Truyet Tung Oi

  • November 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Truyet Tung Oi as PDF for free.

More details

  • Words: 17,788
  • Pages: 26
TUYẾT TÙNG ƠI Gaup Buổi chiều trước khi rời Cairo để ra sân bay đi Beirut, để giết thời gian anh ngồi trên chiếc bàn gỗ nhỏ và nghe nhạc từ một chiếc cassette. Tình cờ có một bài hát hay hay, anh tua lại bài này cả tiếng đồng hồ sau đó và vẫn còn lẩm nhẩm hát khi trên đường ra sân bay, qua những khu phố Cairo buổi chiều mùa đông đông đúc và chật hẹp. Lời bài hát phảng phất trên cao đâu đó như không phải phát ra từ trong cổ anh, phảng phất như mùi hương liệu lẫn mùi cát cố hữu của thành phố nhiều ngàn năm tuổi này. Bài hát thế này: “Anh muốn gọi ngàn sao từ trời cao cùng xuống Anh muốn sống một ngày chẳng bao giờ ngưng Anh muốn thay đổi thế giới chỉ vì em Muốn ôm em thật chặt trong mưa Muốn hôn môi em cười, muốn chia sẻ nỗi đau Chỉ cần nhìn em anh biết ngay cái gì đẹp nhất Trong thế giới giả dối em là sự thật Em ơi, mỗi lần em chạm vào anh Anh thành anh hùng “chân đất” Dù em có ở nơi đâu Có anh giữ em an lành Sẽ dâng hiến em tất cả Nào có gì cao hơn anh?” *** Có quá nhiều thứ trên đời này cao hơn anh, như cô là một. Hôm đó khi cô đi qua cái cửa kính xoay bước vào trong sảnh toà nhà của trường thì anh đang đứng bên một người bạn chung. Người này nhanh nhẹn giới thiệu anh và cô với nhau. Cô phải cao hơn anh đến 7 phân chứ chẳng ít. Những câu xã giao đã được trao đổi, anh hỏi lại cô: “Bạn nói bạn từ đâu đến?” Cô nói “Libăng!”, rồi cười, “đúng rồi, khủng bố!” Anh chẳng nghe thấy gì cả, chỉ thấy cô cười, mắt và miệng đều cười. Anh về nhà hôm đó trong đầu chỉ nhớ lúc cô cười. Ba hôm sau anh viết thư cho cô: “Nếu không phiền bạn hay ai khác, tôi muốn mời bạn ăn tối.” Cô trả lời ngay: “Tôi xin cảm ơn, nhưng tôi sợ sẽ phiền người khác.” Hai người thỉnh thoảng lại gặp nhau trong sảnh. Cô kém anh nửa tuổi nhưng lại học trước anh một năm. Các bạn thì thầm cô là người giỏi nhất. Anh cũng không còn để ý

đến cô nữa, chỉ thấy hơi xao xuyến khi thỉnh thoảng nghĩ đến cách cô cười. Có cái gì đó trong mắt cô vừa thông hiểu vừa đằm thắm và hiểu biết. Việc ăn uống không được như ý, anh sụt cân rất nhanh. Việc học hành thì đè nặng trên vai, anh chẳng mấy khi nghĩ về cô nữa. Phải đến hai tháng sau có một đêm thứ Năm trong quán bar của trường khi cô và anh đang ngồi trên chiếc đivăng dài thì cô nói, giọng ngập ngừng: “Lần nào vào New York thăm chị tôi ở đó tôi cũng kể về bạn, rằng có một bạn Việt Nam rất hay ở trường. Tuần trước chị tôi vừa mắng đùa là lần sau còn kể đi kể lại thì chị tôi cắt lưỡi. Buồn cười không?” Đêm đó về anh không thể ngủ được. Lúc đó anh nghĩ anh đã bắt đầu iêu cô. Nếu như đó là tình yêu thì đó là tình yêu chậm và buồn nhất mà anh đã từng biết đến. Mỗi ngày qua, ngoài việc học trong đầu anh chỉ còn nghĩ về cô. Nụ cười của cô, tính hài hước, cách cô chấp nhận nửa chiếc bánh mỳ ăn trưa anh đưa ra mời, hay bàn tay cô vẫy chào lúc anh đi ngang qua tất cả bỗng trở nên ngập tràn ý nghĩa. Tuy thế, anh chẳng bao giờ dám nói gì với cô cả. Một phần tại từ cô luôn toát ra mùi hương thơm của trầm. Anh thì đến từ đất nước của những người ngậm ngải tìm trầm biết giá trị của nó nhưng chẳng bao giờ dám dùng vì phải thông qua nó mà đánh đổi cuộc sống lấy miếng cơm, còn cô dòng giống người Phượng Hoàng, thuỷ tổ của thương nhân quốc tế, lớn lên với mùi hương này. Trang sức của tổ tiên cô có thể đo bằng máu của tổ tiên anh. Anh luôn sợ phải vượt qua làn ranh vô hình đấy. Anh cứ nuôi cái tình yêu mạnh mẽ nhưng bị kiềm chế đấy bằng những phút thoáng gặp cô. Cảm giác về cô dần dần trở thành một phần quen thuộc và to lớn trong cuộc sống của anh. Cô trở thành chỗ dựa tinh thần ở gần duy nhất mà anh có. Một ngày đến lớp không gặp cô là một ngày thất bại. Một ngày anh và cô ngồi cạnh nhau lúc ăn trưa và trao đổi những câu đùa ngắn ngủi là một ngày trọng đại. Những ngày như thế khi đêm về anh ngừng học bài sớm hơn thường lệ nửa giờ và đi ngủ sớm để tự thưởng cho mình một chốc lát nghĩ về cô. Tình yêu đấy mãi về sau này cũng chưa bao giờ có hơi hướng của thể xác. Anh yêu cô như lần đầu tiên, mà cũng có thể đó là lần đầu tiên anh thật sự yêu ai. Anh tìm thật nhiều sách viết về Libăng quê cô, về cuộc nội chiến, về Beirut và những người dân ở đó, các nhà thơ Libăng, những chiến binh vùng thung lũng Beqaa, các món ăn và đồ uống mà anh nghĩ cô quen thuộc. Anh bắt đầu đi tìm hình bóng cây tuyết tùng trên những lá cờ thế giới. Anh vẫn loáng thoáng nghe xung quanh những câu chuyện về một ngưòi đàn ông khác, một người đã từng đi từ nơi xa đến thăm cô và gặp gỡ các bạn bè cùng học của cô. Anh chẳng hề ghen với người nọ, anh mong cô hạnh phúc và người kia may mắn. Anh biết tình yêu này của anh sẽ chẳng đi đến đâu, giữa hai người có quá nhiều điều khác biệt và chênh lệch. Cô thông minh và cần một người giỏi hơn cô, có thể nâng đỡ được cô. Anh thì lại chẳng nâng đỡ được ngay cả chính mình. Sinh nhật cô tháng Hai anh mua tặng cô hai quyển sách, Sophie’s World vì trong đó có Libăng quê cô và một cô bé mang tên Tri Thức; Nỗi buồn chiến tranh vì trong đó

có quê anh và nhiều người thân khác và một lời nhắn thầm rằng anh không chỉ là một chiến binh máu lạnh, anh cũng biết yêu thương khi gặp người đáng yêu thương. Có một buổi chiều anh và cô đi ra hiệu sách gần trường để chọn mua album ảnh. ở chỗ giá sách du lịch họ chọn ra những quyển sách viết về đất nước của mỗi người và cho nhau xem những bức ảnh. Những ông già râu dài đánh cờ bên Hồ Hoàn Kiếm được đặt bên cạnh những cô gái Libăng tóc đen xoăn mắt huyền đang hái nho ở Byblios. Cô chỉ vào một phố nhỏ Beirut và nói nhà cô ở trên phố đó. Đêm đó về anh lập một thư mục ảnh trên mạng chỉ toàn ảnh khu phố nhà cô mà anh đã tìm được trên internet rồi gửi cho cô. Đêm sau ở New York đọc thư cô anh cười thật tươi nghe cô kể là cô đã đi tìm anh khắp nơi chỉ để cảm ơn anh về món quà đặc biệt đấy. Tháng Năm đến và sắp đến lúc mỗi người đi một nơi. Anh cảm thấy cần phải nói gì đó với cô trước khi chia tay không biết ngày nào gặp lại. Anh nghĩ về cô từng giây từng phút và tiếc nuối một người không giống bất kỳ ai anh đã từng gặp, một tình yêu mà nếu thành hình chắc sẽ làm anh hạnh phúc nhiều. Anh biết anh có trách nhiệm phải đi những con đường mà anh không thể mang cô theo được. Mà chắc gì cô đã chịu đi theo anh? Họ hẹn nhau cùng ăn một bữa cơm chia tay đêm trước ngày anh lên đường về Hà Nội. *** Tôi lên máy bay khoảng 7h tối ở Cairo lúc đó tháng Hai đang bắt đầu vào mùa bão cát. Chiếc Boeing 727 đậu ở một góc xa của sân bay, hành khách lần lượt trèo lên cầu thang máy bay, vừa đi vừa nghiêng người để tránh cát bay vào mặt. Beirut chỉ cách Cairo khoảng một giờ bay nhưng lại sau Cairo một múi giờ. Chúng tôi bay qua sa mạc Sinai tối sẫm, rồi qua những trang trại Israel lấm tấm ánh đèn trước khi vòng ra ngoài Địa Trung Hải để hạ cánh xuống Beirut. Khi bắt đầu nhìn thấy thành phố rực rỡ đèn đêm bên dưới cũng là lúc cửa sổ máy bay thấy lất phất những giọt nước mưa. Đã sáu tháng rồi tôi mới lại được nhìn thấy mưa. Nhìn thành phố với ánh đèn nhoà đi sau làn mưa tôi cảm giác như mắt tôi cũng rơm rớm nước. Tôi đã đọc và nghĩ quá nhiều về thành phố và đất nước này, tôi đã mong được đến đây biết bao nhiêu. Đến đêm nay, sau nhiều vất vả, cuối cùng thì mơ ước cháy bỏng của một năm trước đó cũng thành hiện thực. Tôi tự nhủ là mình may mắn. Tôi chỉ mang theo một vali nhỏ và một hộp carton đựng báo Việt Nam của sứ quán gửi cho một nhóm người Việt Nam làm công nhân ở Beirut. Sân bay Beirut đẹp và rất hiện đại, không có vẻ gì của một đất nước vừa thoát khỏi nội chiến được vài năm. Làm thủ tục xong tôi ra khỏi sân bay, ngay lập tức được chào mừng bởi bầu không khí ẩm ướt sau mưa rất giống mưa mùa hè Hà Nội. Một người bạn đi cùng máy bay sang Beirut họp với trường Đại Học Mỹ ở Beirut (AUB) cho tôi đi nhờ về cổng trường này, nằm trên phố Bliss trong khu Hamra là khu trung tâm của Beirut. Ngay đối diện cổng là một khách sạn nhỏ. Tôi thuê một phòng trên tầng 3 trông ra đường. Phòng có hai giường, bài trí đơn giản, giá khoảng 30 đôla Mỹ.

Tắm rửa xong tôi đi xuống đường. Phố Bliss là Tràng Tiền của Beirut có nhiều cửa hàng ở bên đối diện với khuôn viên của AUB. Beirut đẹp đẽ và sạch sẽ hơn tôi nghĩ với các con phố chạy dọc ngang trên sườn đồi thoai thoải, với các cửa hàng đầy ắp hàng hoá châu Âu. Phố đêm mà vẫn chật người, chủ yếu là thanh niên đi vòng vèo qua lại. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy mật độ các cô gái xinh xắn cao như ở đây, cứ 30s lại phải quay đầu ngoái lại mà nhìn. Trước đây khi học ở Mỹ, tôi có quen một người bạn Libăng. Cô bạn này lúc đấy đã về Beirut và dạy kinh tế ở AUB. Trong thời gian tôi làm việc ở Cairo 6 tháng trước đó, chúng tôi vẫn email qua lại nhưng có phần gượng ép có lẽ do việc tôi đến Cairo gây liên tưởng đến cái sự tôi theo đuổi cô. Việc tôi đến Beirut, lại vào thời gian vài ngày trước sinh nhật cô bạn, thật sự là một việc tình cờ. Sau 6 tháng ở Cairo visa làm việc của tôi đã hết hạn tôi cần phải ra ngoài Ai Cập để lấy visa mới. Tôi không có ý định đi về tận Việt Nam để xin visa nên quyết định sẽ nhân cơ hội đó đi chơi lòng vòng một nước trong vùng. Biết rằng việc tôi sang Beirut có thể làm cô bạn của tôi không thoải mái, tôi có ý định đi Yemen hay Israel nhưng đến phút cuối chỉ có Libăng là tiện nhất. Thật là may cho tôi thích mà không dám nhận là thích từ đầu. Lang thang trên phố lúc đó tôi thật chẳng biết mình đang ở Beirut làm gì. Tôi cũng không dám chắc là tôi có muốn gặp người bạn kia hay không, mà dù có gặp thì cũng để làm gì? Giới hạn giữa yêu thương lãng mạn và theo đuổi hư hỏng ở chỗ nào tôi cũng không biết nốt. Tôi chỉ thấy hài lòng là tôi đang ở một nơi mới, nhiều lịch sử, đẹp và vui. Ngoài ra tôi chẳng nghĩ ngợi nhiều về một tuần sắp tới. Sau khi ăn một chiếc bánh cuộn nhân fromage dê với thịt bò là đặc sản của Libăng và uống một cốc càphê nóng bỏng, tôi đi vòng qua góc phố đến một quán càphê internet để kiểm tra email. Quán đầy chật thanh niên đang chat say sưa, trai và gái đều ăn mặc rất đẹp. Khi vào xem thư tôi thấy thư đầu tiên là của cô bạn Libăng viết về vụ ném bom của Israel xuống một trạm điện ở vùng núi cách Beirut khoảng 40km. Tôi viết thư lại ngay cho cô, thảo luận vớ vẩn về tình hình thời sự và chính trị, chủ yếu để trêu cô là chính. Libăng là một đất nước hào nhoáng và những người dân thường cũng vậy. Như Việt Nam, đất nước này trước đây là thuộc địa của Pháp. Người Libăng có gốc từ người Phoenix, những thương nhân viễn dương đầu tiên của thế giới, truyền thống bán mua từ cổ xưa đến giờ vẫn còn để lại dấu ấn sâu đậm trong tính cách của người Libăng hiện đại, họ ưa mua bán và thích mời mọc khách bằng cả lời nói và vẻ bề ngoài là lượt. Trước nội chiến năm 1975, Libăng được coi là Thụy Sỹ của Trung Đông do có đặc điểm địa hình và kinh tế tương đối giống với nước kia, kinh tế Libăng cũng dựa trên nền tảng ngân hàng và kinh doanh tiền của các quốc gia Hồi giáo trong nội địa. Dân Libăng có khoảng 3 triệu người nhưng người Libăng sống ở nước ngoài có khoảng 25 triệu, làm ăn buôn bán đều khá thành đạt. Có lẽ nhờ vào những nguồn vốn và kinh nghiệm của người Libăng ở nước ngoài mà tiến trình tái thiết Libăng đã diễn ra hết sức nhanh chóng. Nội chiến giữa các phe Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo chỉ thật

