1)vì sao nói sự ra đời của ĐCSVN là 1 tất yếu lịch sử, nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng: -
-
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động hợp quy luật, của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố : chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. - Đảng ra đời đã chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành " đủ sức lãnh đạo cách mạng'. - Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam đã có một bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản. - Đảng ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. - Đảng ra đời, cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới. 2-Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do NAQ dự thảo đã được thông qua tại Hội nghị hợp nhất thành lập đảng đầu tháng 2 năm 1930 là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN. Cương lĩnh đó đã vạch ra đường lối cơ bản của CMVN, là ngọn cờ đoàn kết toàn Đảng toàn dân đứng lên đấu tranh gpdt và giải phóng người lao động, giải phóng xh. Cương lĩnh gồm có các nội dung cơ bản sau: + Về đường lối chiến lược chung, Đảng chủ trương làm "TS dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới xã hội cộng sản" + Nhiệm vụ của "CMTS dân quyền" ở nước ta, đảng chủ trương đánh đổ ĐQ chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến tay sai, làm cho nước VN được hoàn toàn độc lập; lập ra chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn ĐQ và phong kiến tay sai chia cho dân cầy nghèo; thực hiện từng bước khẩu hiệu "người cày có ruộng"; dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền... + Về lực lượng CM, đảng chủ trương phải vận động thu phục cho được đông đảo quần chúng nhân dân trước hết là công nhân và nông dân, đồng thời phải tranh thủ đoàn kết với các lực lượng khác như tiểu TS, trí thức. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và TSVN mà chưa rõ mặt phản CM thì phải tranh thủ hoặc trung lập. Công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua chính đảng M-L. + Về đoàn kết quốc tế, phải liên kết với các dt bị áp bức và quần chúng VS trên TG, nhất là giai cấp công nhân pháp. + Về vai trò của đảng, cương lĩnh xác định ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của CM nên phải thường xuyên xây dựng đảng vững mạnh.
2—hoàn cảnh lịch sử của hội nghị trung ương 8 do nguyễn ái quốc chủ trì: Hoàn cảnh lịch sử : -Tình hình thế giới : + Chiến tranh thế giới thứ 2 đã bước sang năm thứ ba, sau khi chiếm phần lớn các nước châu Âu, phát xít Đức chuẩn bị tấn công Liên Xô.
+Quân Nhật tiến hành mở rộng chiến tranh xâm lược Trung Quốc, chuẩn bị thực hiện kế hoạch chiến tranh Thái Bình Dương. -Tình hình trong nước : +Nhân dân Đông Dương phải chịu hai tầng áp bức bóc lột của đế quốc Pháp và phát xít Nhật, mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với đế quốc Pháp và phát xít Nhật ngày càng phát triển gay gắt, căng thẳng. +Nhân dân Đông Dương ngày càng cách mạng hóa, nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân đã nổ ra, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn ( tháng 9 / 1940 ) , khởi nghĩa Nam Kì ( tháng 11 / 1940 ) và cuộc binh biến Đô Lương ( tháng 1/ 1941 ) ---> Trước tình hình thế giới và trong nước ngày càng khẩn trương, cấp bách, tháng 2 / 1941, Nguyễn Ái Quốc đã về nước, triệu tập Hội nghị Trung Ương Đảng lần thứ 8 , họp từ ngày 10 19 /5/1941 tại Pác Bó - Cao Bằng . Nội dung hội + Về vấn đề dân tộc: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
nghị:
+ Về tính chất cách mạng: cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. + Sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, lấy lá cờ đỏ sao vàng làm cờ toàn quốc. + Về vấn đề Mặt trận dân tộc thống nhất: thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước. + Về khởi nghĩa vũ trang: Tiến hành khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn +Về xây dựng Đảng: Gấp rút đào tạo, tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo cách mạng.
