Những bí ẩn về tân Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng
Hoàng Dũng - cán bộ VPTƯ (Trích Ðiện Thư Số 60 của Câu Lạc Bộ Dân Chủ) Sau ngày 30/4/1975 tôi được phân công nhiệm vụ kiểm soát việc tiêu hủy những thứ mà lúc ấy được người ta gọi là “văn hóa phẩm đồi trụy”. Sài Gòn những ngày ấy còn hỗn loạn, bề bộn, lòng người thì hoang mang, bất ổn. Song trong mắt bọn chúng tôi - những kẻ chiến thắng vừa từ rừng núi tiến vào - Sài Gòn đúng thật là “hòn ngọc viễn đông”. Nhà cửa thành phố hiện đại, hàng hóa nhiều vô kể, đặc biệt là sách báo, tranh ảnh, băng đĩa và những thứ sản phẩm bị coi là “tàn dư của chế độ cũ”. Lúc ấy chúng tôi được ủy ban quân quản bố trí ở tại một ngôi biệt thự bỏ hoang ở khu Phú Thọ. Mặc dù là bỏ không nhưng thật ra đây là một biệt thự mới tinh chưa có người đến ở, chủ nhà có lẽ là một người giàu có, xây dựng mới xong thì bộ đội giải phóng vào nên có th ể đã đi di tản hoặc không dám đến nhận nhà. Ngôi nhà có t ới 13 phòng, mỗi phòng đều có trang bị đồ dùng đầy đủ và rất sang trọng. Một số những chiến sỹ trẻ lúc ấy thích đọc truyện tranh, truyện tuổi hoa niên thì mang v ề đầy phòng đủ các loại sách truyện từ Tây Du ký, Tam Quốc chí, đến cả Ðát Kỷ- Trụ Vương, rồi chuyện kiếm hiệp không biết cơ man nào. Ðối với những người sống ở miền Bắc nghèo khó và những người bao năm hoạt động ở trong rừng núi thiếu thốn thì đúng quả là bị choáng ngợp với các loại sách báo Sài Gòn ngày ấy. Trong công việc hàng ngày tôi cũng thỉnh thoảng lần giở xem xét một số những cuốn sách cũ, một số tiểu thuyết lịch sử để hiểu thêm về chế độ Việt Nam cộng hòa, đặc biệt nhiều nhất là sách viết về nền đệ nhất cộng hòa như cuốn “Bên dòng lịch sử” của linh mục Cao Văn Luận, hay “Những ngày chưa quên”... Lúc ấy việc đọc sách chẳng qua cũng chỉ để cho dễ buồn ngủ vào mỗi buổi tối chứ thật ra cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chúng tôi đều cho rằng đó là những sách báo nhảm nhí, viết không đúng sự thật. Một cuốn sách hình như có tựa đề là “Những bóng ma trong h ồng trường” viết về những câu chuyện thâm cung bí sử trong Quảng trường đỏ thời Xô viết, nói về chuyện dâm ô, loạn luân của các lãnh đạo Xô viết, lúc bấy giờ đọc những chuyện ấy chỉ xem như những chuyện tiếu lâm, những hư cấu không có thật, chứ tuyệt nhiên không thể tin được. Thế rồi thời gian thấm thoát trôi qua với bao nhiêu biến chuyển, đổi thay của xã hội. Sài Gòn ngày ấy bây giờ chỉ còn trong ký ức của mỗi con người mà đã gắn bó, đã trải qua vào những giai đoạn lịch sử ấy. Tôi cũng đã luân chuyển qua nhiều vị trí, công việc khác nhau. Trong quá trình công tác tôi có may m ắn được làm việc một khoảng thời gian ngắn với cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Khoảng thời gian này không dài nhưng lại là khoảng thời gian rất quý báu đối với tôi bởi vì đã học được nhiều điều và hiểu được nhiều điều từ cơ quan quyền lực cao nhất, từ người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Việt Nam. Trong đó có những câu chuyện mà qua hàng chục năm giữ kín, “đào sâu chôn chặt”, suy xét, kiểm nghiệm đến ngày hôm nay m ới dám nói ra, bởi vì nó có liên quan đến những con người và hoàn cảnh lịch sử của đất nước ta trước đây, ngày hôm nay, và có thể nó sẽ ảnh hưởng đến tương lai dân tộc ngày mai.
Trước khi giữ chức vụ Tổng bí thư Ðảng cộng sản Việt Nam cụ Nguyễn Văn Linh đã từng hoạt động và làm việc tại miền Nam gần 50 năm (cụ vào Sài Gòn hoạt động từ 1939), và đã từng đảm nhiệm hầu hết các chức vụ lãnh đạo cao nhất tại miền Nam trước và sau chiến tranh. Vì thế dù sinh trưởng trên quê hương Hưng Yên miền Bắc nhưng cụ đã thực sự như một người con của Nam bộ. Ðến khi lên giữ chức Tổng bí thư cụ Nguyễn Văn Linh vẫn rất thường xuyên làm việc tại Sài Gòn, cụ sinh hoạt rất giản dị, khiêm tốn và kín đáo. Cụ ở trong khu vực riêng của Ban quản trị tài chính Trung ương, gọi là T78, khu vực này là một đoạn đường Trần Quốc Toản được đơn vị cảnh vệ ngăn lại hai đầu phố tiếp giáp với đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và đường Trần Quốc Thảo, thành một khu vực riêng biệt, có lối ra thông với đường Lý Chính Thắng (sau này mở thêm khách sạn Dạ Lý Hương). Có những hôm cụ vẫn xuống ăn cơm chung với cánh cán bộ chúng tôi ở nhà ăn tập thể cũng nằm trong khu vực này, cụ ăn uống đơn giản và không đồng ý có thêm bất cứ chế độ đặc biệt gì phục vụ. Hồi ấy phương tiện đưa đón cụ chỉ là loại xe Vonga đen của Nga sản xuất, mỗi lần xe của cụ đi thì trước đó lại có mấy cậu cảnh vệ mặc thường phục ngồi sẵn trên mấy chiếc xe Honda 67 “xoáy nòng” bí m ật chạy trước chạy sau để xem xét, bảo vệ, chứ không phải dùng xe Police “còi h ụ” hay xe “bồ câu trắng” bảo vệ như các cán bộ lãnh đạo sau này. Thế mà có lần tôi còn nghe cụ nhắc anh lái xe “chạy chậm chậm một tí không mấy cậu bảo vệ phải đuổi theo lại đụng vào dân thì khổ”, cụ biết và quan tâm đến tất cả những chuyện nhỏ như thế. Tôi còn nhớ, vào khoảng năm 1988 có lần phải xuống làm việc với đặc khu ủy Vũng Tàu (lúc ấy Vũng tàu vẫn còn là đặc khu Vũng tàu-Côn đảo), làm việc xong vào cuối buổi chiều cụ lại muốn đi tắm biển một chút cho khoan khoái. Th ế là đám cán bộ địa phương và lực lượng bảo vệ lại phải cuống quýt lo bố trí địa điểm kín đáo, an toàn. Ðến khi cụ xuống tắm lại phải bố trí hàng chục cán bộ bảo vệ cùng tắm quanh khu vực, thậm chí có người không kịp chuẩn bị đồ tắm đã phải mặc cả đồ lót đi tắm và mặc luôn đồ ướt đi về. Sau khi biết chuyện ấy cụ mới tự trách: biết các cậu phải lo lắng kỹ lưỡng như vậy thì tôi tắm luôn trong phòng cho xong. Những ai đã sống trong thời điểm đó thì chắc đều không thể quên được chuyên mục “Những việc cần làm ngay” của cụ viết ký với bút danh N.V.L. Ngay t ừ khi những sự việc được báo chí đăng tải cụ đã trực tiếp đôn đốc hoặc phân công cho