Tho-vo-de

  • November 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Tho-vo-de as PDF for free.

More details

  • Words: 164,349
  • Pages: 417
Ánh chiều loang lổ... Ánh chiều loang lổ vàng trên thảm cả bóng ngày qua đè nặng cây đa nước rầu rầu kể lại tháng năm xa... người khách đứng trầm ngâm nhìn bóng đổ: “dù cuộc sống có muôn vàn đau khổ Đừng than van hay khao khát làm chi tất cả rồi lặng lẽ sẽ qua đi màu nắng đã lụi dần trên nấm mộ”. (1960)

anh là một... anh là một sinh viên hà nội Đêm trừ tịch anh ngồi đun suốt tối chiếc bát men vỡ hỏng thay nồi mắt nhấp nhiu, anh ngoáy nếm liên hồi những mẩu sắn chặt bỏ đi vì thối vì lợn không nhá nổi, anh ơi! (1969) vÔ ĐỀ 13 anh có biết... anh có biết giữa lao tù cay đắng rét không quần, không áo đập hàm răng Đói xương sườn, xương sống chồi căng Ốm không thuốc thân tàn xem khó thắng

tôi vẫn có những đêm dài thức trắng tạo vần thơ câm lặng, anh ơi! (1966) anh gặp em... anh gặp em trong bốn bức rào dầy má gầy, mắt trũng phổi em lao, chân em phù thũng gió lạnh từng cơn rú qua thung lũng em ngồi run, ôm ngực còm nhom y sĩ công an nhìn em, thôi nạt nộ om sòm em ngồi lọt thỏm giữa bọn người vàng bủng co ro những tiếng ho những cục đờm mầu mớ tóc rối đầu em rủ xuống mình em, teo nhỏ, lõa lồ... em có gì đâu mà em xấu hổ! em là đau khổ hiện thân ngấn lệ đêm qua còn dấu hoen nhòa trên gò má tái trong lòng anh bấy nay xám lại vÔ ĐỀ 9 nhìn em, lệ muốn chảy dài anh nắm chặt bàn tay em hơi rụt lại em nhìn anh, mắt đen, tròn, trẻ dại nước da xanh mái thoáng ửng mầu. trong quãng đời tù phiêu dạt bấy lâu

Đau ốm một mình tội thân em quá! chắc đã nhiều đêm em khóc như đêm qua khóc mẹ, khóc nhà, khóc buổi rời miền nam thơ ấu chân trời hun hút nay đâu? rồi đây, khi nằm dưới đất sâu em sẽ hiểu một điều là đời em ở trên mặt đất Đất nước đè em nặng chĩu hơn nhiều! nhưng nghĩ lúc thân mình bó trong manh chiếu anh biết lòng em kinh hãi hơn ai khi gió bấc ào qua vách ải những manh áo vải tả tơi vật vã vào thịt da... em có lạnh lắm không? mưa gió mênh mông thung lũng sũng nước bùn bệnh xá mối đùn, ẩm mốc những khuôn mặt xanh vàng gầy rộc nhìn nhau, đờ đẫn không lời nhút nhát em ho từng miếng phổi tung rời bọt sùi, đở thắm! em chắc oán đời em nhiều lắm oán con tàu tập kết ba lan

trên sóng năm nào Đảo chao Đưa em rời miền nam chói nắng... *** sớm qua ngồi, tay em anh nắm muốn truyền cho nhau chút tình lửa ấm mặc bao ngăn cấm đê hèn sáng nay em không trống không kèn giã từ cuộc sống xác em rấp trên đồi cao gió lộng hồn anh trống rỗng, tả tơi... (1965) 26 vÔ ĐỀ bao nhiêu rực rỡ... bao nhiêu rực rỡ ngày hôm trước trời đất hôm nay mất cả rồi! khóm cả vật vờ lay bóng nước buồn thiu trơ trọi phía đồi xa... lối xóm bơ phờ phơi xác nắng Đi về thơ thẩn một mình ta vẫn biết chờ trông là chuyện hão màu xanh năm tháng có là bao! mỏi mòn thương nhớ đời trong mộng mộng tới hoàng hôn mộng cũng tàn! cơm áo đời ta là cái nạn hùng tâm thôi có cũng thành không! bóng tối đưa chiều qua xứ bạn

trời xa thương nhớ gọi, mênh mông... (1964) bác hồ rồi lại... bác hồ rồi lại bác tôn! cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng nước da hai bác màu hồng nước da các cháu nhi đồng màu xanh giữa hai cái mặt bành bành những khăn quàng đở bay quanh cổ cò! (1970) vÔ ĐỀ 45 bà kia... bà kia tuổi sáu mươi rồi mà sao không được phép ngồi bán khoai? cụ kia tuổi bảy mươi hai mà sao hội họp mệt nhoài không tha? tự do tôi quý thiết tha mà sao tù ngục hết ra lại vào? anh kia đi lính thưở nào tội chi cảnh sát cũng vào bắt đi? em kia học chửa biết chi mà sao sớm vội bỏ đi công trường bạn tôi học vấn khác thường mà sao vất vưởng cuốc đường ốm ho cậu kia con cụ đồ nho mà sao móc túi, mặt tro trát vào?

cô kia như giải lụa đào mà sao bát phở vài hào cũng trao? nguyên nhân chẳng phải sâu đào thấy ngay thủ phạm: vàng sao lá cờ! (1961)

bao thương tiếc... bao thương tiếc cảnh bình minh thức dậy vườn đầy chim, trời xanh ngát, mát tươi gió động hàng tre và nắng như cười bàn một đĩa ngô vàng bung béo ngậy mẹ chẳng biết tự bao giờ đặt đấy! tôi ngồi ăn quên mất cả câu mời thầy ngoài sân đương đứng gẩy rơm phơi mẹ trong nhà ru cháu nhỏ à ơi... (1965)

bước theo nỗi buồn... bước theo nỗi buồn, vĩnh biệt niềm vui hành trang có mồ hôi đất bụi chút tiền vốn — thơ và mơ — nhẵn túi xó toa đen thôi chịu khó quen mùi chuyến xe đời lửa đở táp qua mui Đâu vũ bão xoay vần sông với núi? vÔ ĐỀ 33 bom đạn tầng cao... bom đạn tầng cao chưa đủ!

tên lửa tầm xa chưa đủ! Đất này cần quần nát bởi xe tăng mới có thể san bằng khổ nhục mới có thể đào lên khôi phục giá trị con người, phong tục, thi ca dù xích tăng nhằm nghiền nát đời ta dù bước tận cùng cộng sản thủ tiêu ta Ôi, những binh đoàn trọng pháo chiến xa tiếng gầm rú của ngươi sẽ làm ta hả dạ! (1972) bồi bút các loại bồi đều vô cớ bị ô danh bởi ông bạn cùng ngành có học có hành hẳn hoi là bồi bút! Ông bạn này chỉ biết ăn biết hút biết lách chui vào mọi khách sạn no say và to mồm hô vạn tuế: hôm nay! Để lương tâm không vò xé gắt gay Ông cố gượng đeo vào đôi kính đở! nhưng buồn thay từ nhỏ không biết làm gì bằng hai bàn tay việc sửa sang khách sạn hàng ngày Ông đành phải vục đầu thè luỡi liếm đệm, liếm giường, tầng trên, tầng dưới cho sạch như chùi mọi dấu vết của đêm! (có lẽ không cần phải giải thích thêm là nhờ đôi kính đở lọc lừa

Ông mới không nôn bừa ra khách sạn!) (1973)

biết đến bao giờ... biết đến bao giờ con trở lại gia đình sum họp bữa cơm rau Được thấy được nhìn trong hốc mắt thầy gầy mẹ yếu một niềm vui! con biết đời thầy đời mẹ khổ vÔ ĐỀ 41 thân già cam vất vả ngày đêm nhưng làm sao, biết làm sao được khi chính đời con cũng dập vùi! trong những đêm dài thao thức tỉnh con nằm cho tất cả buồn đau vò xé lòng con chừng đứt đoạn con sợ rồi đây nhỡ tuổi già! Ôi, trán mồ hôi còn vã lạnh sau phút tàn canh chợp mắt nằm con trót mơ về căn gác nhỏ bên thầy bên mẹ sống thương yêu! nhưng làm sao, biết làm sao được khi lũ tàn hung nắm cuộc đời! con vẫn mơ về căn gác nhỏ bên thầy, bên mẹ, bữa cơm rau! (1966)

biết đến bao giờ... biết đến bao giờ tôi được gặp người trong huyễn tưởng bao năm? biết đến bao giờ đi được khắp chân trời ước mộng xa xăm? biết đến bao giờ vần thơ chôn rấp lồng lộng bay, lay thức nhân tâm? trời, bao giờ rút được lưỡi dao găm hai lá phổi thần tự do cắm ngập! (1970) biển đã mênh mông... biển đã mênh mông, sông đã dài người nhỏ bé lại còn phóng đại gọi sông biển là trường giang Đại hải! to, to thêm, nhỏ, càng nhỏ lại Ôi những vùng tim óc bán khai sóng dữ tha hồ man dại! (1972) bác hồ tới thăm... bác hồ tới thăm thiếu nhi bác cười bác hỏi chi li ngọn ngành việc ăn ở, việc học hành lao động bác dặn chấp hành tốt, nhanh kẹo bánh bác hứa để dành chủ nghĩa xã hội hoàn thành sẽ cho! thiếu nhi khăn đở cổ cò vỗ tay xuông chúc bác hồ sống lâu...

(1967) có người me... có người mẹ gầy nhom mắt lóa gần lòa có người cha quá già, quá yếu! có người con bất hiếu là tôi hết tù lại tội bệnh ốm không nuôi nổi thân mình... Ôi người mẹ nặng tình yêu dấu! Ôi người cha hiểu thấu lòng con! còn hay mất? ngày con đầy bụi đất trở về căn gác lá rụng xào xạc canh khuya... bóng cha già gầy guộc đứng kia phất trần nhẹ đưa, lặng lẽ trên bìa sách bụi bàn con bóng mẹ già sầu muộn héo hon quờ tay rờ mó nạm tóc củ gừng đánh gió lưng con chiều âm thầm lạnh tắt trên non... không còn được nữa những tình xưa thương mến vô vàn! gió núi mưa ngàn, lạnh buốt rau rừng ngoạm nuốt thân trâu kiếp sống về đâu? bốn phía sậy lau một màu hoang xám Đi về những đám tang câm trong ly tán thương tâm

chết chóc âm thầm con vẫn nuôi mầm mơ ước xoay vần thưở trước xa xăm! mịt mù trời đất tối tăm mẹ thầy sống được bao năm trên đời! con sợ nỗi đời đau đớn ngày về, rợn buốt tim gan cuộc sống hoàn toàn vô nghĩa niềm lo rỉa rói tâm tình bạo lực hiện nguyên hình chó đẻ! ai thương người trai trẻ cùm gông nứt nẻ da xương mà vẫn mơ màng ảo tưởng cho đời bận vướng con tim Đói lả sà lim vẫn mộng làm chim vỗ cánh vượt trời xanh tới xứ yên lành! xương da mong manh Đói rét tranh giành xác ốm Đời như đốm lửa lụi tàn muỗi rệp từng đàn, cắn xé ta thương tiếc cuộc đời, tuổi trẻ ta lại thương người mẹ thương yêu người cha sớm chiều héo hắt xuân về nước mắt chan chan! bao giờ chết nỗi ly tan bao giờ dòng lệ khổ oan mới ngừng?

xuân này đau đớn vô chừng thân còn chôn sống xó rừng đắng cay bao nhiêu thương nhớ mẹ thầy con xin hẹn tới một ngày xuân vui rưng rưng hai giọt ngậm ngùi con xin trời Đất niềm vui cuối cùng! (1968) cuộc đời tôi... cuộc đời tôi có gì đâu, tính thử những năm tù, những năm ốm, còn dư là những năm da tái nhợt, lừ đừ trong chất độc giận buồn đau cố khử Ôi, tất cả đều thành quá khứ thực tới đâu rồi cũng hóa hư hỡi mong chờ buồn giận ưu tư sao còn tới lòng ta nhiễu sự? (1971) 6 vÔ ĐỀ cuộc cờ nhân loại... cuộc cờ nhân loại tỉnh hay mê? tướng sĩ trong cung một lũ hề quanh quẩn, quẩn quanh vài bốn nước dọc ngang, ngang dọc mấy thằng xe. lũ pháo rú gầm trong sát hủy ngựa voi loài vật cũng ra uy. Đáng thương chỉ có dăm thằng tốt bị thúc qua sông mấy kẻ về!

thua được xóa bầy bao thế hệ cuộc cờ nhân loại tỉnh hay mê? (1975) cuộc chiến đấu này... cuộc chiến đấu này chưa phân thắng phụ ta vẫn còn đây và sắt thép còn kia chết chóc thầm câm, cốt nhục chia lìa ta vẫn sống và không hề lẫn lú ta muốn nói với loài dã thú khúc khải hoàn ta sẽ hát thiên thu! (1975) cung đàn bịp... cung đàn bịp bợm năm xưa giờ nghe lạc lõng nhuốc nhơ, lỗi thời lừa dân mấy chục năm trời dã tâm quỷ sứ đã phơi rõ ràng ngốc ngu chúng vẫn mơ màng mở nguyên đĩa cũ tiếng vang đã rè Điếc tai nhức óc chán phè lắm người đập cả đài nghe xuống đường Để rồi rời bỏ gia hương sống đời tù ngục mục xương trên rừng! (1968) cửa đời muôn ngả... cửa đời muôn ngả chẹn lao tù chêm thêm then sao quên những chân trời sai lỗi hẹn

cho tâm tình sâu lắng dứt cơn hen! trong màu tối đen màu của chờ mong và ước mơ bỏ cuộc tôi ngồi, không trà, không thuốc tiếp nàng thơ bằng những tiếng cục cằn. (1970) có phải em là... có phải em là em bé bố tập trung xa cách đã mười năm bố dượng em là bác da ngăm ngăm là đồng chí bí thư nơi mẹ em công tác? — anh là bạn tù của bố em, từ tỉnh khác về tìm em để nhắn hộ tin bố em giờ đau ốm cần xin Ít ký ninh, ít đường đen bồi dưỡng bố dặn mẹ hãy an lòng, đừng ngượng bố hiểu cảnh tình rất thương mẹ và em hãy nín đi em đừng khóc! bố sắp về rồi, bố sẽ cho em đi học mua cho em đôi dép em đi em sẽ được là thiếu nhi quàng khăn đở là cháu ngoan bác hồ em có thích không? — có thích! (1976) con tàu rêu bơ vơ mãi nơi biển trời quạnh quẽ Đêm ngày mơ sao cập bến bờ vui

giữa lênh đênh sóng nước dập vùi tôi đã đóng những con tàu đẹp đẽ và từ đó triền miên trên sóng cả con tàu tôi đi kiếm bến bình an bốn chung quanh lồng lộng bão cơ hàn không phá nổi mảnh buồm căng gió thả vÔ ĐỀ 11 tôi lướt đón những cuồng phong quái lạ con tàu say như ních chật không gian giữa mùa điên không biết lực điêu tàn xô vỡ vụn nơi ngời băng tuyết lóa trong trắng xóa những ngày mưa tầm tã con tàu đau vật vã trước bờ xanh phía mờ xa thôn xóm đứng yên lành thân tàu đã tan tành trên mũi đá. cay đắng quá những bến nghèo tàn tạ Đón trông tàu lui tới, đứng buồn thiu khi tàu tôi men đến cũng dập dìu gây sóng gió đắm dìm cho nhục nhã Ôi tiếp tới nước triều dâng vất vả con tàu run chưa tiến đã chờn lui Đành một mai nơi đáy nước rêu vùi làm chỗ ở cho tôm, sò, ốc, cá tôi đã biết những đêm dài dòng dã con tàu câm trôi giữa đám trăng sao biết dừng đâu, không bóng hải cảng nào ra tín hiệu đón con tàu buồn bã

tôi đã biết những bình minh đói lả biến sang màu loang tím cả chiều hoang con tàu đi, sức kiệt, lệ dòng hàng thương xót những mảnh tàu trôi vạn ngả trong khi ấy những con tàu hể hả những con tàu cặn bã của trùng dương chúng dọc ngang trên khắp mọi nẻo đường phun khói độc kín trời mây biển cả không thấy nữa, những bờ xanh nắng tỏa những vịnh hiền, những bến cảng đông vui con tàu trôi không thiết cả lau chùi cho chát mặn gậm mòn thân thép lá giờ nước mặn trùng dương thành nước lã mảnh buồm thơ tơi tả hạ từ lâu con tàu đi, vô định lớp rêu màu dầy thêm mãi năm buồn đông tiếp hạ tàu tôi hỡi, thôi chìm sâu đáy nước Đâu còn gan giương lại cánh buồm xưa khi trông về bát ngát dưới màn mưa phơi xác nát bao con tàu thưở trước! (1965) cây mọc tùm hum... cây mọc tùm hum, cỏ dại Đường đi vào trại âm u qua bãi chôn tù đầy mộ thầm câm, ai biết? ai thăm? rừng hoang tịch mịch, chiều sâu thẳm

lòng thung rờn rợn hư vô người đi giữa đêm cùng vực thẳm nào đâu quá khứ, tương lai? hiện tại — Đường đi vào trại dài như mối hận ngàn thu! (1976) cả cuộc đời... cả cuộc đời vô vọng thầm im vẫn chưa đủ nhận chìm hy vọng? cả một trời đau khổ đổ vào tim vẫn chưa đủ, vẫn tìm mơ mộng? có lẽ trời bình yên cao rộng là trời man mác hơi thu? (1972) cái thời chiến quốc... cái thời chiến quốc xa xưa thì tôn tẫn mới mong lừa bàng quyên ngày nay tôn tẫn chết liền Điên thực, điên giả, hễ điên là tù! phù sai thưở ấy cũng ngu nếm phân đã vội tha tù việt vương ngày nay ối gã dân thường Ăn hàng sọt vẫn mục xương trong tù! Ðảng không tim óc, đui mù nhưng môn vô tội om tù quán quân! (1970) con người

không thể tưởng... con người không thể tưởng hôm nay thế kỷ hai mươi mảnh đất này củ sắn thành củ sâm, Ðảng lấy thiên đường hay địa ngục đương xây Đau ốm nằm không thuốc một bầy nằm dài vêu mõm, rũ chân tay thâm, vàng, xanh bủng, run run gậy bao chờ trông đã bón cho cây! (1970) (1976) cây: gió tới... cÂy: gió tới dạt dào ve vuốt ĐÊm: trăng hiền êm muốt thương soi nÚi: bâng khuâng mây lướt xoa đầu lau: nước tắm thân hèn ru vỗ Âm: vách đá ngân dài vang lại tÔi: chiếc bóng in xù trên bãi! (1960) con tàu cuộc sống... con tàu cuộc sống tháng năm trôi bến cũ sông xưa khuất hẳn rồi sóng nước mênh mông, chiều tắt vội Ánh đèn xa lạ sáng quanh tôi... chỉ một lần, chỉ một lần thôi trở lại phòng xưa kẻ khác ngồi ai mất, ai còn, ai lặn lội? tìm trong ký ức xa xôi.

(1977) chiều thứ bảy chiều thứ bảy anh nằm đây mình mẩy ướt đầm trong xà lim chân cùm nghiến tím bầm muỗi rệp công khai, ngấm ngầm hút máu anh nhớ lại một chiều tháng sáu cũng oi nồng như thể hôm nay anh cùng em đi sát, cầm tay dạo bước rong chơi trên bờ cát trắng biển lúc đó vắng và tắt nắng gió ngoài khơi lồng lộng dâng triều hạnh phúc trong anh xáo động quá nhiều anh muốn ôm em nói điều sung sướng! nhưng tình cảm còn như e ngượng anh nắm bàn tay em chặt hơn thôi tới rặng phi lao, anh với em ngồi... giữa trời biển em nói lời gắn bó nhưng em ạ, lòng anh, lúc đó không hề nghĩ tới tương lai chỉ ước mong sao có thể kéo dài những phút thần tiên đó mãi! vì anh, một nhà thơ từng trải hiểu tim người như em hiểu đường kim! nên giờ đây cùm kẹp giữa xà lim nhận được tin em đi tìm duyên mới anh chỉ hơi buồn và hơi nghĩ ngợi

về đời anh rơi rụng, tả tơi chẳng chút trách em về chuyện đổi dời chuyện quy luật cuộc đời, em ạ. (1968) chim ơi chim... chim ơi chim, chim còn non dại lắm! lông còn tơ chưa đủ che thân motrẻ nhỏ xinh còn đượm ướt ân tình sao sớm vội xa rời đôi cánh mẹ? ta ve vuốt cho chim đừng lạnh nhé chiều đi rồi sương giá xuống nơi nơi dạ thần đang tung bóng tối trên trời Đừng chiêm chiếp, nằm im, chim nhỏ bé! chim có biết đời ta mới hé vừa rời đôi cánh mẹ như chim giống chim non ta muốn thấy mây trời nhìn hoa lá, vờn bay trong ánh sáng nhưng dạ thần, lão già mù quáng! giam ta vào trong chiếc áo lông đen ta đành ngồi đây trong lạnh tối đê hèn bao thương tiếc mơ về nắng ấm như thưở nào chưa xa lắm, chim ơi! (1958) chìm thỏm giữa... chìm thỏm giữa biển mù đen xẫm giữa thanh âm muôn loại vỗ vang ầm giữa vấp va, ôi kiếp sống âm thầm

Đêm vô tận, hướng về đâu, mò mẫm? người bình tĩnh, gậy dò la, bước chậm! hồn cùm giam trong chiếc bị xin cơm mặt thỏa thuê khi ngửi thấy mùi thơm một mẩu cháy đầy ngô thừa buổi sớm biển thẳm đen sẽ trở thành ghê gớm nếu hồn người thoát khỏi ngục đen kia nhìn người đi hồn và xác chia lìa bao xúc động lòng ta dồn cả lại ta cũng sống trong khốn cùng quằn quại nhưng người ơi, người mới thật bi thương kiếp sống cầu bơ, xó chợ đầu đường Đã biến mặt người thành ra súc vật Ôi, đó mới là điều kinh khủng nhất! không phải chết... không phải chết, sống mỏi mòn mới khiếp sống niêu cơm, manh áo cũng đọa đày sống yên lành, song cũng khó yên thay sống lao tù, sống bệnh hoạn lắt lay sống đau nhức cả thần kinh bắp thịt sống giương mắt đở ngầu trong xám xịt năm tháng kéo ùn ùn lên bất tuyệt Ôi sống thế chẳng thà tự diệt mà không hề lưỡng lự mảy may thiên đường hay địa ngục cũng đi ngay nhưng một niềm hy vọng đắng cay Đã đóng chặt ta xuống mảnh đất này!

(1973) chúng tôi sống... chúng tôi sống giữa lòng thung lũng bốn bên là rừng núi bọc vây quanh Ở rúc chui trong mấy dãy nhà tranh Đầy rệp muỗi, đầy mồ hôi, bóng tối bệnh tật cho nhau, đời ôi hết lối tuyệt vọng ngấm dần, hồn xác tả tơi bảo đây là kiếp sống của con người của trâu, chó? so làm sao, quá khổ! làm kiệt lực nếu không dây trói đó Ốm ngồi rên, báng súng thúc vào lưng bướng lại ư? hãy cứ coi chừng xà lim tối, chân cùm dập nát! lũ chúng tôi triền miên đói khát Đánh liều xơi tạt cả củ cây rừng bữa cơm xong mà cứ tưởng chừng chưa có một thứ gì trong ruột cả! Đêm nằm mơ, mơ toàn mơ thịt cá ngày lắm người vơ cả vỏ khoai lang có ai ngờ thăm thẳm chốn rừng hoang Ðảng cất dấu dân lành hàng chục vạn và sát hại bằng muôn ngàn thủ đoạn vừa bạo tàn, vừa khốn nạn, gian ngoan biết bao người chết thảm chết oan chết kiết lỵ, chết thương hàn, sốt rét chết vì nuốt cả những loài bọ rết

vì thuốc men, trò bịp khôi hài chế độ tù bóc lột một không hai biết bao cảnh, bao tình, quằn quại! có những kẻ thân hình thảm hại phổi ho lao thổ huyết vẫn đi làm lời kêu xin phân giải chỉ thêm nhàm phòng y tế dữ hơn phòng mật thám! những con bệnh bủng vàng hay nhợt xám bước khật khừ như bóng quỷ hồn ma buồn thay cho cảnh sống xa nhà vợ con mất, thân mòn, còn đòn đả nỗi khổ đau nói làm sao hết cả Đời tù nhân xiết bao nhục nhã có những buổi mưa rơi tầm tã vác áo quần ra đứng cả ngoài sân lũ công an lục soát toàn thân thu đốt cả vật tối cần — miếng dẻ! cụ mác ơi, cụ là đồ chó đẻ 40 vÔ ĐỀ thiên đường cụ hứa như thế kia a? có những người đau ốm cũng không tha cứ bắt đứng dầm mưa cho ướt sũng! tôi mới sống trong lòng thung lũng non gần một tháng nay thôi nhưng mùa đông sắp đến kia rồi cái đói sẽ kèm thêm cái rét khổ cực còn gấp mấy lên đây?

(1962) http://www.dominotrungcong.com/tho.aspx?alphabet=a

chuyên chính vội may... chuyên chính vội may nhiều áo sọc Đem khoác bừa lên tổ quốc mình rừng rú trại tù san sát mọc tiếng mừng năm mới, tiếng yêu tinh! Ôi cái mùa xuân gieo khiếp kinh vào trong tim óc, phá gia đình ngục tù dựng gấp không vơ xuể vạn ức mường, mèo, thái, thổ, kinh! (1962) có những chiều... có những chiều mưa buồn lạnh cóng giữa bùn trơn tê tím xương da chống cuốc nhìn rừng núi bao la trong bụi nước mờ mờ lẩn bóng... có những chiều mặt trời như lửa bỏng giọt mồ hôi mờ xót con ngươi Đặt gánh phân nhìn bốn phía đất trời rừng núi đứng im lìm trong nắng lóa có những chiều thịt gân rời rã trong sân buồn thơ thẩn vào ra rừng núi xanh, xanh tận mờ xa vòm mây trắng bay về nơi ước mộng... những chiều đó, lòng tôi xao động

nhớ mẹ cha vò võ trời xa xót thân tù đơn chiếc, tiếc ngày qua hận, sầu, nhớ dập đời tàn tạ! (1961) 8 vÔ ĐỀ cây cùng với muôn loài, ta sinh ra và lớn lên trong không gian man rợ gốc rễ của ta nằm sâu trong lòng đất đai xứ sở nhờ ánh sáng mặt trời và những hạt nước mưa từ những chất vô cơ ngày đêm vận hành trong vũ trụ ta hút vào, nhả ra, thành hoa, thành nụ và lớn lên, nhọc nhằn từng vụ quê hương ta thường ăn chẳng đủ nắng hạn, sâu trời, binh lửa, ly tan Đàn em ta còi chột, cơ hàn nhựa sống kiệt dần, héo rũ. bao năm qua sài lang làm chủ bách tính muôn loài hiến máu phơi da Đêm đêm thường thao thức cùng ta sông núi âm thầm chẳng ngủ. ta không có giấc mơ, mơ mình thành loài tượng thụ muôn đời trụ với thời gian ta chỉ mong sao trên mảnh đất suy tàn Được góp một phần trái hoa phong phú thân mình ta thời gian tụ mủ

những mũi tên thù, những vết đao đâm nơi rừng thiêng giam hãm thầm câm hoa trái của ta thâm bầm nở nụ xung quanh ta màu rêu xám phủ lá rụng, thu buồn, mốc ẩm, âm u ta đứng im, in bóng xuống ao tù gió lộng tầng cao ào ào nhắc nhủ. ta vững tin, đất trời kia chẳng phụ công đất vun bồi nuôi dưỡng thân ta trong đêm cùng vùng nhiệt đới bao la trái lửa của ta sẽ bùng lên vạn ánh! (1974) 8 vÔ ĐỀ cây cùng với muôn loài, ta sinh ra và lớn lên trong không gian man rợ gốc rễ của ta nằm sâu trong lòng đất đai xứ sở nhờ ánh sáng mặt trời và những hạt nước mưa từ những chất vô cơ ngày đêm vận hành trong vũ trụ ta hút vào, nhả ra, thành hoa, thành nụ và lớn lên, nhọc nhằn từng vụ quê hương ta thường ăn chẳng đủ nắng hạn, sâu trời, binh lửa, ly tan Đàn em ta còi chột, cơ hàn nhựa sống kiệt dần, héo rũ. bao năm qua sài lang làm chủ

bách tính muôn loài hiến máu phơi da Đêm đêm thường thao thức cùng ta sông núi âm thầm chẳng ngủ. ta không có giấc mơ, mơ mình thành loài tượng thụ muôn đời trụ với thời gian ta chỉ mong sao trên mảnh đất suy tàn Được góp một phần trái hoa phong phú thân mình ta thời gian tụ mủ những mũi tên thù, những vết đao đâm nơi rừng thiêng giam hãm thầm câm hoa trái của ta thâm bầm nở nụ xung quanh ta màu rêu xám phủ lá rụng, thu buồn, mốc ẩm, âm u ta đứng im, in bóng xuống ao tù gió lộng tầng cao ào ào nhắc nhủ. ta vững tin, đất trời kia chẳng phụ công đất vun bồi nuôi dưỡng thân ta trong đêm cùng vùng nhiệt đới bao la trái lửa của ta sẽ bùng lên vạn ánh! (1974) Độc lập là... Độc lập là chuyện hão khi đứng gần bác mao! tự do là tù lao khi cúng thờ cụ mác! hạnh phúc là khoác lác khi gạo tem đói rạc!

(1960) Đời tôi... Đời tôi rồi sẽ tới đâu lòng tôi cũng chẳng tìm câu trả lời! nhà lao nay bước chân rời ngày mai có thể như chơi lại vào Đất này là thế, biết sao tội hay vô tội luật nào xét cho người dân chẳng khác con bò nay cày è cổ, mai lò sát sinh những gương bắt bớ quanh mình toàn dân lương thiện tội tình gì đâu! Đói ăn ta thán một câu phản tuyên truyền tội ở đâu buộc vào thế là đến ở nhà lao sống đời bẩu giá biết nào kêu đâu? hèn ngu, trí thức, nghèo, giàu phú nông, địa chủ từng xâu đi tù nhà sư cho chí thầy tu cùng chung số phận mặc dù từ bi! bàn tay mọi rợ, man di hễ nghi là bắt cứ chi tội tình nhiều khi tôi tự nhủ mình phải phòng lúc bất thình lình bị tôm Áo quần sắp sẵn sớm hôm Để khi bị bắt là ôm đi liền! cuộc đời kể cũng hơi phiền.

(1960) 188 Đoản khúc 1 tôi đau khổ mà không hề giận dỗi tôi biết mình và tôi hiểu đời tôi sẽ mãi uổng công thất vọng liên hồi vì hạnh phúc lòng không quên lãng nổi! 2 tôi đương sống, nhưng từ lâu đã chết chết trong tim, trong óc, chết tâm hồn cố đào lên bao thứ sớm vùi chôn song chúng đã xông mùi, tan rữa hết. 3 tôi có những mảnh mộng tình đau nhức ngập vào tim, mưng tấy lấy không ra lý trí của tôi — người bác sĩ già vết dao kéo nhiều phen, đành bất lực. 4 tôi thao thức nhiều đêm không thể ngủ chỉ vì tôi còn sót ở trong tim chút ước mơ mà thực tế kẹp kìm ray rứt triền miên, tấy sưng thành mủ. 5 tôi đã nói lâu rồi cùng hạnh phúc rằng bình minh chán nản đã vào tim trò trẻ thơ chơi đi trốn đi tìm cần vĩnh viễn không giằng dai kết thúc.

6 tôi cần có một nàng tiên ở cạnh cho mặt trời bớt đen và vầng trăng bớt lạnh nhưng hai vầng nhật nguyệt mãi xoay quanh bên giòng suối thời gian không nàng tiên nào bị thu đôi cánh... 7 tôi thường khóc thảm thê như đứa nhỏ mái nhà xưa trong giấc ngủ mơ về nhưng ban ngày khi thức tỉnh không mê mắt tôi ráo, thâm quầng, tia máu đở. 8 nếu cuộc đời không có những ngày mưa thời nắng ấm sẽ hóa thành nắng cháy vÔ ĐỀ 47 nhưng thượng Đế, đời con mưa quá nửa dột nát lắm rồi, người ban nắng cho ngay! 9 ai đếm đêm dài thao thức trôi cùng năm tháng qua trôi thương những con thuyền mang ký ức Đi về sông nước xa xôi... 10 trong cõi đời băng hoại điên nguy tôi có lẽ suốt đời là kẻ khát tìm đâu giọt ngọt ngào tươi mát khi đắng cay từ trong mộng đắng cay đi?

11 trên khoảng trời xanh nao nao Đôi phút lung linh một buổi chiều nào xa lắc như vì sao, xao xuyến... hoàng hôn ơi, thương nhớ vẫn y nguyên! 12 những cay đắng quen mùi, không biết sợ những ngọt ngào, xưa nếm đủ trong mơ giấc mơ tan, men sống — rượu tân kỳ hơi đã hả, không còn hương với vị! 13 nắng rơi trên đống bùn khô trên cây gỗ mục, ven hồ, góc sân nắng vung phí chốn không cần lòng người ẩm mốc chẳng phần một tia! 14 tuyết ơi, hãy giữ màu trong trắng tim ơi, đừng nguội máu tươi hồng em hỡi, đừng như mưa với nắng Ướt hôm nay, rồi khô đó hôm mai. 15 biết chảy về đâu? hỡi những sông dài yêu dấu! vũng, lạch, đầm làm sao chứa được trời mây sóng nước sông sâu! 16 Đã lạc chìm đâu?

hỡi những con tàu mơ ước! Đất lạnh buồn làm sao có được nhà ga tỏa nắng thân tàu! 17 những đống tro tàn chất ở anh Ánh lên lửa đở thưở hồn xanh Ôi, bao hư mộng thành lưu ảnh xa vời, tan, hiện, mong manh... 18 lòng xưa có một vầng Đông tháng năm dìm đắm, giữa dòng chìm đâu? Đông buồn dần xám mái đầu lòng leo lét ngọn đèn sầu chờ mong... 19 lòng tôi xám lại mất rồi còn đâu màu sắc của hồi thương yêu Đời ơi, sống chửa bao nhiêu mà sương lạnh đã như chiều hoang vu! 20 sự sống mỏi mòn, nhưng vẫn sống sống ngấm ngầm kiên nhẫn trong tôi mặc tiếng chuông tuyệt vọng đổ hồi mặc thần chết vờn quanh báo động. 21 nào chí nam nhi, nào nợ tang bồng chuyện đã cũ và đã thành sáo rỗng nhưng giữa hồn tôi bẩm sinh mơ mộng

lụy ngàn xưa còn di hận mênh mông. 22 trận mưa đêm vừa tạnh nước chảy ào ào như thác xung quanh thời tiết rụng đầu thu đã lạnh mộng ra tù trước đông tới mong manh. 23 khi gió bấc thổi ào qua vách hở những thân gầy không chút thịt rúm hình tôm Ôi, những trưa buồn lạnh đói hóa chiều hôm lòng nhợt xám, bộn bề bao vỡ lở! 24 Ôi những hoàng hôn tối sầm đói lạnh! Ôi những bình minh mắt quầng lạnh đói! vỏ sắn vỏ khoai đồng thanh kêu gọi lũ tù không chịu nổi cướp vơ nhanh! 48 vÔ ĐỀ 25 rồi một buổi chiều đông anh trở lại căn gác thâm tình bụi bám, vôi long tường lở loang như những vệt thương lòng cả thành phố ngoài song dần xám lại... 26 anh về căn gác con con ấy may còn hai bóng sống bơ vơ cố giúp dùm tôi mang tới đấy vần thơ thương nhớ viết trong mơ.

27 khổng tử nói: “hà chính sợ hơn mãnh hổ” tôi tưởng đó chỉ là lời văn cường điệu mà thôi chế độ này đã mở mắt cho tôi tôi sợ bác hồ vạn lần hơn bác hổ! 28 khi còn mơ “chân trời cộng sản xa xăm” có mở miệng là mai a: “tốt lắm!” nhưng “chân trời cộng sản xa xăm” cũng không lấy gì làm xa cho lắm! mai a đã nhìn và đã nhờ viên đạn giúp đôi mắt mình được nhắm. 29 tình mộng nở thành hoa oan trái vườn hồn cũng nhiễm sắc hương lũ hồ điệp ngày xưa quen đường vờn bay đụng phải mùi hương rụng xuống thảm thương. 30 khi bóng rợp tràn lan, bốn bờ tắt nắng gió thoảng đưa về, gai lạnh tâm tư trên núi vắng, một vòm mây xếp trắng với cảnh đời giam hãm: lá tâm thư. 31 ngày mai, nhếch miệng cười chua chát anh với tay cầm chai thứ hai anh muốn men lừa anh chốc lát men đời cay át hẳn men chai!

32 nỗi khổ, niềm vui, cuộc đời thấp thoáng sao ta sầu hận mênh mang? cuộc sống ôi, ta dẫu đầu hàng song ta vẫn đàng hoàng xứng đáng. 33 tôi đau khổ một phần vì tôi không nghiêm khắc với tôi tôi luôn luôn huyễn mình, rồi lại luôn luôn cấm mình tự huyễn trái tim tôi co nở từng giây vì từng giây xoay chuyển trên hai vùng tuyết lửa Ảo thực, hai cực vực trời tiếp cận trong tôi. 34 nơi đây không có gì hơn sắn người hóa thành ra lũ lợn rừng gan óc teo dần, tim chết cứng hồn con ma đói dắt đi chăn. 35 giả sử Ðảng và bác cho đi lại tự do thời thiên đường cụ mác sẽ khỉ gáy cò ho! 36 cứ mười người lại có chín kẻ hóa thành trâu

và trong số làm trâu Ước ba còn làm chó. 37 lảo đảo vì buồn đói xanh xao cả giống nòi rồng tiên thành rợ mọi Đuôi cáo thực sự tòi! 38 lao tù lăn lóc nhiều năm sống bao mộng, bao tình cắp nón đi thương tiếc soi mòn, tim ruỗng trống cùng đời đương đập khúc phân ly. 39 trời hỡi bao giờ đời biến đổi khơi nguồn sinh lực ứ trong tôi bao giờ? tim thắt đau chờ đợi mỏi mòn năm tháng vắng im trôi. vÔ ĐỀ 49 40 trời hỡi bao giờ bão tố dâng cuộn tung bạo lực dưới muôn tầng bao giờ nhật nguyệt bùng thiêu cháy vực tối dày đen, dựng lại ngày! 41 Ôi tự do bao đêm ngày mơ ước ta biết yêu người hơn cả yêu ta chính là nhờ quân cộng sản gian ma

Đã đày ải ta và ngươi... hết nước! 42 còn đâu bóng quãng đời xa cũ rừng núi chìm trong nước mịt mù thềm vắng, ho từng cơn, đứng rũ mong gì? mưa hắt, gió vi vu... 43 trong tù tình cảm dễ đong ao thân thích còn thua điếu thuốc lào Ân nghĩa mỏng hơn tờ báo cáo tư cách thìa cơm đánh lộn nhào. 44 làm hết trại này tới trại kia Áo quần hôi hám với râu ria Đói ăn sườn sống xương phơi cả rệp, muỗi, vi trùng vẫn quý ta. 45 tim với óc đau vì mơ với ước năm rồi năm thân giữa nứa ken dầy Ôi ngoài kia dòng sông chảy đêm ngày mang sức sống qua bao miền đất nước! 46 nào thấy gì đâu, rét tím môi bùn mưa đen lạnh, tết qua rồi niềm vui quá nửa đời chưa biết theo giòng sông chảy tháng năm trôi... 47

Đau ốm, lao tù, xem khó thắng năm rồi năm, mưa nắng thay lần những mùa xuân không phải mùa xuân kế nhau mãi, tăng dần cay đắng. 48 bốn bức rào nứa cứa vào mùa xuân một cách bất nhân mùa xuân máu ứa! 49 nước mắt là mưa xuân máu người là nắng xuân rớt rãi là nhựa xuân mồ hôi là mồ xuân! 50 tay chúng vung phí chết chóc tù lao miệng chúng đề cao người là vốn quý! 51 ngoài khổ đói rùng mình thời đại hồ chí minh xuất hiện dưới hai hình mả tù và mả lính! 52 qua cuộc hành trình loanh quanh trong lịch sử người dân đất bắc đột nhiên thấy mình lớn lên

thành những gã khổng lồ ngồi trước khẩu phần của chế độ tí hon một chế độ mọi thứ tiện tròn thành những quả bồ hòn rất ngọt! 53 mộng, tiếc, buồn không mà suốt đêm nằm nghe mưa lạnh hắt bên thềm tàn canh thiếp mệt toàn mơ thấy những cảnh đời hiu xám, lắt lay... 54 Ôi khao khát như lò than chẳng tắt khi rực hồng khi âm ỉ trong tôi trái tim đau y hệt một con mồi bị thui sống nhưng ngày đêm lạnh ngắt! 55 Ôi những chân trời không thể tới xa vời như những chuyện thần tiên Ám ảnh lòng ta như một lời nguyền tuyệt vọng, tù lao vẫn không gỡ cởi! 50 vÔ ĐỀ 56 khi mơ ước mãi không thành hiện thực sẽ trở thành viên đá tảng lì trơ Đè óc tim ta nặng chĩu không ngờ ta hất xuống, nhưng thường không đủ lực. 57 rồi đây trên bước đời quang tạnh

tôi lại cùng anh nhấp chén trà Ôn lại kiếp tù lao đói lạnh ly trà chung nhịn xuất cơm pha. 58 ta ngồi châm đóm hơ bơ nước cảm thương đời so rụi, nhỏ nhoi bao tâm tình lớn bao mơ ước vạc dầu như tàn đóm thóp thoi... 59 vì cửa chính vào tim là mắt nên tiếng hát trương chi giữa chừng phải tắt và giọt lệ mỵ nương tuy rằng chân thật chỉ khiến ly trà càng thêm đắng ngắt. 60 cái chuyện tái Ông ngày xưa mất ngựa không hề an ủi lòng ta vì ta muốn tái Ông không mất ngựa con không què mà vẫn được gần cha. 61 trôi về đâu những năm buồn tháng nản sắt thép chập chùng, in bóng cô đơn Đường ta đi thăm thẳm non ngàn tim óc tan hoang, hoàng hôn rùng rợn. 62 chìm giữa rừng sâu nơi hoang vu mù sương che phủ kiếp lao tù từng đêm đón gọi hồn, tu hú

rõ tiếng hờn oan trong âm u. 63 lòng thung thầm vắng mờ hơi núi bao tháng năm dài xám ngắt trôi xuân tới trong bùn mưa lạnh tối khoai hà nhai nuốt đợi hè vui. 64 có con đom đóm màu xanh ngắt bay tới xà lim tối với ta Đâu những đêm tìm đom đóm bắt bên bờ ao khóm chuối quê xa... 65 có những mùa xuân chửa về đã hết tôi một mình tìm ngõ tối lang thang tiếng pháo từ nơi phố xá nhợt vàng nghe lạnh lẽo như vọng từ cõi chết. 66 Áo quần như tổ đỉa tóc bù xù, râu ria thực tế cười mai mỉa trong mơ, lệ đầm đìa. 67 hạnh phúc trên đời không thể có lòng ơi, đừng chút tơ vương! Đêm ngày mơ ước như làn gió mùa đông lùa, tim buốt, xám màu tro... 68

tuổi tôi xuân ấy, xuân mười sáu Đời nắng và hoa, mơ cưới thơ tuổi tôi xuân tới, hai mươi sáu nhạt nắng, tàn hoa, thơ khóc mơ. 69 Đâu hỡi tuổi mười lăm mười sáu tuổi đã thành quá vãng xa xưa biết là bao thương nhớ cho vừa khi nghĩ tới tháng năm thừa ứa máu! 70 tuổi hai mươi dệt bằng hoa lá tuổi ba mươi thành đá trơ lì bốn mươi rồi hóa ra chi? chàng say hỡi, hóa ra gì thì hóa! 71 ngồi xe hôm ấy tay đeo khóa Đau đớn như ngồi xe đám ma xe lắc rung trườn qua phố xá qua cầu, ôi tất cả chia xa! 72 hà nội ơi, từng mỗi bước đi vÔ ĐỀ 51 trong màu sinh hoạt xám than chì trong lòng dân chốn thành đô cũ cảnh cũ muôn ngàn đan tiếc ghi! 73 cách biệt nhau rồi, hải cảng ơi!

thương em lao khổ tận phương trời bàng hoàng sống lại mùa xa cũ ta với em vui giữa hội đời. 74 với cuộc đời không mảy may ước hẹn cảnh tù lao khổ đói đã dần quen riêng mẹ cha già hận ấy lòng con tới tàn kiếp niềm đau còn giữ trọn! 75 có chuyến tàu khuya chạy về ga vắng có những chân trời tỏa nắng xa xăm có lưỡi dao găm, sâu cắm tâm tình Đêm mưa lạnh, trở mình ho rũ rượi. 76 một chấm mờ xanh ngọn đèn vặn nhỏ một làn gió thoảng bâng quơ... một buông rơi nhẹ ngoài sân cả một mùi hương thầm thoảng đơn sơ... 77 thiên đường cụ mác hoặc tù lao! Địa ngục con xin kính cẩn chào nếu cứ tin đài, tin sách báo có ngày mếu máo với vêu vao! 78 nhìn tù nhân ăn, nhìn tù nhân làm lụng nhìn số lượng tù, cả án lẫn tập trung anh sẽ hiểu một điều quan trọng:

tù lao, ngành kinh tế vô song! 79 anh đừng than thở tù lâu anh đừng thắc mắc vì đâu anh tù một khi anh hiểu trại tù là khu sản xuất bội thu hàng đầu! 80 Ôi cuộc sống, người tồi hơn cái chết ta nằm run trong cơn sốt bình minh bóng tù lao xóa bỏ bóng thâm tình Đêm đao phủ cực hình đem dụng hết! 81 sao mau tới một mùa xuân đón đợi lòng nẩy búp xanh, đời ra hoa khắp nơi... bao cặp mắt sáng lên, hồ hởi nheo cười tươi, chan chứa mặt trời... 82 bắt chước mọi người tôi giữ vẻ hân hoan chẳng dám thở than dù đời đói khổ nhưng khi tiếng bên lề đường xe đỗ tôi vẫn giật mình tưởng xe sở công an. 83 cuộc đời tôi chẳng có gì đáng kể con người tôi, tù bệnh hom hem tôi chỉ có trái tim đầm ướt lệ với lòng thành tôi đem tặng cho em. 84

Đời trên đất bác hồ buồn hơn trong nấm mộ trong đêm cùng chế độ mọi tia sáng chỉ lòe ra cùng tiếng nổ. 85 Ôi tất cả, cả tình yêu cuộc sống theo thời gian lần lượt đã ra đi Để lại trong tôi một lỗ hổng đen xì thù hận im lìm chất đống. 86 niềm tin dù lớn tựa non cao Đời cũng hùa xô nó lộn nhào bạn hỡi khi niềm tin vỡ đổ hạnh phúc trần gian đứng được nào! 87 cuộc đời chẳng khác một nhà thương dùng thuốc toàn cay đắng lạ thường mà chữa không lành hai chứng bệnh Đợi chờ, khao khát mãi đeo vương! 88 Đói ăn đành buộc phải sống bằng i-ô-ga 52 vÔ ĐỀ bốn phía chung quanh nhà toàn mùi phân, nước giải! 89 tôi nghe tiếng côn trùng rên rỉ

như tiếng đêm buồn rên rỉ nơi nơi: rằng bình minh chưa thể tới anh ơi Đừng thao thức chờ trông suy nghĩ! 90 Đừng đem truyện rừng mơ thưở trước như người dân đã thấm vị chua cay lũ tào tháo hôm nay đâu bằng tào tháo trước ngón rừng mơ đem diễn mãi không thay! 91 hỏi ông, ông đã đi tù hỏi nhà, nhà đã tịch thu mất rồi vợ con cua cáy lần hồi Đêm đêm về ngủ ở nơi xó đình. 92 phận hèn con cá lá rau bới đất lật cả cùng nhau kiếm mồi hiu hiu gió đã run rồi Ðảng nghi gì họ mà lôi đi tù! 93 anh hãy kiếm một chuyện vui nào khác cho đầu óc tôi được thoải mái nghỉ ngơi bội nghĩa, vong ân, chung thủy, tình đời toàn chuyện cũ, toàn điều khoác lác! 94 nhân loại hỡi có rơi vào thảm cảnh bị đọa đày tan tác mới hờn căm có sống trong lòng cộng sản nhiều năm

mới muốn vằm băm chúng ra vạn mảnh! 95 Đêm bão giật, lửa lòe, muôn tiếng sét nổ đùng đùng như đánh phá sơn lâm nước tự trời cao đổ xuống ầm ầm cả rừng núi lồng lên, gầm quát thét. 96 những lãnh tụ mặt hổ phù lưng cánh phản thức ăn thừa mứa phải đem chôn Để tránh trong dân khỏi có tiếng đồn về cuộc sống giản đơn của người cộng sản! 97 và cứ thế, năm tàn xuân tới hè qua thu, ủ rũ đông về tuổi xanh trôi, đời vẫn tơi bời trong đói khổ, lao tù, thất thế. 98 toàn những giấc mơ đầm đìa nước mắt tỉnh giấc lòng còn quặn thắt đau thương Đất nước mênh mông một nỗi chán chường Đổ nát tan hoang, đầy đường chết chóc! 99 có tiếng người ho trong đêm khuya vắng tiếng điếu cầy lửa đóm chập chờn soi tiếng kẻng khô khan đổi gác ngoài chòi Đêm tù bệnh thường là đêm thức trắng. 100

trời trở rét tấm thân tù khô đét mòn hao Đắp điếm làm sao chống lại gió may cào từng đợt ngày đêm thốc vào phổi loét! 101 chiều nay gió lạnh mang thương nhớ thung vắng ngàn lau xám xạc xào quên sao ngày bắt đùm chăn áo hai bóng thương đau lệ ướt mờ! 102 năm tháng ca bài ca lỡ dỡ cung đời chưa nắn đứt giây mơ trên phím tỏ lòng tay ứ mủ tâm tình buông mấy tiếng bơ vơ. 103 trâu từng tốp lùa về tung bụi vài tia nắng cuối tàn vương Đoàn tù nhân phanh áo chán chường lê thân đói, khuất dần sau núi... 104 Ðảng đã nắm là dân hết cựa trí thức, ngu hèn, trâu ngựa như nhau vÔ ĐỀ 53 câu hỏi lớn lao làm tóc bạc sớm trên đầu là hai bữa, mỏi mòn hai bữa. 105 hạnh phúc đành thôi không còn được nữa

tuổi tác đã nhiều, hình xác vẹo xiêu tình cảm con người khổ đói đã thủ tiêu làm chi, làm chi, để kiếm cho ra một ngày hai bữa! 106 em là ai? mà ngay phút giây đầu anh đã thấy buồn đau không thể thoát Ôi mắt em hồi sinh bao khao khát anh đã lầm, tưởng giết được từ lâu! 107 chúng ta khổ hơn rất nhiều loài vật vì chúng ta nhỏ gan bé mật không dám vùng lên một còn một mất hèn hơn cả những loài giun đất! 108 nàng đẹp như hoa dại bản làng Áo khăn thêu chủ sắc huy hoàng mắt như dòng biếc ngời trong sáng phản chiếu rừng xanh với núi vàng! 109 bất nghĩa, bất nhân, bất tín, bất tài vô sỉ, vô luân, vô loài, vô lại quân cộng sản phải khử trừ chúng mãi cứu lấy cuộc đời, hiện tại, tương lai. 110 Đành rằng còn có việc chưa xong nhưng cũng bởi ta hèn và ta tham sống nên mấy chục năm trời

ta mới có thể uốn thân nuốt nhục trước muôn cảnh hoang tàn đau đớn khắp non sông. 111 trái tim tôi bị thủng đâm nhiều quá Đời lại không rịt vá bao giờ biết bao tình bao mộng đã ùa ra phiêu tán hết, không còn nơi trú ở! 112 hoa địa ngục tưới bằng xương máu thịt trộn mồ hôi chó ngựa, lệ ly tan hoa trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hàn hương ẩm mốc, màu nhở nham, xám xịt. 113 toàn bộ thơ tôi nặng nề cay cực không một sắc màu mang khí lực xanh tươi vần điệu nghe như quỷ khóc ma cười do sáng tạo tận cùng sâu đáy vực. 114 trong muôn ngàn tiếng, muốn tìm ra tiếng nào thiết tha tiếng nào trung thực hãy lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực. 115 Đôi mắt sắc không muốn nhìn dấu sắc trái tim đau luôn khao khát dấu huyền Óc sinh liều gạch dấu hỏi thường xuyên Đời do đó ngổn ngang toàn ngã nặng!

116 thơ của tôi toàn xám toàn đen khiến đầu óc cứng đờ nhỏ nhen khiếp sợ sao chẳng thấy nếu xanh hồng rực rỡ cũng đôi phần nhờ ở xám đen? 117 Đời tôi dưới hai lực quyền xám xịt Ðảng lại trời, tầng thấp lại tầng cao trốn vào đâu, không một xó xỉnh nào hai lực đó không đè lên ác nghiệt! 118 rừng líu lo chim, trời hồng, gió thổi ngọc vương đầy cả nội, lung linh cảnh bình minh xao xuyến cả tâm tình trong giây phút lòng hình như mở hội. 119 nó chết đi hơn năm trăm người thương tiếc nào ai đoái một lời riêng có thằng điên người khắm thối thằng què cám hấp khóc mà thôi. 120 lăn lóc lao tù nơi rác bẩn tâm hồn nương náu giữa vần thơ 54 vÔ ĐỀ những khi thơ hóa thành ra thẩn tôi tắm hồn trong những nước cờ. 121

Ðảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng trước như trẻ thơ tôi nào biết được cộng sản là quân bất nhân tàn ngược thắt cổ dân đen đủ các loại tròng! 122 khi bạo lực lụt trời mây đất nước thời vầng trăng thằng cuội sẽ om sòm và mặt trời kia — con mắt chợt đở lòm thui cháy mọi mộng mầm mơ ước! 123 sống đã đành sống nhục chết cũng là chết nhục, khác chi nếu đời tôi không nên nổi chuyện gì nó chỉ đáng giã từ bằng một câu chửi tục! 124 Ôi chủ nghĩa mác - lê buồn bã tới trời nam ngươi bậy bạ hơn nhiều! bên trời Âu dù nhục nhã bao nhiêu cũng chưa đáng phần ngàn nơi đất Á! 125 Đường lên hạnh phúc qua sa mạc hun hút tù lao, máu lệ nhầy mấy chục năm trời dân đói rạc lũ quỷ đưa đường xiết mãi dây! 126 bác mao cân nặng tạ hai thịt ùn lên mặt, mặt hai ba cằm

người dân trung quốc thì thầm: “nó là Đổng trác nhưng dâm hơn nhiều!” 127 nước Đổng trác Điêu thuyền nắm quyền lịch sử nước nhịn đói đua đòi diện bom nguyên tử nước cởi trần ngồi húp cháo hoa tiếc cái thời đi bán phá sa! 128 buồn đau khi nghĩ tới tương lai bị chà xéo bụi bùn ai oán vỡ dưới đôi dép bình trị thiên hiện tại Đen, dầy, thô, cứng, trơ trơ. 129 bình minh đây chỉ là hy vọng xa xôi, tàn lạnh, anh ơi! tổ quốc tôi bị mất mặt trời Đêm mộng muội dày đen tụ đọng! 130 Ôi đêm trắng cũng là đêm khắc khoải Đêm thở dài, đêm bất lực, đêm ơi! mấy chục năm đêm lịch sử đóng đai đời như tiếng cá đóng quan tài dội lại. 131 bóng ai kia, cô độc, xanh gầy cây đứng lặng — đêm buồn — in bóng đậm bóng ai đó, âm thầm môi ngậm mẩu thuốc đở hồng, mưa phất bụi, lây phây...

132 lòng trót yêu đời, yêu sắc hương Đời gai, hương ngát, sắc hoen nhòa chiều đi, bãi lạnh vang đàn quạ lòng đứt tan nằm phơi gió sương. 133 chiều nay gió rét lòng bâng khuâng thương tiếc mơ hồ vài cành cây xơ trụi gầy khô nền trời vẳng khẳng khiu in mấy nét. 134 làm bắt phải làm, cùm đánh đớn đau Ăn suốt cả năm ăn toàn rau muối bộ đội công an cởi trần tắm suối chúng tôi ngồi bên lửa vẫn còn run! 135 ba sẵn sàng, ba Đảm Đang, ba khoan, ba nhất ba Điếm, ba Đình, ba chống, ba xây những từ đó đều cùng một giống và cùng chung một từ gốc: ba que. 136 nếu tôi có một cái đầu đơn giản vÔ ĐỀ 55 không nặng nề bao sách vở đông tây thời trái tim tôi bớt mọi đọa đày do mâu thuẫn giằng co nhau hỗn loạn. 137

hơn chục mùa xuân sống ở tù lưng còng thêm mãi, mắt như mù vợ con cùng khốn lo cơm chạy phó mặc thân già với cả cây. 138 tình cảm thành thơ rất tự nhiên khi hồn mang những mộng thần tiên chưa hút xong vài hơi thuốc lá vần thơ như ý đã ngâm nga. 139 cành hoa ngát rụi tàn, rồi rũ chết bướm cùng ong tuần tự lánh xa dần thương cho em lá rụng giữa mùa xuân Đời mưa gió đến đây là chấm hết. 140 giận thân rồi lại giận đời giận thời chuyên chính, giận người hèn ngu giận trời, giận đất âm u giận sông, giận núi quân thù dọc ngang. 141 trong tù thuốc bệnh đổi bằng cơm sắn, ngô, khoai nhịn uống trà thơm tôi biết xương sườn tôi đếm nổi nhưng về đêm thi tứ mới sinh sôi. 142 tình cảm cần chăm sóc tới nơi nó là của quý ở trên đời

nâng như nâng trứng còn khi vỡ xin chớ vô tình để lỡ rơi. 143 miền bắc có vô vàn tù chính trị mục đích tối cao là được sống an thân gần vợ con dù khổ đói nhục nhằn không dám hé răng phàn nàn một tí! 144 hãy trông trên dáng hình lao khổ ngàn tuyến mồ hôi chảy xiết giòng không, đó lệ buồn muôn khát vọng chia lìa rơi xuống khóc thân nô. 145 tôi muốn kiếm trong núi rừng heo hút che dấu hàng trăm các trại tù bao sắc bao hình cho nét bút tô thành tranh treo mãi muôn thu! 146 bỏ hoang năm tháng mờ rêu biếc uất hận còn sinh nấm độc dầy tim óc sa lầy trong hối tiếc Ăn toàn rêu nấm, khát trời mây! 147 rừng cây nhiều sớm mờ sương khói nắng cuối thu vàng ủ rũ soi những tấm thân chỉ còn xương, ốm đói như bầy gia súc sống loi nhoi.

148 ta ngồi đan cót mơ mà thức Đau nhức thân mình, lạnh tím da bao bóng thâm tình, bao ký ức xô về chen nghẽn lối tim ta. 149 Ðảng muốn đời ta chỉ vừa lá cót trí lực chui luồn theo những đường nan tất cả cuộn tròn, đem bỏ lò than với mục đích không phải trừ mốc mọt! 150 Ðảng gói ước mơ vào trong manh áo Ðảng nhét chí trai vào trong hũ gạo bảo quản thế Ðảng vẫn còn sợ hão Đem xếp cả vào trong các nhà lao! 151 biết mấy đêm buồn mưa rơi ướt áo anh bước đi trong ánh đèn mờ ảo mơ tới em, xa lắc một vì sao cơn gió khuya, cây lá xạc xào... 152 trước mắt tôi, mặt trời hấp hối sau lưng tôi, bóng tối mịt mùng 56 vÔ ĐỀ bên phải tôi, tù ngục chập chùng còn bên trái, súng nhằm tim chắn lối! 153

tuổi ba mươi mà xương bọc da bàn chân mấy lượt bước ra tòa tù lao hết cả thời niên thiếu cũng chỉ vì vui chuyện với trà! 154 tìm đâu bóng một niềm vui bé nhỏ mối buồn đau theo năm tháng thêm dài Đến niềm tin ngớ ngẩn ở ngày mai cũng như chán con người tôi, dứt bỏ! 155 chân đất thân gầy, rét tím da những chiều u ám đứng trên phà tôi nhìn sông nước trong sương giá lòng tiếc thương đời đến xót xa. 156 vì sống một ngày ở trên đất bắc bằng nơi khác sống ngàn thu nên một bà già nhà quê trên đất bắc dù ngu cũng hiểu cộng sản đúng hơn nhiều chính trị gia hoàn cầu xuất sắc. 157 thiếu nhi khăn đở cổ gầy hát mừng thọ bác như bầy chim non khác chăng chim chẳng đói mòn sởn sơ bay giữa nước non mây trời. 158 ngày mùa chim chóc còn vui

Đất đai cũng ngát thơm mùi rạ rơm riêng người chịu cảnh đói cơm nhìn kho hợp tác thóc thơm chất đầy. 159 Ăn uống với phàm phu chuyện trò cùng tục tử cuộc sống trong lao tù Đã làm tôi mệt lử! 160 lưu nguyễn rời thiên thai nên thấy cảnh trần ai ngao ngán tôi nằm trong địa ngục mác lê ai oán trần ai từ đó hóa thiên thai! 161 trà thơ bạn máu thịt ta ơi! trà pha thơ chát, cả cây rừng... lòng ta khi ấy chìm trong trứng phá vỏ ra ngoài, tắm nắng tươi. 162 Đêm không mộng không tình, đêm cú vọ Đứng xù lông cho khuất ánh trăng vàng Óc vò tim, bóp chặt bắt lai hàng tim ứa máu ra mời dâng chúa đở. 163 mười mấy năm sống giữa lao tù sống giữa buồng tim chế độ tôi đã hiểu tới tận cùng bể khổ.

mà trước kia phật tổ hiểu lơ mơ. 164 Ðảng quyết tâm dùng muôn bùa phép Để biến tôi thành giống bốn chân nhưng phí công, dù không là thép con người con chó khó phân vân! 165 tuổi xuân là một bài thơ mà năm tháng chẳng bao giờ đọc lại tôi muốn viết bài thơ dài tiếp mãi trang tâm hồn mực tím đã bôi loang! 166 thân anh không một người thương sao anh chẳng biết tự thương thân mình Đời anh thoát mọi cực hình nếu tim anh thả mộng tình xa bay. 167 thi sĩ cổ kim đều không thể đọ họ chỉ phải dùng tim óc công phu còn lũ tôi trong đói, bệnh, lao tù muốn tạo vần thơ phải dùng tuổi thọ. 168 vợ con có thể bỏ cha mẹ có thể từ vÔ ĐỀ 57 cộng sản thời sinh tử mới thoát và tự do.