3—đặc điểm tình hình nước ta sau cách mạng tháng tám. Chủ trương, biện pháp của đảng nhằm bảo vệ chính quyền non trẻ: Đặc điểm tình hình nước ta sau cách mạng tháng 8: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa vừa mới ra đời, còn non trẻ, đã phải đối phó với nhiều kẻ thù. Ở miền Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc với danh nghĩa quân Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật đã tràn vào đóng quân từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Theo sau quân Trung Hoa Dân quốc là bọn phản động ( Việt quốc, Việt cách ) với âm mưu tiêu diệt Đảng ta, tìm mọi cách lật đổ chính quyền cách mạng, tạo điều kiện cho tay sai lên nắm chính quyền. - Ở phía Nam, cũng với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, quân Anh vào nước ta thực chất để dọn đường và giúp quân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam. - Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói chưa khắc phục xong thì nguy cơ nạn đói mới lại đe doạ. - Chế độ thực dân để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, đặc biệt là nạn dốt với hơn 90% số dân bị
mù chữ. Cách mạng vừa thành công, chính quyền mới thành lập còn non trẻ, chưa được củng cố, chưa có kinh nghiệm, lại phải đương đầu với mọi khó khăn, nguy hiểm từ mọi phía. - Về tài chính : Ngân hàng Đông Dương hầu như trống rỗng chỉ còn hơn 1 triệu đồng rách và nát. - Đây là thời kì thực sự khó khăn, vận mệnh của Tổ quốc như " ngàn cân treo sợi tóc". - Tuy nhiên, chúng ta cũng có những thuận lợi rất cơ bản : Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã giành được chính quyền, được nhân dân dân ủng hộ triệt để; tinh thần yêu nước, đấu tranh cách mạng của nhân dân ... Đó là những động lực hết sức to lớn, giúp cho cách mạng nước ta vượt qua hiểm nghèo của năm đầu sau cách mạng. Chủ trương và biện pháp bảo vệ chính quyền: Đảng lãnh đạo xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa và tổ chức kháng chiến ở miền Nam Trước hoàn cảnh ls nói trên, ngày 25/11/1945, ban thường vụ TW đảng đã ra bản Chỉ thị "Kháng chiến, kiến quốc". Nội dung cơ bản gồm có những vấn đề cơ bản sau: + Xác định "cuộc CM Đông Dương lúc này vẫn làn cuộc cách mạng gpdt. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập". Khẩu hiệu đấu tranh vẫn là "dt trên hết, tổ quốc trên hết". + Qua phân tích âm mưu của các ĐQ đối với Đông Dương, chỉ thị nêu rõ: "kẻ thù của ta lúc này là thực dân pháp x/lược,phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng" + Đảng chủ trương xây dựng và không ngừng mở rộng Mặt trận dt thống nhất, phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ và phát triển chế độ dân chủ cộng hòa. + Chỉ thị vạch rõ nhiệm vụ cơ bản của nhân dân cả nước lúc này là phải củng cố chính quyền, chống thực dân pháp xâm lược, bài trừ nội phản và cải thiện đời sống cho nhân dân. Nhiệm vụ cấp bách là chống "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm". + Chỉ thị cũng đề ra các chủ trương cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ nói trên: về nội chính, phải xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, lập hiến pháp, xử lý bọn phản động chống đối hiện hành, củng cố chính quyền nhân dân các cấp. Về quân sự: động viên toàn dân xây dựng và phát triển các lực lượng vũ trang CM của quần chúng, đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược ở Nam bộ, kiên trì tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài. Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc thêm bạn, bớt thù, bình đẳng, tương trợ. Đối với quân đội Tưởng, thực hiện khẩu hiệu "hoa-việt thân thiện"... Chỉ thị "kháng chiến kiến quốc" có ý nghĩa ls rất lớn, thể hiện sự năng động sáng tạo của đảng trong việc giải quyết kịp thời nhiều vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong thời kỳ mới giành được chính quyền, đưa đất nước vượt qua tình thế "ngàn cân treo trên sợi tóc". Trên cơ sở đường lối chủ trương mới, Đảng và Chủ tịch HCM đã lãnh đạo toàn dân thực hiện nhiều công việc quan trọng và cấp bách để bảo vệ chính quyền và phát triển chế độ mới: Về chính trị: mặt trận dt thống nhất tiếp tục mở rộng. Hội Liên hiệp quốc dân VN được thành lập, thu hút tất cả những người yêu nước trong giai cấp địa chủ, tư sản, tiểu tư sản trí thức chưa có điều kiện tham gia mặt trận việt minh. Các tổ chức quần chúng được củng cố và mở rộng. Tổng liên đoàn lao động VN, Hội liên hiệp phụ nữ VN ra đời. Đảng đã giúp đỡ trí thức thành lập đảng XHVN nhằm đoàn kết những trí thức yêu nước tham gia phục vụ chế độ mới. Cuộc tổng tuyển cử được khẩn trương tổ chức trên cả nước vào ngày 6/1/46 để bầu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Ngày 2/3/46, quốc hội khóa I đã khai mạc kỳ họp lần thứ nhất, thông qua hiến pháp đầu tiên và cử ra chính phủ chính thức của nước VNDCCH. Về quân sự: đảng chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng như quân đội, công an, tự vệ, dân quân du kích. Toàn dân tham gia luyện tập quân sự. Thành lập các đoàn quân Nam tiến, tự nguyện vào Nam bộ cùng đồng bào chặn đứng âm mưu mở rộng xâm lược của thực dân pháp. Về kinh tế: Đảng và chính phủ đã phát động toàn dân tham gia đẩy mạnh sx với phong trào "tấc đất, tấc vàng", giải quyết nạn đói và cải thiện đời sống cho nhân dân. Tịch thu ruộng đất của đế
quốc, việt gian chia cho dân cầy nghèo. Thực hiện giảm tô 25%. Huy động nhân dân đóng góp cho "Quỹ độc lập", cho "Tuần lễ vàng" hàng chục triệu đồng và hàng trăm kilô vàng và xây dựng nền tài chính quốc gia độc lập. Về văn hóa xh: đảng và chính phủ vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới và đời sống mới. Xóa bỏ các tệ nạn văn hóa lạc hậu, nô dich. Phát triển phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí... Những thành tựu nói trên đã tạo thêm sức mạnh mới để bảo vệ chính quyền cách mạng và nền độc lập mới giành được, đồng thời nâng cao uy tín và vai trò lãnh đạo của đảng đối với đất nước.
4—nguyên nhân bùng nổ kháng chiến toàn quốc 12/1946. nội dung cơ bản đường lối kháng chiến chống pháp: Nguyên nhân: Ngay trong quá trình đàm phán ở hội nghị giữa ta và Pháp đang diễn ra ở Phôngtennobô, Pháp đã mở rộng chiến tranh ra nhiều nơi. Ở chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ, địch liên tục tiến công chiếm đóng vùng giải phóng. Tại miền Bắc, tháng 11-1946, chúng ta đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn. Tháng 12-1946, chúng đánh Đồ Sơn, Đình Lập. Sau các vụ ném lựu đạn vào nhiều khu vực dân cư thành phố, từ giữa tháng 12 trở đi, chúng đã gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Sự kiện tàn sát nhân dân ta tại Hàng Bún và phố Yên Ninh tháng 12-1946 chứng tỏ thực dân Pháp đã sẵn sàng bước sang cuộc phiêu lưu quân sự mới. Ngày 18 và 19-12-1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư đòi ta phải phá bỏ công sự trong thành phố và đòi để chúng kiểm soát, giữ gìn trật tự Hà Nội. Chúng tuyên bố sẽ hành động bằng sức mạnh quân sự nếu ta không thực hiện các yêu sách đó. Tình hình vô cùng khẩn cấp, đòi hỏi ta phải đứng lên. Ngày 18,19 tháng 12-1946. Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã nhận định tình hình và chỉ thị cho các địa phương "Tất cả hãy sẵn sàng". Chiều 19-12, Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các đơn vị vũ trang sẵn sàng chiến đấu theo thời gian đã quy định. 20 giờ ngày 19-12-1946, mệnh lệnh chiến đấu bắt đầu. Quân dân Thủ đô đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được thể hiện qua các văn kiện quan trọng của Đảng. Khi cuộc kháng chiến chống pháp bùng nổ, ngày 19-12-1946, Chủ tịch HCM ra "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", lời kêu gọi đã tỏ rõ quyết tâm cao độ của dt vn kháng chiến chống xâm lược, Tiếp đó ngày 22-12, tw đảng đã ra chỉ thị "toàn dân kháng chiến". chỉ ra những tư tưởng cơ bản đặt nền móng cho đường lối kháng chiến.,đã trở thành những quan điểm cơ bản về đường lối kháng chiến của Đảng. Đường lối đó được đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của đảng (2-1951) khẳng định là hoàn toàn đúng đắn. 1-Xđ đối tượng, mục đích và tính chất của cuộc kháng chiến. Trong các văn kiện nêu trên, Đảng ta chỉ rõ đối tượng, nhiệm vụ và mục đích của cuộc kháng chiến; "kẻ thù chính là bọn thực dân phản động pháp đang dùng vũ khí cướp lại nước ta". - Xác định chính xác đối tượng chủ yếu của cuộc kháng là vấn đề chiến lược cực kỳ quan trọng, nhằm tập trung mũi nhọn để tiêu diệt chúng, đoàn kết mọi lực lượng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ ngoài ngước để cô lập kẻ thù. - Mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập, tự do, thống nhất thật sự, hoàn thành nhiệm vụ
giải phóng dân tộc và phát triển chế độ dân chủ nhân dân. - Tính chất của cuộc kháng chiến là một cuộc chiến tranh cách mạng có tính chất "dân tộc độc lập và dân chủ, tự do". Quán triệt mục đích, tính chất của cuộc kháng chiến, Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến, chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệt Mỹ là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; là đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta. Kháng chiến toàn dân : - Cuộc kháng chiến của ta được Đảng nêu ra ngay từ đầu là một cuộc kháng chiến toàn dân. Với phương châm “đánh lâu dài”, ta có thời gian để tổ chức, động viên nhân dân tham gia kháng chiến. Ta càng đánh thì lực lượng nhân dân ta càng mạnh, đồng thời nếu không động viên để toàn dân tham gia thì không thể có lực lượng đánh lâu dài. - Muốn phát huy sức mạnh toàn dân kháng chiến phải đánh lâu dài, muốn có lực lượng đánh lâu dài phải huy động toàn dân tham gia kháng chiến. * Kháng chiến toàn diện : - Muốn làm cho khẩu hiệu “ toàn dân kháng chiến” có nội dung thực sự thì cuộc kháng chiến phải tiến hành trên cáclĩnh vực : quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá ... Thông qua những hình thức của cuộc kháng chiến toàn diện như thế thì toàn dân ta mới phát huy được hết năng lực của mình trong cuộc kháng chiến. - Pháp không những đánh ta về quân sự mà còn phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hoá ..., cho nên ta không những phải kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải đánh bại mọi âm mưu phá hoại về kinh tế và chính trị của chúng phải kháng chiến toàn diện. * Kháng chiến lâu dài : - Đây là một chủ trương vô cùng sáng suốt của Đảng ta, dựa trên sự vận dụng chủ nghĩa MácLênin vào hoàn cảnh của nước ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp một cách khoa học, không hề khiếp nhược trước vũ khí của kẻ thù. Đồng thời cũng kế thừa và phát triển truyền thống “ lấy yếu chống mạnh”, “ lấy chính nghĩa thắng hung tàn”. - Lúc đầu địch mạnh hơn ta về vật chất, vũ khí, nhưng ta có ưu thế tuyệt đối về tinh thần chính trị. Chỗ mạnh của ta là rất cơ bản, có thể lấy tinh thần chính trị khắc phục khó khăn về vật chất, nên ta càng đánh mạnh, càng đánh càng thắng. * Kháng chiến dựa vào sức mình là chính : - Ta rất coi trọng những thuận lợi và sự giúp đỡ của bên ngoài, nhưng bao giờ cũng theo đúng phương châm kháng chiến của ta là tự lực cánh sinh, vì bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải do sự nghiệp của bản thân quần chúng, sự giúp đỡ từ bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ thêm. - Ta có nỗ lực chủ quan mới sử dụng và phát huy được hết sức mạnh của mình. Nếu không dựa vào sức mạnh là chính thì không thể đánh lâu dài được. - Đường lối kháng chiến của Đảng được thể hiện một cách sinh động và phong phú trong thực tiễn kháng chiến của quân và dân ta trên tất cả mọi hoạt động, đã đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
5—trình bày nội dung chuyển hướng chỉ đạo cách mạng của Đảng qua 3 hội nghị trung ương VI,VII,VIII: Hoàn cảnh lịch sử: + Khi Đảng ra đời trong cương lĩnh chính trị đã xác định cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: Chống đế quốc- chống phong kiến thực hiện song song đồng thời để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc người cày có ruộng và các quyền tự do dân chủ khác.