nh ững cán bộ trực tiếp phụ trách theo dõi và ph ải hàng ngày báo cáo kết quả công việc cho cụ biết. Ðúng theo tinh th ần “Nói Và Làm”. Tiếc rằng lãnh đạo đất nước ta từ đó đến nay đã không xuất hiện thêm một ông “Nói Và Làm” nào nữa. Tôi vẫn thường nghĩ rằng nếu các lãnh đạo sau này và các lãnh đạo chính quyền cấp dưới có được quan điểm làm việc, đạo đức và cách sống như cụ thì chắc rằng người dân Việt Nam sẽ có được cuộc sống no đủ và công bằng hơn rất nhiều. Vào khoảng thời gian trước khi về nghỉ, có lẽ nhận thấy sức mình không thể làm thay đổi được cả một bộ máy, một cơ chế cồng kềnh và bảo thủ, cũng lại do hiểu được tính bè phái và sự lộng quyền của những kẻ lãnh đạo cơ hội trong Ðảng, cụ càng trở nên trầm tư hơn. Nếu ai có điều kiện lui tới gặp cụ tại nhà riêng thời gian này sẽ nhận thấy sự thất vọng và u uất thể hiện rõ trên khuôn mặt và thái độ của cụ. Ngoài quan hệ công việc tôi lại có quan hệ rất thân tình với cô Bình (Nguyễn Thị Bình) con gái cụ, tôi quen Bình từ lúc còn đang học ở Liên Xô, Bình cũng rất quý tôi, coi tôi như người anh. Có lẽ cũng vì thế mà mỗi lần tôi đến nhà cụ chơi hay có công việc gì đều thấy tự nhiên như người nhà. Sau này khi cụ Nguyễn Văn Linh thôi giữ chức Tổng bí thư Ðảng, tôi không còn được
làm việc với cụ nữa, nhưng thỉnh thoảng có dịp ra vào công tác tôi v ẫn ghé thăm cụ, hoặc là ghé thăm Bình, vài tháng m ột lần. Mỗi lần gặp cụ lại hỏi thăm tình hình công việc, tình hình tổ chức nội bộ, tình hình các địa phương. Cụ tỏ thái độ than phiền với những người kế nhiệm và đặc biệt kêu ca về khâu tổ chức cán bộ và quy hoạch lãnh đạo cao cấp. Vài năm sau đó nữa, lúc này sức khỏe của cụ tỏ ra đã yếu hơn trước rất nhiều, cụ ít đi lại hơn. Một buổi tối tôi đến thăm cụ, thấy cụ có vẻ không được khỏe, tôi không dám nói chuyện nhiều, sau khi hỏi thăm cụ vài câu tôi định đứng dậy ra về, nhưng cụ bỗng khoát tay ra hiệu bảo tôi hãy ở lại chơi và sau đó lại kéo tôi vào buồng trong. Tôi hiểu là cụ muốn trao đổi một chuyện gì đó, chắc là quan trọng hơn. Vừa ngồi xuống là cụ hỏi ngay: mấy hôm nay cậu có theo dõi vụ Tổng công ty Tracodi mà báo chí vừa đưa tin không? Tôi đáp: Dạ, có biết chứ ạ! Nhưng cũng chưa rõ lắm đúng sai thế nào? Cụ lại quay sang hỏi: Thế cậu có biết cái tay Tổng Giám đốc Phan Thanh Nam là ng ười như thế nào không? Tôi chợt hiểu ra có điều gì đó quanh vấn đề này, thời gian trước đó đã có dư luận xôn xao quanh chuyện Phan Thanh Nam là con r ơi của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cánh cán bộ văn phòng chúng tôi đều có nghe nhưng vẫn không biết thực hư thế nào, nên cũng chỉ coi như một tin đồn nhảm. Bỗng cụ ghé sát gần tôi và nói: Những chuyện này mà tao không nói cho các cậu thì sau này sẽ chẳng có ai được biết đến nữa. Thế là bỗng nhiên tôi trở thành một nhân chứng để ghi nhận những sự kiện ghê gớm thế này, những sự kiện đã gắn liền với lịch sử Cách mạng Việt Nam nhưng không bao giờ được chép trong sử sách và nó là một bộ mặt thật hoàn toàn khác với những gì mà nhân dân được biết về lãnh đạo Việt Nam, Theo cụ Nguyễn Văn Linh kể thì Bộ chính trị lúc bấy giờ, (tất nhiên đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ chỉ đạo, điều này thì sau này không ai là không bi ết), biết rằng cụ Hồ gặp những thiếu thốn và khó khăn về tình cảm cá nhân, như chuyện muốn nối lại mối tình duyên với người vợ cũ ở Trung quốc nhưng đã bị phản đối (đây là một câu chuyện có thật đã được phía Trung quốc công bố từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước. Về việc này tôi lại nhớ về sự kiện bài báo “Bác Hồ có vợ?” được đăng trên báo Tuổi Trẻ của tác giả Kiến Phước - Trưởng đại diện báo Nhân dân tại TP. Hồ Chí Minh, chính vì bài báo này mà sau đó Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ là Nguyễn Kim Hạnh, cũng chính là vợ ông Kiến Phước, bị mất chức. Sau này có lần đến chơi với hai vợ chồng Kiến Phước - Kim Hạnh ở trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, cũng gần khu T78, nhắc lại chuyện này họ lại buồn và phản ứng ghê lắm). Do vậy sau đó Bộ chính trị có bí mật sắp xếp nhiều người phụ nữ khác để chăm sóc và phục vụ cụ Hồ về mặt sinh hoạt tính dục. Ðặc biệt, từ thuở còn thanh niên cụ Hồ đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật này đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết “đi tìm Út Huệ”), do vậy cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ chính trị đã chỉ đạo cho Trung ương cục miền Nam, mà lúc này Nguy ễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ chính trị. Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Nguyễn Văn Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó đang chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc, có
một cô còn trẻ và rất sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chi ến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Ðến lúc sự việc vỡ lở thì cô gái đã có thai được mấy tháng rồi. Thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là vị tổng Giám đốc Tracodi: Phan Thanh Nam sau này. Nghe đến đây tôi cảm thấy vô cùng sửng sốt và bỗng thấy rùng mình hết cả người. Rõ ràng người đang kể ra những sự việc đó là một người đã từng giữ trọng trách cao nhất trong Ðảng cộng sản Việt Nam, một người trong số vài ba người được biết rõ nhất, chính xác nhất về câu chuyện này, một người trong số vài ba người hiếm hoi biết được những chuyện thâm cung bí sử nhất trong Trung ương Ðảng cộng sản, một người mà cái tuổi đã vượt quá ngưỡng “cổ lai hy” rồi. Như vậy không thể là nói thiếu chính xác hoặc vô căn cứ được, càng không thể là nói xấu tổ chức Ðảng và lãnh tụ được. Như vậy những chuyện tày trời kia là có thật ư? Tôi đang bần thần như người ngủ mê và còn chưa biết phải nói thế nào, cụ Linh lại nói tiếp:... cũng không phải chỉ riêng