169 học thuyết mác này đây sọt rác xét lại làm gì, tốt nhất vất nó đi sử sách sau này đỡ mất công ghi thêm quá nhiều trang xám xì tội ác! 170 Đời thực hết không còn chi để tiếc những giây thương yêu nhất đã lìa tan sống không gì vương mắc giữa trần gian sống ngơ ngác như vừa câm lẫn điếc. 171 khi nghĩ tới cuộc đời mai hậu thân thích không còn, thui thủi trái tim tôi ngủ chìm sâu trong giấc mộng thảm sầu sực tỉnh giấc, rụng rời, đau dữ dội! 172 mộng sắp tàn, đói kiệt, ốm nhom Đời không phương thuốc, huyệt đen nhòm hồn ta mộng hỡi, giờ suy kiệt không còn hơi theo gót mộng chăm nom! 173 tôi bước giữa miền quê tái tê thầm câm không thấy bóng xuân về xạc xào đồng vắng run trong gió lặn lội bờ xa một cánh cò... 174 no say mới bấy nhiêu ngày

mà sao bác đã đổi thay béo tròn màu da bác đở như son Ấy màu máu đám dân mòn khổ đau! 175 mưa rừng rả rích suốt đêm thâu cây lá thầm vang tiếng gợi sầu hun hút lối xưa ngàn dậm ướt hình em, tia nắng nhỏ chìm đâu? 176 em lầm nghĩ tình xưa em muốn nối xích xiềng em cúi xuống sẽ liền thôi khi ngàn muôn móc sắt đứt tung rồi lòng điện tắt, không hàn xong một mối! 177 nhà thơ là một gã ngây thơ một gã ngây thơ vô cùng từng trải vì không có sự hiểu đời vững chãi ngây thơ sẽ hóa ngẩn ngơ! 178 tôi đã biết những tâm hồn mơ ước hóa oan hồn không siêu thoát lang thang dưới bóng cờ ma máu lửa đở vàng rên xiết đau thương, giận hờn đất nước! 179 thân anh xơ xác tựa mồng tơi con số không lăn giữa cuộc đời Ôi nếu anh là thượng Đế

anh sẽ cho em cả đất trời! 180 thiên đường cụ mác dân mơ tỉnh ra tài sản bị vơ nhẵn rồi chỉ còn lại chút mồ hôi Đổ ra vì sợ, vì nuôi Ðảng hiền! 181 Âm thầm nặng bước trong gió than rừng hoang mù xám sương chưa tan Ôi những linh hồn đương lạc lõng giữa lòng thế kỷ, giữa không gian! 182 Đêm lạnh trăng buồn chênh chếch soi tàn hoang rêu phủ xác lâu đài tùm hum gai cả côn trùng gọi những tối tưng bừng tiệc yến khai. 183 từ lâu lắm lòng tôi ngừng thầm ước một mối tình tươi mát tới hồi sinh vì đời tôi, tôi hiểu rõ ái tình phần cay đắng là phần duy nhất được. 184 cuốn sách đời, tôi bỏ đã lâu những trang hy vọng sớm vo nhầu 58 vÔ ĐỀ mặc cho làn gió bay vô định giở tới trang cùng: khoảnh đất nâu

185 nếu phải sống lại thời đồ đá cũng còn hơn gấp vạn gấp ngàn cái thiên đường đói khổ miên man toàn giết chóc, tù lao, dối trá! 186 nếu trái tim hóa được thành trái phá thì bao chuyên chế hung tàn Đã thành tro, thành bụi, thành than từ lúc vật, người xuống chung một giá. 187 tôi có một mối thù phải trả Đốt buồng gan hôm sớm không tha thù bản thân, thù nước lại thù nhà chưa thể chết khi thù chưa thể trả! 188 nước mắt không còn nữa tiếng cười, chuyện thời xưa ngày nắng với ngày mưa kế nhau đều lộn mửa! vÔ ĐỀ 59 dù trời đêm... dù trời đêm chưa mang về yên nghỉ dù trời đêm còn ứa lệ trên mi song màn đêm đã xao động lạ kỳ bởi những giật co dồn về thế bí Đêm hung bạo tới không còn lý trí

cũng là đêm tụ lại để tan đi (1971) Được nghe bà... Được nghe bà kể khổ con thấy đời con thực là đáng chết! con đã đi bóc lột để nuôi bà con bây giờ không dám nhận là cha dù bà là do con đẻ ra con, thành phần địa chủ thối tha trước nhân dân, trước Ðảng, trước bà xin thành khẩn cúi đầu chịu tội! Đó là lời một cụ đồ ở ngoại thành hà nội trước đấu trường giăng giối với con. (1972) Đừng sợ... Đừng sợ cái cực kỳ man rợ dù nó đương thịnh thời rông rỡ nơi nơi phải vững tin vào bước tiến con người vì khi nó bị dìm ngang súc vật cũng là lúc nó tìm ra sức bật Đau thương kỳ diệu đi lên! từ muôn ngàn tàn lụi không tên sẽ bùng nở một trời hoa lạ quý từ đêm cùng chập chùng chuyên chế 36 vÔ ĐỀ văn minh nghệ thuật chồi sinh

chỉ xót cho lớp trẻ hiện hình của đói khổ, tù đầy, nhem nhuốc phải cứu chúng, phải tìm ra phương thuốc dù là thuốc nổ! (1975) dù đời ta... dù đời ta sa đáy vực khổ oan cũng được, miễn là thoát ra khỏi đó Đời ta sẽ tự do như gió mang lời ca tha thiết tâm can bay khắp địa cầu kêu cứu nhân gian trừ cộng sản! là nghệ sĩ ta chỉ có một niềm lo đơn giản ta biết khổ oan là một thứ linh đan nuốt vào là bỏng cháy tim gan lời ca hóa ra vạn tuế! nên quằn quại nổi chìm, đớn đau là thế bạc cả tóc râu dưới đáy vạc dầu ta chỉ ngẩng đầu cầu xin thượng Đế Đừng để linh đan quá lửa đốt thành than cả cuộc đời sáng tạo tân toan! (1973) dựa vào sự vô tư... dựa vào sự vô tư trong an lạc nên tận giờ cộng sản vẫn nghênh ngang Được vỗ tay ca ngợi từng tràng

vÔ ĐỀ 23 Ở lắm chỗ, trừ nơi gây tội ác! (nơi đương dựng thiên đường kiểu mác) nơi này cũng vỗ tay nhưng vỗ khác vì nếu đây không vỗ khóa vào ngay! Ðảng kiểm tra gay gắt đêm ngày hơi nghĩ khác là đi tù mục xác. mỉa mai thay... mỉa mai thay mấy con đường tắc tị Được cấm biển, khua chiêng đường chân lý! nào đường sang nga, sang tàu, sang mỹ dân tộc điên đầu dày xéo kéo nhau đi thế kỷ hai mươi thành thế kỷ chia ly Đói gạo, no tù, đạn bom sát hủy riêng béo bở có mấy thằng vô sỉ nga, mỹ, hay tàu chúng vẫn vu vi! (1974) Đất thảm... Đất thảm, trời sầu, nào đâu đổi mới? tất cả ngả vàng, đở mắt chờ chi? thời gian nào có mấy khi mang lại cho ta những gì mong đợi Ôi, mọi thứ chân trời đổ tới con người phải dấn thân đi dù ngàn muôn họng súng đen sì phục đón trên đường thiên lý ta dám sống, và ta dám nghĩ

chuyện dám làm, dám chết nhẽ đâu không ta sẽ dành cho sự thành công bảo bối cuối cùng — mạng sống — (1976)

Ðảng... Ðảng dìu dắt thiếu nhi thành trộm cướp giải phóng đàn bà thành đĩ, thành trâu giúp người già bằng bắt bớ rể dâu và cải tiến dân sinh thành xác mướp Ðảng thực chất chỉ là Ðảng cướp dựng triều đình mộng muội giữa văn minh sống tạm thời nhờ thủ đoạn yêu tinh, nhờ súng đạn tàu nga, bắt bớ Ðảng tắt thở cuộc đời mới thở Ðảng còn kia bát phở hóa thành mơ! (1973)

Ðảng đề ra... Ðảng đề ra chính sách ba khoan khoan một khoan yêu nếu đã yêu rồi thời khoan hai khoan cưới nếu đã cưới thời khoan ba khoan chửa và nếu phạm sai lầm trót chửa do thiếu đề cao cảnh giác lúc yêu đương thì trung Ương sáng suốt khác thường

Đã lường được tất quốc sách nạo thai kịp thời đề xuất! (1964)

Đồng lầy ngày ấy, tuy xa mà như còn đấy tuổi hai mươi, tuổi bước vào đời hồn lộng cao, gió thổi chơi vơi bốn phía bao la chỉ thấy chân mây, rộng mới tuyệt vời! ngất ngây, làm sao ngờ tới bùn đọng hồ ao mạn dưới phục chờ! tuổi hai mươi, tuổi của không ngờ không sợ! viễn vông đẹp tựa bài thơ mơ ước Đợi chờ vĩ đại... nhưng rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại ngỡ cờ sao rực rỡ tô thắm màu xứ sở yêu thương có ngờ đâu giáo giở đã lên đường hung bạo phá bờ kim cổ tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông mặt trời sự sống thổ ra từng vũng máu hồng

Ôi tiếc thương bao mùa lúa vun trồng một mùa thu nước lũ trở thành bùn nước mênh mông lớp lớp sóng hồng man dại chìm trôi quá khứ tương lai máu, lệ, mồ hôi rớt rãi Đi về ai nhận ra ai! khiếp sợ, sững sờ, tê dại! lịch sử quay tít vòng ngược lại thời hùm beo rắn rết công khai ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai Đúng lúc đất trời nhợt nhạt bọn giết người giảo hoạt nâng cốc mừng thắng lợi liên hoan Điệu nhạc cơ hàn thăm thẳm miên man Điệp khúc lìa tan thúc giục ngục tù cất bước oan khiên thành thị thôn quê sơn hải trăm miền hội tụ! bãi sú, bờ lau, rừng rú thây người vun bón nuôi cây. Đạo lý tối cao ở xứ đồng lầy là lừa thầy, phản bạn và tuyệt đối trung thành vô hạn với Ðảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng hạt thóc, hạt ngô phút hóa xích xiềng họa, phúc toàn quyền của Ðảng

dần dà năm tháng mắt ngả sắc vàng, da sắc xám Đi về ai nhận ra ai? Ôi, ngàn hoa run tái! Đáng thương giữa chốn đồng lầy sậy úa lau gầy, lạc loài thảm hại rồi đây, khi mặt trời thức dậy chắc là hoa đã tàn phai chẳng còn được thấy! tôi vẫn ngồi yên mơ màng như vậy mặc cho đàn muỗi quấy rầy bóng tối lan đầy khắp lối không còn phân biệt nổi trâu hay người lặn lội phía bờ xa gai ốc nổi trên da cái họa áo cơm không chừa ai hết! buồn nghĩ tới chuyện xưa thần chết cùng lão tiều đốn củi già nua tôi ngước trông xem có một ngôi chùa ngôi chùa đã trở thành huyễn mộng. con ác điểu hoài nghi xù đôi cánh rộng truy lùng mồ mả cha ông thánh thất miếu đường xáo động con thuyền chở đạo nghiêng chao sóng gió thét gào, man rợ tiếng sinh linh nức nở, âm thầm mặt đất tím bầm, tiết đọng

lá cờ lật lọng nhân buổi dương tàn âm thịnh cao bay! thần tượng cuồng quay, hình thay lốt rũ hang pắc-bó hóa thành hang ác thú bác hồ già hóa dạng bác hồ ly Đôi dép lốp nặng bằng trăm đôi dép sắt bộ ka-ki vàng, vàng như mắt dân đen quỷ quái, đê hèn, lừa đảo! gia tài tra khảo cướp trơn tay từ buổi quỷ vương hớn hở mặt mày Đứng trước Ðảng kỳ trịnh trọng Đọc lời khai mạc thưở hoang sơ tụ tập đảng viên đại hội dưới cờ nguyện đem cuộc đời hơi thở Đạp bằng, phá vỡ ngàn năm văn hiến ông cha. Ảo vọng dựng lên một thứ sơn hà mê muội, nặng nề không hề nghiêng ngả nó lùa, nó thả lũ mặt người dạ thú xông ra khiến đồng xa vÔ ĐỀ 1 nơi mấp mô mồ mả các hồn ma cũng hả vong linh vì thấy địa ngục của mình còn ít nhục hình hơn dương thế! mạng sống không bằng con giun con dế

Đầu ngưởng lên tuy nhìn thấy trời xanh mà chân không thể nào rút khỏi vũng lầy man mọi hôi tanh ma quỷ rình canh, nghiệt ngã rau cháo cầm hơi, mồ hôi tầm tã bọn sậy lau đã chán cả chờ trông hầu cam phận sống trong bùn xám Đời càng u ám quỷ vương càng đình đám liên hồi Ôi, dần dà tôi không phải là tôi một khối rũ mòn nhức nhối mang đầy mộng ước thiu ôi. nếu tôi đổ mồ hôi mồ hôi sẽ hòa máu phổi nhưng những niêu cơm quá vơi mà Ðảng đem phân phối không nhường thịt gân một chỗ để đàn hồi! bao đêm rồi tôi nguyện luyện hồn tôi trút bỏ buồn đau tiếc hối nén dập hờn căm dữ dội ngày đêm dìm luộc thân tôi nhão nhừ, nóng hổi! nhưng làm sao trút và nén nổi nhưng làm sao điếc, mù, câm nổi khi con người chưa sống được bao nhiêu cũng như khi chưa yêu mến thật nhiều làm sao biết ghét!

chỉ quả bóng xì hơi đã bẹp mới để cho người – Định mệnh – dẫm lên trên còn những đại dương sóng dậy vang rền chỉ dịu lắng khi mệt vì bão táp! tôi ngồi yên nghe thời gian chậm chạp mang tâm hồn thấm hết cảnh trăng suông trên đồng không nước lội sương buông cây cả lạnh mờ, hoang vắng Ôi những bờ xa, lời xanh nhạc nắng nếu có kẻ cho đời là cay đắng hãy vào đây nếm thử vị đồng lầy cho dạ dầy, óc tim, lưỡi, cổ biết biệt phân tân khổ ngọt bùi! giữa biển vui không hiểu tiếng cười là những kẻ cuộc đời chưa dậy sóng trời cao biển rộng có cũng như không! một tiếng quạ đêm ảo não rỏ xuống đồngỉ. tôi tỉnh hẳn, trở về cơn ác mộng muỗi nhơn nhơn từng đàn vang tiếng động những con cưng của ngừng đọng tối tăm chúng trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm nên chúng tưởng màn đen là ánh sáng! Ếch nhái vẫn đồng thanh đểu cáng chửi bới mặt trời, ca ngợi đêm đen lũ sậy lau còm cõi đứng chen hơi có gió là cúi đầu rạp hết bát ngát xung quanh một mầu khô chết

Đồng lầy mỏi mệt lặng câm, lũ kiến đi về Ôi, cuộc đời hay một cơn mê mà người, ngựa, trâu, bò giống nhau đến thế! những chiếc sơ mi bỏ ngoài để che bụng phệ Đi về chễm chệ xe “dim” lúc vuốt xoa lúc hăm dọa lúc gật gù với một lũ lù lù rác rơm ẩm mốc những loài thảo mộc ngu ngốc, ù lì, nhẫn nhục nằm đợi ngày tàn mục thối tha mặc cuốc kêu thê thảm đêm ngày xác gầy, khổ não! bọn gỗ đó phải chờ giông bão mới chịu ào ào nhổ rễ đứng lên nhưng hình như trời đã bỏ quên mảnh đất đồng lầy xám ngắt như tôi vẫn ngồi đây héo hắt mắt thâm quầng trông ngóng trời xanh bốn chung quanh ếch nhái vẫn đồng thanh la ó mong làm hỏng tim hư óc. Để trai tráng say mùi chết chóc Để người già yên vui tang tóc tóm lại là để tình nguyện ly tan nhưng mặt trời mùa thu mà như rét đại hàn

súng ống từng đoàn run run, nhớn nhác Ðảng lùa đi, tan tác, thương vong mái ngói, mái tranh lệ thảm ròng ròng nhỏ xuống bốc hơi trong lòng vạc bỏng Ðảng dữ thét gào, hóc xương ngang họng giọng thều thào, gượng gạo hung hăng lưới thép nền chuyên chính tung quăng khốc liệt, bậy xằng, ức oan, cay đắng dân đen tay trắng cam đành từ rừng núi hoang vu tới phố xá thị thành từ hải đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngát màu áo vàng cảnh sát tràn lan, nhợt nhạt cả màu xanh! cuộc sống đồng lầy rộp rát, nhoét tanh 2 vÔ ĐỀ bom đạn chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm hại cái cảnh mười đi, hai ba trở lại cái cảnh một trai giành nhau chín gái Đương diễn ra và sẽ còn diễn mãi nếu Ðảng còn nắm vận mệnh tương lai. lũ sậy lau xưa chỉ biết thở dài cũng phải ngước trông đất trời, vấn hỏi? trăng lặn... sao tàn... bình minh không mong mỏi từ từ xuất hiện trong sương một bình minh héo hắt thảm thương

Đẩy dân tộc trên giường xuống đất hãy lắng nghe một điều chân thật! bình minh đây đau khổ nhất địa cầu nó báo hiệu một ngày không một phút thảnh thơi, thoải mái, ngẩng đầu. bình minh đấy muôn thưở một mầu nó báo hiệu mồ hôi kiệt quệ những con người, không, những chiếc máy thảm thê không dầu, không mỡ hỏng vỡ trước thời gian hãy coi chừng phải giữ vẻ hân hoan tiếng khóc, tiếng than làm yêu ma run sợ tội chúng phạm vô cùng man rợ lộ ra, ai để chúng sinh tồn? nên lo âu, hốt hoảng, bồn chồn chúng nghe ngóng, bỏ tù tiếng nói hỡi tất cả những chân trời sáng chói! hãy hiểu rằng yên lặng nơi đây giữa chốn đồng lầy là tiếng gọi lâm ly đầy tuyệt vọng biết bao giờ mùa thu lật lọng bị lôi lên dàn lửa trời hè! tôi vẫn chờ trông muôn vạn tiếng ve dạo khúc tưng bừng báo trước mùa hè khắp nơi đang tiến bước tiêu diệt thu đông lấy lại sắc hồng

phá cũi sổ lồng cho đàn chim bất hạnh nhưng giờ đây thu lạnh vẫn thỏa sức tung hoành giết hại màu xanh sặc sụa mùi tanh nó dùng máu hãm những dòng nước mắt vắt những giọt mồ hôi bịt tiếng người câm bặt mong bốn phương lặng ngắt giữa cơ hàn! Để nó tự do vang dạo khúc đàn yêu ma! lừa bịp người xa buốt óc người gần trời đất ơi, nếu có quỷ thần quỷ thần sao dung tha mãi nó? Đôi lúc nghe mơ hồ trong gió tiếng đời qua sóng đở vọng về đây bao ước mơ chìm chết đã lâu ngày lại nghẹn ngào trỗi dậy Đau xót, thương tâm. bên ngoài kia cuộc sống vang ầm sao đây mãi âm thầm trong nấm mộ? phẫn nộ oằn lên, bao khổ! không gian hỡi, hãy tan tành sụp đổ cho thời gian đừng làm khổ con người cho đười ươi, khỉ đột hết reo cười trong tối đen đày đọa

Ôi, cái buổi đất trời giáng họa cũng là ngày hể hả trái tim đau! nhưng gió kể làm gì chuyện bốn bể năm châu chuyện những chân trời bấy lâu yêu dấu tuyết ấm rơi, lòng người đôn hậu Đảo thần ngời sáng ngọc châu. gió hãy thương kẻ bị đóng trên tọa độ thảm sầu giấc chân trời mòn mỏi thương đau bốn phía trước sau toàn bóng những người trâu đầm mình trong bùn đọng hoặc trong hầm trong xưởng rũa gân xương Để tối về theo lệnh diêm vương vác bụng đói tới nghe bầy quỷ dữ giả danh nghĩa là những vì thiên sứ Đặt chương trình hút máu mài xương nhưng lấy tên xây dựng thiên đường Để mong mộ thêm nhiều nô lệ mới. tôi không hiểu loài ễnh ương ca ngợi cái thiên đường khủng khiếp của ma yêu Được chúng cho công xá bao nhiêu mà đêm tối to mồm, đinh nhức óc Ấy cơm cá ma vương đầy xương hóc hãy coi chừng kẻo nuốt khó trôi qua cứ ca đi, hơi lạc điệu bài ca là Ðảng ném toàn gia vào hỏa ngục! tháng năm trôi mùa thu ô nhục vẫn kéo dài ngang nửa dãy trường sơn.

chúng tôi tuy chìm ngụp giữa bùn trơn song sức sống con người hơn tất cả trước sau sẽ vùng lên quật ngã lũ quỷ yêu xuống tận đáy đồng lầy huyệt chôn vùi thu nhục nhã là đây vÔ ĐỀ 3 hè xuân sẽ huy hoàng đứng dậy dù chúng tôi hẩm hiu không được thấy mùa hè xuân thì đời của chúng tôi cũng làm cho nhân loại đổ mồ hôi khi tưởng tới bóng cờ ma đở ối! mặt trời lên cao, lòng tôi nhức nhối muốn cắt ngay cái phần hôi thối trên thân mình dằng dặc của thời gian nhưng nổi tiếng lì gan thời gian thản nhiên từ khước tháng năm nặng nề lê bước xót xa, ô nhục, đọa đày. tôi muốn kêu to trong câm lặng đen dày cho nhân loại trăm miền nghe thấy Ồ ạt đổ về đây lấp hộ đồng lầy diệt bầy muỗi độc ngày đêm phá hủy hồng cầu nhưng giữa bùn sâu ngập cổ ngập đầu tiếng kêu cứu khò khè trong cuống họng! trong khi ấy những lời lật lọng

của muôn vàn ếch nhái vẫn vang ngân bịp bợm xa gần năm châu bốn bể tôi biết thế, nên càng không thể để cho thời gian trì trệ nhấc tôi lên tôi xiết rên, quằn quại, tự tìm đường dù có phải bồi thường bằng xương thịt tôi không thể an tâm nằm hít mùi bùn đen tanh tưởi khiếp kinh bốn chung quanh yêu quỷ nấp canh rình súng ống sẵn sàng nhả đạn con người tôi tiêu điều nứt rạn có sợ gì viên đạn oan khiên giải thoát bao đau khổ triền miên hồn tôi tới trời quên bay bổng màn thép kia dù không lỗ hổng tôi sẽ dùng răng cắn đứt một khâu dù quỷ yêu bắt được quẳng vạc dầu tôi vẫn sẽ lao đầu không hối hận dưới bùn sâu, người trâu lận đận Đuổi bắt mặt trời theo lệnh ma vương lũ tiểu yêu ngang dọc đầy đường Đốc thúc, nghe rình lời than tiếng thở thằng này, sao mặt mày không hớn hở? thằng kia, sao dám thở dài? lũ chúng bây phải làm việc bằng hai Để quỷ chúa mừng sống dai trăm tuổi!

giữa thời gian muôn người đương chết đuối lòng cầu sao nhanh chóng khắp địa cầu Đứng đều lên, ồ tới đánh toang đầu con rắn đở vô cùng hung hiểm nó sinh ra lớn lên nhờ súc siểm nhả nọc hận thù, phờ phỉnh công phu khéo léo đầu cơ lòng yêu nước đui mù lạy lục tàu nga không nề điếm nhục Đủ hơi sức nó hiện hình phản phúc ngóc đầu, phì rít, bất nhân cắn cổ lê dân, quăng quật mộ phần phá đạo, phá đời, uống khô sông suối! Ôi thằng tây mà trước kia người dân không tiếc máu xương đánh đuổi nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả! lòng ái quốc bị lừa còn đương nằm buồn bã Ðảng gian ma mong kiếm chác thêm gì? bay tha hồ viện tới lý, trần, lê người dân đã chán chê với cái trò hề chiến tranh cách mạng cái họ được là khăn tang và nạng cái mất đi ánh sáng, cuộc đời Ðảng bắt câm, bắt nói, bắt khóc, bắt cười bắt đói, bắt làm, hé răng oán thán là tù ngục mục xương độc đoán

phải chăng đó giá công lao huyết hãn mấy ngàn ngày đánh pháp những năm xưa? biết là bao ô uế, lọc lừa người dân đã có thừa kinh nghiệm bùa phép yêu ma không còn linh nghiệm bạo lực đen ngòm trắng nhởn nhe nanh trại lính, trại tù xây lũy thép vây quanh song bạo lực cũng đành bất lực trước sự chán chường tột bực của nhân tâm! có những con người giả đui điếc thầm câm song rất thính và nhìn xa rất tốt Đã thấy rõ ngày đồng lầy mai một con rắn hồng dù lột xác cũng không thoát khỏi lưới trời lồng lộng mênh mông! lẽ cùng thông huyền bí vô cùng giờ phút lâm chung quỷ yêu làm sao ngờ nổi! rồi đây khi đất trời gió nổi tàn hung ơi, bão lửa, trốn vào đâu? bám vào đâu? lũ chúng bây dù cho có điên đầu lo âu, phòng bị bàn bạc cùng nhau chính đám sậy lau sẽ thiêu tất lũ bây thành tro xám! học thuyết mác, một linh hồn u ám 4 vÔ ĐỀ không gốc rễ gì trên mảnh đất ông cha

mấy chục năm phá nước, phá nhà Đã tới lúc lũ tông đồ phải lôi ra pháp trường tất cả! song bây vẫn tiệc tùng nhật dạ tưởng loài cây to khỏe chặt đi rồi không gì nghi ngại nữa! bây có hay sậy lau gặp lửa còn bùng to hơn cả đề, đa những con người chỉ có xương da sức bật lật nhào, tung hết! hoa cuộc sống, Ðảng xéo dày, mong nát chết nhưng mà không, sông núi vẫn lưu hương mỗi bờ tre, góc phố, vạn nẻo đường hương yêu dấu còn thầm vương thắm thiết nếu tất cả những tâm hồn rên xiết không cúi đầu cam chịu sống đau thương nếu chúng ta quyết định một con đường con đường máu, con đường giải thoát dù có phải xương tan thịt nát trong lửa thiêng trừng phạt bọn gian ma dù chết chưa trông thấy nở mùa hoa thì cũng sống cuộc đời không nhục nhã thì cũng sống cuộc đời oanh liệt đã! nếu chúng ta đồng tâm tất cả lấy máu đào tươi thắm tưới cho hoa máu ươm hoa, hoa máu chan hòa hoa sẽ nở muôn nhà muôn vạn đóa hoa hạnh phúc tự do vô giá

máu căm hờn phun đẫm mới đâm bông! Đất nước sa vào trong một hầm chông không phải một ngày thoát ra được đó con thuyền ra khơi phải chờ lộng gió phá xích, phá xiềng phải sức búa đao còn chúng ta phải lấy xác làm bè lấy máu trút ra, tạo thành sóng nước mới mong nổi lên vùng lầy tàn ngược nắm lấy cây sào cứu nạn trên cao tiếp súng, tiếp gươm bè bạn viện vào phá núi, vén mây, đón chào bão lộng mới có thể tiến vào hang động tiêu diệt yêu ma, thu lại đất trời thu lại màu xanh, ánh sáng, cuộc đời. chuyện lâu dài, sự sống ngắn, chao ơi! nỗi chờ mong thầm thiết mãi trong tôi. tôi mong mãi một tiếng gì như biển ầm vang dội một tiếng gì sôi nổi con tim Đã bao năm rồi teo chết nằm im trong những quan tài hình hài hèn đớn Âm tiếng đó dội lan qua các trại tù, trại tập trung rùng rợn làm suy nghĩ lũ quân thù trâu lợn tái tạo niềm tin cho tất cả những ai Đã gần như tuyệt vọng ở ngày mai lũ lau gầy, sậy úa, cả tàn phai náo nức, reo hò, trông ngó

Âm tiếng đó gây thành giông gió khắp đại dương cùng khổ âm u chớp xé trời đen, báo hiệu lũ quân thù giờ hủy thể! tôi mong mãi một tiếng gì như tiếng ầm vang của bể Đồng bào tôi cũng mong như thế tôi lắng nghe hình như tiếng đó đã bắt đầu nhưng tôi hiểu rằng đó là tiếng của lịch sử dài lâu. nên trời đêm dù thăm thẳm ngòm sâu dường như vô giới hạn ở trên đầu, tôi vẫn nguyện cầu vẫn sống và tin bình minh tới, bình minh sẽ tới. cờ vô đạo đương ngang trời phấp phới tôi vẫn mơ chân lý tận xa vời tới lùa tan ngàn vực tối trên đời trong hào quang dữ dội hiển linh! muôn ầm ầm chấn động trời thinh báo hiệu bình minh sét nổ Ôi, ghê sợ cả một trời phẫn nộ cả một trời đau khổ khôn lường Đã bao ngày nén xuống thảm thương dưới tận đáy đồng lầy tủi hổ sẽ trào dâng như sóng gầm thác đổ bọn quỷ yêu sẽ tới ngày tận số

xác lũ bây sẽ ngập đường ngập phố máu lũ bây hoen ố cả nền trời kèn tự do đắc thắng nơi nơi khai mạc bình minh khôi phục cuộc đời. Ôi tôi sống và tôi chờ đợi ngày triệu triệu trái tim bùng nổ tung trời! Đêm đồng lầy lõm bõm sương rơi cú rúc, trăng buồn rười rượi... (1972) Đất nước tôi... Đất nước tôi yếu nghèo bé nhỏ lại chịu toàn tai họa quá to Đồng bào tôi sống yên lành như thotrẻ cũng mỏi mòn tù ngục nằm co các loại mồ hôi đều chảy vào kho máu nhuộm cờ, hoa trưng bày đây đó vÔ ĐỀ 21 mắt địa cầu cận thị lòi to lệ cứ tha hồ lụt nhỏ miễn là mùi xoa thay thành cờ đở vẫy mừng bọn cướp tự do Đạo mạo, thung dung trên tàn tro xương sọ tôi không nhớ hết tên bọn nó duẩn, giáp, hồ hề, chinh xu gì đó! (1971) Đau đớn lắm...

Đau đớn lắm cái lầm to thế kỷ sử sách ngàn đời còn mãi khắc ghi! mấy chục năm trời xương máu đổ đi thử hỏi dân đen thu được những gì? ngoài một số từ lừa mị kẻ ngu si! người công nhân trước gọi cu li người lính cũ nay gọi là chiến sĩ song vẫn vác, vẫn khuân, vẫn đói nghèo vẫn bị Đẩy đi chiến trường chết hoài, chết phí cho một lũ trung ương lợn ỉ! còn cuộc sống ngày xưa lầm than tắc tị nay vạn lần thêm tắc tị, đen xì! Đau đớn lắm cái lầm to thế kỷ sử sách ngàn đời còn mãi khắc ghi! (1970) Đêm nằm nghe... Đêm nằm nghe tiếng mưa rơi nghe hơi gió thổi, nghe đời quạnh hiu niềm yêu nát dột, tiêu điều niềm tin bóng đổ xiêu xiêu mái tường chân trời - chuyện cũ đáng thương văn chương nặng chĩu gông xiềng khổ đau gia đình tan tác lìa nhau trưa chiều lưng bát cơm rau lạnh lòng nửa đời thân thế long đong nhà thương tù ngục xoay vòng tuổi xuân một năm thổ huyết dăm lần

mười năm cấm cố tiêu dần thịt da rừng hoang biên giới mưa sa hoẵng kêu nốc giọng xa xa trên ngàn chăn đơn khôn ấm nỗi hàn co lên đắp tấm thân tàn bỏ đi... (1974) Đêm ngày nghe... Đêm ngày nghe gió thổi bao mùa thắm nhạt trôi! sao sắc màu chẳng nổi thâm quầng mắt một đôi! sáng nhìn cây nắng gội ngỡ ngày vui tới rồi nhưng ước mơ lừa dối Đường xanh đâu mở lối! trưa nhìn ao bèo nổi nước lay chòm cả rối thấy lòng như mồ côi xác xơ tình đứt mối! chiều thơ thẩn trên đồi trông vòm mây trắng trôi lờ lững về xa xôi chán cảnh lồng chật chội! Đêm nằm trong buồng tối mưa rơi trên lá gồi nghe không gian lầy lội nghe thời gian nhức nhối!

không còn trông đợi nổi biết đời chỉ thế thôi nhưng lửa sống hồn tôi làm sao tôi dập nổi! (1965) Đêm rừng... Đêm rừng, rả rích mưa, phòng dột Ôm gối ngồi run lạnh, nhìn nhau chấm lửa mờ xanh một ngọn đèn dầu thùng nước giải, thùng phân, sàn rệp đốt Đêm trừ tịch tù năm sáu mốt. (1962)

không có gì quý hơn… không có gì quý hơn độc lập tự do không có gì quý hơn độc lập tự do tôi biết nó, thằng nói câu đó. tôi biết nó, đồng bào miền bắc này biết nó việc nó làm, tội nó phạm ra sao. nó đầu tiên đem râu nó bện vào hình xác lão mao lông lá bàn tay nga đầy băng tuyết giá 14 vÔ ĐỀ cũng nhoài qua lục địa trung hoa không phải xoa đầu, mà túm tóc nó từ xa. nó đứng không yên, tất bật, điên đầu

lúc rụi vào tàu, lúc rúc vào nga nó gọi tàu nga là cha anh nó và tình nguyện làm con chó nhỏ xông xáo giữ nhà gác ngõ cho cha anh nó tận thu từ quả trứng, quả chanh học lối hung tàn của cha anh nó cuộc chiến tranh chết vội hết thanh niên đương diễn ra triền miên ghê gớm đó cũng là do nga giật tàu co tiếp nhiên liệu gây mồi cho nó: súng, tăng, tên lửa, tàu bay nếu không, nó đánh bằng tay? Ôi đó, thứ độc lập không có gì quý hơn của nó! tôi biết rõ, đồng bào miền bắc này biết rõ việc nó làm, tội nó phạm ra sao nó là tên trùm đao phủ năm nào hồi cải cách đã đem tù, đem bắn Độ nửa triệu nông dân, rồi bảo là nhầm lẫn! Đường nó đi trùng điệp bất nhân hầm hập trời đêm nguyên thủy Đói khổ dựng cờ đại súy con cá lá rau nát nhầu quản lý tiếng thớt, tiếng dao vọng từ hồi ký tiếng thở lời than đan họa ụp vào thân nó tập trung hàng chục vạn ngụy quân nạn nhân của đường lối “khoan hồng chí nhân” của nó mọi tầng lớp nhân dân bị cầm chân trên đất nó

tự do, không thời hạn đi tù! mắt nó nhìn ai cũng hóa kẻ thù vì ai cũng đói mòn nhục nhằn cắn răng tạm nuốt hiếm có gia đình không có người bị nó cho đi suốt Đất nó thầm câm cũng chẳng được tha tất cả phải thành loa sa sả đêm ngày ngợi ca nó và Ðảng nó Đó là thứ tự do không có gì quý hơn của nó! Ôi Độc lập, tự do! xưa cũng chỉ vì quý hai thứ đó Đất bắc mắc lừa mất vào tay nó nhưng nay mà vẫn còn có người mơ hồ nghe nó nó mới vạn lần cần nguyền rủa thực to! (1968) Đêm nay... Đêm nay đông đã tràn về từng cơn gió lạnh, tái tê đất trời rừng cây trút lá bời bời non xa lạnh vắng sao trời mờ sương chạnh lòng nhớ tới quê hương cách xa kể đã gió sương mấy mùa buồn thay số phận thiệt thua sa chân một bước xót chua một đời mẹ cha ở chốn chân trời thương con chắc hẳn lệ rơi đã nhiều tuổi già sống được bao nhiêu mà đau khổ tới xế chiều chưa thôi

Đời con, con đã liệu rồi sống hay thác cũng thế thôi khác gì? chỉ thương cha mẹ một khi con nằm dưới đất lấy chi khuây sầu Ốm đau hai bóng bạc đầu sớm hôm thui thủi canh thâu nghẹn ngào Đêm nay cây gió dạt dào trăng lu khuất bóng, lòng sao đượm buồn? (1962) vÔ ĐỀ 19 Đất này... Đất này chẳng có niềm vui ngày quệt mồ hôi, đêm chùi lệ ướt trại lính, trại tù người đi không ngớt người về thưa thớt dăm ba... trẻ con đói xanh như tàu lá cầy bừa phụ nữ đảm đang chốn thôn trang vắng bóng trai làng giấy báo tử rơi đầy mái rạ buồn tất cả chỉ cái loa là vui! (1965) Điều khiển máy... Điều khiển máy, và chăn nuôi gia súc là con người, nhưng nghĩ thật cay chua! người đông thừa phải hoãn đẻ, ai mua? nên giá trị đành thua con vật.

song máy móc mới thật là quý nhất! Đã đắt tiền lại ngoại tệ mới mong mua. kinh tế mác - lê đâu phải chuyện đùa Ðảng lãnh đạo càng thêm sáng tạo! mong ước gì, ôi lũ dân đói gạo, trong tiếng thét gào năng suất nâng cao? (1963) Đêm rừng... Đêm rừng, một tiếng chim xa lạ một tiếng giày canh bước hụt đà người lính đi tuần pin lấp lóa trong xà lim tiếng gã điên la ta nằm không động nghe từ tạ mảng đời niên thiếu lắng trôi qua Đau ốm lao tù thui chết cả bao búp xanh lòng mới nhú ra. (1968) gửi bertrant rút-xen Ông là một bậc triết nhân nhưng về chính trị ông đần làm sao Ông bênh việt cộng ồn ào nhưng ông hiểu chúng tị nào cho cam mời ông tới bắc việt nam xem nô lệ đói phải làm ra sao mời ông tới các nhà lao xem bò, lợn được đề cao hơn người không ai kêu nổi một lời

mồm dân Ðảng khóa đã mười mấy năm! xem rồi ông mới hờn căm muốn đem bọn chúng ra băm ra vằm tuổi ông ngót nghét một trăm nhưng thua cậu bé mười lăm đói gầy về môn “cộng sản học” này! (1968)

giống như kẻ mù lòa... giống như kẻ mù lòa mơ ánh sáng Để trong tim sầm tối cả hơn ngoài trời biếc xanh tôi cất cánh bay hoài Để tan tác mảnh hồn trăm miếng vá! giặc ước mơ ngày đêm đánh phá tòa lâu đài hoang phế trái tim tôi lớp rêu xanh mà đau khổ liên hồi phủ lên đó, không thể nào chống nổi sức công phá của đoàn quân dữ dội chịu lai hàng, mơ ước chiếm tin tôi! Ước mơ ơi, ngươi đã bị vây rồi ngươi đã kẹp trong vòng vây sắt thép ngươi sẽ bị quân cuộc đời nghiến bẹp quân cuộc đời, quân khủng khiếp sao đương! quân ước mơ, quân nổi tiếng can trường quyết mở cuộc tiến công vào cuộc sống trái tim tôi ngày và đêm vang động quân cuộc đời, quân mơ ước giao tranh

quân ước mơ thây xác chất nên thành bê bết máu, thân mình đầy thương tích vẫn quằn quại, cuồng điên, phản kích quân cuộc đời lạnh lẽo chém, đâm, băm cho tới khi chiến địa ngổn ngang nằm quân mơ ước chết không còn một bóng! cố vấn thời gian truyền: “quân cuộc sống phải sẵn sàng, chinh chiến sẽ còn to quân ước mơ cứu viện đã sang đò chúng chỉ khuất khi nào tim hết máu!” (1963)

giữa nắng... giữa nắng, giữa hoa, giữa trời, giữa nước tâm hồn tôi, bao thuốc buổi hừng đông trong mưa giông vẫn cứ rực hồng trên môi trẻ một trời hương khói biếc... giữa tan biến sắc hương, tan tành tượng bụt giữa muôn phương chết chóc cơ hàn rác rưởi hôi tanh, sắt thép hung tàn Ô uế lưu niên muôn đời dồn chút! bao thuốc quý tôi quen dùng cuộn hút mong khói huyền xua xú khí chung quanh lại cạn từ lâu, điếu vụn cuốn không thành! chỉ còn trơ một thể xác gầy xanh tù, bệnh tranh giành nguy khốn và triệt hết mọi con đường lẩn trốn!

(1970)

hiện tại... hiện tại mồ hôi chùi xóa nhẵn in hình đen xạm xuống da nhăn tròn ba mươi tuổi xòe tay trắng nắn bóp đôi chân nát sẹo lằn quá khứ mang đầy những khát khao vỡ tan ngàn mảnh cắm sâu vào... quay đầu ngoảnh lại trông chi nữa? hãy cố dần lê tới hố đào! Đợi chờ ngày tháng không mang lại thân thế chìm trong tiếng thở dài thôi nếu tim còn dư chút mực trang đời xin gạch chữ tương lai. (1968) hãy cho qua... hãy cho qua những gì đã qua chớ nghĩ tới những gì sẽ tới Điều đó được, nhưng còn hiện tại hiện tại hung tàn, không chút dung tha tra tấn ta từng phút lại từng giờ bắt ta khóc những ngày qua đã mất Đợi ngày mai dù chẳng thấy tăm hơi! nghĩa là khi ta sống ở trên đời Đời lang sói ta càng không thể trốn phải chiến đấu giữa muôn trùng nguy khốn

góp phần thất bại với tương lai Đó cũng là tia chớp của ngày mai dù mất hút trong trời đêm hiện tại tôi thừa nhận tia chớp này vĩ đại! (1975)

hàng ngày tôi tới... hàng ngày tôi tới tiệm trà vào những lúc vắng người uống nhất tôi chọn chiếc bàn kê trong xó khuất ngồi một mình, vừa xem báo, vừa pha tin tức nọ kia nào có thiết tha tôi giở qua loa vài trang rồi bỏ ngồi ngả người như nằm trong góc đó Óc mệt buồn chẳng nghĩ ngợi chi thuốc hút luôn cũng chẳng thấy vị gì tôi thỉnh thoảng chỉ thở dài lặng lẽ hoặc lắc đầu để cố xua đi những hình bóng mơ hồ rầu rĩ của một đời vô vị, bỏ đi. (1958)

hằng nga... hằng nga đổ xuống hồ ao tối từng khối kim ngân lóe sáng vàng! cây cối muôn loài đương tắm gội nô vờn trong biển sáng thênh thang...

Ếch nhái vang lời nhạc hỗn mang một vì sao vụt xuống thăm làng tới bụi gai dầy, sao hóa dạng thành con đom đóm lóe lân quang mơ màng mây gió đi lang thang... bụi sương mờ trắng trên thôn trang Đôi lúc ao vàng như sực tỉnh ném lên vài miếng bạc lung linh! những đống rơm vàng đứng lặng thinh mồ hôi nhễ nhại khắp thân mình khóm chuối thương tình phe phẩy quạt hàng cau kiêu ngạo đứng rung rinh... muôn vạn vì sao trôi lênh đênh trông như muôn vạn cánh buồm xanh... hằng nga đôi lúc buồn, lơ đãng 44 vÔ ĐỀ kéo tấm màn mây phủ lấy mình mặc mái nhà tranh đứng nấp rình há mõm đen ngòm trông khiếp kinh muốn nuốt tôi vào trong bụng tối! hồn tôi siêu thoát giữa mông mênh! (1965)

hồng trần khao khát... hồng trần khao khát thiên thai thiên thai lại nhớ trần ai tìm về! tâm hồn nhân loại nhiêu khê

khổ đau là đúng, đừng chê trách đời. phỏng xưa từ thức rong chơi Đào nguyên lạc bước lại rời trần ai thời y lại chán thiên thai giữa bầy tiên nữ thở dài như xưa! triết nhân là kẻ có thừa dù cho cái có là chưa có gì! thường nhân là kẻ ngu si quẳng đi cái có khổ vì cái không! (1961) không tưởng tiếc... không tưởng tiếc, thôi xin chào ước mộng ta về nơi u ám của mùa Đông botrẻ lại sau bao loang loáng xanh hồng không tuởng tiếc, không còn gan lần lữa! thôi, thôi nhé mùa Đông đừng gõ cửa lòng của ta lay gọi những trưa hè le lói lại vài ba tia nắng hé chỉ càng thêm mù xám quãng đời mưa thôi thôi nhé, lòng ơi, đừng khổ nữa thôi giận buồn, thôi giấc mộng ngày xưa khuấy động làm chi những tháng năm thừa khi thân thế đã không đường sửa chữa! thôi hãy đốt đời xuân trong sắc lửa Để hờn xanh theo khói biếc bay đi. huyền nhiệm thay, ngay giây phút phân kỳ trong ánh mắt đã say màu quên lãng

thôi hãy rót tương lai và quá vãng trong rượu hồng hay máu của lòng ta trong rượu trong hay nước mắt ngày qua khắp quanh ta muôn vật hãy phai nhòa! (1963) khi ta tới... khi ta tới mặt trời đã nguội gió mùa thu giở gió may cào những mầm non khô cứng tế bào máu thay sắc mang màu xanh rớt và mặt đất hóa thành mặt thớt và con người con cá thiu ươn khắp nơi nơi nhung nhúc loài lươn loài giun đất không quằn khi dẫm tình mộng đã vùi chôn một nấm hận thù trơ trọi sống mồ côi những vần thơ lãng mạn câm rồi còn rỏ xuống một giòng đở xẫm (1963) khi tới nhà ông... khi tới nhà ông tôi sẽ nói cùng vợ con ông rằng ông đói quanh năm tuổi ông già, răng ông móm, nhưng ông chăm Đi lao động kiếm phần ngô còm cõi! miệng bát sành cơm gần như đá sỏi! Ông nuốt vào rồi lại tống nguyên ra vợ con ông cùng cháu chắt trong nhà

chắc sẽ phải vui lòng hả dạ vì thấy ông già tiến bộ khác xưa xa dưới chế độ ta dân chủ cộng hòa! (1968) 46 vÔ ĐỀ khi tổ quốc... khi tổ quốc đen xì ta làm sao dám nghỉ! phải cân nhắc, nghĩ suy phải quan sát, chép ghi những tội ác cực kỳ mà cộng sản vung phí và xảo quyệt dấu đi trước con mắt hoài nghi của con người thế kỷ (1972) không một chỗ... không một chỗ trên con tàu quả đất tôi là người hành khách bơ vơ lỡ chuyến, lầm ga, mất cắp, bây giờ Đứng chen chúc trên sàn toa bẩn nhất — sàn một toa đen dành cho súc vật (1967) không lối thoát... không lối thoát, tối đen và lạnh toát Đôi chân đau gai nát, muốn đi lùi! nhưng đàng sau toàn những bụi cùng tro

nếu tôi dẫm làm mù tung chúng nó mắt tôi sẽ bị cay xè và đở! nên không tiến không lùi, tôi đứng đó trông thời gian lật lọng lăn qua vung búa liềm phá trụi các loài hoa cỏ úa, lau gầy cũng chẳng được tha! tôi đứng đó, và ghi vất vả qua ánh đèn pin chập chùng truy nã! (1973)

khắp non sông... khắp non sông vang nhịp đàn xuân sáng lòng nặng nề khôn mở đón xuân sang xuân ước mơ, mơ ước đóng băng rồi thắm nở đào hoa, sắc lòng tím ngắt sáng biếc mây trời, tối sầm ánh mắt giải đời buồn, xuân vẫn tới xuân ơi! muốn cao bay theo khúc đàn xuân mới hồn nặng chìm, đôi cánh rũ đau rơi năm tháng trôi, hồng thắm sắp phai rồi thắm nhạt, hồng phai, tiếng lòng thổn thức hiến khúc tưng bừng đàn xuân náo nức lỡ nhịp rồi xuân hỡi chớ ngân cao! Ước mơ chi khi nợ nần cơm áo còn nặng đè lên hình xác xanh xao xuân đến kia, hồn nước chửa thay màu lỗi hẹn cùng xuân, tiếng đời vắng ngắt

biết đến bao giờ lòng xuân mới tắt tiếng nghẹn ngào sai lỗi nhịp xuân ơi! xuân thắm tươi, xuân của đất của trời xuân xám ngắt, xuân của người của nước! (1964) khi na tra... khi na tra bị băm thành thịt nát hồn bay về tìm thái Ất chân nhân quỳ khóc than kể hết chuyện dương trần toàn khổ não, oan tình cùng uất hận! 38 vÔ ĐỀ thái Ất nghiêm trang truyền học trò: thôi giận! rồi buồn buồn giảng đạo lý cao xa: hỡi oan hồn của thái tử na tra ngươi đã thấy trần gian đầy khốn cực ta cho ngươi hạ sơn tìm sự thực sự thực thấy rồi, ngươi đã về đây quỳ dưới chân ta, nước lệ tràn đầy tình sư đệ thực lòng ta ái ngại nhưng khi trao phép màu ta buộc phải Để cho người tắm gội giữa đau thương cho linh hồn tinh khiết tỏa mùi hương cho thể xác ố tì tiêu tán hết! hỡi oan hồn na tra đã chết hãy nhập ngay vào trong đóa sen tươi! Đóa hoa sen vụt nở hóa một người quỳ phục xuống, hôn bàn chân sư phụ

thái Ất chân nhân ôn tồn huấn dụ: — bao oán thù kiếp trước hãy quên mau lời ta truyền, tim óc khắc ghi sâu! thái tử na tra vâng mệnh cúi đầu nhưng một mối buồn không tưởng tới một mối buồn mênh mông vời vợi từ lúc hồi sinh đã ngự trong tim thái tử lui ra nhìn mây núi, như tìm lòng yêu sống, yêu người trong kiếp trước! (1972) khi nào được gặp... khi nào được gặp lại anh sẽ kể anh nghe nhiều về chuyện sắn! có chuyện thương tâm, chuyện cùm, chuyện bắn có chuyện nhục nhằn, phản phúc, gian manh. tất cả tuy làm đau xót lòng anh 16 vÔ ĐỀ niềm đau ấy quân thù khiếp hãi tôi có thể viết dài, viết mãi những chuyện mủi lòng về sắn và khoai — chế độ ta, khoai sắn, một đề tài cũng bất diệt như đề tài trai gái! (1967) khi nào ánh sáng... khi nào ánh sáng của vầng dương còn chiếu vàng trên hai mái sương thì lòng khi ấy còn mong sống

Đời vẫn còn hai bóng dáng thương nhưng khi bóng tối của đêm sương Đã phủ lên đầu hai mái thương thì lòng tôi khó mà phân biệt vầng dương sầm tối với đêm trường! (1964) khi mỹ chạy... khi mỹ chạy, bỏ miền nam cho cộng sản sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than giữa tù lao, bệnh hoạn, cơ hàn thơ vẫn bắn, và thừa dư sức đạn! vì thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn không dành cho thế lực yêu gian tuyệt vọng dẫu lan tràn hy vọng dẫu tiêu tan 24 vÔ ĐỀ dân nước dẫu đêm dài ai oán thơ vẫn đó, gông cùm trên ván Âm thầm, thâm tím, kiên gan biến trái tim thành “chiếu yêu kính” giúp nhân gian nhận rõ nguyên hình cộng sản tất cả suy tàn, sức thơ vô hạn thắng không gian, và thắng cả thời gian sắt thép quân thù, năm tháng rỉ han! (1975) khi muối chát...

khi muối chát đưa vào mồm thấy ngọt và khi lá sắn hóa bùi, thơm cũng là khi tôi lấy máu lẫn đờm quệt vào mặt mác - lê bằng mọi giá kể cả giá treo cổ! (1976) khi số phận... khi số phận buộc ai là kẻ sống Ở cái phần chó má của quê hương thì thủy chung duy chỉ gã bạn đường là bóng tối lao tù theo kẻ ấy trên nét mặt, trên áo quần như thấy còn mang theo tất cả nỗi cơ hàn vÔ ĐỀ 43 một con người Ðảng dốc lực nghiền tan trong bộ máy khổng lồ không thể thoát môi với lưỡi khô se toàn vị chát hương ngọt ngào như mọc cánh bay xa trên trán xanh, xanh nhợt bóng chiều tà bao khát vọng đổ mồ hôi lấm tấm Đời muôn ngả, một mình như một chấm nhỏ mờ trong muôn vạn nét tơi bời Đất mồ hôi trôi mất nụ cười hương ẩm mốc tháng năm dài gậm nhấm trong vườn sống ước mơ là trái cấm rắn sa tăng hối cải, hóa thiên thần! bốn chung quanh không bóng một tình thân

ngoài chiếc bóng nghi ngờ mờ hoặc xẫm. (1962) lãnh tụ... lãnh tụ béo nục dân đen gầy rục! lao động hùng hục họp hành liên tục Đói ăn khắc phục kêu ca tống ngục! cộng sản đánh gục Đời mới hết nhục! (1962) lý tưởng... lý tưởng, quang vinh, mộng tình, lẽ sống chuyện trên trời dưới biển xa xôi! thú thực là dân đói chúng tôi chỉ mơ ước được no bằng con vật vì giấc mơ được làm con người đã mênh mông không thành sự thật lại rũ tù cả lũ như chơi! gạo, sắn, ngô, khoai — tứ chướng trên đời — quấn chặt, rối bời, điêu đứng! (1971) lòng vẫn nhớ... lòng vẫn nhớ làm sao cái ngày lạnh đói hành trang một gói lên đường giữa quãng đêm trường rời bỏ quê hương

rời bỏ gia đình, tình thương đứt ruột! thôi rồi, đời đi suốt từ đây vĩnh biệt từ đây vĩnh biệt! ngày về nào biết khi nao? cửa sắt tù lao khép chặt! mẹ cha già sống trong héo hắt thương đau... lần lượt cùng nhau khuất bóng chẳng còn trông ngóng Đứa con tù vô tội trong các trại tù tăm tối nhất dương gian! (1976) là quỷ... là quỷ? là ma? là thú dữ? gian manh, tàn ác, đê hèn lũ cưỡi đầu, bóp cổ dân đen Để gọi chúng, tiếng người không đủ chữ! và cũng khó tìm trong ngôn ngữ chữ gì diễn đạt nguyên si kiếp sống lầm than, đầy ải. đen sì ngoài cái chết, không còn đâu lối thoát! (1969) lạc giống đem trồng... lạc giống đem trồng trộn lẫn tro phân

Để tránh tù ăn, nhưng vô tác dụng trộn d.d.t. thử xem dám đụng? kết quả là tù đớp vụng hàng cân! ngấm thuốc lạc giồng không nẩy một nhân Ðảng đã hoàn thành kế hoạch đông xuân! (1962) vÔ ĐỀ 17 lệ Đừng nhỏ phí giọt nào nước mắt Đời nó buồn, oan khổ, lưu li nó âm thầm chẳng nói năng chi mà ấm ướt tình người trong vắt Đau đớn phải trào ra khỏi mắt nó chảy vòng lưu luyến hàng mi nước mắt dào trên má là khi nó tưới mát mảnh hồn héo hắt trái tim ta trong giòng nước mắt ngọc trai trong giếng nước diệu kỳ trong muôn giòng trái đất tuôn đi, giòng trong nhất là giòng nước mắt! thế kỷ sẽ về đây đủ mặt Đại đoàn viên nước mắt chia ly. (1971) mỗi lầm lỡ... mỗi lầm lỡ, một mảnh lòng rạn vỡ song thời gian hàn gắn được đôi phần riêng cái lầm nơi đất đở dung thân

thời gian khoét to và sâu, bất tận! cuộc đời tôi có nhiều lầm lẫn lầm nơi, lầm lúc, lầm người nhưng cái lầm to uổng phí cả đời là đã ngốc nghe và tin cộng sản! (1963)

mắt em... mắt em mềm mại con đò anh nhìn chẳng thấy hẹn hò một câu mắt em trong mát giòng sâu anh nhìn chẳng thấy nhịp cầu bắc qua mắt em là một vườn hoa vắng anh, thắm nở chóa lòa sắc hương vườn hoa ấy, cảnh thiên đường anh nhìn chỉ thấy cửa thường đóng nghiêm! (1957) màu thời gian... màu thời gian đã chuyển về sắc xám vị thời gian đã ngả tới mùi thiu nửa trang đời dập xóa, tẩy còn lưu và còn đó nửa trang dài lạnh trắng... tim trúng độc hóa ra bầu mật đắng hệ thần kinh một mớ chỉ xù lông nửa trang đời không một chữ nào trông thành nét chữ, nửa trang dài lạnh trắng... không gian tắt không còn vương chút nắng

một vầng trăng lạnh lẽo đứng bơ vơ nửa trang đời toan viết một bài thơ nhưng lỗi vận, nửa trang dài lạnh trắng... giông gió hết bơ phờ trong quạnh vắng cảnh hoang tàn cây đổ mái nhà xiêu nửa trang đời thâm tím với bầm biêu lòng dột nát, nửa trang đành bỏ trắng? (1963) mẹ ơi mẹ ơi! mẹ đã mất rồi! trái đất không còn có mẹ mẹ chẳng bao giờ còn thấy mặt con còn khóc nữa! con chẳng cần ra tù nữa nếu thầy không còn sống, mẹ ơi! mẹ đã mất rồi mãi mãi không còn thấy mẹ! mai hậu đời con cũng hết mà vẫn không thấy mẹ, mẹ ơi! (1970) mẹ tôi... mẹ tôi trong những ngày giỗ chạp thường ngồi chắp tay cầu khẩn giờ lâu chiếc áo hoa hiên cũ đã bạc màu tôi chỉ thấy mẹ dùng khi lễ bái Đời của tôi nhiều khổ đau oan trái

mẹ bao giờ cũng cầu nguyện cho tôi Đứa con trai tù tội mấy phen rồi hàng nước mắt chảy giòng trên má mẹ ngồi bên mẹ, tôi thấy mình nhỏ bé tình thương yêu của mẹ lớn bao nhiêu mẹ ơi, con lòng chỉ nguyện một điều: Được gần sống, đừng lìa xa khỏi mẹ! giờ hẳn mẹ mỗi khi ngồi cầu lễ cho đứa con tù bệnh chốn rừng sâu chiếc áo hoa hiên cũ đã bạc màu phải đầm ướt biết bao hàng nước lệ! (1963) một hình bóng... một hình bóng mơ hồ của thời xưa ấu thơ thoáng hiện giấc ngủ còn say mà cay đắng đã mênh mông thế giới vô tri, thương nhớ chập chùng lay tỉnh, quặn đau vùng bụng! Ôi, những trưa buồn nằm trong thung lũng mắt đã quầng, má xanh đã trũng! tôi cần một giấc ngủ yên vÔ ĐỀ 31 quá khứ thường xuyên xotrẻ xiên phóng ra luồng điện giật tiềm thức tôi co lại quằn lên! Điện tắt, song buồn lan mãi, vô biên! (1972)

một tay em trổ... một tay em trổ: Đời xua đuổi một tay em trổ: hận vô bờ thế giới ơi, người có thể ngờ Đó là một tù nhân tám tuổi! trên bước đường tù tôi rong ruổi tôi gặp hàng ngàn em bé như em! (1971)

mưa chiều sớm mưa rơi Đời ơi, nhợt trắng cầu mong chi, lòng ngậm đắng! tháng năm dài nặng qua nhanh một đống ngày xanh bỏ xó hàng hiên mưa rỏ Đầm đìa cây cả niềm tin lụt lội tan trôi... hẹn ước chao ôi lỡ độ rồi! trái tim đầy bóng tối mưa buồn rơi trên khắp lối mong gì xa xôi cho lòng tiếc hối từng cơn đau dội, lòng ơi! tầm tã mưa rơi Đất trời trắng nước ngàn hoa mơ ước rũ tàn sầu sũng không gian

mưa tràn lan bốn ngả giận này không hả hận này khôn tả họa áo cơm đời nghiêng ngả biết sao? mưa vẫn tự tầng cao Ào ào rơi mãi dột nát cả đời trai dần dà chí cả nhòa phai nào bóng ngày mai đổi mới? năm đợi tháng chờ, niềm vui chẳng tới lệ trời rơi... rơi... Đợi... tàn đời... (1964) mùa đông ập tới... mùa đông ập tới, đêm rừng giá gió bấc mưa rầm lướt thướt qua củ khoai hà dím thành vô giá bệnh cũ âm thầm lại phát ra lũ tôi đã đoán bao người ngã trong vụ đông này khó đứng qua thân xác như hình nan cốt mã mong cầu Đông giá nới tay tha! (1970) miếng thịt lợn... miếng thịt lợn, chao ôi là vĩ đại!

miếng thịt bò lại vĩ đại bằng hai! chanh, chuối, cam, đường, lạc, đỗ, gạo, khoai tất cả những gì người có thể nhai Ðảng mò tới tự nhiên thành vĩ đại chuyện có thực mà tưởng như thần thoại mà tưởng như ác mộng bi ai! (1974)

những truyện... những truyện “mắt thần” “nhạn trắng” “dao bay” khiến con trẻ thời xưa lập Ðảng này đảng nọ từ Ðảng “đầu lâu” tới “đôi mắt đở” con trẻ thời nay không còn có những mắt thần, mắt quỷ trao tay nhưng các cô, các chú, các thầy lại bắt các em đọc những cuốn dày về Ðảng thế là các em cũng thành lập Ðảng cũng trung Ương, cũng xứ ủy bắc kỳ! chuyện trẻ con tôi nói làm gì? nhưng Ðảng — Ðảng thật! — lại bỏ tù các em mới thảm! cha mẹ các em mặt mày xanh xám khi lệnh bắt con mình ghi rõ tội danh “phản nhân dân” “phản cách mạng hiện hành” em nhẹ nhất cũng ba năm tù mới khổ! Đó là Ðảng đã khoan hồng chiếu cố

cho cái tuổi mười lăm, mười sáu ngây thơ nhưng các em cùng thân quyến chẳng ai ngờ mãn hạn được tha về là đại phúc! vô số ba năm dài ra hàng chục! (1967)

nghĩ tới cuộc đời... nghĩ tới cuộc đời, nghĩ tới tương lai là tim muốn nát ra vì vỡ nát không nghĩ tới gì, không nghĩ tới ai thì lửa đói đốt thiêu lòng rộp rát! 34 vÔ ĐỀ hai nỗi khổ như là hai cái tát giáng vào hai má chính cuộc đời trai bị ngục tù ủ mốc, bốc mùi hoai! (1970) ngủ thức đêm ngày... ngủ thức đêm ngày, thần kinh ốm nản chỉ thấy đi về toàn bóng hồn oan Đã khô rồi giọt nước mắt lìa tan tình non nước, tình yêu, tình người, tình bạn thứ hiện nguyên hình lưỡi dao bội phản thứ ngấm ngầm đục ruỗng cả buồng gan thứ chua nồng như thể nước cường toan thứ tàn phá hơn là bom với đạn! Ảo tưởng trăm màu thiết tha vô hạn cháy đen thành một đống bùn than

nỗi trông chờ cuộc đổi mới trời ban cũng từng bước xa rời không sức cản lực đã tàn và chí xưa đã cạn mất cả rồi những vật lấp thời gian mảnh hồn tôi nguyện là một cây đàn muôn điệu ngàn dây, vô vàn vang dậy giờ tiếng buồn đau cũng không thể gẩy tiếng rã rời, ôi cũng vậy thầm câm! tất cả trong tôi chết chóc lên mầm tối sầm, mốc, ẩm. (1970) nhắm mắt là... nhắm mắt là con nhìn thấy ngay mẹ mắt mờ run bước cạnh thầy căn gác âm thầm ngao ngán quá hai bóng già nua tối lại ngày. mơ về căn gác yêu thương ấy tan nát lòng con lắm, mẹ thầy Đau ốm, hao gầy, đôi mắt lóa Đêm ngày trông đợi đứa con xa giam hãm trong rừng cây vách đá con vẫn hình dung thấy cảnh nhà lệ ứa hai hàng hoen ướt má mẹ khóc vì con mãi, mẹ già! thầy hỡi, con hình dung rõ quá! thờ thẫn vào ra, nét mặt gầy hình bóng muôn vàn đau xót ấy

quặn buốt lòng con tới đọa đày! (1968) nhìn thần chết... nhìn thần chết hiện lên dần từng bước thân tù cao không có lực xô lùi anh chết oan, chết thảm, chết dập vùi hồn khổ não không thể nào siêu thoát Đêm đêm hiện về đây lạnh toát bộ đồ đen, bụng phù chướng bước đi anh ngước nhìn tôi, ra hiệu chẳng nói gì mặt bủng xám, mắt ngời lên sáng quắc anh bạn ơi, đời tù lao nghiệt khắc có thể nào đốt được nén hương thơm tặng hồn anh cùng quả trứng bát cơm Để tỏ ý xót thương và tưởng niệm! anh đã linh thiêng về đây ứng nghiệm thế đủ rồi, tôi hiểu, hãy nên lui thể xác anh chuột khoét đã chôn vùi hồn anh hãy về vui nơi cực lạc lưu luyến chi đời tù lao đói rạc sống đọa đày thoi thóp, sống ngựa trâu chết như anh, hết khổ, có chi sầu? anh vẫn nhìn tôi, bướng bỉnh lắc đầu coi mặt đất cực hình chưa hưởng đủ? tùy anh đó, thôi chào anh, tôi ngủ! (1968)

như áng mây chiều như áng mây chiều vô định bồng bình theo gió... “manh áo trắng phút hóa thành con chó màu xanh...” Ôi Đỗ phủ thương yêu! mảnh hồn tôi như áng mây chiều màu sắc, hình thù hư ảo nhưng mãi mãi vẫn là hồn cô đảo bập bềnh trôi giữa không trung trong đêm đông mưa gió mịt mùng trong nắng lóa tưng bừng lộng lẫy bao ngày tháng ngược xuôi trôi chảy trên mọi bầu trời kim cổ đông tây giờ hồn tôi kiệt sức dừng đây tan tác, bơ phờ, nham nhở in nếp nhăn buồn vô hạn giữa trời thơ bỏ thể xác tôi trên mặt đất vật vờ lăn lóc ở hết lao tù khổ sở tới nhà thương! (1967)

vÔ ĐỀ 5 như mũi tên... như mũi tên đã rời khỏi dây cung dù mục đích biết nhằm chẳng trúng tình cảm tôi phiêu bạt mung lung giữ lại làm sao dẫu người rẻ rúng!