sự chấm dứt vào năm 1995 thế mà chỉ bốn năm sau thành phố Beirut bị tàn phá nặng nề đã lấy lại được vẻ phong lưu như trong những bức ảnh cũ hồi trung thế kỷ. Bốn năm sau chiến tranh, Libăng vẫn còn bị coi là một nước thế giới thứ 3 và sào huyệt của khủng bố Hồi giáo. Libăng chính là quê hương của nhóm Hezballah (Vinh Danh Chúa) là một nhóm vũ trang Hồi giáo sinh ra từ lò lửa nội chiến và nhanh chóng phát triển thành một tổ chức quân dân chính với chân rết trong mọi mặt đời sống Libăng. Hezballah có cả trường đại học, ngân hàng, bệnh viện riêng và có vai trò như một chính phủ bán chính thức chuyên trách lãnh đạo thanh niên sinh viên học sinh đấu tranh đòi Israel phải rút quân ra khỏi miền nam Libăng bị chiếm đóng từ năm 1978. Israel đã đưa quân vào khu vực này để hạn chế hoạt động của tổ chức giải phóng nhân dân Palestine (PLO) khi đó đóng bản doanh ở Beirut. Beirut thời những năm 40-70 là chốn ăn chơi của mọi sắc dân Trung Đông, lính tráng và sĩ quan PLO hội họp ở những chốn nhảy múa ăn uống nhiều hơn là tại doanh trại của họ. Một chi tiết lịch sử mà ít người biết đến là vào năm 1982 lúc đỉnh cao của cuộc chiến tại đây giữa các phe phái nội địa và ngoại thuộc (PLO, Israel, vv) đã có một đoàn quân sự của Việt Nam sang Beirut với ý định trợ giúp chiến thuật chiến tranh du kích cho PLO nhưng sau việc bất thành do kỷ luật của các nhóm quân này quá lỏng lẻo, tình trạng thay đổi chỉ huy và phương thức chiến đấu diễn ra từng ngày. Tôi đã đọc tất cả những điều trên trong hơn một năm trước khi đến Beirut. Đất nước nhỏ bé này đối với tôi vừa thân quen vừa lạ lẫm. Nhưng dù sao trong tư tưởng tôi cũng đã quen nghĩ về Libăng trong một tương quan đối kháng giữa các bên phân biệt qua sắc tộc và nhánh tôn giáo. Tôi ngồi trước màn hình máy tính trong góc khuất và tối vừa viết thư vừa ngắm nhìn những người Libăng trẻ tuổi xung quanh. Vẻ thanh bình làm tôi ngạc nhiên, mùi càphê bùi và ngậy quyện với mùi thơm nhẹ của khói thuốc lá, mùi nước hoa, mùi nhựa còn thơm mùi dầu của những chiếc máy vi tính mới để quanh phòng trang trí nền nã, những cô gái trẻ ăn mặc chải chuốt, uống rượu mùi đỏ sóng sánh trong những chiếc ly mạ vàng đế thấp, những chàng trai tóc bóng mượt mặc veste đen, sơ mi đen, râu đen tỉa gọn gàng, đi giầy đen đeo khuyên tai bạc – trong ánh đèn vàng dịu chia căn phòng thành những khoảng sáng tối bất chợt xung quanh tôi là vẻ nhàn nhã và đầy đủ, sự đầy đủ sung túc không phải chỉ của những người nông dân đủ ăn hay của những tay nhà giầu thành phố mới nổi hay chơi trội mà là sự dư thừa đã biết kiềm chế ép mình vào những khuôn khổ thẩm mỹ giản đơn . Viết thư cho cô bạn xong, tôi quay sang viết thư cho những người bạn khác ở Việt nam và ở Mỹ. Câu chào “Xin chào từ Beirut” mà tôi dùng làm tiêu đề của tất cả các thư đêm đó là một câu nửa mang tính tuyên ngôn, nửa là lời tuyên bố thành công và chiến thắng. Khoảng gần nửa đêm tôi ra về. ở quầy trả tiền có một cô gái Libăng hỏi khẽ bằng tiếng Anh “Cậu là người Nhật Bản à?”. Tôi cũng trả lời thì thầm “Không, người Việt Nam.” Mắt cô gái sáng bừng lên, rồi cô gấp gáp nói, “Cậu là người Việt Nam đầu tiên tôi gặp đấy,” rồi cô chìa tay ra, “tên tôi là Yizmina! tôi học ngành kinh tế chính trị ở AUB” Tôi bắt tay cô, tự giới thiệu mình, rồi chúng tôi trao đổi mấy câu trò chuyện.

Khi biết tôi còn ở Beirut một tuần nữa, cô hẹn sẽ gặp tôi ngày hôm sau ở quán café internet này để dẫn tôi đi chơi. Tôi bước ra đường lúc đó đã khuya, trời rất lạnh. Kéo cao cổ áo khoác lên, tôi đứng lại chỗ góc đường chỉ héo hắt chút ánh sáng đèn, xa phía trước mặt là biển đêm tối đen có tiếng sóng vỗ dồn dập vào kè đá, xung quanh không một bóng người, ở đây độ ẩm cao nên hơi lạnh cũng giống Hà Nội. Phía bên trái tôi là đèn sáng vui tươi của Rue Bliss có khách sạn tôi ở, phía bên phải tôi men theo lối rẽ tối là đoạn đầu Rue Kennedy, phố nhà cô bạn quen khi trước. ở phía trái là cuộc sống tôi tuy đơn độc một mình nhưng nối dài một dải, quần áo và vali đều đã đi nhiều nơi với tôi; ở bên phải trong ấm cúng gia đình cách đó chừng 100m là một người bạn tôi rất quý mến. Tôi cầm một đồng xu trong tay, tung lên bắt lấy một vài lần rồi thật thảnh thơi tôi quay ngang đi nhanh về phía trái con đường. Tên tôi là Yizmina nhưng các bạn thân của tôi thì gọi tôi là Yizi mầu mỡ, chắc hẳn nhìn tôi mọi người đều đoán được tại sao. Từ bé tôi đã sống với ông bà ngoại và các cậu tôi ở vùng thung lũng Beqaa. Gia đình tôi gồm nhiều người luôn mang súng, các cậu tôi thường đuổi gà trong vườn bằng đạn thật. Thời ông ngoại tôi còn trẻ thì ông cũng đuổi người Thổ Nhĩ Kỳ bằng đạn thật. Cha mẹ tôi ly dị nhau trong thời nội chiến, cha tôi giờ đang làm kinh doanh ở Đức còn mẹ tôi thì đã lâu không liên lạc nên tôi chẳng biết bà ở đâu. Tôi ở ký túc xá trong Beirut và đi học tất cả các ngày trong tuần ở đại học Mỹ, cứ hai tuần thì tôi lại ra đón xe buýt ở trạm Cola để về nhà với ông bà ngoại. Mỗi khi về nhà bao giờ tôi cũng phải mang thêm nhiều insulin để đề phòng bị ép ăn những món ăn có đường ở nhà. Bệnh béo phì làm tôi khốn đốn. Tôi có nhiều bạn nhưng chỉ có một người bạn thân là Natalie. Natalie, 18 tuổi, là người Libăng sinh ra ở Pháp nhưng đã trở về đây sống cùng cha mẹ từ khi nội chiến kết thúc. Cô ấy nói tiếng Arập rất kém nên chúng tôi thường trò chuyện bằng tiếng Pháp chỉ đôi khi mới xen vào một vài từ tiếng Arập. Natalie năm tới mới vào đại học, trường đại học Pháp St. Joseph ở Beirut. Chúng tôi đều là người thiên chúa giáo nhưng lại hay đi chơi với các bạn Hồi giáo. Người yêu của tôi ngày trước cũng là một người Hồi Giáo, bây giờ anh ấy đang ở Mỹ đi học hay buôn bán gì đó. Chúng tôi thường chỉ liên hệ qua thư điện tử vài ngày một lần. Natalie và tôi đều là những người quan tâm đến chính trị. Tôi là người theo phái dân chủ tự do còn Natalie là đảng viên đảng cộng sản Libăng. Các bạn của chúng tôi có cả những người bảo thủ và những người cấp tiến, có cả một người Trốtkit hay làm thơ và viết lời bài hát. Hàng tuần chúng tôi đều đi biểu tình, tuần trước thì biểu tình trước đại sứ quán Mỹ và văn phòng thường trú của CNN để phản đối CNN đưa tin sai lệch về thanh niên Libăng cực đoan. Cứ đến kỳ nghỉ học đầu mùa xuân hay cuối hè chúng tôi lại đi ô tô đến khu vực giáp ranh với vùng tạm chiếm ở miền Nam để biểu tình chống Israel. Lần trước có đến 2000 người cùng tham gia với chúng tôi, có cả các giáo sư trẻ ở trường tôi cùng đi. Chúng tôi cắm trại cách ranh giới ngăn bằng dây thép gai

khoảng 50m rồi ném đá vào quân lính Israel đứng gác. Ném chán rồi chúng tôi lại bật nhạc lên nhảy múa sau đó lại ném. Đến 10h đêm mới về đến Beirut tôi và các bạn lại kiếm chút gì ăn rồi đi đến một sàn nhảy ở ngoại ô Beirut và ở đó đến sáng mới về ký túc xá để ngủ. Tôi ngủ cả ngày hôm đó luôn. Đêm nay tôi không ngủ được nên đi ra café internet ngoài cổng trường để viết thư cho người yêu của tôi ở Mỹ. Tôi không tin nhiều lắm là anh ấy sẽ trở về Beirut. Đã mấy người Libăng chúng tôi đi ra rồi lại quay về đâu? Quán café này là chỗ tụ tập bạn bè của chúng tôi, những người phục vụ đều quen tôi cả. Tôi có chỗ riêng của mình có thể nhìn thấy cửa ra vào để biết được ngay khi Natalie đến tìm tôi. Mỗi khi Natalie đến tìm, thể nào cũng có một vụ bạo động ở đâu đó, chúng tôi lại cùng đi và đôi khi phải đóng vai y tá cấp cứu cho những người bị cảnh sát quật dùi cui vào người. ở phía bên trái tôi trong góc khuất có một người Viễn Đông đang ngồi viết email. Từ nãy đến giờ anh ta đã gọi hai ly càphê và hút thuốc liên hồi. Tôi cũng hút thuốc nhưng không “phê” như thế. Người này trông như người Trung Quốc nhưng cũng có thể là người Nhật Bản. Biết đâu anh ta là người Nhật Bản đến đây để tham gia vào vụ biểu tình của chúng tôi sẽ diễn ra vào ngày kia? Tôi ít khi thấy người Viễn Đông ở trong nội đô Beirut, mà có thấy thì thường họ chỉ làm việc vặt trong gia đình hay quán ăn Trung Quốc, chứ không có ai dùng internet bao giờ. Cách đây khá lâu, chắc phải từ hồi những năm 70 có một nhóm cánh tả vũ trang Nhật Bản tự xưng là Hồng Quân đã đánh bom ở sân bay Jerusalem làm chết nhiều người. Chính quyền Israel đã bắt họ lại và giam giữ trong nhiều năm từ lúc họ mới hơn 20 cho đến nay đã hơn 40 tuổi. Khi Israel trả tự do cho họ, họ đã xin tị nạn tại Libăng vì sợ rằng Nhật Bản sẽ xử họ lần nữa nếu họ trở về nhà. Người ta đã đồng ý cho họ ở lại nếu như Nhật Bản không gây sức ép với chính phủ Libăng phải đưa họ về Nhật. Quốc hội Libăng đã chấp thuận là sẽ gửi cả năm người Nhật kia về. Bọn sinh viên chúng tôi cho rằng họ làm vậy vì mục đích kinh tế mà không nghĩ đến việc những người Nhật này lúc trước đã sẵn sàng hy sinh để thay mặt chúng tôi chống lại người Israel. Tổng hội sinh viên đã kêu gọi tổ chức biểu tình thật to vào ngày kia để chống Israel và phản đối chính phủ Libăng gửi những người bạn Hồng quân Nhật bản về nước. Tôi và Natalie đã thông báo tin này cho nhiều người, chúng tôi sẽ tập trung tại một sân bóng đá rồi diễu hành đến Toà án Binh cách đó 1km. Có vẻ như phần lớn thành viên cốt cán của các nhóm chính trị sinh viên đều sẽ tham gia. Tôi rất tò mò về người Trung Quốc hay Nhật Bản đang ngồi kia, có lẽ tôi sẽ ra chào và làm quen với anh ta. Biết đâu anh ta cũng lại là một thành viên của Hồng Quân bên Nhật Bản được phái sang để biểu tình cùng chúng tôi. Rất có thể là thế vì tóc anh ta cắt rất ngắn…mà tóc ngắn thì ở đâu cũng là dấu hiệu phản kháng. Phần lớn các bạn nam của tôi đều để tóc ngắn…..à, anh ta ra về rồi, để tôi ra đón đường và chào anh ta. Cái sự “thảnh thơi” của anh lúc anh buông tay ra khỏi những thứ những điều anh mong muốn và quan tâm nhất không phải là một sự thảnh thơi đáng tin cậy, bởi lẽ hậu