có Sáu Dân đâu (bí danh của Võ Văn Kiệt), mấy ông tướng nhà ta cũng đầy con rơi ra đấy, còn thằng Ba Dũng là con Nguyễn Chí Thanh, rồi thằng Trần Nam là con Trần Văn Trà hiện đang làm bên Học viện lục quân ấy. Thế là cụ lại kể cho tôi biết thêm những sự thật khác. Theo cụ Nguyễn Văn Linh thì trong thời gian tướng Nguyễn Chí Thanh làm Bí th ư liên khu ủy khu IV khoảng từ năm 1948 đến 1950 đã có quan hệ với một cán bộ phong trào ở đây và sinh ra Nguyễn Tấn Dũng, và cụ còn cho biết là sau Nguyễn Tấn Dũng vẫn còn một người em trai nữa cũng là con của tướng Thanh. Còn tướng Trần Văn Trà thì có quan hệ với một người phụ nữ quê ở miền Bắc (hình như là họ Hoàng, điều này tôi không còn nh ớ rõ) rồi sinh ra Trần Nam, cũng là một sỹ quan quân đội đang công tác tại Học viện lục quân Ðà lạt. Về Trần Nam thì hồi đó tôi không hề được biết một thông tin liên quan nào, ch ưa hề nghe đến danh tính. Rất gần đây tình cờ đọc báo về vụ công ty Rusalka của siêu lừa Nguyễn Ðức Chi rồi hỏi thăm cán bộ ở dưới mới được biết Trần Nam chính là giám đốc công ty Lâm Viên thu ộc Học viện lục quân - Bộ quốc phòng, có liên quan đến vụ án này. Sau buổi tối hôm ở nhà cụ Nguyễn Văn Linh ra về tôi bàng hoàng và b ăn khoăn nhiều lắm. Như vậy những thứ được gọi là tư cách, đạo đức, mẫu mực của các lãnh đạo cao cấp của Ðảng ta thật ra chỉ là những thông tin tuyên truy ền thôi ư? Và những kẻ bày ra những trò này chắc cũng không ngoài mục đích nhằm thao túng cụ Hồ và thao túng cả Bộ chính trị? Vậy thì đã có biết bao cô gái trẻ đã bị đánh mất tuổi thanh xuân và sự trinh trắng ở đó, và để đảm bảo tuyệt đối bí mật những thông tin này, dứt khoát phải có nhiều người đã bị thủ tiêu hoặc làm cho mất trí nhớ hoàn toàn. Như vậy những câu chuyện đồn thổi về những bóng ma trong qu ảng trường Ba đình phải chăng cũng là có thật? Thật bi thảm và khủng khiếp quá! Bắt đầu từ câu chuyện đó nên sau này tôi đã cố tìm hiểu thêm những thông tin khác liên quan đến Ba Dũng. Khoảng năm 2000, trong cuộc trò chuyện với một thiếu tướng Quân đội đã nghỉ hưu có quan hệ khá thân thiết với tôi, ông này có th ời gian đã công tác tại liên khu IV và V, ông ta cũng lại khẳng định với tôi rằng Nguyễn Tấn Dũng chính là con của Nguyễn
Chí Thanh. Hiện nay vị tướng này vẫn còn sống và là ủy viên của Hội cựu chiến binh Việt Nam, để tránh gây phiền phức cho ông nên tôi không dám nêu danh tính c ụ thể lên ở đây Tôi đã tìm xem trong số những tài liệu lưu ở văn phòng có liên quan đến Nguyễn Tấn Dũng nhưng không thấy lộ ra chi tiết nào nói về chuyện này. Thế nhưng nhìn vào lý lịch và quá trình công tác c ủa Ba Dũng rõ ràng có những điều bí ẩn sau đó. Ông ta chỉ là một cán bộ tầm trung bình, không có chuyên môn nghi ệp vụ (thật ra được đào tạo làm y tá quân đội), trình độ văn hóa thấp, chưa được đào tạo cơ bản chính quy, không có thành tích đặc biệt, không có năng khiếu gì xuất chúng, thế nhưng lại có quá trình thăng tiến nhanh vượt bậc (?) Sau này, trong những lần làm việc với Nguyễn Tấn Dũng tôi lại càng thấy rõ những điều đó hơn và càng thất vọng rất nhiều. Quả là ông ta là một người năng lực rất kém. Về hình thức bề ngoài, từ trước đến nay ít có lãnh đạo Việt Nam nào có được dáng dấp và khuôn mặt sáng láng như Ba Dũng, cái hình thức đó rất dễ làm cho những ai không biết tưởng rằng đó là một người rất thông minh, nhanh nh ẹn. Thật ra tương phản với hình thức sáng láng đó là một não trạng rất tối tăm, dốt nát. Hồi mới về Trung ương có những lần nghe ông phát bi ểu mà mọi người đều không hiểu ông định diễn đạt điều gì, rất lủng củng, tối nghĩa, lại lúng túng, cụt lủn. Nhiều lần tham dự những cuộc họp do Ba Dũng chủ trì, tôi thấy ông ta không dám phát bi ểu gì, chỉ ngồi nghe các cơ quan cấp dưới phát biểu sau đó ông ta cũng chẳng dám có ý kiến kết luận gì cả. Phải trải qua năm, sáu năm “thực tập” ở cái ghế Phó thủ tướng thì ông ta mới tỏ ra là tự tin, biết chủ trì những cuộc họp lớn của cơ quan Ðảng, Chính phủ, nhưng vẫn chỉ là cái kiểu nói lúng túng, nước đôi, nói hùa theo các ý ki ến khác chứ không thấy tự tư duy được điều mới mẻ cả. Mặc dù có cả một cơ quan tham mưu giúp việc rất đồ sộ “mớm” cho từng văn bản, từng câu chữ nhưng mỗi lần phải “nói vo” anh ta đều phát biểu rất khó khăn, không có đầu đuôi gì cả. Suốt cả quá trình dài là người đứng đầu Chính phủ và phụ trách tất cả những mảng quan trọng nhất nhưng ông ta chưa làm được một việc gì đáng kể. Ðặc biệt, Ba Dũng rất dốt ngoại ngữ, trong cuộc họp mà phát biểu những từ gì tiếng Anh thì toàn nói sai ho ặc nói lung tung cho qua. M ột con người năng lực yếu kém như vậy mà lại lên đến chức Phó thủ tướng, và nay là Thủ tướng Chính phủ thì quả là không hiểu nổi? Quả là có một bí ẩn khủng khiếp! Một dịp may khác ngẫu nhiên đến để tôi được kiểm chứng thêm lời nói của cụ Nguyễn Văn Linh. Ðó là khoảng năm 2001, trong một lần tiếp xúc với lãnh đạo TP. Hồ Chí Minh tại ủy ban thành phố có một vị khách đến làm việc theo lịch đã hẹn, và tôi được giới thiệu người khách đó là Tư Thắng (Nguyễn Tiến Thắng), em ruột Ba Dũng. Người này nhìn bề ngoài giống hệt Ba Dũng, từ chiều cao, dáng người đến nét mặt, mái tóc và kể cả giọng nói, thậm chí kể cả cử chỉ, dáng điệu (Ba Dũng hay có thói quen hất cằm và khuôn mặt ra phía trước). Tư Thắng giống Ba Dũng đến mức chỉ nghe giới thiệu là có thể tin ngay rồi, chỉ khác một chút là nước da đen hơn Ba Dũng một chút và khuôn mặt có vài vết rỗ. Riêng về cách ăn mặc thì ngược hẳn với ông anh, phóng khoáng t ự do, thể hiện là người không làm việc trong cơ quan chính quyền. Có lẽ đã nghe tên tôi từ trước, Tư Thắng chủ động tự giới thiệu trước và đưa danh thiếp có số điện thoại cho tôi (tôi vẫn còn giữ danh thiếp ấy và số điện thoại di động là 090845846, lúc ấy ÐTDÐ chỉ có 9 con số, hiện nay đều đã thêm số 3 nên sẽ là 0903845846), sau đó Tư Thắng còn mời tôi lúc nào rảnh rỗi thì đến chỗ anh ta chơi. Vì muốn tìm hiểu kỹ sự thật, có một buổi chiều sau giờ làm việc tôi đã lững thững đi bộ đến chỗ Tư Thắng. Theo địa chỉ Tư Thắng cho tôi biết thì đó là một căn nhà mặt