quá nửa đời tôi mong choàng áo thụng nặn đất bùn làm tượng thánh thủy chung Đàn lòng nay dây đứt lại dây chùng Âm hưởng năm xưa vẫn còn lúng túng vì những bản tình ca dại vụng vách đá vọng về rời rụng tàn hung mà óc tim tôi vẫn thấy đẹp lạ lùng! (1968)

những thiếu nhi... những thiếu nhi điển hình chế độ thuở mới đi tù trông thật ngộ! lon xon không phải mặc quần chiếc áo tù dài phủ kín chân giờ thấm thoát mười xuân đã lớn mặt mũi vêu vao, tính tình hung tợn mở miệng là chửi bới chẳng từ ai có thể giết người vì củ sắn củ khoai! (1966) 18 vÔ ĐỀ nếu trời còn... nếu trời còn để có một ngày mai tôi sẽ kể chuyện đêm dài khủng khiếp cho thế hệ hiện nay cùng đàn sau kế tiếp giật mình thức tỉnh, thương đau phẫn nộ trào dâng, dốc sức cùng nhau Đánh phọt óc con rắn hồng độc hại

giải phóng cả một phần ba nhân loại bị nó cuốn tròn, sống trong ngắc ngoải (1960) những võ sĩ... những võ sĩ tài ba tuyệt đích Để luyện rèn đau đớn nề chi hóa thân thành bị cát vô tri vÔ ĐỀ 7 Để sau đó hóa thành vô địch nghề văn sĩ giống y nghề võ sĩ muốn nên tài cần phải chịu đòn đau những cú vào tim, những cú nhiệm màu giúp cho nó đập ra tình ra ý. (1971) nơi đây... nơi đây không có mùa xuân có chăng chỉ có tuổi xuân chôn vùi nơi đây cay đắng đủ mùi sắn dăm ba khẩu trộm vùi, giấu lưng thương xuân không kẻ đón mừng Đành cam lạnh lẽo xó rừng đắng cay xuân ơi, trót tới chốn này mời xuân mẩu sắn cùng say với tù ngày mai tan lớp mây mù Đón xuân tù hứa sẽ bù cho xuân (1974) núi

ngươi đứng đó, cao to giữa loài cây cả song ngàn vạn mối lo ngày đêm chập chờn chực đó chắc ngươi hiểu rõ bao kẻ thèm đặt chân lên đỉnh đầu ngươi ngươi nhô lên trong những cơn động đất nhất thời thì rồi cũng có thể nhất thời ngươi chìm trọn trong những cơn đất động. hỡi núi cao lồng lộng! chót vót song chon von và không lớn rộng quanh quẩn bên ngươi toàn lũ phù vân ngươi càng cao càng tê lóa tâm thần vận mạng của ngươi nguy mất! ngươi quên cả dưới chân ngươi là đất năm tháng nặng đè, đất sụt, đứng vào đâu? ngươi có chiều cao, mà chẳng có chiều sâu lòng dạ của ngươi tối tăm biết mấy! tục ngữ đo ngươi không quá ba thân cây. Ôi chỉ những kẻ khờ ngây mới khiếp hãi coi ngươi là vĩ đại văn minh càng cao, ngươi càng thấp đi thảm hại trên đầu ngươi bao kẻ đã bay qua hang vực ngươi bao kẻ đã xông pha còn ta, ta chỉ nhìn qua và lắc đầu buồn bã ta biết ngươi chỉ là chất đá giá trị không bằng con cá lá rau ngươi ì ra, không xấu hổ với đàn sau

nặng chịch, thù lù, thô lỗ cao mà chẳng chút thanh cao nói gì lớn lao đức độ! những con người của thời đại cung trăng diệu kỳ đồ sộ nếu ngươi cản trở đường đi sẽ đục thủng ruột ngươi hoặc san bỏ ngươi đi bằng mọi cách! hỡi núi! biết bao kẻ trong bọn ngươi thét ra lửa một thời hống hách Đã lần lượt từ lâu lặng ngắt tàn tro thế giới này không thể để cho một lũ các ngươi nhấp nhô hỗn độn trong tương lai các ngươi sẽ không còn là nơi chốn cho các loài độc xà và ác thú nghênh ngang trái đất rồi đây chỉ có những ngai vàng cho những kẻ nhô lên từ trái tim vĩ Đại! (1973) những giải mây chiều... những giải mây chiều vàng máu chang nằm trên đỉnh núi sáng hào quang chừng mươi lăm phút rồi tan loãng nhường chỗ cho màu mực tím loang... em ví lòng em như buổi sáng khi bình minh ló, tiếng chim vang lòng anh em nói em không hiểu

muốn hiểu em ơi, hãy đợi chiều! (1965) ngày qua... ngày qua là đẹp sáng chan hòa của những trời xanh, của nắng hoa là tiếng ngân dài trong hối tiếc mơ hồ như một giấc mơ xa... ngày nay là mặn chát chua cay trộn với mùi tanh của vũng lầy khổ đói đan dầy xây lũy thép lao tù vây khép mọi chân mây! ngày mai là một tiếng bi ai của những chờ trông bị kéo dài Ôi những con người đương ngắc ngoải không còn gan nghĩ tới tương lai... cộng cả ba thành một số không cùm chặt đời ta như chiếc gông lăn lóc muôn vòng trong hiện thực bao giờ lăn tới hố hư không? (1964)

42 vÔ ĐỀ nếu một ngày mai... nếu một ngày mai tôi phải chết thời lòng tôi cũng chẳng tiếc đời xuân Đời đáng yêu đáng quý vô ngần song đau khổ đã cướp phần hương sắc

trong đêm vắng nhìn sao buồn xa lắc hồn chìm buông theo quá vãng thời gian trong phút giây quên thực tế bạo tàn quên tất cả nỗi cơ hàn cay đắng... giòng lịch sử đưa tôi về mấy chặng những lâu đài cung điện thưở vàng son cảnh hiển vinh kiệu võng với lọng tròn cảnh hàn sĩ canh tàn còn đọc sách tôi gặp lại những nhà nho thanh bạch sống an bần, xa cách bụi phồn hoa những gái quê trong trắng, hiền hòa ngồi giặt lụa bên bờ hồ nước tóe tôi mơ thấy những hội hè vui vẻ những đêm vàng đập lụa dưới trăng trong tôi vuốt ve bao hình ảnh trong lòng tim còn vọng tiếng hò ngân bát ngát tiếng nhịp nhàng thoi cửi lướt trên khung tôi mến yêu cảnh rừng núi mịt mùng Đầy hiểm bí và tràn lan sức sống tôi thương nhớ cả tiếng cồng báo động cả những con đường, những hắc điếm âm u cảnh chiến chinh ngựa hí với quân hò tôi cũng thấy tâm hồn tôi đuối đắm! tại làm sao? rõ ràng tôi biết lắm cuộc đời xưa còn có những vua quan bao bất công còn đầy rẫy lan tràn sao tôi chỉ mơ toàn hương sắc thắm

toàn sắc mầu lộng lẫy đượm hồn thơ mà lãng quên bao bóng dáng nhạt mờ? phải chăng vì cuộc sống bây giờ Đầy ung độc tự buồng gan, lá phổi còn xưa là mụn lở ở da thôi! (1960) nếu em không phải... nếu em không phải người em gái trong giấc mơ dài suốt tuổi thanh xuân thì lòng anh mưa lạnh với tre tàn sao có thể rực hồng lên dễ dãi? Ôi, em chính là người em gái trong giấc mơ hầu tuyệt vọng mãi hôm nay mới về trong căn gác khổ đau này 32 vÔ ĐỀ cười bẽn lẽn cho bàn tay anh nắm bàn tay ước mộng bao năm! (1963)

nếu có trời... nếu có trời, đời tôi phải khác Đâu bị đói nghèo, tù lao tan tác! vì tôi chưa làm việc gì độc ác và luôn sống với tâm tình chất phác dù toàn gặp những điều bội bạc và lòng buồn như đêm sa mạc! (1967)

20 vÔ ĐỀ nếu ai hỏi... nếu ai hỏi tôi mong gì trong cuộc sống biết tôi tù, anh sẽ nói: tự do! tôi đói lâu rồi, anh sẽ nói: Ấm no! không, không phải, anh lầm, trên đất cộng những thứ đó đã trở thành huyễn mộng ai người ôm ấp chờ trông tất nhiên phải sống quằn lưng, quỵ gối trước quân thù trong cuộc trường chinh đọ sức với lao tù tôi chỉ có lời thơ ấp ủ và hai lá phổi gầy xơ Để đánh kẻ thù, tôi không được hèn ngu Để thắng kẻ thù, tôi phải sống ngàn thu! (1976)

này những kẻ... này những kẻ suốt đời khao khát thiêu tháng năm thành từng đống tro buồn mà trái tim đau còn như lửa rát Đốt từng giây từng phút, bỏng linh hồn này những kẻ ước mơ còm cõi hết bước trần ai sức liệt gân chồn trái tim đau là một nấm mồ chôn bao ký ức bầm thâm còn lẳn vết!

hãy đến cùng ta, ta là thần chết hãy đến cùng ta như những dòng sông lòng ta sâu thẳm mênh mông bao nhiêu khổ não nơi trần thế về đến lòng ta cũng hóa không! (1965)

này nã-phá-luân... này nã-phá-luân, này césar sao nỡ đẩy bạn các con ngã thế! mẹ sợ lắm cái trò chơi hoàng đế mà các con thời quá say mê chẳng thương các mẹ già lệ rơi thấm đá! (1968)

nào có biết gì... nào có biết gì chính trị chính anh chẳng qua chỉ vì cả tin, vụng tính chúng tôi, thằng dân, thằng lính khổ còn chẳng dám kêu ca! mà sao tù mãi không tha hành hạ đớn đau bằng muôn ngàn mánh! khẩu phần Ðảng cho: gắp rau, cái bánh to bằng một cái huân chương! chúng tôi chỉ còn có xương con người lại không có cánh!

thôi thời cuốc cuốc đào đào lặc lè vác gánh quanh vòng năm tháng thảm thương Để khỏi dập xương bởi cùm, bởi đánh! (1971) nắng phai... nắng phai, trời đất nhòa theo một ngày tăm tối khổ nghèo trôi qua... ngôi chùa heo hút đồng xa cũng theo thôn xóm tan nhòa... đêm buông... chiều đi không một tiếng chuông tiễn ta về với căn buồng tối tăm Đêm nay nào phải đêm rằm mà mong trăng sáng lên nằm trời xanh! gió rừng vật vã cây cành có con đom đóm vờn quanh nấm mồ bao giờ cho hết điên rồ? bao giờ tim giống nước hồ phẳng phiu Đường đời chồng chất phiền ưu lòng này rồi mãi buồn thiu rã rời lung linh sao sáng trên trời Ấy nơi xa thẳm khôn vời đi lên! Đêm về giun dế rỉ rên nhớ thương rồi sắp triền miên sáng ngày Ốm đau hình xác hao gầy ngày mai lại giống ngày nay, mong gì? cúi đầu, nặng bước chân đi

mấp mô lối xóm, đen sì mặt ao trời cao muôn vạn vì sao Đó là thế giới của bao mong chờ! hè qua, thu tới bao giờ Đông buồn đã chống gậy chờ đợi ta vÔ ĐỀ 27 rồi ra trông lại ngày qua mênh mông một bãi tha ma lạnh lùng gió than, đêm tối mịt mùng chung quanh ếch nhái côn trùng vẫn kêu. (1965)

nắng đã lên rồi... nắng đã lên rồi, hè đã sang trước sân yên tĩnh bóng cây bàng anh em tù phạm đem chăn áo phơi khắp sân và giây thép cao quần áo chăn màn tuy chẳng mới phần đông rách vá mầu bạc phai nhưng những con người trong khổ ải trầm ngâm ve vuốt, lo ngày mai bỗng dưng tôi thấy lòng bồi hồi 30 vÔ ĐỀ vì tôi nghĩ tới ngày tháng trôi, và vì những thứ phơi trong nắng là cả đông buồn trước mắt tôi. (1961)

năm bảy mươi... năm bảy mươi tôi gặp một thanh niên tôi hiểu anh qua nhiều câu chuyện anh yêu nhất rượu cồn thuốc phiện và căm thù lao động nhất trần gian tháng năm say, sách vở vất trên bàn Đám nô lệ gọi anh là gã nghiện! men chưa giã, anh đã dùng thuốc phiện thuốc còn say, anh đã rượu hàng chai anh làm nghề buôn lậu để sinh nhai không lấy vợ, không thiết gì con cái say lướt khướt, anh thường hay lải nhải chửi chính quyền hút tủy đám cùng đen hoặc làm thơ thương xót bọn dân hèn bầy chó đở bỏ tù anh cũng phải! tù mấy lượt, anh vẫn không tỉnh lại vẫn nói năng bừa bãi, mặc cùm gông và khi buồn trong bốn ngả non sông vần thơ vẫn nghẹn ngào, đau đớn mãi! (1970)

ngày xuân tới... ngày xuân tới, hồi sinh muôn vật sao lòng ta khô héo chẳng tươi mầu ta nhớ khi xưa, ôi thưở ban đầu bao náo nức, bao niềm mơ, nỗi ước

nhưng buồn, giận, đau, thương theo mãi ta từng bước biết nói sao? và biết làm chi? hy vọng ư, nhưng hy vọng làm gì? khi đã rõ khổ đau là định mệnh. Đất ơi, ta muốn nằm yên trong lòng đất mát Để không còn khao khát sống tươi vui kiếp thê lương năm tháng ngậm ngùi ta sợ lắm những đêm dài nung nấu những trưa buồn không hiểu vì đâu bao bóng hình thương mến mất từ lâu lại trở lại hành hình tâm não Đêm nay giao thừa, lòng ta tả tơi xác pháo nỗi niềm riêng đày đọa tâm tư cha mẹ ơi, đừng giận đứa con hư hãy coi nó như là đã chết. tình thương xót không bao giờ hết của mẹ cha làm tan nát lòng con dù cuộc đời đau khổ chất thành non còn cha mẹ, con còn phải sống vì con biết con là lẽ sống là niềm vui, là tất cả của mẹ cha biết bao nhiêu tội lỗi những ngày qua con đã mắc khiến cha buồn mẹ khổ con đã biết đời con tan đổ không thể làm gì báo đáp mẹ cha dù cho năm tháng phôi pha

mối hận ấy con xóa nhòa sao nổi! vÔ ĐỀ 39 Đêm nay giao thừa, ngoài sân gió thổi lá vàng rơi, xơ xác cành khô... sương rắc bụi mờ... ta ngồi viết mấy vần thơ giải niềm oan khổ. (1961)

Ôi, người là... — Ôi, người là cây đại thụ giữa đời tỏa bóng thiên thu! — bóng thiên thu, hay bóng âm u? không theo luật tự nhiên, một ngày kia ta sẽ là cổ thụ Điều lúc đó lòng ta ấp ủ là bàn tay hữu dụng bác tiều phu ta không thể tự ru bằng khúc nhạc mọt sâu ngấm ngầm đục ruỗng vẳng lên vòm lá ngợi ca mà cam lòng nhìn bóng rợp của ta làm đám chồi non cớm nắng! ta bình sinh hình hài mọc thẳng thương mà khinh loài bình vôi trắng ngàn đời miệng ngậm hương đen rủi sau này có kẻ đua chen Đeo móc được lên mình ta lũ đó

thời hỡi thần mưa, thần gió! hãy đưa đường thần sét giáng lên ta lưỡi rìu nhục nhã! (1974)

Ốm đau không thuốc... Ốm đau không thuốc, không gì chuyện thông thường đó nói chi thêm nhiều! bác nằm liền sát cầu tiêu mùi phân nước giải sớm chiều nồng hôi bác ơi, bác sắp chết rồi bác không còn sức để ngồi được lên bác nằm thoi thóp khẽ rên bát cơm ngô, bát rau dền đặt bên bác thèm một miếng đường phèn nhà giam cộng sản bác quên bác tù trưa nay cái chết lù lù tới khiêng bác — khối hận thù ngàn thu! (1968)

Ôi, ảo tưởng... Ôi, ảo tưởng, nhựa thần cây cuộc sống! không người, cây hết lá hoa hương có người bên, gai góc hóa hoa hường Địa ngục, thiên Đường lẫn lộn! Đừng để mất xanh hồng ảo tưởng bạn lòng ơi, dù nắng xế hoàng hôn!

(1973)

quanh hồ liễu rủ quanh hồ liễu rủ giữa hồ tháp đứng âm u Đền ngọc sơn không hương khói lạnh lùng cầu thê húc nằm nghe lá rụng... Đâu những bác thầy tàu, thầy cúng những bà già đi lễ năm xưa? cảnh hồ gươm mưa nắng bốn mùa lẩn quất bóng rùa, lặng lẽ... (1958)

sao có thể sống... sao có thể sống thế này được mãi? hiện tại hung tàn đâm suốt tương lai quá khứ là chi? một chuỗi ngày dài bị sắt thép nghiền tan, thảm hại! là võ sĩ đời treo găng mãi mãi ngay từ khi chưa kịp bước lên đài bị mác lê ập lại đánh thua dài nằm đo ván trong mưa rầu nắng dãi! là thi sĩ có hồn thơ khắc khoải có cuộc đời hạnh phúc sớm ly khai có niềm tin nát vụn ở ngày mai có tù, bệnh cặp kè nhau hủy hoại. tôi sống mãi những ngày quằn quại

những ngày khao khát sắn và khoai những ngày chôn sống cả đời trai trừ khí khái, tình thương, lẽ phải! (1968)

sẽ có một ngày... sẽ có một ngày con người hôm nay vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Ðảng, Đội lại khăn tang, quay ngang vòng nạng oan khiên! về với miếu đường, mồ mả, gia tiên. mấy chục năm trời bức bách lãng quên bao hận thù độc địa dấy lên theo hương khói êm lan, tan về cao rộng tất cả bị lùa qua cơn ác mộng kẻ lọc lừa, kẻ bạo lực xô chân sống sót về đây an nhờ phúc phận trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân Đứng bên nhau trên mất mát quây quần kẻ bùi ngùi hối hận kẻ bồi hồi kính cẩn Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng tiếng sáo mục đồng êm ả tình quê tha thiết ngân nga thay tiếng tiến quân ca và quốc tế ca

là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la! (1971)

sương xám... sương xám rừng cây xuống mịt mù xương tù mầu mỡ đất hoang vu sương mù ôm kín khu âm phủ sương muối đời trong hũ hận thù! râu mọc xồm ra, tóc bạc xù mưa ngàn gió núi tái tê ru chân trời thương khóc bao sương phụ Đêm tối, hồn oan khuất vụt vù! (1970)

tôi nhắm mắt... tôi nhắm mắt nằm yên không ngủ kẻng báo rền vang, sáng tự bao giờ tôi nằm yên không nghĩ ngợi không mơ mà lịm chết trong bóng mờ ủ rũ: bóng mẹ cha già đớn đau hóa mụ Đêm tối mênh mông đóm lửa vật vờ bóng cuộc đời tôi lặng vắng như tờ thất thểu, bơ vơ, khóc cười lỡ dở bóng nhợt xám vài mối tình khổ sở lảo đảo đi về, tuyệt vọng âm u bóng hình tôi ho ra máu, lưng gù mở mắt ra sừng sững bóng trại tù!

(1969) trái tim tôi... trái tim tôi, câu chuyện triền miên chỉ em nhỏ hiểu và yêu thích em không hiểu cái thâm trầm súc tích nhưng hồn em hiểu được cái thần tiên. trái tim tôi, bút nghiên và ống quyển của anh đồ thi cử vô duyên vất nằm yên trong xó bụi che dầy mơ võng lọng kiệu cờ như nước chảy! trái tim tôi, quả ớt hồng cay mà mấy kẻ quen mùi ngon ngọt dám tò mò mon men nhấm nhót thò lưỡi vào đã phải rụt ra ngay. trái tim tôi, quán nghèo gió lọt chỉ dừng chân kẻ lỡ độ đường giữa đêm dầy lạnh lẽo hơi sương kẻ lỡ độ sẽ tìm ở đó chút lửa ấm ngọn đèn dầu vặn nhỏ. trái tim tôi, lòng thung mà nệm cả sẵn sàng đỡ kẻ rủi ro từ đỉnh non cao coi đời là nhỏ xẩy chân lộn ngã thình lình. trái tim tôi, tòa lâu đài cổ kính Đứng âm thầm soi bóng nước lung linh vài kẻ qua hiểu giá trị, cúi đầu song kết cục không một người muốn tậu!

trái tim tôi, khởi thủy ngàn dâu rồi nó hóa biển sâu dào dạt giờ nó chỉ là nơi cồn cát mà dã tràng thôi việc đã từ lâu. trái tim tôi, đồng trũng nước sâu nó chờ mong nước lũ mưa ngâu Để có thể trào dâng muôn đợt sóng và sóng kia, những ngọn sóng bạc đầu! (1965) tôi vẫn mơ hoài... tôi vẫn mơ hoài một giấc mơ giấc mơ không biết tự bao giờ có khi từ thưở lòng cay đắng sớm biết đời tan bóng đợi chờ... một chiều như một chiều trong thơ giữa khi không tưởng cũng không ngờ có bàn tay nhỏ đầy thương mến tết lại đời tôi xác tựa vờ! biển sóng lênh đênh một chấm mờ nổi chìm, vô tận nỗi bơ vơ buồm tan, chèo gẫy, chờ xô vỡ tôi vẫn mơ hoài một giấc mơ... (1960) tôi tin chắc... tôi tin chắc một điều một điều tất yếu là ngày mai mặt trời sẽ chiếu

tôi lại nghĩ một điều một điều sâu thẳm là đêm tàn cộng sản tối tăm có thể kéo dài hàng mấy mươi năm và như thế sẽ buồn lắm lắm cho kiếp người sống chẳng bao lăm! (1969) tôi thường đi qua phố tôi thường đi qua phố có anh chàng mù, mắt như hai cái lỗ kính chẳng đeo, mồm thời xệch méo ngậm vào tiêu, cổ nổi gân lên dốc hơi tàn thổi đứt đoạn như rên mấy bài hát lăng nhăng ca ngợi Ðảng Đã mang lại Ấm no và Ánh sáng! một buổi sớm anh hình như choáng váng gục xuống đường, tiêu rớt sang bên tôi vội vàng chạy lại đỡ anh lên anh chỉ khẽ rên: trời, đói quá! (1959) trên mảnh đất... trên mảnh đất Ðảng gieo mầm tội lỗi trong lành cũng phải tanh hôi trẻ con chưa nứt mắt đã tù rồi bạo lực đi về rất vội! chết trận, chết tù, hỡi ơi xã hội! biết bao là vợ góa, con côi

bán trôn rồi lại bán cả mồ hôi mà đói rét vẫn quần cho sớm tối mảnh đất chờ trông và sám hối thức giả tiêu sầu chai nước lã đun sôi. (1964) tôi nhớ căn phòng... tôi nhớ căn phòng bừa tàn thuốc lá sách vở ngổn ngang nằm la liệt cả chiếc điếu bát nồng hôi đầy bã bộ đồ trà hoen cáu sớm khuya pha tôi nhớ chiếc bàn tim óc vắt ra quên năm tháng ngày đêm vất vả bao giờ thoát cảnh tù lao nhục nhã tôi lại về căn gác thiết tha sống cuộc đời vị nghệ thuật xót xa cuộc đời đã đẩy tôi lăn ngã qua các trại tù trên đất bắc xương da! (1968) trong bộ máy... trong bộ máy tù đày bằng sắt tôi không muốn thấy những dòng nước mắt càng không muốn thấy những điệu cười! tôi muốn sao tất cả mọi người 28 vÔ ĐỀ chỉ có hàm răng nghiến chặt bàn tay không đụng vào đâu! không chịu hóa thân thành chó hay trâu

phải thấm thía rằng tù chóng hay lâu là do có hay không lũ người trâu người chó nếu chúng ta không là đất thó chúng ta sẽ được là người! (1970) tôi nằm trên... tôi nằm trên chốn cao xanh luôn rơi luôn ngã quẩn quanh hết đời quản chi hồn xác tơi bời quản chi phàm thế những lời cay chua tôi ôm ảo tưởng lọc lừa Ôm bình rượu độc say sưa tàn đời nhiều phen lòng ngỡ rụng rời nâng bình rượu lại chuốc mời cao siêu Đời ơi, dầu tới xế chiều sá chi rượu hỡi, có điều đừng vơi! mỗi khi rơi xuống cõi đời nghiêng bình cạn chén cõi trời lại lên lại về thăm thẳm tầng trên lại về xanh ngát kề bên ru hời! (1962) tôi muốn sống... tôi muốn sống với võ tòng đả hổ với quan vân trường mặt đở râu đen vào lính ngự lâm cùng athos làm quen bạn với d’artagnan, porthos và aramis! tôi muốn tới palestine, mồ jesus christ

cùng ai-van-hô làm cuộc thập tự chinh sống một ngàn một đêm lẻ trong dinh dựng lên bởi thần Đèn giúp a-la-Đanh cưới vợ sang châu mỹ đất tân kỳ man rợ cùng jack london đi xe chó tìm vàng tôi muốn sang nga yến tiệc với nga hoàng vÔ ĐỀ 15 tiếp chuyện andré một chiều trên bến nước cùng petchorine giữa caucase dạo bước Đấu súng, đấu gươm, khiêu vũ chan hòa gặp dostoi trong đêm trắng pha trà mặc tuyết rơi, ngồi bên ấm samovar an ủi chàng sinh viên giết người raskolnikov khuyên philippovna lấy chàng ngốc hiền hòa tiếp tục hành trình tôi tới tây ban nha theo don quichotte đi phò nguy cứu khổ sống thỏa thuê tôi trở về đất tổ vào lam sơn tìm gặp vua lê ngồi câu thuyền bên nguyễn khuyến ở thôn quê thơ rượu với tú xương trên bờ sông vị bàn với nguyễn du về mệnh tài đố kỵ về đời kiều oan khổ đau thương tới phường khán xuân cười với chị xuân hương tới quận nam xương viếng vợ chàng trương chung thưy nghe anh chàng trương chi nghệ sĩ ca lời ca đau khổ mộng mơ

theo bắc bình vương gióng trống mở cờ tiến đánh thăng long núi nùng sông nhị tôi muốn sống thật nhiều và tỉ mỉ ngược thời gian lịch sử bao đời cho thỏa lòng ham sống, anh ơi, bị chà xéo trong cõi đời hiện tại cõi đời thèm cả sắn và khoai! (1962) tôi muốn nói... tôi muốn nói những lời tha thiết Định mệnh bạo tàn đã giết hồn tôi tất cả xa xôi tàn lạnh lâu rồi nàng thơ ốm nằm câm hấp hối 22 vÔ ĐỀ tâm hồn tôi qua cơn bão nổi bơ phờ trên đống tàn hoang sự sống trong tôi sớm ngả màu vàng màu của những hoàng hôn bệnh hoạn tôi chờ đón màu đen bầu bạn phủ lên vầng trán xanh xao hạnh phúc tôi ngả mũ xin chào mơ với ước thở phào theo cánh khói sống chết thôi đặt thành câu hỏi Đợi chờ khăn gói ra đi Đời chẳng còn chi để mất! trái tim tôi nặng nề tổn thất của tình — của mộng — của niềm tin

thực tế hiểm gian như một trái mìn gài bẫy bầy chim nguyện ước trong từng nhịp bóp tim tôi mạch sống rung theo tiếng nổ liên hồi Đứt đoạn! mọi bình minh đều khốn nạn như nhau! Ảo tưởng lâng lâng Đôi cánh đẹp vạn màu Ăn toàn những trái sầu địa ngục rũ nằm, chết gục giữa đêm sương quật ngã nàng thơ xuống đá vệ đường nàng thơ ốm, và đương hấp hối Đời tôi sẽ mãi là ngục tối nếu chẳng bao giờ tôi cứu nổi nàng thơ về lại trời thơ! (1968) tôi sống mãi... tôi sống mãi những ngày nồng nặc cuộc đời trong lòng cống sặc bùn hôi tháng năm dài sền sệt qua trôi thương tiếc mảnh trời xanh, héo hắt. lửa hy vọng chập chờn như muốn tắt trong hồn tôi giông gió bốc dâng to! chế độ này tội ác chất từng pho dầy hơn cả hoàng liên sơn bát ngát! tôi không tiếc sẵn sàng đập nát mảnh đất này để cứu lấy tương lai

thứ tôi coi như sự chết kéo dài là cuộc sống không mầu không sắc từng giờ phút quằn đau cơn bế tắc trời và mây dầy đặc oan khiên miền nam ơi, chỉ một đường biên! người có hiểu cảnh tình dân đất bắc? trại lính, trại tù bao la giăng mắc triệu ức người chồng, người mẹ, người con nước mắt vạn nhà chảy ướt nước non! quốc sách đói mòn phân phối miếng cơm đầy ngô, vữa mồ hôi! bao năm rồi, tôi không phải là tôi thân bất động vì tình thương gia quyến Ôi, những buổi hoàng hôn xao xuyến bóng mẹ già cầu nguyện đau thương bóng người cha thui thủi bên đường lê thân ốm trên phố phường u ám nghĩ như vậy lòng tôi ảm đạm nhục nhằn ư, còn biết nói sao? mắt tôi khô mà ruột tím, gan bào bao uất hận dâng trào trong lặng lẽ! những đêm buồn trăng sao quạnh quẽ bóng nhà lao sừng sững âm u tôi ngồi yên trong song sắt nhà tù nghe phố xá âm thầm lặng vắng Đời giam cấm, tất nhiên là cay đắng nhưng ngoài kia cuộc sống ra sao?

ngày bước chân khỏi cổng sắt đề lao tôi nghĩ tới mà lòng không rộn rã giá mồ hôi rẻ hơn nước lã tiếng tự do chỉ nghe thấy trên đài Đời nặng trôi như một đêm dài mắt không nhắm và đầu đau nhức nhối! (1961) toàn toán đan... toàn toán đan đôi, chất chồng một xó sàn dưới, sàn trên như hấp như nung bị lèn như trong một chiếc cạp lồng hơi đất hơi người bốc lên, thở khó! quần áo nồng hơi giăng đầy đây đó muỗi rệp tung hoành, chuột gián lông nhông mùi hố tiêu, hố tiểu cùng xông hủi, suyễn, ho lao, điên rồ, náo động! cứ như thế lui dần sự sống cứ như thế rụng dần từng mống... (1968) trời u ám... trời u ám, cây hay là xương xám? mây đục mờ, hay vải liệm màu tang? gió đìu hiu lạnh buốt can tràng hay hơi thở nơi dương tàn âm thịnh? lòng thung vắng mịt mù hoang lạnh hay mồ ma huyệt địa rấp xương khô? từng đoàn đi thiểu não toán tội đồ

hay quỷ đói nơi trần gian địa ngục? những chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhục mắt lạnh lùng, ngời sáng lửa âm u họ ngước trông non nước mịt mù và cúi xuống, nặng nề suy nghĩ... (1962) trong bóng đêm... trong bóng đêm đè nghẹt phục sẵn một mặt trời trong đau khổ không lời phục sẵn toàn sấm sét trong lớp người đói rét phục sẵn những đoàn quân khi vận nước xoay vần tất cả thành nguyên tử. (1976) trong chiếc võng... trong chiếc võng trời mây cây lá tôi nằm nghe chim chóc líu lo ca võng đu đưa theo làn gió hiền xoa vầng trán nhợt, mồ hôi ướt vã những ngày đẹp võng trời mây cây lá thêu chỉ vàng chỉ bạc óng nền xanh võng đu đưa uyển chuyển cây cành ru lắng sạch bùn nhơ cặn bã! nằm trong võng hồn tôi thư thả thấy đời êm như cuộc sống trong tranh

bốn chung quanh dào dạt một màu xanh xanh của lá của trời, rêu, cả, nước... (1965) trước mắt nhà thơ trước mắt nhà thơ vạn vật tỏ mờ ảo thực vũng nước ổ gà cũng hóa đại dương bác phu xe lưng gập xuống đường cũng nhỏ cũng to chẳng khác gì các đế vương lừng danh sách sử? nhà thơ có khả năng biến chiếc điếu cầy thành bất tử biến đám cầm quyền nghiêng ngả non sông thành lũ hề nhố nhế bông lông nhưng ở xứ muội mông những nhà thơ loại này chỉ có hai bàn tay không mà cảnh sát tự do xông tới nhà khóa lại! thế giới muốn gặp những nhà thơ loại này xin mời vào các trại tập trung rùng rợn trên rừng các nhà thơ sẽ đọc cho nghe những lời thơ mà chẳng phải là tráng sĩ kinh kha tóc kia cũng dựng hất tung chiếc mũ vàng sao lấp lánh đêm rừng! (1972) từ buổi Ðảng về...

từ buổi Ðảng về họ mạc tới thăm do thông cảm chỉ ngồi chơi chốc lát miếng thịt miếng thà bỏ rơi đũa bát trẻ già khao khát tháng năm! con chó con mèo mất tích, mất tăm vì đâu nông nỗi? chiếc kéo Ðảng dùng cắt tem phân phối gạo ngô từng lạng từng cân Đã cắt nhỏ tình thân cốt nhục manh áo niêu cơm, cuộc đời rữa mục vợ chẳng cậy chồng, con chẳng cậy cha mẹ hiền đành ôm bụng tống thai ra giỗ tết nói chi chuyện người trong mả! chao ơi, buồn tất cả mất cả rồi những bản tình ca những điệu ru trìu mến thiết tha gắn bó với ta từ hồi ẵm bú trẻ con đói chột còi lam lũ còn đâu bi, đáo, khăng, cù? tiếng sáo diều vời vợi chiều thu chỉ còn là âm hưởng vi vu của thời xa cũ luyến tiếc, than van đi tù lượt lũ thiếu chi rừng rú hoang vu Để đất vàng sao cùng ánh sáng mùa thu dựng những trại tù làm trụ! Ôi từ buổi Ðảng về làm chủ khổ nhục chất chồng không thể đo cân!

cụ mác ơi, mỉa mai và quá đủ! con chuột mà có dịp tháo thân cũng ba cẳng bốn chân chạy khỏi cái thiên đường của cụ! (1967) từ trẻ tới già... từ trẻ tới già quét dọn nhà tù tới tuổi bảy mươi vô cớ đi tù mười năm lao động cần cù mưa nắng ngày công giữ đủ quản giáo đùa yêu dọa cùm cổ cụ cụ càng tăng năng suất cần cù! cố công thêm, thêm mãi cái lưng gù vãi cả ra quần, ra cót, khai mù ngoài tám mươi cụ bỏ xác trong tù. (1973) từ tư tưởng... từ tư tưởng bước sang hành động phải có cầu ngôn ngữ giao thông trên giòng sông chuyên chính mênh mông Đừng nghĩ chuyện xây cầu bắc cống! song ngôn ngữ ngày đêm vẫn sống Âm thầm đưa tư tưởng sang sông qua muôn trùng hệ thống xiềng gông Ðảng ra sức dựng thay cầu cống thoát khỏi đầu là tư tưởng sống sẽ có ngày tạo những kỳ công!

(1971) từ vượn lên người... từ vượn lên người mất mấy triệu năm từ người xuống vượn mất bao nhiêu năm? xin mời thế giới tới thăm những trại tập trung núi rừng sâu thẳm! tù nhân ở truồng từng bầy đứng tắm rệp muỗi ăn nằm hôi hám tối tăm khoai sắn tranh giành, cùm, bắn, chém, băm Đánh đập tha hồ, chết quăng chuột gậm! loại vượn này không nhanh mà rất chậm khác vượn thời tiền sử xa xăm chúng đói chúng gầy như những cái tăm và làm ra của cải quanh năm xin mời thế giới tới thăm! (1967) tôi, một kẻ... tôi, một kẻ không gia đình, bè bạn sống một mình, bệnh hoạn xanh xao chai nước con, chiếc điếu hút thuốc lào chiếc giường vải, chiếc bàn bằng gỗ cũ Đồ đạc tôi thế là tạm đủ cuộc sống nghèo hèn, không ước không mơ ngoài thời gian dạy học vài giờ tôi tìm kiếm niềm khuây trong sách vở Ít ra khỏi căn buồng con tôi ở chủ nhật, ngày thường tôi thấy như nhau

những khi buồn tôi đem điếu ra lau hoặc khe khẽ ngâm vài câu thơ cổ mỗi tháng một lần tôi mang phiếu sổ tiêu chuẩn thịt, đường một lạng mua ăn trong lòng tôi chỉ một nỗi băn khoăn sợ bị bắt, bị nghi là bất mãn. Ðảng đày tôi... Ðảng đày tôi trong rừng mong tôi xác bón từng gốc sắn tôi hóa thành người săn bắn và trở ra đầy ngọc rắn, sừng tê Ðảng dìm tôi xuống bể mong tôi đáy nước chìm sâu tôi hóa thành người thợ lặn và nổi lên ngời sáng ngọc châu Ðảng vùi tôi trong đất nâu mong tôi hóa bùn đen dưới đó tôi hóa thành người thợ mỏ và đào lên quặng quý từng kho không phải quặng kim cương hay quặng vàng chế đồ nữ trang xinh nhỏ mà quặng uranium chế bom nguyên tử. (1972) trời mưa tầm tã... trời mưa tầm tã đêm qua sáng nay lạc rỡ còn pha trộn bùn sá gì bệnh sán, bệnh run!

dịp may hiếm có tùn tùn nuốt nhai tôi nghe rào rạt bên tai một nhân lạc phải trộn hai nhân bùn! (1962) tình mơ anh yêu em, anh chỉ nói thế thôi... nói thế thôi cũng đã thừa rồi vì tình ái đâu cần ngôn ngữ tình từ tim, mà ngôn ngữ từ môi. anh yêu em, em đã hiểu lâu rồi em đã hiểu từ ban đầu gặp gỡ anh hỏi thăm đường, em trỏ lối, thế thôi! em hiểu anh trong dáng dấp bồi hồi trong ánh mắt ngập ngừng xao xuyến em hiểu anh trong nắng chiều lưu luyến em hiểu anh từ tình mới đâm chồi từ hạnh phúc còn như bỡ ngỡ trong hồn anh quen nếp đau thương... có những đêm trăng óng ánh trên đồng trăng tắm sáng lên đầu em tóc rối trăng lấp ló qua hàng cây gió thổi... em là vầng trăng ngọc của đời anh anh không em, anh sẽ sống âm thầm như những tối trăng vàng lặn bóng Đi bên em nghe ái tình đập sóng trong lòng anh hạnh phúc chan hòa Ôi phút giây không thể xóa nhòa

giây phút ấy, tình em chói tỏa Ở trong anh, và tất cả xung quanh! anh ôm em, em ngạt thở vì anh nhưng em biết lòng anh say đắm quá gì ngây ngất bằng hôn lên đôi má mịn như hoa và đượm hương da! nắm tay em bao đau khổ phai nhòa khắp vũ trụ chỉ còn thương mến tình của em nhiệm mầu vô bờ bến hồn anh hầu tàn úa lại rờn xanh Đời anh như chim hót trên cành tươi mát tựa mùa xuân thơm ngát giọng ai buồn ngân nga câu hát bừng cơn mơ, trăng lạnh đã lên cao... gió ngoài song hiu hắt thổi vào rơi mấy cánh hoa đào trên chậu sứ... (1963) thế lực đở... thế lực đở, phải đồng tâm đập nát Để nó hoành hành, họa lớn sẽ lan nhanh nhưng không thể dùng bom a bom h phá nát địa cầu vì một lũ gian manh nên phải viết, phải muôn ngàn kẻ viết những tội tầy đình được bưng bít tinh vi nếu nhân loại mọi người đều biết cộng sản là gì, tự nó sẽ tan đi thứ sinh thành từ ấu trĩ ngu si

sự hiểu biết sẽ là mồ hủy diệt. (1973) thơ của tôi... thơ của tôi không phải là thơ mà là tiếng cuộc đời nức nở tiếng cửa nhà giam ngòm đen khép mở tiếng khò khè hai lá phổi hoang sơ tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ tiếng răng lạnh đập vào nhau khổ sở tiếng dạ dày đói lả bóp bâng quơ tiếng tim buồn thoi thóp đập bơ vơ tiếng bất lực trước muôn ngàn sụp lở toàn tiếng của cuộc đời sống dở và chết thời cũng dở, phải đâu thơ! (1970) 12 vÔ ĐỀ thơ của tôi... thơ của tôi không có gì là đẹp như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao thơ của tôi không có gì cao như chết chóc, mồ hôi, báng súng thơ của tôi là những gì kinh khủng như Ðảng, Đoàn, như lãnh tụ, như trung ương thơ của tôi kém phần tưởng tượng nó thật như tù, như đói, như đau thương thơ của tôi chỉ để đám dân thường

nhìn thấu suốt tim đen phường quỷ đở. (1975) thời gian hỡi... thời gian hỡi, ta chán người rồi đấy từng phút giây người đốt bỏng lòng ta Ôi tháng ngày sao cứ dài ra Đằng đẵng thế ta chịu làm sao nổi! ta mong mãi một bình minh dữ dội Đẩy ngày nay về ác mộng xa xôi những nấm mồ giả tạo hóa ra nôi sự sống hồi sinh vút dậy! 10 vÔ ĐỀ thời gian hỡi, ta cúi xin người hãy rút ngắn tháng ngày để lòng ta thôi bỏng cháy Để phút giây đừng hỏa táng đời ta ta muốn thấy mùa hoa ta muốn hái ngàn hoa trước lúc cả hoa đón ta về bụi đất thời gian hỡi, ta van người nói thật ngày bão bùng hoa nở có lâu không? năm, mười năm, ta có thể chờ trông có thể để cho người làm khổ nhưng lâu quá, ta dùng dao cắt cổ chặt đứt đầu ngươi dù đứt cả đời ta! (1960)

thư nhà Đã lâu rồi không nhận được thư con mẹ thầy mong tin con quá thầy kể qua cho con rõ cảnh nhà mẹ bây giờ hai mắt như lòa hôm sớm trong nhà quanh quẩn! thầy gần như lẩn thẩn bước đi đờ đẫn run chân viết phong thư phải nghĩ tới dăm lần mong con về đỡ đần chăm sóc nghĩ tới con, mẹ thầy lại khóc không biết con còn ở nơi trại cũ hay là đã chuyển đi đâu? mẹ vẫn nguyện cầu cho con được bình yên, không ốm yếu nhận được thư này con liệu viết về, thầy mẹ đợi tin con Ôi, xưa cũng vì con còn trẻ dại suy nghĩ sai lầm, kêu ca khổ ải con phải thực lòng hối cải Ðảng mới khoan hồng tha tội cho con có thế mẹ thầy mới mong thấy mặt con trước lúc không còn sống nữa! mẹ thầy chẳng biết nói gì hơn nữa chỉ tha thiết khuyên con giữ gìn sức khỏe tuổi con còn trẻ con còn phải sống, con ơi!

thầy mẹ vẫn tin ở đất ở trời không nỡ hại người lương thiện hôm vừa qua thầy đã ra bưu điện gửi cho con đôi tất của thầy thuốc rimifon con hỏi xin thầy phải đợi kỳ tiền hưu trí quý sau thầy sẽ mua gởi con dùng, cho con đỡ ốm đau thôi cuối cùng, thầy mong con phấn đấu lao động đi đầu, thi đua xây dựng trại. thầy mẹ của con (1967) tôi chưa sống... tôi chưa sống cuộc đời tôi định sống tôi còn yêu bao giấc mộng thương yêu! philippovna, marguerite, thúy kiều chiều mạc tư khoa, nắng lòa đất thánh Đêm danube nước trời sao lấp lánh Ánh niềm vui trong hốc mắt người thân những vần thơ trong lao ngục nhục nhằn những khoảng trót sâu vào tim óc khắc những khoảng lớn lên là tôi đã mắc Ước mong gì trang trả nữa anh ơi! (1969) tình câm anh sợ lắm lòng anh xiêu đổ mất anh ngăn anh đừng qua lại nơi đây nhưng than ôi, em vắng bóng một ngày

anh đã sống như người điên loạn nhất anh lạnh lẽo, em ơi, đừng tưởng thật anh cũng giống như vỏ ngoài quả đất chứa trong lòng bao khối lửa hôn mê. anh nhìn em, rồi lặng lẽ ra về Để đau khổ, để âm thầm cay đắng không thể nữa, không làm sao cố gắng giữ cho tình câm nín ở trong tim nhưng còn chi, ngoài khao khát im lìm khi thương tích tình anh thầm rỏ máu lòng của em hờ hững thấy chi đâu! em có nghe trong tiếng thở u sầu bao yêu dấu đè sâu đang thổn thức em có hay trong quãng đời cơ cực nếu có em, trời đất lại rờn xanh! hãy thứ cho mơ ước của lòng anh mơ ước để đời đau thêm lạnh tối Đường vào tim em, anh không có lối mỏi mắt chờ, em chẳng hé một giây! tâm linh anh ôi đã bị đọa đầy trong dáng dấp, trong nụ cười tiếng nói trong ánh mắt em, nàng tiên chói lọi! trong hững hờ, tan nát mộng cùng mơ tình của anh như một sớm sương mờ không được bóng vầng dương — em — tỏa chiếu Điều đau khổ em làm sao thấu hiểu! — lòng của em chưa một vết thương ghi —

thế nên anh cam chịu ôm ghì bao gai sắc của tình đau buốt ấy niềm an ủi, anh chỉ còn trông cậy Ở thời gian em hỡi, em có hay! (1963) tôi lấy thơ... tôi lấy thơ thưở còn đi học buổi gặp nhau đầu thơ đã biết tôi yêu thơ của tôi hồi ấy đẹp như kiều lộng lẫy như tần cung nữ! những cô lý, cô hình, cô sử tôi quên, tôi quá yêu rồi thơ thường buồn, thơ cũng như tôi chỉ có bạn là mơ và mộng thơ lấy tôi vì tôi không thể sống không thơ an ủi bên mình. Đám cưới chúng tôi, một đám cưới tình chỉ có mộng, mơ phù dâu, phù rể. thơ giờ đã tay bồng tay bế tù lao đày đọa, xanh gầy thơ dọn nhà ra khỏi cung mây từ buổi mộng, mơ hóa thành ngu xuẩn! Đời chê thơ nhiều buồn đau, hờn giận không chịu bôi hồng, trát phấn bán mình cho Ðảng nuôi thân gắn bó cùng tôi, thơ khổ vô ngần chia xẻ bao sầu, bao hận

thơ chịu âm thầm chung thủy tận khi nao? — tận khi nào anh nói với thơ lời dối trá! (1963) toán tôi giở lạc... toán tôi giở lạc ngoài đồng có ông quản giáo ngồi trông đàng hoàng thừa cơ quản giáo trông ngang một anh tranh thủ vội vàng nuốt nhai vài nhân lạc cả vỏ ngoài quả tang! báng súng nện hoài không thôi mồm anh tóe máu, vều môi. (1963) tôi có thể ăn... tôi có thể ăn vài cân sắn sống ngon lành như nhai kẹo xô-cô-la! bạn phục tôi tài hơn cả lợn à? tôi đương sống trong nhà giam việt cộng! mùa đông rét, ào ào gió lộng Đứng ngâm mình vớt nứa giữa giòng sông bạn tưởng tôi xương sắt, da đồng? tôi đương sống trong nhà giam việt cộng! chỗ tôi nằm sáu mươi phân chiếu rộng hai người bên, một hủi, một ho lao! bạn bảo tôi còn biết làm sao? tôi đương sống trong nhà giam việt cộng! (1968)

tôi không tiếc... tôi không tiếc khi bị đời sa thải thân thể vùi, tan rữa, hóa bùn đen những vần thơ trong đêm tối đê hèn cùng rệp muỗi viết ra mà bị mất tôi sẽ tiếc, khóc âm thầm trong đất. (1974) thương đôi mắt... thương đôi mắt không dám nhìn cái đẹp sợ rằng cái đẹp không vui! Đôi mắt sẽ ngượng ngùng cúi xuống bàn chân thầm lặng quay đi... Đôi mắt trương chi Đôi mắt sinh ra đã nhìn đáy nước nấm mồ định trước, xanh trong... năm tháng xuôi giòng... lãnh đạm. (1964) tôi là bạn... tôi là bạn của cô gái đĩ Ế khách ngồi ngủ gật ở vườn hoa tôi chẳng có gì an ủi cô ta ngoài tình cảm chan hòa và không khinh bỉ tôi là anh của những em nhỏ tí xó chợ đầu đường, ăn cắp vặt nuôi thân bé tí hon mà tù tội bao lần miệng tục tĩu, hồn như trang giấy trắng! tôi là con lão ăn mày cay đắng

không gia đình, tàn phế, lắt lay mời lão sơi một bữa rượu thực say nghe lão khóc kể những ngày xa cũ tôi, tóm lại, là trái tim ủ rũ thông cảm với nhiều số phận bùn đen vì chính tôi, tôi là gã nhiều phen khổ đói, lao tù, nhục khinh nếm đủ! (1967) tôi đã đi... tôi đã đi hơn nửa đoạn đường đời mà chửa gặp bao la và ngớt tạnh! buổi cất bước hồn tôi là rượu mạnh giờ rượu kia nhạt loãng tựa sương trời — hồn đã nhầm mở đón rặt mưa rơi cùng gió lạnh phà luồng hơi độc ác! Đường độc đạo, không còn mong lối khác gió và mưa lạnh ướt buốt tê tim! nửa đường sau, lòng nếu muốn đi tìm túp lều nhỏ của một người chăn vịt bỏ tất cả những huy hoàng mù mịt túp lều tranh cửa sẽ đóng im lìm — có ai đi rước kẻ gió mưa dìm Để chuốc lấy bùn đen và ướt át? nửa đường trước đã đi vào mất mát của ước mơ vụn vỡ tới chân nền liệu ai còn can đảm gan bền xây lại giấc mơ vàng vụn nát!

— hãy dọn hết xác lâu đài vàng giát rồi lợp lên mái rạ, kịp hay chưa? “lợp mái tranh xây lại giấc mơ xưa?” tôi vẫn lắng nghe tiếng lòng trung thực run run lên khi đáp lời: “bất lực, hãy mặc đời theo sóng nước trôi đưa” lòng của tôi trong những tháng năm thừa Ôm xác giấc mơ vàng không chịu táng! (1963) tôi không tiếc... tôi không tiếc khi bị đời sa thải thân thể vùi tan rữa, hóa bùn đen nhưng vần thơ trong đêm tối đê hèn cùng rệp muỗi viết ra mà bị mất tôi sẽ tiếc, khóc âm thầm trong đất. (1971) tôi khổ gấp trăm lần... tôi khổ gấp trăm lần hơn Đại thánh mang trên đầu đủ thứ mũ kim cô thần chú đau thương: “tất cả tan tành!”. khoan vào óc đêm ngày muôn vạn lỗ! Đời tôi giữa ngũ hành sơn cấm cố không mong Đường tam tạng tới buông tha tự mình tôi, tôi phải cứu tôi ra Đập tan hết để xoay vần mệnh số! hoa quả sơn trong cõi lòng nát đổ là một nguồn an ủi lớn bao la

với tề thiên đó chỉ là đất tổ với tôi là trời mộng ước cao xa! (1969) tôi khao khát... tôi khao khát một tình yêu thuần khiết tạp chất cuộc đời không bị dính mảy may một tình yêu tự ngàn trước tới nay chỉ những chàng say tưởng ra và viết! tôi mơ ước một tình yêu mãnh liệt sức hút địa cầu không thể hút, cao bay mặc hành tinh bụi bặm đứng hay quay tới xứ những chàng say bao đời tha thiết! sức của tôi giờ đây héo kiệt giữa bùn lầy chân đứng lung lay và đôi cánh nhiệm mầu mà những chàng say chắp nối cho tôi, buồn thay, đã liệt! song men họ rót vào hồn tôi tinh khiết Đã hóa thành chất độc đắng và cay gân óc tim tôi mòn mỏi đêm ngày yên tĩnh đời tôi mong gì được biết! (1966) tôi im lặng... tôi im lặng khi kẻ thù hành hạ sắt thép đưa vào, đau đớn hôn mê câu chuyện anh hùng để trẻ con nghe tôi im lặng chỉ vì tôi tự nhủ: có ai đi rừng gặp loài dã thú

lại mở mồm kêu xin chúng thương tha? (1974) tôi đi một mình... tôi đi một mình trong đêm trầm cửa đóng âm thầm, phố vắng thênh thang hai dãy cây tăm tắp thẳng hàng bên hè, cúi đầu sờ sững một mình đi lững thững bụi mưa rơi nước mắt cô đơn vì sao khóc trên trời! gió ngừng hơi cây lá nghẹn lời không biết giờ này năm tới mình còn đi in bóng với cây không? có con gì vụt qua đường không tiếng động một con mèo, có thể là con chuột cống mắt mình ngày một kém đi ngày trước khi buồn mình thường thẩn thơ, ước mơ suy nghĩ giờ chẳng ước mơ chi nhưng còn suy nghĩ suy nghĩ thích hơn nằm nghỉ. Đôi tình nhân sát vào nhau, thủ thỉ không biết rằng họ có hiểu họ đang đi trên quãng đường lằn xích tăng khủng khiếp! quãng đường cổ kim hiền triết dốc cả niềm tin san bỏ vẫn chẳng thành!

bóng ngả lênh khênh gù gù, tóc bù, thất thểu Ý nghĩ đắng cay khởi đầu bằng tiếng nếu lăm le chăng lưới khiến mình cười (cái cười vẽ nên hình cái mếu!) xe sở công an lóe đôi đèn chiếu vụt qua, và mất hút đàng xa Ôi chiếc đèn pha! Ánh man mọi chĩa vào đâu tầm nã? ngươi đã lùa tan sự yên tĩnh bao nhà? một chiếc xe thùng lọc xọc lăn qua khiến cô gái làng chơi đương ngồi thừ trên ghế đá chửi một câu tục tĩu giữa vườn hoa (nguyên là ngôi chùa thời thuộc pháp) Ờ, nghĩ lại cái thời thuộc pháp càng thương cô gái làng chơi chân đít suốt đời như thế! anh hàng phở ế mấy năm rồi còn ôm gối ngồi đây những chiếc đùi gà béo căng mỡ chảy! (ngày mai mình sẽ ăn cơm) Đường phố này ngan ngát giống hoa thơm về đêm hương mới tỏa nhưng đời ưa hái quả hương buồn thơ thẩn trong đêm... một đống xương da co quắp trên thềm

trên mặt thềm bóng đen, nhẵn thín giống như in mặt mũi cuộc đời! ngưtrẻa mặt trông trời trời mờ bụi mưa rơi cúi mặt nhìn đất Đất ướt đầm nước mắt chắc chắn mùa đông sẽ còn cắn chặt hàm răng ma băng giá lên da thịt loài người loài chỉ dám cười, không dám khóc! từng đống gạch vôi tung bừa ngang dọc những ngôi nhà cũ phá đi những ngôi nhà đầy đủ tiện nghi lũ cháu mình sẽ dắt nhau tới ở! loanh quanh lại anh hàng phở những chiếc đùi gà béo căng nước mỡ! (cháu mình rồi cũng có chân tay) những ai kia mà húp híp mặt mày À, atrẻnh mấy tay thầu khoán chuyên nghề vẽ bậy kiểu thiên đường khủng khiếp dựng đây! (cổ chúng thiếu sợi dây thòng lọng!) mình đã quên một điều quan trọng là về đêm mọi vật đều yên vÔ ĐỀ 35 mọi mắt nhắm nghiền

không động đậy! thôi về ngủ, mặt trời lên, sẽ dậy. (1969) tôi đã sống... tôi đã sống và còn sẽ sống những ngày những tháng lông bông sớm tối lêu têu, nếu mệt về nằm và nếu có dăm hào trong túi thời tiệm trà lui tới lê la nhấm nháp vị đời vô vị! tôi tuy tiếc thời gian uổng phí tuy buồn nhưng cố quên đi tôi mặc cho năm tháng xám xì kéo đến chỗ con người phải đến khối óc tôi căng đầy màng nhện trái tim tôi đàn quạ đói rỉa xù lông một đôi khi cuộc sống chậu lồng có làm tôi phát tởm phát buồn nôn! thời tôi đem trộn nó với rượu cồn rồi nốc tuột để làm trôi nó xuống kim đồng hồ lại nhấm nhách quay xuông Đếm những sợi tóc bù sớm bạc Ồ, cuộc sống cũng có phần đổi khác Đổi trên thể xác con người! (1961)

tôi đã ngán... tôi đã ngán cả buồn phiền khao khát còn trong tôi là rời rã mà thôi tâm hồn tôi giờ chỉ biết buông trôi như chiếc lá, mặc dòng đời phiêu dạt trước mắt tôi màu trần gian đã nhạt nét đau thương mờ hết vẻ thê lương hạnh phúc xanh xao hương sắc tầm thường không đượm thắm như thưở lòng mơ ước trên đường sống tôi chẳng buồn cất bước mặc tương lai quá khứ, trước và sau cả hai đều nhạt nhẽo ngang nhau giống hiện tại như một chiều lạnh giá! tôi có lẽ đã thành pho tượng đá mà cuộc đời đen đủi đắp bồi lên. (1960) vÔ ĐỀ 29 tôi lại về đây tôi lại về đây giữa căn phòng nặng dày ký ức không khí quanh tôi hình như rạo rực mười năm trời, hy vọng, thời gian... tôi lại về đây, thể xác lụi tàn cuộc sống lầm than, giống trước khác chăng, đời bước về chiều Đói nghèo, ốm yếu... mười năm trời vẫn còn đây chiếc điếu

những ngày sái rỗng ngồi không, nuốt khói buồn tênh chiếc giường tre nan gãy cập kềnh biết mấy đêm dài heo hắt Áo cơm, nước mắt, chuyện lòng chiếc bàn mộc mọt sâu gậm hỏng ngăn đầy, lỏng chỏng toàn thơ! những vần thơ thất chí giận đời giấy ố, mực mờ, gián nhấm tôi muốn xem những mảnh lòng bị gậm nhưng hồn tôi tối, ẩm, tàn đen không chút men thừa để ủ! chiều hôm mệt ngủ bóng tối nhẹ nhem đã tụ trong buồng tôi uể oải buông mình xuống ghế: “mười năm trời vẫn thế, hoặc tồi hơn!” muỗi đói chập chờn, man rợ trên chiếc tủ sơn dầu, rạn hở con thạch sùng bỡ ngỡ bò ra tôi mở xem, dưới lớp bụi nhòa Đứng sững từng chồng sách báo và tôi chán nản đậy vào: “mỗi ký bảy hào, giấy nát!” mười năm trời xót xa mất mát nát tan ảo tưởng lọc lừa... mảnh đất cày bừa thưở trẻ hạn khô, nứt nẻ, bỏ hoang rồi

tôi đã uổng mồ hôi tát nước trái đất mênh mông thu vào một thước! mưa rắc bụi, hàng cây phía trước mùa Đông tước trụi lá cành chiếc máy phóng thanh vẫn hát loanh quanh vài điệu hát... (1966) vài cánh dơi... vài cánh dơi chập chờn quanh cổ miếu rừng ngả dần màu hiểm bí, âm u gió đìu hiu thoang thoảng lạnh hơi chiều sương ẩm ướt bắt đầu rơi phủ trong lặng vắng vút ngân dài tiếng hú vài cánh chim lạc lõng vội bay về lời tối tăm vang dậy bốn bề tiếng ếch nhái côn trùng trong cả nước người lữ khách giật mình chân rảo bước bản mường xa có kịp tới qua đêm? (1959) vì ấu trĩ... vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối vì muốn an thân, vì tiếc máu xương cả nước đã quay về một mối — một mối hận thù, một mối đau thương! hạnh phúc, niềm mơ, nhân phẩm, luân thường Ðảng tới là tan nát cả! lịch sử sang trang, phũ phàng, tai họa

nào đâu chính nghĩa thắng gian tà? Đau đớn này không chỉ riêng ta mà tất cả! cả những kẻ đã nằm trong mả và những bào thai trong bụng mẹ trót sinh ra chúng sẽ có quyền nguyền rủa lũ ông cha Đã để chúng sa xuống hầm tai vạ lỗi lầm tại ai? xét ra tất cả mấy ai người đem hết tâm can? trước quân thù hung hiểm gian ngoan biết bao kẻ mơ hồ mong hưởng lạc! nghĩ tới ngày mai lòng ta tan tác Đến bao giờ lấy lại được giang san! chế độ này trâu ngựa sống không an sài lang đã dựng xong nền thống trị ai đứng dậy diệt trừ lũ quỷ? ai trái tim lân mẫn vạn dân tàn miền nam ơi, từ buổi tiêu tan ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn! (1975) việt nam dân chủ cộng hòa việt nam dân chủ cộng hòa Độc lập tự do hạnh phúc cùm một chân Ăn chín cân lý do: dựa vào ho ra máu vài lần

dù trói chăng giáo dục đã nhiều lần lao động vẫn ù lỳ cần nghiêm trị! giám thị ký. Ôi mảnh đất... Ôi mảnh đất nửa trên hình chữ s Ước lìa ngươi, ta ước được lìa ngươi ta trót yêu ngươi từ thưở lên mười ngươi lừa phản nên đời ta mắc kẹt tình yêu đã trở thành thù ghét nếu rời ngươi, dù cụt mất một chân chặt nốt một tay, ta cũng không cần! mà coi đó là điều may mắn nhất vÔ ĐỀ 37 vì sống gần ngươi là ta mất tất vì sống gần ngươi, ta thành súc vật! (1967) vì nhân loại... vì nhân loại tưng bừng quá ít bận tâm tới những cảnh chôn vùi đớn đau dẫy dụa vì cộng sản đê hèn hung ác chủ tâm dùng thời gian tiêu diệt chúng ta, bắt chúng ta suốt đời phải làm trâu ngựa lịch sử hỡi không chờ ngươi được nữa! ngươi chậm và ngu như một con rùa Đời con người ngắn ngủi kẻ thua phải quyết định gọn nhanh và nẩy lửa!