+ Vào những năm 30-31 Đảng ta thực hiện chiến lược này. + Tuy nhiên những năm 36-39 chiến lược cách mạng Việt Nam đã có sự điều chỉnh. Lúc này chủ yếu tập trung vào chống phát xít và bọn phản động thuộc địa để thực hiện hoà bình dân chủ và cải thiện đời sống (CNĐQ phát triển lên chủ nghĩa phát xít). + Năm 39, phát xít đã gây ra chiến tranh thế giới lần II. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc tay sai trở nên gay gắt và trở thành mâu thuẫn chủ yếu cần phải giải quyết. Do đó đại hội Đảng cần có những điều chỉnh chiến lược tức là đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên đầu, các mục tiêu dân chủ tạm thời gác lại hoặc thực hiện có mức độ. Nội dung 3 hội nghị:
Hội nghị TW đảng lần 6 (11/1939) (9/1939 chiến tranh TG II nổ ra) họp ở Bà rịa-Hóc môn (Nam bộ), có số lượng đảng viên tham gia không nhiều lắm do tình hình căng thẳng. Nội dung của hội nghị. + Nhận định tình hình và mâu thuẫn ở VN xuất hiện. + Hội nghị chủ trương điều chỉnh chiến lược CM: trước đây 2 nhiệm vụ chống ĐQ và chống PK song song, đồng thời. Bây giờ đặt nhiệm vụ chống ĐQ và tay sai lên hàng đầu còn nhiệm vụ chống PK thì thực hiện có mức độ để tập trung mục tiêu gpdt. * KQ của sự điều chỉnh: là đã dấy lên 1 cao trào gpdt mà đỉnh cao là Bắc sơn khởi nghĩa, nhưng chưa thành công và bị dìm trong bể máu b) Hội nghị TW đảng lần 7 (11/1940) + Họp ở Đình Bảng- Từ sơn-Bắc ninh. Khẳng định chủ trương điều chỉnh chiến lược của HN 6 là đúng nhưng cần phải bổ sung thêm. + HN trung ương này chủ trương là nhiệm vụ trọng tâm của toàn đảng, toàn dân lúc này là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, là xây dựng lực lượng quần chúng, xây dựng lực lượng đảng cho vững mạnh. + Hội nghị cũng chủ trương là không được khởi nghĩa 1 cách nóng vội. c) Hội nghị TW đảng lần 8 (5/1941) tại pắc bó-cao bằng (2/1941 bác hồ về nước). + Khẳng định chủ trương điều chỉnh chiến lược lần 6,7 là đúng. + Hoàn thành chủ trương điều chỉnh chiến lược và xây dựng CMVN lúc này là CM gpdt và gpdt trong khuôn khổ mỗi nước đông dương. + Xác định CMVN là CM gpdt. + Hội nghị đề ra biện pháp cụ thể, nhiệm vụ cụ thể để tích cực chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. *KQ: tập hợp được lực lượng, chuẩn bị được phong trào, đến thời cơ đưa cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi.
6—Đặc điểm tình hình nước ta sau tháng 7-1954, nội dung cơ bản đường lối CM trong giai đoạn mới được thông qua tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3. Đặc điểm tình hình: .
Tình
hình
Việt
Nam
Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản quy định về đình chiến, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực. Nhưng phía Pháp chỉ thực hiện khi có những đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết của nhân dân ta. Ngày 10-10-1954, quân Pháp rút khỏi Hà Nội. Cùng ngày, quân ta tiến vào tiếp quản. Thủ đô giải phóng rợp cờ, hoa, biểu ngữ, vang dậy tiếng hoan hô của đồng bào mừng đón đoàn quân chiến thắng trở về. Ngày 1-1-1955, tại quảng trường Ba Đình lịch sử đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể của hàng chục vạn nhân dân Hà Nội chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Thủ đô. Ngày 16-5-1955, toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hải Phòng, và đến ngày 22-5-1955 thì rút khỏi đảo Cát Bà. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng. Khi rút quân, Pháp mang theo hoặc trước đó đã phá hỏng nhiều máy móc, thiết bị, tài sản để gây khó khăn cho ta. Pháp còn cùng với Mỹ và Ngô Đình Diệm chỉ đạo bọn phản động tiến hành dụ dỗ, cưỡng ép nhiều đồng bào công giáo vào Nam để thực hiện ý đồ phung phá cách mạng về sau. Trong khi đó, ở miền Nam, thực dân Pháp cũng có những hành động phá hoại Hiệp định mới được ký kết. Quân Pháp rút toàn bộ khỏi miền Nam Việt Nam khi còn nhiều điều khoản Hiệp định có liên quan đến trách nhiệm của họ chưa được thi hành, trong đó có điều khoản về việc tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử hai miền Bắc-Nam Việt Nam. Pháp trút bỏ trách nhiệm thi hành những điều khoản còn lại của Hiệp định cho Mỹ-Diệm, người kế tục chúng ở miền Nam. Đế quốc Mỹ ra sức thực hiện ý đồ đã vạch ra từ trước nhằm độc chiếm miền Nam Việt Nam, tiến tới độc chiếm toàn Đông Dương. Ngày 25-6-1954 Mỹ đã ép được Pháp đưa Ngô Đình Diệm (người của Mỹ) thay Bửu Lộc (người của Pháp) lên làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn miền Nam Việt Nam. Ngày 23-7-1954, ngoại trưởng Mỹ Đa lét (Dulles) tuyên bố: "Từ nay về sau, vấn đề bức