tiền đường 3/2, gần ngã tư Cao Thắng (phía bên Nhà hát Hòa Bình), đó là một ngôi nhà lớn, vị trí rất đẹp, nhưng sau này tìm hiểu ra tôi mới được biết Tư Thắng có rất nhiều đất đai và biệt thự ở khắp các tỉnh Nam bộ, ngôi nhà này cũng chỉ là chỗ đi lại mà thỉnh thoảng ở Sài Gòn Tư Thắng mới ghé qua. Chính vì T ư Thắng muốn nhờ tôi giới thiệu thêm với một số lãnh đạo để giúp cho các công vi ệc làm ăn của anh ta, tôi mới được biết là có rất nhiều công ty nằm dưới tay anh ta, đa phần là công ty TNHH. Các công ty này đều chỉ dựa vào thế lực và các mối quan hệ của Ba Dũng để tham gia vào rất nhiều lãnh vực khác nhau như: tài chính, ngân hàng, b ất động sản, thương mại, xây dựng, tham gia các dự án nhà nước... Ðiều làm tôi quan tâm nh ất là anh ta có quan h ệ với rất nhiều người Ðài Loan, đặc biệt trong mạng lưới các chân rết của Tư Thắng có một ngân hàng Ðài loan ho ạt động chui tại Việt Nam là First China Bank (m ột đàn em tin cậy của ông ta được giao phụ trách việc này cũng tên là Dũng có số ÐTDÐ là 0913950661). Như vậy có thể hiểu được đây chính là những “sân sau” của Ba Dũng, và để tránh đụng chạm với các thế lực khác cạnh tranh, anh em ông Ba D ũng đã nhằm vào địa bàn hoạt động chủ yếu ở miền Trung và Nam bộ, sau đó việc rửa tiền và chuyển ngân lậu được thực hiện qua ngả Ðài loan. Liệu có thế lực nào khác và bàn tay c ủa cơ quan tình báo Ðài loan nhúng vào những chuyện này không? Chưa ai biết được chuyện đó! Như vậy, đường đi và vị thế của ông tân thủ tướng Việt Nam quả là có một quá trình đầy bí ẩn, đầy những bàn tay sắp đặt, chắc chắn đứng đằng sau ông ít nhất còn có hai người em là Nguyễn Tiến Thắng và Nguyễn Chí Vịnh (tổng cục trưởng Tổng cục tình báo quân đội, con trai chính thức được thừa nhận của tướng Nguyễn Chí Thanh) để lo thu xếp mọi việc từ tài chính đến an ninh chính trị. Lại cũng dễ hiểu khi con đường quan lộ của Nguyễn Tấn Dũng rộng mở song hành với sự thao túng và lộng quyền của Tổng cục hai trong tay Nguyễn Chí Vịnh (sự lộng quyền này, trong mấy năm gần đây có rất nhiều cán bộ cao cấp và cán bộ lão thành đã phản ánh đến các cơ quan Ðảng). Nó là hai mệnh đề luôn bổ sung và giải nghĩa cho nhau. Từ mệnh đề đó có thể giải đáp được rất nhiều những câu hỏi khác. Sự liên quan và ràng buộc này nếu nhìn trên góc độ thực tế chắc chắn đã và sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu đến tương lai của đất nước. Bởi vì sự bè phái và những âm mưu thâu tóm quyền lực là những nguyên nhân l ớn nhất gây nên đổ vỡ tan rã trong Ðảng, đây là điều mà Hồ Chí Minh đã cảnh báo từ rất sớm. Trong thực tế chế độ ta chỉ chấp nhận một Ðảng duy nhất lãnh đạo, những chia rẽ và yếu kém trong Ðảng dứt khoát có nguy hại đến sự phát triển của đất nước, đến đời sống nhân dân. Nhất là trong tình hình hi ện nay hai căn bệnh lớn nhất tồn tại trong Ðảng đang bị xã hội lên án rất gay gắt và là nguy cơ thật sự, đó là tham nhũng và tranh giành quy ền lực. Nếu những căn bệnh này còn tồn tại, không được giải quyết triệt để, sự tan rã chế độ sẽ là tất yếu. Rồi tập đoàn Dũng - Thắng - Vịnh sẽ đưa đất nước ta đến bờ vực thẳm nào? Những sự việc cụ Nguyễn Văn Linh đã kể lại cho tôi chắc chắn cũng phải còn ít nhất là một vài người khác được biết, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai dám công khai nêu lên. Trước thực trạng đầy bất ổn của tình hình chính trị đất nước cùng với tấm lòng cảm mến và kính trọng cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, tôi nhận thấy chính mình phải có trách nhiệm nói ra những điều này, tôi xin hoàn toàn đảm bảo về tính trung thực và chính xác của sự việc này. Tôi cũng mong rằng sau khi sự thật này được đưa ra ánh sáng thì sẽ có thêm nhiều bằng chứng khác của các vị lão thành Cách mạng, của những ai có may mắn được biết đến những sự việc trên sẽ bổ sung đầy đủ hơn để bạch hóa hoàn toàn nh ững bí ẩn này.
Thứ nữa, tôi muốn thông báo đến giới trẻ, những người chủ tương lai của đất nước được biết rằng: có rất nhiều những sự thật mà các bạn không có cơ hội được biết đến, mà lẽ ra trong xã hội hiện đại truyền thông đa phương tiện ngày nay các bạn cần phải biết tất cả những sự thật, những điều trắng đen rõ ràng để tự xây dựng cho mình những tư duy sống, những quan điểm tự nhiên chứ không phải những ý thức hệ bị cưỡng bức, những tư tưởng bị chỉ đạo. Cuối cùng, tôi muốn gửi thông tin này đến tất cả mọi người dân với mong muốn rằng nhân dân chúng ta đều càng ngày càng được cởi mở hơn trong tiếp nhận thông tin, tiếp nhận sự thật. Những sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và dần dần cần được giải mã trước công chúng. Những sự việc gây ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước cần phải được minh bạch và công khai. T ừ đó mỗi người dân cần có thái độ và đóng góp trách nhiệm của mình một cách rõ ràng trước những điều hệ trọng của đất nước. Nhân dân cần phải thay đổi thói quen chấp nhận để đời sống chính trị bị lệ thuộc bởi một cá nhân nào, m ột đảng phái nào, hay một thể chế nào, một chính phủ nào, mỗi người phải có quyền và nghĩa vụ tự quyết định cho riêng mình trong m ột xã hội văn minh, dân chủ. Hà Nội ngày 9 tháng 10 n ăm 2006.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=54985&z=12 ________________________
Alliance for Democracy and Human Rights for Viet Nam
[email protected] &
[email protected] Thư Cảm ơn và Kêu gọi của Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam Việt Nam, ngày 27 tháng 01 năm 2007 Kính gửi : Đồng bào Việt Nam trong và ngoài Nước, cùng các thân hữu quốc tế.