quả của nó ngay trong lòng anh mà chính anh cũng cảm thấy được thường là sự nuối tiếc và dằn vặt đến mãi lâu sau. ý thức quá cao của anh về con người xã hội trách nhiệm, tức con người dám hy sinh, ít nhất là trong mắt mọi người, dẫn đến việc anh luôn là người đầu tiên bỏ cuộc những lúc có sự đấu tranh quyền lợi, dù rằng sự đấu tranh này đôi khi chỉ là hình thức, hay tưởng tượng, hay kể cả là ảo giác. Những điều anh càng yêu quý, anh càng đánh giá cao, anh càng mong muốn nhiều thì anh lại càng “thảnh thơi” mà quay lưng lại với chúng. Nhưng cũng là con người bằng xương thịt biết trông ngóng sự ấm áp, sự dịu dàng, sự tiện nghi dù là tinh thần hay vật chất, anh hay ngoảnh mặt lại hy vọng những thứ tốt đẹp kia tự đến với anh nhờ một may mắn bất thường nào đó. Thi thoảng thì thần may mắn cũng mỉm cười, khi đó thường anh đã chẳng còn quan tâm đến phần thưởng nữa. Nhưng khi không có sự may mắn nào xảy ra, anh lại là người đầu tiên quay lại săn đuổi điều cũ cho kỳ được, với một nỗ lực đáng ngạc nhiên, vượt xa ra khỏi những hạn chế của hoàn cảnh và nội lực. Chính những cuộc săn này giúp anh khám phá thêm nhiều điều mới, về bản thân anh và về thế giới, nhưng cái sự tiền hậu bất nhất của anh lại làm người xem ngơ ngẩn lạ kỳ. Sự “thảnh thơi” anh nghĩ đến khi ở góc phố tối giữa Beirut đêm đó anh chọn đi về bên trái, tức là quay về với những thứ thân quen và ổn định, hoặc giả có không ổn định thì cũng quen thuộc trong thế chênh vênh, chính là biểu hiện của chính nó vào những lúc này hay lúc khác, là hệ quả trực tiếp của sự kiềm chế hoàn toàn không cần thiết những tình cảm anh dành cho cô khi cả hai còn có cơ hội ở cạnh nhau. Tuy anh không đòi hỏi tình yêu từ cô, hay ghen với người bạn trai kia của cô, hay theo đuổi cô nhưng anh lại kiên quyết đòi cô phải biết và hiểu cái sự hy sinh đấy, mà theo anh là vì điều tốt cho cả hai người. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi lúc đó, khi cả hai người đều cần sự dịu dàng mà người kia có thể mang lại, chỉ đơn giản là để làm giảm đi những áp lực to lớn hàng ngày mà cuộc sống và học hành trút lên vai họ chứ chẳng phải để cho tương lai tươi sáng hơn thêm, thì anh lại thu mình lại và tách mình ra, tuy là thảnh thơi đấy nhưng vô hình chung lại tự tạo ra cho anh những áp lực mới, mà nặng nề nhất là áp lực phải duy trì sự thảnh thơi và bình thản bề ngoài. Sự dịu dàng qua lại, sự giao hoà và kết hợp của hai tâm hồn có lẽ chẳng mấy đồng điệu nhưng chí ít cũng quý mến nhau đã có thể là một bình rượu ngon mà hai người có thể cùng chia sẻ để uống cho say, chỉ cho lúc này và ngày hôm nay thôi, rồi ngày mai nếu vui thì sắm thêm bình rượu mới. Thế mà anh lại ích kỷ giữ cái bình lại cho riêng mình với lý do rượu ngon nhưng mà say thì chẳng tốt cho ai, và để chứng minh rằng mình công tâm, anh dang tay đập vỡ cái bình làm đổ tung mấy ly rượu ngọt ít ỏi, để đến lúc này anh lại phải quỳ xuống đất mà vun vén những mảnh vỡ. Để làm gì và để cho ai? Hai người hẹn nhau lúc 6h chiều hôm đó sẽ cùng đi bộ vào phố đi ăn. Từ sáng trời đã mưa nặng hạt, anh nhìn trời mưa không dứt lo đến thắt ruột là mọi việc sẽ không được như ý. Lúc 5h30 mưa bỗng tạnh, vài phút sau thì mặt trời ló ra và nước bắt đầu khô. Lúc 6h hai người đã đi cạnh nhau về phía phố chính Nassau, cô cao gầy đi cạnh anh…thấp gầy. Chẳng có nhiều thứ đáng nói về bữa ăn hôm đấy, cô vẫn tự tin, duyên dáng và hài hước, chỉ có anh là căng thẳng với những ý nghĩ mà chỉ mình anh có. Lúc trả tiền, hai

người giằng co nhau quyết liệt, anh cuối cùng cũng thắng nhưng một chút nước mắt cũng đã nhân cơ hội đó mà chảy ra. ở đầu đường Nassau là phố chính của thành phố đại học nơi họ sống có một vườn hoa nhỏ với những chiếc ghế băng bằng sắt sơn xanh. Lúc ăn xong họ cùng đi bộ ra đó. Cô ngồi ăn kem còn anh thì đứng trước mặt. Anh bắt đầu nói. Anh tuyên bố với cô về những tình cảm giống tình yêu mà anh dành cho cô, những tình cảm mà trước đó anh tự hứa sẽ không công bố. Việc tuyên bố những thứ không cần tuyên bố tự thân nó vẫn còn tính không tuyên bố nhưng lại đòi hỏi phải có những lời giải thích thêm đi kèm. Anh kể với cô về Việt Nam, về gia đình và bạn bè, những điều mà trước đó anh chưa kể. Anh kể về cây xương rồng ở nhà anh ra hoa đỏ mỗi mùa hè, những quả sấu chua quặn lưỡi, anh đạp xe đi học cấp ba mùa đông rồi từ trong lớp nhìn ra sương sớm mặt hồ ngoài cửa sổ, những hạt bụi phấn hoa, những đám mây trắng tháng Tư ở Hà Nội, những đôi giày cũ đã há mõm, những quyển sách mất bìa, cái khoá cặp hỏng, cái bánh chưng mốc, những người bạn đã xa không bao giờ còn gặp lại và những ngọn lửa bị thời gian dập tắt, những ước mơ đi xa bay cao. Anh cứ nói mãi như thế, chỉ đứng mà nói và thỉnh thoảng bước đi vài bước. Cô lắng nghe chăm chú, lúc cười lúc nhăn trán. Cả tiếng sau khi anh dừng lại, cô bắt đầu kể chuyện về cô. Cô kể về người đàn ông kia, người mà cô còn chưa chắc chắn, cô không hiểu cuộc sống với người đó khi cô quay về Beirut sẽ như thế nào. Thôi thì cuộc đời xoay chuyển thế nào thì ta xoay theo như thế, mong là sẽ được vui. Cuối cùng cô nói khẽ: “Wahed itneen tillatta arba, khamsa sitta sabba’a, ashareen!” () Nghe cô nói vậy, sự “thảnh thơi” của anh tan biến như băng tháng Sáu. Anh thấy cảm giác đau dội ở ngực và chẳng biết phải nói gì nữa. Đã quá muộn rồi. Họ cùng đi bộ về nhà cô. ở trước cổng anh tháo cái balo đang đeo sau lưng xuống và lục lọi hồi lâu lấy ra món quà anh đã mua cho cô từ trước. Cô cũng tháo balô đeo sau lưng xuống và lục lọi hồi lâu lấy ra món quà cô đã mua cho anh từ trước. Lúc chia tay, họ ôm lấy nhau, anh thoáng ngửi thấy mùi trầm hương trên tóc cô, anh hít vội một hơi thật sâu và khẽ rùng mình. Họ đứng như thế một lúc lâu rồi anh đẩy vai cô ra. Cô bảo: “Mình chắc sẽ còn gặp nhau, chắc sẽ ở một hội nghị nào đó. Bây giờ thì đi nhé, đi đi, đừng ngoảnh đầu lại mà đi.” Anh thảnh thơi quay ngang và nhanh nhẹn bước đi sang phía trái con đường. Chỉ vài tiếng nữa thôi là anh sẽ ra sân bay lên đường về nhà với món ăn của mẹ và tiếng Việt, bạn bè và caphê pha đặc uống ngoài vườn. Đến cuối đường trước khi rẽ anh quay đầu nhìn lại, trên bệ cổng trong bóng tối sẫm xao động của cây lá, cô vẫn đang ngồi nhìn theo anh. () “Đáng ra phải nói với tôi những điều này sớm hơn thì bạn đã chẳng phải ngồi một mình mà chịu những đau khổ tình yêu” --Tiếng Arập, dịch từ tiếng Anh trong.. nguyên văn.. ))

Tôi tên là Linh, con gái, tôi 23 tuổi, đang sống ở Hà Nội với bố mẹ. Tôi đã học xong đại học và đi làm được gần hai năm. Công việc của tôi hàng ngày không có gì nhiều, việc hành chính là chủ yếu, mà ngày này qua ngày khác công việc đều không có mấy thay đổi. Tôi học hết những kỹ năng cần thiết để làm việc trong ba tháng đầu và từ đó đến nay tôi không nghĩ là tôi đã học được thêm nhiều điều gì mới. Đôi khi tôi cũng chán nản với sự lặp đi lặp lại này, tôi nghĩ tôi cần nhiều niềm vui hơn, cần giao tiếp với nhiều người nữa. Những lúc như thế tôi thường gọi điện cho một vài người bạn cũ và chúng tôi gặp nhau để uống chút gì và nói chuyện. Khi về nhà thường thì tôi cũng không thấy vui hơn, bạn cũng là bạn cũ và hiểu biết nhau phải nói là quá rõ, còn chuyện chúng tôi nói thì chỉ xoay quanh những điều biết rồi. Ngày nào tôi cũng mong có một thay đổi gì đó, một sự ngạc nhiên dù nhỏ thôi cũng được, nhưng điều này ít xảy ra. Mấy ngày nay tôi đang đọc một truyện viết về Libăng của một bạn trai nào đó cũng là người Hà Nội gửi lên mạng. Càng đọc tôi càng thấy ngạc nhiên, chỉ một phần vì truyện này viết về những nơi tôi chưa từng đến, cũng chỉ một phần vì đây là một câu chuyện tình yêu khác với phần lớn những câu chuyện tình yêu khác tôi đã nghe, hay là cả những chuyện bạn trai bạn gái quý mến nhau mà tôi đã từng có. Tôi có cảm giác là đây không chỉ là một câu chuyện tình yêu, cũng không chỉ là một câu chuyện đi xa, cũng không phải là một sự khoe khoang hiểu biết và kiến thức, mà còn là một cái gì đó khác tôi chưa biết gọi tên thế nào cho phải. Hình như bạn trai viết cái này còn muốn nói thêm những điều gì khác, một thông điệp nhất định nào đó mà chính bạn ấy cũng chưa hình dung ra được. Khi nào tôi biết được chính xác thông điệp này là gì chắc tôi sẽ có thể phân loại truyện này cho phải. Đọc truyện này tôi thấy có hai con người, mỗi người một tính cách. Một người bình tĩnh tự tin, người kia thì luôn tìm tòi và vật lộn, nhưng hình như cả hai con người này đều được thể hiện ra ngoài dưới những hình thức trái ngược hẳn. Con người tự tin thường thể hiện mình bằng con người trăn trở, và ngược lại. Tôi cũng biết từ kinh nghiệm của chính tôi là đối thoại nội tâm có vai trò quan trọng, nhưng thường thì một bên trong tôi luôn mạnh mẽ hơn bên kia, và tôi cũng không bao giờ nghĩ cần phải thể hiện mình khác đi so với con người đấy. Đây là lần đầu tiên tôi thấy một người ngoài sách vở, một người hoàn toàn có thể là hàng xóm của tôi hay bạn học của tôi khi trước, công khai thừa nhận đối thoại này và để một bên có quyền phủ quyết bên kia hay giải thích động cơ của bên kia mà bên kia không biết. –tôi xin lỗi dùng các đại từ chỉ định không được rõ ràng...nhưng bên kia là bên thích kể về những chuyến đi xa, nhưng lại giấu biến đi những khúc mắc bên trong lòng, chỉ thỉnh thoảng mới nói ra một chút, nhưng cũng không đủ để thuyết phục ai. Cái mà bên kia không biết là bên này đang kể chuyện nội tâm của bên kia cho tất cả mọi người cùng nghe. Tôi rất tò mò muốn biết câu chuyện này sẽ đi đến đâu. Tôi nghĩ đây sẽ là một câu chuyện hay, thỉnh thoảng tôi sẽ viết vài dòng thế này, trong một vài ngày tới cho đến khi câu chuyện này kết thúc tôi chắc sẽ được ngạc nhiên hàng ngày.