thiết không phải là than tiếc dĩ vãng, mà là lợi dụng thời cơ để việc thất thủ miền Bắc Việt Nam không mở đường cho chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương". Tháng 9-1954, Mỹ lôi kéo được một số đồng minh như Pháp, Anh... và một số nước Đông Nam Á lập ra khối "Liên minh quân sự Đông - Nam Á" (SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này. Đưa được tay sai lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, gạt hết quân Pháp và tay sai của chúng ra khỏi miền Nam, Mỹ đã thực hiện được bước đầu ý đồ độc chiếm miền Nam Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm, với sự giúp đỡ và có sự chỉ đạo của Mỹ, ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, từ chối hiệp thương với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà về việc tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất Việt Nam trong thời hạn hai năm theo điều khoản của Hiệp định.
Đến hạn hai năm, tháng 7-1956, Diệm tuyên bố. "Sẽ không có hiệp thương tổng tuyển cử, vì chúng ta không ký Hiệp định Giơnevơ, bất cứ phương diện nào chúng ta cũng không bị ràng buộc bởi Hiệp định đó". Bằng một loạt hành động trái với hiệp định, như bầy trò "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại rồi suy tôn Ngô Đình Diệm làm Tổng thống (tháng 10-1955), tổ chức bầu cử riêng rẽ, lập quốc hội lập hiến (tháng 5 -1956), ban hành hiến pháp của cái gọi là "Việt Nam cộng hoà" (tháng 10-1956), Diệm đã trắng trợn từ chối và phá hoại việc thống nhất Việt Nam. Cùng với sự giúp đỡ dưới hình thức "viện trợ" quân sự, chính trị, kinh tế, miền Nam Việt Nam được xây dựng thành căn cứ quân sự, thành cơ sở kinh tế thực dân kiểu mới của Mỹ. Tất cả việc làm trên của Mỹ - Diệm không ngoài mục đích tách hẳn một phần lãnh thổ của Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để lập ra một quốc gia riêng biệt, thậm chí là một phần lãnh thổ của nước Mỹ. Tháng 5-1957, Ngô Đình Diệm tuyên bố tại Washington "Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17 " . Nội dung: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Tới dự có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội. Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà"1. Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, gồm những vấn đề lớn sau đây: Về đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước. Đại hội còn xác định vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Lịch sử đã chứng minh rằng, đường
lối trên phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và chung của cả nước trong giai đoạn 1954-1975. Nó thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của Đảng ta trong việc tìm ra một đường lối phù hợp với hoàn cảnh mới. Như vậy, một Đảng thống nhất lãnh đạo một đất nước tạm thời bị chia cắt, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo và đặc điểm lớn nhất của cách mạng nước ta. Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai mặt này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. 104 Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Từ những luận điểm trên đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Để thực hiện mục tiêu nói trên, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến. Đại hội đã thảo luận và thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng, Lời kêu gọi của Đại hội; đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã cử ra Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thành công của Đại hội là cơ sở cho toàn Đảng, toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối, là nguồn sức mạnh cho chúng ta sáng tạo, chúng ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
--7 Trình bày 4 bài học kinh nghiệm đại hội 6.phân tích 1 bài học kinh nghiệm
Diễn ra từ ngày 15-18/12/1986 tại Hà Nội. Báo cáo chính trị của ĐH rút ra 4 bài học kinh nghiệm của thời kỳ trước: Một là, trong toàn bộ hoạt động của Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”; Hai là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế , tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; Ba là kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; Phân tích bài học 1:
Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy. Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính sách của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm trong "chiến lược phát triển toàn diện"; đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
--8 trình bày 6 đặc trưng cơ bản về CNXH do đại hội VII đề ra 6-1951. phân tích 1 đặc trưng mà anh chị hiểu: 6 đặc trưng cơ bản:
