiết. -Cômenski chú ý phát triển mạnh mẽ năng lực nhận thức của học sinh làm bùng lên ngọn lửa khát khao tri thức nhiệt tình say mê học tập. Theo ông, để làm được điều đó phải kết hợp cái hứng thú với điều ích lợi khuyến khích tính tò mò của trẻ. “Tôi luôn luôn làm phát triển tính độc lập

trong quan sát, trong ngôn ngữ, trong thực hành, trong vận dụng ở những học sinh của tôi” ông đã viết như vậy. -Cômenski với việc tổ chức dạy học, hệ thống lớp-bài. Trong lịch sử giáo dục, như chúng ta đã biết, nhà trường hình thành rất sớm. Hơn 20 thế kỷ trước Cômenski, khắp các nước tren thế giới, việc dạy học tổ chức có tính cá nhân, thiếu khoa học, hiệu quả thấp. Điều đó rõ ràng không phù hợp với tư tưởng của ông “dạy mọi điều cho mọi người” và với sự đòi hỏi của sự phát triển kinh tế-xã hội của giai cấp tư sản mới hình thành lúc bấy giờ. Vì vậy ông đã chia trường học thành những lớp học. Mỗi lớp học có thành phần học sinh đồng nhất về lứa tuổi, về trình độ học vấn. Mỗi trình độ được hoàn thành trong một thời gian đào tạo nhất định, đó là năm học. Năm học được chia ra từng học kỳ và những kỳ nghỉ. Ngày học được tổ chức chặt chẽ, có thời khóa biểu rõ ràng. Chẳng hạn, trường quốc ngữ thì mỗi ngày học 4 tiết, trường la tinh 6 tiết. Mỗi tiết học có một chủ đề nhất định, và có nhiệm vụ chính của mình. Giáo viên chỉ đạo trực tiếp hoạt động nhận thức của tất cả học sinh cùng một lớp. Tiết học được phân ra những phần khác nhau: kiểm tra tri thức; giải thích tài liệu mới, luyện tập nhằm củng cố tri thức mới tiếp thu. Tóm lại ông đã đặt cơ sở cho hệ thống bài-lớp mà cho đến nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong việc tổ chức dạy học cho các trường trên thế giới.

3.4.2. Phương pháp giáo dục đạo đức: 1.Phương pháp nêu gương: Về phương pháp giáo dục đạo đức, Comenski tìm thấy sự thích ứng với thiên nhiên ở chỗ lấy nhận thức, lấy hành động để hình thành hành động, lấy sự vâng lời để hình thành sự vâng lời….Do đó ông quan tâm đến phương pháp nêu gương cho học sinh bắt chước, đặc biệt là sự gương mẫu của thầy giáo, cha mẹ và những thân khác; đồng thời tách học sinh ra khỏi những hiện tượng xấu xung quanh. 2.Phương pháp kỷ luật: Về kỷ luật trong nhà trường ông đã có những ý kiến đúng đắn và tiến bộ. Trước hết ông đã chỉ ra ý nghĩa hết sức to lớn của kỷ luật trong nhà trường, bằng cách mượn câu ngạn ngữ Tiệp: “ Nhà trường mà thiếu kỷ luật thì như chiếc cối xay thiếu nước” để nói điều đó.

Ông cũng đã chỉ rõ mục đích của việc vận dụng kỷ luật trong nhà trường . Ông nói: “ Kỷ luật phải thi hành đối với những quy định chung, không phải vì họ vi phạm mà vì để họ đừng vi phạm nữa.” Còn vận dụng kỷ luật như thế nào thì ông cho rằng: “ Sử dụng kỷ luật thì không được nhu nhược, không giận dữ, không phải hằn thù mà phải là sự trong sáng, chân thành có thể khiến cho người vi phạm kỷ luật nhận thấy phải sử dụng trách phạt đối với mình là vì lợi ích của chính họ va vì tình thương yêu của thầy giáo đối với hị như cha mẹ họ đối với họ.” Ông cực lực phản đối kỷ luật roi vọt thời trung cổ. Vì theo ông, roi vọt chẳng ích lợi gì khi ta muốn khêu gợi cho trẻ lòng yêu mến nhà trường, trái lại nó chỉ làm cho trẻ càn sợ, càng căm ghét nhà trường mà thôi. Về vấn đề này Comenski thể hiện tính nhị nguyêncủa mình. Điều đó thể hiện một mặt ông bác bỏ việc trách phạt bằng roi vọt trong việc học tập với kết quả kém, nhưng mặt khác thì ông vẫn giữ trong trường hợp nếu học sinh thiếu tôn sùng Chúa hoặc ương bướng. Ngoài ra ông đã có nhiều chỉ dẫn hết sức quý giá hình thành dưới dạng quy tắc ngắn gọn có liên quan tới việc tổ chức đúng đắn chế độ của nhà trường quản lý trường học, trách nhiệm của giáo viên, hành vi của học sinh, được trình bày trong tác phẩm “ Những quy tắc của nhà trường được tổ chức tốt”.

4. Ý nghĩa tư tửơng sư phạm của Comenski đối với sự phát triển giáo dục và thực tiễn nhà trường trong những thế kỷ sau này. Comenski có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển những tư tưởng sư phạm và nhà trường trên toàn thế giới. Ông đã được nhiều nước mời tới để cải tiến công việc nhà trừơng. Ông là người đổi mới trong lĩnh vực lý luận dạy học. Ông đã nêu lên những tư tưởng tiến bộ, sâu sắc, những nguyên tắc và quy tắc tổ chức công tác dạy học. Ông đã tổng hợp tất cả những lý luận và kinh nghiệm quý báu của loài người về giáo dục từ thời cổ đại, và thời văn hóa phục hưng và đặt

cơ sở cho nền giáo dục cận đại. Khắp thế giới từ lâu người ta đã suy tôn ông là ông tỏ của nền giáo dục cận đại.

Related Documents

Comenius
October 2019 12
Comenius
November 2019 10
Comenius
August 2019 15
Comenius
November 2019 10
Comenius Project
April 2020 5
Fichas Comenius
May 2020 5