Ngày 16-10-2006 vừa qua, Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam (LMDCNQVN) đã được thành lập từ trong Nước. Hơn 3 tháng qua, LMDCNQVN đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của hàng trăm cá nhân, tổ chức, hội đòan, đảng phái, … cả trong lẫn ngoài Nước, cùng nhiều thân hữu quốc tế luôn quan tâm đến tình hình tự do, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Nhân dịp này, xin cho phép chúng tôi, Ban Cố Vấn và Ban Điều Hành LMDCNQVN, được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả Quý vị (cá nhân, tổ chức, hội đòan, đảng phái),…đã nhiệt tình ủng hộ Liên minh trong suốt thời gian qua. Như trong Bản Tuyên Bố Thành Lập LMDCNQVN đã nói : “…Miền Bắc sau ngày 20-71954 và cả nước sau ngày 30-4-1975 đã trở thành một dân tộc nô lệ của giặc nội xâm –
lọai giặc xảo quyệt, khó nhận diện và tàn ác không hề kém bất cứ một lọai giặc ngọai xâm tàn ác nhất nào. Một “trục gian ác” dưới hình thức bộ máy đảng, bộ máy nhà nước, mạng lưới công an, mạng lưới mặt trận dày đặc đã hình thành, phát triển và lộng hành từ trung ương xuống tới các tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường xã, khóm, ấp để đè đầu cưỡi cổ Nhân dân ta (…). Vì vậy, muốn tiêu trừ tận gốc “trục gian ác” trên thì phải giải quyết tận gốc nguyên nhân sinh ra nó: đó là thể chế chính trị độc đảng, toàn trị hiện nay. Thiết lập một hệ thống chính trị công bằng đa nguyên, đa đảng, giành cơ hội ngang bằng cho bất cứ ai có đủ tâm huyết và tài đức để lãnh đạo và quản trị Đất nước…” Liên Minh DCNQVN nhận thức một cách sâu sắc rằng : - Mục tiêu đúng đắn trên, tức thay thế triệt để thể chế chính trị độc đảng lạc hậu, không hề chấp nhận cạnh tranh hiện nay, sang thể chế chính trị đa đảng tiến bộ, có cạnh tranh trên chính trường trong tương lai, là hoàn toàn phù hợp với tâm trí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số dân tộc Việt Nam. Vì phù hợp với quy luật của thời đại mới, chắc chắn mục tiêu này sẽ ngày càng được sự ủng hộ mạnh mẽ của Đồng bào và cả năm châu. Cuối năm 2006 vừa qua, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), rõ ràng Dân tộc không thể tận dụng được cơ hội “ra biển lớn” về mặt kinh tế, nếu vì chiêu bài “ổn định xã hội” mà cứ phải mãi mãi gánh chịu chế độ chính trị “ao chuôm tù đọng” hiện nay. - Vì các thế lực bảo thủ trong Đảng cộng sản Việt Nam luôn sùng bái bạo lực, đã đô hộ Dân tộc chủ yếu là bằng đàn áp và dối gạt suốt gần 62 năm qua (2-9-1945 – 1-2007), nên chặng đường đấu tranh để Đất nước có một nền tự do, dân chủ thực sự sẽ còn rất nhiều hy sinh, gian khổ. Mặc dù vậy, trong năm 2006 vừa qua, Cao trào đấu tranh quyết giành lại các giá trị cao quý trên đã dấy lên vô cùng mạnh mẽ ở cả trong và ngoài Nước. Đó là bước phát triển mới cả về chất và lượng của Cao trào, rất đáng tự hào và phấn khởi. Bước phát triển này cũng đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp cho sự liên kết trong – ngoài Nước thêm chặt chẽ hơn, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa tiền tuyến với hậu phương. Đồng thời nhờ đó, sự ủng hộ của thân hữu quốc tế cũng đã trở nên mạnh mẽ và thiết thực hơn rất nhiều. Phát huy những thắng lợi đã đạt được, LMDCNQVN thiết tha kêu gọi, Đồng bào Việt Nam trong - ngoài Nước và thân hữu quốc tế : Năm 2007 này cùng phối hợp hành động đẩy mạnh việc thực hiện một số công tác sau đây : 1) Tiếp tục đấu tranh nhằm giành lại các quyền tự do tư tưởng, thông tin, ngôn luận, tôn giáo, hội họp, lập hội, lập đảng, ứng cử, bầu cử, biểu tình và đặc biệt là Quyền dân tộc tự quyết tự chọn thể chế chính trị, thông qua một cuộc Trưng cầu dân ý. Tất cả các quyền cơ bản trên đây đều phải theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây là những nhân quyền và dân quyền chính đáng mà Đảng cộng sản Việt Nam đã ngang nhiên tước đoạt trái phép hơn 60 năm qua. Nay Dân tộc quyết giành lại bằng con đường hòa bình, bất bạo động chứ nhất định không van xin ! 2) Tổ chức các sinh hoạt nhân dịp kỷ niệm 1 năm (8.4.2006 – 8.4.2007) ngày ra đời của Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006 (Tuyên ngôn 8406) tại những nơi có điều kiện cả trong lẫn ngoài Nước. Xin đề nghị mọi người tham gia các sinh hoạt ngày kỷ niệm này đồng loạt mặc Áo trắng dân chủ cùng với ngày 01 và 15 mỗi tháng.
3) Ủng hộ Lời Kêu Gọi và 10 điều kiện của Khối 8406 về việc tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội độc đảng lần thứ 12 do nhà cầm quyền Việt Nam tổ chức ngày 20-5-2007 tới đây. Những điều gọi là “cải cách, đổi mới” phương thức bầu cử, mà Đảng cộng sản hăng hái tung ra gần đây như : tăng tỷ lệ đại biểu chuyên trách, tăng thành phần đại biểu ngoài Đảng, sắp xếp lại mối quan hệ giữa Đảng và Quốc hội, v.v… chỉ là những biện pháp cải lương, nửa vời. Chúng vẫn không phải là điều Dân cần, mà chỉ là điều Đảng muốn. Đó vẫn là phương thức “Đảng cử, Dân bầu” hoàn toàn phản dân chủ và trắng trợn lừa gạt Nhân dân Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế suốt hơn 60 năm qua. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” - Tổ chức giới thiệu người ra ứng cử Quốc hội- thực chất chỉ là một công cụ của Đảng cộng sản Việt Nam mà thôi. 4) Dự thảo một bản Hiến pháp đa đảng dựa trên các nền tảng là truyền thống văn hóa đạo đức bền vững của Dân tộc, các tiêu chuẩn tự do dân chủ văn minh tiến bộ của Nhân loại hiện nay, 26 nhân quyền và dân quyền cơ bản Liên Hiệp Quốc đang cổ vũ, trong đó có quyền sở hữu tư nhân. Trong bản Hiến pháp mới ấy, chế độ hộ khẩu ngăn cản quyền tự do cư trú, đi lại của Nhân dân; quy tắc “đất đai là sở hữu nhà nước” được ghi trong Hiến pháp và Luật pháp hiện hành, v.v… sẽ dứt khóat bị bãi bỏ. Bởi vì, đó chính là “Cơ hội vàng” cho tập đoàn tham nhũng và là “Hiểm họa đỏ” cho Nhân dân Việt Nam ! 5) Thúc đẩy và chuẩn bị các điều kiện thuận lợi cho một cuộc Bầu cử Quốc hội đa nguyên đa đảng công bằng dân chủ thực sự để sớm hình thành một Quốc hội dân chủ đúng nghĩa đích thật, đủ sức không những giúp Việt Nam hòa nhập trọn vẹn sinh hoạt lành mạnh của Cộng đồng quốc tế, mà còn góp phần tích cực định hướng vững chắc cho Nhân loại hôm nay và ngày mai. Xin chân thành cảm ơn mọi thành phần Đồng bào Việt Nam trong và ngoài Nước, các thân hữu quốc tế đã, đang và sẽ nhiệt tình hỗ trợ chúng tôi 5 công tác khẩn thiết cụ thể trên đây. Kính chúc Quý Vị một Mùa Xuân Đinh Hợi và một Năm Mới đầy an lành, hạnh phúc với nhiều thắng lợi mới.