Chẳng hiểu sao tôi lại có cả cảm giác hơi sợ hãi. Những thứ tôi được đọc ở đây tôi đều có thể hình dung ra được, kể cả những tình cảm yêu quý, sự chia sẻ, sự thông cảm, những sự buồn bã, những sự tiếc thương, sự tự lừa dối bản thân…dù chưa bao giờ trải qua tôi đều hình dung ra được cả, thật đấy. Tôi chỉ sợ cái nguyên tắc nào đó, cái thông điệp mà người bạn viết truyện định gửi, sẽ vượt qua lên trên và bao quát tất cả những tình cảm tôi vừa nói tới..tôi sợ vì tôi không hiểu tôi có hình dung được nó hay không, tôi cũng sợ vì tôi không biết tôi có cần phải biết đến nó hay không. Nếu chưa biết thì ít ra tôi còn có thể tin tưởng vào những gì tôi cảm nhận trong hiện tại, biết rồi thì suy nghĩ của tôi sẽ thay đổi thế nào, tôi sẽ xử sự với những người khác ra sao. Và cả tình yêu nữa. Tôi sẽ trông đợi gì thêm ở nó một khí tôi đã biết về điều gì đó kia? Nhưng chắc chắn là tôi vẫn muốn được nghe kể tiếp. Ngày mai tôi sẽ làm việc tốt hơn một chút, tôi sẽ không cảm thấy chán sự tẻ nhạt hàng ngày nữa, có cái gì đó đang làm tôi cảm thấy phấn chấn và chờ đợi, điều gì đó đã ở trong tôi từ lâu rồi, câu chuyện kia có mỗi vai trò đồng hồ đánh thức điều đó dậy mà thôi. Thời những năm 50-70, phố Bliss là trung tâm ăn chơi của Beirut, nơi tập trung nhiều nhất các quán rượu, sàn nhảy, chỗ chơi bài bạc. Cuộc nội chiến đã lấy bớt đi của nó các khách hàng quen và cả việc kinh doanh lời lãi ngày xưa. Từ khi nội chiến kết thúc, cùng với việc tái thiết Libăng và Beirut, phố Bliss cũng dần dần chuyển mình. Nhưng có vẻ như nó sẽ chẳng bao giờ lấy lại được vị thế cũ thời trước chiến tranh. Thanh niên bây giờ thích loại nhạc khác, loại rượu mạnh và bia khác, sự bài trí cũng khác với thời 20 năm trước. Những tòa nhà phố Bliss, xập xệ vì cả thời gian và chấn động từ bom đạn của 20 năm, không còn là nơi tụ tập được ưa thích của giới trẻ tiền phong. Vẫn còn những quán bar, những sàn nhảy nhưng khách “làng chơi” phần nhiều đã là có tuổi, hay những người trẻ tuổi hoài cổ. Tôi đã gặp một đám đông như thế trong một sàn nhảy ngay đối diện cổng bên khách sạn. Tôi đã về phòng, đã chui vào chăn nằm đọc sách để chuẩn bị ngủ nhưng lại bị tiếng nhạc từ dưới nhà vọng lên làm phân tán. Khoảng 3h sáng tôi quyết định bò dậy, rồi xuống đường và mò sang bên kia. Trong tiếng nhạc của những năm 70, có khoảng 30 người đang nhảy múa. Phần nhiều là những thanh niên đã luống tuổi, 30 plus. Cốc đĩa chén bày ngổn ngang trên những cái bàn gỗ tròn kê quanh phòng trên những bục gỗ sẫm màu. Hình như lúc đầu đêm đã có một bữa tiệc sinh nhật diễn ra ở đây vì có những dải ruban đỏ và hoa hồng và nến, tất cả đều dính kem bánh, nằm rải rác trên sàn và bàn ghế. Không khí sặc mùi rượu, mùi thuốc lá. Tôi chọn một ghế cao ngay cạnh sàn nhảy, gọi một đồ uống và ngồi nhìn ngắm mọi người. Mọi người đều ăn mặc đẹp. Có một người đàn ông mặc áo sọc to xanh vàng trắng nhảy một mình trước mặt tôi. Chắc đã có chút rượu nên anh ta nhảy chẳng giống ai. Ngồi buồn tôi chơi trò đoán trước những cử động của anh ta, phần nhiều là sai cả. Ngồi một lúc chán rồi tôi đi về khách sạn, đã 4h sáng nhưng ở dưới đường không có vẻ gì là thành phố này đã đi ngủ. Tôi chui vào trong chăn, cố gắng nắm bắt cảm giác cái chăn chạm vào người như một phép thử để chắc chắn những gì đang diễn ra là

thực. Cái gì đang diễn ra ở đây, việc tôi đêm nay ngủ giữa Beirut, mang nhiều màu sắc của mơ mộng hơn là thật. Cái gì đã đưa tôi đến chỗ này, và cuộc đời sẽ thay đổi thế nào vì những kinh nghiệm ở đây tôi không thể đoán trước. Tôi cũng không tin là tôi đã đến đây chỉ vì những run rủi của số phận, tôi thích nghĩ là đã có một kế hoạch từ trước, ở đâu đó, quyết định sẵn việc tôi đang nằm suy nghĩ giữa Beirut đêm nay, tôi chỉ là người thừa hành một nhiệm vụ nào đó, không thật rõ là cho tôi hay cho ai khác. Cảm giác này làm tôi cảm thấy yên tâm và được che chở hơn. Buổi sáng ngủ dậy tôi pha một ly caphê rồi trèo lên chiếc giường bên kia, ý định là để mở cửa sổ hướng ra đường và hút thuốc. Cửa sổ mở ra rồi, ánh sáng bên ngoài ùa vào phòng. Bên ngoài là một bức tranh. Cả thành phố trải dài trên những sườn đồi nhiều màu xanh lục của cây cối sáng lấp loáng nhờ ánh nắng như mật. ở hai bên phía xa là núi Lebanon, mờ ảo trong sương mù buổi sớm, còn ở trước mặt, ngay sau những tòa nhà mái ngói đỏ của đại học Mỹ là Địa Trung Hải, xanh rợn người. Đã lâu nay tôi có cảm giác tôi không còn biết xúc động trước vẻ đẹp thiên nhiên trong vẻ tự nhiên của nó nữa nhưng lúc này tôi cứ đứng đấy mở mắt thật to ra mà nhìn. Vẻ đẹp của thành phố này, nhìn từ chỗ tôi đứng tưởng như không thể nào đẹp hơn được nữa. Đến gần như thế với sự hoàn hảo, tôi thấy mình như say. Tôi lang thang xuống đường và đứng cạnh một quầy bán đồ ăn sáng cạnh đường gọi đồ ăn và đồ uống. Những đám sinh viên đại học Mỹ cứ lũ lượt đi qua. Sau đó vừa ăn vừa nghĩ là thực ra tôi không nên đứng ngoài đường như thế này. Người bạn của tôi hoàn toàn có thể đi qua nhìn thấy tôi đứng khơi khơi giữa Beirut đúng ngày sinh nhật của cô ấy. Nếu thế thì tôi biết giải thích thế nào? Có lẽ tôi sẽ xấu hổ phải chạy đi mất. Từ khi tôi sang Ai Cập, chúng tôi thỉnh thoảng có email qua lại, tôi cũng chẳng nhớ tôi đã nói cái gì làm cô phật lòng nhưng những email từ cô càng ngày càng ít hẳn. Có một lần tôi viết thư hỏi cô là có được không nếu tôi sang Beirut dịp sinh nhật cô. Cô chẳng trả lời gì cả. Tôi nghĩ như thế có nghĩa là cô không muốn. Lúc đấy tôi hoàn toàn chẳng có ý định gì sang Beirut cả, thế mà lúc này tôi lại đứng ở đây. Thật như một trò đùa. Tôi nghĩ cô chẳng cần phải lo nghĩ gì về tôi cả, tôi đâu có ý định làm phiền cô đâu. Lúc đứng ở đó tôi nửa mong sẽ chẳng gặp cô, nửa mong là cô sẽ đi qua và nhìn thấy tôi, để tôi khỏi phải lo nghĩ nhiều về việc giấu diếm nữa. Lúc trưa tôi đi kiểm tra email và gặp cô bé bự Yizmina. Trong hộp thư có thư của cô bạn Libăng, vẫn hoàn toàn không biết là tôi đang ở cách cô chỉ vài trăm mét. Tôi viết thư lại cho cô, vẫn thảo luận tình hình chính trị, vẫn trêu ghẹo cho cô giận là chính. Tôi chê những người Hezballah hết lời. Tôi dọa cô là nhóm này mong biến Libăng thành cộng hòa Hồi Giáo và những người như cô sẽ phải cải đạo, sẽ không được làm việc xã hội, sẽ không được đến trường. Cô nằng nặc bảo rằng không. Ngày mai sau ngày sinh nhật cô có lẽ tôi sẽ thông báo cho cô biết là tôi đang ở Beirut. Tôi cũng gửi cho cô thư chúc mừng sinh nhật. Không hiểu làm vậy có phải là không trung thực không? Không biết người khác ở địa vị tôi sẽ làm gì? Cô Yizmina thật là một cô nói nhiều. Chỉ nói chuyện một lúc mà tôi đã biết rất nhiều thứ về cô. Cô kể chuyện gia đình bè bạn người yêu và rủ tôi ngày hôm sau đi biểu

tình với các cô. Tôi hỏi cô là sẽ có những người Hezballah ở đó không? Cô bảo chắc sẽ có nhưng họ sẽ không phải là những người tổ chức chính. Tôi gật đầu bảo thế thì tôi sẽ đi. Tôi cũng muốn xem sinh viên Libăng bạo động thế nào. Tôi còn hỏi nếu bị đuổi thì sẽ chạy đi đâu, cô bảo việc đấy mọi người đã lo liệu cả, nên tôi không cần phải sợ. Cảnh sát thường cũng không can thiệp mấy trừ phi sinh viên đập phá quá khích thôi. Hì hì, tự nhiên tôi thấy vui lên. Ngày mai tôi sẽ tham gia một cuộc biểu tình để phát động cho một ý kiến không phải của tôi. Thực ra mà nói tôi chẳng ủng hộ hay ưa thích gì quan điểm chính trị của cả người Hồi Giáo và Do Thái Giáo, tôi cũng chẳng lo lắng lắm cho tương lai của quan hệ Israel và Libăng. Tôi là người tự do, tôi thích lang thang và xem tất cả mọi thứ. Chia tay cô Yizmina tôi đi về khách sạn để gọi điện cho một người Việt nam đang làm công nhân xây dựng ở cách Beirut 40km. Anh Dũng là ngưòi Nghệ An đã sang đây lao động cùng một nhóm vài chục người khác hổi năm 1996 sau tổng tuyển cử. Họ sống ở trên núi và xây nhà. Thời gian đầu người nào cũng có lương, chủ thì tử tế cho ăn uống đầy đủ. Sau đó không hiểu sao chủ vỡ nợ, khu nhà họ đang xây cũng không có tiền để làm nốt. Hai năm nay mấy chục con người vẫn cứ sống lay lắt, làm đủ việc lặt vặt kiếm sống. Tiền lương của họ thì chủ vẫn nợ lại không biết đến bao giờ. Bây giờ mấy người thợ này vẫn thỉnh thoảng làm việc, cố hoàn thành một hai khu nhà dang dở để chủ có thể bán đi lấy tiền về trả nợ. Vừa làm họ vừa nghĩ cách liên hệ với sứ quán Việt Nam ở Ai Cập nhờ giúp đỡ. Sứ quán không có điều kiện để đại diện cho họ trong việc kiện tụng ở Libăng nên chủ yếu chỉ hỗ trợ về tinh thần là chính. Biết tôi sang Beirut, các anh trong sứ quán đã nhờ mang một thùng báo Việt Nam, phần nhiều là báo đã cũ, để gửi cho những người Việt nam ở xa nhà này. Nghe họ nói báo chí Việt Nam là thứ quà được quý nhất mà một người sang thăm có thể mang sang. Trên điện thoại anh Dũng rất xúc động, anh hẹn tôi ở khách sạn lúc buổi chiều. Buổi chiều anh qua lấy báo, rồi hứa sẽ đưa tôi lên chơi trên chỗ anh ở trên núi một vài ngày sau. Sau đó tôi lang thang dọc phố Bliss và đi vòng sang những chỗ khác. Đường phố ở khu này trong Beirut nhỏ hẹp và dốc, có nhiều cửa hiệu rất đẹp, bán đủ thứ xa xỉ phẩm. Tôi cũng đi vòng xuống đi bộ dọc theo Corniche, là phố chạy theo bờ biển. Buổi chiều Địa Trung Hải không còn xanh màu ngọc bích nữa, sóng cũng vỗ mạnh và ầm ĩ hơn. Bên bờ biển có nhiều gia đình qua lại, nước thỉnh thoảng lại bắn tung tóe một hồi làm cả trẻ con và người lớn đều hò hét đầy phấn khích. Nhìn hải âu bay lượn lập lờ tôi lại nghĩ đến tôi. Lúc đó tôi thật sự không biết tôi muốn làm gì trên đời này nữa. Mục đích nào đây có thể làm tôi cống hiến hết sức mình? Ngày đầu tiên của tôi ở Beirut trôi qua như thế, phấp phỏng đợi chò một điều gì chẳng rõ ràng. Trong một email viết sau ngày sinh nhật cô, anh đã cho cô biết là anh đang ở Beirut. Phản ứng của cô nhẹ nhàng, gần như chịu đựng chứ không còn là chấp nhận. Anh và cô hẹn gặp nhau buổi trưa một ngày nọ ở cổng chính của trường AUB sau giờ cô dậy học ở trường. Anh đến gặp cô sau khi đến lấy visa từ sứ quán Ai Cập và vẫn mặc nguyên chiếc áo complet có những khuy emblem bằng vàng, đi giầy đen bóng lộn và mặc quần vải len. Cổng chính của trường ở ngay đối diện với khách sạn anh ở. Anh đã cố tình đi ra khỏi