- Do nhân dân lao động làm chủ. - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Phân tích 1 đặc trưng: Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, cho nên tất yếu còn mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; tuy nhiên cơ cấu, nội dung, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa diễn ra trong những điều kiện mới, với nội dung giai cấp và nội dung dân tộc gắn kết với nhau bằng những hình thức mới. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái để giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại phải gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hóa cao các lực lượng sản xuất hiện đại, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển nền kinh tế đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người phát triển toàn diện, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Chủ
trương
của
Đảng
xây
dựng
và
phát
triển
nền
kinh
tế
thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
--9 5 bài học kinh nghiệm của đại hội X(4-2006).phân tích 1 bài học mà anh chị hiểu - có tính nguyên tắc là phải luôn luôn kiên định Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và điều kiện thực tiễn của nước ta - hướng mạnh về cơ sở, bám sát thực tiễn, bám dân, bám địa bàn, nghe dân nói, nói cho dân nghe, nắm bắt nhanh, chính xác diễn biến tư tưởng, tâm trạng xã hội, dự báo đúng, kịp thời tình hình - tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng – văn hoá, thực hiện phương châm toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là đồng chí bí thư cấp uỷ, phối hợp chặt chẽ giữa các ban của Đảng, giữa tổ chức Đảng với các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp - không ngừng nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu, tính quần chúng, thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch, chủ động tiến công trên mặt trận tư tưởng, thực hiện phương châm kết hợp “xây” và “chống”, biểu dương và phê bình, coi trọng “xây” và biểu dương, đề phòng khuynh hướng “tả” và “hữu” trong công tác tư tưởng - văn hoá - làm tốt hơn công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, chọn lọc và sử dụng đội ngũ cán bộ, đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động theo hướng chất lượng, hiệu quả, hiệu lực, uy tín và sức thuyết phục của công tác tư tưởng - văn hoá trong Đảng và cả xã hội. Phân tích bài học 1: chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời sau Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) và tồn tại từ đó trở đi, dù có sai lầm khuyết điểm đến đâu đi nữa, cũng đã làm nên những thành tựu có ý nghĩa lịch sử và thời đại vô cùng to lớn,thêm vào đó, những kẻ phản bội bên trong kết hợp với những thế lực thù địch bên ngoài đã xô đẩy tình trạng khủng hoảng ấy đến chõ làm sụp đổ cả một chế độ xã hội đã được xây dựng suốt máy chục năm ở các nước đó. Xuất phát từ quan điểm lịch sử, cụ thể, quan điểm thực tiễn, quan điểm phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phân tích một cách khách quan, khoa học các sự kiện đã xảy ra, nhìn thẳng vào sự thật những gì đã làm được, cũng như chưa làm được, vạch đúng nguyên nhân, tìm ra giải pháp khắc phục, kiên quyết đổi mới, đổi mới có nguyên tắc để vừa không xa rời định hướng XHCN, lại vừa từ thực tiễn rút ra những kết luận mới, bổ sung cho lý luận về CNXH. Đó chính là điều Hồ Chí Minh đặt ra từ lâu cho những người cộng sản, những người cách mạng Việt Nam. Đó cũng là thắng lợi rất to lớn mà chúng ta đã giành được trong những năm đổi mới. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn đổi mới hơn 20 năm qua đã đưa đất nước
chúng ta ra khỏi khủng hoảng, những nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đã được hoàn thành. Nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển CNH, HĐH; hội nhập ngày càng sâu vào các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Song, điều mấu chốt và không thể thay đổi đó là chúng ta không bao giờ từ bỏ những gì thuộc về bản chất của CNXH, mà chỉ từ bỏ những gì không phù hợp và xa lạ với bản chất đó. Đảng ta trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để lãnh đạo đất nước, dân tộc tiến lên một cách vững chắc trên con đường XHCN là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, không thể làm trong một thời gian ngắn. Sự vận động biện chứng ấy đang khẳng định con đường đi lên CNXH của đất nước ta là phù hợp với quy luật. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh đang từng bước được thực hiện với những thành tựu ngày càng to lớn hơn.