Trân trọng, I. Ban Cố vấn : 1 Cựu Sĩ quan Phạm Quế Dương, Hà Nội 2 Linh mục Nguyễn Hữu Giải, Thừa Thiên-Huế 3 Giáo sư Nguyễn Thanh Giang, Hà Nội 4 Cựu Chủ tịch Tổng Công đoàn Nguyễn Hộ, Sài Gòn 5 Hội trưởng Lê Quang Liêm, Trung Ương GHPGHH TT, Sài Gòn 6 Linh mục Phan Văn Lợi, Huế 7 Linh mục Nguyễn Văn Lý, Huế 8 Mục sư Ngô Hoài Nở, Sài Gòn
9 Mục sư Nguyễn Hồng Quang, Sài Gòn 10 Cựu Sĩ quan Vũ Cao Quận, Hải Phòng 11 Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Chủ Tịch Cao Trào Nhân Bản Việt Nam, Sài Gòn 12 Cư sĩ PGHH Lê Văn Sóc, Vĩnh Long 13 Linh mục Chân Tín, Sài Gòn 14 Nhà văn Hoàng Tiến, Hà Nội II. Ban Điều hành : 1 Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn 2 Giáo sư Nguyễn Chính Kết, Sài Gòn 3 Cựu Sĩ quan Trần Anh Kim, Thái Bình 4 Chuyên viên Nguyễn Phong, Huế _____________________ http://www.tdngonluan.com/
— Vì sao Tẩy chay Bầu cử QH độc đảng 2007 đủ sức Giải thể Chế độ CSVN hiện nay ? — Tại sao việc Tẩy chay Bầu cử QH độc đảng 2007 chắc chắn thành công ? Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý - 21.01.2007 (Tổng lược các bài viết & các bài trả lời Radio phỏng vấn từ T.10-2005 đến T.1-2007)
1- Vì sao Tẩy chay Bầu cử Quốc hội độc đảng 2007 đủ sức Giải thể Chế độ CSVN ? Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) hay đảng ấy dù đổi tên gì đó, đúng hơn là Bộ Chính trị ĐCSVN (BCTĐCSVN) khống chế tất cả mọi Quyền Tự do, Nhân quyền của toàn Dân, để toàn Dân chỉ biết vâng nghe họ như những nô lệ rất đúng nghĩa. BCTĐCSVN sai khiến một Quốc hội bù nhìn thông qua những nguyên tắc, định chế, nghị quyết, nghị định, quyết định, đạo luật, pháp lệnh mang tính hợp hiến, hợp pháp một cách giả tạo. Cho nên BCTĐCSVN cũng luôn “bị ứng cử” và đương nhiên luôn “bị đắc cử” trong Quốc hội bù nhìn đó, để bảo đảm cho Chế độ CS ấy thành hình và tồn tại. Vậy nếu giả như ngay từ đầu toàn Dân hiểu thủ đoạn gian xảo ấy, biết cách làm cho Quốc hội bù nhìn đó không thể thành hình thì toàn Dân đã làm cho Chế độ ấy ngay từ đầu không thể thành hình được. Còn hôm nay nó đã lỡ thành hình rồi, nhưng nếu toàn Dân biết cách làm hiệu quả cho Quốc hội bù nhìn đó không thể tiếp tục thành hình, thì toàn Dân sẽ làm cho Chế độ ấy không thể tồn tại được nữa. Ngăn chận nguy cơ tất yếu đó xảy ra, BCTĐCSVN phải buộc lòng nhượng bộ để cho Chế độ CS độc đảng phải giải thể mà chuyển qua Chế độ đa đảng, để ĐCSVN vẫn tiếp tục tham gia nếu họ còn đủ lực.
Đảng phái nào chiếm được lòng Dân, làm cho Dân đạo đức, an vui, hạnh phúc, tự do phát triển thì đảng đó sẽ dành được quyền lãnh đạo, nhưng không có đảng nào lãnh đạo một cách tuyệt đối qua mọi thời gian mà chỉ lãnh đạo được trong khoảng thời gian nào mà đảng đó còn được toàn Dân tin yêu. Một nền Kinh tế tự do cạnh tranh lành mạnh làm giá thành sản phẩm hạ, Dân được lợi, kinh tế phát triển. Cũng thế, một Chế độ Đa đảng Dân chủ Tự do cạnh tranh lành mạnh là một Chế độ văn mình phù hợp với lương tri nhân loại thời nay. Sau bao ngàn năm loài người tôi luyện nhiều hình thức, đến hôm nay Chế độ Dân chủ Đa đảng chưa phải là một Chế độ hoàn hảo, vẫn còn nhiều khuyết điểm, nhưng đây là kinh nghiệm quý giá mà nhân loại tích lũy cho đến nay là tốt đẹp nhất. Vậy không lý do gì một Chế độ độc đảng, độc tài chuyên chính quá nhi ều áp bức bất cứ người Dân nào cũng thấy mà toàn Dân VN lại phải cứ tiếp tục chịu đựng hoài mãi ? Do đó Mặc Áo Trắng và Tẩy chay Bầu cử Quốc hội độc đảng trong hoàn cảnh VN là một cách ôn hoà, đơn giản và hiệu quả nhất để giải thể được Chế độ CS ấy. Các phương cách khác tốn kém và vất vả hơn nhiều. Tuyệt đối toàn Dân VN không thể chọn phương cách bạo lực chắc chắn sinh ra nhiều xáo trộn, đổ máu và mất mát. Tẩy chay Bầu cử Quốc hội độc đảng là việc làm vừa trong tầm tay, đương nhiên dẫn đến việc giải thể chế độ CS mà không phải trả giá đắt. CHỈ CẦN MỘT VIỆC DUY NHẤT LÀ LÀM SAO NÓI ĐẾN TẬN TAI NGƯỜI DÂN, giúp người Dân hiểu, nhận thức đúng, bớt sợ hãi rồi can đảm mạnh dạn thực hành, giúp toàn Dân ý thức rằng đi bầu hay không là QUYỀN hoàn toàn thuộc về người Dân, dứt khoát KHÔNG phải là quyền của Nhà nước. Từ đây đến ngày đó chỉ còn hơn 2 tháng nữa thôi, chúng ta phải tăng tốc hướng dẫn giúp Dân thực hành. Độc đoán dùng bạo lực đàn áp Dân để khư khư bám giữ quyền lực là một cực đoan. Nhưng chủ trương nổi dậy lật đổ bằng bạo lực bạo loạn cũng là một cực đoan khác. Cả 2 đều cô đơn, bị toàn Dân VN cô lập, xa tránh. Do đó, Tẩy chay Bầu cử Quốc hội độc đảng là lối thoát danh dự duy nhất cho ĐCSVN và là ngõ vào hòa bình duy nhất cho các đảng phái Dân chủ khác, để tất cả cùng nhau ôn hòa chững chạc bước vào một Quốc hội Đa đảng văn minh công bằng, chỉ lấy lẽ phải mà tranh luận công khai lành mạnh chinh phục nhau, thi đua nhau phục vụ Tổ quốc và Đồng bào, ngoài ra không sử dụng thêm bất cứ một thứ vũ khí lạc hậu, đê tiện, xấu xa nào khác. Sau Quốc hội bù nhìn 2007 cuối cùng gượng ép thành hình thì Cao trào dân ch ủ hoá VN sẽ gia tăng áp lực để buộc BCTĐCSVN phải chấp nhận một Tân Hiến pháp Lâm thời, làm nền tảng pháp lý cho Quốc hội Đa đảng thành hình, tất nhiên Quốc hội ấy chắc chắn chưa phải là lý tưởng. Hình thức Đa đảng vừa thoát từ một chế độ độc tài tất nhiên chưa thể là một hình thức hoàn hảo công bằng lành mạnh. Tuy nhiên nó sẽ có màu sắc dân chủ bước đầu và là Quốc hội khởi sự để tiến dần lên một Quốc hội Đa đảng văn minh công bằng chân chính. Dù sao đi nữa cũng phải thông qua một Quốc hội bước đầu có màu sắc Đa đảng Dân chủ như vậy để tiến dần lên một Quốc hội Đa đảng hoàn chỉnh hơn.