khách sạn hơi muộn một chút. Thấy cô ở phía bên đường, ăn mặc giản dị quần jean và áo khoác đen mỏng, anh tự hỏi trông mình có ngớ ngẩn quá không khi ăn diện như thế. Họ ôm nhau như phong tục đòi hỏi thế dù rằng hiện thực không đòi hỏi một sự gần gũi đến vậy. Dù thế nào đi nữa cũng không thể phủ nhận sự rung động nhẹ từ cả hai bên khi hai vòng tay ôm lấy vai của người bên kia. Anh thì biết mình rung động vì sao. sự gần gũi này đối với anh tự nhiên lắm, nó chỉ là sự nối dài của đêm hôm đó ở trước cổng nhà cô khi anh đang trong tâm trạng bị giằng co. Lúc đó anh vừa mong được về nhà, về gần với gốc rễ của anh, để thoát khỏi cảm giác cô đơn và thiếu thốn cả tình cảm và vật chất của những năm tháng đằng đẵng ở xa và vừa mong được ở gần cô thêm một lúc nữa. Mong ước được về nhà tất nhiên đã chiến thắng, nhưng chỉ tạm thời thôi. ở trong sâu anh vẫn mong có lúc được ở gần cô thêm nữa, vẫn hy vọng vào một cơ hội nào đó xoay chuyển lại hoàn cảnh, quay ngược lại thời gian, gạt bỏ hết những gì cả hai người đã biết thêm, đã hiểu thêm trong thời gian 10 tháng kể từ khi họ chia tay nhau. Sự rung động của cô là gì thì anh không biết. Anh không nghĩ đó là sự xúc động, sự vui mừng gặp lại anh. Mười tháng đó đã có nhiều thay đổi, cô đã ở New York suốt năm tháng, lang thang từ văn phòng này sang văn phòng nọ tìm kiếm một việc làm, đã bị từ chối nhiều lần, đã bị thất bại, sự thất bại mà cô không đáng phải chịu. Cô đã nhớ nhà và cũng đã tạm thời bỏ rơi ước mơ của cô để quay về nhà với gia đình và những thứ quen thuộc. Năm tháng nữa trôi qua, cô đã có thời gian để bình tình lại và vạch ra những hướng đi mới, cô cũng đã có thời gian để làm quen với cuộc sống và công việc ở Beirut. Anh chắc chắn chẳng có chỗ đứng nào trong kế hoạch của cô, sự xuất hiện bất ngờ của anh là một dấu hiệu không lành. Phải chăng anh đã đến để đòi cô cho anh một chỗ đứng nào đó bên cạnh cô? Rung động của họ đồng thời nhưng lệch pha nhau xa lắm. Cô vui vẻ đưa anh đến một nhà hàng bán đồ ăn truyền thống của Libăng ở trong một biệt thự kiểu Pháp giống những biệt thự cũ ở Hà Nội. Anh căng thẳng và lo lắng ra mặt. Anh ước gì có thể lấy tay ôm mặt để khỏi phải nhìn thấy cô nhẹ nhàng và lịch thiệp ngồi ở phía trước. Anh cảm thấy sự tử tế này không chân thành, mà chỉ giống như Bá Kiến đi ra mà dắt tay anh Chí Phèo nhẹ nhàng khuyên bảo chuyện đời, cô cũng đang hiền lành và tử tế với anh như một biện pháp phòng ngừa và làm lạc hướng. Anh không biết phải giải thích thế nào với cô để cô hiểu rằng anh đến đây không phải vì anh muốn làm xáo động cuộc sống của cô, mà chỉ đơn giản là một lần cuối cùng buộc lại những mối dây cũ còn lỏng lẻo. Anh cũng muốn nói để cô hiểu là anh cũng mong sống cuộc sống của anh. Gần hai năm nay anh đã nghĩ đến cô nhiều quá. Anh cần gặp cô, cần có một cơ hội để quên được cô. Cách tốt nhất mà anh nghĩ là được nói chuyện với cô thật thẳng thắn về những gì đã qua của những ngày đã xa. Anh mong cô hiểu được anh những ngày tháng đó và cả sau này, và cả lúc này, cô độc và lang bạt. Anh chỉ ăn vội vàng mấy miếng và cũng chẳng nói gì nhiều mà chỉ ngồi chăm chú nghe cô kể chuyện. Những câu chuyện không đầu không cuối, những mạch chuyện

bắt từ bên này sang bên khác rồi lại lan rộng mãi ra như những sóng nước trên mặt hồ. Anh như chiếc lá vàng, vụt rơi rồi đậu xuống, rồi cứ theo những đợt sóng kia sóng sánh và chòng chành. Anh lặng lẽ ngồi và từng phút một nhận ra anh chẳng đóng bất kỳ vai trò nào trong cuộc sống của cô. Những vòng sóng kia dù lăn tăn hay mạnh mẽ chẳng bao giờ là do anh tạo ra cả. Cái lá vàng chỉ ngăn sóng đi xa hơn và kéo dài lâu hơn nữa. Đã đến lúc cần phải lịch sự, đứng dậy và chào để ra đi. Ở một quán càphê cô đưa anh đến sau bữa trưa nơi cô khoe có giữ linh hồn của Beirut, là nơi duy nhất mở cửa hàng ngày xuyên suốt 15 năm nội chiến bất kể đạn lạc và bom nổ bên ngoài, cô hỏi anh sẽ ở Ai Cập đến bao giờ nữa. Anh vừa ở trong toilet ra, đã căng thẳng rồi còn lo nghĩ hơn về những giọt nước vô hình nào còn dính ở trước quần, trả lời quấy quá là anh dự định sẽ còn ở đó thật lâu. Cô cười và nói nhiều hàm ý, vừa khuyến khích vừa thông cảm mà cũng vừa pha chút cầu xin là anh nên đi khỏi Trung Đông đi. Mấy câu trao đổi này là những thứ duy nhất họ nói về việc của họ. Mãi về sau này anh còn trách anh tại sao lúc đó không chớp lấy cơ hội và nói ra những điều anh đã dự định sẽ nói. Bốn giờ chiều là giờ cô phải đi đến lớp học tiếng Tây Ban Nha, anh thì có hẹn với các bạn sinh viên bạo động. Họ đứng giữa phố chào nhau và hẹn gặp lại vài ngày sau đó hình như cả hai đều muốn bỏ qua những cuộc hẹn và trách nhiệm kia để ngồi gần nhau thêm chút nữa, tất nhiên vì những lý do khác nhau nhưng rồi chẳng ai nói gì. Anh gợi ý là cô có thể mời thêm những người bạn khác cùng đến ngày hôm sau, anh muốn mời mọi người cùng ăn uống với nhau một lần. Cô nói có thể anh trai cô sẽ cùng đến. Cô lấy ảnh anh trai cô ra cho anh xem, anh bác sĩ nhãn khoa này chính là người đàn ông áo kẻ trắng xanh vàng hơi say say anh đã ngồi nhìn trong sàn nhảy đêm đầu tiên ở Beirut. Anh nghĩ là anh biết đáng ra phải làm gì nhưng anh đã không làm. Cô thì chắc đã yên tâm rằng kẻ theo đuổi quốc tế hoá ra cũng biết điều nên cô chắc chẳng phải lo gì việc anh làm xáo động cuộc đời cô nữa. Cái gì thế, cái gì đã xảy ra trong 10 tháng trước đó lại có năng lực biến phút thăng hoa và xuất thần của lần cuối họ ở cạnh nhau thành một mớ bòng bong rối rắm những âu lo và do dự ngày hôm đấy? Lần trước khi chia tay, cả hai đều thở dài vì buồn và thương, lần này khi chia tay thì cả hai cũng đều thở dài nhưng anh thì vì không hiểu nổi mình muốn gì, cô thì vì trút được gánh nặng. Cái gì đó đã đẩy anh xuống hố sâu mà đồng thời lại kéo cô lên cao? Phải chăng là phụ nữ cô cũng vô tình và dễ quên hơn anh là trẻ con vừa mới lớn? Phải chăng đã đến lúc cần phải lịch sự, đứng dậy chào và ra đi? Bạn Linh ơi, tớ tên là Dũng, ở Hàng Điếu gần chợ Hàng Da. Tớ cũng đang đọc chuyện này mỗi lần vào mạng. Lúc đầu tớ cũng rất thích nhưng bây giờ thấy nó bắt đầu lan man và lâm li quá rồi nên không hiểu còn thích như lúc đầu nữa không. Tớ nghĩ giá mà bạn Gaup có thể gom góp tất cả những tình cảm nhẹ nhàng đằm thắm,

những vui buồn khốn khổ, những cô đơn cô độc này vào trong chừng vài trang viết thì hay hơn biết bao nhiêu. Cũng như bạn tớ cũng tự hỏi không hiểu bạn Gaup định nói điều gì với câu chuyện này. Có phải bạn ấy chỉ định kể ra một câu chuyện dài, ly kỳ nhiều tình tiết, nhiều nơi chốn và nhân vật hay còn muốn chia sẻ với chúng ta những người đọc một ít triết lý về cuộc sống. Người đi xa nhiều chắc cũng học được một vài điều đáng nói, tớ mong là những gì bạn ấy định chia sẻ với chúng ta sẽ là những thứ chúng ta cần nghe. Tớ chỉ biết bạn Gaup ở trên Thanglong nhờ đọc những thứ bạn ấy viết nên chắc là không hiểu bạn ấy nhiều. Tuy thế tớ để ý thấy có sự khác biệt rất lớn giữa những thứ khác bạn ấy viết và truyện Tuyết Tùng này. ở những thứ khác, đôi khi người ta cũng có thể đọc được một chút ít sự thất vọng với bản thân và đường đi, nhưng ít ra cách giải quyết vấn đề thường là dứt khoát và hài hước. Lần này thì khác, bỏ qua việc đưa chuyện tình yêu lên công khai cho bàn dân thiên hạ đọc, tớ thấy bạn ấy có nhiều do dự và mặc cảm, nhiều những thứ lúng túng, mềm yếu không đáng có. Tớ nghĩ người ta có thể tâm sự, có thể khóc lóc trước mọi người nhưng chỉ đến một mức độ nhất định thôi--những bất an thầm kín nhất, những góc sâu lắng nhất người ta vẫn giữ lại cho mình. Tuy không nhất thiết là trực tiếp nhưng lần này bạn Gaup để hở mình ra nhiều quá. Lật lại vấn đề một chút tớ không rõ bạn Gaup có phải là một drama queen tính tình hơi sến hay không mà luôn cần phải khóc than mãi cốc nước đã đổ nhưng có hiểu biết phần nào về con người tớ nghĩ rằng những sự lâm li cảm động này không hoàn toàn là thật. Hoặc kể cả khi chúng là thật thì tớ có cảm giác nó che đậy một cái gì đó cứng rắn hơn những gì được khoe ra rất nhiều. Tớ có cảm giác là người viết, cả khi xưng tôi và khi kể chuyện về mình, mặc dù kêu ca đau khổ về tình yêu không được đáp lại nhưng thực ra trong sâu lại thích thú với những cảm giác buồn. Nếu thế thật thì quả là thú vị, tớ nói thú vị không với ý là hay--chuyện hay dở có lẽ phải để đến tận cùng mới có thể biết được. Mà tận cùng thì chẳng biết là bao giờ. Với tốc độ và diễn biến hiện tại, một tuần người kể chuyện ở Libăng có thể được kể lại bằng những đoạn nhỏ trong cả một năm trong thời gian thực của chúng ta. Nếu giả định của tớ là thật thì cô gái trong truyện không phải là người chủ động gây ra sự buồn rầu thất vọng, mà chỉ là một agent được người kia xoay vần khéo léo cho nói những điều cô ta nói, hay làm những điều cô ta làm, không chỉ trong truyện này mà còn cả trong đời thực. Miễn là cô ta có thể tiếp tục làm người kia buồn thì anh ta sẽ vẫn vui. Động cơ nào có thể biến giả định kia thành thật? Tớ không biết. Nhưng tớ sẽ thử so sánh cuộc sống với một bức tranh và mỗi người là họa sĩ tự vẽ nên bức tranh cuộc đời mình. Cũng như hoạ sĩ sẽ chọn màu sắc này để vẽ vào chỗ nọ hay chi tiết này để thêm vào chỗ khác, con người ta sống trên đời cũng vậy, loại trừ cơ hội và sự run rủi của số phận như là những vết sơn chẳng may rây bẩn vào toile, chúng ta phần lớn đều có quyền tự quyết trong sự lựa chọn những việc chúng ta làm. Chúng ta sẽ chọn