(1976) với tôi, ngày sống là... với tôi, ngày sống là sống giả lao động nhục nhằn, đói ăn rũ lả chuyện phiếm, bông đùa như quên tất cả và như tù mãi chẳng cần ra nhưng đêm về tôi mới sống xót xa cả quá khứ, tương lai cùng hiện thực tim với óc căng lên vì động lực Đẩy vần thơ từ đau khổ chồi ra những vần thơ có hình dạng là hoa song sức phá vạn lần hơn trái phá! (1971) xuất cơm tôi... xuất cơm tôi một hôm đánh đổ tôi còn đương đau khổ nhìn theo thì nhanh như một đàn heo bốn, năm đầu bạc dẫm trèo lên nhau bốc ăn một lúc sạch làu miếng cơm, miếng đất, lầu bầu chửi nhau! (1966) xưa lý bạch... xưa lý bạch ngẩng đầu nhìn trăng sáng rồi cúi đầu thương nhớ quê hương nay tôi ngẩng đầu nhìn nhện giăng bụi bám cúi đầu giết rệp nhặt cơm vương lý bạch rượu say gác lên bụng vua Đường

tôi đói lả gác lên cùm rỉ xám lý bạch sống thời độc tôn u ám phong kiến bạo tàn chưa có tự do tôi sống thời cộng sản ấm no hạnh phúc tự do, thiên đường mặt đất rủi lý bạch, mà may tôi thật! (1967) xuân này chẳng khác... xuân này chẳng khác những mùa xuân chỉ thấy đôi chân nặng bước dần Đường sống không còn xa lắm nữa nên mừng, nên tiếc, phân vân... lòng trót yêu hồng xanh tím biếc Đêm dài thương tiếc thêm đen bạn quen chết dần từng đứa thêm mùa xuân cay đắng nữa trôi qua uổng phí tài hoa chờ trông hóa đá bao xanh hồng óng ả bùn pha tắt lụi... niềm tin gác núi, nhạt mầu... con tàu quá khứ Đêm buồn, ga vắng, trầm tư... (1961) xuân thắm... xuân thắm, hè tươi, đã mất không nên lòng hoang xám buổi thu đông

bốn phương vắng lạnh, mùa khô chết theo lá, ngàn cây đứng tiếc trông... tan tác vàng khô gió cuốn tung mùa thu đương chết giữa không trung tiếng thu rên xiết lời trăn trối trong tiếng vàng phai, tiếng não nùng! thu đã về đâu? Đây gió đông pha màu hoang lạnh khắp non sông chốn xa khi đất trời thay sắc anh có buồn thương thân thế không? (1964)

*****************************************************

ĐẠo trƯỜng ngÂm

x.y. thái dịch lý Đông a gió Đáy thuộc duy dân học xã, xuất bản thứ nhất tại sài gòn, việt nam tháng 9 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) mỤc lỤc thay lỜi tỰa muses nhà văn nghệ phải phát thệ cái yêu thương; yêu thương là huyết tính của loài người. nhà văn nghệ phải thể nghiệm được yêu thương trong sinh mệnh lịch sử, hiện tại và tương lai trong loài người, trong sống thật, sống máu và sống đấu tranh của loài người. nhà văn nghệ phải ca tụng những cuộc đắc thắng vô ngã. thế cho nên nhà văn nghệ phải là của dân chúng, phải trở về bình dân, phải là phần tử bình dân, còn phải là người tin thờ bình dân, đấy là toàn thể cái hiện thân của yêu thương,

hy vọng, tin thờ lý tưởng đang tranh đấu phải "mắt mù", "mặt cúi". nhà văn nghệ không làm "mõ chợ" được, văn nghệ không thể làm tiếng "chó sủa" được (shelley), đồng thời không thể làm đồ đùa cho giai cấp độc quyền (tolstoi), cũng không thể làm "đồ chơi của bọn tục". "nó là tiếng đau khổ thực ảm đạm và nghiêm nghị" (chu xuyên bạch thôn). bỏ loài người ra, văn nghệ không có giá trị gì hết, nhưng bỏ đa số loài người ra với bỏ lòng yêu thương vô ngã ra, văn nghệ không thể có một giá trị thích đáng. nhà văn học phải là một "giáo sĩ tiên tri và dùi mài" (fichte). "phải thổi tiếng kèn đánh thức lên" (shelley). "phải làm sao cho loài người tự hiểu mình, tự tin mình và càng khát mơ chân lý" (gorky). thế cho nên "văn nghệ là lương tâm của loài người" (herbert). cái lương tâm và việc đánh thức chỉ có thể bằng yêu thương đang đau khổ trong vật lộn. muốn được thế, văn nghệ phải vô ngã mà không còn chấp trước nữa. văn nghệ còn là hình thể của lý tưởng, cho nên văn nghệ tự thân cũng phải lành, đẹp và thực. lành và thực không hỗ giải được cho có một tiêu chuẩn đúng đắn, chỉ có đẹp biểu hiện được rõ ràng giá trị nhất. cho nên văn nghệ là hình tượng, cảm tưởng và tượng trưng. Đẹp phải biểu hiện độc lập và thuần túy trên hình thể và mầu sắc, đẹp phải trình bày cái độc đặc của nội dung, "chỉ có thực chất sinh ra hình thức" (g the). văn thể phải là sự tỏ lộ của nội tâm người cầm bút (gorky). mỗi bức vẽ phải là một vở kịch một màn, cái diễn trình phải chú trọng trong sắc vận. khó có thể tìm thấy trong những nhà văn hào lớn lao như balzac, một nhà tả thực chủ nghĩa hay lãng mạn chủ nghĩa (gorky), vì văn nghệ chỉ là sinh mệnh phô bày ra (herbert) và loài người trong đời sống cũng như không ỷ vào lý tưởng thì không thể nở hoa được (thạch xuyên san tứ lang), đó là sứ mệnh thực hiện chủ nghĩa, đó còn là cách mạng lãng mạn chủ nghĩạ văn nghệ là hoa của đạo lý, huyết hoa. văn nghệ phải là sống. hãy mở cửa sổ ra cho ta hít hơi thở của không khí anh hùng (romain rolland). phải phá tan màn tối ra cho ánh sáng, hơi thoảng chiếu vào phát nhiệt cho loài người khỏi tăm tối, cho hạt giống của hoa quý từ dưới thối ra, mục nát, bùn lầy, hôi tanh, đượm hơi sương mai và không khí sáng mà nở lên trái quả tươi màụ nếu loài người duy vật thật, tất không có văn nghệ, chỉ có khoa học của vật chất luật tắc. nếu loài người duy tâm thật, tất không có văn nghệ, chỉ có tông giáo qua thần thức. văn nghệ là chủ của thời đại mới dẫn dắt loài người bằng phương pháp ý thức của tự loài ngườị văn nghệ không phải là thượng tầng kiến trúc, chỉ là dưỡng sinh nền tảng của mọi người. cho nên lễ nhạc chính trị là phương thức chính trị của nho duy sinh. lễ nhạc phải phát xuất tự nơi dân chúng và sống thật mới được. lễ nhạc (một trong văn nghệ) phải chính trị hóa, hơn nữa là giáo dục hóa. "một văn nghệ nào, nếu không lấy đạo đức hóa lý tưởng và thực dụng làm mục tiêu chỉ là một thứ sống bất lương và bệnh thái".

nhưng mà văn nghệ không thể ở bọn quan liêu, chính khách và nhàn tản theo đòi được. văn nghệ phải để cho yêu thương của lý tưởng có tranh đấu chủ trì, văn nghệ là của dân chúng mới được. x.y. thái dịch lý Đông a 4823 tuổi việt (1944) (trích trong huyết hoa) sơ lược tiểu sử x.y. thái dịch lý Ðông a x.y. thái dịch lý Ðông a tên thật là nguyễn hữu thanh, sinh năm 1920, tuổi canh thân, mệnh mộc, tại huyện kim bảng tỉnh hà nam. Ông thông hiểu về dịch lý, phật học, và lịch sử, v.v... khi mới 16 tuổi. theo lời kể, ông được linh quang thần nhập thể vào lúc 16 tuổi, nên được khai mở trí tuệ: đọc rất mau, thâu tóm tư tưởng rất lẹ. năm 1942, Ông đến thư viện liễu châu (trung hoa) để kiểm lại các sách viết về triết học, lịch sử, xả hội, khoa học tây phương và Ðông phương, nghiên cứu địa lý trung hoa, đồng thời khảo sát thêm về lịch sử và văn minh việt. tại đây, Ông bắt đầu viết các sách thuộc bộ “Ðại việt duy dân Ðại cương thảo Án quốc sách toàn pho”, tức là các sách thuộc chủ thuyết duy dân nhân chủ. sách Ông viết rất nhiều (khoảng 30 bộ) nhưng phần lớn không được phổ biến vì nhiều lý do, và một số bị thất lạc. sách của Ông dùng nhiều từ ngữ hán việt, ý tưởng rất xúc tích, cách trình bày với dạng thức đặc biệt. lý Ðông a khai triển văn hóa và truyền thống dân tộc kết hợp với các suy tư về sự kết cấu xã hội nhân loại và xã hội tự tính để lập thuyết. một cách giản lược, lấy người làm trục, căn bản triết lý của chủ nghĩa duy dân có ba bình diện là ba thành phần biện chứng đưa đến một quan điểm thống nhất, đại đồng, chân xác về người: - vũ trụ: duy nhiên, vô nguyên. - nhân loại: duy nhân, nhất nguyên. - dân tộc: duy dân, đa nguyên tương đối. vũ trụ là một lãnh vực thuần túy khách quan...trong đó con người là sinh vật đặt thù luôn luôn có nổ lực vượt trên vận động tự nhiên để thành lập xã hội nguyên thủy là xã hội tự tính, từ đó con người mới xứng danh là người. Ý niệm xã hội là ý niệm căn bản của mọi quan điểm về người. ngày 1 tháng 1 năm 1943, x.y. thái dịch lý Ðông a sáng lập và là thư ký trưởng việt duy dân Ðảng để đấu tranh chống pháp và chống cộng. vì thời cơ chưa đến với người quốc gia chân chính, nên sau trận nga my (1945) và hòa bình (1946) đấu kháng với cộng sản, Ông tuyên bố giải tán Ðảng và biệt tích, lúc ấy Ông 26 tuổi. sau năm 1946, người ta không còn ghi nhận những hoạt động nào của Ông, ngoài những lời đồn đãi là Ông đã bị cộng sản thủ tiêu như đã thủ tiêu lãnh tụ của các đảng phái cách mạng thời đó. tuy nhiên các cơ quan tình báo pháp và ngay cả cộng sản việt nam đã không có bằng chứng nào chứng tỏ là Ông đã bị sát hại cả.

nhà cách mạng lý Ðông a đã quyết tâm đi làm cách mạng cứu nước giữ nòi bằng cả trái tim đầy máu nóng, một lòng yêu nước thương nòi nồng nàn. các tác phẩm của Ông ngoài phần văn chương trác tuyệt và tâm huyết ngút trời đối với quốc gia dân tộc, còn là một hệ tư tưởng tuyệt vời cao sâu thực tiển, nhân ái, viễn kiến chính trị suốt dọc, làm nền tảng cho cuộc cách mạng phục hoạt sắp tới cho dân tộc việt và là một cuộc cách mạng khuôn mẫu cho nhân loại sau này. các tác phẩm của Ông đã được xuất bản : Ðạo trường ngâm, huyết hoa, chu tri lục, duy nhân cương thường, thiết giáo, việt sử thông luận, và một số tài liệu. tóm lại, lãnh tụ x.y. thái dịch lý Ðông a được kể là một trong số ít triết gia việt nam, một nhà cách mạng nhân bản xã hội, một nhà chính trị đạo đức, một nhà đại thi hào của dân tộc. cuối năm 1980, Ông việt viêm tử lê tư vinh lãnh tụ của mặt trận cách mạng hưng phục việt, đã nhận được tín hiệu của nhà cách mạng lý Ðông a qua tập thơ vô Ðề và khuyết danh (thường được gọi là tiếng vọng từ Ðáy vực, bản chúc thư của người việt nam, hoa Ðịa ngục, Ðồng lầy) và với nhiều phối kiểm: lãnh tụ x.y. thái dịch lý Ðông a vẫn còn sống và đang lãnh đạo mặt trận quốc nội. vẠn thẮng ---------------------------------

Ðạo trường ngâm một vòng không đáy, đáy sinh người. ngoảnh lại trông đi mấy việt khơi thường vậy vô danh văng vẳng. mà nay hữu thực bời bời. tiết gìn thiên cổ tình khôn dãi, Óc tính trăm năm, gan dễ phơi. khép mở hồng hoang vần chuyển mãi, duy nhiên khoáy động ba nghìn trời. ba nghìn trời một khoáy thấy đâu, Ðám bụi trần ai luống đục ngầu. sách hóa trắng tinh không một chữ, gậy thần đốt trúc có hai đầu. sông thao nước cuốn bên bồi lở, núi tản mây vần, độ bể dâu.

Ðông tây một nhẽ, xuyên kim cổ, vũ trụ huyền hoàng, mối lạc Âu. mối lạc Âu gỡ trải bao giờ, bơn cát ngàn tre gió phất phơ trúc lụa đã dày phen tri loạn. son xanh còn chiếu dạ được thua. cương thường chắp nối hai kiếp lại. văn vũ trì trương một nguyện xưa. hỗn độn đã nhiều công mang mớ, chỡn thây cho mưa nắng hững hờ! nắng mưa tâm sự ở trên đời, tao hóa như không, lọ có trời! Ðồng trung hoa đến mang làm cột, máy pháp lan sang để chém người. Ðạo nghĩa gớm cho quân lợm khẩu. nhân quyèn khiếp cả lũ xanh ngươi! ngẫm xem muôn vật đều đắc ý. rẽ rạch hồng bàng tính cổ thời. tính cổ thời ngày một đi đi, trách ai cát cứ gọi hoa di. cỏ xanh kia lấy bạo thay bạo. gạch tía này sướng chi khổ chi? sự tích thôi đều hươu quạ. sinh linh thế ấy phân ly. xuân thu ướm hỏi bởi vì vị. hay bởi xuân thu bởi vị vì. bởi chút vị vì tìm lẽ đời,

ba sinh còn hồn mộng đôi nơi, giang sơn dựng thuở ai tác bể. quan lũ gây từ kẻ trụ trời, tác giả vô danh là gốc đạo. noãn bào trăm họ ấy giềng ngưòi. Ðáy dòng nước băng băng chảy mãi. chớp bể mưa nguồn nào có ngơi! chớp bể mưa nguồn kéo khắp miền. xá chi tắm gội, xá truân chuyên. bút nghiên, đèn sách đều sai lạc, kim cổ, Ðông tây cũng hão huyền. ví biết lửa hương tìm chấp nối, là hay vàng đá dể trao truyền, văn minh nghĩ kỹ còn nhiều việc. Ðem cả muôn loài lên duy nhiên. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v. huyết hoa hồn bạch trĩ bâng khuâng tìm nước cũ, tìm cội dài, mậm ngắn núi viêm phương. tìm nắng mưa bầu đoàn loài một tổ, Ðậu cành nam đèo đẵng rũ đau thương. hồn tài tử vơi đầy ngụ oan khổ, khúc đoạn trường nên tuyệt cổ văn chương. một tấm son chút trinh này gột rửa, chót đèo bồng tình cố quốc tha hương. hồn cô nghiệt ngoài khơi trong bến ngự.

dầu tái sinh hữu hạnh dạ còn vương. cán long tuyền mài sương hàn Ðỗ vũ. tấm lòng người vong quốc chết đau thương mà quốc chi sĩ huyết chi hoa. trời bó mãi, đất bó mãi không tha. năm năm mây bạc, đầu bạc chẳng già. quả tim đúc lại, nhủ cho ngàn biển. vô tình vẫn mãi, hữu tình không tha! hận lòng như gió thổi, thổi đời thuở. sự nước non dài, dài cả một ta. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v. thiên tài hoa sao viêm phương chọn chốn giáng tinh thần trong muôn hoa lấy một ở hồng trần. chợt bóng mát chân sim ta tìm gặp. Ðầu dây leo bình dị đóa siêu quần. Ðóa siêu quần ta gọi thiên tài hoa. nếp tinh quang in năm cánh kỷ hà. sắc đỏ trời nam phun ánh lửa. hương không thơm vì ẩn tích ngân hà. tận ngân hà huyền diệu chất thiên tài. gió mưa hồn cố quốc tít non đoài. Ðoá hoa huyết người ta bừng thức giấc, sao viêm phương chói lọi mọc trên đài.

x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v. bạch vân điếu cõi trời khép đóng chưa mở mang. sinh ra thánh nhân nhường tịnh mịch. mõ trời, khánh lỗ đánh đương vang. chín vạn bằng bay chưa giáng lịch lòng thu lả tả áng bạch vân, quốc dân muôn đời người bí mật. dã triều đương cực trong mộng trần. Ðể lại tàng cơ làm pháp vật. lòng kinh thừa thãi am muốn nhàn gặp hội nghìn năm thường dễ bỏ. cổ kim ai đã biết nghe đàn? vẫn những tai ngóng niềm quan lũ. thiên dân giềng mối cực hoàng hoàng. Ẩn phong nhã năm quyền giáo lệnh. bia xưa cây cũ dấu tuy mang chẳng phụ muôn đời âu có mệnh. x.y. thái dịch lý Ðông a 4834 t.v. vạn niên thư việc muôn năm trước lắm ngưòi đương, việc muôn năm sau nhiều kẻ nối. non sông không thiếu khách trì trương, vận mệnh phần tay ai giềng mối.

ngày ngày tháng tháng đi dòi dõi, tổn ích trong cơ mối thế thường lao lực trần ai thương lặn lội, con thoi nhật nguyệt nắng đòi sương. bởi chút thiên sinh liệu dưỡng phương lòng tằm, ruột lúa nhường nông nổi. tự thuở tương tri những vấn vương, nguyện đem hương lửa ràng công tội. khúc hát non côn làn suối dội. bài thơ mây trắng gió am trường, sáu năm cung kiếm tình nửa gối, kẻ trước người sau đều đoạn trường. bởi chút tinh hồn của cố hương. cỏ gai mù mịt đi tìm tõi vạch đường tinh vệ bể uổng dương viếng núi thu tinh trời vòi vọi. con thuyền họ lã thách chìm nổi, tấc kiếm thần rùa dẹp nhiễu nhương. ngồi lại đem thi thánh chắp thành nối, Ði ra lên ngựa mở hoàng vương. tấm lòng để chúc muôn năm trường, sự nghiệp làm dây các vận hội. năm trăm năm nữa gíó nam dương. chớ bảo ta trong hàng trăm tuổi. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v. bạch vân đàn họa

mây lành hiện về cát xây ngai Ðiền phá ai người dễ biêt ai? Ðủng đỉnh thái nguyên ngay trước mắt. dập dìu ba thục chính mang tai. thần cơ dẫn dắt đường tam hiểm. y bát trao truyền vận thất khai. ngày đến tiểu văn lang sẽ thấy. ngẩng nhìn sao tất sáng phai phai. x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v. hồn cố quốc hồn ngược sóng ba sinh. hồn về núi thu tinh. chợ cao Ðang đồng vọng, cố quốc biết bao tình! x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v. nam thi tháo những nguồn thơ bất tuyệt như thiên cổ, bằng mồ hôi, máu lệ chảy đời đòi. cả nòi gióng trên tiến hành lao khổ, vần nam thi lên mỗi dịp bời bời. cuộc chiến đấu đem hồng hoang mang mở. Ðám trần ai hồn sáng tác chan chan. bằng muôn miệng, muôn lòng buông sáng nở vần nam thi lên mỗi giọng nồng nàn.

tự giác lại sống còn đà đến độ. sóng đáy tầng hùng vĩ sủi ngạt ngào. cả nòi giống trên độ trình rầm rộ. vần nam thi lên mỗi điệu dạt dào. gió nồm đem nắng viêm hòa rực rỡ, gậy tre lau trở lại huyền hoàng, sợi nâu lam mối hồng bàng tết gỡ, vần nam thi lên mỗi phố sang sang. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v.

nhàn ngâm kinh luân chút nợ chửa yên tuyền. nên liệu ba sinh phải báo nguyền, thiết huyết thiên thu nhiều lạo đảo. bạch vân tể tướng mới thần tiên. như không gặp gỡ ngày ngô thát. thì đã du nhàn chốn phố viên. một chiếc hồ lô mươi hoàng quyển. tiêu dao mây nội hạc chân huyền. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v.

thiên cổ thông khối tình yêu thiên cổ dòng kim cương. ngày thai sinh nhưng chọn chốn quê hương. hèm núi trắng sông xanh của nòi việt,

cỏ hoa còn gìn giữ mặc tang thương. mà muôn thuở như mỗi ngày thêm sáng. Ðược một người đáng mến đáng chìu thương, vết tiên rồng ai khắc qua mưa nắng? Ðể tâm tư lo lắng mối cương thường. hồn lịch sử sóng trong dây nguyện ước. vẫn chu lưu tồn tại xá phong sương! bừng tĩnh ngộ bằng đồ thư đất nước. kín uyên nguyên sầu thẳm đáy cửu trường. tất cả bởi cháu con bền bỉ mãi. nền kế khai đạo thống dãi viêm phương dẫu thiên cổ nhân duyên nhiều cảnh thái. khối tình yêu khôn nói hết tơ vương. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v

tự hào chàng thiếu niên chí thành, hành chữ vương sinh ra đời gặp lúc đại nhiễu nhương. dân muôn nhà trầm luân trong nước lửa. chàng thiếu niên gầm thét động bi thương. phấn hùng tâm gọt mài tìm lẽ sống. Ðặt tấm thân dày dạn giữa gió sương; ngày công thành hẹn trước như cứu chúa. cầm trong tay vận mệnh và kỷ cương. chàng thiếu niên gốc cháu con hồng lạc máu nóng sôi, hồn nóng lửa viêm phương.

năm nghìn năm trong mạch sống chan chứa. hoa thiên tài bừng nở nức Ðông dương. lòng trong trắng như vầng trời cao sáng. Ðức uy nghi tiên cách khác ai thường. tình yêu thương những ngày thiên mệnh sớm vì giống nòi trút lại chẳng tơ vương. vết phấn đấu như rồng bay tuyệt cắng tài lược thao cái thế có ai đương; lưỡi gươm thề quyết mở đường vạn thắng gồm một nhà trăm giống việt kinh dương. chàng thiếu niên rượu thần thơ lại thánh. nét tâm đan mở miệng có văn chương, bước duy dân dòng xuân thu tha thiết. uống năm hồ, ngâm trăm thuở cương thường. trang bất tử bước chân hùng khảng khái. vê hồn nhiên linh nhạc nẩy cung thương. thường than câu “thiên hạ thùy nhân khấp” thoắt xem mình đầu tóc đã pha sương. gánh tài tình tự hẹn thời mưa gió. dẹp cuồng lan xấy đắp cõi kim cương, thân lui về tiêu dao không ngày tháng. muôn nghìn đời tài tử nhất danh trương! chàng thiếu niên tự hào thân lầng lậng, Ðáng cháu con hồng lạc mặt dương dương cùng doanh hoàn đua chen với kim cổ, hỏi xem đời mấy kẻ dám tương đương? chàng thét rượu, mở tờ buông bút sử,

tự hào mình, mình hát lại mình thương, rằng nghìn trước, nghìn sau, nghìn năm nữa, có ai cùng thái dịch hú hồn thương? x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v. thánh đồng ngâm trứng rồng nở ra rồng. hạt thông mọc cội thông. nối dòng và mở dõi bởi con cháu lạc hồng. tre già măng lại mọc Ðông hết tất sang xuân. nóng lạnh tình như dục. bao nhiêu nỗi xa gần. tạo hóa như không cả. nên chăng bởi tự người thánh hiền sao vắng vẻ trông mong lũ trẻ tươi! nước suôi đi đi mãi, trời quay đến đến đâu! mỗi thoáng đời thêm mới, thương thay lứa bạc đầu! trúc lụa ngày thêm cũ son xanh mỗi giũa thêm, hưng vong đem gột rửa; vàng đá cũng ngao mềm. lòng người xưa ta biết,

tái sinh còn hận dài. vì không chi chi hết, cát bụi phải dùi mài. Ðoái lại tuy không kịp, trông theo đuổi vẫn còn. phím đàn tuy nhỡ dịp, Ðiệu tri âm chưa mòn. lúa tơ trong bùn lội, cát vẩn lọc nên vàng, có đem thân chìm nổi mới biết ánh vinh quang. sống chết bao nhiêu ngả. chung quy một lẽ đời. Ðầu tóc xanh óng ả, rằng tóc răng, lưng vời. giung giẻ trong vui sướng, chi chành với gió mây, trắng răng nào đã tưởng cuộc ú tim sau này! lăn lóc trường trác táng, khổ lạc chất bao chồng. muốn ngơ ngơ ngãng ngãng. tìm phương thuốc hoàn đồng. Ấy chết đi còn sống, mỗi sống mỗi phôi pha mà hắt hiu một đống làm bè với cỏ hoa!

ai đem giày nát mãi? ai đem vần vò ai? nắng mưa dạn rầu dãi, một tấm lòng thoát thai. còn người trong trời đất, còn bao giờ hết sầu! chiếc dây cùng muôn vật cởi thắt tự đâu đâu. thăm dò nơi nguyệt quật, cầm nắm lấy thiên căn. giày cũ đi đi mất, còn đây vết trục trần. giọt nước xuyên lỗ mỗ dây ràng kín góc gai, nước non hồn Ðỗ vũ, giằng lối vấn vít hoài. vạch lối muôn năm trước. tìm đường muôn năm sau, thái bình làm sách Ước xây đắp cõi thần châu. chớ oán chi vũ trụ. cũng đừng trách người ta, tấm băng ngà bóng rũ, dòng suối cuộn cành hoa. ngày tháng như thoi lẩy, cương thường nặng ngàn cân. chỉ xin đem chút mẩy

báo đáp cùng ba xuân. công tội, xuân thu hiểu. long hoa mấy vận lành? Áo vải đời nhương nhiễu, thủy hỏa luyện nên mình. Ðầu xanh học làm thánh, Ðược cả học làm vương vì muôn sinh chấp mánh. cho toại chí mười phương. thánh vương như học được. nguyện bạc đầu đọc kinh, chỉ vì chưng thao lược không ngoài trong tự mình. giàu sang như dép rách. non côn có suối rừng Ðất trời ai cởi ách, hơn thánh vương ngàn từng. chỉ những người tác giả. làm thầy cho mọi đời! Áo cơm là đạo cả kinh doanh đủ hộ người. khói mây kín mù mịt như không, như sáu như. anh hùng đâu mất hết; như thiếu, như có dư! Ðẻ ra ai đã biết? hun đúc trong trường trần,

chỉ những người cô nghiệt hiểu được thức kinh luân. cha mẹ công huân dưỡng. non sông phí tưới vung, máu chảy đức vô lượng. xin thề vì kiền khôn. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v.

xuân thu ngữ khi bán than ẩn, khi đan sọt ra, Ðược nghĩa được nhân, phải thời phải thế. biểu trừ gian một lá thuở về nhà. lòng riêng đau nghìn cổ cõi Ðông Á. thuở còn trời, còn đất còn ta. gánh cương thường nhắc lên vai ai để. Ðể đời đời nghĩ, nghĩ lại xót xa rằng mỗi đời sao chẳng mỗi thánh nhân ra. bóng trăng soi tịch mịch nước suối reo, cây thông hò. “ tri ngã giả kỳ duy xuân thu hồ” “tội ngã giả kỳ duy xuân thu hồ”. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v

tơ đồng

mai không trên núi. quế không trên non, Ðào không trên nương. phong trần lặn lội xót hoa hường, tìm người đồng tình dạ vấn vương. buồn theo gió đông gửi bốn phương. lân ẩn trong nội, phượng ẩn trong ngàn, rồng ẩn trong ao. lều gianh cỏ rậm vùi anh hào. tìm người đồng chí dạ khát khao. trông theo cánh buồm hỏi mây sao! cầm không có sắt. uyên không có ương, cưu không có thư. thu dài xuân ngắn hận nắng mưa. tìm người đồng tâm dạ tương tư, ngóng theo tăm bóng nhắn tin tờ. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v.

ruộng và nương nắng bay lúa đỏ mấy miền. lần xem bờ cõi lạc điền những đâu? hai tay cuốc bẫm cầy sâu, một bồ thóc giống ngả mầu giang san. bóng dâu min mít đồi ngàn,

gió đèo ngũ lĩnh, mây quan chà bà. con tằm chấp nối bao là, nền dư đồ giữ nếp nhà áo khăn, nắng mưa tắm trải bao lần, trăng thu lương thủy, hoa xuân kiếm hồ, lưng trời con nhạn lơ thơ, tấc sinh cây cỏ còn chờ nước non. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v.

dương tử giang âm mây năm núi, gió năm hồ, nghìn xưa bến sở, sông ngô thế nào? mây bay gió cuốn ra sao, non kia, nước ấy thấp cao những gì? mệnh ngày suy chửa hết suy, biết đâu cai hạ mà vì mịch la? gió mưa ta cũng một nhà, mây quang gió tạnh đã là nghìn xưa. cây non thức dậy hay chưa, tấm lòng dương tử đợi đưa tin hồng. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v.

chính khí việt một ngày lạnh nước nguời không tri kỷ. ta vỗ án hét thành ca chính khí.

Ðông thê thê như gió thổi u hồn, thấu buốt tận lòng ngưòi trong cốt tủy. lòng sống chết buồn vui bừng nổi dậy, thoát lăm le như dục người chọn lấy, năm nghìn năm, làn máu bén dạt dào. sóng lớp lớp rượu ba tuần thuở ấy. tiếng vang vang như thần kêu quỷ hét. trời ngập ngập như quân khiêu tướng thét, gọi quá khứ vị lai những u hồn muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết. muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết. nước mê linh trăng thu còn vằng vặc, sông bạch Ðằng sóng vỗ thuyền cắc cắc. non chi lăng gió cuốn rừng cung đao, Ðồng Ðống Ða xương người phơi man mác. buổi sát thát chàm vai thề đầu mất, ngày bình ngô nổi cờ không khuất tất, khi cần vương nhổ mặt lũ gian hùng, lúc cứu quốc vòng bôn lao uất uất. thà làm ma nước nam không vua bắc, Ðầu chẳng còn quyết không đương cắt tóc, lửa đốt mình không phụ nợ non sông dây thắt cổ cho tròn trung xã tắc. dây thắt cổ cho tròn trung xã tắc. muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết. những trung hồn xưa, nay, mai oanh liệt mở nguồn sống xưa, nay, mai nước nòi,

muôn nghìn đời dạt dào chính khí việt. chính khí việt suốt đất trời bàng bạc, chính khí việt trong máu người hồng lạc. gió thê thê quất dậy hồn phục hưng gươm vạn thắng cứu nước nòi giết giặc. chính khí việt là hồn gươm vạn thắng, sắt tôi với máu đào hun lửa nóng, và Ðại việt muôn năm! cả toàn dân vượt đau nhục lên sống còn hùng tráng. vượt đau nhục lên sống còn hùng tráng. x.y. thái dịch lý Ðông a liễu châu 4821 t.v

xuân tráng sĩ tráng sĩ hãy ngâm câu: “ túy ngọa sa trường quân mạc tiếu cổ lai chinh chiến kỳ nhân hồi”. cũng bởi vì: lòng quyết tử tiến lên đường gió bụi, hai bàn tay thề phục lại sơn hà. thái bình dương lấp lánh san bằng sầu nhục tủi, lấy máu đào rửa sạch máu yêu ma. thế cho nên: tráng sĩ hãy cùng ta tay cầm tay, thu năm hồ dốc lại một hồ say Ðêm xuân đầu với rượu nồng pháo nổ hãy vui cho đỡ buồn xa đất tổ.

rồi ngày mai, từ ngày mai. lý tưởng việt như trời xuân sáng tỏ, chép sử việt ánh dương phơi máu đỏ tráng sĩ cầm thanh gươm của ông cha, phấn hồn xưa giết giặc đòi lại nhà. tráng sĩ hãy lên: những xâm lược, bóc lột hại sinh linh. những buôn dân bán nước cầu tư vinh. hãy giết sạch chớ gờm tay sợ ác. cho trong trắng nòi con hồng cháu lạc. rồi ngày kia: một ngày kia thắng nghĩa ca sẽ vang lừng đây đó quốc gia. và lúc đó: tráng sĩ sẽ lại cùng ta ta cầm tay cùng hát câu sát thát bình ngô của ông cha từ thuở nọ. “ Ðoạt sáo chương dương độ cầm hồ hàm tử quan” súng nổ ran pháo nổ ran cùng hân hoan. x.y. thái dịch lý Ðông a liễu châu 4821 t.v

lưỡi gươm việt thép văn lang lò viêm hồng nung đúc.

búa lô truy rèn giữa bể dâu từng. góp ba núi, năm sông dày tẩm dục. sấm sét nhoàng chớp nhoáng giữa gươm cung. thuở vạn kiếp tiên trao khét oanh liệt, ngày lục niên đã hiện thét quang vinh, rửa lấy máu gột mài bằng xương thịt, chém muông hồ, thú hán nức uy linh. như bình trọng nhơn nhơn giữ một mực. tựa lê lai ngật ngật xung chín lần, rửa lấy khí gọt mài bằng trung trực, sởn gai người, chém đảo sóng ba quân. ví binh phù ngư long bay xào xạc. bằng phiến minh tuyết lửa thổi chập chành rửa ấy óc gọt mài bằng sáng tác, nổi phong trần cuốn quét khắp đan thanh. thép văn lang toàn tinh thần tái luyện, thép văn lang sắc lên nhường bay biến, lưỡi gươm việt lại là gươm duy dân thế hệ mới mở văn minh hùng kiện. lưỡi gươm việt vương đấu gồm thánh chiến. lưỡi bảo kiếm, kiếm khí và tuệ kiếm. quy long trận vung lên áp cổ kim, vào hình sắc ra không huyền ảo biến hỡi con nhà lạc Âu nước trăm việt, hãy đúng dậy vung gươm khoa nửa triệt. nổi mây mù sấm sét gió mưa ran, cả vũ trụ hét lên ca kỳ tuyệt.

quy long trận, kỳ tuyệt ca. lý tường việt chan chan ánh sáng loà, lưỡi gươm việt phơi phới hồn ông cha. tráng sĩ việt đường đường chí đạp ba. kỳ tuyệt ca, quy long trận. Ðứng núi tu di, cắm guồng nam bắc. chém sắt côn ngô, thu đồ hà lạc, cắt búi kim chiêm, bắt tiêm y thát. cùng một lưỡi gươm vẫy nên vạn thắng, cũng một lưỡi gươm trỏ đến thái bình, muôn muôn năm còn mãi mãi chân hình, vóc tinh thần thiết diện, quỷ thần kinh. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v

hứng ngâm sao được tráng sĩ vài nghìn muôn, cùng ta dong ruỗi khắp doanh hoàn. lập lại non sông xưa bách việt. dựng nên thế giới mới duy dÂn chèo sang một bến cực lạc. vớt lấy năm bể trầm luân. làm tròn giấc mộng tiền sinh ấy. trở lại non sâu nhập niết bàn x.y. thái dịch lý Ðông a

4822 t.v

xuân thu ngâm lùn lụi khi lá rụng ngùn ngụt lúc mầm phô, nắng mưa trong thiên hạ tâm sự ngày xuân thu. tâm sự bí mật của muôn đời x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v

hoài cảm hồng bàng truyện cũ có bao điều. tái thế duyên xưa những bấy nhiêu. ba chén rượu thâm ngày tháng ít. một xoang tình ẩn cổ kim nhiều. chín mươi huấn cáo quỷ thần khóc mười vạn quy mô thù địch xiêu tin tức Ðộng Ðình ai mối lái? muốn noi vết tổ dạm người yêu. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v

quốc sỉ nhấp chén rượu mài gươm giận chém đá. tấc cô thần nghịch tử có ai chia? buổi Âu phong Á vũ vẫn còn mê.

chưa thức giấc cùng ta tuyết quốc sỉ? vuông nhiễu đỏ chờ chờ hoen nét rỉ. thẹn những phường tranh chấp mượn tay ai. gương minh vào thanh đến, đến tây lai. ngai vàng nặng để ê chề non nước. thẹn những kẻ quyền gian cướp xã tắc, bêu sống thừa, thác nhục chốn tha hương, dâng sổ đồ quỳ gối chốn biên cương, tiếng sét đánh hoảng hồn quân biếm chúa. thẹn những kẻ sinh ra con lợn chó. thân ăn nằm còn nghĩ đến ông cha. gác cửu trùng đau thảm chất muôn nhà, Ðem dân nước phó cho làn sóng cả. thẹn những đứa cân đai mang xóng xả. chí đội trời đạp đất đã bù nhìn. chạy trước hưu, gớm lũ chó săn nền! chi trách được mụ cù tâm dạ hán! thẹn những kẻ miếu đình ngồi tướng tán. chén thanh trà, bôi hoàng tửu đỉnh chung, mặt diện tường sao biết việc ô long! con thuyền đổ sóng bèo ai giữ lái? thẹn những bác y ô chi lải nhải, mãi sân trình, cửa khổng, mãi ba lê! mộng hầu quan tứ xứ lạc đường quê. quê nước ở trong hồn người tự chủ. thẹn đất nước dưới chân giày uế sú. người lâm thao, bến ngự luống tâm cơ.

mà bướm hồn, xuân nửa não lòng thơ. Ðể đàn nhạn cô tô đài thoi thóp! thẹn dân nước trong sống còn ngoi ngóp. cũng vua quan, phẩm sắc, cũng giàu sang, miếng thịt sôi luồn lọt mà đỉnh đang, luống để thẹn nghìn năm người da ngựa. thẹn những phường thất phu xanh đỏ khố, cũng vênh vang ra phết bậc thầy cô. Ðoái chăng ai sát thát lại bình ngô, quân hồn để sượng sùng gươm vạn thắng. thẹn những bậc yếm khăn chi lẵng đẵng, chẳng xem người mũi chỉ dục chinh nhân. cũng theo đòi những vãi hậu Ðình ngâm, Ðể bứt rứt ánh trăng trầm cửa hát. nghĩ đến sự nước nòi lòng tan nát. có ai còn nhớ chữ trượng phu chăng? núi lam sơn còn sống lại thánh vương Ðể mở lại nước non nòi Ðại việt. x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v

vong quốc nô thương ngọn cỏ xanh xanh, thương bờ tre ngăn ngắt. bờ tre lấn mặt thành, ngọn cỏ lan nền đất. bán đất đi làm tôi.

bán trời để đậy thuế, sống không cửa không nhà. vong quốc nô là thế. rước voi về giày mồ, nhận ma làm tổ vãi, sống không cửa không lò, vong quốc nô đầy ải. kìa ai lẩn suối rừng. vì đâu lời hát trẻ há dám xuống thú dương, Ði tìm bát cơm tẻ. x.y. thái dịch lý Ðông a 4821t.v

chim mồi hỡi chim mồi trong lồng tịch mịch có thương không? tháng tháng ăn mấy đấu, ngày ngày giả mấy công? ví thung thăng ngoài nội, Ðâu phản bội đồng tông. gáy hót đau hoa lá, xun xoe chạnh cánh lòng, Ðem thân ngưòi bú mớm làm gương lắm kẻ trông. x.y. thái dịch lý Ðông a 4821t.v

hươu ngựa giết hươu, ngựa cậy người. ngựa chịu ngưòi cương móng, thù hươu đã giả rồi, ngựa nọ đời gông gióng. những người không tự trọng, làm gương hươu ngựa cười. biển dương đầy sóng gió, chèo lái chở làm chơi. x.y. thái dịch lý Ðông a 4821t.v thi hồn mấy năm trời lênh đênh không bờ bến . ta đem thân ký thác ngoài cố hương, bầu nhiệt tình trong bãi tuyết hoang đường, vết chinh đồ bao nhiêu người sai lạc! những lối cũ, người xưa đã khai thác. trong vô vời tỏ rõ dấu trăm năm. Ðường quay về gió đáy tự xa xăm. thổi dồn dập máu sống còn vạn thắng. Ðem muôn cõi chập chờn những ánh nắng, thúc đọng lại nhào lọc qua hồn viêm. trí thiên tài chưa định của rồng tiên, nở thơm ngát đài hoa lý tưởng việt. x.y. thái dịch lý Ðông a

4822 t.v. thi nhiệt ta đã về đứng bên bờ pắc nậm, mặc heo may quần quít hồn cố hương, thấm hàng cây lấp ló những ven tường. hoà làn khói mơ màng bao nhớ ước. cách dòng nước ta là người mất nước, nước non ta, ai ngăn trở ta về? thấy người quê không được tỏ tình quê, rõ trước mắt mà tìm đâu cho thấy? hãy hét lớn hai bàn tay nắm lấy, hãy khua tan quân địch của rồng tiên hãy làm cho giống việt lại đoàn viên, quê nước ở trong đáy dòng sống máu! quê nước ở trong đáy dòng sống máu! x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v.

chiến sĩ tư chợt thức mình một gối. xào xạc lá sương mai, lạnh lùng con quẹt rối, nao lòng nhớ những ai những thanh niên lạc hồng, lăn mình chốn tang bồng, từ bỏ nơi yên ấm, gian khổ vì non sông.

ngày kia khói ải bay, giũ áo ra đi ngay, từng bao thừa sống chết, son sắt dạ khôn lay. vào ra hang hùm beo, bạt thiệp chốn hiểm nghèo, Ðói rét thân gầy rạc, lẩn lút mệnh cheo leo. các anh cúi đầu nghĩ, cứu vớt đời đau thương; quên mất ngừng mắt lệ, từng mây bạc vấn vương... các anh nắm tay quyết, tiêu diệt quân địch thù Ôn ấp bầu tâm huyết, quên phắt chốn phòng thu. các anh tung gót bước, Ðâu không là chiến trường, quên hẳn đằng sau trước, người sợ, người kính thương. tất cả có duy dÂn tất cả bởi nhân quần. chúng ta vì lý tưởng, con đường sáng vô ngần. những người bạn thiên cổ, yêu nhau chịu đựng nhau, Ðồng chí là nghĩa đó,

phú quý mà chi đâu. cùng tôi ngậm ngùi than, hãy tìm trong gian nan một nền triết học mới, an ủi tấc bàng hoàng. trầm mạc trong rừng rậm, còn tinh thần tre lau, Ánh vinh quang lẫm lẫm, trong mình phải tìm đâu, nghĩa duy dÂn phấn đấu, máu giống nòi nung nấu, thiên cổ anh em ta, chút vị vì mắc mấu. cách biệt đầy nhớ nhung. phong quang ít lúc chung, Ðàn chim rừng ríu rít, cất cánh đã bay tung. một ngày mai chiến sĩ, một văn minh hùng vĩ một triết học đẩy nên. nghĩa duy dÂn đồng chí. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v.

lục niên thành thành lục niên gại liếc kiếm rùa thần, bóng ngàn u thiên nhận dấu kinh luân.

qua lặn suối, lên ghềnh gian khổ ấy, ngày lam lương rạng thấy áng quân thần. muôn muôn binh ngàn ngàn tướng oai hùng. non sông xưa pha máu đỏ bao trùng. một tấc báu trong hang rừng tịch mịch. quyết hơn thua trên vũ trụ khôn cùng. Ðợt phong trần gọt giũa mãi khôn mòn. buổi yên hà nửa gối ngẫm vuông tròn, quất roi ngựa tung hoành trong thiên hạ. Ðể quay về chốn cũ dạ nhưng còn. nhà lục niên trai giới tấc tinh thần. trong bốn phương mưa nắng dấu kinh luân nơi thăm thẳm mười lăm năm rạng rỡ, nếp phong châu y bát thuở thông thần. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823t.v. thăng long điếu Ðất cũ thăng long nếp sắt son, non sông gìn giữ lấy vuông tròn, hưng vong thách để cho trời đất. chút dạ thăng long cũ vẫn còn. lang sói đi về thuở Ðại la, anh hùng chết ruột khói quan hà. trên trốc bàn tay cầm vận mệnh, sơn xuyên thu lại cả trong tờ. thua được đành hay số nước non. anh hùng nát ruột trí lo toan.

can qua khôn lấy thiên hà rửa, cao thấp khen chê miệng chẳng mòn. Ðế thích cao tay chấp nốt xe, thương đòi lo tính thấp le te, dù thêm học lấy trang mai, quất, tài chỉ huy xem vẫn cập kè. mấy cột thông già gió vi veo, Ðầu nguồn giọt nước dỏ tí teo. Ðá vàng gan dãi cùng cây cỏ. ngẫm chuyện đần khôn nghĩ chán phèo. lỗ lãi trần ai giũ áo đi, bàn tiên, cán búa mải tiêu mi, thiên thai chốn ấy lâu ngày tháng. thành bại ngoài tai xá kể chi! x.y. thái dịch lý Ðông a 4823t.v.

xuân cảm trời nam lẻ tẻ bóng vàng đưa, tý chút xuân phong khéo hững hờ, kiếm cũ lọt tang thương còn sắc, mình nay chen thời thế vẫn trơ! Ỳ òm nhỉ! phường khôn đế bá, nheo nhóc thay! Ðàn dại bất bơ, Ờ ỡm xuân phong thêm nhái hận, Ði đi lại lại khéo lơ ngơ. x.y. thái dịch lý Ðông a

4825t.v.

hận mế châu Ðứa trọng thủy tham gì sắc mế châu, vì linh quang thần nỏ chút nhiệm mầu, vì cổ loa thành cao hào lại rộng, vì non sông gấm vóc nòi viêm Âu. biết thân em duyên đó nợ nần đâu? dấu đoạn trường đem rắc lối giặc tàu? gan bách chiến nỗi sầu cha cô tức. giá băng ngời em hối để thằng ngâu. máu oan em đọng lại ngọc trân châu. khối oan em thề rửa máu thằng ngâu, sóng oan em thề tát bầu bể ác. hồn oan em chẳng bỏ cõi viêm Âu. Ấy năm năm nội hán mấy hạ cầu, Ðường quế lâm, nam hải ngất mây sầu, hồn việt thường còn hú nuối mế châu. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v.

hận mế hê cát Ðồ bàn còn hận dài sạ Ðẩu, sông hoàng giang ngậm cười mãi mế hê. chàng vì chưng chí khu lân thì dẫu. thiếp vì chưng tình phu phụ nào hề. nực cười thay cuộc đấu tranh ảo não,

của những người một tổ mà hai quê, hận dài thay đường đời ai phên giậu? giống việt thường đất cũ ai đòi về? thiếp cõi bắc hồn mài sương giang khẩu. giải lụa đào nguyện bắc gióng ô thê, chàng phương nam thập thè chuôi nam đẩu, nguyện đêm đêm nhòm thấu cõi thầm nê. thiếp nghĩ thảm bao nhiêu đời xương máu. chí anh hùng hay chinh chiến đam mê, chàng rằng nuối muôn năm thù nghịch khẩu. vì ông cha nèm rủa cháu con thề. nòi giống hán nên non sông phụ mẫu, từ muôn xưa giày xéo bao ê chề, vết sỉ nhục giao châu đầy đẫm máu, cỏ cây cùng ai oán dục hồn quê. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v.

Ðường vua Ðinh Ðưòng vua Ðinh tre già măng lại mọc, máu sống còn nòi việt tiếp muôn xưa, hồn vạn thắng tràn lan tờ gấm vóc, mỗi cung còn ghi mỗi nắng và mưa. Ðường vua Ðinh người nay nhưng lối cũ, nếp cựu hoài phẫn nộ mạch tân sinh, thành tràng an rập rình cơn khói lửa, mỗi phong trào sắp sửa mỗi trùng rinh.

Ðường vua Ðinh người rày mà nếp trước, hội thái bình mang mở cuộc rồng mây, cờ bông lau dập dìu dầy non nước, Ánh huy hoàng sáng rực khắp Ðông tây. Ðường vua Ðinh đã bước, nghiệp vua Ðinh còn đây. hang luồn, giốc sỏi, mấy ghềnh mây, giặc tống, quân hầu nép móng vây. sông hoàng long dạt dào sóng vỗ, Ðộng hoa lư rầm rập bào bay; phục lại nghìn năm giờ phút ấy. Ðường vua Ðinh cũ lại là đây. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v.

vết bô cô người anh hùng cứu quốc đứng lên hô, quyết đem thân sống chết với quân ngô. tiếng cần vương vừa hầm hè bến mộ. sóng ba quân đà cuồn cuộn non bô. Ðây non bô sừng sững bến huyền hà, biết bao vàng với máu đất đem pha, bao sĩ tử hồn oan ngậm cây cỏ, vì quân ngô giày xéo nước non nhà. lòng phẫn hận một đêm sấm sét hô. trong ngoài kênh dàn dụa máu quân ngô. oai tuyên Ðức bạt theo hồn trương phụ.

Ðầy thành mà sụp đổ dưới non bô, thành đâu xây sừng sững bến huyền hà. sắc dòng thu lẫn sắc lúa mùa pha. công nguyễn, Ðặng giống nòi ai biết cả. bà a Ðào thành ấy ruộng riêng nhà. bà a Ðào muôn năm công vẫn còn, máu trưng vương gái việt hồn sắt son. kiếm nương tử, mưu anh thư nào khác, giết quân thù lặn lội vì nước non. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v.

Ðịch lộng dư âm lòng hang không lồng lộng gió trúc đầy, nhịp hưng vong nghìn xưa không vẳng nữa. tiếng sáo cao, cao vút trên từng mây, nàng tiên xa, xa tít tận ngàn tây. mà giăng trôi nước cuốn tháng ngày chầy. hận hưng vong trào lên từng thế thứ. tai không nghe, nghe thấu tới từng mây. mắt không trông, trông suốt đến ngàn tây. hồn tái sinh, bằng ngẫm nghĩ, sống cả nghìn năm những phút này. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v.

túy tường có nàng tiên nào cùng ta tri âm. cùng ta chuốc chén cùng ta ngâm? cùng ta chắp cánh lên cao vút, xa đời muôn dặm bụi âm thầm. nhớ chốn Ðộng Ðình sóng gíó trường, nhớ trên cung quảng khúc nghê thuờng, nhớ thuở văn lang lầu kén rể, nhớ chàng giai tế thúy vân hương. men đưa hào hứng bút tài hoa. miệng đọc như châu mặt gấm sa, nàng tiên chẳng thấy, thấy gió thổi. ngoài hiên ngọn trúc uốn la đà. x.y. thái dịch lý Ðông a 4825 t.v.

xuân thu hoa quốc miếu tụng chi hồng bàng chín vạn mở kinh dương, bọc trứng ngày trăm con chia núi bể. giống tiên rồng văn hóa cực viêm phương, nước Ðại việt xuân thu hùng vạn thế. Ðại việt chi ký, xuân thu chi hương. Ðinh tiên hoàng khi cờ lau vạn thắng, trần hưng Ðạo khi vạn kiếp di cơ, lê văn hưu khi chép thành sử thặng.

hàn nguyễn thuyên khi đọc tế ngư tờ. Ðại việt chi ký, xuân thu chi hoa. lê thái tổ khi bình ngô đại cáo, còn non sông anh khí vẫn bàng bàng lê hồng Ðức khi vườn quỳnh chính giáo, còn muôn năm nắng hóa vẫn chang chang. Ðại việt chi ký, xuân thu chi quang. nguyễn quang trung khi bình thanh thệ chúng, nguyễn văn thành khi chén rượu điếu tang, phan sào nam khi viết pho vong quốc, còn là hồn Ðại việt sống vô cương. Ðại việt chi ký, xuân thu chi dương. chi hồng bàng chín vạn mở kinh dương, bọc trứng ngày trăm con chia núi bể. giống tiên rồng văn hóa cực viêm phương, nước Ðại việt xuân thu hùng vạn thế. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 t.v.

Ðại việt âm tấu nhạc Ðại việt vinh quang nhất thế giới, như con em tổ tông công đức mãi lưu dành; kìa những ngày nông phục, phiên bình,

lại những thuở cầm hồ, đoạt sáo. nhạc bình ngô ca quỳnh uyển rập rình, vàng chảy, bạc sinh, gió tơ, mưa lúa. cờ vạn thắng, công thái bình, hội rồng mây, cơ hiền thánh. cực vũ công, văn trị cảnh vinh quang. há một ngày nên được nghiệp vương hoàng? bao gan nát óc lầy, đan thanh hàng huyết lệ. thuở hồng bàng rẽ nước rạch hoang, vận nhiễu nhương nằm gai nếm mật. thái tổ nhân như trời đất, thánh tông trị đọ đời vàng. dám khoe khoang công giá huy hoàng, trước xã miếu hãy ưng đường tông tổ. vạn ngôn thư, thất trảm sớ, chúc hưng Ðạo, sử lê hưu, khóc quỷ thần oanh liệt khí sung tiêu, lòng sáng thư ấy bao nhiêu lao khổ. cành nam chim đỗ, ma việt người thà. nhẽ tam thế hy sinh là quốc phổ. như con em nên gắng gỏi rạng non sông, vinh quang muôn thuở tiên rồng. x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v.

kinh đô hành từ cổng trời đến cửa trời, chập-trùng một giải núi trời cao cao, năm năm nước ngược chẩy vào, ba ba đinh giáp cũng bao bên mình, sóng cồn nhớ núi thu-tinh, chín đầm nhớ tới Ðộng Ðình đấy đâu. lạc hồng ấy cõi tiên châu muôn năm vạn vật thương đau còn rành. văn lang xây lại đô thành, Ánh sông ngân xoáy mấy vành pha lê. chợ trời đi lại gần kề, nước non chung đúc của quê nhà trời Ấy nơi hiểm yếu đời đời, mà trong tai mắt đợi người nước non. bể nam trời đất vuông tròn. trăm con giống việt một hòn máu tươi. x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v.

kinh đô hành từ cổng trời đến cửa trời, chập-trùng một giải núi trời cao cao, năm năm nước ngược chẩy vào, ba ba đinh giáp cũng bao bên mình, sóng cồn nhớ núi thu-tinh,

chín đầm nhớ tới Ðộng Ðình đấy đâu. lạc hồng ấy cõi tiên châu muôn năm vạn vật thương đau còn rành. văn lang xây lại đô thành, Ánh sông ngân xoáy mấy vành pha lê. chợ trời đi lại gần kề, nước non chung đúc của quê nhà trời Ấy nơi hiểm yếu đời đời, mà trong tai mắt đợi người nước non. bể nam trời đất vuông tròn. trăm con giống việt một hòn máu tươi. x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v.

tiên long châu hành non kỳ, nước nhuế, mấy thu trường, Ði lại tìm noi dấu cố hương. Ðỉnh dốc bòng bong nhiều ái ố, lưng đèo cắc cớ lằm tang thương. kinh luân vận mệnh là văn vũ, doanh dưỡng thiên dân ấy thánh vương, máy hoá muôn xưa nhà hồng lạc, thực hư ai biết khách cương thường? máy thiêng thủ quốc vẫn còn chân. hồng lạc muôn xưa dấu đỉnh phân. mình ngự ngôi thần làm đế cực, tay vẫn chuôi Ðẩu bả thiên luân

nước non lạc nhuế cơ hiển thánh. con cháu rồng tiên buổi chấn xuân Ðại địa từ xưa không huyệt táng, Ðan thanh một điểm tại thông thần. rồng tiên vốn có chủ trương nhà, lục lục, hồng hồng chẳng phải xa, núi tản, sông thao guồng đất đạp, xuân kỳ, thu nhuế trạm thời thoa, cơ thiêng núi ngự tầng non ngọc; trẫm triệu đùn xây cửa động hoa. nam bắc không ngừng xoay tý ngọ, ngàn năm ta lại biết là ta. bác ngư lạc lối nhập đào nguyên, hốt hoảng trông vời một cảnh tiên. Ấy phủ Ðộng Ðình ngày đản noãn, hay gò bồng Ðảo lúc chiêu duyên? ba sinh nợ cũ tình cố đế. một tấc oan hồn dạ Ðỗ quyên. nhắn có long chương, phiền tý chút, lên xem nước thủy của huyền thiên. cổ kim chơi xóa tựa do cờ, non nước còn ta đến tận giờ! buổi đóng phong châu, hôm lãng bạc, khi quân lam thủy, lúc hoa lư. vận thần thụy ứng ngày chân mệnh khi chính thâm tàng chốn hóa cơ. nguyệt quật, thiên căn ai biết được?

văn minh ta chẳng thiếu đồ thư. guồng máy lung linh độ chuyển vần. non xanh nước biếc có kinh luân. truyền danh đã hẳn là linh dị, Ứng thụy rồi ra mới tác dân. hư thực anh hùng trông rõ thực, giả chân, hào kiệt biết rành chân. xưa nay bất trắc, cơ khôn nói, Ðể hỏi đời ai bất thế nhân? hình hài thấp thoáng bóng tinh anh. dâu bể tìm ai trúc sử xanh? Ðụn thóc, cây tiền , kho giáo dưỡng gậy thần, sách ước, vốn kinh doanh, sồng hằng, nước hán đêu quy lại, Ðảo Úc tầng a cũng phục quanh, ruộng đất muôn xưa nhà bách việt, hồng bàng còn để mối tân canh. chuông vàng đại báo dậy rèn đồng, dớp máu oan oan chửa nhạt hồng. ngán núi kinh thiên bao nắng hạ, thương dòng nước ngược mấy mưa đông, hai tư giáo hóa giềng cương kỷ; mưòi tám hồng bàng mối tổ tông, tháp cuốn chà bà, mây ngũ lĩnh, qua sông ta lại trở sang sông. bước chân cao thấp mãi không cằn, chỉ vị đan thanh chủt nhọc nhằn,

trở lại hồng hoang khơi nguyệt quật; dò vào cửu cực nằm thiên căn. cương thường không ngoại guồng thân mệnh, giáo đường gồm trong trục vũ văn, giữ được xuân thu tròn vẹn mãi, còn nhờ tri kỷ, tấc băn khoăn. Ðất đỏ, trời xanh, giữa một ta, chunh quanh vẫn của nước non nhà, theo đường tiên mở đem chiêng xuống; vạch lối rồng xây, lấy ngọc ra. tim óc xoay vần được tuế nguyệt, tay chân tạo tác nổi sơn hà, Ðấy ai suốt hết thần cơ nhỉ? tảng đá đầu ghềnh chốc nở hoa! vận hội ngàn năm dễ mấy lần, quét thanh lang sói mở canh tân, anh hùng dậy khắp vùng lau lách, tuấn nghệ ra đầy chốn giáp lân. Ðại cáo lại ban lời bách việt, quỳnh ca luôn tấu khúc duy dÂn. trời nam chung bọc rồng tiên cả. nhắc để lên đài sống vạn xuân. một lối vô danh há dễ bàn! Ðem nguồn cảm hứng nói non ngàn cơ trong vật lý, nên thần dụng, Ðạo ở nhân tình, chớ dị đoan. một nếp duy dÂn cầm chính trị,

trăm con hồng lạc hết gian nan. tiên long châu ấy nơi hùng thắng, Ðể lại năm sau chốn ẩn nhàn. 4822 t.v.

bạch sơn hành bồng hồ trong chốn thiên thai nhà, cảnh cảnh, tình tình dễ nói ra hồn cũ giấc hương quan khi đã, mình nay cơn thế sự đương là... ba ngàn năm lại xuân đào lý, một tấc thiêng bầng sáng cỏ hoa, trời đất còn mưa mưa, nắng nắng. sông xanh núi trắng vẫn dành ta. phất trần toan cỡi gíó hiu hiu. ngoảnh lại nam Ðàn sấm mã ngưu. nội bái tọa muôn quân tấp nấp. giòng phong quanh quẩn tá dập dìu. Ðào hoa cửa động cơ hành chỉ. bích ngọc đầu non nghĩa khứ lưu. biết chiếm một đồ thơ nhập hải. trăm dân cùng thiên mưu quỷ mưu. doanh châu mới biết là chủ nhân, núi tản sông thao rút nhỏ gần. biệt nước non đi, thiên cổ hận, về giang sơn lại vạn niên xuân, thài lài ngấn cũ rồng bay vết,

danh trúc nền nay việt hiện thân. hồng lạc tính linh ta bất tử, ngoảnh trông kiếp trước dạ tần ngần. hoàng long bán củi chợ tràng an, hồng lạc tên ta gọi tản ngàn. Ðạo ở thiên căn kình độc lập. cơ trong nguyệt quật đỗng chu hoàn. nhất nguyên tóm lại ngôi hoàng cực, vô hạn trùm ra khoảng thế gian. xuất nhập cứ theo đường thượng kính, nghìn năm ta ký chốn thanh nhàn. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v.

bạch sơn hành bồng hồ trong chốn thiên thai nhà, cảnh cảnh, tình tình dễ nói ra hồn cũ giấc hương quan khi đã, mình nay cơn thế sự đương là... ba ngàn năm lại xuân đào lý, một tấc thiêng bầng sáng cỏ hoa, trời đất còn mưa mưa, nắng nắng. sông xanh núi trắng vẫn dành ta. phất trần toan cỡi gíó hiu hiu. ngoảnh lại nam Ðàn sấm mã ngưu. nội bái tọa muôn quân tấp nấp. giòng phong quanh quẩn tá dập dìu.

Ðào hoa cửa động cơ hành chỉ. bích ngọc đầu non nghĩa khứ lưu. biết chiếm một đồ thơ nhập hải. trăm dân cùng thiên mưu quỷ mưu. doanh châu mới biết là chủ nhân, núi tản sông thao rút nhỏ gần. biệt nước non đi, thiên cổ hận, về giang sơn lại vạn niên xuân, thài lài ngấn cũ rồng bay vết, danh trúc nền nay việt hiện thân. hồng lạc tính linh ta bất tử, ngoảnh trông kiếp trước dạ tần ngần. hoàng long bán củi chợ tràng an, hồng lạc tên ta gọi tản ngàn. Ðạo ở thiên căn kình độc lập. cơ trong nguyệt quật đỗng chu hoàn. nhất nguyên tóm lại ngôi hoàng cực, vô hạn trùm ra khoảng thế gian. xuất nhập cứ theo đường thượng kính, nghìn năm ta ký chốn thanh nhàn. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 t.v. nga my hành quá quan hôm sớm cũng là vừa, ngoảnh lại nga my ngẫm mộng thừa. lặn lội dẫu đâu cơn trời bể, y quý có chốn tạnh mù mưa.

nhân duyên vốn đã ba nghìn trước, Ðồ kính còn từ một vạn xưa, phá hết trần ai canh giáp lụy nhàn trong thăm thẳm thú say sưa, chia phôi đã rắp buổi đề huề, thanh sằc không từng cánh gián khuê; xích điểu đem tin hồn nộng nguyệt, huyền đàn dõi vết bóng hương thề. ............................ . . . . . . . . . mất bốn câu . . . . . . . ............................ ............................ lửa hương trong đất nước giờ giây; hồng lạc xuân thu người lại đây, hèm nhân quốc hồn y bát cũ, sấm trao thần khí vận cơ nay. kỷ hà sử vạch ngày lau trúc, phả ký truyền trao tích gió mây. một cõi tiểu văn lang, thao, tản Ðồ thần rộn rã việc chi hay. loa thành đài chói lọi linh quang, quan lũ từ đây mới sửa sang, một khoáy đã yên ngôi tử cực. ba sao liền nối sợi ô giang, hoàn nguyên tứ hướng về nam hộ thống nhất tam tài ở việt làng tiến thoái cứ theo đường ngọc trục

cơ trong chỉ hoạch khéo thần tàng. nhập quan khi xuất thấy văn minh. tiểu Ðại phong châu đúc dạng hình, núi trắng đọng tinh thần cố quốc, sông hồng tràn huyết mạch dương sinh. rùa rồng gọt giũa hoa thuần túy, gậy sách tiêu dao nhẽ trị bình, ai biết rằng ta, ta dễ biết, tò tin hiểu xiết mới tài tình. x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v.

nga my nguyệt nguyệt giãi nga my nguyệt ý dài nguyệt tình thiên cổ nguyệt vì ai? nguyệt đưa chiến sĩ lên non thục, nguyệt dẫn anh hùng đến suối thai, nguyệt dõi ba sinh hồn cố quốc, nguyệt treo tái thế niệm tương lai nga my đêm tỏ soi vầng nguyệt, nguyệt với ta chung một cảm hoài. x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v.

nguyên tử đạn o horror; o horror; o horror; một chiến tranh ác sát tám trùng dương,

suốt nhân gian quằn quại dưới đau thương, cuộc giáp đấu thư hùng tranh khí họa, trang hoà bình quyết liệt gíá vô đương. một sáng kiến phi thường thép nở hoa, Ðảo phù tang áp phục giải can qua, ngày thắng trận như kinh hoàng vũ trụ, sức dã man tàn hiệu đã bùng ra. một văn minh tiếc hận tự ngàn thu, cỏi sa ba đường hạnh phúc mịt mù, những kỹ nghệ hùng hồn thôi chớ nữa; nhân gian còn phấp phỏng giữa khi khu. một trách nhiệm ghê hồn trước kỷ nguyên, Ðòi nhân luân chinh phục được đương nhiên, dẫu cao ngất oai hùng qua trí dũng. thiếu hòa bình chiến thắng cũng nguy điên. một phán đoán sau cùng đến chửa chăng? từ muôn xưa gió bụi đã trối trăng; phải giác ngộ bằng hởi ôi! Ðảo lộn. trong tái sinh, hò hẹn chốn siêu đăng. một siêu đăng hiện địa trổ ngành hoa, phải đem nền nhân chủ đắp xây ra. phải đã thắng, bằng thắng qua, thắng trận. phải nhân gian bốn bể lẫn một nhà. x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v.