2- Làm sao để việc Tẩy chay Bầu cử Quốc hội Độc đảng thành công ? Tẩy chay Bầu cử Quốc hội Độc đảng chắc chắn thành công nhờ thực hành đồng bộ 4 điều :
Trước tiên, phải giúp toàn Dân biết kết hợp Cao trào Mặc Áo Trắng, Quàng Khăn Trắng, Đội Mũ Trắng mỗi tháng 2 ngày 01 & 15 ; đúng ngày 8-4-2007 kỷ niệm 01 năm Tuyên ngôn 8406, và đúng ngày Bầu cử QH bù nhìn 2007- với Cao trào Tẩy chay Bầu cử dân chủ giả tạo, bằng cách tránh xa phòng phi ếu. Bất đắc dĩ quá, khi bị buộc phải đi bầu tập thể, thì mỗi cá nhân phải Xé Phiếu Trắng, Gạch Chéo Phiếu Trắng. Phải giúp toàn Dân nghe biết & hiểu rõ việc tẩy chay nầy càng sâu rộng càng hiệu quả. Điều nầy, các đài truyền thanh hải ngoại cùng các mạng thông tin Internet có nhi ệm vụ cao cả then chốt là phải tạo nên một cao trào truyền đạt sao cho đến cuộc bầu cử QH bù nhìn vào khoảng tháng 4-5.2007, 50 triệu cử tri Đồng bào VN đều nghe biết và nhận thức rõ chính toàn Dân mới giải thể Chế độ CSVN cách ôn hòa, văn minh, hữu hiệu như thế. Thứ hai, trong thời gian Nhà cầm quyền độc tài CSVN phát thẻ cử tri, cá nhân nào có bản lãnh thì từ chối không nhận thẻ cử tri dối trá đó. Mặc dù, vì kéo dài nhiều ngày, người Dân có thể bị buộc phải nhận cách tập thể cả gia đình, do các gia đình khó từ khước đồng loạt cả nhà được, nhưng điều quan trọng nhất là chính trong ngày Bầu cử đã định sẵn, toàn Dân phải biết đồng loạt Mặc Áo Trắng, đi thăm bà con, giải trí, đi Chùa, đến Nhà Thờ, Thánh Thất ; tránh tiếp xúc với Cán bộ, Nhân viên CSVN ; không chấp nhận người khác bầu thay ; không đến gần phòng phiếu ; không cầm đến lá phiếu ô nhục. Cán bộ CSVN dù đông, cũng không thể cùng một lúc khủng bố, ép buộc hết toàn Dân được. Cũng không nên giả bộ đi bầu rồi gạch bỏ tất cả danh sách ứng cử viên, để chỉ bỏ các phiếu bất hợp lệ đó vào thùng phiếu. Nghĩ thế là hoàn toàn sai lầm, vì làm như vậy thì các nhân viên Bầu cử tay sai sẽ vẫn có cớ thay phiếu gian trá khác vào. Vạn bất đắc dĩ, các cá nhân thuộc các Tổ chức phải đi bầu tập thể, khó tránh xa phòng phiếu, thì phải xé phiếu trắng theo hình chữ thập, thành 4 miếng nhỏ, để nhân viên nô bộc kiểm phiếu không thể dán lại được. Toàn Dân chỉ cần can đảm kiên trì cách khôn ngoan trong vòng 12 ti ếng đồng hồ từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều ngày bầu cử là toàn Dân toàn thắng. Thứ ba, cần kêu gọi các Nhà Chùa, Thánh Th ất, Thiền Viện, Tu Viện, Nhà Thờ,… ngày hôm đó phải đồng loạt tiếp tay bằng cách các Nhà Tu hành vừa đều đồng loạt không đi bầu, vừa mở rộng cửa đón tiếp và mạnh dạn bênh vực bảo vệ các Tín đồ tìm đến ẩn núp an toàn, tránh xa Công an, Cán b ộ CS cực đoan lạc hậu lùng sục khủng bố, nếu có. Thứ tư, cần tạo dư luận mạnh mẽ rầm rộ và cổ vũ các Tổ chức Quốc tế tìm hiểu, theo dõi, giám sát tiến trình Bầu cử dân chủ giả tạo do ĐCSVN độc diễn nầy, để biết cách hỗ trợ toàn Dân tẩy chay cho thành công. Nếu ĐCSVN tiên liệu trước rằng toàn Dân sẽ biết cách làm 4 việc nầy đồng bộ chu đáo, thì họ sẽ nhận thức rằng Quốc hội tay sai bù nhìn của họ dù chắc chắn thành hình, thì vẫn chỉ thành hình trong ô nhục, và đã bị đánh vào tử huyệt một đòn trí mạng rồi. (1) Chính các Đại biểu “bị đề cử” không còn muốn trơ mặt để “bị đắc cử” nữa. Và khi gượng ép đã “bị đắc cử” rồi, thì cũng cảm thấy rất xấu hổ rằng mình chỉ là tay sai của ĐCSVN và Bộ Chính Trị của ĐCSVN mà thôi. Chính các đại biểu này buộc lòng thấy cần phải sớm có một Tân Hiến pháp lâm thời để chuẩn bị cho một cuộc Bầu cử Dân chủ Đa đảng thực sự đầu tiên. Đó chính là sự THÀNH CÔNG CHẮC CHẮN của Cao trào
Tẩy chay BCQH độc đảng 2007. Tiến trình Giải thể Chế độ CSVN độc tài đương nhiên bắt đầu và tuy còn phải nhiều vất vả khó khăn phức tạp, nhưng chắc chắn phải xảy ra. Còn làm thế nào xây dựng được một Nước Việt Nam Tự do Dân chủ Văn minh, toàn Dân sẽ cùng nhau suy nghĩ tiếp. Trước mắt cần áp lực để Quốc hội bù nhìn 2007 tự thấy phải chấp nhận Đa đảng thực sự và cần một Quốc hội Dân chủ thực chất khác. ........................................................ (1) Nghĩa là VIỆC QUỐC HỘI ẤY VỪA KHÔNG CHÍNH DANH, V ỪA KHÔNG CHÍNH NGHĨA NAY ĐÃ BỊ PHƠI TRẦN TRƯỚC CÔNG LUẬN, KHÔNG TÀI NÀO B ỊP LỪA ĐƯỢC AI NỮA.
Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý - Huế, 21-01-2007 Tham chiếu :
Khối 8406 tuyên bố 10 điều kiện cơ bản thiết yếu để cuộc Bầu cử Quốc hội 2007 Đa đảng Tự do Dân chủ thực sự Việt Nam, ngày 20-06-2006 & 8-01-2007
Điều 4 Hiến pháp Nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992 đã quy định cách rất độc đoán và hoàn toàn mất dân chủ như sau : “Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả Dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vậy để có thể có cuộc bầu cử Quốc hội 2007 Đa đảng Tự do Dân chủ thực sự, ngay từ bây giờ sinh hoạt chính trị Việt Nam phải có 10 điều kiện cơ bản thiết yếu không thể thiếu sau đây : 1- Quốc hội khoá 11 đương nhiệm do ĐCSVN dựng nên nầy phải công khai chính thức huỷ bỏ điều 4 rất độc đoán và hoàn toàn mất dân chủ của Hiến pháp trên đây. 2- Nếu ĐCSVN thực tâm chấp nhận đa đảng đúng nghĩa, thì Quốc hội đương nhiệm phải thành lập ngay Hội đồng chuẩn bị Bầu cử Quốc hội đa đảng chân chính đầu tiên. Hội đồng nầy phải biên soạn và công bố Luật về Đảng phái độc lập, Luật về Ứng cử, Bầu cử tự do dân chủ thực sự, Luật về Tự do Thông tin Ngôn lu ận, Tự do Báo chí, Luật về phát thanh, truyền hình phi đảng phái… 3- Các Đảng phái dân chủ nầy phải có Văn phòng, Trụ sở rõ ràng ; được công khai đi lại tự do và an toàn để phát triển lực lượng ; phải có các Cơ quan thông tin ngôn lu ận tự do độc lập, không bị Nhà Cầm quyền đương quyền khống chế, đàn áp, tịch thu, phạt tiền,… Nghĩa là phải có Luật Tự do Báo chí, Tự do Lập hội thật rõ ràng và công bằng trước khi có cuộc tranh cử. 4- Các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ, tự do tôn giáo phải được thả khỏi tù, hết bị quản chế và không còn bị khống chế - hoặc bị cấm sử dụng mà không tuyên b ố - điện thư, điện thoại, Internet vì những lý do mơ hồ, vu vơ. Toàn Dân không còn b ị khống chế và bị đe doạ phạt tiền rất nặng về tự do thông tin bởi Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 06-6-2006 của Nhà cầm quyền CSVN vì Nghị định này ngang nhiên vi ph ạm điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên Hiệp Quốc biểu quyết năm 1966, mà Việt Nam đã xin
tham gia năm 1982 : “1- Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào. 2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới, bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng nào khác theo s ự lựa chọn của mình”. 5- Các Đảng phái dân chủ phải được quy định thời gian và số lần xuất hiện để phát biểu và vận động trên đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông công luận ngang bằng với ĐCSVN. Nghĩa là trước khi bầu cử đa đảng tự do dân chủ chân chính, các cơ quan truyền thông công luận phải được phi đảng phái hóa, để phục vụ tất cả mọi đảng phái công bằng vô tư như nhau. 6- Các đảng phái tham gia tranh c ử phải được quyền tự do đưa ra các ứng cử viên cách bình đẳng. Các hội đoàn thuộc Mặt trận Tổ quốc VN - cơ quan vệ tinh nô bộc của ĐCSVN - như Đoàn Thanh niên CS HCM, H ội Phụ nữ, Hội Cựu Chiến binh, Hội Nông dân, Ủy ban Đoàn kết của các Tôn giáo,… không được đưa người ra ứng cử để chia phiếu hoặc giành phiếu cho ĐCSVN cách trá hình xảo quyệt. 7- ĐCSVN không được lạm dụng các phương tiện sẵn có của một Nhà nước mà mình đang khuynh loát để chiếm lợi thế cho mình trong việc tranh cử, như sử dụng công quỹ, công sở, công xa, như độc chiếm các đài truyền thanh - truyền hình và cả hệ thống báo chí khổng lồ (hơn 600 tờ báo đủ loại) mà mình đã tạo lập… Nghĩa là, trước khi bầu cử đa đảng tự do dân chủ thực sự, ĐCSVN phải từ bỏ các lợi thế của một siêu quyền lực điều khiển một Nhà nước tay sai như 60 năm qua mà người Dân nào cũng đều nhận thấy, không được tiếp tục xảo trá che mắt Dân như thế nữa. 8- Hai lực lượng Công An và Quân đội chỉ làm nhiệm vụ Bảo vệ An ninh Tổ quốc và toàn Dân, không phục vụ riêng một đảng, một tổ chức nào. Các đảng viên của bất cứ đảng chính trị nào đang phục vụ trong 2 lực lượng ấy, phải đặt ích lợi Tổ quốc và Dân tộc lên trên ích lợi cục bộ của đảng mình. 9- Các Cử tri phải được tự do tiếp cận tất cả các đảng phái để tìm hiểu, lựa chọn, không mảy may chịu bất cứ một mua chuộc, hù dọa, hay áp lực nhỏ nào, đặc biệt từ phía ĐCSVN. 10- Sau cùng bên cạnh Ủy ban bầu cử phải có một Ủy ban Quốc tế giám sát bầu cử và kiểm phiếu cách công minh khoa học, theo các tiêu chuẩn dân chủ văn minh đã được Liên Hiệp Quốc thừa nhận, để chứng tỏ cuộc bầu cử Quốc hội 2007 là một cuộc cạnh tranh chính trị công bằng, lành mạnh, đáng Quốc tế thừa nhận và toàn dân thỏa lòng.
Khối 8406, các Đảng phái dân chủ chân chính và toàn Dân VN ph ải kiên trì tẩy chay bất cứ cuộc Bầu cử dân chủ giả hiệu nào dù độc đảng hay đa đảng, cho đến khi thực sự có đủ 10 điều kiện cơ bản thiết yếu nêu trên. Vì nếu thiếu một trong 10 điều kiện ấy thì chưa thể có Bầu cử dân chủ chân chính như đã từng xảy ra tại Việt Nam thời 1945-1988. Tuyên bố tại Việt Nam, ngày 20-6-2006 & 8-1-2007 Đại diện lâm thời Khối 8406 gồm 1.712 & 2.189 CSDCHB qu ốc nội & gần 4.000 CSDCHB hải ngoại & hàng vạn CSDCHB quốc nội & hải ngoai ghi danh tập thể : Đỗ Nam Hải, Kỹ sư, Sài Gòn Trần Anh Kim, Cựu Sĩ quan, Thái Bình Nguyễn Văn Lý, Linh mục Công giáo, Huế .........................................................................................................................................