màu sắc nào, hoạ tiết nào, chất liệu gì để làm cho bức tranh cuộc đời thật đẹp. Có một thiểu số người, vì những lý do này hay khác, thích chọn những màu sắc giúp cho bức tranh có được vẻ đẹp của…ngày hôm qua. Ta gọi những người này là bảo thủ hay hoài cổ hay những người ưa sống cuộc đời trong quá khứ. Phần lớn những người còn lại chọn những màu sắc mà ngay lập tức có thể làm cho bức tranh còn dang dở trông thật đẹp. Chúng ta chọn bạn bè, công việc, nơi đi chơi nơi đi nghỉ, đồ uống, vv phần nhiều dựa vào cảm quan hiện tại, sự đẹp sự tươi mới trong ánh sáng mặt trời chói lọi hay mây đen che phủ của ngày hôm nay. Nói thế không có nghĩa là chúng ta không suy nghĩ về tương lai, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, lý do thiếu thông tin hoặc thụ động trong việc tìm kiếm thông tin mà chúng ta không hình dung được những màu sắc ngày hôm nay sẽ thay đổi thế nào trong bức tranh cuộc đời vài mươi năm nữa. Những màu sắc tươi mới ngày hôm nay sẽ thay đổi một cách không thể đoán trước được và trừ phi chúng ta may mắn thì phần chúng ta tự vẽ sẽ ít khi giống với những gì chúng ta mong muốn về bức tranh khi đã vẽ xong. Chúng ta tạm gọi những người này là những người bình thường, những người sống cuộc đời mình trong ngày hôm nay. Có một số người khác, mà tôi nghĩ người trong truyện là một ví dụ, vẽ tranh bằng những màu sắc mà thông qua trải nghiệm của một số ít những người đi trước, những người mà anh ta coi như hay mong được là người đồng cảm và đồng cảnh với mình, sẽ cần thời gian để đạt đến sự chín muồi về cấp độ và sự diễn cảm. Để làm được việc này, điều tối cần thiết là có sắn trong đầu ý tưởng và hình dung về bức tranh cuộc đời khi đã thành hình. Những mầu sắc người ta chọn sẽ không nhất thiết là những mầu đẹp nhất, sáng nhất, hài hoà nhất, hợp lý nhất trong ánh sáng mặt trời hay mây đen che phủ của ngày hôm nay nhưng trong bức tranh có sẵn ở trong đầu thì một ngày nào đó nhiều năm sau khi những mầu sắc kia đã đủ độ chín, độ trầm, khi thời gian đã tung tro tàn hay bụi vàng bụi bạc lên chúng, là cái final touch của ngoại cảnh và ngoại cảm, của cơ hội, sự may mắn, của những gì ngoài tầm kiểm soát của chúng ta vẫn được gọi chung bằng tên số phận, thì bức tranh kia cũng sẽ được hoàn tất, rất gần với ý tưởng ban đầu của người hoạ sỹ. Chúng ta hay gọi những người này là người lo xa. Tớ không dám nói cách sống cách vẽ nào là tốt nhất cũng không thể vội vàng gán ghép bạn giai trong truyện vào một mẫu nào cụ thể. Nhưng những biểu hiện của cậu ta, không nhất thiết cậu ta đây là người viết, làm tớ tin rằng cậu ta đang chủ động chọn những màu sắc trông hoàn toàn không hợp lý ở phút hiện tại để vẽ tranh đời mình. Những màu sắc của sự cô độc, cô đơn, bị bỏ rơi, của thất vọng là những mầu sắc thường gắn liền với tình yêu. Trong bức tranh cuộc đời, dù thế nào đi nữa, tình yêu cũng chỉ nên làm nền chứ không làm tư tưởng chủ đạo của tổng thể được. Những mầu sắc buồn thương ảm đạm một khi đã được rắc bụi thời gian sẽ tạo ra sự tương phản tốt nhất cho những mầu đẹp và vui còn lại, những nét cọ đậm vừa phải vạch ra những cảm giác này nếu được sắp xếp tốt sẽ tạo ra giữa chúng những khoảng trống to lớn tô những màu sắc khác sáng đẹp hơn, và còn đẹp hơn nữa chính bởi chúng được bao bởi khung đen, nâu, xám.

Tớ phải nói thẳng là tớ thích sống cuộc sống vô tư gắn liền với những lo âu hiện tại hơn là sống cuộc sống lo xa mới nói ở trên. Cuộc sống bị điều phối bởi tương lai hàm chứa trong nó một yếu tố dối lừa, dù là cố tình hay vô ý. Điều này đặc biệt quan trọng khi xem xét cuộc sống dưới góc độ của sự giao tiếp xã hội, nơi cuộc sống của mỗi người cắt qua cuộc sống của một hay nhiều người khác, và mầu sắc của người này được lấy ra không chỉ từ hộp mầu của chính người ta mà còn của nhiều người khác. Những người sống trong tương lai thông thường giảm thiểu sự tiếp xúc của người ta với những mầu sắc khác, hoặc nếu phải làm thế cũng chỉ ở mức độ bề mặt và hời hợt, hoặc nếu không bề mặt và hời hợt thì có ít cơ hội là những mầu sắc khác sẽ được sử dụng để tô vẽ vào những khuôn chủ đạo mà thường chỉ là khung đen, nâu, xám. Chúng ta có thể là bất kỳ màu sắc tươi đẹp rực rỡ nào thì người ta cũng sẽ cố biến chúng ta thành một mầu sắc khác, người ta cũng sẽ có cách lừa dối chúng ta hành động dưới những mầu cờ sắc áo mà khi xem xét dưới lăng kính thời gian sẽ chỉ còn là những sắc mầu thứ cấp mà thôi. Khi chúng ta cùng vui với họ về thành công, hay thán phục sự thành đạt của họ, hay cười vào sự thất bại của họ chúng ta chẳng làm được chút mảy may xáo động nào-bức tranh của họ là tối cao, màu sắc của họ là tốt nhất—khó mà đoán định được những người này, cũng thật khó ghét bỏ hay yêu thương họ mãi. Mình sẽ cùng chờ xem nhé bạn Linh, con gái! Những ngày sau của tôi ở Libăng có nhiều chuyện chắc tôi sẽ nhớ rất lâu. Cùng với cô Yizmina và một nhóm bạn khác của cô, tôi đã tham gia cuộc biểu tình đầu tiên trong đời. Chúng tôi 4 người, Yizmina, tôi, Natalie và Zainab là hai bạn gái của Yizmina, cùng đi một taxi từ trong phố đến một sân vận động nơi có rất nhiều sinh viên đã tập trung. Nhiều người đeo băng đỏ trên đầu sẽ là những người lúc sau cầm biểu ngữ đi hàng đầu tiên. Chúng tôi khoảng một ngàn người từ từ đi ra khỏi sân vận động vừa đi vừa hô khẩu hiệu gì đó bằng tiếng ảrập. Không khí rất là náo nhiệt, các bạn con gái chạy tới lui giữa các hàng người phân phát những hòn đá to khoảng nửa nắm tay. Tôi cũng thủ lấy ba hòn cho vào túi áo khoác. Đi trong hàng chán rồi tôi chạy lên đi hẳn phía trước và quay ngược lại chụp ảnh các bạn thanh niên đang gào thét. Hai bên đường có rất nhiều cảnh sát mặc đồ dã chiến kiểu các đồng chí cơ động nhà ta, dưng mà mang súng rất dài. Không có nhiều người đi lại trên đường này. Một lúc thì Yizmina chạy lên đưa tôi một cái khăn rằn, kiểu ông Arafat hay đeo bảo tôi quàng xung quanh đầu bởi vì có nhiều người ở dưới tò mò hỏi tôi là ai, có tin tưởng được không? Chúng tôi đang kêu gọi gì đó cho mấy người Nhật Bản nên các bạn sinh viên tưởng tôi cũng là người Nhật Bản và sợ cảnh sát sẽ để ý đến tôi đầu tiên. Tôi quàng khăn vào đầu chỉ còn hở mắt và cũng bắt đầu hò hét những câu khẩu hiệu tiếng Arập mà tôi chẳng hiểu nghĩa là gì, thỉnh thoảng lại chêm vào mấy từ tiếng Nhật là tên của các đồng chí Nhật Bản kia. Chúng tôi tụ tập lại trước một toà nhà lớn kiểu Pháp xây bằng đá, trông từa tựa như Phủ Chủ Tịch ở Hà Nội nhưng nhỏ hơn nhiều. ở đấy các bạn sinh viên bắt đầu lôi chai xăng và cờ Israel ra và đốt. Sau đó các bạn cầm tay ôm

vai nhau nhảy vòng quanh lá cờ cháy vừa nhảy vừa hát các bài hát Nga như Kalinka và Kachiusa và nhiều bài khác chắc chắn là của Nga bởi tôi đều biết nhạc nhưng lời thì các bạn toàn hát bằng tiếng Arập. Hát chán các bạn công kênh một bạn khác lên, bạn này lại cầm ảnh một anh già người Nhật vẽ theo kiểu mặt Che Guevara nhưng mắt một mí nhìn vẫn rất rõ. Càng về sau thì các bạn càng điên lên, không chỉ công kênh một bạn mà bây giờ là ba bạn nữa rồi một bạn nữa rồi mới đến ảnh. Tiếng hò hét thật ầm ĩ, tôi khoái điên lên. Chừng một tiếng thì có tiếng hô xếp hàng. Chúng tôi cùng xếp hàng nhưng thực ra là chen chúc với nhau và đối mặt với các bạn cảnh sát. Các bạn đeo băng đỏ vẫn đứng trên hàng đầu tiên. Mấy tiếng hô to từ hàng đầu và đá bắt đầu được ném ra nhưng hình như cố tình ném vượt qua hàng rào cảnh sát. Ném xong thì các bạn hàng đầu chạy ngược trở lại sang hai bên về phía sau. Tôi cũng vội vàng giấu máy ảnh vào túi ngực rồi lôi củ đậu ra khỏi túi áo và ném rất mạnh, cũng vượt qua đầu hàng rào cảnh sát nhưng mà chưa chạy ngay, tôi ném hết cả ba hòn đá rồi mới đứng sang bên cho các bạn khác ném. Cảnh sát bắt đầu ào tới, nhưng hình như chỉ doạ thôi tại vì thấy mặt họ chẳng nghiêm trọng gì lắm. Cả lũ chúng tôi bắt đầu chạy như vịt ngược lại phía lúc trước đi đến, vừa chạy vừa hò hét ầm ầm cả tiếng Nhật tiếng Anh tiếng Pháp đủ thứ tiếng. Tôi không nhớ rõ lắm nhưng hình như tôi cũng vừa lôi tay cô Zainab vừa đ. này đ. nọ bọn cảnh sát một cách rất là thô lỗ. Lúc đấy khăn đã tuột đến cổ tôi cũng kệ m. nó, chạy như điên, vừa chạy vừa chửi như hàng cá. Hào hứng quá nên tôi chửi, bằng tiếng Việt tất nhiên, lung tung từ cảnh sát cho đến người Israel, người Libăng, Arập, chửi cả cô bạn tôi học cùng tôi lúc trước, chửi yêu luôn cả mấy cô sinh viên bạn tôi chạy chậm, cả lũ mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thở ra đằng mồm, vừa chửi bới vừa cười sằng sặc. Thật khoái hết chỗ nói. Buổi tối về phố tôi đi ăn cùng với một nhóm đông các bạn rồi chúng tôi đến một quán rượu tên là Nhà trọ bọn buôn lậu (Smugglers’ inn). ở đấy các bạn uống một vòng rượu bia lẫn lộn. Tôi thì không uống chỉ ngồi nhìn thấy có vài đôi yêu nhau mà một bên là Hồi Giáo và bên kia là Thiên chúa giáo. Tôi thấy cảnh đấy thì xúc động lắm nghĩ là người Libăng không mất nhiều thời gian để hoà giải với nhau, hoặc là họ cũng không có định kiến tôn giáo gì từ trước đó, rất khác so với ở Ai Cập. ở quán có một bạn gay làm bartender trông mặt xinh lắm, rất thích trèo lên bar để múa cho các bạn khác xem, mà múa hiện đại, rất đẹp. Tôi bá vai bá cổ với cả mấy chục người tối đấy. Sáng hôm sau anh Dũng đến đón tôi ở khách sạn và đưa tôi lên chỗ anh ở trên núi chơi. Chúng tôi đi xe buýt lên, đường núi đẹp như Tam Đảo nhưng có nhiều dân sống hai bên, đường xá và nhà cửa đều rất đẹp. Lên đến nơi đã gần 3h chiều, tôi thấy có chị vợ chưa cưới của anh Dũng là một chị người Hà Nội đang làm maid cho gia đình của công sứ Pháp và một vài người Việt Nam khác đã chờ sẵn. Mọi người nói chuyện rất vui vẻ, căn nhà nhỏ đầy tiếng cười đùa. Khoảng 5h trời đã tối, khí lạnh và mây mù tràn ra rất nhiều, mọi người dần dần ra về hết chỉ còn lại anh Dũng và chị vợ anh. Trong ánh đèn điện vàng tối anh Dũng câu trộm được nhờ nhà hàng xóm, chúng tôi cùng ăn cơm. Cơm có một vài cái nem nhỏ, rau cải luộc, thịt thủ lợn luộc chấm với muối tiêu. Tôi thì thủa bé không bao giờ ngửi được mùi thịt thủ lợn nhưng đêm đấy thì nhai rất ngon. Ăn xong chừng 8h chúng tôi cùng ra sân đứng nhìn sang bốn phía.