Ðồi nga my

Ðồi nga my, mối hận chĩu bề bề. Ðồi nga my, tin ngục bỗng Ðông về, Ðồi nga my, vàng thau đà thử thách, Ðồi nga my, làm trọn duy dÂn thề. hởi tráng sĩ duy dÂn đầy khổ ải; hãy trao giồi thể nghiệm những đau thương, Ðông thê thê tuốt gươm mài khẳng khái, hận du du đúc ngọc trí phong sương. lịch sử việt đã tới giờ quyết liệt. hãy kín trong trì định đáy muôn xưa; những năng tử thấm tàng nuôi cảnh tiết, Ðể đợi giờ tối hậu đột giông mưa. Ðồi nga my sẽ chút hận bề bề, Ðồi nga my tin ngục sẽ xuân về. Ðồi nga my vàng thau còn thử thách. Ðồi nga my làm trọn duy dÂn thề. x.y. thái dịch lý Ðông a 4824 t.v.

khai bút lô hoa trình vẠn thẮng, trúc biểu kiến thÁi bÌnh. nay mừng lạc vận tái sinh, hỏi bốn bể ai kinh luân chăng tá! những gắn bó chi chi sắt đá, khối u tình nhường đã vơi vơi; tản viên sơn nghê hiện chi thời

Ðỉnh nhĩ thủy tinh phi chi tế. gặp tân niên lại nguyên niên là thế, chấm hết câu hưng phế cựu văn chương vạn xuân thử hội cương thường. xuân 4825 t.v. Ðà giang ngày Ðà giang mưa nắng xóm chiên Ðào hoa mai trên ghềnh đá nở giờ nào! Ðông đã hết, xuân mong tin chờ đợi, vẳng tai nghe hồn mộng sự nam giao. sự nam giao văng vẳng phía non ngoài khúc đoạn trường chẳng kém lối kinh đài; gió phất bóng quân nhung nhường động tĩnh dòng sông Ðen nước chảy tận u hoài. tận u hoài dăm dắp tiếng thề xưa, dội ngàn trùng muôn sóng gọi hò đưa; khảm thôi thục, lên ba vì chốn cũ, chuyển giang sơn hình thế lại cho vừa. x.y. thái dịch lý Ðông a 4825 t.v.

vong quốc nô thương ngọn cỏ xanh xanh, thương bờ tre ngăn ngắt. bờ tre lấn mặt thành, ngọn cỏ lan nền đất.

bán đất đi làm tôi. bán trời để đậy thuế, sống không cửa không nhà. vong quốc nô là thế. rước voi về giày mồ, nhận ma làm tổ vãi, sống không cửa không lò, vong quốc nô đầy ải. kìa ai lẩn suối rừng. vì đâu lời hát trẻ há dám xuống thú dương, Ði tìm bát cơm tẻ. x.y. thái dịch lý Ðông a 4821t.v **************************************************************************************

huyẾt hoa x.y.thái dịch lý Ðông a lỜi nÓi ÐẦu những bản văn trong tuyển tập này thuộc loại tiểu luận rút trong bộ nhã của thư ký trưởng duy dân Ðảng lý Ðông a viết trong khoảng thời gian 1940-1945, giữa lúc Ðệ nhị thế chiến đang tiếp diễn và các phong trào dân tộc vận động tự chủ đang lên cao. lịch sử nhân loại phát triển bắt đầu đi vào một chiều hướng mới những bản văn này xác định chiều hướng đó trong sự nhận định tình thế thế giới và thời đại với con mắt của một lịch sử tiến hóa sử quan và bằng một công cụ nhận thức là "duy dân biện chứng" (xuân thu). từ những nhận định đó, một sứ mạng dân tộc và thời đại được đề ra cho người việt yêu nước giàu lòng hy sinh lại vốn có một truyền thống đấu tranh chống áp bức và chia rẽ. trên nền tảng của thời đại, làm công việc khơi dòng lịch sử, người việt phải "sống tái sinh" trong một tinh thần mới, với nếp nghĩ và nếp làm mới (bông lau). người việt bước lên "bồn gột rửa", trút bỏ mọi thành kiến, quay trở về kín gánh trong đáy hồn của lịch sử dân tộc sức sống và sức đấu tranh tâm lý (thần linh học, sử hồn).

người việt làm cách mạng nghĩa là làm "công việc xoay đổi thời đại" không thể không biết đến những thành bại của những cuộc cách mạng đã đánh dấu vào lịch sử tiến hóa của nhân loại, để rút lấy những bài học "máu" (huyết hoa). bởi dân tộc là nhiều nhưng nhân loại là một, loài người xưa và nay vẫn "lướt mướt theo đuổi thực hiện một mẫu mực người lý tưởng trong một mẫu mực xã hội lý tưởng". mỗi bước tiến của nhân loại há chẳng là những bước duy dân đấy ư trên con đường phục hưng "con người"? trong mỗi xã hội và ở mỗi thời đại riêng biệt? những bài học máu còn là đảm bảo cho cuộc cách mạng việt giữ được "nhân loại toàn tính". cách mạng việt vì thế phải là một công việc có sáng tạo tính, khoa học tính, nhân đạo tính và biện chứng tính. cách mạng việt còn là cả một thể hệ triết học đấu tranh, thống nhất khoa học, triết học và sử học, thống nhất lý luận và hành động. nhưng ở đây, chúng tôi không làm công việc giới thiệu mà chỉ làm công việc trao truyền. mỗi bản văn trong tuyển tập tự nó đã có những giá trị mà bạn đọc tất nhận thấy. non ba mươi năm đã trôi qua sau khi những bản văn được viết ra. thời gian không làm mất giá trị thực tiễn của những bản văn đó đối với công cuộc cách mạng và mở thời đại của dân tộc chúng ta trên con đường sống còn và tiến hóa. trái lại, thời gian với kinh nghiệm sống và tranh đấu càng làm nổi bật lên tính chất đúng xác và cần thiết của những công việc mà cách mạng phải làm, của con đường mà cách mạng phải đi với những phương thức và phương pháp mà cách mạng phải theo. nói như vậy không có nghĩa là những bản văn trong tuyển tập này đã chứa đựng toàn bộ một lý thuyết cách mạng với một chủ trương dân tộc và thời đại được vạch ra đầy đủ. nhưng mà qua những dòng chữ là đã hàm súc những ý nghĩa căn bản trên thấm nhuần trong mỗi lời văn và mỗi danh từ được xử dụng. chúng ta càng nhận thức được sâu sắc bao nhiêu những ý nghĩa đó là đã tự mình tiếp nối được chắc chắn bấy nhiêu với truyền thống của người việt tranh đấu đời đời cho sự khơi nguồn và mở dòng sống của dân tộc. bởi qua những bản văn đó dào dạt tình yêu nước thương nòi và chan hòa lòng yêu thương nhân loại. bởi đây là kết tinh của đau thương và tủi nhục. dân tộc nào chịu đựng nhiều hơn và lâu hơn dân tộc việt những tội ác của loài người? và người việt nào không từng cảm thấy trong lòng như "chết đau thương" trước những đau khổ và tủi nhục của chính mình và đồng loại? hoa sen nở trong bùn và chúa lên câu rút! Ðó là những đóa nhân ái nở trong lòng người việt. hoa nhân ái là hoa lý tưởng của cách mạng việt. loài người đã làm cho thép nở hoa, hoa và nấm nguyên tử! người việt chúng ta quyết đem lại cho loài người đóa huyết hoa, đóa hoa máu còn gọi là "Ái hoa" và "trí tuệ hoa". sao cho yêu thương được chế độ hóa và thực tiễn hóa!

sao cho toàn thể loài người được hưởng hương thơm của hoa nhân ái! Ðó là lý tưởng hiện thực trong việc làm của chúng ta trên con đường phụng sự dân tộc và nhân loại. mùa hạ năm kỷ dậu. thÁi lĂng nghiÊm x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) mỤc lỤc *lỜi nÓi ĐẦu *chÂn ngÔn

i - huyẾt hoa 1.cách mệnh 2.huyết thai 3.huyết nụ 4.bồ Ðề 5.câu rút 6.mặc Ðịch 7.hoa tháng năm 8.bastille 9.thánh hùng 10.sương mai 11.quán tưởng 12.muses

iisỬ hỒn 1.hối hận 2.trường hận 3.Ái hoa 4.bạch vân 5.uyển hồn

iii- xuÂn thu 1.thời đại 2.chiến tranh 3.chiến hậu 4.phục hoạt 5.thắng nghĩa 6.tam dân 7.dân chủ 8.cộng sản 9.bình quân

iv- bÔng lau

1.lý tưởng 2.chính kiến 3.sinh sống 4.thế hệ 5.công việc 6.gió đáy

v- hỠi Ơi! tÂm lÝ thẦn linh hỌc 1.Ðường sống và đường biết 2.thần linh và tâm lý 3.hoàn cảnh với người ta 4.nhân sinh và nhân tử 5.lý tưởng và phản tỉnh 6.phật lành với ma ác 7.cỏi phúc và dây oan 8.lấy óc mà chữa bệnh óc

huyẾt hoa x.y.thái dịch lý Ðông a i-huyẾt hoa 1-cÁch mỆnh hình thức của văn hóa là sự phản ảnh của đời sống hiện thực xã hội. nội dung và kết cấu của văn hóa, tự thân nó là tổng nghiệp của toàn thể loài người trong dòng sống xã hội, lịch sử và thời đại. lịch sử loài người chép ngòi bút của máu diễn tiến, mỗi sử ký lộ ra mỗi đặc chứng văn hóa. mỗi sử ký kết tạo bằng một kiến trúc sử của xã hội và quan niệm về kinh tế riêng biệt; cái dây nối suốt mỗi diễn tiến của thời đại, đồng thời còn là những quy luật dẫn dắt cho sự diễn tiến của thời đại kia là xã hội biện chứng. xã hội diễn tiến theo một biện chứng có khoa học tính, phát triển, phát triển mãi; trong hoài bão của mỗi xã hội thời đại từng dựng dục cái lý tưởng của xã hội và thời đại sau, tức là cái kết cấu hiện thực của xã hội và thời đại sau. cách mạng là công cuộc xoay đổi thời đại trên một giai đoạn diễn tiến xoáy trôn ốc có nút đã đến ngày thành thục của một lẽ sống hàm dưỡng trong nút bế tắc, cần yếu có một bạo đột thủ đoạn cởi mở cho dây diễn tiến đi lên; ý nghĩa và tác dụng của cách mạng là tu chỉnh và cải tiến xã hội cho sang được một xã hội hợp lý hơn, hy vọng hơn, được đi vào một con đường hợp quy luật, hợp với nguyên tắc tiến hóa, hợp với tương lai có dự biết trước có một trông ngóng của lý tưởng hàm dưỡng tự sâu xa. mỗi công cuộc cách mạng sản sinh ra một xuất lộ cho dân tộc, quốc gia và xã hội. khởi điểm của cách mạng đã dựng dục từ trong bào thai của thời đại cũ, đó là lý tưởng trong một quá trình tự nó tiến triển để cho thành thục, thể hiện thực hoàn toàn và y cứ vào hiện thực mà phát triển tinh

thần và nguyên tắc với tự do và sản sinh ra một lực lượng đều hoàn toàn là kết quả của hiện thực, tức là cái xuất lộ của quốc gia dân tộc và xã hội đương nhiên là sự kết hợp của nội tại và ngoại tại mà thành một đường lối với một hiệu quả dự cầu. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

i-huyẾt hoa 2- huyẾt thai cách mạng có văn hóa cách mạng. cần phải có một tinh thần siêu nhiên và tiềm tàng lãnh đạo loài người cho kết hợp thành một sức lực để đợi thời cơ thực hiện lấy lý tưởng và nguyên tắc của cách mạng. cuộc cách mạng 1789 há chẳng phải uyên nguyên sâu sắc mãi từ thế kỷ xvi, từ diderot, voltaire, montesquieu, rousseau mà đi? thế cho nên cách mạng phải có một tinh thần chuẩn bị sẵn, một nguyên tắc tiềm tàng sẵn, lại một phong khí tẩm nhuần sẵn, nung nấu sẵn từ chủ quan đến phối hợp với thời cơ và kích thích ở bên ngoài và để nổ bùng ra trên một giai đoạn đã thành thục. xét nét lại sử cách mạng và đặc chất với đặc chứng từng thời kỳ giúp ích cho chúng ta mang khế hợp cái truyền thống của dân tộc cách mạng với nhu yếu của ngày nay cho thành một dân tộc chủ trương thật thích hợp. xét nét lại hết cả những hoạt động về lý trí, ý chí và tình cảm của cách mạng việt trong suốt cái quá trình một thế kỷ nay, tức là xét nét văn hóa của cách mạng ta giúp ích cho tự ta kiến thiết lại một văn hóa của cách mạng đi đôi với dân tộc chủ trương. cho nên tất cả chủ trương của bùi viện, nguyễn trường tộ với dấu tích của biến pháp vận động phải lục lọi ra. những văn tập tản mác của sào nam và tây hồ phải sưu tầm lại. các cuốn "việt văn minh khởi điểm sử" và "pháp việt đề huề" đáng cho chúng ta nghiên cứu, phân tích và bình giải lại. tất cả những văn hiến cách mạng và kháng chiến, khởi nghĩa, sát thát, bình ngô, tây sơn, cần vương vân vân... phải chỉnh lý lại cho nó một ý nghĩa và giá trị thích đáng, thu góp lại thành một hệ thống sử tranh đấu của nước nòi. còn phải phát quật lên "anh khóa" với tất cả cái linh hồn của xã hội cũ và nông thôn, biểu hiệu tự cường vận động trong sâu cõi dân gian, "chiêu hồn nước", "dạy con", "gọi tỉnh quốc dân" vân vân... chan chứa những phẫn nộ ái quốc và những cái tiếc dân tộc tự sâu trong đáy lòng của dân chúng. những ca, vè, dân dao, sấm ký, đào dưỡng cho lòng người một lý tưởng, một cảm giác biết bao sâu xa, ngẫm nghĩ, sáng láng, bởi đấy là những khúc hy vọng, những khúc đau thương đọng ngừng lại của cả một thế hệ của lịch sử tinh thần. những thi ca diễn giảng trong Ðông kinh nghĩa thục, những chiếu cần vương, phát biểu tuyên ngôn, những gắng sức của những nhà văn hóa muốn tái kiến lại cái mô hình của toàn bộ lịch sử hùng tráng và vĩ đại của dân tộc ta trong những cuộc dân tộc tinh thần phục hưng vận động, đó là những tài liệu có giá trị mà làm phong phú cái kho báu của

văn hóa chúng ta. nó đều là huyết thai của văn minh duy dân, kết tụ sâu sắc trong đáy tầng của đời sống thuần túy quốc dân không đầu hàng và thỏa hiệp. nó là huyết thai của con người duy dân mới. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

3- huyẾt nỤ một trăm năm cách mệnh duy dân đời nay có một tinh thần và chủ trương nhất quán, hằng biểu hiện ra bằng những tượng trưng nào, ta vẫn có thể tìm thấy cái dây chỉ đạo của lịch sử ở trong. cái tinh thần đó còn uyên nguyên từ cái để uẩn 5.000 năm sóng sống của nước nòi, từ đầu sử đến bây giờ không dứt đấu tranh bằng dân tộc cách mạng duy dân xiển dương cái tinh túy ấy ra đem tiếp hợp lại, lại cái truyền thống tổ tiên với tinh thần của hiện đại, hoàn thành một cách mạng chủ nghĩa và cách mạng văn hóa cho dân tộc trên con đường đi lịch sử và mức tiến. tất cả học thuật, văn hóa và nghệ thuật liên hợp lại thành một trận tuyến tinh thần, xiển phát những lý tưởng tình tự và ý chí cách mạng sáng tạo của dân tộc, bằng huyết tính và sử tính tiến hành một khúc nhịp vạn thắng với thời đại. tất cả học thuật, văn hóa và nghệ thuật gắng sức đi tìm một nội dung và hình thức kết hợp dung hòa hai cái lý tưởng "hiện thực" hoàn thành một mô hình của văn hóa tương lai cho dân tộc. vài nét nguệch ngoạc đó đã vẽ xong cái nụ máu của văn minh mới của duy dân đợi khai hoa. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 4- bỒ ÐỀ thích ca đã giác ngộ những nỗi khổ, sống, chết, bệnh, già của toàn thể chúng sinh và luật tàn ác vô thường thành, trụ, hoại không (sanh, trụ, di, diệt) của vũ trụ. thích ca bằng một ý chí không thầy và tự sức, tự lòng đại từ bi, nhân ái, vô hạn lượng, phát nguyện lớn lao cứu vớt cho toàn thể thế giới không trừ thai sinh, thấp sinh, noãn sinh hay hóa sinh. thích ca đã lịch lãm trong ngoài bà la môn giáo. thích ca đã đau thương cái truyền thống

giai cấp, chia rẽ và đè nén của aryen, say sưa cứu vớt chúng sinh bắt đầu từ làm cho Ấn Ðộ toàn dân được chân bình đẳng, chân tự do và chân thân ái. thích ca đã băng mình khỏi nơi cao quý: ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục? không vào địa ngục sao cứu vớt được chúng sinh? thích ca đã bảy năm trường tịch mịch dưới gốc bồ Ðề, nan hành khổ hạnh khôn bằng và thích ca trong một đêm đã triệt để giác ngộ. thích ca từ đấy chân đất, hở vai, cầm bát lang thang suốt cõi, xin ăn, thuyết pháp và thu thập đồ đệ. hoa sen không mọc trên núi cao. chỉ có giai cấp paria mới kiến thiết được phật giáo. những giai cấp được ưu đãi không thể bàn nghị tới được. cuộc xã hội cách mạng đó, trước đi bằng triết học và tông giáo thích ca đã chối bỏ hết luận sự thế tục và xiển phát bồ Ðề lớn.Ôi! hết thảy ma giới ví như phật giới nhất như! sự cởi mở hết tấm lòng chấp trước (đắm đuối) của mình là công việc phải trừ hết nhân duyên, phiền não; quân địch chính của ba giới (sắc giới, vô sắc giới, dục giới) vạn pháp duy thức là vô minh. chỉ có giác ngộ Ðạt ma mới có thể mang đến cho mọi vật một sinh mệnh. chỉ có lý tưởng niết bàn của đất tịnh, trang nghiêm thường sáng, trong đó là sinh mệnh của toàn thể được thương, được vui, được sạch và được chân chính chứng quả thấy cái tính a di Ðà (vô lượng thọ, vô lượng quang). hết thảy chủng tử của ba nghìn nghìn thế giới sẽ biến thành ba nghìn nghìn thế giới hoa nghiêm cõi tây. tất cả các pháp với tướng, sức với tâm không lúc nào không trong sự vận động biến đổi và chối bỏ lại tái sinh của biện chứng pháp không có, có không mà phát hiện ra chân như và như lai, không đi, không lại, không diệt, không sinh, không nóng, không lạnh. tổ chức của cuộc cách mạng bằng tông giáo đó là y cứ vào nguyên tắc tuyệt đối chối bỏ. xuất gia là sự phản kháng hết, hết những đè nén, tham, si, giận, dữ, chấp trước của tại gia, của tư sản. tất cả những người xuất gia dưới sự lãnh đạo của tam bảo: phật lãnh tụ, pháp chủ nghĩa, tăng cán bộ cùng xum họp nhau bằng nguyên tắc hòa, hỗ trợ, hợp tác và thống nhất dưới những tu dưỡng của Ðộ (lục Ðộ): bố thí, trì giới, nhẫn nhục, trí tuệ, thiền định và tinh tiến. tất cả những người ấy thành chứng là những người từ Ðại bi mà Ðại giác, Ðại nguyện mà đi đến Ðại hùng, Ðại thế mà phát dương Ðại Ðạo. những con người ấy có kinh, có luật và có luận chỉ đạo cho họ hết từ xử thế ra xuất thế. lòng nhân ái của họ đã thay đổi hết Ấn Ðộ tư tưởng, tu cải hết khoa học và triết học cho Ấn Ðộ của động và tiến hóa. thích ca trên hội pháp hoa đã thụ ký cho muôn ngàn phật tương lai và đã dự báo di lặc sắp tới đến để làm một công việc của Ðại giác trong hội long hoa ngày mai. tất cả chúng sinh theo một nhịp tiến hành khúc mà cùng lên bỉ ngạn, hết hết đều quy về như lai tạng, nhưng mà phật có độ ai không? phật không độ ai hết, chúng sinh tự độ lấy. phật có tịch diệt không? phật không tịch diệt. pháp thân của chân như là thể vận toàn vũ trụ. ví như thế, phật là tổ đã chứng tam muội, tam bồ Ðề đệ nhất thắng nghĩa bất diệt và ấn chứng.

x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

5- cÂu rÚt dân tộc do thái con cháu abraham đã giác ngộ "ngƯỜi" là một thể, thế giới là đại đồng. cái tinh thần ấy không lấy gì mà tượng trưng được, phải gọi là chúa trời. chúa trời là thực thể của muôn ngàn chúa trời vô thượng và vô nhị. vô thượng cho nên thắng được hết thảy ác thế lực, vô nhị cho nên thắng được hết chia rẽ. chúa trời có hỷ để mà sinh, có nộ để mà chiến tranh. chúa là tối cao của lý tưởng của tự do, bác ái và bình đẳng. chúa là thực thể của lý tưởng đó và đòi phải đấu tranh, cho nên thánh linh là cái trí tuệ đại giác nối liền chúa cha và chúa con. christ, cứu thế chúa, kẻ vâng theo chủ nghĩa mà thực hành tuyệt đối đạo đức. và dân tộc do thái đã được lãnh đạo trong các cuộc cách mạng dân tộc, cách mạng chính trị, cách mạng câu rút là siêu thanh của 89 và 17. sự thờ phụng đấng tối cao và lý trí trước bàn thờ tổ quốc đã cảm chiêu nên lá cờ ba sắc. bây giờ đây không phải là lúc chúng ta chiến tranh với tâm ta hay óc ta mà là lúc chúng ta chiến tranh với hết thảy những thế lực đen tối trong xã hội. Ðấy là lá cờ búa liềm. mahomet càng làm cho học thuật cơ Ðốc nhất nguyên hóa. cơ Ðốc truyền vào sa mạc Ả rập đã đem cho dân chúng ấy cái khí vị hơn đời. al coran nộp công hay thanh gươm vết anh hùng ngày nay còn đó. thế nhưng giáo quyền đã bôi nhọ câu rút. jesus có muốn đâu tông quyền chính trị? jesus có muốn đâu? x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

7- hoa thÁng nĂm chỉ có sự vất vả bằng độc lực với tinh thần mạo hiểm biên thú và sáng tạo khi tự tỉnh lại mới thể nghiệm thấm thía được biểu hiện quyền sống còn, độc lập và tư cách sống còn, chính nghĩa thật đúng đắn. quyền ấy và tư cách ấy mới làm nên một chế độ tự do và dân chủ được, phồn thịnh được bằng mang sự vất vả ấy ra áp dụng vào công cuộc đấu tranh

cho cái lý tưởng đã thể nghiệm được đó. một văn minh mới như đóa hoa tươi tốt và to tát sẽ nở bùng ra. ví như thể đất mỹtrải qua một thời nòi giống xâm lược, máu và nước mắt, xấu ác hôi tanh ở trên mồ đống đã nở ra đóa hoa tháng năm. Đóa hoa tháng năm đó đã sum sê phủ kín cái mồ đống tội ác lịch sử kia. Đóa hoa ấy bón tưới bằng những chất tố lịch sử của mồ đống đó. tội ác của thực dân phải đền bù bằng mọi sự hối hận thầm kín nơi đáy lòng. có khi người ta phải tự trừng phạt mình cho khỏi lởn vởn cái hình bóng tối tăm của tội ác c ứ lởn vởn mãi trong hồn. Đó là trường hợp của 1865, nam–bắc chiến tranh cho cái lý tưởng cởi mở dân tộc da đen. cuộc chiến tranh ấy gọi là phân liệt (sécession) thì chửi rủa lý tưởng lịch sử quá. cuộc ấy phải là thần thánh chiến tranh, thuần vì lòng yêu thương và nghĩa công đạo. cuộc ấy phải là vị tha chiến tranh, không tư lợi và không vị kỷ. Đóa hoa tháng năm trong màu đỏ của nó sở dĩ đỡ hoen ố mà thêm đôi phần tươi hồng là nhờ ở 65. người ta thấy hối hận đau thảm khi nhắm mắt lại tưởng nghĩ, tức gia ản, còn đau thảm hơn khi bừng mắt ra trông xét; người ta thấy phải không tiếc một cuộc chém giết ruột thịt để xóa nhòa trong hăng hái cái vết đau tội lỗi gia truyền đi, chem. giết ruột thịt để rửa sạch những bướu nhọt còn di độc lại trong huyết thống sinh sống dạt dào nó nối liền nòi giống tới tương lai. dòng sống phải trong sạch thì đời sống mới được an ủi trong linh hồn, hết cả những lởn vởn của hối hận, đau thảm và tối tăm, đời sống mới có hạnh phúc và hòa bình thật chân chính. loài người muốn hết chiến tranh phải nhắm mắt lại rồi bừng mắt ra bằng cuộc chiến tranh sau rốt là cuộc phán quyết sau cùng, phải đánh giết ngay tự mình nếu tự mình có tội lỗi. như muốn còn có chiến tranh phải ca tụng những cuộc chiến tranh thần thánh vị tha như thế ấy. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

8- bastille kant là người hy vọng và thất vọng cuộc 1789. trong cái hy vọng của kant với loài người mà kant đại biểu, tỏ lộ ra rõ rệt cái lý tính thực tiễn sẵn có, cần có và phải có cho 89. ba cái luật lớn của luân lý, hợp lý chủ nghĩa: "phải coi tự mình là mục đích, tuyệt không phải coi là thủ đoạn", như thế tự mình với đời sống, tự mình là thực thể của cái lý tưởng trong thuần túy lý tính hiện thân trên thế gian. phải làm cho tự mình và đời sống tự mình thành một mục đích của cái lý tưởng đó. như nếu coi tự mình là thủ đoạn thì người khác và tất cả loài người, mình cũng chỉ là thủ đoạn bên ngoài tự mình mà thôi. phải cả người khác với loài người đều là mục đích, người đứng trước người là thần thánh. thần thánh là đại biểu của lý tưởng, là hình tượng của cao cả lý tưởng, cao cả tuyệt đối, là thật, là lành và là đẹp. phải coi tự mình là một vật mình phải thờ phụng và nâng lên thật lành và đẹp, đối với người cũng như thế.

nhưng mà lý tưởng đó vào đời phải trải qua đấu tranh, sự đấu tranh để thắng cả tự mình với tất cả những ác thế lực nữa thì sự đấu tranh đó nổ bùng bằng sự phá vỡ bastille, kiến trúc của phong kiến, chuyên chế, bất đạo đức và bất bình đẳng. bastille là tượng trưng của tội ác. phá vỡ bastille là làm thức tỉnh toàn thể dân pháp với tất cả gậy gộc, sẻng, cày ra hoàn thành trận valmy đuổi hết xâm lăng. cái khí thế của nó sinh ra napoléon. cái trí tuệ của nó cải biến hết thảy tư tưởng và chế độ trên thế giới. trước bàn thờ tổ quốc, thờ sùng phụng đấng tối cao và lý tính, việc đó cắt nghĩa hết cả, việc ấy là nhân đạo chủ nghĩa của lý tính chủ nghĩa và dân tộc nguyên tắc của lý tính chủ nghĩa. tổ quốc đây phải trở về cái thực thể của đời sống quốc dân trên huyết tính của lý là lý trí của khoa học mà đối với xã hội là lý tính của đạo đức. dân chủ phải xây đắp lại trên nền tảng chân chính ấy. nhân quyền hiến chương phải có bảo chướng bằng tự đời sống tinh thần và vật chất của mỗi người trên tất cả mọi người. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

9- thÁnh hÙng có những tấm lòng thuần nhân ái to rộng và lớn lao, nồng nàn và chân thật, cũng không phải là lối từ thiện, cũng không thể đem mua bán ngoài chợ được, ví như khó mà tả cho ra, vì đó là biểu hiện của phạn (brahma) không bờ, không bến, cùng trước, cùng sau, phạn từ bi và hỷ xả. cho nên gandhi là mahatma, là thánh hùng, là kỳ nhân đời nay ví như messie của Ấn Ðộ. thánh hùng là lịch sử một muôn năm của Ấn Ðộ trong dòng sông hằng hà kết tập tất cả tinh thần sống mà nặn nên. phải hiểu gandhi bằng hiểu dân tộc tính của Ấn Ðộ. cho nên hơn 300 triệu người thiên trúc ngày nay thiếu gandhi không được. lịch sử phải nối tiếp nhau liên tục bằng những nút người thuế biến như thế. nếu nói gandhi là hiện thân của hết thảy những khuyết điểm và nhược điểm của xã hội Ấn (nehru) thà nói đời sống và con đường trường với bước đi lịch sử xã hội Ấn phải lấy gandhi làm cầu nối mà chuyển sang điển hình của nehru. sự tiến hóa loài người đích xác phải diễn bằng cái trật tự đó nó đầy đủ biểu hiện mỗi đặc tính dân tộc và đặc điểm phát triển như vậy. thánh hùng là người lý tưởng đất sạch thường trong sáng của tất cả đời sống nông nghiệp và phong kiến tỏa thoát lên như ánh trăng sực có hơi thu vậy. mục tiêu, lý tưởng chính trị của gandhi là do quan niệm vệ Ðà đó góp thành, không thể để cho những nhà chính trị đời nay và khoa học khâm phục được. nhưng gandhi với lý tưởng chính trị lờ mờ như thế càng tỏ rõ cái địa vị lịch sử và sứ mệnh tinh thần của mình. cương lĩnh chính trị nào mặc dầu hay, hay dở cho tương lai người Ấn là do nehru cả.

nòi giống phật không có sát sinh thực từ lòng tự nguyện mà ra. gandhi dùng thủ đoạn hòa bình và tiêu cực, bất hợp tác (1925), bất bạo động (1939) thực từ ở đó mà ra. tự xả và tuyệt thực là vũ khí chính trị của ông. "tự cấp" và "tự tạo" là công cụ kinh tế của ông; quân địch thù là tính hiếu chiến ở trong lòng ông và nòi giống ông. trong gandhi, mục đích cho hết thủ đoạn, thủ đoạn ấy phải là mục đích nhân ái trùm hết chính trị, tinh thần trùm hết lịch sử và lý tưởng brahma trùm hết tương lai. Ðịa vị của Ấn Ðộ và tiến triển của quốc dân hội nghị Ấn Ðộ chỉ là sự nghiệp của cái sức cảm hóa và khải dịch lớn lao bằng linh hồn của gandhi mà thôi, tất cả qua đại đa số quần chúng vô luận phải biết đều thống nhất thành một khối dưới sự lãnh đạo tinh thần và thanh khiết ấy. sự vu miệt gandhi là độc tài chỉ là sự chứng minh cái quyền uy vô thượng của đạo đức. gandhi chỉ có tự tỉnh, tự hối và tự trừng mà thôi. gandhi không tranh giành vu miệt và lừa dối ai hết. cái phong cách ấy đáng nói gandhi là lãnh tụ của hết thảy lãnh tụ, như thích ca là thầy của hết thảy các thầy, như christ là chúa của hết thảy các chúa đó vậy. lịch sử cách mạng Ấn Ðộ là lịch sử riêng của gandhi. cuộc đấu tranh lớn lao kia cả hàng ngũ năm năm tề chỉnh nên, tự xả và hy sinh với quân thù địch đế quốc chủ nghĩa mạnh ác và bền dẻo nhất thế giới, biết bao nhiêu máu lệ đã đổ cho swadeshi (độc lập vận động) và thánh hùng cho tới hiện nay đang trầm ngâm trong hy sinh một cách thần thánh. chỉ có nan hành khổ hạnh mới có thể cứu sống được đời. chỉ có trở về đời sống dân chúng mới có thể phục hưng được dân tộc. chỉ có lòng nhân ái vô biên của phật lý tưởng mới có thể an ủi và tế độ được hết chúng sinh. thánh hùng còn sang sảng nói: "chúng ta phải tự sức một mình đánh với toàn thế giới để cởi mở cho tự dân tộc chúng ta, còn để cởi mở cho cả dân chúng bị áp bức toàn thế giới, không những thế mà lại cởi mở cho cả dân chúng nòi giống da trắng, họ cũng bị khổ nạn không phải không là không". brahma cùng với hết thảy ma ác đấu tranh. Ấn Ðộ và thế giới là địa ngục vô cùng đau thảm. brahma phải đấu tranh và đau khổ nhưng vẫn tin chắc rằng: "thế giới một ngày kia sẽ biến thành cõi sống trang nghiêm, đó là bình đẳng ở trong bao gồm cả ma ác cũng được yêu thương nữa". ma với phật là một. gandhi là như thế và có tấm lòng nhân ái thực, nào ở đời phải lấy gandhi làm thực cứ. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 10-sƯƠng mai loài người là cõi tinh và ma thống trị, phật tự trị. phật với tinh và ma đấu tranh không dứt ở trong đau khổ không bờ bến, nhưng mà phật, tinh và ma là thể thống nhất trên chế độ của loài người. ngƯỜi, người khi bị đè nén, đau khổ, tự tỉnh lại và trở về nguồn gốc sinh mệnh và lý tưởng cao cả trong giác ngộ lớn lao, đó là phật.

người khi hút máu người, đè nén người, mê ly trong cõi điên cuồng của dục vọng không chán, đó là tinh và ma. thế giới lúc nào cũng tối đêm vì loài người bao giờ để mà sống, còn cần phải, còn bị thống trị. thống trị ví như màn đen, chăng lên bao phủ hết cả cho đen tối. Ở dưới cái màn đen đó chỉ có những mùi hôi tanh, xương máu, mồ hôi đẫm với lệ và tất cả những cái hư nát. loài người cần ánh sáng và thanh thoảng đó. sự đấu tranh giữa tinh và ma càng làm cho ảo não và đen tối. chỉ có cuộc thánh chiến giữa phật và tinh, ma khi thắng mới mang được đến ánh sáng và thanh thoảng cho loài người. sinh mệnh của toàn thể loài người là chế độ người đi đôi với bối cảnh của chế độ phật hay tinh hoặc ma. loài người hiện nay đang trong cuộc hỗn loạn giữa tinh, ma và phật đó. Ðêm tối đang giày vò và hôi tanh đang sặc sụa mà lý tưởng nghĩa là ánh sáng và thanh thoảng thì thật xa vời. sao cho chóng đến ban mai. sao cho chóng đến ánh sáng và thanh thoảng. cầu khẩn đi! nhưng cầu khẩn là hèn nhát. tìm tòi đi. nhưng tìm tòi là dò dẫm. Ðấu tranh đi. chỉ có đấu tranh mới giải quyết được lý tưởng. sự cải tạo làm lên trên thối nát, hôi tanh và mục đổ. phật ở trong đó mà ra, rạch hết thối nát hôi tanh và mục đổ mà mọc lên đóa hoa sen của lý tưởng đầy chân, thiện, mỹ, chọc màn đen ra bằng đấu tranh, hy sinh và vun bồi mà đưa hương thơm, ánh sáng và gió thoảng lại. chỉ có ở dưới đáy bùn mới ươm giấu sẵn những chủng tử của phật đó. tinh và ma tất cánh là sức trên mặt tầng. các nòi nước nhỏ yếu và giai cấp bị đè nén, toàn loài người đã đến lúc đoàn kết, sự tìm tòi tự muôn đời đến nay đã ví như hạt giống ươm trồng chồi nẩy, màn thống trị bùng nhùng để lộ ánh bình minh. Ánh sương mai đã róc rách suốt cõi tự trong đáy lòng người cho đến suốt cảnh vật, hết thảy đượm cái sinh khí mới mẻ đó, như tỉnh lại và phải bồng bột. Ánh sương mai đã thấm thía ánh bình minh lóng lánh, sóng tân sinh đương dào dạt khắp lòng người. Ðấy là trẫm triệu của di lặc. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 11- quÁn tƯỞng (contemplation) từ không trước đến không sau, từ nhỏ tắp đến to ngời toàn vũ trụ cấu tạo bằng vật chất. cái cực chất tinh diệu đó là tự kỷ nguyên nhân cho một cuộc vận động không dứt xoáy trôn ốc trong đường trường vận động đó bằng mỗi nền tảng của gặp gỡ và mỗi điều kiện của thế thái mà tom góp nên muôn vật. loài người là do cái bối cảnh của vận động đó mà kết thành. hãy nhắm mắt lại, trở lại tự mình, xem cái sinh mệnh của tự mình tất thấy cả cái kết hợp và vận động đó, xem tất cả cái sinh mệnh của loài người trước mặt và xem tất cả các sinh mệnh của lịch sử muôn năm đã có đến ngày nay. một luồng sóng máu trào dồn dập và bát ngát vỡ tóe tung bao nhiêu máu, óc, mồ hôi và nước mắt. cái luồng sóng trào đó gọi là dòng sống, có cơ thể, mỗi đời thoát xác mà chuyển đời đời. bao nhiêu đau khổ, chỉ thấy

đau khổ và chỉ còn rớt lại đau khổ trong cái vạch hướng thượng của đời sống đó. loài người thể nghiệm thấy sinh mệnh của mình phải không dứt chắt ép để làm trọn thăng hoa đời đời hướng theo cái lý tưởng cứu cực không dứt đấu tranh và chịu đau khổ. vì chỉ có đấu tranh và đau khổ mới là hiện thân của lý tưởng. lý tưởng là thể số học của sinh mệnh trong tác dụng thăng hoa, tất cả những cố gắng tính, tâm, thân, mệnh, trong đường lối đó gọi là thực hiện. loài người là vật của chân lý, của tinh thần. dòng sống không dứt tiến hóa để mong đến cõi thành tựu là cõi nhất như. cái cỗi tội (péché original) của loài người là ở nơi đó mà lòng nhân ái cũng từ đó mà có ra. loài người trong mục đích chủ quan của mình, cái tiêu chuẩn là phải thắng khách quan mục đích của tự nhiên; hãy trông trong con mắt người mù không dứt ngẩng lên nơi chúa mà đi (byron); cái hình ảnh của loài người trong tiến hóa cũng hệt như vậy. mù nhưng mà phải sống, con mắt tối gầm nhưng trong là sống, và thể sống, người mù tự thấy mình cũng có một mục tiêu trong đời, người mù kém cỏi và tàn tật hơn hết nhưng mà bao giờ cũng hy vọng ánh sáng của nắng, người đó không thấy bằng mắt, nhưng mà trông thấy bằng lòng. "hy vọng là mẹ hết tư tưởng" (tolstoi). Ấy thế cho nên "tin thờ là mẹ đẻ của hết thảy công đức cho cõi đạo" (hoa nghiêm kinh). cái tin thờ là chất tố của hy vọng. từ tin thờ mà sinh ra hết tội lỗi với đạo đức, sinh ra hết cái đáng yêu và đáng ghét. người ta chỉ có thấy bộ mặt đáng ca, đáng khóc, đáng khâm, đáng sợ của hy vọng, tin thờ và lý tưởng trong đau khổ, thất vọng và thất bại. vì đau khổ, thất vọng và thất bại là ba mặt biểu hiệu của chiến đấu đang tồn tại đang sống. phải tương lai đắc thắng, dù sao cũng là bộ mặt xấu ác của tội lỗi. cho nên hãy xem, hãy trông một thân con người phải quỳ gối, cúi đầu: đừng xem, đừng trông, đừng để ý đến quỳ gối cúi đầu, hãy trông vào con mắt của người lúc ấy, đó là hình tượng của bao nhiêu thê thảm của thê thảm, của bất đắc dĩ, của khổ tâm. Ừ, mặc dầu con người ấy là gian, là ngay, là tội, là oan. gian, ngay, oan, tội, không xá kể gì, chỉ kể con mắt đau thương làm nẫu hết thế gian, chỉ kể con mắt đau thương ấy nó tả hết hình ảnh chân thực và lịch sử loài người đời đời. cho nên không thể ca tụng được những cái xưa kia của đắc thắng nếu cái đắc thắng ấy không phải là cái đắc thắng của buồn rầu, đồng thời chỉ có thể ca tụng được những cái đắc thắng không tội lỗi, cái đắc thắng thuần túy trên loài người không chia thắng với bại, không chia phải trái với người ta nữa, cái đắc thắng vô ngã nó làm muôn nghìn nghìn hết thảy không sót một chúng sinh nào còn "mắt mù và mặt cúi" nữa. có thế lịch sử mới đến đoạn chân thật của lý tưởng và loài người mới đến đời sống chân đại đồng: cái đắc thắng của yêu thương. trời ơi ! ta đã đi đến bờ cõi của tông giáo. không yêu thương là tông giáo tranh đấu; văn nghệ, tông giáo, triết học và khoa học chỉ còn là một thứ văn nghệ nhiều mặt của yêu thương. lịch sử chỉ còn là thứ văn nghệ của yêu thương tranh đấu có sự thực. yêu thương là của nhân đạo. nếu bảo rằng yêu thương là của thần thánh cho ta một sứ mệnh; nếu nói rằng yêu thương là luật hấp dẫn chung của vũ trụ, ta đều không thể tin được yêu thương là thể chỉ có thể coi được như một "bản ngã" của sinh mệnh loài người, cho đó là một công năng đặc thù tiến hóa hơn và lý tính hóa của loài người.

x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

12- muses nhà văn nghệ phải phát thệ cái yêu thương; yêu thương là huyết tính của loài người. nhà văn nghệ phải thể nghiệm được yêu thương trong sinh mệnh lịch sử, hiện tại và tương lai trong loài người, trong sống thật, sống máu và sống đấu tranh của loài người. nhà văn nghệ phải ca tụng những cuộc đắc thắng vô ngã. thế cho nên nhà văn nghệ phải là của dân chúng, phải trở về bình dân, phải là phần tử bình dân, còn phải là người tin thờ bình dân, đấy là toàn thể cái hiện thân của yêu thương, hy vọng, tin thờ lý tưởng đang tranh đấu phải "mắt mù", "mặt cúi". nhà văn nghệ không làm "mõ chợ" được, văn nghệ không thể làm tiếng "chó sủa" được (shelley), đồng thời không thể làm đồ đùa cho giai cấp độc quyền (tolstoi), cũng không thể làm "đồ chơi của bọn tục". "nó là tiếng đau khổ thực ảm đạm và nghiêm nghị" (chu xuyên bạch thôn). bỏ loài người ra, văn nghệ không có giá trị gì hết, nhưng bỏ đa số loài người ra với bỏ lòng yêu thương vô ngã ra, văn nghệ không thể có một giá trị thích đáng. nhà văn học phải là một "giáo sĩ tiên tri và dùi mài" (fichte). "phải thổi tiếng kèn đánh thức lên" (shelley). "phải làm sao cho loài người tự hiểu mình, tự tin mình và càng khát mơ chân lý" ( gorky ). thế cho nên "văn nghệ là lương tâm của loài người" (herbert). cái lương tâm và việc đánh thức chỉ có thể bằng yêu thương đang đau khổ trong vật lộn. muốn được thế, văn nghệ phải vô ngã mà không còn chấp trước nữa. văn nghệ còn là hình thể của lý tưởng, cho nên văn nghệ tự thân cũng phải lành, đẹp và thực. lành và thực không hỗ giải được cho có một tiêu chuẩn đúng đắn, chỉ có đẹp biểu hiện được rõ ràng giá trị nhất. cho nên văn nghệ là hình tượng, cảm tưởng và tượng trưng. Ðẹp phải biểu hiện độc lập và thuần túy trên hình thể và mầu sắc, đẹp phải trình bày cái độc đặc của nội dung, "chỉ có thực chất sinh ra hình thức" (goethe). văn thể phải là sự tỏ lộ của nội tâm người cầm bút ( gorky ). mỗi bức vẽ phải là một vở kịch một màn, cái diễn trình phải chú trọng trong sắc vận. khó có thể tìm thấy trong những nhà văn hào lớn lao như balzac, một nhà tả thực chủ nghĩa hay lãng mạn chủ nghĩa (gorky), vì văn nghệ chỉ là sinh mệnh phô bày ra (herbert) và loài người trong đời sống cũng như không ỷ vào lý tưởng thì không thể nở hoa được (thạch xuyên san tứ lang), đó là sứ mệnh thực hiện chủ nghĩa, đó còn là cách mạng lãng mạn chủ nghĩa. văn nghệ là hoa của đạo lý, huyết hoa. văn nghệ phải là sống. hãy mở cửa sổ ra cho ta hít hơi thở của không khí anh hùng (romain rolland). phải phá tan màn tối ra cho ánh sáng, hơi thoảng chiếu vào phát nhiệt cho loài người khỏi tăm tối, cho hạt giống của hoa quý từ dưới thối ra, mục nát, bùn lầy, hôi tanh, đượm hơi sương mai và không khí sáng mà nở lên trái quả tươi màu.

nếu loài người duy vật thật, tất không có văn nghệ, chỉ có khoa học của vật chất luật tắc. nếu loài người duy tâm thật, tất không có văn nghệ, chỉ có tông giáo qua thần thức. văn nghệ là chủ của thời đại mới dẫn dắt loài người bằng phương pháp ý thức của tự loài người. văn nghệ không phải là thượng tầng kiến trúc, chỉ là dưỡng sinh nền tảng của mọi người. cho nên lễ nhạc chính trị là phương thức chính trị của nho duy sinh. lễ nhạc phải phát xuất tự nơi dân chúng và sống thật mới được. lễ nhạc (một trong văn nghệ) phải chính trị hóa, hơn nữa là giáo dục hóa. "một văn nghệ nào, nếu không lấy đạo đức hóa lý tưởng và thực dụng làm mục tiêu chỉ là một thứ sống bất lương và bệnh thái". nhưng mà văn nghệ không thể ở bọn quan liêu, chính khách và nhàn tản theo đòi được. văn nghệ phải để cho yêu thương của lý tưởng có tranh đấu chủ trì, văn nghệ là của dân chúng mới được. x.y. thái dịch lý Ðông a 4823 tuổi việt (1944) x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) ----

ii. sỬ hỒn 3-Ái hoa tất cả những tài năng đạo đức chỉ là hương thơm của đóa hoa nhân Ái nở mãi không tàn. nhân ái một khi được sáng suốt viễn kiến, chế độ hóa, thực tiễn hóa, quy củ hóa mới chân thực là nhân ái có thực hiện thực thể cho loài người và vũ trụ. Ðóa hoa nhân ái là cả một kiến trúc lẫy lừng của lý tưởng, cái lý tưởng lập thể của nhân loại. Ðóa hoa nhân ái thấm vào thấu suốt mỗi sinh mệnh làm cho những tiếng gọi sứ mệnh, tiếng gọi vô thanh, vô hình. chỉ có hương thơm, hương thơm của nhân ái. nhân ái mà cũng đến bị bài xích, bị lợi dụng, bị chiêu bài, bị đầu cơ, thôi hết cả! mà đến thế, trời đất mà đến thế. ai là những người kỳ ưu thiện ý? Ðóa Ái hoa còn là đóa trí tuệ hoa. bây giờ ta mới chân thực hiểu thế nào là sinh tri. sinh tri chẳng phải là nghiêm ngặt và ấu trĩ đẻ ra đã biết, biết từ mới đẻ. sinh tri là trí tuệ tự sinh, sinh ngay bằng sự bừng nở cửa trí tuệ. chữ giác ngộ của phật cũng cùng một ý ấy. tịch chiếu, hội quan, quán thông, quán tưởng, trầm tưởng, mặc khải đều là những thuộc từ của sự sinh, sự tri... phải là một sinh mệnh dàn dụa nhựa sống, đầy dẫy ánh sáng của xuân tình mới nẩy nở ra cái cơ sinh tri đó được.

Ðóa Ái hoa còn là đóa ngữ hoa, giải ngữ hoa, giải hoa ngữ, ngữ giải hoa, hoa với ngữ như sát chặt với nhau trên sự thăng hoa tuyệt diệu và tột bậc của vóc tinh thần thiết diện, linh thiêng ở những lời hùng hồn của từ bi hay của nhân ái hoa là tri âm hoa với tri âm ngữ, cái tinh kết của sinh mệnh đời đời, khúc nhạc của vận động thuở thuở. vườn xuân của đời nhân ái hoa nở đầy lý tưởng hoa: xuân thu hoa, ái hoa, tri âm hoa, trí tuệ hoa; tiếng đồn dậy: tri âm ngữ, đồng chí ngữ, ái ngữ, lý tưởng ngữ, vong quốc hoa (nam thi) phải là nhịp uyển quỳnh đủ cả tình tang của muôn tiếng. "thiên hạ vạn nhi tranh hồng tử" "thùy thức kiền khôn tạo hóa tâm". người việt tri âm hãy lặng ngắm quốc hoa việt, hãy đọc quốc ngữ việt, ái nhân, nhân ái, chúng ta mới biết được rõ ràng là tri âm ngữ với tri âm hoa của Ái hoa. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 2- trƯỜng hẬn Ðây là mối dằng dặc trường hận của cả một vũ trụ trường hận, tấm lòng của cả một mênh mang sống vô bờ bến. còn gì nữa? Ðã nghe kêu: o horror! o horror! o horror! Ôi gớm quá! vũ trụ chỉ còn sau mỗi đổi đời, thất thanh kêu gào rít lên như vậy trong đáy lòng mỗi con người phật. bao nhiêu linh hồn cũng như bao nhiêu thể sống chưa thành tựu đều tìm một an ủi, một ôm ấp trong cái hoài bão lớn lao của rỗng không vô tình đó. một hữu tình lớn lao? không phải! không phải chỉ riêng một loài người, một loài người con con, mỗi sát na, mỗi vi trần đều là thể sống, sống thực, cần phải thuyền từ, bác ái và tế độ. nhưng mà chính thế đó, chúng sinh vô hạn lượng, tự cứu lấy mình không cứu nổi ai. mỗi phiền não rất lớn ở trong cái vô ý nghĩa rất lớn của vũ trụ, lòng đại độ mấu cứ vào cái ý nghĩa lớn trong cái vô ý nghĩa rất lớn lao đó. chỉ có rỗng không là rỗng không. mỗi tư tưởng bắt rễ bén mầm trong cái sầu thảm của rỗng không đó, sống còn vô bờ bến. hết cái bờ bến của vô bến đó có một bờ bến viên mãn là sự yên lặng rất sống, rất sáng, rất cơ, rất thực, rất đẹp ngay trong đó là một công cuộc cứu vớt ở vô cùng trong luân hồi vũ trụ đó. không, quyết không, thật không có cái gì là tài phán cuối cùng của ai hết; không ai làm chúa hết, chỉ có lòng phật làm chúa mà thôi! tất cả vũ trụ phải được cứu, sự cứu vớt ấy luôn luôn không dứt. mỗi vi trần và mỗi sát na hờn oán, đau khổ, tối tăm, mê mẩn, sợ sệt, tức bực là chỉ đều quay về hết lòng từ bi vũ trụ, đã đồng nhất hóa với cái bản thể vũ trụ rất sống, rất sáng, rất cơ, rất thực và rất đẹp. im lặng và nhắm mắt lại, im lặng cứu lấy vũ trụ hồn nhiên, cứu lấy, sao không cứu được mau! không cuộc cách mạng nào lớn lao đến để cứu vũ trụ ư? chịu để cho vô thủy, vô chung giày vò mãi sao? nhắm mắt lại, hãy im lặng làm hết những cái anh có thể làm được

đi. Ðóa hoa xuân đã nở, đợi mùa thu sang rọi ánh trăng tròn. xuân với thu luân hồi nhau mãi, mãi mãi vũ trụ còn dằng dặc cái trường hận đời đời! thích ca đã thất bại một cuộc cách mạng. jésus, lão, marx đều đã thất bại cả, để lại một bài thơ thu nguyệt xuân hoa! Ôi gớm quá! Ôi gớm quá! Ôi gớm quá! còn gì nữa? còn gì nữa? những lợi hại thị phi, thiện ác, buồn vui, sống chết của vô thường! nhưng mà phật hãy còn, còn luôn luôn, ngày ngày còn, mãi mãi còn, còn luân hồi của cái vũ trụ trường hận ấy. phật vẫn còn, còn gì nữa? Ðâu là thích ca? chỉ còn có mỗi cái phiền não sầu thảm của trường hận vũ trụ đời đời! còn cái phiền não đó, còn nhiều thích ca và là thích ca những ai đã cứu được cái phiền não đó. tiếng gọi của sử, như một tiếng động vang trong sương ra tỉnh vào mê, không dứt dào dạt với muôn đời gọi lên một hồn nghĩa vụ. sự đào thải với tái sinh qua các cuộc mưa nắng xuân thu biểu hiện lên một tình cảm, đó là tâm sự của sử. tất cả những lời máu và thủ ký của sử đó còn lại với tiếng gọi và tâm sự của nòi giống ở trong cái di sản toàn bộ của sử. thử hỏi di sản của sử có những gì? cả một nòi giống trên sự thực sống biết, sống tinh thần và vật chất theo một phương châm dẫn dắt bằng một linh hồn của sống ấy, nghĩa là cả một thiên hạ hiện tại để làm cho ngày mai và cả một thiên hạ ngày mai làm cho ngày kia nữa. tất cả những chuốt lọc thiên nhiên và nhân vi trong đời người đã để lại của quá khứ những gì làm nền tảng và điều kiện cho ngày nay. lê văn hưu cũng như trần hưng Ðạo, hàn nguyễn thuyên cũng có ý nghĩa như lê thái tổ làm nên cả một truyền thống của dòng máu việt. những chất liệu linh hồn ấy đã hòa thân vào ý chí sống chung và cả đời đời thành những lượng tử (quantum), năng tử (neutron) hoạt động hơn, nó chuyển động tất cả một kết cấu nguyên hình chất (protoplasma) của nòi giống, một văn minh trọn vẹn và đầy đủ, ví như văn minh đời hồng Ðức đặt cái cương thường trăm thuở (24 điều giáo hóa) làm đề cương cho pháp luật. dưới cái cương thường đó tổ chức nên một sinh mệnh chung cả của đạo đức, văn đức, vũ công và kinh tế. lịch sử còn chuốt lọc và mài giũa nên mỗi chủ lực của đời thuở làm lõi chốt cho quốc dân. thế hệ ngày bông lau còn phục hoạt lại ngày bình ngô, mỗi văn minh trên vận hành của Ðại việt ta không dứt bằng khởi điểm của nó, không giờ phút nào ngơi. chu văn an cũng như nguyễn du, di thần nhà lê cũng như di thần nhà trần đều là những hạt giống khí tiết và những mô phạm của chân tài tử chỉ có những sĩ khí tiết và những chân tài tử, mới sống được ở trong sự sống của hồn sử và quốc hồn. lý tưởng của sử nở lên như một bông hoa tổ hồn, văn minh là như thế. hồn của sử là hồn đáy tầng của nòi giống, đáy lòng mỗi người, đáy sống của tổ tiên truyền dõi mãi mãi. hồn của sử thiên vạn cổ còn nhắc đi nhắc lại trên truyền thống của loài người một cái ám ảnh sáng ngời trong tâm lý. "tri ngã giả kỳ duy xuân thu hồ" "tội ngã giả kỳ duy xuân thu hồ" Ôi! cảm được thấu cái tâm sự xuân thu đó nghĩa là sống bằng hồn sử, không ra ngoài hồn của Ðạo, của sử muôn thuở. trung với quốc gia, hiếu với nòi giống "tôn quân phụ" trên nền nhất thống, đòi cuộc độc lập, đuổi giặc xâm lăng, trừ giống hủ bại, dẹp quân phản động diệt đàn phá hoại, đòi nhất thống, thảo loạn tặc, giữ nắm cương thường, tôn trọng thể chế, làm chính lòng người, rửa sạch tà thuyết với dị đoan, làm cỏ tà đảng với gian đảng, tôn phù lẽ công, sáng tạo lý cụ (outillage) và khí cụ (matériel), vót nhọn vũ khí ý

thức làm nên vô lậu quốc phòng, chấn chỉnh văn minh chính nghĩa, làm nên tĩnh độ hòa bình đấy là sứ mệnh của xuân thu. Ôi! công việc của thánh với vương, nhưng mà trách nhiệm của bố cu mẹ đĩ hết cả với cuộc hưng vong tồn tục của loài người và của nòi giống. người ta cũng như con vờ, sống ngắn ngủi như thế, nhưng mà sống vô cùng, vì loài người còn sống mãi mãi, mỗi con vờ có ý thức và tư tưởng là một tế bào hoạt động của sinh mệnh xuân thu. người ta cũng như con dã tràng xe cát bể Ðông, nhọc lòng mà không công cán như thế, nhưng mà là có công cán lớn lao vì loài người còn nhớ mãi công cán của mỗi con dã tràng ấy! người ta cũng như con thiêu thân chui đầu vào lửa mà chết. nhưng mà mỗi sự hy sinh cho ánh sáng của loài người là mở đầu cho mỗi đun đẩy văn minh đó. vai atlas có ai khiến vác quả địa cầu? chu văn an thế mà dâng biểu giết nịnh! những công việc đó đều là công việc của hồn sử nghìn xuân thu, của tất cả loài người cũng như của mỗi dân tộc. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam

3-Ái hoa tất cả những tài năng đạo đức chỉ là hương thơm của đóa hoa nhân Ái nở mãi không tàn. nhân ái một khi được sáng suốt viễn kiến, chế độ hóa, thực tiễn hóa, quy củ hóa mới chân thực là nhân ái có thực hiện thực thể cho loài người và vũ trụ. Ðóa hoa nhân ái là cả một kiến trúc lẫy lừng của lý tưởng, cái lý tưởng lập thể của nhân loại. Ðóa hoa nhân ái thấm vào thấu suốt mỗi sinh mệnh làm cho những tiếng gọi sứ mệnh, tiếng gọi vô thanh, vô hình. chỉ có hương thơm, hương thơm của nhân ái. nhân ái mà cũng đến bị bài xích, bị lợi dụng, bị chiêu bài, bị đầu cơ, thôi hết cả! mà đến thế, trời đất mà đến thế. ai là những người kỳ ưu thiện ý? Ðóa Ái hoa còn là đóa trí tuệ hoa. bây giờ ta mới chân thực hiểu thế nào là sinh tri. sinh tri chẳng phải là nghiêm ngặt và ấu trĩ đẻ ra đã biết, biết từ mới đẻ. sinh tri là trí tuệ tự sinh, sinh ngay bằng sự bừng nở cửa trí tuệ. chữ giác ngộ của phật cũng cùng một ý ấy. tịch chiếu, hội quan, quán thông, quán tưởng, trầm tưởng, mặc khải đều là những thuộc từ của sự sinh, sự tri... phải là một sinh mệnh dàn dụa nhựa sống, đầy dẫy ánh sáng của xuân tình mới nẩy nở ra cái cơ sinh tri đó được. Ðóa Ái hoa còn là đóa ngữ hoa, giải ngữ hoa, giải hoa ngữ, ngữ giải hoa, hoa với ngữ như sát chặt với nhau trên sự thăng hoa tuyệt diệu và tột bậc của vóc tinh thần thiết diện, linh thiêng ở những lời hùng hồn của từ bi hay của nhân ái hoa là tri âm hoa với tri âm ngữ, cái tinh kết của sinh mệnh đời đời, khúc nhạc của vận động thuở thuở. vườn xuân của đời nhân ái hoa nở đầy lý tưởng hoa: xuân thu hoa, ái hoa, tri âm hoa, trí tuệ hoa; tiếng đồn dậy: tri âm ngữ, đồng chí ngữ, ái ngữ, lý tưởng ngữ, vong quốc hoa (nam thi) phải là nhịp uyển quỳnh đủ cả tình tang của muôn tiếng. "thiên hạ vạn nhi tranh hồng tử"

"thùy thức kiền khôn tạo hóa tâm". người việt tri âm hãy lặng ngắm quốc hoa việt, hãy đọc quốc ngữ việt, ái nhân, nhân ái, chúng ta mới biết được rõ ràng là tri âm ngữ với tri âm hoa của Ái hoa. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

4- bẠch vÂn những tầng lớp mây trắng bay đùa sao mà xúc cảm thế. hình ảnh của vận động tang thương không gì não nuột và bực chán bằng mây trắng. "tiết gìn thiên cổ tình khôn dãi" "Óc tính trăm năm gan dễ phơi" mây trắng bay trên trời không còn ngăm mãi ở lòng người, còn ngăm mãi ở đời sống người, ngăm mãi trong thâm đáy của dòng đời nay đã in bóng xuống nước, mây bay nước chảy nhưng mà nước còn mãi tâm tình mây. những từng lớp thế hệ dằng dặc kéo vào thâm đáy của quá khứ. không, không, thời gian không chảy xuôi, thời gian rút ngược lại, từ bây giờ trở lại, từ ngày qua trở lại, nó kéo dồn dập về sau lưng ta. ta đi xuôi, ngược lại cái sống ngược lại, những tầng lớp thế hệ kéo ùa vào quá khứ, nhưng mà hình ảnh và tác dụng còn tích cực khuấy động đời đời. "trúc lụa đã dày phen trị loạn" "son xanh còn chiếu dạ hơn thua" những linh hồn xưa còn ký ngụ vào làn bạch vân trên sử xuân thu không dứt, những linh hồn của các tầng lớp chiến đấu đời đời. có những chiến sĩ làm việc dương chu, có những chiến sĩ làm việc âm phát, có người làm việc hữu hình, có người làm việc vô hình, có những công việc đã hiểu rồi, có những công việc vẫn tưởng vi mang, có những tinh chỉ chế độ thúc đọng lại, vùng vẫy hay tản mạn trong đáy dòng sử, sống trong đáy hồn, đáy tầng. "kéo lớp lớp trên am bạch vân mà còn cái gì? những cái sống mà vì cái gì? vì những cái bởi" người ta tưởng tượng như đứng cung kính kiên thành trước bậc đền delphe, nghe cảm hứng lấy những tiếng của đời xưa theo cái dòng sống người ngược lại, cái dòng sử ngược vang vọng lại hiện tại để mà nghe cảm hứng lấy những tiếng vi mang đó ở trong mỗi

động tác, mỗi cái tầm thường, mỗi cái ngây ngốc, mỗi cái ngu si, đến cả mê tín của đời đáy tầng, tức là nghe cảm hứng lấy tổ hồn, quốc hồn, sử hồn, kể chi những tiếng ai oán, những tiếng ước vọng, những tiếng hằn học, những tiếng hò kêu, những tiếng thúc giục. Ý chí chi mà ý chí thâm Ý ai mặc ý hóa công thâm Ðương cơn lửa lạnh thâm đầu rót chắc có còn thâm với hóa tâm Ở trước bàn thờ của các thế hệ trước mà dân việt đang còn sùng kính, há không phải những tiếng thực tế ư? x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 5- uyỂn hỒn thôi chúng ta biết cái tác dụng lịch sử tàn ác, cái cấu tục sinh ra nòi hồng việt và bắt nòi hồng việt than, bắt nòi hồng việt hỏi, có ai giải cứu cho người chàm, người thổ, người mường? chỉ có người hồng việt. Ðau đớn thay dân ngái, dân mường, dân thổ, dân mán, dân kha, dân mèo, dân nùng nòi giống của chúng ta. một tiếng chuông chùa hồi thôi vừa hồi, bây giờ không còn được nữa, chính là chỉ đồng vọng tiếng khèn, tiếng hận của mế hê, tiếng lòng của khu lân, khu lân người anh hùng cứu quốc của Ðại việt. có ai biết cái tiếng của đất nước nòi đường ngược? có ai còn nghe thấy cái tiếng ấy? một làn gió lạnh của hồn uyển! tôi đã không tiếc sao sinh ra loài người hồng việt nữa, nhưng mà tôi còn tiếc sao trong bao gian nan của tôi không cho tôi những rỗi thì giờ đi bát bộ mẹng, đi hát trống quân, đi hát đúm, đi hát ví, đi rước nước, đi nghe đàn cồn, đi săn linh hồn của tôi nữa, và nữa, vào cả những núi đá kia, những vườn xanh kia, những đống củi kia, những tháp tàn kia, những lều tranh kia, những ruộng đỗ kia, để mà được hiểu hơn nữa, và nữa, những linh hồn ấy nói gì? muốn gì? hỏi gì? tiếc mong gì? nước chảy xuôi, gió thổi xuôi! còn trong không còn nữa, sống trong không sống nữa! ghê gớm chưa cái đãi lọc muôn đời !!! Ấy đấy, cả một tâm trạng bách việt chỗi dậy sống lại trên đời mới. tôi không tiếc được nữa tại sao chúng ta không sinh làm người mường, người mán, người thổ, người lào để cứ làm chủ nghĩa bách việt duy dân? nhưng mà đất nước hãy còn, không còn mà thực còn ở trong lòng của cõi chết để làm cái đáy vực, cái rốn bể của tiến hóa. chúng ta cả bách việt cứ giác ngộ bách việt và nòi giống ấy là đã chân chính sống lại đó, sống sâu sắc, sống triệt để, sống sáng quắc, sống bộc liệt, sống oai hùng. người phi châu rồi sao? nói gì đến người da đỏ rồi sao? ai hát lại chiến ca của người da

đỏ? ai hát lại xa xam của người da đen? những câu hỏi mỉa mai đó nó lật nhào hết cái đạo đức kỳ quặc của văn minh thế kỷ xvii, xviii, xix, xx gia tô lịch. người atzèque sống lại hay người mexique trôi tàn? Âu châu của nòi hy la còn mãi hay Âu châu của người barbares sống lại? Ðều là những nghi ngờ thiên vạn cổ, hóa công vẫn giải quyết ngầm. x.y. lÝ ÐÔng a 4824 tuổi việt (1945) x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

-----------

iii. xuÂn thu 1- thỜi ÐẠi duy dân biện chứng đặt để nền tảng của một lý luận đúng đắn về xã hội với thời đại nó cắt nghĩa được rành mạch và thực tại hết thảy hiện tượng của lịch sử trên sự thực của sự thực, chối bỏ được hết những sai lầm của duy tâm, duy vật, duy sinh với thực dụng chủ nghĩa. trào lưu của thời đại gần đây gồm có ba: 1. quốc tế cực quyền chủ nghĩa (totalitarisme international). 2. quốc tế tư bản chủ nghĩa (capitalisme international). 3. quốc tế cộng sản chủ nghĩa (communisme international). cực quyền nắm chủ động được trước vì nền tảng xã hội của các nước Ðức, Ý, nhật: với dòng sống lịch sử của họ quy định một bước đi thời đại cấp tiến hơn, ở đó có một chuẩn bị sớm và nắm quyền chế phát. Ðến năm 1942 trở đi, tư bản trở lại nắm được chủ động từ trong nội dung kinh tế bền dai, rộng rãi và tiềm lực của họ. cho nên ngày nga bị lôi cuốn vào chiến tranh, rồi đến ngày nga tuyên bố giải tán Ðệ tam quốc tế trước khi trotsky bị đồ đệ thân tín của hắn va một búa ám sát (Ðệ tứ quốc tế trong vòng vỡ lở hẳn), và từ trước khi đó nhiều năm, cộng sản không nắm được quyền tả hữu của thời đại. sự vận động của lịch sử triệt để đào thải sức đứng thứ ba, cho nên, nếu cộng sản không bị tiêu diệt hẳn với trục tâm thắng, thì bị đồng hóa với Ðồng minh thắng, điều này đã dự đoán trước một cách chắc chắn từ 1939, càng đi với thời cuộc diễn tiến càng chứng thực không sót.

sự đấu tranh gay gắt của hai mặt trận chủ động cực quyền và tư bản bằng tiêu hao, giết tróc, và kéo dài, quy định nên một cuộc rối ren không thể bằng sức người cứu vớt lại được, nó làm cho dù bên nào thắng lợi trên chiến tranh cũng sẽ thất bại đau đớn trên hòa bình; bằng cái tình thế rối ren đó, cuộc đóng cõi (frontières fermées) làm bằng cuộc hướng tâm cách mạng dự đoán từ 1939. những nguyên tắc dân tộc và nhân tố tâm lý đi sát với diễn tiến tất nhiên của kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội làm cho hướng tâm cách mạng trọn vẹn. các dân tộc nhỏ yếu với các giai cấp đau khổ lúc ấy sẽ là những lực lượng mới ra sáng tạo một thời đại mới 2000. nguyên lý của dòng sống máu một dân tộc có thể lấy cái nguyên lý của thủy lực học (science hydrolique) mà chứng minh. làn gió đáy sẽ thổi dạt dào các luồng sóng đáy, sức nước nguồn từ mỗi vỡ bờ sẽ bằng tất cả cái sức mạnh của các bế tắc thời đại với lượng nước bị ứ tắc mà vỡ lở ra trong một phạm vi quy định bởi sức lực, quy tắc và tinh thần nội tại. một cuộc nổ bùng 1793 và napoléon thức (éruption napoléonienne) sẽ đặt để một văn minh vạn thắng mới của nòi việt từ muôn năm. các lần vỡ bờ từ Ðinh, trần, lê, nguyễn huệ sẽ tái diễn trên một nền tảng to rộng và cao độ hơn bằng cả một sức lực lịch sử và nhân chủng tích góp, theo lý tắc totem rồng tiên của bách việt vạn năm trước mà giải quyết vấn đề Ðông nam Á, tức là Ðại nam hải Á Úc châu một cách thỏa đáng. các nòi chi tiếng môn sẽ lập lại một trung tâm của sống còn mới. Ấy, thời đại này trên cái văn hóa quốc phòng khoa học, quân sự, công nghiệp tư bản chủ nghĩa kinh tế, diễn tiến bằng cái trào lưu là như thế, đặt để bằng cái hình thế của giai cấp và dân tộc toàn thế giới là như thế. duy dân biện chứng pháp chối bỏ lối trông thời đại của duy tâm là xâm lược với phản xâm lược hay quốc dân chiến tranh, lại chối bỏ lối xem thời đại của duy vật là tư bản với vô sản hay giai cấp cách mạng, đồng thời còn chối bỏ nốt lối xem thời đại của thứ triết học duy sinh phiến diện (superficielle), bình diện và thực dụng (empirique) là chính trị đấu tranh thường phát sinh ra từ hội nghị nọ hay hòa ước kia. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 2- chiẾn tranh triết học duy tâm cắt nghĩa cuộc chiến tranh này là do dân tộc tính ăn cướp của Ðức, Ý, nhật gây nên, bởi thế bóc lột hết thảy các công cụ và các cơ năng chiến tranh của trục tâm là cần yếu, đồng thời các triết học loạn đời với tất cả các tinh thần cừu hận cũng phải làm cho mất tích. các nhân sĩ gọi là khai minh hơn và lối triết học thực dụng duy sinh cho là các nước dân chủ ăn no quá quên cả phòng bị mà gây nên. riêng phái duy vật cho và dự báo trước bốn nguyên nhân: 1) Ðế quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với đế quốc chủ nghĩa.