Cách đó khoảng 500m là trạm điện mà vài ngày trước máy bay của Israel đã phóng tên lửa xuống làm cháy. Anh Dũng kể là đang ăn cơm chiều thì nghe tiếng đề-pa rất lớn, chạy ra thì thấy bom đã bắn sập một phần trạm điện và đám cháy đã bắt đầu bốc lên. Khoảng 15 phút sau khi xe cứu hoả và cứu thương rú còi đến nơi thì máy bay Israel quay lại bắn bồi thêm hai nhát nữa vào đúng chỗ cũ. ở chỗ xa đấy lúc chiều tôi nhìn vẫn thấy còn ít khói bốc lên. Xung quanh vùng đồi núi và thung lũng rất vắng lặng, nhiệt độ rất thấp tương tự như Sapa những ngày sau Tết nhưng độ ẩm không cao thế. Không gian tĩnh lặng chỉ thỉnh thoảng có tiếng chim kêu hốt hoảng và bóng tối lờ mờ bao phủ cảnh vật xung quanh. Từ trong nhà có ánh đèn vàng le lói hắt ra và tiếng Thu Hiền ngâm thơ chắc từ băng cassette ở Việt Nam gửi sang. Khoảng 9h chúng tôi đã nói chuyện chán rồi, anh chị chủ nhà mời tôi đi ngủ. Phòng ngủ trước đây anh Dũng ở chung với mấy người bạn khác thực ra chỉ là nhà kho vật liệu trước đây nay có bạn tay phụ nữ vào làm cho gọn gàng và ấm cúng hẳn. Có hai chiếc giường một kê cách nhau một cái bàn, tôi và anh Dũng cùng nằm trên chiếc giường một kê cạnh cửa sổ còn chị vợ anh nằm giường bên. Chị bận làm việc nhà người ta chỉ thỉnh thoảng cuối tuần hay có việc quan trọng mới lên thăm anh trên này, dọn dẹp và khâu vá. Hai anh chị dự định cuối năm sẽ làm lễ cưới. Chúng tôi cứ nằm như thế nói chuyện rúc rích. Chị là người Hà Nội đi sang lao động đã được vài năm nên thích nói chuyện Hà Nội kem thế này ốc thế kia, hoa sữa me và sấu thế khác. Anh Dũng người trong Vinh chưa biết Hà Nội thật mặt mũi nó ra sao nhưng chiều chị nên không xen vào mấy câu cả. Tôi thì cũng đã hạ giọng, từ giọng lúc đầu là “phái bộ” của đảng và nhà nước đến uý lạo tinh thần, tỉ tê dặn dò và an ủi đến lúc này thì chỉ còn là một đứa em nằm nghe người lớn kể chuyện, tự thấy mình nhỏ bé và được chiều chuộng quá. Anh Dũng và chị vợ đã ngáy đều được một lúc lâu nhưng tiếng nhạc và thơ vẫn còn kéo dài thêm chốc lát nữa. Giường chật tôi nằm sát bên cửa sổ vẫn cảm thấy gió lạnh từ ngoài xuyên qua khe ở cửa, qua màn và chăn mỏng rồi qua áo khoác và áo len tôi còn mặc trên người. Tôi rúc đầu sâu hơn vào trong chăn, rồi nghĩ vơ vẩn về những ngày Hà Nội lên Hồ Tây chơi với các bạn và chụp ảnh chỗ mấy cây bằng lăng cuốn vào với nhau thành một cổng chào và hành lang rợp bóng hoa tím. Tiếng thở đều của mấy người bạn bên cạnh tuy chưa mấy quen biết nhưng làm tôi có cảm giác thật gần gũi biết bao. Ngày hôm sau tôi chào anh Dũng và vợ anh để về dưới phố. Anh chị đưa tôi về đến tận khách sạn, trên đường còn dừng xe để mua đủ thứ quà lặt vặt để gửi về Cairo. Tôi cũng mua lại tặng cho anh chị nhiều thứ nhỏ khác, nước mắm và bánh kẹo. Ngày hôm sau nữa là ngày tôi đã hẹn đi ăn trưa với người bạn học của tôi khi trước. Chúng tôi lại hẹn gặp nhau trước cổng trường AUB. Cô bạn đi cùng một người đàn ông nữa, không phải anh trai cô. Anh này trông mặt rất là vui và ngộ, dáng người hơi giống hình người trên sách Đời tỷ phú ngày xưa xuất bản ở Việt Nam, hay như ảnh gã Hy Lạp Onassis chồng sau của Jacqueline Kennedy, đầu trọc và thấp như thế, chỉ thiếu mỗi điếu cigar nữa. Anh là giáo sư triết học trường AUB và là thày dạy cô bạn tôi năm cuối đại học. Chúng tôi ba người đi bộ dọc phố rồi cắt qua vườn nhà người ta xuống dưới một quán ăn sát bờ biển, trời nắng đẹp và biển xanh--đẹp quá lắm. Rồi chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện, tôi nói là chủ yếu, ngồi kể chuyện cười và nói những

câu hài hước vặt vãnh đến mỏi cả miệng. Anh bạn kia chắc chắn là biết tôi thích bồ anh, lúc cô đi tè tôi và anh nháy mắt với nhau cười thân thiện. Chỉ thế thôi là đủ để tôi quý anh. Lúc nắng lên quá đầu hai người đối diện tôi đeo kính râm che ánh mặt trời vừa hút chung một điếu sisha là ống điếu bằng thuỷ tinh trong đựng nước kiểu thuốc lào Arập. Quay lưng về phía biển, không nhìn thấy mắt họ, tôi cảm thấy mình như bị cáo trong một phiên toà. Lúc ăn xong, tôi co cả hai chân lên một chiếc ghế khác và ngửa người ra, sau đó tôi cứ thao thao bất tuyệt. Chỉ thỉnh thoảng mới dừng lại để châm một điếu thuốc khác. Tôi cứ kể hết chuyện cười này đến chuyện cười khác, rồi cứ một chi tiết nhỏ này lại gợi ra một câu chuyện hay một câu đùa khác quái đản hơn. Tôi như quyển tuyển tập những câu pha trò tiếng Anh, cứ nhảy từ bà đẻ sang tóc vàng sang bác sĩ nội ngoại khoa và trẻ con mới lớn, rồi ô tô xe máy lính Israel các pharaoh bọn buôn hàng quốc cấm và các nhà ngoại giao Ai cập. Tất nhiên các bạn đều cười, cười sằng sặc chẳng hết, tôi cứ làm anh hề pha trò nhưng trong bụng thì quan sát các bạn. Mà quan sát để làm cái quái gì cơ chứ nhỉ, hì hì. Tôi và Salẹh bắt tay nhau rất chặt, hình như tôi còn bắt tay anh chặt quá làm anh đau. Tôi hy vọng anh không nghĩ tôi cố tình làm thế, hoặc giả anh ra vẻ đau để cô bạn của chúng tôi nghĩ là tôi cố tình làm thế, hoặc giả trong tiềm thức tôi cố tình bóp một nhát thật mạnh mà tôi không biết dưng đại loại lúc ba chúng tôi chia tay rất là buồn cười. Tôi và cô bạn ôm nhau lần nữa, tôi chỉ bảo là “thôi 10 tháng rồi, rất vui là gặp lại đồng chí, không hiểu lần sau sẽ là ở đâu” Cô vẫn cười vui vẻ, lần này là vì cô vui thật. Tôi đoán là cô vẫn quý tôi, mà nếu không thì cũng tự hào vì cách tôi cư xử lắm. Đi vòng trái đất đến Beirut mà kể truyện cười cho cô nghe..còn gì hơn nữa? Tôi đi qua lối cổng nhỏ chạm khắc cầu kỳ, trước khi qua cũng ngoái đầu lại nhìn một cái. Tôi đi rồi thì hai bạn kia đi đâu nhỉ? Chắc là kiếm một quán càphê nào đó ngồi và nói chuyện về tôi. Còn tôi thì chuẩn bị đi chào các bạn sinh viên bạo động. Tối ngày hôm sau tôi sẽ đi về lại Cairo. Đêm đó các bạn sinh viên đưa tôi đến một sàn nhảy ở cách Beirut phải đến 20km. Sàn nhảy hiện đại lắm, bên ngoài trông như cái pháo đài, mà ở giữa một vùng đồng hoang bên đường cái ít xe cộ qua lại. Bên ngoài chẳng nghe thấy cái quái gì nhưng bên trong thì nhạc điếc tai, người nhiều như nêm cối. Khoảng nửa tiếng tôi choáng váng muốn về nhưng chỉ còn tìm thấy cô Natalie đảng viên đảng cộng sản và cô bạn Zainab người Hồi Shi’te đang la đà vì say rượu cạnh nhau. Thơm mỗi cô năm cái vào hai bên má đúng phong tục tình đoàn kết quốc tế cao cả tôi chạy vọt ra ngoài để thoát khỏi tiếng nhạc đinh tai nhức óc. Tôi chờ taxi bên cạnh đường tối om om đến nửa tiếng chẳng gọi được đứa nào đành quay lại bãi để xe thì may quá thấy một lũ các bác trung niên đang lảo đảo đi ra, tôi lại gần ngỏ ý xin đi nhờ về Beirut thì các bác ngoắc tay cho lên luôn. Xe con chở 5 người to đùng nên rất chật mà toàn mùi rượu. Chúng tôi phóng như điên một cách ngoằn ngèo (chữ ngièo viết thế nào hả mọi người?) ở ngoại ô Beirut đã say ngủ rồi chốc lát đã vào đến Beirut vẫn còn sáng ánh đèn. Biết tôi là người Việt Nam, mấy bác trong xe, trạc trên 40 cả tức là thế hệ lớn lên và già đi trong

nội chiến có người là giáo sư dạy Y ở đại học AUB, khoái trí lắm và rủ tôi đi đến một quán rượu của một người Marxist. Ông già này là một tay chơi rất mê phe xã hội chủ nghĩa và cũng là đảng viên cộng sản nhưng kiểu tư sản, như phần nhiều những anh cộng sản Libăng khác tôi đã gặp đi xe BMW và hút cigar Cuba. Quán rượu của ông được trang trí bằng cờ Trung Quốc, Liên Xô, Cu Ba, và ảnh của Che, Stalin, Lenin, Mao, Fidel. Trước khi vào các bác già xui tôi nói với ông già là tôi là cháu ngoại của Hồ Chí Minh và vào quán là phải đến hôn ảnh của Stalin ngay lập tức. Tôi lúc đó có tí rượu vào rồi nên chẳng nề hà, vào hôn hết ảnh Staline rồi lại ảnh Mao và Lenin. Hôn luôn cả ảnh cô du kích Cu ba vai đeo súng nhưng lại để ngực trần vì đang cho con bú. Ông già lần đầu tiên gặp cháu ngoại Hồ Chí Minh nên khoái lắm, ôm hôn tôi rất chặt và bắt tôi chụp ảnh với ông. Ông còn lôi ra một đống poster các vị lão thành cách mạng trong các tư thế đời thường bắt tôi lấy cái nào tuỳ thích. Tôi chỉ lấy một chiếc cô du kích Cuba ngực trần còn các đồng chí đi cùng tôi thì xâu xé ảnh Lenin nằm trên divang cho Krupskaia đấm lưng và ảnh Mao đi bơi trên sông Trường Giang. Chúng tôi trả tiền đồ uống đàng hoàng, tôi hứa sẽ gửi cho ông già tượng và ảnh của Hồ Chí Minh (sau đó đã gửi từ Cairo). Mấy người bạn nọ chở tôi về khách sạn lúc đã gần 4h sáng, tôi ngật ngưỡng lảo đảo đi lên tầng 3. Đêm cuối của tôi ở Beirut kéo dài đến tận 11h sáng hôm sau. Lúc dậy tôi mang phim đi rửa ảnh, chọn ra mấy bức ảnh của cô bạn và anh bồ cô cho vào phong bì ghi tên cô rồi mang thả vào trong thùng thư của AUB đặt ở cổng. Tôi ăn sáng rồi lại ăn trưa rồi dành cả buổi chiều lang thang mua bán trong những khu phố náo nhiệt ở trên đồi. Gần 6h chiều tôi đi ra sân bay. Beirut đã đón tôi bằng một cơn mưa đến giờ lại tiễn tôi bằng một cơn mưa nữa. Tôi tự nhủ thế này là thừa mưa cho những tháng sắp tới ở Cairo. Chiếc taxi trắng lầm lũi đi trong mưa, trong những vệt đèn nhạt nhoà của đèn đường và bóng cây của trường đại học Mỹ. Trong mưa tôi thoáng nhìn thấy chỗ chiều hôm trước tôi và bạn kia và anh nọ chia tay nhau. Nếu dấu chân tôi có còn trên cỏ ấy, thì cơn mưa này chắc cũng sẽ gột tan. Vài tiếng sau khi đã ở Cairo lạnh lẽo và khô khan, anh thấy mình đang ngồi bệt trên sàn đá hoa bẩn thỉu chờ người cảnh sát xuất nhập cảnh kiểm tra cái visa anh đã lấy mấy ngày trước đó ở Beirut. Một tuần trước đó, anh gần như là đã bị trục xuất khỏi Ai Cập, việc anh có visa để quay lại làm những người biên phòng phải tò mò. Anh đi về nhà mình, chui vào trong cái thang máy bằng gỗ cũ kỹ và cổ quái, chào hỏi sơ sài người bạn Afghan ở cùng nhà, đưa bạn thanh chocolate làm quà và chui vào giường. Chỉ vài tiếng trước thôi tuy trong lòng xa xôi nhưng tính khoảng cách thì anh vẫn còn ở gần cô. Lúc này nằm trong chăn ở Cairo nơi thời tiết và con người đều khác anh thấy mình ở xa cô thật là xa lắm. Những ngày sau việc đi làm bận rộn làm anh dần nguôi ngoai nỗi nhớ Beirut và cô. Những bài viết, những con số, những buổi gặp gỡ và ăn uống làm anh cũng quên đi ánh mắt cô nhìn. Nhưng những kỷ niệm Libăng vẫn còn trong góc sâu nào đó. Anh