2) Ðế quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với dân tộc bị bóc lột. 3) tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với tô nga. 4) Ðế quốc chủ nghĩa từ trong nội bộ có tư bản giai cấp mâu thuẫn với vô sản giai cấp. duy dân chủ nghĩa chính đính và chứng thực rằng cuộc chiến tranh này chỉ là cuộc tranh bá chiến của hai mặt trận đế quốc cực quyền với tư bản dân chủ giả xúc tiến và chứng thực bằng lý luận và thực tiễn của quốc phòng kinh tế trên các nền tảng triết học của tư bản tái sinh sản chính trị hóa (reproduction du capital). trật tự mới của Âu châu, trật tự mới của Á châu cũng như khu vực tổ chức tập đoàn kinh tế trên các hiệu triệu chiến tranh của chính trị địa lý học, đi theo với thuyết sinh tồn không gian (espace vital) hay tiến lên một bước là thế giới liên bang (fédération internationale) có một tổ chức đằng sau phải là một hậu thuẫn bằng vũ lực, đấy là mục đích tác chiến của cả hai phái trong giai đoạn thế kỷ hai mươi này (sẽ nói rõ trong vấn đề chiến hậu). sự khống chế thế giới phát sinh từ cái nhu yếu của mỗi dân tộc đã đến cực điểm của văn minh tư bản và vật chất. sáu vấn đề nền tảng của thế giới (xem tuyên ngôn ngày thành lập tổng Ðảng bộ) ví như không giải quyết được triệt để thì vô luận một hiệu triệu giả dân chủ hay giả chính nghĩa nào cũng chỉ là ngoài mặt để che lấp cho sự thực của phát triển xấu xa và tội ác tự nhiên tất có của văn minh cũ đã thối nát. nếu nói cuộc chiến tranh này là thần thánh chiến do cái mâu thuẫn của đế quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với dân tộc thuộc địa thì chỉ là nói mơ, hoặc tiến lên một bước là thay đế quốc đánh lừa dân thuộc địa cho tưởng có phần vinh dự của mình vào để mang nhân mệnh và tài sản ra đỡ đạn cho ăn cướp lịch sử. tội tình! sự phân tán một đống của có phải là ở kẻ có của yếu ớt gây ra sao? cuộc chiến tranh lần này dân tộc nhỏ yếu là chủ động gây nên với đế quốc? cuộc mâu thuẫn giữa dân tộc thống trị với bị thống trị là động cơ của giặc giã? dân tộc bị thống trị có đủ vũ lực và chủ động ra tuyên chiến với đế quốc? một dân tộc từ thiện nào để cởi mở cho các thuộc địa bị đè nén mà gây chiến tranh? muôn lần sai, nghìn lần lầm. chỉ có một cuộc chiến tranh thuần túy do mặt trận thế giới các dân tộc bị áp bách đánh giết mặt trận ăn cướp thống nhất mới gọi là cuộc thần thánh chiến tranh đó. có người nói trung hoa đánh nhật bản, đó là tiền tiến và đặc chứng của trận giặc lần này, có biết đâu tàu với cuộc cách mạng tân hợi chỉ là một nước "thiên hạ chủ nghĩa" lối cũ, đế quốc chủ nghĩa lối Á Ðông để thích ứng với cách thức và đường lối mới của đế quốc chủ nghĩa mới là xâm lược chủ nghĩa lối Âu mỹ, trong giấc tự tỉnh của "con sư tử ngủ" tự trở mình dậy để đi kịp trên con đường chinh phục mới mà quán triệt cái truyền thống tanh hôi của mình theo lịch sử, cái đó chứng thực với bức thư kiến nghị của tưởng giới thạch gửi cho tôn văn yêu cầu mặc nhận hiện trạng ngũ tộc ở tàu và bỏ chủng tộc cách mạng đi để quán triệt mục đích hán bằng chiêu bài, bằng quốc dân cách mạng, lại chứng thực bằng ý chí, thái độ và hành động khi cách mạng của chính phủ tưởng mà biết chắc. lại có người nói cuộc cách mạng Ấn Ðộ là đặc điểm cuộc chiến tranh này, có biết đâu là trên sự thực và phản ảnh của sự thực ấy là bao nhiêu lần thanh minh của chính phủ anh, Ấn Ðộ chỉ là vấn đề nội bộ trong đế quốc anh. khoảng 1940 đến 1942, từ lúc nhật bản để gót đến miến Ðiện, trực tiếp uy hiếp cửa ngõ cái kho lúa của anh, với Ðức đánh sát vào

caucasie, hai bên hò reo xông vào cướp giật hạt ngọc trên đế miện của anh, lúc bấy giờ vì chính lược và chiến lược thế giới, Ấn Ðộ trong địa vị cố nhiên trọng yếu của mình cho số phận toàn thế giới tư bản mà được tàu, mỹ, nga chú ý mà hô hào thôi, há phải là Ấn Ðộ gây ra cuộc chiến tranh này? Ðức, nhật cuối năm 1942 hết sức và thất bại trong kế hoạch hội sư ở Ấn Ðộ. Ấn Ðộ vấn đề cảm thấy thế nào? Ấn Ðộ địa vị lại trở lại một nội bộ nhỏ xíu, bị khinh miệt, bị giày vò trong đế quốc anh vậy. nhưng đứng về mặt Ấn Ðộ cách mạng mà nói, thực tại Ấn Ðộ chẳng tán thành anh, cũng chẳng tán thành Ðức với nhật. Ấn Ðộ chẳng tán thành một cuộc chiến tranh nào duy trì đặc quyền (nehru). Ấn Ðộ đứng dậy cởi mở cho toàn thế giới bị bóc lột kể cả người da trắng bên trong bằng sự chiến tranh với toàn thế giới (gandhi). thái độ với ý chí ấy chính là đại biểu cho con đường đi đúng đắn của dân tộc nhỏ yếu suốt địa cầu, tiếc Ấn Ðộ chẳng phải là sức liên hợp to tát tất cả các dân tộc đó, lúc này chẳng phải là đại bản doanh của mặt trận ấy, cũng chỉ là tiên phong và cục bộ nhỏ của mặt trận ấy chưa hết lộ mặt mà thôi. còn nếu như nói có dân tộc nhỏ yếu nọ, dân tộc thuộc địa kia tán thành mẫu quốc hay lãnh đạo quốc, hết sức tham gia cuộc chiến tranh này để mong có một thí bỏ về giải phóng hay độc lập, sự tán thành đó bằng vô tri hay ngơ ngác, hoặc là cử động đầu cơ của một lũ hoạt đầu, hoặc bị đè nén cực chẳng đã phải đem con, em, gạo lúa... của mình nộp cho đế quốc, chẳng phải một phần ngàn nào đại biểu được lịch sử và ý chí của toàn thể dân chúng đó. Ðế quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với tô liên ư? tô liên trên cái hiện thực của phương châm dân tộc tư bản tập trung chủ nghĩa chẳng phải là cớ của cuộc chiến tranh này. tô liên chỉ là một phần tử lạc loài và phản động không bị tiêu diệt bởi cực quyền thì bị hỗn hóa với tư bản quốc tế. tô liên trong cuộc chiến tranh này chỉ là thứ yếu và bị động. sách lược gia truyền của lénine là đợi các đế quốc đánh nhọc lả sẽ một tay hoàn thành cả cách mạng vô sản hoàn cầu đã thất bại. những hành động bất trí trong ngoại giao với nhật, với balkans (đứng địa vị khách quan của mặt trận vô sản thế giới mà nói) đủ tỏ rõ cái bàng hoàng của tô liên đứng ngã ba. tô liên trong cuộc xâm ba, xâm phần và càng ngày càng đi sát anh, mỹ, tàu, càng tỏ rõ tô liên chẳng phải là thế giới đặc biệt, đi đôi với chính lược lui một bước lên hai bước chỉ có thực tiễn thất bại. ai bảo tô liên là chủ động? ai bảo tô liên là tổ quốc của toàn vô sản thế giới? lại nói các mâu thuẫn nội bộ của tư bản với vô sản giai cấp trong mỗi đế quốc làm nên trận giặc này? vô sản anh vì anh, vô sản mỹ vì mỹ, Ðức vì Ðức, nga vì nga, tàu vì tàu, nhật vì nhật trong cuộc quyết thắng của vận mạng giống nòi với cuộc đánh bạc máu sắt ngày nay. cộng sản anh yêu cầu từ 1921 tới nay bao lần vào công đảng đều bị cự tuyệt. sự im lặng của toàn vô sản thế giới đối với nga vào trận, sự ám sát trotsky bởi đồ đệ thân tín càng làm cho cuộc cách mạng thế giới càng chậm lại thế kỷ. sự đột nhiên giải tán đệ tam quốc tế càng chứng thực. các cộng sản đảng các nước từ bao năm nay mỗi ngày mỗi xu hướng vào cách vận động bằng hình thái dân tộc càng được chứng nhận. tình thế các giai cấp toàn thế giới càng cho ta một nền tảng phán đoán đúng chắc nữa (xem nói về cộng sản ở dưới). các cuộc bãi công ở pháp (marseille và paris ) chỉ là phong trào ái quốc. sự thỏa hiệp của cộng sản đảng các nước với chính phủ chiến thời của mỗi nước, sự chia rẽ của cộng sản đảng pháp vừa đi với vichy lại vừa đi với de gaulle, đều là những hiện tượng đau thảm của vô sản trên lý tưởng bằng đấu tranh không có phương pháp sáng suốt và ỷ tựa chắc chắn. các cuộc bãi công ở mỹ không phải do cộng sản gây ra, hoặc phần nhiều là do hành vi của cô lập sai khiến, đồng thời là những hành vi càng khiến cho mỹ trên chế độ dân tộc tiến vào trạng thái dự trước của duy dân chủ nghĩa về chiến hậu.

cuộc chiến tranh đã thế cũng chẳng phải là do tính ăn cướp của một vài dân tộc, hay do sự ăn no ngủ kỹ của một vài nước trọc phú. nó có một căn nguyên lịch sử của duy dân biện chứng pháp. cuộc chiến tranh này thuần túy là cuộc tranh bá chiến của hai phe đế quốc. sự thất bại của họ trên hòa bình chính là thời cơ nhằm đúng của hướng tâm cách mạng, một con đường mới cho đời sống thế giới mới trên con đường lịch sử phải đi triệt để của các nước nòi nhỏ yếu hợp với giai cấp bị bóc lột, chỉ có thời cơ đó chân chính là một dịp sống mới của loài người mới thuế biến, đột biến và đặc biến. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 3- chiẾn hẬu cái nhược điểm của trào lưu cộng sản tức là đệ tam quốc tế dưới những áp bách của hình thế thực tiễn mà giải thể (1942) sau khi cái nhược điểm của dân chủ cộng hòa trận doanh là pháp bị đả đảo (1939). nhược điểm của phát xít trận doanh là Ý Ðại lợi vỡ lở năm 1943 (8/1943) mở đầu cho cái nhược điểm to lớn nhất, bên nào cũng phải cần, cần để rồi không tránh được đó là sự thắng trận. như đã nói từ 1939, chủ động giật lại phía dân chủ tư bản thế giới, mặt trận từ sau này mà đi tròng trành giữa lợi thế về chiến lược trên địa giới của nhật với bức lũy sắc Âu châu của Ðức. Ðức có thể thua được trong ngoài 1945. nhật bị nội bộ Ðông Á giải thể trong ngoài 1946. từ đấy thống trị bởi sự thắng trận. thắng lợi là chuyện tất yếu của chiến tranh, sau đấy nó có thể mang đến sự thất bại của hòa bình. anh với mỹ có thể liên hợp thành một chủng tộc liên bang, lấy kinh tế ra đè ép và buộc chặt thế giới, hoặc anh vẫn là anh đế quốc kiên quyết cự tuyệt những nguyên tắc Ðại tây dương ứng dụng vào nội bộ của mình, mỹ vẫn là mỹ đế quốc thực hành xong "monroisme" mà cương quyết đòi môn hộ khai phóng toàn thế giới. hai đế quốc ấy đứng trên một hàng trận có mâu thuẫn bên trong như thể chia đôi bá quyền toàn thế giới. sự giải quyết chung nhau của anh, mỹ với vấn đề nga xúc tiến nên hội nghị moscou (10/1943) ở đây anh, mỹ muốn cho xong vấn đề Ðông Âu, nga đánh nhật và đánh Ðức một thể, vấn đề turquie và cận Ðông, anh với mỹ trong cuộc lãng giải, như là khắng khít như thế, thực tại vì đại địch đương tiền, đại địch hiện nay là Ðức, Ý, nhật, đại địch tương lai là nga, đại địch giả định cho tương lai nữa là tàu. tàu tuy bị gọi là một trong tứ cường nhưng mà sự lãng bỏ khinh miệt với sự dè dặt và sự đề phòng càng ngày càng phải tăng. cái hình thế nước tàu phóng trông ra tương lai, 20 năm sau 1944 chẳng hay ho gì. những dã tâm của tưởng giới thạch biểu hiện từ trong ra đến ngoài rất đáng kinh khủng cho toàn nhân loại. những vấn đề tàu yêu cầu chiếm lĩnh việt và hàn ở washington và yêu cầu các quyền lợi chính trị với kinh tế các phía có hoa kiều (nhất là nam dương) chưa đủ để cảnh tỉnh anh, mỹ hay sao? tất cả tuyên ngôn đường mật chỉ là đánh lừa và là thừa cho những nhà quan sát chính trị, nhưng là những tài liệu rất quý cho những nhà học về tâm lý trên lịch sử và chính trị. người ta muốn công nhiên một cách mâu thuẫn bá chiếm cả thế giới, nhưng mà người ta còn cần hiệu triệu, thứ nhất là cần đánh lừa. hitler nói: "đánh bạc" là thế.

họ đề phòng hết cả, dự kế hết cả, nhưng mà có một thứ ác hại nhất, lớn lao nhất, và đại địch nhất của hết thảy thắng trận là sự thất bại trên hòa bình một cách đau đớn. những trào lưu anarchy về kinh tế, xã hội, văn hóa và tâm lý sẽ chạy từ những nước thắng trận ra ngoài để gặp những sự thực anarchy đã hình thành trên khắp các nước bại trận đưa đến sự đóng cõi và phản tỉnh cần cho mỗi nước. cuộc đấu tranh thực tế của các nước nhỏ yếu lúc bấy giờ mới thành tựu nổi lên. tàu sẽ trở về một cuộc nội loạn và ngoại hoạn để có thời gian cho Á châu sống lại. họ sẽ thắng lợi trên chiến tranh, nhưng sẽ thất bại trên hòa bình, cái thất bại mạn tính (chronique) tới ba, bốn mươi năm, nó cần họ tự cứu tế một cách khổ nhọc và đau đớn như bị chứng thần kinh suy nhược. các dã tâm, âm mưu, mắc lên những cơ quan và kế hoạch sẽ đổ sụp. loài người bằng sự phản tỉnh và phục hoạt sẽ tu chỉnh lấy lịch sử của mình. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 4- phỤc hoẠt ( renaissance việt) có những bờ đê chắc chắn ngăn be hết sức chảy của dòng nước, để dòng nước ấy từ trên nguồn sa xuống, hợp với lượng nước ba bảy sông ngòi dồn lại đóng vạnh đáy và bằng luồng sóng đáy sùng sục nổi lên, chọc thủng hết, phá vỡ hết, để theo dòng chảy của mình. Ðời sống lịch sử của một nòi giống cũng vậy. từ 1940, nòi việt có thể nói, bốn bề đều là quân địch hay là sức can thiệp tới quyền lợi và đời sống tổ tiên với con cháu tối thiêng liêng của mình và bởi những bàn tay với những ý chí ô uế nhúng nhớp vào để sẽ chạm vào đáy hồn và danh dự của chúng ta. lúc ấy, từ bốn phía quân địch đó, ở trong khói lửa và bụi bặm, chúng ta sẽ vạch ra, chọc thủng và phá toang con đường đi. con đường đi ấy là lối sống chính trị và lịch sử trên quốc dân và thế giới của chúng ta, vạn thắng như vạn thắng ngày xưa, mà tiến lên mục tiêu của dân tộc. sự phục hưng đi đôi với sự phục hoạt máu đi liền với ánh sáng của óc. phục hưng và phục hoạt đều từ trên nền tảng bản thân của xã hội ta trong kết cấu của nó phối hợp với những điều kiện yêu cầu của dân chúng và thủy chuẩn của văn hóa ta, suy động trong tiềm năng, tiềm thức mà đột hiện lên bởi cái để uẩn sâu sắc của nhân chủng. sự phục hưng và phục hoạt của chúng ta trên tính chất quy định của nó là đột biến, đặc biến và thuế biến. bởi đột biến cho nên phục hưng và phục hoạt mới anh hùng

bởi đặc biến cho nên phục hưng và phục hoạt mới sản sinh ra một văn minh mới, bằng cái văn minh ấy sẽ xây dựng một xã hội và thời đại mới. bởi thuế biến cho nên sự phục hưng và phục hoạt mới dân tộc, mới việt. lý tưởng việt như đóa hoa thơm mọc từ sâu xa trong đáy hồn của tổ, đáy tầng của dân và đáy lòng của sử. sự phục hưng và phục hoạt ấy là duy dân thắng nghĩa diễn ra bằng một dòng nghệ thuật tất cả những điệu nhịp sống của viêm việt vạn thắng. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 5- thẮng nghĨa trong cái sứ mệnh lớn lao và đột nhiên như lời Ðức chúa ban cho moise nào sai ra cứu thế, phục hưng và phục hoạt bằng tất cả và là tất cả. một lẽ sống trên lẽ thật, một Ðường sống trên Ðường thật chỉ vạch ra, dựng dõi lên, rồi lại xây đắp thành một thực thể của lý tưởng, tự trong phản ảnh ra huy hoàng tất cả một văn minh và làm sùng sục sôi tất cả một nguồn sống máu. chủ trương thời đại không đủ, phát quật và phát huy được cái để uẩn của một văn hóa để cho người ta sống no và sáng mới đủ. chủ trương thời đại không đủ, phải nắm giữ và vận dụng được cái căn cứ của một cái chủ trương đó mới có ích. chủ trương thời đại không đủ, phải có được các đồ lề tinh thần và phương pháp học thuật để tìm vạch ra, nó mới chắc chắn và sáng láng. lại còn phải có đủ các vũ khí của ý thức để phòng vệ cho nó, chỉ huy nó trên mặt trận, bổ thụ cuộc thắng trận cho nó mới đạt được tới một hiệu quả của dự cầu nào của nó đấy. cách mạng, chính trị và kiến thiết phải nối liền và hợp nhất vào một tinh thần và luật tắc chỉ huy nó, vận dụng nó, nắm giữ nó và hiểu biết nó. lý luận và thực tiễn phải thống nhất trên một lý tắc trọn vẹn, không chướng ngại, không bẻ vặt, không phụ họa và gia giảm. thắng lợi phải nắm giữ được thực thể rồi trước khi ra trận. họ đã thắng lợi trên chiến tranh nhưng rồi thất bại trên hòa bình. nếu dân tộc ta không có một nhỡn quang sáng suốt thì hoặc cũng sẽ được thành công trên cách mạng nhưng tất sẽ thất bại trên kiến thiết, hoặc sẽ được thắng lợi trên kiến thiết mà thất bại trên chính trị. cách mạng, kiến thiết và chính trị cần phải có hướng thượng, cần hơn cả sự thành công

chợp qua. chủ trương của thời đại có thể thành công nhưng kiến thiết và duy hệ sự kiến thiết và kéo dài sự kiến thiết ấy trên hướng thượng, tức là chính trị không được chỉ đạo bằng cả một để uẩn của lịch sử và cả một thể hệ của triết học, khoa học với thuật học, thống nhất, sâu dày, đầy đủ, cặn kẽ, đúng đắn và tiến bộ thì thế nào cũng thất bại. chúng ta còn phải lấy một con mắt công, con mắt thời đại, nhân loại và lịch sử, con mắt của khoa học khách quan mà phán đoán, đừng để bị che lấp bởi ý thức hình thái của một thể chế xã hội và văn hóa nào mà bỏ mất lập trường siêu nhiên và thiêng liêng, nó còn là một quyền lợi của trí tuệ hưởng dụng, của sức phán đoán quyết định và hành động. chỉ có khi nào ta tự làm chủ, đừng để trụt xuống làm tôi đòi trước cái ý thức và văn hóa, chúng ta mới thực biết làm chủ của vũ trụ, văn hóa, xã hội, văn minh và thời đại. cho nên chúng ta đừng vì đi học anh, nga, mỹ, Ðức, Ý, nhật, pháp, tàu mà vội vàng đứng vào lập trường những người đó, đối với sự vật gì, trên nơi nào và thời nào vội buông lời phán đoán, hay vội đứng sang chủ trương mình. hiểu tức là nghiệm, đuổi theo. như thế hiểu một thời đại, nghĩa là phải lấy con tâm và con mắt lịch sử, nghiệm qua các thời đại để mà đứng trên nền tảng với điều kiện đó để mà hiểu thời đại đó. lại còn hiểu một văn hóa nơi nào, nghĩa là phải lấy con mắt và con tâm quốc tế nghiệm qua các văn hóa mọi nơi để mà đứng trên nền tảng và điều kiện văn hóa nơi ấy mà hiểu. tức cũng như hiểu một người nào, cần phải đem con mắt và con tâm để nghiệm trải nhân tình, thế cố, mà đứng trên nền tảng, điều kiện và lịch trình đời sống người đó mà hiểu. chúng ta cho nên, để mà phục hưng và phục hoạt, phải lấy một con mắt nghiêm ngặt việt, đứng siêu nhiên trên lập trường việt, thi thiết bằng những chính sách và kế hoạch siêu nhiên và nghiêm ngặt việt, có một thái độ nghiêm ngặt và siêu nhiên lịch sử việt. như thế thì khoa học phục tùng chúng ta, triết học, thuật học và lịch sử phục tùng chúng ta để chúng ta trên nền người uốn bắt cho cái danh nghĩa và sự cố việt phục tòng danh nghĩa và sự cố người (cause humaine). dù sao phải có một ý thức thực tại và khách quan. lý tưởng tự đó mà mọc rễ, ăn sâu trong để uẩn của lịch sử vận hành. duy dân chủ nghĩa, nghiêm ngặt trong ý nghĩa việt trên cách mạng, chính trị và kiến thiết của tiểu việt và Ðại việt, khoan đại trên ý nghĩa người trên triết học, khoa học và thuật học, hiệu lực trong ý nghĩa công cụ, phương pháp và vũ khí của văn hóa. duy dân chủ nghĩa là sự phục hưng và phục hoạt tất nhiên và tiên tri cho nên gọi nó là thắng nghĩa, nghĩa là thắng hết các chủ nghĩa, vạn thắng cả trên vật chất lẫn tinh thần. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 6-tam dÂn

người Á Ðông, nhất là những người trong hệ văn hóa chữ nho, ai đã đi, tất biết đến chủ nghĩa tam dân mà tôn văn, người sáng tạo ra nó, gọi là một chủ nghĩa cứu quốc còn là một chủ nghĩa cứu thế giới nữa. nhiều nhà cách mạng việt ca tụng và sùng bái cái chủ nghĩa này lắm. người tàu đã tôn tôn văn lên làm quốc phụ, chủ nghĩa tam dân còn là những "nguyên tắc quốc sách tối cao" đủ biết thế nào. người tàu còn chực dẫn dắt một cuộc vận động ở tàu gọi là phong trào quốc tế của chủ nghĩa tam dân. tôn văn lại còn được người ta tôn là đạo sư của cách mạng cho các dân tộc nhỏ yếu, cố nhiên chủ nghĩa tam dân phải ở địa vị chỉ đạo rồi. nhưng mà cái thùng "tả pí lù hẩu lốn" đó, người tàu lại đánh cho kêu, rồi lại la hò rối rít, đối với thế giới phải nên coi đó như trẻ con ta đánh cái mẹt để cứu mặt trời khỏi bị mặt trăng ăn mà thôi (nhật thực). tam dân có thế giới tính? Ðó chỉ là một chủ nghĩa của một dân tộc, trong sự thật rất nghiêm ngặt của các phụ tính của dân tộc, nhất là dân tộc hán trên con đường phát triển của nó bằng những nền tảng và điều kiện thời đại quy định ra nó sẽ có những đặc tính của nòi giống và đặc điểm của lịch sử kết hợp nên mà làm kim chỉ nam của một chính trị lộ tuyến đặc thù. nó là một chủ nghĩa dân tộc, dân quyền với dân sinh, chẳng qua là những chính trị hình thái, chính trị kiến trúc và chính trị quy tắc trong nội bộ của chủ nghĩa dân tộc của nòi hán đi lên đường. chủ nghĩa ấy là chủ nghĩa gì? Ðúc các dân tộc vào một lò để thống nhất thế giới (tam dân giảng). bằng cách gì? chủng tộc xâm lược hay bằng chủng tộc vũ khí như nghìn xưa. chủ nghĩa ấy sản sinh ra một xã hội hình thái gì? dân quyền là một thứ quốc dân dân chủ chuyên chính mà một đảng (phải là quốc dân Ðảng tàu) cầm quyền mãi. dân sinh là một thứ quốc gia tư bản cực quyền mà bọn tài phiệt và nho sĩ phải làm trung kiên. thứ chủ nghĩa ấy đi đôi với sự lũng đoạn chính trị của tưởng giới thạch và bọn đầu trùm quốc dân Ðảng (quân, tài phiệt) đã thành ra một cái chiêu bài nhân đạo rất lớn ví như cái mạng nhện mắc chết bao nhiêu con ruồi vong quốc việt, hàn. lại, trên chính trị hiệu triệu khoáng trương dân tộc ra đến quốc tộc, từ quốc tộc đến quốc quân, chia xâm lược lộ tuyến ra tám đường diệt vong dân tộc nhỏ yếu. tam dân trên chính trị là một học thuyết như vậy. nếu lấy ý nghĩa đúng đắn của triết học mà nói, nó khó thành và khó đáng gọi là một chủ nghĩa. nó chỉ có thể gọi được là ba nguyên tắc quốc gia xã hội, mặc dầu kẻ sau hết sức nối liền tam dân với học thuyết khổng tử và truyền thống của tàu, nó biểu hiện rõ rệt trong cái thời đại khô khan vì dã tâm, một chứng bệnh bẩn óc rất ghê gớm. những lý tắc duy sinh nằm trong kinh dịch và trung dung được phát quật lên để hàn liền chủ nghĩa duy sinh với triết học duy sinh mới (trần lạp phu) và cũ (kinh lễ, lễ vận) của tàu để mà lại lúng túng với sự gắn khớp những nguyên lý đó với dân tộc và dân quyền mặc dầu tàu vẫn tâng bốc tam dân là có liên hoàn tính. lại sự hấp thụ ăn không nhai kỹ và tiêu hóa không thông đối với các khoa học mới đem dính vào sau tam dân trông càng mâu thuẫn, đeo càng lẵng nhẵng, tất cả những cái đó càng

làm cho óc người tàu không có một hệ thống và tổ chức được mà thôi. sự phát minh kiến thiết giai đoạn luận của tôn văn có thể ví như sự phát minh cách mệnh giai đoạn luận của lénine, chỉ là những liều thuốc cứu cấp cho một học thuật với một dự kế không trọn vẹn, tự trong mâu thuẫn nó làm hư phí cả tinh nghĩa của biện chứng đó đi. nói tường tế về tam dân hoặc có một dịp khác, đây cần nói, chỉ là phê phán qua chơi những điều muốn để cho quốc dân chú ý, nhất là hiện giờ đây có một tụi người việt có thể gọi là việt gian làm tay sai cho chính trị mục đích của người hán, cam tâm dịch chủ tái nô. bọn ấy tự xưng là tín đồ của kẻ chực đến xâm lược đất đai ông cha chúng ta mong hòng để báo ơn mẫu quốc và đưa dắt tam dân về phía nam, mở mang thêm những lãnh thổ mới kỳ cho "phòng tuyến của dân tộc hán suốt từ Úc châu đến tân gia ba ở phía nam đó".

x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

7- dÂn chỦ thanh niên lấy làm vinh dự để nói đến dân chủ. dân chủ ví như thần thánh "homo res sancta homini", dân chủ là hình ảnh giàu có, bình đẳng và khoa học. căn cứ của chủ nghĩa dân chủ là chủ nghĩa cá nhân. cho nên dân chủ chính thể là kết quả chính trị của chủ nghĩa cá nhân đó. trong nước dân chủ phải có tiền mới bình đẳng và sinh sản phải tùy khoa học phát minh mới tiến bộ. chế độ tư bản dân chủ cố nhiên khi đầu mới thay thế cho xã hội phong kiến thực là cứu thế, nhưng đi đôi với tiến hóa của lẽ vô thường, từ thương nghiệp tư bản tiến lên công nghiệp tư bản làm cho trong nước giai cấp ly chia và chính trị đảng tranh. lại từ công nghiệp tư bản tiến lên đến kim dung tư bản, sự cần dùng thị trường nảy nở ra đế quốc thực dân, từ đó đến quân hóa tư bản gieo rắc chiến tranh cho thế giới. Ðến mạt kỳ này, chế độ dân chủ xấu nhất, nó làm cho nhân chủng linh lạc, gia đình linh lạc, cá nhân linh lạc, ở đó mà quốc gia linh lạc. sự cần yếu cho tái sinh sản của tư bản nảy nở ra các hình thức bế quan tỏa cảng lối mới như khối pound, khối monroe, khối yen và khối franc càng suy động cái dục vọng diệt chủng vong quốc người khác bằng vũ khí kinh tế, và ở đó chiến tranh; cũng ở đó là nguyên cớ chiến tranh chân thực của kỳ này. vật hỏng tất phải chữa. wallace đề xướng ra lối dân chủ mới trên truyền thống dân hữu, dân hưởng, dân trị cũ của mỹ. dân chủ mới có năm điển hình là: chính trị dân chủ, kinh tế dân chủ, giáo dục dân chủ, dân tộc dân chủ và nam nữ dân chủ. tất cả các kỹ thuật cần dùng để xây đắp đời mới ấy, tác giả không nói ngoài những

phương án hòa bình của quốc tế, nó họa may ấn định được đời sống dân chủ đó. thế nhưng dân chủ phải gồm các điều kiện toàn dân trực tiếp, tập trung và chân thực, dân chủ ấy mới có thể vững chắc được. muốn thế, ta không thể đề xướng ra một chủ nghĩa dân chủ mới rỗng tuếch như trên. ta phải tìm đến tận cội rễ xã hội của nó mà chữa. cho nên lý tắc của dân chủ là "làm nghĩa vụ đi để hưởng quyền lợi" (droit et devoir). song ta thấy nghĩa vụ không chìu người. muốn phục vụ hết nghĩa vụ, không có chỗ để giả nghĩa vụ đó. cho nên phải có một lý tắc của dân chủ mới: "có cơ hội đó, làm nghĩa vụ đi để hưởng quyền lợi" (chance, droit et devoir). tất yếu xã hội phải hoàn thành cái chế độ hiện thực của cơ hội quân đẳng, nghĩa vụ quân đẳng, quyền lợi quân đẳng mới có thể có được đời sống dân chủ trực tiếp, chân thực, toàn dân tập trung, thống quy dưới một hình thái xã hội có lý tưởng, phương châm, tổ chức và quy tắc, nghĩa là phải có một kế hoạch dân chủ, hay là một dân chủ xã hội hóa. xã hội là một tổ chức nhân tính. sự điều khiển nhân sinh phải bằng một chính trị có một tác dụng tích cực là thiết kế và chấp hành đi đôi với một giáo dưỡng trọn vẹn và đầy đủ, là khởi điểm và chung điểm của cái chính trị đó. cho nên một kế hoạch dân chủ và một chế độ dân chủ xã hội hóa trọn vẹn là xây đắp trên nền tảng của những nguyên lý và quy tắc của bình sản kinh tế. chỉ có thế ý nghĩa xã hội hóa mới đạt được những hiệu quả dự định của nó trong phạm vi khoáng đại của nhân loại; có thế, hiệu suất của đời sống loài người mới một ngày một tăng tiến theo cách thức và nguyên tắc của nhân loại học. chế độ bình sản kinh tế phải phối hợp với một kết cấu xã hội hoàn toàn dân chủ theo hết ý nghĩa rộng của nó. dân chủ làm cho loài người bất tri bất giác thực hành chính trị dân chủ trong cái tinh thần và tác dụng tối cao và sung sướng của vô chính phủ. một kế hoạch dân chủ phải làm trên sự phối hợp chặt chẽ cái tinh thần của vô chính phủ, mới là dân chủ chân chính. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

8- cỘng sẢn nhằm vào thời đại Âu châu thống trị tê liệt dưới máy móc và giai cấp chia rẽ mà sản sinh ra cái triết học duy vật đầy sáng kiến và cũng nhiều sai lầm đó. nếu kể lịch trình tiến hóa tới nay, triết học ấy đáng là lạc hậu non 100 năm rồi, nếu ngày nay phải nhắc lại mà phê phán đó là vì cuộc cách mạng 17 với tất cả những thất bại của đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ quốc tế, với cộng sản đảng các nước. bao giờ xã hội còn giai cấp, tất còn những hiện tượng với sự đấu tranh của nó. căn cứ của chủ nghĩa cộng sản là lao động giai cấp đại chúng, đó là ý nghĩa xã hội có thể gọi như một ý nghĩa chuyên môn. trong giai cấp đó, đại thể chia ra nông dân với công nhân, nông dân đông hơn mà công nhân ít hơn; ở đó chia ra cái mâu thuẫn mà là cái nhược điểm chí tử cho chủ nghĩa vậy, mà cũng ở đó khởi

nêu cái ý nghĩa chua chát của cái giai cấp ở trong có nội tại mâu thuẫn, gây lên một sự phân hóa đau đớn giữa vương giả lao động, quý tộc lao động, bình dân lao động, lao động các nước lớn, nước công nghiệp, nước thực dân đối với lao động các nước nhỏ, nước nông nghiệp và nước thuộc địa. không những thế, sự phân hóa ngay trong trận doanh cộng sản trên vấn đề giai đoạn cách mạng, vấn đề chủ lực cách mạng giữa nông và công, chủ lực kiến thiết giữa nông và công, một phần lớn đi đến thất bại, trên sự thực của đấu tranh đã vùi dập dần dà từ đệ nhất cho đến đệ nhị, đệ tam rồi đệ tứ quốc tế. sự thất bại trên sự thực của đấu tranh đó gây nên chủ yếu là bởi sự sai lầm lớn lao của duy vật biện chứng pháp: nó chia rẽ hẳn lý luận với thực tiễn trong quá trình thực tiễn của thể nghiệm lịch sử, đồng thời nó không thể giải nghĩa một cách đúng đắn và nắm giữ với vận dụng một cách thiết thực tất cả những động cơ của lịch sử với luật tắc của tiến hóa nhân loại. bởi cái bối cảnh phát sinh của chủ nghĩa cộng sản là thời đại của anh, mỹ, cho nên cái nền tảng xây dựng của xã hội vô quốc gia đó cũng phải tùy tính chất công nghiệp mà đặt trên một thế giới hoàn toàn cơ giới hóa, công nghiệp hóa và điện khí hóa. cái mục đích của chủ nghĩa ấy như mọi cái tưởng tượng, tư tưởng và không tưởng xã hội loài người cố nhiên là tuyệt đối, là thiện mỹ nhưng tất cả một thể hệ từ lý luận và thực tiễn trên triết học, khoa học và thuật học của cách mạng, kiến thiết và chính trị phải cho hiện thực và lại lý tưởng mới có thể thực hành được. kinh nghiệm của cách mạng 17 tỏ ra cách mạng của cộng sản chủ nghĩa là thất bại. chính sách kinh tế mới đối với ba kỳ 5 năm kế hoạch đi theo với sự đi quay về dân tộc tự lực, tự vệ và tự quyết chủ nghĩa của staline, sự tu chỉnh các chương trình của đệ tam quốc tế tỏ ra kiến thiết của cộng sản cách mạng là thất bại. sự bị lôi cuốn vào chiến tranh, sự phân hóa trong nội bộ, sự miệt thị các phân chi bộ coi như tung đội nga, sự xâm lược các dân tộc nhỏ yếu chung quanh tỏ ra chính trị của chủ nghĩa cộng sản là thất bại. sự giải tán đệ tam quốc tế là một sự kiện quan trọng có những nguyên nhân lịch sử và xã hội học, ta cần phải phát biểu càng tỏ cộng sản cách mạng là sai lầm. thời đại bối cảnh của sự giải tán ấy trông vào: 1) nội tại luật tắc của cuộc kiến thiết nga sô viết xu hướng dân tộc tự quyết. 2) nội tại luật tắc của cuộc chiến tranh hiện tại ở trong trào lưu sô đẩy trên cái nền tảng giai cấp ngày nay. 3) nội tại luật tắc của bản thân đoàn thể đệ tam vì các xu hướng về các cuộc vận động trên hình thái dân tộc của mỗi cộng sản đảng mỗi nước. 4) Áp lực của anh, mỹ với nhu yếu về chiến lược của nga sô bắt buộc trong thời kỳ ái quốc chiến với nazi này. 5) nhưng cũng coi là một vẻ mặt và một chính sách "lui một bước lên hai bước" một khi hoặc do trận này dẫn khởi rối ren, hoặc chậm sau khi thế giới này có thể đã bị thống trị dưới một trận doanh quốc tế nào nhân là thời cơ thành thục lại có thể xuất hiện ra bằng

hình thái đệ tam quốc tế sau năm năm, không thì mười năm. Ðó là lối xem của duy dân chối bỏ duy vật biện chứng, nó tự bị đào thải trong đường trường của lịch sử thế giới và xã hội sống thực tiễn, dân tộc là bản vị, giai cấp là cơ năng, sự sống non một trăm năm nay càng chứng tỏ như thế. cho nên thế giới lao động cách mạng quyết định là thất bại, có khi nó bị chết nghẹt ngay trong thai nghén, có khi nó đẻ non ra. cái chết của trotsky càng chứng tỏ như thế. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) - bÌnh quÂn Ðược gặp các đồng chí lĩnh đạo trong Ðại việt dân chính Ðảng nên được hiểu thế nào là sinh hoạt bình quân chủ nghĩa. tuy hiện nay các đồng chí ấy đã gia nhập vào bản đảng phụng hành thắng nghĩa, sự phê phán không phải là nói xấu, nó còn là những lời cảnh tỉnh, cho nên ngòi bút của tôi không làm khách được trước chân lý. sinh hoạt bình quân chủ nghĩa chỉ có hai yếu điểm: đối bên trong làm cho xã hội sống đều không có giai cấp, để đối bên ngoài tranh đòi lấy một đất sống với thế giới cho dân không bị thiếu thốn. tiếng chuyên môn của chính trị địa lý là sinh tồn không gian (espace vital). chủ nghĩa bình quân muốn căn cứ vào nòi giống hiện tại để lập một nòi giống tương lai. qua giọng nói của các nhà lĩnh đạo chủ nghĩa ấy thì không cần suy diễn lịch sử hay nguyên lý mà chỉ cần đến những phương án thực tiễn và bàn tay sắt là đủ. sự thành lập đệ tam Ðại việt (lý trần là đệ nhứt, lê là đệ nhị), cũng na ná như sự thành lập của đệ tam reich. sự tranh đòi không gian làm bằng thủ đoạn luồng sóng di dân (vagues démigration) tức là thủ đoạn vũ khí phát xít hay nazi của thực dân địa. xã hội làm sống đều bằng thủ đoạn và vũ khí độc tài. chủ nghĩa ấy và đảng ấy, từ học thuyết đến tổ chức và hình thức (như hay dấu hiệu), đều quy định ra trước bởi các thầy nazi và phát xít. thủ đoạn cũng noi theo, không có chi thay đổi. lòng ái quốc của thanh niên nhiều khi vô lý, nhiều khi bồng bột, nhiều khi lỡ việc, nhiều khi mù quáng: đấy gọi là chauvinisme. thêm vào chủ nghĩa yêu nước mù mắt ấy, lý tắc thực dụng chủ nghĩa (empirisime) không những đã nông nổi, bộp chộp, phi khoa học, mà còn tỏ ra sự nghiệp mình mưu đồ không được dẫn dắt bằng một nhỡn quang cao đại; nó mới xứng để dẫn dắt vận mệnh cả một nước nòi. chủ nghĩa nazi và phát xít không thể thực hành được ở nước ta cũng như thuần dân chủ, thuần cộng sản, hay tam dân. cái nền tảng xã hội ta với tất cả các điều kiện văn hóa,

kinh tế, khoa học và quân sự không để cho ta, trong con đường quốc tế tương lai, cư xử được theo con đường đó. kế hoạch đồng nhân của chúng ta chính là một sách lược liên hợp giải phóng của tất cả các dân tộc nhỏ yếu trong Ðại nam hải cùng một huyết thống viêm và một văn hóa môn từ muôn năm về trước, nó là một chính sách cách mạng không phải là một cương lĩnh xâm lược. chủ nghĩa duy dân của chúng ta là phục hưng và phục hoạt nòi giống với văn minh tiên rồng, không phải là chủ nghĩa chủng tộc xâm lược như nòi hán, cũng không phải là chủ nghĩa chủng tộc siêu việt như nhật nhĩ man. Ðời sống của quốc dân và dân tộc là toàn thể (trọn vẹn, không vá víu lồi lõm) lại tích lũy (phát triển theo lịch sử), nó như dòng nước chảy không dứt, luôn luôn bồi chút cái nguồn sống theo nền tảng và điều kiện các thời đại và khơi mở con đường đi, không thể cắt ngang hay cắt dọc lịch sử để lấy đâu làm xuất phát điểm mà đi được cho đến tương lai. trong cái dòng sống không dứt ấy, người việt trong đời sống quốc dân, lịch sử và thế giới ngày nay chỉ có thể nói được: ta sống cả một muôn năm ở trong ta, lấy sức ngầm đó đứng lên chuẩn bị cho thời đại 2000. mỗi chủ nghĩa là tinh hoa của mỗi nguồn sống tập trung lại mà khai hoa. sự hấp thụ mỗi thứ tinh hoa trên tinh thần giới chung đụng của loài người đó, phải làm như con ong hút nhụy làm mật, chớ như con bướm lượn cành mà chơi, cũng đừng như lũ đồ nho nhai sách khổng tử không tiêu hóa, hay lũ đồ tây nhai sách khoa học không biết phân minh. chúng ta chỉ cần mỗi phần trong chủ nghĩa, trong điều kiện lợi ích của dân tộc, châm đối theo nhu yếu của dân tộc trên một trình độ nào và theo một phương hướng nào. chúng ta nếu chỉ đi uống thuốc bậy cũng bằng giá trị đi tự tử. nhưng nếu chúng ta bắt chước narcisse tự hoan hỷ với bộ mặt đẹp của mình trên giếng cũng là đi tự tử. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 tuổi việt 6/11/1943 x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) --------

iv. bÔng lau 1- lÝ tƯỞng cành lau bắt đầu tham dự vào cuộc sống lịch sử của nước nòi chúng ta từ thế kỷ thứ x, một vận đổi mới trong tang dâu của Ðông Á, nhưng còn là một phục hoạt lớn lao của

hồng lạc với sự dựng lại chắc chắn cái nền tảng vững bền của độc lập cho quốc gia việt thống nhất. trong hoàn cảnh gian nan khốn đốn ấy, với bối cảnh chuyển biến gắt gao của quốc vận việt ấy, cành lau điểm trên thinh không và thời gian một ý nghĩa và giá trị tuyệt vời, cái ý nghĩa và giá trị sống đó đi đôi với sứ mệnh và lý tưởng của hồn sử, tổ gốc gác và đáy tầng việt. cái tên Ðại cồ việt xuất hiện ra do cành lau, mà bắt đầu từ xung động của hồn lau phát tiết ra hết thảy cái thực thể lý luận của dân tộc. cành lau dễ mọc và dễ sống trên đồng lầy, giữa thôn quê, trong bãi vắng, đi đôi với đời thiếu niên thanh khiết của Ðinh bồ lĩnh, tỏ lộ hết được đời sống thực tiễn trên xung động thực tiễn của cái lý tính thực tiễn của quốc dân trên lịch sử và thế giới. những nhu yếu thực tiễn từ ở những yêu cầu thực tiễn ẩn dấu trong dòng sống tiềm lưu của bình dân, chỉ có đại chúng mới thể nghiệm được chân chính trong đáy hồn chủ nghĩa của dân tộc, dẫn dắt và mở đường cho lịch sử giữa nền tảng của thời đại sứ quân. cành lau là cờ hiệu chiến đấu của nước nòi mưu cầu lấy thống nhất và độc lập, vững trong và chống ngoài. và cờ lau đã thắng hết cả. cờ lau thắng lịch sử đô hộ hơn nghìn năm. cờ lau thắng đô hộ khủng khiếp, thắng đồng hóa dã man, thắng tự trị ươn hèn, thắng chia rẽ diệt vong, thắng uy hiếp trong ngoài, thắng tư tưởng tối tăm, thắng nhút nhát, thắng phản tỉnh không triệt để, thắng tất cả những thất bại và hết thảy những đau đớn của nòi giống dưới ách nặng nề và ma quỷ của bốn bên, bởi cờ lau là cờ của vạn thắng vương, cờ vạn thắng. cho nên, cờ lau là cờ của dân tộc vạn thắng, bình dân vạn thắng, chiến đấu vạn thắng, thống nhất vạn thắng và độc lập vạn thắng. cờ lau là cờ của hồn cũ tỉnh lại, hồn và sóng đáy cuộn lên, cờ giống nòi của Ðại cồ việt sống lại, nối dõi cái thế hệ dân tộc đã dứt hơn ngàn năm, xa hơn vạn năm trên lịch sử. cờ lau cắm lên giữa giới vạch của lịch sử, khơi mở đời sống mới về vô cùng tương lai, cho hết thảy đời sống anh hùng về tương lai, đã thắng hết cả và cởi mở cháu con ra bằng vinh quang vô thượng. cờ lau là cờ của một thế hệ mới sinh ra để làm một văn minh mới vạn thắng. cho đến ngày nay, trên bãi hoang, nơi thôn dã, những cành lau phe phẩy trước gió gợn đời đời, còn nhắc lại ai oán thuở oai hùng tất cả những sống còn oanh liệt cũ, và sau ngàn năm (thế kỷ x-thế kỷ xx) đến ngày nay, giữa lúc nòi giống muôn vàn nguy cơ, đã vi vu văng vẳng đưa những tiếng gọi xa xăm dần dà gần lại, lanh lảnh vào trong bộ óc và cõi lòng của các thế hệ đời chúng ta, thức tỉnh trong đáy hồn và đáy tầng một cuộc phục hoạt lớn lao và vẻ vang. nhưng bông lau chỉ mọc ở xứ nóng, chỉ mọc ở bãi hoang, trong biểu tượng của những linh hồn giàu thể nghiệm, nó còn nêu dựng hình ảnh của muôn nghìn hồn tử sĩ trên lịch sử bất tử, vất vơ với làn gió, sóng và nắng yêu của bể nam lớn, đời đời không dứt gọi, kêu, và sống giám thị cho thời thế tang thương! cờ lau là viêm hồn, hồn dân tộc muôn năm của trăm việt. cờ lau là cờ cách mạng hồn và quân hồn của việt. cờ lau là lý tưởng của sử vinh quang và sống tái sinh.

x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 2- chÍnh kiẾn lo nước là bệnh thái của những phái thanh đàm nói rỗng, những kẻ lạc ngũ ngồi xếp bằng tròn chửi đời và chửi dòng sống tiến hóa, chửi tất cả những thế hệ mới, không ai mượn lo hão mà vẫn lo hoài! quá vui là bệnh thái của những phái "tự nhiên không làm" những kẻ chực làm thầy đời nhưng mà không có năng lực làm việc thật, họ từ tự nhiên mà đi sang siêu nhiên, bàng quang nhòm ngó ngoài lông da và phê bình theo giọng xuất thế tất cả những khó làm và khổ tâm của người làm thật. lại còn những nhà chuyên môn yêu nước gọi là "ái quốc gia" chỉ cốt được một vài biểu thị rỗng tuếch không ý nghĩa cho sự thực, thế là hết! thế nhưng mà còn các hạng "sợ nước"? họ cho rằng nước mình mà độc lập thì chỉ cá mè một lứa, đâm chém nhau đủ chết. cố nhiên cái nọc độc của vua quan, với phản tuyên truyền của quân xâm lược gây nên những tâm trạng không khỏe ấy. tính ỷ lại, ươn hèn, ở đó sinh ra tính luồn ngoài làm cho họ giật lùi sợ sệt trước sóng gió của tiến hóa. Ðến như các người "vô quốc"! vì họ thuộc về thế giới phái, cho nên họ luôn luôn suy đoán bằng những căn cứ mà họ đã hết sức xếp đặt trong minh tưởng. họ là những hạng ảo tưởng. họ là những nhà thần học của thiên đường tương lai. sao mà người ta còn đặt ra cái tên "buôn nước"? những kẻ buôn nước phải chăng là những hạng làm quan với giặc? những cao khải, nguyễn thân và lê hoan, những việt gian? không! không! những kẻ nói trên, dĩ nhiên muôn người đều trông thấy rồi. cái tên thần bí đó để đặt cho lũ đầu cơ và hoạt đầu, buôn cách mạng? Ðể đặt cho những quân gian tế của đế quốc lẩn lút vào hàng ngũ tranh đấu chăng? hoặc giả cố nhiên là như thế. nhưng mà chính danh thủ phạm là những kẻ cách mạng thật, làm cách mạng thật mà đầu cơ với hoạt đầu. những con người ấy không có chính kiến nào xác thật, lung lay thỏa hiệp, những con người ấy "vô đảng" (họ tự xưng như thế) mà đảng nào cũng có hết. họ chỉ vì cái địa vị và sống còn không danh dự của họ ra khuấy hôi bôi nhọ mọi việc của cách mạng. họ chỉ nói bằng đầu lưỡi (lưỡi không cuống) và chỉ làm bằng chỉ tay năm ngón (giấu mất cánh tay). họ có thể là hết những cái xấu xa nhơ nhuốc, liếm váy máu của ngoại quốc, không biết ngoại giao của cách mạng mà chỉ chủ trương "ngoại giao đặc biệt" ở hải ngoại. không có một lập trường xác đáng, chẳng có một thái độ trực triệt. Ðiều kiện yêu nước của họ phải là phụ thuộc của những điều kiện cá nhân. chủ nghĩa, thời cơ là thủ đoạn của họ ra buôn bán.

lại những ông xuất dương rồi mới ghê! những đứa do thái không có tinh thần dân tộc đó (xin đừng động lòng, ai có tật giật mình), quanh đi quẩn lại chỉ oai nghi và lừng lẫy ở hai chữ "xuất dương" mà thôi. tất cánh, họ đã học được những gì khi vì dân tộc, vì quốc gia phải vất vả dấn thân vào gió bụi, vượt trùng dương đi cầu lẽ sống cho nòi giống? họ đã học được những gì và làm được những gì? zéro! họ có thể mang nước và dân đi dâng cho một nước ngoài trước khi tranh đòi và khôi phục lại được nước và dân ở tay một nước ngoài. theo đuôi ngoại quốc thì có nhiều, bởi vì theo đuôi cho nên kiến giải của họ không nền tảng mà chẳng bờ bến. Ở đó, gây nên bệnh "thiếu máu" và "thiếu óc" cho cách mạng của dân tộc, cũng chỉ vì đó mà những chia rẽ về lý luận cách mạng chỉ rỗng tuếch, nhưng vẫn ồn ào ra phết ta đây. Ðặc biệt là những anh oắt lâu la cũng ra tuồng múa mép. thế mà làm lãnh tụ thì ai cũng muốn! những ông cụ sống lâu lên lão làng với những tay ta đây tiền tiến kẻ giờ chỉ muốn làm lãnh tụ của Ðảng và tiến lên làm lãnh tụ tối cao của dân tộc. nhưng mà khổ lắm, cá mè một lứa, lại không có óc tốt, không có mắt sắc, không có tay làm, thì làm lãnh tụ cho chết dân tộc à! dân tộc! dân tộc! mồm mồm nói dân tộc, giờ giờ nói dân tộc, nói quá đâm nhàm, cho đến lúc tiếng "dân tộc" thành ra tiếng đầu lưỡi hàng tôm, hàng cá rồi khéo cũng không tha! quốc gia với dân tộc chỉ là một "khái niệm", một tên gọi rỗng không, nếu không sung thực cho nó một cái thực thể ở bên trong. cho nên quốc gia hay dân tộc chỉ là hư danh, cái sinh mệnh thực thể của giống nòi và toàn dân hướng theo một lý tưởng và chính nghĩa mới là đúng thực. bản thể với mục đích của nó như thế mà thủ đoạn để đạt tới những yêu cầu đúng đắn của nó cũng phải như thế. phải nhận thức sâu sắc bằng xung động và lý tính thực tiễn của đời sống lịch sử, thế giới và quốc dân trên nền tảng và điều kiện của hiện thực, suy xét suốt hết muôn đầu nghìn mối, vạch một vạch sống cho dân chúng với đường đi chính trị và lịch sử của quốc dân với dân tộc, chỉ có thế (nói ít cho dễ đi như thế) mới có được một chính kiến xác đáng. thắng nghĩa vì hơn mọi chính kiến, có như thế mới gọi là thắng nghĩa. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 3- sinh sỐng có một mạnh tử nào đó bên tàu đời xưa nói: "trời sắp giáng đại mệnh cho ai, tất bắt người đó óc mỏi, gân nhừ, tim héo, phổi mòn, đủ chiều khốn khổ, bách chiết thiên ma, làm cho người đó động lòng đứng dậy mà lớn lao lên". người nào đi tìm lẽ sống cho riêng mình, nói rộng ra cho một dân tộc, đều phải nan hành khổ hạnh như thế. người đó phải là thắng nhân đã. người đó phải tự thắng mình trên từng bộ phận của mình và từng

cơ năng của sinh mệnh thắng mình đã, cái thắng lợi xiết bao gian nan, yêu cầu biết bao gắng gỏi đã, rồi mới có thể thắng được mọi ngoại vật. người hy sinh là đã hy sinh rồi trước khi hy sinh. chết đi là một việc dễ dàng hơn là đã chết ở nơi tự mình một lần rồi sống lại với thai cốt mới. bỏ tài sản với thân thế, nghĩa là đã tự bỏ được mình xong lâu rồi việc mới thực hiện ra bên ngoài. cho nên cách mạng phải đi đôi với một tu dưỡng của cách mạng mới, khác với tu dưỡng cũ. học hỏi của cách mạng cũng thế, nó phải có một thể hệ đặc biến trong tái sinh của muôn vàn học hỏi. không thể tự an ủi được: cách mạng là thuần thủ đoạn, cách mạng là thuần phản bạn, phạm pháp. cũng đừng nói láo: mục đích chứng minh cho thủ đoạn. thủ đoạn tự chứng minh cho thủ đoạn, mục đích phải ở bên trong thủ đoạn rồi mới đúng. công việc máu phải làm bằng máu, tự máu phải là một thứ máu có những huyết tính thuần túy, tinh thành và tiền tiến, thì thủ đoạn máu mới tự chứng minh cho mình được. thủ đoạn đồng thời phải là bản thân của mục đích, thủ đoạn ấy mới là chân chính. thế thì đời sống đồng chí chứng minh cho thủ đoạn tự thân là mục đích. nhân tài của cách mạng còn ở trong đời sống đồng chí bồi dưỡng lên, vận dụng sẵn những nhân tài chỉ là thứ yếu. nhưng mà, đào tạo nhân tài của cách mạng phải trông vào người đào tạo. người ấy phải chịu khó và chịu biết hết. phải tham gia vào mọi khó và mọi biết của mỗi đồng chí. phải coi mỗi đồng chí là một mục đích của lý tưởng nước nòi. phải bằng hết phương thức, phương pháp và hình thức tùy cá tính, khí chất và đặc trường của mỗi đồng chí mà đào tạo cho một bản lĩnh nền tảng về các mặt lý luận, kỹ thuật và tu dưỡng. ngoài ra, còn phải đào tạo cho mỗi đồng chí một bản lĩnh phụ đặc biệt khác. như thế thì công việc cách mạng không sợ thiếu nhân tài. thế nhưng đố kỵ và lợi dụng thì nhân tài không những thiếu, không có, mà dẫu có rồi cũng hao hụt đi nữa, nói chi đến dân chúng! cho nên lãnh đạo nếu không có một nghệ thuật hay một kỹ thuật, thứ lãnh đạo đó là giả dối. lãnh đạo là tâm thuật. lãnh đạo là mục đích luận hay cứu cánh luận. Ðồng thời sinh sống là sự biểu hiện của tất cả cái huyết tính thuần túy tinh thành và tiền tiến. sinh sống là mục đích luận hay cứu cánh luận. chỉ có sự sinh sống thực tiễn trong đời sống thực tiễn của quốc dân với dân tộc với sự sinh sống thực tiễn trong đời sống lịch sử và tương lai của nước nòi mới trỏ rõ cho chúng ta bằng một ánh sáng rất thành thực và soi suốt một con đường đi chính xác trong cách mạng và kiến quốc. phải nắm giữ lấy sức chủ của cách mạng, điều khiển được sức phụ của cách mạng, kiến thiết và dự liệu một văn minh mới trên cái phương trình thức kỷ hà học của những hình thể tỏ lộ lên từ tâm lý bình diện của quốc dân đến tâm lý lập thể của quốc dân. những thế hệ mới của thời đại trong con đường tân trần đại tạ của đời sống lịch sử dân tộc phải đúng đắn và vừa thời nắm giữ lấy cương vị chủ đạo của mình và gánh vác lấy sứ mệnh sáng tạo của mình, chỉ huy các thế hệ khác bắt đi theo con đường đi của dân tộc. cho nên lịch sử là quyển truyền phả và môn học vấn duy nhất cao sâu cho nguyên tắc lãnh đạo. chính trị là lịch sử ngày nay mà lịch sử là chính trị những ngày qua. thời đại là cuộc sống bây giờ, mà lịch sử là cuộc sống những buổi qua. sự vận hành của hai thời gian đó kết hợp nên và quy định ra con đường của ngày mai sau. Ðồng thời, sự tẩm nhuần tự

mình bằng nghệ thuật sống, cách thức sống và phong vị sống trong giữa thực tiễn của quốc dân là tu dưỡng nền tảng. tất cả những lời nói của dân chúng bằng ca dao, tất cả những việc làm của dân chúng bằng sinh sống đủ để trau giồi hết thảy những mục tiêu nền tảng cho những phương lược lâu dài về quốc phòng, chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, nhân chủng và sinh hoạt của nước nòi. những thú vị của quốc dân biểu hiện ra các chuyện cổ, những sắc thái quốc dân biểu hiện ra trên nền tảng của văn hóa đặc điểm đều là những hình bóng với gia vị cho chúng ta không thể không đầy đủ trong đường trường xây đắp một văn minh "nước vối, áo the và rau muống". phải chăng đấy là những tiêu biểu của văn minh bình dân hết sức ăn rộng và ăn sâu trong sinh hoạt của dân tộc, đi đôi với những lời nói không lời của mỗi xó góc trên giang và của tất cả những động tác nhỏ nhặt trên dòng sóng đáy đều là những tài liệu và phương pháp nghệ thuật của chính trị. nó là tất cả những ý thức và tất cả những cái gì đích xác, chúng ta phải thấm nhuần qua để mà có một tâm thuật vững vàng trên đường cách mạng mới. nó là văn nghệ của quốc dân không lời mà đủ vẻ. cho nên, "lòng yêu với máu đào" của chúng ta dỏ ra vì lòng yêu từ người thân với những con người mà máu chảy ruột mềm đã bén tới, cái máu đào đó dỏ ra để sống và thờ phụng cuộc sống chung, dỏ ra để đấu tranh với quân thù, cùng tẩm nhuần với quân thù trong đồng ruộng của xứ sở qua các thời gian. "bàn tay với đất đai", sức lao động và trí cần cù đem mồ hôi ra trộn với nước mắt của lòng yêu, tất cả để không dứt mở mang đất đai, xây đắp cõi sống, cái đất đai yêu quý đã từng nuôi sống chúng ta, từng để yên nghỉ ông cha và sinh sôi con cháu, cái đất đai mà đầu mày cuối mắt chúng ta đều nhớ, đều quen, đều từng ghi nhớ mỗi cái khổ, cái vui, cái hy vọng, cuộc sống, cuộc chết, cuộc bể dâu của đời đời, nó đã nói ra bao ý nghĩa và gồm bao nhiêu giá trị. "sức nhớ và lịch sử", cái sức êm dịu và gắt gao kia, nhờ nó đã làm nối tiếp đời đời, sức nhớ đó để cho ta có thể sống được không đứt đoạn trên đời sống bản thân và đời sống đời đời. cái lịch sử đã cho chúng ta đầy trí tuệ và kinh nghiệm, lịch sử đã từng đánh thức chúng ta tỉnh lại và nhủ bảo chúng ta tiến lên. "bộ óc sáng tạo", tất cả những yếu tố đó gom góp lại thành một thể sống chung, thể brahma hay thể thánh linh, thể bồ Ðề Ðạt ma cho toàn thể giống nòi trên một dây tự lực sáng tạo truyền thống của dân tộc. những yếu tố đó đồng thời là khởi điểm của hết thảy mọi văn minh, thông qua và trau giồi bởi tính, tình và chí của mỗi dân tộc mà hình thành trọn vẹn mỗi dân tộc văn minh. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

4- thẾ hỆ thời đại dào dạt chảy đi lôi cuốn tất cả các thế hệ tầng lớp theo nhau lên thành tựu bằng một công cuộc thảm đạm của cái tác dụng thay cũ đổi mới. chỉ có thế mới làm nên đời sống hoạt động của thế giới loài người được. những cây cằn cỗi phải trút lá, để nhường chỗ cho mầm mới can đảm chồi lên đầy nhựa mạnh và sống. những quả chín phải nát đi,

để cho những hạt giống nảy nòi lên những nguồn sống mới. mỗi thời buổi, trong dòng sống của lịch sử hoạt động như thế, phải có một tuổi ra cầm nắm lấy sức chủ và làm cán cốt cho đời sống chung hết thảy. tất cả trong thời buổi ấy, những cái còn sót lại cũng như những cái đang chồi nảy, phải dưới chỉ huy của cái tuổi làm sức chủ đó thì xã hội mới khai thông được mà nòi giống mới sống còn được. chuỗi dây lịch sử làm bằng những mắt xích như thế, đời đời ca tụng mỗi thế hệ, dự liệu mỗi thế hệ và hoài điếu mỗi thế hệ. ngày qua phải phục tùng ngày nay. ngày nay phải khắc phục ngày mai, nghĩa là phục tùng ngày mai. cái luân hồi xoáy vòng trôn ốc có nút tết của phật tam thế đó chi phối hết mệnh vận của loài người, như loài người muốn tự mình, vì sống còn của xưa, nay, mai, cả nòi giống thân ái, phải nắm giữ cái luật tắc đó, hợp thời mà phục tòng nó, ở đó sinh ra cái đạo đức với viễn kiến. mỗi thế hệ cũ phải biết thời cơ lui về một bản vị có ích chung. mỗi thế hệ mới phải biết nắm thời cơ tiến lên ngôi báu của thời đại mới mà chỉ huy và làm tròn sứ mệnh mới. mỗi thế hệ dự bị phải thâu tóm hết những trí tuệ và kinh nghiệm cũ; trau giồi cho mình tất cả những điều kiện cần yếu cho nhiệm vụ tương lai của mình, để sắp sẵn ra nối liền dây tiến hóa. nhưng mà nếu loài người không biết tự động như thế, đào thải tất đau thảm và ác liệt của tiến hóa tất nhiên, sẽ cũng bó buộc làm như thế. không ai tránh được luật vô thường; luật vô thường có một phương hướng, một quy tắc với một đường lối rõ rệt của lẽ tiến hóa. lẽ sống là như thế. lẽ thật thuận theo với sự làm trọn luật vô thường đó một cách mến yêu, nhưng có khi vì lòng yêu mến đó mà không khỏi được bất nhẫn. trong thế kỷ xx, nước việt đã trải qua bốn thế hệ người, mỗi thế hệ có mẫu mực đặc sắc, nó đánh dấu cho sự tiến hóa tất nhiên của nòi giống qua từng giai đoạn nào. lấy năm 1940 đây mà nói, những vị già nua vào hạng cha chú chúng ta từ 50 tuổi trở lên, không còn dư địa làm chủ được thời đại nữa. nhưng các anh chị chúng ta từ 30 tuổi hơn cũng không thích hợp và có viễn kiến, cái viễn kiến có nền tảng đích thực để mà ra dẫn dắt cho được đời sống mới và khó khăn này trên một văn minh mới và phải sáng tạo cho dân tộc được. còn những người của ngày nay, nghĩa là 30 tuổi trở lại, 16 tuổi trở ra, đấy chỉ là những nút chuẩn bị và liên lạc cho một thời đại việt lớn lao lên và sung sướng lên trong máu xương và đau khổ, hạng này là nền tảng của văn minh mới. nhưng mà chủ nhân chân chính của văn minh vạn thắng mới của việt là những con em chúng ta 16 tuổi trở về. họ sẽ đứng lên oanh liệt và chỉ huy sáng suốt được lịch sử dân tộc về tương lai. những con người của 40 đâu! xúm nhau lại thành một sức lực, góp nhau lại thành một trí tuệ, khơi mở đường đi cho giống nòi. chung quanh những con người của thế hệ đó, tất cả các tuổi phải cúi đầu phục tòng sự chỉ huy nghiêm khắc, dũng cảm và sáng láng của thời đại. trái lại, tức là phá hoại sự tiến hóa chân chính của tổ quốc với tự nhiên, sự phá hoại

đó sẽ dẫn khởi một đãi lọc đau đớn mà thôi hết. những người của 40 phải là những thắng nhân. những người của 80 sẽ thong thả hơn, sung sướng hơn, lớn lao trên ánh sáng của 40. họ thừa hưởng cuộc phục hoạt sau 1.000 năm cờ lau mà những người của 40 phải gánh vác tất cả những nặng nề và hy sinh. nhịp kèn của thế hệ 40 thổi. một thế hệ ngày nay đã chuẩn bị xong xuôi. một văn minh của vạn thắng mới ngày nay đã cấu tưởng, chỉ còn đợi giờ thực hiện lớn lao. một cuộc đổi đời bằng sắt, máu, lửa để nung nấu tất cả những con người của 40 thành kim cương thắng nhân đứng lên cao cả và oai hùng cầm cành lau dẫn thời đại và người đời đi, đi đến một cõi mới. tất cả các thế hệ sẽ kinh ngạc, sợ hãi, khâm kính và phục tùng đi theo, hết lòng ủng hộ cùng làm việc lớn. văn minh mới này chỉ là sự phục hoạt và tái hiện lớn lao, người ta hình tượng bằng lý tắc của totem quan để tượng trưng cho lịch sử việt một ý nghĩa với giá trị để mọi người cùng hiểu được. văn minh mới này trong thế kỷ nung nấu đã chín, dung đúc đã thành. một trăm năm nay từ trải qua cố thủ, thỏa hiệp, hấp thụ, dung hòa, bây giờ đã đến kỳ phản tỉnh mà sang sáng tạo. nhưng mà, cố thủ, thỏa hiệp, hấp thụ với dung hòa, người ta trên một bộ phận trên của kiến trúc thượng tầng chỉ có làm những việc quá tầm thường và nông nổi, trằn trọc giữa văn hóa Ðông với tây, hán với pháp. những việc mặt tầng đó, những thế hệ cũ cố nhiên chỉ có biết đến đó mà làm, nhưng mà chỉ có thế, chỉ có những cặn bã đó sẽ lọc và mới nổi lên mặt tầng. công việc lớn lao đáng để ý nhất trong kiến trúc của các thế hệ quả là công việc đáy tầng xây đắp lấy cái công cụ và ý thức (tiếng, chữ nước) nòi giống nung đúc, mài gọt, nay tạm đã có một nền tảng. cái nền tảng đó phải có chính trị độc lập mới làm cho nó thực vững vàng được, và thật có ích để xây dựng một văn minh việt thật việt được. dung đúc tuyệt không trọn vẹn, dung đúc trừ phi có phản tỉnh mới đi đến sáng tạo chân chính. phản tỉnh nghĩa là đem hấp thụ với đồng hóa về cơ sở của dân tộc cho thông qua dân tộc hình thái, lấy dân tộc làm lý tưởng, mục đích, phương pháp và thủ đoạn để mà sáng tạo một văn minh. thế cho nên, cuộc vận động pétain ở nước nhà có phải là cái để mà bông lau ca tụng đâu? cuộc phản tỉnh này dĩ nhiên có một ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp vào ý thức thành niên mới, dự bị cho cuộc phản tỉnh chân chính chỉ có ngấm ngầm trong đáy tầng chưa bùng nổ, sửa soạn tâm điệu của mọi thế hệ cho có một phương thức ít nhất để tiếp thu lấy văn minh thắng nhân là một trẫm triệu nổi bật cho những ai còn mê chưa thức biết, là đêm trừ tịch của cuộc xoay vần lịch sử lớn lao trong dân tộc. dĩ nhiên như thế, nhưng mà nó chỉ là một thứ tiến bộ lom khom và nhút nhát, còn đội mũ cánh chuồn; nó không đứng dậy thẳng, nó cũng không đi lên mạnh, nó không phản tỉnh cho đến đáy, nó không phản tỉnh bằng chiến đấu, nhưng cũng cứ tính cho là một cuộc phản tỉnh. nó phải phụ thuộc cho cuộc phản tỉnh vô hình trong đáy tầng, đáy sử và đáy hồn, cuộc phản tỉnh chân chính đã thành thục sẽ đi lên, một sáng tạo lớn lao, suốt mặt đến đáy và hướng thượng của thắng nghĩa mới. Ðấy, những con người Ðáy của 40. và là hồn của 2.000. có một ngày, những con người ấy sẽ đứng dậy tất cả. nòi giống việt sẽ lớn lao lên.