chỉ nhớ đến chúng trước khi lên giường hay khi vừa ngủ dậy, những khi cảm giác về thời gian không được hoàn toàn chính xác. Anh biết là anh vẫn còn yêu thương cô lắm, mà cũng không phải là yêu thương cô bằng xương bằng thịt. Anh yêu thương ý tưởng về cô, những gì cao hơn cô rất nhiều mà cô là đại diện, sự thông minh của cô vượt trên lời nói và chữ viết, sự hài hước của cô vượt qua khả năng biểu cảm của nụ cười. Anh yêu thương cô như yêu những điều tốt đẹp ở trong anh hoặc anh còn phải phấn đấu rất nhiều để đạt tới. Chẳng bao lâu sau anh bắt đầu ý thức được việc anh đã bị từ chối. Việc này làm anh cảm thấy nhớ nhà ở Việt Nam, nhớ các bạn bè yêu thương anh bao dung và độ lượng. Anh quyết định đã đến lúc phải về nhà, hy vọng rằng việc ở gần với gốc rễ của anh sẽ làm anh bình tĩnh lại và tự tin hơn nữa. Bỏ lại sau lưng một công việc yêu thích, một cơ hội việc làm đầy uy tín, một ngày nọ sau khi đã ăn một bữa ăn chia tay với nhiều người bạn Ai Cập mới quen nhưng rất thân thiết, anh ra sân bay để trở về nhà. Anh đã viết cho cô một email thế này: “Cách đây 10 tháng khi quyết định sẽ đi Ai Cập, tôi có hai dự định lớn, thứ nhất là tìm được một việc làm về tư nhân hoá của Ai Cập và thứ hai là đến thăm em. Nay cả hai dự định trên tôi đều đã hoàn thành, tôi nghĩ đã đến lúc tôi phải về nhà. Tôi xin lỗi vì sự xuất hiện đường đột của tôi ở Beirut. Tôi cũng hiểu rằng việc tôi đến Beirut có thể làm em hiểu sang những chiều hướng khác không hoàn toàn là dự định của tôi. Bỏ qua cho tôi nhé hai năm nay tôi đã nghĩ về em nhiều quá, để quên em tôi không thể làm khác được. Tình cảm của tôi cho em không phải là một tình cảm bất chấp những quy tắc xã hội và giao tiếp thông thường. Dù cho nó có phải là tình yêu hay không, trước hết nó là sự tôn trọng em hết lòng và một mong muốn rằng em hạnh phúc. Tôi mong em hiểu rằng tôi mà em biết, rụt rè và lúng túng, không phải là tôi thật. Tôi ngập ngừng và lúng búng khi nói chuyện với em, hay nói những điều vô nghĩa khi ở bên cạnh em chỉ bởi vì tôi cảm thấy em tốt hơn tôi nhiều quá. Tôi rất buồn vì tôi sẽ chẳng bao giờ có ý nghĩa gì với em hơn là một người bạn bình thường. Mong ước của tôi được vượt lên cao hơn chính mình, với em là mục đích, chắc sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực. Tất nhiên điều này làm tôi cảm thấy mình kém cỏi nhiều quá. Để làm đầy lại sự tự tin của mình chắc tôi sẽ đi về và cố gắng làm một điều phi thường gì đó. Tôi nghĩ là trước tháng 6 năm tới tôi sẽ đi Nepal và trèo lên Camp 1 của đỉnh Everest. Nếu làm vậy, khi đó tôi sẽ nghĩ đến em và gửi bưu thiếp để chúc em vui. Tôi cảm ơn em đã cho tôi gặp bạn trai em. Tôi tin rằng anh ấy hợp với em hơn tôi rất nhiều. Tôi mong em và anh ấy hạnh phúc. Tôi biết rồi mình sẽ còn gặp nhau, chắc sẽ ở một hội nghị nào đấy. Từ giờ đến khi đó,

tôi hứa sẽ nghĩ nhiều về em. ” *** Thư điên của tôi gửi đi đã hơn hai năm rồi mà chẳng bao giờ có hồi âm. Cô bạn đã quyết định dứt khoát cắt bỏ hoàn toàn mối liên hệ và tình bạn của chúng tôi. Thỉnh thoảng tôi vẫn viết thư cho cô, dù biết sẽ không bao giờ nhận được trả lời. Tôi vẫn gửi cho cô thiệp mừng sinh nhật và giáng sinh, đôi khi tôi còn viết cho cô những bức thư đầy tràn những lời lẽ nặng nề của lòng tự ái bị tổn thương. Tất cả đều được gửi đi không có một câu hồi đáp. Từ đó đến nay tôi đã đi lang thang thêm nhiều nơi, đã làm nhiều việc mà nếu đánh giá theo những tiêu chuẩn nhất định thì cũng có thể tạm được coi là những việc phi thường. Tuy vậy nhưng dự định về Camp 1 Everest vẫn chưa thành hiện thực. Có lúc tôi đã ở gần vài tích tắc với quyết định mua vé máy bay từ Bangkok đi Kathmandu ở Nepal hay sau này từ Bắc Kinh đi Tây Tạng. Tôi không quyết định chỉ vì biết nỗ lực này của tôi sẽ lại chỉ là một sự hao tâm tổn sức như những bức thư thỉnh thoảng tôi vẫn gửi cho cô. Hai năm trôi qua tôi bây giờ đã bình tĩnh lại. Tình cảm với cô bây giờ chỉ là một kỷ niệm đẹp, một ngọn lửa của quá khứ dù tôi có cố gắng khơi gợi cũng khó có thể làm bùng cháy lại lên. Sự bình tĩnh làm tôi nghĩ ra được nhiều điều mà khi trước lúc tôi quá bướng bỉnh và mờ mắt theo đuổi một mơ ước ít hiện thực tôi không nhận ra. Tôi nhận ra rằng có nhiều lý do để tin rằng tôi đã là nạn nhân của một ảo tưởng phức tạp. Khi đó cô đơn, mệt mỏi và căng thẳng, trong tiềm thức có lẽ tôi đã tưởng tượng ra nhiều điều không có thật. Đơn cử là việc tôi đã tin, từ một câu nói đùa, rằng người bạn đến từ đất nước của tuyết tùng kia ít ra cũng quan tâm đến tôi. Niềm tin này, nếu đúng như tôi giờ đây đang tự nhủ là vô căn cứ, đã dẫn đến việc tôi đi những nước cờ ngớ ngẩn, làm mất thời gian và gây ra những điều phiền phức cho không chỉ riêng cô. Nếu ai đã xem phim The sixth sense chắc hiểu được những gì tôi đang nói, rằng tôi đã chỉ tin những điều tôi muốn tin. Đây chính là sức mạnh không thể cưỡng lại được của trí tưởng tượng. Với thời gian, những phiền phức này, tuy thế lại sẽ mất đi sự nhăn nhó của chúng. Tương tự như lối nói phúng dụ của bạn Dũng ở trên khi so sánh cuộc đời với một bức tranh, nếu như tôi không tưởng tượng ra về tình yêu và ép mình vào một khung cảm tính tương đồng với tưởng tượng đó, tôi đã chẳng bao giờ đến Ai Cập và Libăng, và cũng đã chẳng bao giờ mất công đi đến những nơi khác nữa. Những kinh nghiệm phong phú này đã làm cuộc sống của tôi giầu có thêm nhiều. Chúng chính là khoảng trống trong những khuôn màu mà có lẽ bạn Dũng đã nói đến ở trên, loại trừ hàm ý có phần hơi tiêu cực về động cơ sống của tôi mà bạn cũng đã nhắc đến. Cũng với thời gian, nếu không phải vài ba năm thì là vài chục năm nữa, tôi sẽ nhìn lại cuộc sống của mình, và người khác cũng sẽ nhìn vào cuộc sống của tôi và sẽ đồng ý

rằng tầm quan trọng của những khuôn mầu phụ thuộc nhiều hơn vào khoảng trống mà nó quy định chứ không phải là ngược lại. Thời gian tôi sống và làm việc ở Cairo và việc tôi một ngày nào đó sẽ trèo lên Camp 1 Everest có thể chỉ là hệ quả của một lỗi lầm suy luận, về một vấn đề hết sức mong manh và tế nhị như tình yêu, nhưng nếu không có lỗi lầm này thì trong bức tranh cuộc đời tôi đã không có những khoảng trống đầy ý nghĩa. Nếu như có một lời khuyên cho mọi người thì đó sẽ là: Hãy tưởng tượng! Dù bạn có tưởng tượng sai đến đâu, và dù ảnh hưởng của việc tưởng tượng sai đến hành động của bạn nghiêm trọng như thế nào thì những kinh nghiệm mà nó mang lại cho bạn cũng sẽ hết sức quý giá. Chẳng có thời gian nào là thời gian phí phạm cả. Bạn sẽ luôn trải nghiệm và học tập từ những trải nghiệm của mình, dù bạn có ý thức được điều này hay không. Những kiến thức mà tôi thu thập được tôi không chỉ giữ riêng cho tôi dù tôi có muốn làm thế. Tôi hôm nay là tôi tổng hoà của những kinh nghiệm tôi đã sống qua, và thông qua tôi những kinh nghiệm này sẽ thay đổi cuộc đời những người mà hàng ngày tôi gặp, và vì tôi là người lạc quan và hay mong muốn những điều đẹp đẽ cho mọi người, tôi tin rằng ảnh hưởng của sự thay đổi này lên những người tôi gặp hàng ngày sẽ là một ảnh hưởng tốt. Dù tôi có tưởng tượng sai lầm đi nữa thì tôi biết trên những nẻo đường tôi đã đi qua tôi có để lại nhiều điều tốt đẹp. Tôi biết tôi sẽ còn ở cạnh anh Dũng và vợ anh ở Libăng trong mơ ước của họ về một đứa con trai thông minh, dám nghĩ dám làm, ưa phiêu lưu và ham hiểu biết. Tôi cũng vẫn thường xuyên nhận được thư từ của những người bạn Libăng và Ai Cập, những Yizmina, Natalie và Zainab; chúng tôi thỉnh thoảng vẫn nói chuyện về những kỷ niệm ngắn ngủi nhưng sâu sắc là kết quả của thời gian tôi ở Trung Đông. Tình bạn của tôi với họ là thật giống như chiếc khăn Arafat tôi đã đeo và những hòn đá tôi đã ném vượt qua đầu những người cảnh sát Libăng mặc dù tất cả những điều này đều là kết quả của một liên tưởng có lẽ sai lầm của tôi đêm đó khi ngồi cạnh cô bạn tôi trên divăng trong quán rượu tầng hầm của sinh viên. Bạn Linh và bạn Dũng, hai nhân vật mà tôi tưởng tượng ra, hình như đã gửi mật thư cho nhau và trao đổi địa chỉ. Họ có lẽ cũng sẽ gặp nhau và tôi mong họ sẽ iêu nhau. Nếu như điều này xảy ra thì dù muốn hay không họ cũng sẽ không thể nào quên được tôi vì chính tôi, với những tự sự về ước mơ và tình yêu của mình, đã cho họ cơ hội gặp gỡ và yêu quý nhau. Những gì tôi viết ra ở đây, một khi đã được gửi vào không gian mạng bao la và vô hạn, chắc chắn sẽ còn tồn tại mãi mãi, ở một góc ảo nào đó. Tôi hy vọng là nó sẽ thay đổi cuộc sống của những người đọc nó theo hướng tích cực và tốt đẹp hơn. Giống như Icarus, tôi đã thử bay lên bằng đôi cánh làm bằng lông vũ gắn sáp ong và sức nóng của mặt trời cũng đã làm tôi rơi xuống. Tuy vậy, không giống với Icarus, tôi không mất mình trong cú ngã đó. Hôm nay tôi vẫn ngồi đây không ngừng tính toán xem đôi cánh tiếp theo tôi sẽ thử đeo vào để bay là đôi cánh làm bằng chất liệu gì, và

với nó tôi sẽ vỗ cánh ra sao. Cuộc sống thực sự chỉ là một tập hợp những phép thử-sai liên tục. Tôi hy vọng một ngày nào đó tôi cũng sẽ bay lên. Tuy vậy ý nghĩ rằng tôi sẽ chẳng thể nào bay lên được không làm tôi chán nản. Sẽ có nhiều người khác sử dụng kết quả của những thí nghiệm của tôi và một ngày đẹp trời một vài người trong số họ chắc chắn sẽ bay được, thật cao và thật xa. Tôi sẽ dừng câu chuyện của mình ở đây, một tự sự không hoàn toàn là tự sự. Đồng hồ báo thức đã kêu vang, tôi giật mình tỉnh dậy và nhận ra là trong giấc ngủ tôi đã có một giấc mơ rất rõ ràng về những vùng đất ở xa. Nhưng thôi, ngoài kia là cuộc đời thực với những quan tâm rất thật. Đã đến lúc tôi ra khỏi giường và hoà mình vào thế giới bên ngoài đó. Còn có rất nhiều việc phải làm.

Related Documents

Truyet Tung Oi
November 2019 5
Tung
November 2019 7
Oi
May 2020 13
Oi
October 2019 35
Oi Wovenhand
June 2020 9
Oi!giaothongvn
July 2020 9