Ðã sống lại. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 5- cÔng viỆc những con người 40 sẽ làm việc cho thời đại 2.000. công việc lớn lao của thế hệ ấy sẽ vạn thắng. những con người ấy sẽ từ cuộc cứu lấy nước, giữ lấy nòi, tiến lên sáng lập một thể hệ sống và một văn minh mới thực lớn lao, bền vững, sáng sủa và sung sướng. người ta sẽ bằng một thủ đoạn cách mạng, phối hợp với một trí năng sáng tạo thành tựu công việc của lịch sử suốt mặt đến đáy và hướng thượng. chỉ những con người đó trong sự làm thực mới thể nghiệm ra đầy đủ những ý nghĩa, giá trị và công năng lớn lao của những công cuộc cách mạng. phải coi xét nó bằng tất cả lý tưởng, mục đích, phương pháp và thủ đoạn của nó thành một thể trọn vẹn không xé lẻ, không sai khớp và đầy huyết tính. chiến tranh là cuộc đổ máu đầy ý nghĩa. chiến tranh đã quyết định được hết vận mệnh của người mặc dầu người đầy nhút nhát, ươn hèn và sợ sệt chiến tranh. chiến tranh bắt thời đại đi vào những con đường mà thời đại ngại ngùng, do dự mãi không dám tiến vào. chiến tranh còn là thời cơ sống chết, nghìn năm một dịp của những ai bị đè nén và áp bách mong chờ. nó để cho mình một thuận tiện. cho nên, lấy vũ lực ra cứu quốc nghĩa là đem sắt, lửa với máu ra tranh đòi lấy chủ quyền, cái chủ quyền của tự mình được tự do, dùng ý chí của mình đối với đất đai, dân chúng, việc làm, đường đi và vận mệnh của tự mình. không đổ máu tuyệt không mong xoay chuyển được thời đại. máu biết nhớ đến chúng ta, không lo sợ, nó sẽ đền bù hết cho chúng ta. máu có thể mang thay cho tầu bay, tầu bò, xe hơi, đại bác và súng gươm. nói thế nghĩa là một khi có cái máu nóng, sáng suốt và mạnh mẽ, tất mọi việc đều thành công với cái vĩ đại của suốt mặt trận đáy tầng dân tộc suốt nơi một lúc cùng nổi lên tranh thủ bằng mọi thứ. giữ gìn lấy nòi giống còn yêu cầu chúng ta phải dùng mọi hình thức đấu tranh để mà đạt tới mục đích. không có cái mục đích đó thì sự cứu nước thiếu hẳn đi một phần lớn lý tưởng. tất cả trăm việt phải trở về hoài bão tiên rồng cũ, trên một tổ chức thỏa đáng nhất, nó làm khuôn mẫu cho hết thảy "nhân đạo chủ nghĩa". chính nghĩa tự xưa phải giả định là có. thế nhưng mà bao giờ chính nghĩa đều vẫn bị lợi dụng mà không được thờ phụng và được nghe theo. những hẹp hòi và kiêu ngạo của những dục vọng phá hoại hết nền tảng sống còn của phải trái với thiện ác. cho nên, muốn sáng tạo được thế giới mới, cho hòa bình lâu dài quyết không thể không thanh toán cho sạch những nợ máu, nhục máu, hút máu, tiêm máu từ xưa trên lịch sử nếu có thể được để mà có thể kiến lập được lý tưởng đó. nếu không, trên bản vị của tự mình phải đòi lại lấy "chính nghĩa" cho tự máu mủ mình, gột, lọc, rửa những "phi nghĩa" trong tự máu mủ mình đi.

Ấy thế mà đời dân chủ phải trọn vẹn xây dựng nên để xúc tiến một cuộc tiến hóa vượt bực. cuộc tiến hóa vượt bực chỉ có thể thực hiện được trên nền tảng của dân chủ chân chính. phải thiết thực và đúng chắc rằng dân làm chủ, dân phải làm chủ hết thảy cơ hội, nghĩa vụ và quyền lợi của đời sống tự mình, phải làm chủ được ý chí và chế độ của tự mình thật chân chính, phải có căn cứ và chuôi nắm. cái chuôi nắm chân chính của nền dân chủ thực phải ký gửi trong nền tổ chức cỗi gốc của tự dân chúng sẵn có và có thể vận dụng được, phải tự có hết thảy then chốt và thìa khóa trong đáy tầng, để mà tự động thực hành lấy vô luận một điển hình dân chủ nào bằng tất cả các điều kiện. thế nào là dân chủ thật và đúng lại vững? nền tổ chức cỗi gốc đó phải do dân chúng tương hỗ lẫn nhau dùng các hình thức hỗ trợ và hợp tác về mọi bề, mọi mặt của sinh hoạt từ kinh tế đến chính trị, xã hội, văn hóa, pháp luật. chủ nghĩa vô chính phủ không thể thực hiện được, nhưng tinh thần của nó phải thấm nhuần vào dân chủ việt nghĩa là vào một nền dân chủ nào có thể chân chính dân làm chủ được. có thế tiến bộ mới được bình hành, có quy tắc, có kế hoạch và nắm giữ được hòa bình, cơm áo, tự do và bình đẳng. cuộc tiến hóa phải sáng suốt, tự động, kỷ hà học và nhân loại, có thế cuộc tiến hóa mới xứng để cho chúng ta xướng đạo được. phải thành lập cuộc tiến hóa như thế của thắng nghĩa, gọi là tiến hóa việt, tiến hóa không có ép uổng, không có ý thức chuyên chính. bất cứ lối chuyên chính nào đều không chân thật làm nổi được tiến hóa sáng suốt, tự động, bền giai, kỷ hà học và nhân loại. Ðể xây đắp thể hệ sống, trước hết tính đến cần lao. những con người 2.000 sẽ vất vả mà không thấy khó nhọc, nhễ nhại mà không cảm thấy uể oải. họ quên tất cả; sự cần lao ấy chỉ là biểu hiệu tối cao của huyết tính nóng sôi trong máu người việt cảm chiêu bằng nắng viêm. sự đấu tranh chân chính nhất là cần lao, nó sinh ra sáng tạo, sáng tạo hết thảy một văn minh mới; huyết tính sinh ra sáng tạo mà bằng phương thức cần lao. người việt mới của thời buổi 2.000 tự thể nghiệm lấy thật thiết đáng. tất cả tâm, thân đều cống hiến cho tương lai muôn, nghìn thuở. họ nhẫn nại nhưng mà hùng hồn, họ bi tráng, họ quên hết họa chăng cả mình mẩy chỉ còn là những mạch máu của lịch sử thức tỉnh chảy dồn dập, dạt dào, sùng sục: cả người đều tẩm nhuần cái ánh sáng thiêng liêng đó, nó dẫn dắt cả một nòi giống lên lớn lao. suốt nơi và mọi lúc đều như thế cả; họ sẽ làm cho lịch sử và thế giới kinh ngạc, kính phục và sợ sệt. họ sẽ thắng hết những thất bại của lịch sử và tâm thân. họ sẽ thắng hết nợ và nhục. họ thắng vũ trụ và loài người. những người 2.000 vạn thắng. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

6- giÓ ÐÁy cùng một luật tắc như trong sự tân trần đại tạ, các thế hệ, các tầng cấp dần dà và lần lượt hết mỗi tác dụng chủ đạo của mình trong đời sống quốc dân để nhường bước cho mỗi tầng cấp mới. những cuộc cách mạng dân tộc trên sử việt, những cuộc cách mạng nào đã chân chính làm đạt được nguyện vọng của dân chúng và làm được đúng đường đi của nòi giống, đều chỉ đo bằng mỗi thế hệ thực tiền tiến và những tầng cấp thật đa số mới đủ sức và trí viễn kiến và dũng cảm, đủ huyết tính ra gánh vác công việc lớn lao của thời đại trao cho. chỉ có thế hệ thực tiền tiến mới đủ đại biểu được tương lai. chỉ có tầng cấp thật đa số mới đủ đại biểu được dân tộc. tương lai tỏ lộ trong óc mới của thời đại và viễn kiến. dân tộc tỏ lộ trong sinh mệnh thực thể của toàn dân và chính nghĩa của kiến thiết. tiến hóa là làm bằng hai nền tảng điều kiện đó. cách mạng chỉ tìm được trong hai điều kiện đó một nền tảng và đường đi lịch sử, chính trị đúng chắc và tất thắng. thế hệ của thanh niên và tầng cấp 98% của quốc dân việt chính là đáy tầng dân tộc việt. thanh niên bị giày xéo dưới sức nặng của các thế hệ và quốc dân bị lấp láp dưới xây đắp của các đặc quyền, chỉ có thế hệ ấy với tầng cấp ấy chân chính là đáy tầng việt, tức là sức gốc của việt. làn gió phục hưng dân tộc và thời đại không thổi trên mặt tầng, trái lại chỉ thổi dưới đáy tầng để cuốn dậy làn sóng đáy. những gió ấy và sóng ấy duy nhất có lực lượng để lật đổ hết thảy những thứ gì trên mặt. làn gió đó là làn gió hồn và làn gió sử. Ở trong đáy lòng người, nó là gió lòng. sự thống trị của dị tộc thành lập ở sự bàn cứ trên mặt tầng với sự thỏa hiệp của đặc quyền. mạch máu và tâm hồn của nòi giống vì đó tránh mặt tầng và đặc quyền mà trở về đáy gốc. sự thống trị của dị tộc thành lập trên sự cằn cỗi của nòi giống. mạch máu và tâm hồn của nòi giống vì đó tránh hết cằn cỗi mà chìm xuống đáy rễ để nùng nục lên những chồi mới. làn gió đáy thẩm thấu suốt đáy tầng của dân tộc. người của 40 làm việc cho thời đại 2.000 đều đã được thấm thía, cảm thấy một cách sâu sắc và ghê rợn, họ đều rùng mình, và trong sức giác ngộ lớn lao, họ đã đứng dậy mạnh mẽ đến vô địch. tự tay họ, họ sẽ mở rộng thời đại và sáng rọi văn minh. thời đại với văn minh phải tìm lẽ sống với lẽ thật trong những nguyên lý bản thân của sinh mệnh và việc làm. sinh mệnh là tự thể. thời đại chỉ là sự kết thành của sinh mệnh. việc làm là sự giao hỗ phức tạp giữa tự thể với vũ trụ. nếu muốn đạt tới mỗi hình thái và phương pháp của văn minh nào mặc dầu, chỉ có thể tìm trong việc làm của sinh mệnh những lẽ thắng. việc

làm là biểu hiện của sinh mệnh ra bằng hết cả sức lực vật chất, kết quả hình thức với hiệu dụng mỗi màu, mỗi vẻ cùng tất cả những duyên quả chằng chịt lại của vũ trụ và sử. tất cả tóm lại là thực hiện. toàn thể chúng sinh hướng theo một lý tưởng và mục tiêu chung để tiến tới trong đường trường của thực hiện đó, cạnh tranh nhau, đãi lọc nhau và tiến hóa lên. chỉ có những nòi giống không dày công sinh mệnh với đủ pháp, việc làm, mới chịu lùi bước, bị đè nén và chìm vào diệt vong. làn gió đáy đã nổi dậy thức tỉnh mọi người bằng những cảm giác đó mà thôi, những cảm giác ấy, nói tóm lại là thắng nghĩa. làn gió đáy mang lại thắng nghĩa. không gì thổi réo rắt, nghiến rít bằng làn gió đáy. nó như thổi hết thảy 5.000 năm, tất cả những hơi lạnh người chết và hơi rợn linh hồn của toàn thể thiêng liêng chồng chất trên thứ bực của tiến hóa, đem dồn dập lại mà đánh úp một thế hệ chúng ta. gió ấy như một chiếc roi thép quất chúng ta dậy, đau buốt tới xương tủy, thấm tận đáy hồn dân tộc và đáy lòng mọi người. sự phục hưng ở đó mà ra, làn gió ấy tự ở đáy sử mà thổi, sẽ lôi cuốn hết đáy tầng, đoàn kết lại một mặt trận gốc. chúng ta sẽ phản tỉnh lại và tự hỏi: "trải 5.000 năm nòi giống chưa bị diệt vong, phải có một lẽ gì? và phải có việc gì để mà làm?" chỉ có những người ở dưới địa ngục mới thực nghiệm thấy cái đau khổ của nòi giống và chúng sinh, người ấy sẽ phản tỉnh mà tìm tòi cái lẽ thực của đau khổ. chỉ có người ấy mới thực được giác ngộ với ánh sáng lớn lao của trí tuệ cảm chiêu. chỉ có người ấy mới thực nguyện ra cứu vớt nòi giống và chúng sinh. chỉ có người ấy làm được việc lớn bằng một sức sinh mệnh lớn lao cảm tự đáy hồn để mà hoàn thành cái đạo lớn cho loài người. Ấy thế, lẽ sống và lẽ thật của phục hưng là như vậy. những con người của 40 là những con người của cái thế hệ và tầng cấp việt đáy tầng tự ở dưới áp bức đen dày và nặng nề mà lớn lao lên, cởi mở hết xiềng xích cho mình và phá tan hết những màn tối, quét sạch hết hôi tanh và đánh chết hết thù địch. những con người ấy vì tổ quốc việt. tổ quốc việt chỉ là một tổ quốc đáng yêu, đáng kính, khi tổ quốc việt chân chính biểu hiện được lẽ sống và lẽ thật, tất cả lý tưởng và chính nghĩa. những con người ấy sẽ thực hiện tự mình, xã hội và dân tộc bằng tất cả những hương hồn và chính khí mà làn gió đáy mang đến cho tức là nhân cách và danh dự. làn gió Ðáy thổi. x.y. thái dịch lý Ðông a 4822 tuổi việt (1943) x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) ------------

v- hỠi Ơi! tÂm lÝ thẦn linh hỌc 1-ÐƯỜng sỐng vÀ ÐƯỜng biẾt trang tử nói: Ðường sống có bờ mà đường biết thì không bến, cho nên tìm biết là tìm chết. thế nhưng mà thực ra từ mặt cá nhân cho đến suốt mặt loài người, từ cổ tới nay, có biết mới sống được, biết là tất yếu của sống. sống với biết là hợp nhất. cho nên quan hệ của sự sống với sự biết có thể phân ra ba điều mà nói. biết là cái trục của sống. descartes nói: "je pense donc je suis". nhưng ta có thể nói: tôi sống vì tôi biết. biết là công cụ của đời sống, đồng thời là nền tảng và yểm hộ của sống. phạm vi của biết đó là phạm vi của vũ trụ. biết đến đâu tức là vũ trụ đến đó. biết thẩm thấu vào cái thái cực nhỏ (infiniment petit) cho đến thái cực to, cho đến cái vô cực. phạm vi của sống khai tịch và phát triển theo thủy chuẩn của biết, lịch sử đã chứng minh như vậy. cố nhiên hoàn cảnh và kinh tế xúc tiến cái biết, nhưng mà cái biết phải lãnh đạo hoàn cảnh và kinh tế, lý luận phải lãnh đạo thực hành, mà thực hành phải xúc tiến, chứng minh và tu chỉnh lý luận. có những hạng người cần biết mới sống được. biết là cứu cánh ý nghĩa của nhân sinh. có biết mới có khả năng sống được thực tế, nghĩa là sống trong cái chân ý vị dồi dào của đời người. miệng núi fuji-yama đã từng nuốt sống mấy trăm thanh niên nhật bản. những người đó vì lý tưởng của cả cái quốc gia non nớt của họ, vì cái phương châm đời sống của họ, đã vì cái chưa biết, cái không biết được, vì cái ám ảnh của triết học tối cao, đem vùi thân vào cái chưa biết được để tìm tòi và an ủi. cho nên cái biết của loài người nói tóm lại có thể chia ra ba phương diện: a. cần biết về nguyên thủy: a) cái căn để của trời đất, tự đâu mà sinh, nghĩa là tìm cái tối viên mãn, cái tối thái sơ, cái tự kỷ nguyên nhân (la cause en soi) nó hoàn thành vũ trụ. b) cái căn để của sự vật, ở đâu mà đến; nó là vật, nó là tâm, nó là lý hay là lực? c) cái căn để của tự mình, cá nhân và nhân loại từ đâu mà có, ở đất bùn nặn nên hay tự tiến hóa nội tại? b. cần biết về cứu cánh: a) cứu cánh ý nghĩa của nhân sinh: sống để làm gì? b) cứu cánh giá trị của nhân sinh: sống với ý vị gì? c) cứu cánh y quy của nhân sinh: sống gửi thác về, biết đâu là quê ở? c. cần biết về chân tướng:

a) chân tướng của tự mình: nhân thân tiểu thiên địa, mâu thuẫn đầy dẫy, nào biết cái chủ ngã ở nơi đâu, biết lấy cái gương nào mà soi thấu? b) chân tướng của sự vật: xã hội với tự nhiên hỗn hỗn, mang mang, phức phức, tạp tạp. c) chân tướng của chân lý: mịt mịt, mù mù, lấy đâu làm tuyệt đối? loài người bởi để yên định sự sống của mình trong vũ trụ, cá nhân, xã hội, không thể không đi tìm cái tuyệt đối, cái nhất định của ba phương diện biết kia. cái công việc lập tâm cho trời đất, lập mệnh cho nhân sinh, kế vãng khai lai, tức là ở nơi tìm cái chốt trục của trung tâm vạn vật, lấy cái đó để giữ vững mặt trời với địa cầu, bởi loài người phải tin mãi rằng có tìm thấy cái đó mới tránh khỏi hủy diệt. Ðông tây kim cổ, nho thì cần biết tính, biết mệnh, tri chí, tri chủng. phật thì cần minh tâm huấn tính, đại giác, tự giác. lão thì cần học tiên tu đạo, trường thọ, tồn chân. gia tô thì cần thánh linh mặc khải, thể nghiệm chúa trời. rồi ra cái biết của loài người đi từ tuyệt đối luận (dogmatisme) đến vô tri luận (agnosticisme) cho đến kinh nghiệm luận (pragmatisme), hoặc giả vô thần (athéisme), hữu thần (théisme), phàm thần (panthéisme), hoặc giả duy tâm sử quan, duy vật sử quan, duy sinh sử quan, ba bề bảy mối. than thay thanh niên! đời như hoa xuân mới nở, lòng như hạt móc ban mai, vừa bước chân ra khỏi cửa nhà, xa nơi gối mẹ, vội cảm thấy bốn mặt xoay vần, đường đi sai lạc, bởi muốn tìm cái sống ở nơi tự mình cho nên khổ vì muốn tìm cái biết. dù sao sống nghĩa là bả ác được tự mình. hãy nên tự giác (connais-toi toi-même). hãy tự kiến lập lấy một sinh mệnh hệ thống, lấy cái chủ ngã tối viên mãn ở trong nơi tự mình, làm tối cao thống súy cho tự mình. herriot nói: "la connaissance cest ce qui reste après quon a tout oublié"! biết nghĩa là cái gì còn thừa lại sau khi người ta đã vứt quên những cái khác. cái gì còn thừa lại? ta (moi-même). x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 2- thẦn linh vÀ tÂm lÝ Ðầy dẫy những hạng trụy lạc trong mê say, lạc ngũ trong tranh đấu, thất vọng trong tình đời, hối hận trong hành động, đắm đuối trong bến mê, những hạng ấy nhiều vô kể, nhất là trong đội ngũ những trẻ trai tự nhận nhầm là có trí thức. những hạng ấy bao vây bởi tối tăm, cùng khổ mà trở về mình, gục đầu trên cái hình hài cũng tối tăm của mình. hãy tưởng tượng một cái xác chết đầy những ròi nhung nhúc không ghê tởm bằng, không đau thảm bằng trông thấy những linh hồn rữa nát và cáu bẩn bởi những ám ảnh mà quốc gia dân tộc ta dầu cho muôn vàn xâm lược giày xéo cũng không đáng kinh sợ, cũng không đáng thất vọng bằng trông thấy những thanh niên yêu quí của ta bị xâm lược, bị thống trị, bị bóc lột, bị áp bách, bị hình giảo bỡi những bóng địch tối tăm. họ tự chết dần trước khi chết, nghĩa là quốc gia dân tộc ta cũng đi với họ mà

chết dần dần, ngắc ngoải một cách đau đớn, ê chề, trước khi diệt chủng. Ðối với thanh niên sẽ phát sinh vấn đề thần linh với tâm lý. Ðáng lẽ ra một người dân khỏe trong một nước khỏe, thì trên nền tảng sinh lý là tầng tâm lý vận dụng rất linh hoạt. nhưng mà trên mặt tầng tâm lý của họ sẽ nẩy nở ra vô số những sức lực gì vô chất và kỳ quái, những hình ảnh gì vô căn và dữ tợn; ở đấy họ thấy cái tâm lý của họ chỉ là một bộ máy lệ thuộc cho một cái gì vô hình mà gọi là thần linh. bản lai thần linh với tâm lý là một thể sống tối viên mãn, gọi là như lai tạng (lăng nghiêm kinh) tóm góp lại bằng những tất cả nhân tố tối tinh hoa của các plan physique, mental và astral hợp thành một tướng (système) bao gồm vía, phách, lý trí và đạt ma. tâm lý cơ cấu đã kiện toàn thì nhân cách sẽ thống nhất, cái sinh mệnh hệ thống sẽ không phân chia, mà cho ta một đời sống xán lạn. còn những hiện tượng hồi cố ví như réminiscence, ví như mạt na thức của nhà phật, nó chỉ là những tăng tục tính tích lũy trong cái quá trình sống còn của cá nhân với xã hội theo cái bước đi lũy tiến của lịch sử và hoàn cảnh. vậy thì những sức lực và hình ảnh kỳ quái trên kia, đó là tâm lý bệnh. nguyên lai của bệnh đó chia hai phương diện mà nói: a) hoàn cảnh suy lạc của quốc gia, xã hội, gia đình và tự kỷ trong cái thời đại thực dân, và kinh tế phá sản này. b) giáo dục và bồi dưỡng thuần túy trong cái khuôn khổ tiểu thuyết khiêu dâm, lãng mạn, bi quan, yếm thế, hành động trụy lạc và đắm đuối, quan niệm sai đường và ái tình vặt. còn những nguyên nhân trực tiếp từ nơi tâm lý hủy hoại: a) phản tưởng (arrière pensée) làm cho người với người ngờ vực nhau, làm cho tâm cơ càng phức tạp và ranh mãnh. b) hắc tưởng (pensée noire) càng làm cho tối đen tinh thần sinh hoạt và càng làm tê liệt cho vật chất sinh hoạt. c) Ảo tưởng (chimère) làm cho thanh niên sống say, chết mê, bàng hoàng, như hồn bướm mơ tiên, sống một cuộc đời nửa chừng xuân dằng dặc. những người đó gần như hết là tự hoại, tự diệt, tự nhơ mình mà làm nhơ cả quốc gia. chỉ có những hạng người ấy, hơn ai hết tự tư, tự lợi, không hy sinh nổi cá tính, không hy sinh nổi cảm tình, vì thân họ là thân nô lệ của những sức lực vô chất, với những hình ảnh vô căn, kỳ kỳ quái quái. họ không phải là con đẻ của tổ tông ta, họ không phải là chiến sĩ của thời đại, không phải là phần tử của quốc gia, xã hội, dân tộc. ví như tôn văn đã nói: "người là cái khí cụ của tâm hồn, nước là do người góp chứa nên, quốc gia còn mất, thịnh suy, là trông vào lòng người phấn chấn hay ủy mị". những bệnh chứng của họ có thể phân chất ra như thế này: a) Ám ảnh cáu bẩn như sức ma vào tinh thần, sức quỷ dẫn dụ đưa dắt, trói buộc và hình giảo, không cho họ sung sướng, mà chẳng cho họ hối hận. fran篩s ii kêu: "que de sang! que de sang!" trong một cuộc ngắc ngoải khổ não. ngô tôn sách chết với vô vàn bóng ma vu cát.

b) thắc loạn: (tức là các thứ manie) có cái manie đi ăn trộm, có cái manie giết người như ngọa triều bên ta, có cái manie là cho thơ thơ thẩn thẩn. c) tự sát: đừng cho người tự sát là can đảm hay nhút nhát; nó chỉ là những hy sinh phẩm của tụi quan ôn thần kinh bệnh. làm sao mà họ mắc mà không biết, biết mà không chữa, chữa mà không được. họ tiêu cực đối chọi với hoàn cảnh, đổi không khí, họ bị dẫn đạo bởi ánh sáng, cái ánh sáng thảm đạm và lạnh lẽo của chúa diêm vương vô tình. Ôi nihil! ôi nihil! hư vô là hư vô, hư vô là cái vực âm thầm và không đáy. xét cái tinh thần của người ta, cá nhân và xã hội không ngoài mấy tác dụng này: 1) tiềm di mặc hóa: dần dà vì ảnh hưởng xung quanh. nước suối trên non thì trong, nước suối xuống đồng thì đục, từ cái lành sang cái ác chỉ cách một tóc một tơ. 2) tự kỷ ám thị (autosuggestion): một vài ý nghĩ ấy tự trói buộc mình cũng đấy mà tự bồi dưỡng mình cũng đấy. 3) tinh thần thôi tróc (somnambulisme): có những thầy phù thủy cao tay đánh đồng thiếp, nhưng mà không cứ, có nhiều phương thức mà nhiều nhà chính trị cũng dùng tới để bóp cổ nhân dân. cho nên ta xét thấy những hạng người kia, muốn tự chữa mình, mà cũng chỉ có thể tự mình chữa lấy được mà thôi, thì hãy cố tâm trầm tiềm duồng dẫy hết thảy những cái bậy bạ của thiên mệnh tiền định luận dung tục (déterminisme). hãy co kéo nó về. nó là ai? ta (moi-même). cho nên người ta muốn chữa cái bệnh thần kinh này thì thờ mấy chủ nghĩa: a) tự do ý chí: muốn, làm, biết tự do, đó là chân tự tại, chân giải thoát. b) tự kỷ ám thị: cái thiên căn của trời đất với cái thiên căn của tự mình, ở nơi một lòng tín ngưỡng chặt chẽ nhất (la foi, credo), tín vi đạo nguyên công đức mẫu (hoa nghiêm kinh). người đã kiến thiết cái lòng tin này, ta bảo đảm sẽ thành vĩ nhân. napoléon, alexandre le grand, jésus christ, mahomet, phật, lão, khổng, gandhi, hitler chẳng qua là những người làm bằng cái lòng tin đó. c) Ðộc lập độc hành: không phải là cá nhân anh hùng chủ nghĩa, không phải ưu thế thanh đàm chủ nghĩa, chỉ là sự cố gắng lớn lao, của một người trong những người, chỉ là sự cố gắng ở nơi tự mình. thiệu tử nói: "thánh cũng chỉ là người, nhưng đấy mới thật là người". biết thì ai cũng biết cả, nhưng biết chân thật mới là biết. ta còn dặn thêm mấy nguyên tắc đề phòng bệnh thần kinh: a) cẩn thận khi một mình, một mình đối diện với lòng, đừng để cho ý dục sai khiến. b) cẩn thận khi mới đầu. tưởng Ủy viên trưởng nước tàu nói: "cùng lý ư vạn vật, thủy sinh chi xứ, nghiên cơ ư tâm ý sơ động chi thời".

c) cẩn thận từng cái nhỏ, những cái mấp máy của lòng, tâm tâm niệm niệm, xem xem, niệm ma hay niệm phật, lỗ kiến vỡ đê, mồi lửa cháy thành. phàm cái gì lớn lao và những cái tối trường cửu, đều gốc gác ở những cái nhỏ. thôi đừng tự kỷ tác quái.câu phương ngôn nói: "dương thịnh âm suy, máu xấu ma làm, nước suy quỷ hiện", có đúng hay không đúng? x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

3 – hoÀn cẢnh vỚi ngƯỜi ta từ tối cổ tới giờ có thể chia lịch sử loài người ra làm ba thời kỳ; sự thành lập của mỗi thời kỳ đó đặt để trên những nền tảng xã hội với điều kiện kinh tế, văn hóa quy phạm, với thực học thủy chuẩn nhất định: thời kỳ thứ nhất là thời kỳ thần học, thời kỳ thứ hai là thời kỳ triết học, thời kỳ thứ ba là thời thực học. Ðó là theo cách chia của auguste comte. nếu chia theo weber hay hobhouse thì loài người từ tối cổ đến bây giờ có thể chia ra làm năm thời kỳ: dã man, nông nghiệp, trung cổ, quá độ thời kỳ và văn minh. chia thế nào thì chia, tổng chi ta được một kết luận là bất cứ ở thời đại văn hóa hay lịch sử nào, cái tối cao nhiệm vụ của nó là kiến thiết con người, mà con người quy phạm là sản vật hạn định của thời đại, văn hóa và lịch sử. thời đại, văn hóa với lịch sử đó là cái hoàn cảnh lũy tiến của loài người mà tự nhiên với xã hội là những hoàn cảnh không gian bất di bất dịch. cho nên biết hoàn cảnh bao vây, quy định, làm sống hay tiêu diệt mỗi người là tùy theo cái bản thân năng lực. ta thấy hoàn cảnh của mỗi người có thể bao gồm bào thai hoàn cảnh, tự nhiên hoàn cảnh, xã hội hoàn cảnh, giáo dục hoàn cảnh, thời đại hoàn cảnh. hơn nữa, ta thấy ngoài những hoàn cảnh ngoại tại, còn những hoàn cảnh nội tại bó chặt ta hơn, như thanh, hương, sắc, vị, sức, ý, với lại tai, mắt, mũi, mồm... há chẳng phải là những thứ lục trần, lục thức như nhà phật đã nói: "đã mê dụ ta, đã khốn quẫn ta, đã tiêu diệt ta nữa". bất quá lịch sử là sự biểu hiện toàn bộ cái ý chí sinh tồn và cái ý chí thực hiện của loài người. ta thấy rằng loài người bằng những công cụ siêu việt là: óc, tiếng nói, tay... vận dụng những công năng siêu việt là lao động, sáng tạo, cải tạo, tự kỷ và hoàn cảnh, nối tiếp vật lộn để đạt tới cái trình độ văn hóa như ngày nay. thần linh với tâm lý, nếu ở trong một con người không có một sinh mệnh hệ thống vững bền và thống nhất, thì thời đại, văn hóa với lịch sử hết thảy những sản phẩm của nó đều biến thành những sức lực vô chất và những hình ảnh vô căn đến xâm chiếm và nhiễu loạn ta. mỗi tiếng nói, mùi thơm, màu sắc, vị ăn, ý muốn luôn luôn lẩn quẩn thành những quân thù địch vô hình muốn làm hại mình thôi. cho nên sống nghĩa là chi phối một phần nào

cái hoàn cảnh; luật tắc khoa học đã quy định xã hội đã chi phối từng người, nhưng mà ý chí từng người trái lại có thể chuyển biến được xã hội. nhân định thắng thiên, sự phát hiện được cái phạm trù người là một công cuộc tối vĩ đại của triết học đời phục hưng (renaissance) bên tây và đời xuân thu chiến quốc bên Ðông. thanh niên ta ngày nay, châm đối hoàn cảnh khó khăn của dân tộc và cái nhiệm vụ khốn khổ của thời đại, trước hết phải phát hiện được cái phạm trù người ở nơi thân mình và ở trong cái nội tại của phạm trù đó, phát hiện được cái tối vĩ đại và duy nhất là ta. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

4 – nhÂn sinh vÀ nhÂn tỬ phải chăng tìm cái chốt của đời sống mỗi người một trăm năm, và đời sống của loài người muôn vạn thế, bao nhà tôn giáo, triết học, khoa học, chẳng qua chỉ là góp những tài liệu chung quanh cái vấn đề trung tâm là nhân sinh quan và nhân tử quan, thống nhất trên một mối sống. Ôi đạo sống khó thay! sinh thế dị, trưởng thế nan. thế thì loài người nghe đạo phải có tinh thần "chiêu văn đạo, tịch tử khả hỹ" nghĩa là sớm được nghe đạo dù chiều chết cũng vui. người sống còn ví như người trong nhà bước ra khỏi cửa để đi đến một mục đích địa điểm nhất định, phải đã sẵn có cái mục tiêu nơi lòng, trong cái quá trình đi đường phải biết hấp thụ những tinh hoa và kinh nghiệm chung quanh để đi tới nơi bằng một tinh thần sảng khoái. cho nên cái ý chí nguyên bản của mình phải nhất định. những tinh hoa và kinh nghiệm trong cái lịch trình đó chỉ là những cái tài liệu tích lũy vào cái ý chí nguyên bản, càng phong phú dồi dào vào cuộc sống thêm viên mãn, mỹ lệ. có thể chia: 1) thiết lập một phương châm sống và lý tưởng làm nguyên bản. có thể nói: nhân sinh chi kế tại ư xuân. lúc thanh niên chính là lúc mình lập chí. hãy nghe: nếu hoa xuân nở ngọn cây đó là để xui giục lòng người đi tìm ánh sáng đạo nếu trăng thu chìm đáy nước đó là hình tượng cảm hóa chúng sinh và tất cả chúng sinh đó là tái sinh

trên cùng một bông liên hoa. 2) bằng cái lý tưởng phương châm sống, kiến lập một cái sinh mệnh chủ quan tuyệt đối có tính chất tiến hóa và sáng tạo, trong quá trình đời sống, hấp thụ thiên nhiên với xã hội tinh hoa, sung thực và phong phú sinh mệnh tài liệu của mình cho đời càng được triết học hóa, xã hội hóa, và nghệ thuật hóa. 3) dumas nói: phải trông cái chết thẳng trước mặt. Ôi đạo chết khó thay! biết bao kẻ sống chết như cây cỏ nát, vô ích cho nhân loại, cho dân tộc. biết cái chết mới kiến lập được cái quyết tâm. biết cái sống mới dám đem lòng hy sinh. biết cái cực chất của sống với chết ở nơi tự mình, mới hiểu rõ được cách đặt để mình vào xã hội. có ba hạng làm việc: làm thầy đời, làm bạn đời, làm tôi đời (travail de maitre, travail dami, travail de serviteur). mà làm việc đời cũng có ba hạng người: quyết tâm, thực hành với trí giả (homme de coeur, homme daction, homme desprit). phải nên hiểu mình thích hợp với cái khí chất gì, nhiên hậu mới quyết định cách làm của mình. tóm lại một lãnh tụ phải đủ ba đức tính: có thể là nhà lý luận, đồng thời là nhà hành động và nhà tổ chức, không thế thì không được. trong quá trình sống của mình, hạt bụi, sợi cỏ, từ cái rất nhỏ đến những cái rất to, từ cái vô hình đến cái hữu hình, đều là tài liệu của biết. biết là trục của sống, mà học là cửa của biết. Ôi đạo học khó thay! cùng một cửa mà ra thiên tài, mà ra nô tài, mà ra nhân tài. cho nên dạy người hay cầu học tóm lại có ba phương châm: 1. nuôi tâm sinh thiên tài. 2. nuôi óc sinh nhân tài. 3. nuôi thân sinh nô tài. trong trời đất, nhiệt với thành là hai yếu tố nguyên thủy và hoạt động. vạn vật ở đó mà ra, tình, ý, chí đều ở đó mà ra. nhưng tất cánh nhiệt với thành chỉ là những thể chất đồng chất (homogène) thuần túy tự năng và tự động, trải qua một quá trình sung thực tình, ý và chí, đem tình, ý và chí quy lại một lý tưởng tối cao và biểu hiện ra một trung tâm công tác hóa. dạy người vời cầu học là một công việc đồng đạo đối lưu. có ba lối học: 1. Ðắc ý vong ngôn như trang tử, như nhan uyên, Ðào uyên minh tự lực, độc thiện kỳ thân như võ siêu trần bạt tục. 2. nhập nhĩ xuất khẩu, vào tai ra mồm, vô ích thực tế. 3. nhập lý xuất sự, học tập với làm việc thống nhất, lý luận với thực hành không chia, nhân cách trung dung, tư tưởng chấp dụng. có bốn cửa học: nhập nô xuất chủ nhập chủ xuất nô

nhập chủ xuất chủ nhập nô xuất nô. dân tộc ta sở dĩ sức thừa độc lập mà suốt trên lịch sử mấy ngàn năm vẫn không triệt để uyên nguyên không phải ở nơi gắng sức dở dang, phấn đấu nửa đường, tài lực thiếu thốn, dân chúng tản mạn, mà thực là ở nơi học không triệt để, nghĩa là không triệt để độc lập trên tinh thần, cũng không triệt để phát huy được cái năng lực sáng tạo và khẳng khái tối cao siêu của giống nòi. chính trị ngày nay có thực hiện được tối tân hay không là trông vào tư cách của mỗi người quốc dân có hợp với thủy chuẩn sinh tồn theo tâm thức hay không. lịch sử chỉ là cuộc diễn tiến theo cái sinh mệnh hệ thống của một dân tộc trên một quá trình dự định phát triển trên những điều kiện với sự thực khách quan. cho nên dân tộc ta cần những thanh niên rất thuần túy và sung thực, đem ra làm trọn vẹn hai tầng chức vụ của thời đại là cách mạng và kiến thiết. những thanh niên ấy phải biết đạo sống, đạo chết với đạo học, phải biết kiến lập một sinh mệnh hệ thống độc lập và siêu nhiên cho tự mình. Ðời sống của người ta vốn là một cuộc đi có dự định kế hoạch, để đạt tới một dự định mục tiêu, hoàn thành một dự định ý nghĩa và một dự định giá trị cho nhân sinh. cho nên cái biết đã là trục của sống thì sự học vấn cũng phải dò cho đến chốn của sự biết. cần có hai điểm: 1. khuôn khổ phải to tát. 2. sợi đan phải nghiêm mật. cái tổ chức sơ bộ của học có thể chia: a) tổ chức lý trí hệ thống, tức là học về lý tắc (logique). tư tưởng là một đồ dùng. dùng nó phải có phương pháp. phương pháp dẫn dắt tư tưởng của người ta, đồng thời giúp tìm ra những luật tắc của tự nhiên và xã hội tiến hóa. cho nên tư tưởng của người ta khi đã tổ chức theo lý tắc thì mới khả năng tìm được chân lý, sự thật trong sự thật, mới chỉ huy không nhầm cái tâm lý sinh hoạt của người ta. b) tổ chức tình cảm hệ thống, tức là học về thẩm mỹ (esthétique), học về nghệ thuật, tức là học về cách tổ chức và biểu hiện cảm tình, vũ trụ và xã hội sống theo những trật tự và luật tắc của nghệ thuật. có cảm nghiệm cái tinh thần và phương pháp nghệ thuật thì tình cảm của ta mới được hợp lý và sinh hoạt của ta mới được mãn ý. c) tổ chức ý chí hệ thống, tức là học về lịch sử. lịch sử là sự biểu hiện toàn thể ý chí sinh tồn của loài người và dân tộc. phải lấy sự thể nghiệm quốc hồn và giác ngộ dân tộc làm tối cao mục tiêu, phải lấy tự kỷ khám phá ra cái lý tưởng muôn đời của dân tộc. căn cứ vào đó, lấy cái sứ mệnh tối thiêng liêng, nối dõi tổ tông, mở mang con cháu, sáng tạo văn minh cho dân tộc mình trên một nền tảng tối vững vàng làm cái phương châm không di chuyển cho cả một đời mình. biết lấy ý chí đó làm ý chí mình, há chẳng bền mạnh và hy sinh lắm ru?

x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

5 – lÝ tƯỞng vÀ phẢn tỈnh ( retrospection) trong thuyết luân hồi tối đơn giản và thô lậu của phật học tiểu thặng, đại khái cho rằng: người ta chết đi không thể mang gì đi được, ngoài những nghiệp quả tinh thần. những nghiệp quả đó chính là những nhân duyên cấu tạo kiếp sau. mới biết ý chí là không chết, mà ý chí là bộ mặt của lý tưởng mình. người ta sống theo những phương thức và phương pháp qui định và hạn chế bởi những điều kiện bản chất. nay phân tích xã hội sinh hoạt làm ba đức tầng (lấy đức làm bản vị chia giai tầng): 1. sinh mệnh tầng gồm sinh lý sinh hoạt. 2. nhân cách tầng gồm nhân cách sinh hoạt. 3. lý tưởng tầng gồm văn hóa và chính trị sinh hoạt. cũng như tôn văn chia loài người ra làm ba hạng: tiên tri tiên giác, hậu tri hậu giác, bất tri bất giác, ta có thể căn cứ vào các nhà giáo dục nước mỹ 1. thực hành nghiệp. 2. quyết đoán nghiệp. 3. sáng ý nghiệp. cho hay rằng những người tiên tri tiên giác, hay là những người sáng ý nghiệp, đều là những người thuộc về lý tưởng tầng. toàn nhân loại là một đội ngũ dưới lá cờ của những người xướng đạo (pionnier). Ðuổi theo cái bóng của một văn hóa dễ dàng chỉ những bộ óc tiên phong thấy trước. tung hợp tất cả lịch sử với xã hội mà nói: sống tức là tiến hóa, tiến hóa tức là thực hiện, thực hiện tức là cụ thể của một lý tưởng mô hình. tất cả tự nhiên cũng vận động theo những qui tắc và mục tiêu thực hiện đó. cho nên buffon nói: "những bất động vật là những vật chưa thành tựu". thực hiện để thành tựu, mà thành tựu trên một nền tảng nhất như (identification). nhà phật nói: phật giới như ma giới, nhất thiết giai nhất như. nhà nho nói: dân bạo vật giã. lão nói: hòa quang đồng trần, đăng ư xuân đài. gia tô công nhận và khuyến khích một cuộc chiến tranh. thái huyền kinh nói: bây giờ không phải là lúc đánh lộn với tâm hồn tự mình, mà là lúc chống với những thống trị thái ác, và tối tăm trên xã hội. cho hay nhất thiết chúng sinh giai hữu phật tính. Ðó là lý tưởng tối chân chính cho nhân sinh là thiên kinh đạo nghĩa cho vũ trụ. bất quá

sống và chết thành những bờ cõi, vì ý chí và lý tưởng bất sinh bất tử. nhưng muốn xem ý chí và lý tưởng của cả loài người hay cả dân tộc, phải biết quay con mắt trở về trông suốt cái thâm tâm của xã hội và loài người, cũng như muốn tự mình có ý chí và lý tưởng phải biết phản tỉnh. muốn là được, làm là được, biết là được. ta phải đi từ biết thực hiện tự mình lên đến thực hiện xã hội và thực hiện dân tộc. chỉ có thời cơ, chỉ có lịch sử, chỉ có chí lương tri, chỉ có lý tưởng là đạo để cho ta phải mau mà đạt. loài người trên cái hướng sinh triết học phải nên biết rằng sự bồi dưỡng nội tại, đối với khách quan hay chủ quan mục đích mới chân chính có hạnh phúc. sự thực hiện căn bản là sự thực hiện tự mình. sự thực hiện đó là để đem mình đồng hóa, nhất như hóa với vũ trụ, cho mình với vũ trụ khai thông hoàn thành bồ Ðề Ðạt ma, một thứ tự ngã thiêng liêng và trang nghiêm vậy. x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

6 - phẬt lÀnh vỚi ma Ác trong pháp du kinh có kể chuyện thích ca mâu ni thành đạo rồi, Ðế thích sai sáu tiên nữ xuống ám ảnh quấy rối và dụ hoặc. jésus christ đã từng bị dụ hoặc bởi quỉ (tenté par le démon). khổng tử đã bị vấp váp bao nhiêu lần trên đời, bị hãm ở nước tần. thích ca tất cánh đánh tan được ám ảnh, jésus xua đuổi được ma quỉ, khổng tử gẩy đàn mà nhịn đói, đó là những cuộc thắng lợi trên tự mình, đó là những cuộc thắng lợi nhất lòng vì đạo và sức bền. trần hy di đáp lại vua tống: không lao ngọc nữ hạ dương đài. người ta đam mê trong khổ ải nhưng khổ ải trước hết là ở nơi tự mình, bạt thiệp núi non, chỉ vì tấm lòng trần quấy rối, bắt tấm thân chạy đuổi theo những thanh, hương, sắc, vị, chắc chắn không có chi khác. lòng người như con vượn, ý người như con ngựa, dục người như con lợn. vượn bay nhảy leo trèo, ngựa chạy rong nước kiệu, lợn ì ục lười biếng. sự thực hiện tự mình, trước hết bỏ trừ những thú tính trong mình, kiến thiết tự mình thành một tấm thiêng liêng, kim cương vô ngã rắn rỏi và trong suốt. cho nên sự tịnh hóa (purification) là công phu đầu tiên để rửa sạch ba cái bánh xe nhân sự, nó là khẩu luân (mồm), thân luân (thân thể), ý luân (dục vọng). sạch sẽ rồi mới thơm tho, sáng láng, sảng khoái và có chủ ý. connais-toi, toi-même, đó là chủ chỉ của minh tâm, kiến tính và thành phật. nhưng phật với ma là thế nào? ma là vô minh, ngu dốt; phật là đại giác sáng suốt. sống tức là cho tự mình, còn là thực hiện tự mình. sống cho tự mình mới là biết sống. ma là duyên nghiệp, phật là tịch tịnh. sống nghĩa là tự mình tự do giải thoát, nghĩa là tự mình cần phải đại tự tại, đại vô úy, đại vô ngã, tức là chân chính giải thoát. cho nên người ta tự

lúc ra đời, hãy nên nhận thành cái hiện tượng mâu thuẫn ở tự trong cõi mình mà muốn cho đạt tới chân thiện mỹ trước hết tự mình phải có một chủ ngã, cái chủ ngã ấy có một phương châm sống hướng thượng. trước hết có đại nguyện, thực hành cái đại nguyện đó cần trì chí và lực hành. có đại nguyện mới có lòng trì chí. biết triệt để rồi mới có lòng muốn thực hành. dân tộc, quốc gia ta, kể về tinh thần độc lập thì thật siêu thoát lên trên thế giới. bây giờ đây, loài người không hết ca ngợi tính độc lập của mỹ, ba lan, những cuộc độc lập phí bao nhiêu vật lộn và phí bao nhiêu xương máu. nhưng mà tính độc lập của mỹ chẳng phải là mặt trái của sự chia rẽ nòi giống anglosaxon sao? tính độc lập của ba lan chẳng phải là thiếu cái nội tại tự lực, để mặc cho cái quyền độc lập của mình, xoay vần bởi quốc tế thời thế hay sao? không gì thuần túy bằng tinh thần độc lập của nòi giống việt, trải qua từ khi còn là một tốp người nho nhỏ, tiến lên thành một dân tộc, hai triệu rồi ba triệu, bốn năm bảy triệu, ở cõi trung châu chật hẹp, cho nên ngày nay 50 triệu người, từng thống nhất dưới Ðinh tiên hoàng, trần hưng Ðạo, từng phân toái hết thảy mọi ngoại lực xâm lược. không gì vĩ đại bằng tinh thần độc lập của nòi giống việt, có cái quyền bính độc lập đó, nắm được ở tay mình, mà tự ở đáy tầng dân chúng nắm tự tay dân tộc mình, lê lợi cách mạng, đó là cuộc tự lực cánh sinh một trăm phần trăm vậy. nhưng mà bây giờ đây, người việt ta phải hiểu thấu cái để uẩn tối thiêng liêng của nòi mình, cái lý niệm tối thực tại của tiên với rồng, cái tinh thần tượng trưng đó đã diễn tiến theo biện chứng pháp ra một cái quá trình lịch sử của chúng ta khi hưng khi vong, khi ẩn phục, khi triển khai. căn cứ vào cái tinh thần lý tắc ấy, và lý tắc lịch sử đó, ta đoán định nhất quyết là thời đại trước mắt ta đây, chính là buổi rạng đông của văn minh cao khiết mới, một sứ mệnh vĩ đại mới, và một sự nghiệp hùng tráng khai quang của dân tộc việt. một thế kỷ lâm ly khổ ải đã thẩm thấu vào lòng mọi người việt, cái bộc phát của tương lai, cái đột biến của sự nghiệp. cho nên cái quá trình phục hưng của nòi nước ta có thể chia ra làm đại bi, đại giác, đại nguyện, đại hành, đại hùng, đại thế, đại đạo. tự cảm giác thấy cái đau khổ lớn lao mà thức tỉnh một cách mạnh mẽ, rồi tự tìm lấy một lý tưởng cao cả mà xông vào vật lộn hy sinh đến kỳ cùng. Ðến đây bao nhiêu lực lượng và tinh thần tồn tại khỏe khoắn của suốt một thế hệ tổ tiên sâu dày đã trở lại mình, đứng trên một cương vị có bề thế ưu thắng, có một bộ óc và hai bàn tay vạn năng, hoàn thành cái đạo lớn cho loài người. nhưng mà cái trình tự kim đan hoán cốt, cải biến đời người, nó cho một khí lực tân sinh cho mỗi cá nhân người việt cũng phải thế. người việt phải truy bản cùng nguyên cái đáy lòng mình và đáy lòng lịch sử của nòi giống, kín gánh ở đấy cái nguồn sinh lực, đạo đức và trí tuệ, nó làm mình đứng dậy lớn lao lên và mạnh mẽ, cầm bó đuốc của đời sau phát nguyện mà làm việc. phục hưng dân tộc trước hết phải phục hưng cá nhân. dân tộc có độc lập được hay không là nhờ ở thanh niên có độc lập năng lực hay không. muốn biết phải làm. sinh nhi tri chi, học nhi tri chi, khốn nhi tri chi, cập kỳ tri giả nhất giã. an nhi hành chi, lợi nhi hành chi, miễn cưỡng nhi hành chi, cập kỳ thành công giả nhất giã. hỡi dân tộc thanh niên, phải chịu khốn khổ mà cầu biết, phải biết miễn cưỡng mà làm

đi! x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) 7 - cÕi phÚt vÀ dÂy oan "tu là cõi phúc, tình là dây oan", cá nhân có tu thì dân tộc mới hưng, dân tộc việt đừng để dây oan nghiệt của đế quốc dã tâm, chằng buộc ấy mình mãi, đồng thời đừng để những dây khắc khổ cùng những truyền thống không thuần túy thắt bóp mình mãi. tất cánh chúng ta phải độc lập và giải phóng, độc lập cho hết thảy quốc gia mệnh mạch và sinh hoạt cơ năng của ta, cởi mở cho hết thảy dân tộc tính, dân tộc tình, dân tộc chí của ta được tự do thư triển với thế giới. làm sao chúng ta phát huy được những tiềm lực độc đặc của dân tộc ta trong cõi đời, cống hiến cho toàn nhân loại cái quang huy của tâm tình, năng lực nòi giống ta cái tinh thần cố hữu của dân tộc trào phúng, khảng khái, độc lập, sáng tạo, bền dai, chúng ta phải bả ác lấy mà kiến thiết mình trên những nhân tố đó. vậy thời mỗi dân tộc thanh niên phải tu tỉnh. có ba lối tu: thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa; cho nên tu ở tại mình là chìa khóa của thời đại mới, của sự đạt tới cái tiêu đích đại vô úy, đại tự tại, đại giải thoát, cho cả dân tộc, cho mỗi một người ta. tôi đem cái kinh nghiệm của tự tôi trong sự tu dưỡng của tự tôi, cống hiến làm cái sơ bộ cho mọi người. 1. trung tâm giáo dưỡng a) lập chí chí thành: lập một chí nguyện một lý tưởng trên sự giác ngộ, rất xác thiết đối với dân tộc, ở đó sinh ra một lòng chí nhiệt, chí thành, suy động hết thảy sinh mệnh cơ năng. b) tính, tâm, thân, mệnh: tính cho được trong suốt, tâm cho được yên ổn, mệnh cho được vững bền, thân cho được phát huy. mệnh gồm tinh, khí, thần; thân vững bền rồi thì tâm mới được yên định tinh túc, tinh thần được dồi dào, tất tính được trong suốt như tấm gương; như thế thân tức là sự nghiệp, thân thế, hành vi, ngôn ngữ, nhân cách sẽ được kiện toàn, thống nhất. 2. lịch sử sinh hoạt a) sống một đời sống lịch sử, sống theo cái quá trình lịch sử của nòi giống, lấy cá nhân sinh mệnh mình phối hợp những giai đoạn của nó vào giai đoạn tất nhiên của lịch sử. b) nhận thức lịch sử của dân tộc. c) cảm ứng lịch sử của dân tộc: chúng ta vui, buồn, khổ, oán, thù, mừng, hy vọng thuần

túy bằng cái vui, buồn, khổ, oán, thù, mừng hay hy vọng của dân tộc. hàm súc những tính, tình, chí của dân tộc vào tấm thân ta, nó sẽ nuôi ta thành một phần tử chân chính và tiền tiến của dân tộc. nó sẽ cung cấp hết những lý trí và tiềm lực, kinh nghiệm đủ để cho ta ra đời. hết sức giảm bớt những vui, buồn, khổ, oán, thù, mừng, hy vọng riêng của cá nhân ta. d) dân tộc làm trung tâm: đảm đương sứ mệnh của lịch sử hết thảy sự nghiệp hoặc văn hóa, kinh tế, quân sự, xã hội, chính trị, giáo dục y cứ trên cái nền tảng lịch sử sinh hoạt mà phối hợp với các nhiệm vụ cách mệnh kiến quốc, lý tưởng của nòi giống. chỉ có lấy đó làm trung tâm, nhiên hậu mới phát huy đến bờ cõi được cái vĩ đại của tự lực và sáng tạo lực. 3. tiềm tại tu dưỡng nên hỏi mà biết, biết mà làm, không nên nói nhiều. a) nội tỉnh: tồn - bảo tồn (minh tính) dưỡng - hàm dưỡng (đạm bạc) tỉnh -phản tỉnh (khế hội) xác -thể xác b) ngoại tẩm thiệp - thiệp liệp (non sông, nhân tình, thế cố) tẩm -tẩm nhuần (thiên nhiên, nghệ thuật, cổ phong) thực -thực tiễn (học thuật, lao vụ, động tác) Ðào -Ðào dã (nắng, mưa, gian hiểm, tính tình) cách vật -trí chi (lực hành). liễu châu 4821 tuổi việt (1942) x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt)

8 - lẤy Óc mÀ chỮa bỆnh Óc xét bệnh thần kinh có mấy thứ, từ bệnh nhức đầu (névralgie) cho đến bệnh nhức óc

(neurasthésie), kịch liệt tính như bệnh đau màng óc (méningite), âm ỷ tính như bệnh thần kinh quá mẫn (nervosité), tiến lên cho đến các hạng thắc loạn (manies), kiện vong (perte de mémoire), thoáng quên (absence), các hạng điên cuồng có nhiều thứ, cứu kỳ nguyên nhân không ngoài mấy căn nguyên: thiếu máu, chướng khí, sầu uất, tâm lý kích động, lao lực, lao tâm, tư tưởng thái quá, tình bệnh như thủ dâm, di tinh, mộng tinh, lãnh tinh, thanh niên hay mắc nhất, đương lúc thanh xuân kỳ rờ rỡ, tâm lý và sinh lý phát triển chính gặp lúc kịch biến, những hiện tượng xã hội và những hiện tượng tâm thần kích thích mà nên. nhưng mà thanh niên là hy vọng của quốc gia, dân tộc, là chủ lực của nhân loại văn minh, không tự phán phát mà tìm đường xuất lộ, thì lý tưởng và quốc gia ảnh hưởng không ít. xét cách chữa có thể chia hai phương diện mà nói: 1) tu dưỡng: có thể dùng phương pháp lưu dưỡng, tẩy nhẹ vận động thư thái, sinh hoạt điều độ, tinh thần nghỉ ngơi, doanh dưỡng có chế độ. bổ cứu thêm thuốc thang chuyên môn. 2) Ðiều dưỡng trong sự nghỉ ngơi và thư thái, tổ chức lại bộ óc sung thực cho kiện toàn, điều tiết cho linh hoạt, lấy đó làm cơ sở cải tạo sinh mệnh cơ năng, sinh lý và tâm lý, tiến lên cải tạo chính cái sinh mệnh hệ thống. sự hoạt động của loài người lấy thần kinh làm then chốt. cho nên muốn hiểu rõ những hiện tượng sinh tồn cá nhân và xã hội, cần phải biết kết cấu của bộ óc, địa vị của nó và lai nguyên của sức sống do nó chi phối là tinh, khí, thần. nếu lấy phương diện tĩnh của phương pháp phân tích mà nói thì bộ óc dệt nên bởi những tiềm duy và tế bào, năng lực của nó chứa góp cái tự kỷ năng lực của những tiềm duy và tế bào đó. song lấy phương pháp mới của các nhà khoa học hiện đại, thì năng lực và hiệu dụng của thần kinh do ở sức vận hành của máu, hơi thở, dịch chất tom góp lại thành những luồng điện a và b luôn luôn cung cấp cho bộ máy đó. cho nên tung hợp lại có thể nói theo y lý Ðông phương thì óc là phủ nguyên thần tích súc hết thảy tinh hoa kết lại trong người mà thành. tinh do máu, dịch chất kết tích lại ở thận thông xương sống, tủy mà làm bản chất của óc, khí do sự vận hành của máu, hơi thở mà thành các luồng điện a và b, thần tức là cái hoạt lực để tinh với khí tương hỗ chuyển biến mà nên. cho nên từ nguyên tắc tu thân xử thế cho đến chữa bệnh bằng tự mình không ngoài hai điều: 1) lấy chí xuất khí: chí tức là ý chí trong người, lấy một ý chí kiện cường và minh mẫn mà sai khiến sinh lý sinh hoạt với tâm lý sinh hoạt. trong thần kinh hệ chia làm hai là: vận động hệ gồm các dây trông về tự động và nội tạng như tiêu hóa, tuần hoàn, cử động và tri giác hệ tức là những dây trông về cảm giác, nghĩ ngợi, ghi nhớ. hai hệ này có liên hệ mật thiết với nhau, khỏe yếu có ảnh hưởng lẫn nhau. 2) lấy tĩnh chế động: dùng một chủ thể rất bền vững yên định để sai khiến những khách thể phức tạp và động loạn, cho những khách thể đó phải tuân theo ý chí của chủ thể mà điều độ. có thể chia phép điều dưỡng làm ba bước: a. thời kỳ thứ nhất: Ðây là thời kỳ thu phục lại cái thường thức cho bộ tổ chức và vận dụng của óc, nhân đó thành lập một quy mô sinh mệnh. nhưng cái tiên quyết điều kiện là người tự chữa phải cố gắng, có một ý chí và chủ ngã rất bền mạnh, rất trầm tiềm, rất nhẫn

nại. cái mục đích dự định của thời kỳ này là: 1) làm hết các trạng thái thắc loạn trong óc bất cứ về sinh lý như hư hòa dịch chất (humeur) cho óc và gân đươc sảng khoái, thong thả hay là về tâm lý như sầu muộn, ảo tưởng, hoang mang. 2) bắt đầu thu nạp lại cái qui mô và trật tự của sinh lý sinh hoạt như thở đều, tiêu hóa tốt, bài tiết tốt, máu chảy tốt và của tâm lý sinh hoạt như tư tưởng cho phải chăng, tình cảm cho điều hòa. 3) nhân đó dựng nên một cái nhân cách chớm đầu hệ thống và quy luật hóa. các phương pháp chữa gồm có: a) tản bộ sớm và chiều cho sinh cơ được thư triển và giúp ích cho tinh thần đối với tự nhiên có ảnh hưởng đẹp đẽ. b) hô hấp sáng và chiều, nhè nhẹ và in ít để khai thông vận hành cho vận động hệ của bộ óc, hô hấp hệ, tuần hoàn hệ, tiêu hóa hệ. c) vận động nhẹ và tẩy nhẹ cho các dịch chất đọng ngừng được thông thoát và toàn bộ cơ năng của thân người được sảng khoái. d) tung hợp và điều chỉnh lại các ký ức của mình, tức là tổ chức những tư tưởng tình cảm đã qua của mình cho không hỗn loạn. đ) ngừng mặc, ngồi lặng cho tinh thần được tĩnh định, không chút vẩn lòng và yên nghỉ bộ óc. e) giữ vững được thận của mình tránh những di tinh, mộng tinh. g) Ổn định tâm của mình cho khỏi bị ngoại vật kích thích hay bị động với ngoại vật. b. thời kỳ thứ hai: phải tiến lên học đến cách vận dụng và phát triển cái thường thái ở trên cho tâm với thần được bình hành phát triển, tâm lý cơ cấu khỏe khoắn, sinh hoạt có quy luật, nhân cách biểu hiệu được thống nhất. các phương pháp gồm có: 1) tổ chức lý trí hệ thống tức là học về lý tắc (logique). 2) tổ chức tình cảm hệ thống, tức là học về thẩm mỹ (esthétique). 3) tổ chức ý chí hệ thống, tức là học về lịch sử. c. thời kỳ thứ ba: thu góp cái kết quả của thời kỳ trên mà đặt yên cái sinh mệnh hệ thống của mình và phát huy cái sinh mệnh công năng của mình. lợi dụng cái ý chí tối cao làm trung tâm chỉ huy lý trí và tình cảm, tiến sâu vào con đường khoa học, bác ái và công minh, thời kỳ này phải giải quyết 4 vấn đề: a) nhân sinh quan (thái độ đối với sự sống) b) nhân tử quan (thái độ đối với sự chết)

c) phải hiểu cái khuôn khổ của thời đại. thời đại với văn hóa có cái khuôn khổ riêng của nó, ví như văn hóa hy lạp, lấy cái vóc đẹp, trí sáng, sức khỏe làm mô phạm v.v... cho nên biết văn hóa thời đại hay lịch sử chẳng qua chỉ có một nhiệm vụ tối cao là hun đúc nên một con người xứng đáng. ta thử tưởng tượng xem cái văn hóa tương lai của dân tộc việt nên lấy cái khuôn khổ gì? như ý tôi nghĩ chỉ cần: thận vững, tim trong, óc sáng, mình nhẹ, tay mạnh. d) phải kiến thiết một đời sống lý tưởng. Ðời sống của người ta vốn là một cuộc đi có dự định kế hoạch để đạt tới một dự định mục tiêu, hoàn thành một dự định ý nghĩa và một dự định giá trị của nhân sinh. châm đối theo cái đó hãy nêu cho đời mình một phương châm tinh thần làm cái đích để dấn thân tới, triệt để cống hiến cho dân tộc và nhân loại. i. bỒn gỘt rỬa a- gột rửa những trầm trệ bệnh của tâm lý về lịch sử: 1) tâm lý thù oán tổ tiên. 2) tâm lý miệt thị tổ tiên 3) tâm lý quên bỏ tổ tiên 4) tâm lý kiêu nịnh tổ tiên 5) tâm lý lầm lẫn nguồn gốc. b- gột hết những trầm trệ bệnh tâm lý về hiện tại: 1) tâm lý thù ghét xã hội 2) tâm lý quảng phiếm xã hội 3) tâm lý giai cấp đơn độc 4) tâm lý cá nhân đơn độc 5) tâm lý dân tộc đơn độc 6) tâm lý thế hệ đơn độc. c- gột rửa hết những trầm trệ bệnh của tâm lý về tương lai: 1) tâm lý cẩu thả sinh hoạt 2) tâm lý bạo khí sinh hoạt 3) tâm lý thiên khích sinh hoạt 4) tâm lý dao động sinh hoạt d- mấu cứ của tin tưởng trên lịch sử:

1) quyền lợi đương nhiên 2) Ðoàn thể dân tộc 3) tư cách lịch sử 4) lập trường siêu nhiên 5) Ðường đi cỗi gốc 6) chủ trương thắng nghĩa. Ð- mấu cứ của tin tưởng trên hiện đại 1) nhân tình: a) phản cách mạng b) phóng cách mạng c) giả cách mạng d) bất cách mạng

hữu tình nhỏ Ý thức hẹp nhận xét sai

2) thế thái: a) danh b) lợi c) tình d) thế đ) dục

nhân cách siêu tạo hóa ở tự nhiên nhiên vượt lên sống chết ở loài người hiện đại mà sai xấu tốt do chế độ khiến được xấu tốt lẫn đức thuật e- mấu cứ của tin tưởng về tương lai: 1) nhân cách khởi tín 2) học thuật khởi tín 3) thời sự khởi tín

nội bộ: 1) không bị sàm hoặc 2) không bị ly gián 3) không bị sơ ngại 4) không bị nghi trệ

tâm thông

mục đích khởi tín lấy phục vụ cho cương thường loài người, sống chung toàn tính, làm cho mục đích kiên quyết, phải đề phòng: a) trảm thặng vận động (phản động chém trừ toàn thể vì đa số, chém trừ đa số vì thiểu số chém trừ thiểu số vì độc tài). b) phân ly vận động: (ly tâm xu hướng, phá hoại chiến thuật) phải kiên trì. c) sinh hóa vận động (từ một ra ít, ít ra nhiều, nhiều ra toàn thể). ii. ÐÀi hy sinh

a- Ý nghĩa của hy sinh là hình thức của nó qua các thời đại. tông giáo hy sinh lễ là tuẫn đạo, các cuộc hy sinh vì học thuật, tư tưởng v.v... b- sự sống bắt rễ ở sự chết. lễ nhập quan tông giáo: đời người bắt đầu tự đó. sự thoát xác qua các thế hệ, sức suy tiến loài người của hy sinh. c- chân ngôn. d- Ðại nguyện. Ð- Ðại giá của hy sinh là vinh quang, đại giá của sự chết là sự sống còn mãi mãi của loài người, đại giá của quyết chết là thành công, đại giá của lý tưởng là một ý nghĩa với một công năng tích cực cho vũ trụ không nghĩ ngợi và làm lụng, một ý nghĩa hiện thực trong sát na và vi trần của vô thường. e- trỉ đạo của hy sinh trong trí tuệ và nghị lực chân chính. x.y. thái dịch lý Ðông a 8/8/4823 tuổi việt (1944) x.y. thái dịch lý Ðông a gió Ðáy thuộc duy dân học xã xuất bản lần thứ nhất tại sài gòn, việt nam ngày 7 tháng 10 năm 1969 (kỷ dậu 4848 tuổi việt) ****************************************************************

viỆt sỬ thÔng luẬn 1. tỔng quÁt 1.1. thời kỳ duy nhiên: thời kỳ này loài người chưa biết kết hợp thành bộ lạc với xã hội 1.2. thời kỳ duy dân: thời kỳ này là khi nhân loại đã biết quần tụ lại một nơi 1.3. thời kỳ duy nhân: thời kỳ này đã phôi thai ra ở những lý thuyết Đại Đồng 2. giẢi thÍch tỪng thỜi kỲ 2.1. môn hóa kỳ (thần tắc kỳ): vì cái đặc sắc của thời kỳ này là dân tộc ta đã chế ra đươ c văn tự là thứ chữ môn thư, chữ hoa 2.2. văn hóa kỳ (Đế tắc kỳ): thời kỳ này bắt đầu nam thiên từ lưu vực sông dương tử và lưu vực 5 hồ 5 núi xuống phong châu, lấy nơi này làm hoa địa mới, lập ra nước văn lang, 2.3. hồng hóa kỳ (danh tắc kỳ ): thời kỳ này bắt đầu từ thục phán là cháu ngoại vua hùng vương từ ba thục xuống chiếm văn lang làm Âu lạc. 2.3.1. hỗn hợp thời đại: quân cách mạng, lực lượng có thể gọi là chính thức bắt đầu từ khi tần thủy hoàng thôn tính cả 6 nước rồi cho Đồ thư sang đánh ngũ lĩnh:

a. nam viỆt thỜi b. tiỂu viỆt thỜi 2.3.2. hồng việt thời đại: thời đại này là bắt đầu từ vua Đinh tiên hoàng dùng sức vạn thắng (thắng hết cả mọi thứ về lực lượng cũng như văn hóa) để xây dựng nền độc lập cho dân tộc việt. 2.4. dân hóa kỳ: theo thời kỳ này có thể bắt đầu từ khi gia long nhờ quân pháp (do cố đạo bá Đa lộc) làm môi giới để dứt nhà tây sơn mà thống nhất cả nước 3. phÊ phÁn vÀ kẾt luẬn hơn một vạn năm trước, giải đất triều lưu sông hoàng hà lên đến núi thái sơn là cuộc tranh giành rất kịch liệt giữa các dân tộc mà trong đó có dân tộc việt đã nắm một thắng thế khá lâu. thái dịch lý Đông a viỆt sỬ thÔng luẬn việt sử thông luận x.y. thái dịch lý Đông a *** viỆt sỬ thÔng luẬn 1. tỔng quÁt sự diễn tiến lịch sử của một dân tộc bao giờ cũng ăn nhịp với bước tiến hóa của nhân loại cho nên trước khi bàn đến lịch sử của nòi việt, chúng ta cần phải đặt định rõ sự tiến triển của loài người ra sao? ta có thể chia lịch sử loài người ra làm 3 kiếp: duy nhiên kiếp, duy dân kiếp, và duy nhân kiếp. 1.1. thời kỳ duy nhiên lúc này loài người chưa biết kết hợp thành bộ lạc với xã hội chưa có bản năng tiến hóa và tổ chức, nay đây mai đó, chỗ nào thích hợp thì ở, thời kỳ này theo marx là thời mẫu hệ (sống theo mẹ, loài thú) và tự nhiên kinh tế, nhưng thật ra làm gì đã có kinh tế mà gọi là kinh tế tự nhiên, đó chỉ là sự hưởng thụ những gì của tự nhiên sẵn có, như con dê ăn lộc, con rắn ăn nhái, v.v... Đã sống theo tự nhiên như vậy thì loài người lúc ấy làm gì có kinh tế được vì kinh tế là do tổ chức mà ra, nên danh từ kinh tế tự nhiên theo marx là không đúng. 1.2. thời kỳ duy dân thời kỳ này là khi nhân loại đã biết quần tụ lại một nơi, hoặc trước cuộc Đại hồng thủy

hay sau cuộc Đại hồng thủy cũng vậy. theo thuyết “nhân loại nhất nguyên luận” thì nơi tụ tập ấy là núi tu di (palmir), thời kỳ này có ra ước độ 5.000 năm trước ky tô kỷ nguyên “thiên chúa giáng sinh”. theo thuyết này, loài người lúc ban đầu ở núi tu di tràn xuống, hoặc theo các lạch nước mà sống theo nghề đánh cá, rồi cày cấy, hoặc the o các đồng cỏ mà sống theo nghề du mục (chăn nuôi súc vật). ta có thể vạch ra đồ biểu như sau: palmir (tu di) aryen 1. tiệp khắc (Ấn) 2. trung Á tế Á hy lạp 3. ai cập 4. altai 5. hán an sơn khuông. theo biểu đồ trên đây ta thấy rõ nhân loại từ lúc ở tu di tràn xuống mỗi lần có sự tổ chức từ bộ lạc lên thành quốc gia, mà mỗi thứ về tinh thần cũng như vật chất, mỗi lần xuất hiện là có sự xếp lại thành hệ thống qui củ. Đặc tính của thời kỳ này là sự tổ chức. 1.3. thời kỳ duy nhân thời kỳ này đã phôi thai ra ở những lý thuyết Đại Đồng, hoặc như trong thuyết của khổng tử, của marx hay như trong các tôn giáo như thiên chúa (Độc thần giáo) và phật giáo (nhất thiết chúng sinh giai đại thể phật) nhưng đó mới chỉ là lý thuyết thôi, nó cần phát hiện ra sự thực chắc chắn. lúc ấy nhân loại mới được sự thúc đẩy sống về nhân loại trước nữa. tóm lại, thời kỳ duy nhiên đã qua, thời kỳ duy dân đương cần phải đầy đủ, bước sang thời kỳ duy nhân là thời kỳ đầy sung sướng, một đời cực lạc đưa về sau này (di lặc?). trên giải đất Á Đông mà ngày nay gọi là trung hoa (tức tàu) theo khảo cứu của một bác học hoa kỳ thì từ rất xưa có 3 dân tộc từng tranh nhau để chiếm trung châu (delta) của miền sông hồng hà lên tới thái nguyên (tàu) để tranh thủ lấy núi thái sơn hòng chiếm lĩnh nơi đó để khống chế vũ trụ. ba giống người ấy là việt - hán - di? 1. thế nào gọi là việt? việt không phải là tên chúng ta đặt ra sau này, lúc trước việt còn gọi là viêm. a. viêm Đế. b. hải Đại vì ở tỉnh hải Đại (sơn Đông). c. miêu: thời kỳ đấu tranh với giống hán. d. thái: lấy gốc sự chiếm lĩnh thái sơn lúc đầu. 2. thế nào gọi là hán? vì sự phát tích ở sông hán thủy và còn gọi là: a. hoa: núi hoa sơn.

b. hạ: vì quần tụ ở tỉnh hạ (hoa hạ). 3. thế nào gọi là di? tức là dân ở phía bắc Đông trung hoa như sơn Đông, triều tiên, v.v... mà tàu gọi là Đông di. về 3 dân tộc kể trên đây, thì dân việt là dân đã chiếm được trước tiên núi thái sơ n để làm hoa địa và đã phát sinh ra nền văn minh của tàu hiện nay. những cái gốc hà Đồ, lạc thư, nam châm, chữ việt, v.v... là những vật của người xưa, của giống nòi việt, sẽ nói rõ ở đoạn sau. rồi từ núi thái sơn bị giống hán từ thiên sơn tràn xuống chiếm mất, dân tộc ta cứ lùi dần dần về phía nam và trải mấy cuộc thiên dời như thế, về sau dân tộc việt mới tìm được đất phong châu để dùng làm hoa địa mới mà lập nền tảng xưa, nhưng sau gần 2000 năm, giống hán lại lan tràn, giống hán lại lần lần tràn xuống để uy hiếp, cơ đồ văn lang và Âu lạc của ta lại bị lật đổ. tuy vậy, từ lúc ấy đến nay, chúng ta cũng k hông vì sự uy hiếp mà mất hẳn cái bản sắc xưa của dân tộc. hơn nữa gần 100 năm nay đồng thời còn bị một sức uy hiếp mạnh hơn là sự xâm lăng của giống Âu châu mà dân tộc ta cũng vẫn giữ được căn bản cố hữu. trong lịch sử dân tộc việt ta, cứ mỗi một thời dân tộc bị uy hiếp rất mãnh liệt có thể đưa giống nòi đến diệt vong, thì tự nhiên lại bật lên một lực lượng rất mạnh mẽ để đối phó lại mà bảo vệ lấy giống nòi, hoặc xây dựng một nền tảng mới, hoặc sửa soạn một thời quá độ cho một giai đoạn vinh quang tiếp đó. mỗi thời ấy đều có người anh hùng đứng ra tiêu biểu, để lại những tiêu biểu và giáo huấn cho cuộc cách mạng sau, từ sau hồng bàng cho tới nay, hơn 2000 năm, ta có thể ghi giáo huấn 9 điều: 1. lúc nhà tần đã thống nhất trung nguyên, sai Đồ thư và liễu lộc (tộc?) với nhâm ngao cùng triệu Đà sang xâm lấn nước ta, dân tộc ta đã chống lại một cách vô cùng kịch liệt. phong trào chống chọi thời ấy người tàu gọi là lục lương hay cường lương (bọn dân cứng cổ) và đại biểu cho phong trào ấy là cao lỗ (?) và thục phán an dương vương. 2. khi nhà hán đã diệt được nước nam việt của triệu Đà liền sát nhập nước ta vào bản đồ của họ, rồi cắt quan sang cai trị, tuy vậy lối chiếm lĩnh của người hán thời ấy chỉ là lối thực quan (cho quan cai trị) chứ không phải thứ thực dân gần đây. vì thế dân tộc vẫn được tổ chức đời sống riêng, v.v... nhưng về sau sự áp bức của bọn quan lại hán càng ngày càng tàn ngược mà dân tộc ta mỗi ngày một tiến, không thể chịu như vậy để rồi diệt vong, nên ông thi sách là dòng dõi một quý tộc đứng lên vận động chống lại. việc bị lộ, ông bị tử hình, nhưng vợ ông và em vợ ông là hai bà trưng đã thay ông đem lực lượng dân tộc sẵn có mà chống lại, chỉ một thời gian rất ngắn, hai bà thu được toàn quốc khiến anh hùng của hán như mã viện chật vật trong 3 năm trời mới đánh tan được sức đối chọi của ta. tuy hai bà đã thất bại, nhưng từ đó đã mở một con đường rộng lớn cho ngô quyền, rồi Đinh tiên hoàng xây được nền độc lập về sau này. 3. sau cuộc thất bại của hai bà trưng, dân tộc ta lúc ấy chia ra làm hai xu hướng: một phe thì yên giữ đất cũ, lấy năng lực dân tộc ngấm ngầm vừa chịu đựng dưới sự đè ép của giống hán vừa chờ đợi thời cơ mà quật khởi. một phe khác đại biểu là ông khu liêm cùng dòng dõi quý tộc ta tự đem thế lực riêng vào

phía nam lập ra nước lâm Ấp để một ngày ấy thế lực ông khu liêm và việc làm của ông đặc sắc hơn hết và đáng ghi hơn tất cả mọi việc trước đời Đinh. 4. Đời ngũ quỷ của nước tàu bấy giờ bên trong loạn lạc chia rẽ, dân tộc ta đã biết lợi dụng cơ hội thuận tiện ấy đem lực lượng đã đầy đủ tranh đấu nên từ các ông khúc hạo, kiều công tiễn, v.v... trở đi ta đã bắt đầu thoát ly hẳn giống hán, nhưng hàng mấy chục năm phải vừa khôn khéo ngoại giao, vừa cương quyết đối phó cho đến hết đời ông ngô quyền, một lực lượng vạn thắng của Đinh tiên hoàng xuất hiện ra để thống nhất tất cả, đánh dấu một thời đại độc lập hoàn toàn của dân tộc ta. 5. hết đời Đinh rồi đến đời lê rồi đến đời lý, nền độc lập việt đã đạt được thành quả. nhưng về phía người hán lúc ấy nhà tống làm vua, thế nước rất mạnh, mưu cơ xâm lược của họ đối với ta không lúc nào thôi. nếu lúc ấy cái phong trào tân phát (?) của vương an thạch mà thành công thì nước ta cũng khó yên được với người tàu. nhưng lý thường kiệt đã xuất hiện thừa lúc bất lực của nhà tống đem quân đánh thẳng sang đất lưỡng quảng để tỏa triệt hẳn tham vọng của họ. dân tộc ta từ đấy lại được yên một độ để kiến thiết toàn bộ. 6. nhưng qua thế kỷ thứ 13, giống mông cổ rất mạnh đã xâm chiếm nước tàu và chinh phục gần hết thế giới tới sát cực bàn của Âu châu (tiệp khắc). sức nam tiến của họ đã tỏa mạt hẳn dân việt ta. trước cái nguy cơ vong quốc này, dân tộc ta đã xếp hàng ngũ sau vị anh hùng trần hưng Đạo. 7. Đến cuối đời trần, hồ quý ly tham lam gây nội loạn trong nước. bên tàu lúc ấy, nhà minh đã đuổi được mông cổ, thế lực đương mạnh, lợi dụng tình thế rối ren của nước ta, đã tràn sang xâm chiếm nước ta. trong 20 năm trời, họ vừa giết chóc, vừa hóa ta theo họ, vừa tiêu hủy văn hóa của ta. họa diệt vong của dân tộc đã tới thì lịch sử ta lại đưa đến một vị anh hùng là lê lợi dấy quân từ lam sơn và sau hơn 10 năm phấn đấu lại khôi phục nền độc lập cho nòi giống. 8. nhà lê làm vua được 300 năm đến khi gần mạt thì trong nước lại xảy ra việc nam bắc phân tranh. trịnh nguyễn hai họ tranh giành nhau luôn liền 200 năm, đến khi lực lượng càng sút kém thì vị anh hùng nguyễn huệ đột xuất để thống nhất cả nước nhưng lúc ấy nhà mãn thanh ở phía bắc đã diệt được nhà minh chiếm lấy trung hoa, thế lực mạnh, họ đã dự định mưu cơ xâm lược của nòi hán nhưng vua quang trung nhà tây sơn trên gò Đống Đa đã dẹp tan hết dã tâm tham lam ô độc ấy. 9. nhà tây sơn thống nhất nước ta được hơn 10 năm, lúc ấy thế lực Âu châu đã tràn cả Á châu và tới đất việt, nhưng vì gia long với cơ đồ yếu đuối của nhà nguyễn câm thống, cái sức mỏng manh trước cái mãnh liệt cường lực của tây sơn, đã phải thỏa hiệp với pháp. sự thỏa hiệp đó, tuy gia long có thống nhất cả trung nam bắc nhưng đã đặt nước ta vào bàn tay pháp. sống trong 60 năm dưới sự áp bức của người pháp, dân tộc ta không lúc nào ngớt phấn đấu. thời kỳ i từ 1800 đến 1884 việc chống pháp là của triều đình. thời kỳ ii từ 1885-1900 việc chống pháp là của văn thân vì lúc ấy triều đình đã hàng pháp hẳn hoi. rồi thời kỳ iii từ 1900 đến nay, việc chống pháp là hoàn toàn của dân chúng. cuộc chống pháp của nước ta suốt cả 80 năm nay, tuy có người bày ra chủ trương nọ kia, nhưng thực ra có một ý nghĩa là cứu quốc tồn chủng (cứu nước giữ nòi). bởi vì thời kỳ này, ta có thể lấy một người làm tiêu biểu là cụ phan bội châu (phan sào nam), chính cụ lúc sinh thời

từng nuôi cái ý kiến đó, và công cuộc cách mạng của cụ vận động suốt đời cũng chỉ nhằm vào cái chủ ý ấy. hơn nữa, cụ là một người đứng nối giữa phong trào văn thân và dân chúng. cụ đã nối chí người xưa và gây cái thời nay. về tinh thần, cụ vừa là đại biểu đầy đủ cho văn hóa cũ vừa là môi giới sáng suốt cho văn hóa mới. về thời kỳ này, người tiêu biểu sáng suốt nhất chỉ là cụ phan sào nam, nhưng rồi đây, cái ý niệm của cụ có đạt được không? cái quá khứ kia với bao kinh nghiệm giáo huấn sáng suốt sẽ đưa cuộc chiến đấu đến tất thắng, mang lại một tương lai quang vinh cho nòi giống. phan sào nam di chúc “cứu quốc tồn chủng”, cái trách nhiệm đó, ta tài hèn đức mọn không làm nổi, thực là tủi nhục với nước nòi, kỳ vọng người sau kế bước đạt tới. cái quá khứ ấy có thể chia ra 4 thời kỳ: 1. môn hóa (thần tắc kỳ) 2. văn hóa (Đế tắc kỳ) 3. hồng hóa (danh tắc kỳ) 4. dân hóa (dân tắc kỳ). bốn thời kỳ này sẽ phân định và nói ra như dưới đây. lịch sử việt đã có hơn một vạn năm chia ra 4 thời kỳ sau đây: 1. môn hóa (thần tắc kỳ) 2. văn hóa (văn lang Đế tắc kỳ) 3. hồng hóa (danh tắc kỳ) 4. dân hóa (dân tắc kỳ). 1. thời kỳ thứ nhất: thời tiền việt lấy núi thái sơn làm hoa địa và tranh đấu với nòi hán, rồi sau những cuộc tranh đấu ấy phải lùi về phía nam. 2. thời kỳ thứ hai: thời kỳ hồng bàng lấy phong châu làm hoa địa để gây lại nền tảng xưa. 3. thời kỳ thứ ba: bắt đầu từ khi thục phán lập ra Âu lạc, rồi tần (hán) xuống xâm lăng, từ ấy sự gắng gỏi của dân tộc dồn vào thăng long lấy làm trung tâm sinh hoạt, mưu một cuộc tái sinh cho nòi giống. 4. thời kỳ thứ tư: bắt đầu từ thời kỳ gia long tiếp xúc với Âu châu cho đến năm 1939 và từ 1939 đến 2000. 2. giẢi thÍch tỪng thỜi kỲ 2.1. môn hóa kỳ (thần tắc kỳ) tại sao gọi là môn hóa? vì cái đặc sắc của thời kỳ này là dân tộc ta đã chế ra đươ c văn tự là thứ chữ môn thư, chữ hoa hình như con nòng nọc, ta gọi là lối chữ khắc dấu mà người hán đã dùng để chế ra chữ hán của họ. thứ chữ môn này, ở mường còn có nơi dùng, nhưng ở dân thái thì đã bị pha trộn với chữ phạn của Ấn Độ mà biến ra một thứ chữ

riêng. Ở ta dấu tích thứ chữ ấy còn sót lại ở trong quan tài bà dương thái hậu (vợ vua Đinh tiên hoàng sau lấy vua lê Đại hành) tại làng sơn dược tỉnh ninh bình, muốn biết gốc tích thứ chữ ấy, ta phải lùi lại thời kỳ hơn một vạn năm trước. theo sử tàu thì vua đầu tiên của họ gọi là hoàng Đế, theo sử ta thì vua đầu tiên của ta gọi là viêm Đế. hai ông vua ấy là tiêu biểu 2 hành trong ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. số học của tàu bắt đầu từ số 1 biểu hiệu của thái cực, lúc đó là đời bàn cổ (hỗn độn), sau mới sinh ra tam tài là thiên - Địa - nhân, trời Đất chia ra 5 phương thuộc 5 hành là Đông (mộc), tây (kim), nam (hỏa), bắc (thủy), trung (thổ). 5 phương ấy là do 5 giống người làm đại biểu cho 5 hành và 5 sắc, nên những người đại biểu đã dùng 5 sắc mà đặt tên: * - bắc phương (thủy) sắc đen gọi là hắc Đế. * - tây phương (kim) sắc trắng gọi là bạch Đế. * - Đông phương (mộc) sắc xanh gọi là thanh Đế. * - nam phương (hỏa) sắc đỏ gọi là viêm Đế. * - trung phương (thổ) sắc vàng gọi là hoàng Đế. theo thứ tự như trên thì loài người có văn minh trước nhất là giống bắc phương (hắc Đế) tức là nòi Địch, giống người tối cổ ở sibérie, thứ đến là người khương ở tu di (palmir) thuộc tây phương rồi đến giống người ở Đông phương (di) kế đến giống viêm tức giống việt ta ở nam phương và giống hán là tập đại thành của mọi cái của các giống trên. tóm lại tất cả trên đây ta có thể thu thành đồ biểu: * - thái cực * - tam tài (thiên Địa nhân) * - thủy [ hắc Đế ] * - kim [ bạch Đế ] * - mộc [ thanh Đế ] * - hỏa [ viêm Đế ] * - thổ [ hoàng Đế ] văn minh theo sử tàu, khi có lễ thắt nút tự bao ly (tức phục hy) nhận thấy con long mã (rồng) dưới sông hoàng hà nổi lên có 55 điềm, bèn ghi lấy rồi chế ra bát quái đến đời hoàng Đế mới sai ông phương hiệt dựa vào các dấu của bát quái mà chế ra thành chữ. sau này vua hạ vũ lại nhân những vết trên lưng rùa thấy ở Đông lạc mà vạch ra cửu trù. chữ hán và khoa số học của tàu do ở đấy mà ra, mà 2 cái đó gọi là hà Đồ - lạc thư, nhưng đó là do ghi chép của các sử gia tàu và căn cứ ở sử tàu là dựa vào xuân thu của khổng tử và các kinh sách của khổng tử đã san định lại, mà các kinh sách ấy đã bị sai lạc từ đời phần

diến (hủy các điển tích xưa) trong đời nhà chu, chứ không phải bị sai lạc sau đời tần thủy hoàng là người đã đốt sách và chôn học trò. nhưng dù sao hà Đồ và lạc thư cũng đã có trước đời hoàng Đế mà chính là của dân việt ta đã dùng làm vận dụng cho văn hóa khi còn giữ được chỏm thái sơn làm hoa địa để khống chế vũ trụ, vì vậy nên cái hèm (totem) của ta đã lấy con rồng làm biểu tượ ng. sau đời viêm Đế, khi dân tộc ta đã phải lùi xuống phía nam, lấy phong châu làm hoa địa về đời hồng bàng vua hùng vương thứ vi còn cống hiến qua tàu một con rùa chu vi 8 thước, bề mặt và trên mai rùa ghi đủ lịch số, thiên văn, số học, triết học. sau vua nghiêu đem kê cứu mà lập ra lịch rùa (qui lịch) và ngay đến thời lý nhân tôn, còn bắt được con rùa trên mai có văn tự, đem khảo sát thì nhận được 4 chữ “y bát thần khí”, xem đấy đủ biết hà Đồ (Đồ vẽ trên mình rồng) và lạc thư (sách trên mai rùa) vốn xưa là của giống việt ta. trong thời gian chiếm lĩnh núi thái sơn làm hoa địa, ngoài cái đặc điểm chế ra văn tự (chữ môn) dân tộc ta đã tới thời nông nghiệp (theo triết học gọi là thần tắc) còn xã hội tổ chức thì cùng theo lối bộ lạc gọi là lạc chế. dân từng nơi bầu ra lạc hầu và lạc tướng. ruộng cấy chia đều gọi là lạc Điền, dân cấy rồi thì nạp thuế (theo lối bộ lạc bình sản kinh tế), nước thì gọi là làng nên sau này mới có những danh từ như chữ văn lang đời hùng vương và Đào làng đời lý phật tử (chữ làng ấy sau này theo chữ hán mới viết đọc là lang rồi sai lần đi). trong thời môn hóa này tức là thời kỳ thần tắc, dân tộc việt đã dùng 2 vật sau này làm hèm (totem): 1. rồng: nghĩa là tỏ ý to lớn nhất lại hay biến hóa và đầy năng lực phấn đấu. 2. tiên: tỏ ý cao siêu sáng suốt, trường thọ. hai thứ trên là biểu dương của nguyên tố về vật chất và tinh thần. nhưng chiếm núi thái sơn được một thời gian thì lại phải tranh đấu với các giống di, khương, Địch và hán, nhất là với giống hán từ thiên sơn (altai) tràn xuống khá mạnh nên hoa địa thái sơn phải mất và dân tộc việt phải lùi xuống phía nam, lấy song dương tử và ngũ hồ, ngũ lĩnh làm căn cứ địa. Đó là lần nam thiên di thứ nhất, cuộc đấu tranh này đã chuyển từ văn hóa đến vũ lực nên các vũ khí đã tiến lên đến nghề rèn sắt. vì có rèn sắt nên mới có nam châm, cái gốc chính của địa bàn (boussole - lressole). cuộc nam thiên lần thứ nhất này là thời kỳ viêm Đế, sau cuộc ấy hoa địa đã mất quyền khống chế vũ trụ cũng mất, mà nơi căn cứ mới là miền dương tử và ngũ hồ, ngũ lĩnh lại thấp nên tình thế dân tộc đã bị lung lay về mọi phương diện văn hóa, quốc phòng. sự thất bại đời viêm Đế đã để cho ta những kinh nghiệm sau đây: a. mất thái sơn là mất cả sinh hoạt về vật chất và tinh thần vì đấy là một trọng địa, nơi nào chiếm được sẽ làm lễ phong thiên chiêu hồn tá (hồn tế?) (tá = phụ tá, tế = chủ) tất cả các tử sĩ và đắp nằm ở trên các ngọn núi đền thờ phụng tổ tiên, lại là một căn cứ quan trọng cho việc quốc phòng, có đủ điều kiện về kinh tế văn hóa để tiến, lui, đánh, giữ.

b. vì sự thất bại ấy nên mất hà Đồ - lạc thư tức là mất vận động về tinh thần và mất cả bản lĩnh sống, cùng sáng tạo và đấu tranh. c. sau khi nam thiên, các bộ lạc bị tan nát về thời kỳ trên, chúng ta có thể tóm tắt lại như sau: 1. Đại việt viêm Đế: a. trọng điểm: ngũ hồ, ngũ lĩnh. b. kinh tế: lạc chế bình dân bộ lạc. c. văn hóa: chữ môn, hà Đồ - lạc thư. d. hèm: rồng tiên. 2.2. văn hóa kỳ (Đế tắc kỳ) tranh đấu nam tiến: a. mất thái sơn (hoa địa: đất làm nổi, phát huy tinh hoa). b. hoạt động: từ quốc gia bình diện đến quốc tế lập thể hoạt động sang quốc gia lập thể. c. bộ lạc: băng hoại phân tán. d. văn hóa: Đế tắc kỳ. thời kỳ này bắt đầu nam thiên từ lưu vực sông dương tử và lưu vực 5 hồ 5 núi xuống phong châu, lấy nơi này làm hoa địa mới, lập ra nước văn lang, nên thời kỳ này gọi là văn hóa tức văn lang mà ra, đoạn sau khi mất hoa địa thái sơn xảy ra, văn minh thời này đã tiến lên sự trừu tượng, tư tưởng đón mọi quan niệm vào một mối do trời định (Đế) nên thời kỳ này gọi là Đế tắc kỳ. sau cuộc băng hoại của dân tộc việt về cuối thời môn hóa, cái công việc quan hệ nhất của văn hóa là phải liên lạc những phần tử bị tan rồi để gây lại thành một khối, câu chuyện điển hình là một bọc trăm trứng tức là sự biểu tượng cho sự liên lạc ấy. lưu vực của giống việt chiếm cứ lúc bấy giờ là suốt từ 5 hồ, 5 núi cho đến hết phía nam, bao quát cả miến Điện xuống đến mã lai ăn ra các đảo ngoài Đông hải và java phillipine. vậy mà về phía người hán thì phạm vi hoạt động quốc tế của họ, phía nam chưa ra khỏi núi hằng sơn, phía Đông không quá Đông hải, phía bắc chưa quá an sơn (hồ baikal) và tây không quá lưu xá. còn về thời hồng bàng thì phạm vi hoạt động quốc tế của ta sau khi lấy phong châu làm hoa địa, dân tộc ta đã lấy ngũ hồ làm trọng trấn phía bắc, miến Điện làm trọng trấn phía tây. hiện nay ở lưu vực sông hằng (gange) ở Ấn Độ còn hơn 10 triệu người thái thuộc giống ta và ở miến Điện có giống thái nói nửa tiếng mường và nửa tiếng thái. tục hèm về thời văn hóa (tức hồng bàng) này là vẽ hình mình, ăn trầu, nhuộm răng, thờ cúng tổ tiên, và các thứ thần, cắt tóc ngắn, quần áo lúc ấy thì lấy mảnh vải khoét lỗ mà

chui đầu qua, không tay (như lối áo nâu nhiều miền quê còn mặc khi rước thần) và lối áo giáp ra trận như áo giáp mây khi mạnh hoạch chống nhau với gia cát lượng. về tín ngưỡng thời này, ngoài việc thờ cúng tổ tiên và các thần còn có việc chử Đồng tử tu theo đạo tiên, mà hiện nay di tích còn ở Đầm dạ trạch (hưng yên) và ở núi nam giới thuộc cửa sót (hà tĩnh) cam lộc. còn việc thần tản viên chế ra gậy thần và sách ước, tức là cái triết sáng tạo của ta: gậy thần là vô vi biến hóa, 2 đầu là biểu hiệu sự sống chết và ở giữa tay nắm để vận dụng dẫn dắt loài người. sống là bắt nguồn ở cái chết, chết là bắt nguồn của cái sống, vậy cần phải nắm giữ thế nào để vận động sư sống chết để quân bình, tức là sự tiến hóa thích trung, còn sách ước thì nguyên chỉ là tập giấy trắng, trông vào trắng tất phải nghĩ ngợi, tâm lý chung ai ai cũng ước vọng điều hay, điều tốt, do đó mà sáng tạo ra những cái hay, cái tốt và tiến bộ. chế độ sinh hoạt về thời này lúc đầu cũng như về thời môn hóa tức là theo lối lạc chế cùng lạc hầu và lạc tướng trông coi dân cày cấy (lạc Điền) nhưng rồi dần dần cũng đi tới trạng thái quốc gia. theo một ngạn ngữ ở nghệ an nói “Ông tát bể, ông kể sao, ông đào sông, ông trồng cây, ông xây rú, ông trụ trời” ta có thể thấy đó là dân tộc vô danh của thời ấy, đã xây dựng nên quốc gia và mưu cuộc lớn cho dân tộc. Ông tát bể (đại biểu cho dân nông nghiệp) lúc ấy hóa những đồng lầy ở gần biển thành những ruộng cây lúa và trồng trọt, lấp bể mà trồng trọt. Ông kể sao, đại biểu cho thiên văn khí số, để hiểu biết khu vực phương hướng tìm ra lịch số chỉ về những thời tiết thay đổi. Ông đào sông, đại biểu sự khai phá giao thông để mở mang ngòi lạch dẫn thủy nhập điền, tránh nạn lụt, thông thương tiện lợi. Ông trồng cây, bao quát cả về nông nghiệp, trồng trọt, mục súc, săn bắn, di dân. Ông xây rú, khai phá rừng núi để làm dinh trại (quốc phòng) và trồng trọt, đan cây,xẻ gỗ, v..v.. Ông trụ trời, làm ra nhà để chống mưa nắng. sở dĩ làm như vậy được là vì thời ấy nơi trung tâm văn lang đã biết dùng sắt rồi. dân việt trong những cuộc đấu tranh kịch liệt chiếm giữ thái sơn đã vượt qua tuổi thạch khí, đồ đồng đến sắt, nên thời hùng vương thứ vii giặc Ân (nhà Ân giống hán) tràn xuống xâm lấn, phù Đổng thiên vương đã dùng ngựa sắt để chế ngự lại. trong truyện thánh gióng còn dùng cả gậy tre đánh giặc, tướng Ân lúc ấy là cao tông vũ định mang quân xuống ta nên trong kinh dịch mới có câu: “cao tông phạt quỷ phương, xích quỷ nam phương tam niên khắc chế” và ở đối diện với đền gióng ta còn thấy đền thờ vũ Địch (thờ giặc). lối đền ấy giống như lối đền phạm nhan (nguyễn bá lĩnh), một tên tàu lai làm gián điệp chỉ đường cho quân nguyên (mông cổ) đã đứng đối diện với đền thờ đức trần hưng Đạo (khi lễ thánh gióng thì quay mông sang đền vũ Địch, khi lễ đức thánh trần thì quay mông sang đền phạm nhan).

trong cuộc xâm lăng này thì người Ân lại học ta được nghề châm cứu của bà ma thị, dùng ngải cứu đốt vào chỗ đau mà trừ bệnh, mà chính bà đã truyền cho quân lính Ân. về hôn thú thì việc mễ nàng (ba nàng mỵ nương) con vua hùng vương là tiên dung lấy chử Đồng tử là một thứ hôn thú thời ấy có gả và cưới hẳn hoi. tóm lại, thời kỳ này là thời kỳ gắng sức của dân việt để gom góp lại sự tan rã của Đại việt cũ, xây dựng lại nền móng thống nhất phương nam. Đặc điểm của thời kỳ này là liên lạc, sáng tạo và đối phó: a. liên lạc hết thảy các phần tử bách việt xưa để thành lập một quốc gia phương nam. hiện nay những dân tộc cùng giống việt ấy, ta còn thấy tản mát ở ba thục 50 triệu người, ở vân nam, hồ nam. phúc kiến, kể cả lưỡng quảng, người việt xưa còn nhiều rồi người thái, mường, chàm và các giống ở phillipine và nam dương thời ấy cũng là giống bách việt cả. b. sáng tạo một văn hóa mới như gậy thần sách ước, ông tát bể, ông kể sao, v.v... dựa vào nền gốc cũ xưa, xây đắp một thứ mới để vận dụng cho sự liên lạc trên. c. Đối phó một giống hán luôn luôn xâm lấn nên việc quốc phòng là cần thiết, sắt đã phát minh từ khi còn chống giữ thái sơn, nên khi xuống phong châu đã biết dùng sắt ngay để làm khí giới quốc phòng. về chuyện phù Đổng thiên vương, nói là đứa trẻ lên ba tuổi vươn vai là biểu tượng lực lượng dũng mạnh kỳ dị của dân tộc, là tỏ ý toàn dân tham gia kháng chiến, nói gậy tre giáo mác là biểu hiện kháng chiến toàn thể dân tộc, áo mặc bằng bông lau (lá lau) biểu hiện sự bình dân. rồi việc phù Đổng đánh giặc xong lên núi sóc sơn mà hóa là biểu hiện sự cao khiết hy sinh vì nghĩa vụ trọn vẹn rồi thì danh lợi cũng không màng. trong lúc thực hiện ba điều kiện trên đây thì dân tộc việt ở rải rác các bộ phận phía bắc trên sông dương tử từ thời xuân thu chiến quốc là thời loạn ly của giống hán, mà lần lượt mưu tính việc khôi phục lại khu vực xưa, trước hết là sở, rồi ngô, rồi việt, đều là những nước bách việt cả, tổ chức những cuộc hành binh lớn lao để lần lượt tranh giành lại đất cũ, đã từng thắng và chiếm được ngôi bá chủ (việt) và xưng hùng (sở) ở trung nguyên. bởi vậy nên từ cuối đời xuân thu ở tàu, bởi văn hóa, họ đã tìm mọi cách để hủy diệt những cái cũ đi và học lấy cái mới thông dụng ra, giống hán thì biên chép lại, sắp đặt lại cho nó có hệ thống để xóa nhòa những dấu vết cũ của giống việt, di, khương, v.v... từ trước, mà coi các giống ấy chỉ là giống mọi rợ. người đại biểu cho công việc ấy là khổng tử, nên học thuyết của khổng tử đã trái ngược với học thuyết của lão tử ở phương nam. về chính trị thì họ chủ trương hưng hoa diệt di (có cả việt ở trong). lối nhân nghĩa và đạo đức của khổng tử là hóa và diệt các giống khác, nhân nghĩa để liên lạc thay binh đao, đạo đức thì như câu sách nho: “thoái nhi tu đức nhi hậu miêu tộc từ suy dao, đắc đạo khả dĩ thứ nhân” nghĩa là lùi không đánh, lấy đức mà hóa làm dân mình. cái thủ đoạn ấy cũng là một lối đế quốc về đời chu, nên thời ấy mặc tử mới đề xướng thuyết kiêm ái để đối lại. thuyết của mặc tử cũng giống như thuyết xã hội ngày nay. ngoài những việc trên này về thời văn hóa (văn lang), chúng ta còn ghi được những việc như sau:

1. Đối nội: chính thể hồng bàng là từ chính thể tiểu việt (bộ lạc rời rạc lên đến Đại việt (liên lạc bách việt) chính tự có hoàng Đế lạc long quân sau là hùng vương hay lạc vương (chữ long của tàu là do chữ thuồng luồng của ta), nước là làng (văn làng), dưới vua là lạc hầu tiên chỉ và lạc tướng, lý trưởng. sinh hoạt: lạc Điền, ruộng của làng được chia đều (quân điền chế), nòi giống việt lúc ấy chia làm 3 hệ: a. lạc việt ở quý châu, tứ xuyên (ba thục), xiêm la, miến Điện, mã lai, java, phi luật tân. 2. Đối thoại: vừa tiêu cực vừa tích cực, đề kháng tiêu cực bằng xây dựng lại hay báo thù và tích cực bằng chiến đấu. trong thời gian này, người hán còn mượn của ta mấy thứ: 1. Đàn bầu (âm nhạc) 2. cung tên (võ khí) 3. châm cứu (y dược) 4. rùa (quy lịch, thiên văn) 5. tiên đạo: tôn giáo học thuyết là lão giáo biến thái. 6. nghề đúc sắt, hoàng Đế đánh xi vưu việt tìm kiếm chế được nam châm. tóm lược văn hóa kỳ: 1. Đời hồng bàng: a. tái kiến văn hóa cũ b. liên lạc dân tộc bị băng hoại c. lập lại văn hóa mới, gậy thần sách Ước đi ngay vào sự dùng sách để gây dựng quốc gia. d. chế độ quốc gia bình sản kinh tế, lạc chế theo chế độ quân chủ phân quyền. e. hèm vẽ mình, ăn trầu, nhuộm răng, cắt tóc ngắn. 2. Đối ngoại tắc: a. Đấu tranh bằng văn hóa và giao hảo bằng văn hóa với giống hán. b. Đấu tranh bằng vũ lực nếu bị xâm lăng, hay thừa cơ loạn ly của giống hán (ví dụ chống Ân hay việt bá trung nguyên, sở hùng chiến quốc). 2.3. hồng hóa kỳ (danh tắc kỳ) thời kỳ này bắt đầu từ thục phán là cháu ngoại vua hùng vương từ ba thục xuống chiếm văn lang làm Âu lạc. trong sử nói, ông ta chiếm đất vua hùng là theo lời dặn của ông tổ ba đời thì việc không lấy được mễ nàng, nhưng có lẽ không đúng. tuy rằng đời hùng có

tục đồng tính kết hôn (theo thuyết của j j rousseau) việc từ hôn trên nếu có cũng chỉ là việc trong nhà, không có gì thái quá như vậy và tuy xác nhận thục phán là người nhà vua hùng, là đương nhiên lên thế ngôi vua hùng, không phải là tranh cướp. Điều mà chúng ta cần chú ý là sau khi thục phán lên ngôi, xưng là an dương vương, đổi văn lang là Âu lạc thì kinh đô lại đổi từ phong châu về loa thành (thành trôn ốc gọi là cổ loa) từ phong châu về phúc yên xa hàng trăm dặm. thành trôn ốc xây cất kiên cố cao trăm trượng. muốn rõ những ý nghĩa ấy ta phải hiểu bên đối phương giống hán tình thế ra sao? lúc ấy là thời chiến quốc, dân bách việt giữ trọng trách ở phía đông dương tử đã dồn cả vào một nước sở là một nước hùng cường (trong thất hùng), trong 7 nước hùng cường ấy, tần là nòi khương trội hơn hết, đi tiêu diệt các nước khác, sở cùng ở trong các nước bị tiêu diệt. ba thục bị tần chiếm trước tiên, sa u khi thống nhất trung nguyên, đối với hán tần thủy hoàng cho tiêu diệt văn hóa đế quốc chủng tộc của nhà nho đi, đối với Địch ở phương bắc, tần dùng vạn lý trường thành để ngăn cản, đối với bách việt ở phương nam thì cho người đem quân sang đánh rồi đồng hóa. xem đây, ta thấy thục phán không phải là việc riêng định thôn tính (hay đổi tên cũng thế) nước văn lang để lập ra nước Âu lạc mà thật ra là vì việc chống giữ cho no i bách việt, theo mưu kế của cao lỗ. thục phán xây loa thành, vòng trôn ốc dài 100 trượng có gắn 9 vòng là tỏ cái đạo sống tiến hóa của dân tộc từ nhỏ ra to, từ hẹp ra rộng và bách trượng dài là để kỷ niệm 100 giống việt, còn cái nỏ móng rùa của ông cha ta chỉ là cái liên nỏ bắn 100 phát một của ta chế ra, người hán học được và truyền đến đời tam quốc thì mất. nỏ ấy là biểu tượng của linh cổ thần tắc, quân sĩ tinh nhuệ bách chiến bách thắng, mà sách lược cao lỗ là người đặt ra. ta để ý điều này của thục an dương vương dựng Âu lạc được ít lâu thì nhâm ngao sang đánh. trước Đà và ngao, Đồ thư và liễu lộc đã đem 50 vạn vừa quân vừa dân sang đánh và hóa dân miền ngũ lĩnh. Đồ thư và liễu lộc bị dân lục lương (6 giống cứng cổ) đánh cho thua và bị giết, như vậy thì thục phán xây loa thành không phải là để tranh ngôi với vua hùng, mà ông ta là đại biểu trong lục lương vậy. thời kỳ hồng hóa này việc chống đánh của lục lương là một việc quan trọng. Đáng ghi nhất là việc mở đầu cho thời kỳ này, theo ý nghĩa của tập thông luận này vậy. hành động của thục phán vừa là đối ngoại cách mạng vừa là quốc gia cách mạng. nhưng rồi thục phán đã thất bại có lẽ là vì đi quá trớn và vì giết cao lỗ đi, mà không đủ sức vận dụng sách lược của cao lỗ, Âu lạc bị triệu Đà là tướng tàu cướp mất, dân bách việt từ đấy lại bị tan rã. 2.3.1. hỗn hợp thời đại quân cách mạng, lực lượng có thể gọi là chính thức bắt đầu từ khi tần thủy hoàng thôn tính cả 6 nước rồi cho Đồ thư sang đánh ngũ lĩnh. từ lúc an dương vương mất Âu lạc, từ đấy trở đi dân bách việt lại phải một phen băng hoại và lưu tán, nên công việc của dân tộc lại phải cố để mưu một tương lai thoát khỏi sự áp bách của dị chủng và khôi phục lại những nền gốc xưa. thời đại này là thời đại hỗn hợp bắt đầ u từ lúc triệu Đà lập ra nước nam việt cho đến khi vua Đinh dựng lại nền độc lập hoàn toàn. thời hỗn hợp này chia ra làm hai thời kỳ: nam việt thời - tiểu việt thời:

a. nam việt thời: triệu Đà là quan nhà tần theo nhâm ngao sang thôn tính bách việt, sau khi Đồ thư, liễu lộc chết trận, phiên ngung (bây giờ là quảng châu) lại ly sở cho Đà làm chức lệnh ở long xuyên. Ít lâu sau, ngao chết, Đà lên thay rồi sau khi tần mất nước, Đà chiếm được Âu lạc mới xưng là vua, đặt tên là nam việt (2072) trước thiên chúa (?). vì sao triệu Đà lại lấy tên nước là như vậy? mà chữ việt ấy có đúng không? theo sách chúc phương của nhà chu nói về dân bộ thì từ dương tử giang trở xuống có cửu mân, bát lạc, tam Ân là bách việt, chữ việt ( ) này mới đúng là tên của ta, còn chữ việt ( ) của triệu Đà là có ý khinh mạn và nhất là có chữ nam ( ) ở trên, mới càng tỏ vẻ một tên đặt có chính trị ở trong. việc triệu Đà là nòi hán sang ta dựa vào lúc lư c lượng suy vong của ta mà lập được nền thống trị nhưng ở về phía bắc đang còn có ngô việt, mân việt, v.v... nên Đà mới gọi là nam việt và sở dĩ Đà lập được nam việt cũng là nhờ tình thế loạn ly của giống hán sau đời tần và các giống việt ở phía bắc chống đỡ cho cách biệt hẳn với hán, mà phiên ngung lại là nơi hẻo lánh xa xôi. việc làm của triệu Đà từ khi diệt được Âu lạc mà lập ra nam việt lại có hai mục đích khác nhau. lúc còn nhà tần thì Đà là một đại biểu cho chủ nghĩa xâm lược của tần, chỉ biết theo chính sách của tần mà làm tròn bổn phận. Đến khi tần bị diệt thì Đà vừa là tình thế, vừa nhân cơ hội loạn ly mới tự xưng làm vua chiếm cứ một phương, nhưng dù cố ý hay vô tình, công việc làm của triệu Đà cũng chỉ dồn vào mục đích chung của giống hán là tiêu diệt các dân tộc xung quanh hán. lúc đầu, Đà theo kế hoạch của tần là đem quân sang đánh và đem dân sang hóa ta theo họ, nhưng việc đánh đã gặp nhiều sự khó khăn gian nan do sức chống đánh và mưu mẹo du kích của dân lục lương, còn việc đồng hóa cũng không đem đến kết quả là bao nhiêu. ta cứ xem hiện nay còn một số người mán nói tiếng quan hỏa ở các miền rừng xứ bắc việt thì đó là di tích sự đồng hóa ấy. Đến khi lập thành nam việt thì triệu Đà tuy xưng Đế xưng vương nhưng cũng phải thỏa hiệp với dân việt và cũng vào hàng ngũ chống xâm lăng của hán sau này. tuy mục đích của triệu Đà chỉ là mưu một nền thống trị cho mình và cho con cháu mình, nhưng không thể đi trái ngược ý định và nguyện vọng ở xung quanh của mình đang cai trị, nên chính sách triệu Đà lúc ấy chỉ là kiểm soát, không đồng hóa nổi nên dân việt vẫn đư ợc tự mưu sự sinh hoạt theo lề thói của mình. sách lược của triệu Đà lúc bấy giờ ta thấy chú trọng về quốc nội trong đó có 7 nhân tố như sau: 1. liên lạc các giống việt ở các nơi như ngô, sở, mân để thành lập đồng minh. 2. lợi dụng các giai cấp quý tộc ở mân, ngô, v.v... để kéo cánh về mình. 3. kinh tế: từ dương tử giang trở xuống thực hành chế độ bình sản kinh tế, lợi dụng để kiến thiết quân đội địa phương. 4. chú trọng đến trường sa (hồ nam) là nơi mũi dùi rất lợi hại cho sự xâm lược của hán từ bắc xuống nam. 5. Đối nội: lợi dụng lúc bộ lạc cũ để cho tự trị mưu việc ổn định bên trong. 6. ngoại giao: lợi dụng tình thế còn non nớt của hán vừa cứng vừa mềm để giữ vững địa

vị của mình ở phương nam. 7. thừa hưởng được tình thế lúc ấy, các nước theo văn hóa hồng bàng như Đại chiếm nam dương cũng bị suy yếu nên chỉ lo việc chống bắc. bởi nhờ 7 nhân tố trên nên chiến lược của triệu Đà từ lúc còn hán cao tổ cho đến khi cao tổ chết, lã hậu lộng quyền tuyệt giao với nam việt và khi hán huệ Đế lên, triệu Đà lúc bấy giờ thấy có cơ hội thì yên chí mới xưng thần phụng cống, lúc bị đe d ọa thì cùng với các nước đồng minh phía bắc cùng làm thế ỷ dốc, đem quân đánh thẳng vào hồ nam (trường sa) đánh cho hán sợ rồi lại rút quân về phòng thủ, nhưng sau đó hán sợ, hán điều đình, Đà lại xưng thần như trước. xem đấy ta thấy sách lược của triệu Đà chỉ là mưu riêng cho con cháu mình về sau, và nhân đấy đã vô tình giúp cho các mưu xâm lược của hán về sau này vì triệu Đà mắc mấy nhược điểm sau đây: 1. kiến quốc không triệt để vì Đà là giống hán, dân là giống việt nên giữa kẻ cầm quyền và dân không ai thực lòng với ai. 2. quốc phòng không triệt để, không chiếm được trọng địa trường sa là mũi dùi của sự xâm lược hán xuống phương nam. 3. vì đồng minh là ngô, sở, mân sau khi triệu Đà chết không liên lạc với nam việt mà lại còn thù oán đánh nhau nữa. bởi 3 nhược điểm trên nên sau khi triệu Đà chết chỉ được vài ba đời nam việt lại bị hán thôn tính một cách nhẹ nhàng và khôn khéo, như ta đã thấy việc tướng việt là lữ gia giết cù thị là mẹ ai vương và thiếu quý là sứ giả nhà hán. việc làm của lữ gia chỉ là một phản ảnh của một sức lực rời rạc của dân tộc việt, nên kết quả chẳng ăn thua gì, và mưu xâm lược của hán đã đạt được một cách nhẹ nhàng sau khi xóa nhòa được tên nam việt chỉ là cái danh hiệu biến hình. b. tiểu việt thời trước nam việt của triệu Đà, tàu gọi nước ta là tượng quân, khi hán xóa nhòa được tượng quân nam việt thì đổi nước ta là giao chỉ quận, cắt quan sang cai trị. lúc đầu thủ phủ của giao chỉ là quy lân (thuận thành bắc ninh) sau dời về thương ngô (quảng tây) đến cuối cùng lại dời về phiên ngung (kinh đô cũ của việt). xem sự lùi thủ phủ ấy ta thấy một nguyên nhân gì ở trong chính sách hán hay tần chỉ là quan sang kiểm soát, đó là lối đế quốc thực quan chứ không phải thực dân, bờ cõi của quận giao chỉ là gồm tất cả quảng Đông, quảng tây và nam việt, sau vụ thất bại của lữ gia không phải cứ im lặng mà chịu sự đè nén của nòi hán, mặc dù chính sách của hán coi giao chỉ là nơi cống hiến các sản vật như quế, ngọc trai, chim trĩ, v.v... còn các bộ la c được tự trị theo lối lạc chế xưa. bởi vậy về sau này dưới sự đè nén của thái thú tàu là tô Định, ông thi sách và hai bà trưng mới có cuộc âm mưu chống lại. khi còn tổ chức lực lượng cách mạng vì sự bị tiết lộ, ông thi sách bị giết, vợ ông là bà trưng trắc và em là trưng nhị mới thay ông nắm lấy lực lượng để vừa trả thù vừa mưu cuộc giải phóng cho dân tộc trong một thời gian rất ngắn, hai bà đã thu phục vào tay 65 thành trì, nhưng chống giữ được 3 năm thì lại bị tướng nhà hán là mã viện đem quân sang đánh. trước sự xâm lăng quá mạnh, hai bà bị thua và tự tử chết, đất nước trở lại sự đè nén của nhà hán. xét sự thất bại của hai bà trưng lúc ấy là vì dân tộc việt từ thời nam việt của triệu Đà đã bị tan nát rồi, khi hán diệt nam việt lập ra giao chỉ

quận, tuy chỉ cho quan sang kiểm soát và cai trị, nhưng có nhiều bọn quan thứ sử như tích quang, nhâm diên, sĩ nhiếp cũng đã dùng những thủ đoạn đồng hóa, làm giảm bớt cái tinh thần dân tộc đi nhiều, tuy vậy vẫn có sự kết lập lực lượng mạnh mẽ chống lại xâm lăng của mã viện, việc thất bại của hai bà đã mở đường cho cho nhiều giai đoạn hay về sau trên lịch sử việt. từ cuộc thất bại của hai bà cho đến lúc vua Đinh dựng nền độc lập, non 1000 năm dân tộc ta không mấy lúc không có những vận động giải phóng. bà triệu đời tam quốc, lý nam Đế, lý phật tử, mai thúc loan, v.v... đổ đồng cứ non 100 năm lại có một cuộc cách mạng. tựu trung có một việc ta đáng chú ý nhất là trong thời kỳ này, ông khu liêm dòng dõi hồng bàng đem một số dân thuần túy việt vào phía nam đất nhật nam (quảng bình) lập ra nước lâm Ấp, vừa gây dựng lực lượng dân tộc cũ, vừa ngăn sức tràn ra p hía nam của giống hán. dân chiêm thành này về sau này bị dân tộc ta ở phía bắc vào tiêu diệt đi, kể ra là một sự đau thương, nhưng cũng là việc tất nhiên của lịch sử. non 1000 năm dưới sự đè nén của giống hán, dân chiêm thành chẳng những đã ngăn không cho tràn vào phía nam mà nhiều khi còn mưu khôi phục lại phía bắc, về đời Đường đã giúp vua mai hắc Đế chống lại tàu, gây ra một nước văn lang (nghệ an). những hành động của khu liêm về sau có thể nói là cuộc cách mạng thuần túy việt hết sức tìm cách tiến lên để khôi phục lại căn bản xưa, đó có thể nói là một sự sửa soạn cho cuộc quật khởi hồng việt về sau này. một điều ta còn nên để ý về thời này là văn hóa phía bắc cũng muốn mang văn hóa khổng nho xuống nhồi cho ta, bên Ấn Độ đạo phật (cả bà la môn giáo) cũng đã tràn lan qua các miền chiêm thành, lúc ấy miền này cũng đã hấp thụ văn hóa Ấn Độ nhiều rồi, mới chuyển qua giao chỉ rồi lên bắc. ta có thể nói văn hóa Ấn Độ truyền sang tàu do 2 mũi dùi, một mũi qua tân cương tây tạng vào phía tây nước tàu, còn một mũi từ chiêm thành qua bắc việt sang, nhưng trước khi đạo phật truyền vào tàu thì đạo tu tiên của bách việt đã giúp cho văn hóa tàu nhiều. Đời tần thủy hoàng rất sùng đạo tiên, đời hán vũ Đế cũng rất sùng tín. thần tiên là đạo gốc của ta thời tiểu việt này, trung tâm hoạt động của dân tộc ta là dồn cả vào trong bách việt trước khi nam việt chưa bị hán diệt thì hoa địa của ta từ phong châu rồi lên phiên ngung trọng địa ngũ hồ ngũ lĩnh rồi đến quế châu (quảng tây) từ khi thuộc hán, hoa địa và trọng địa thành vô dụng, lúc này dân tộc ta dồn vào nơi trung tâm hoạt động là tiền sông nhị hà. sau đời vũ Đế thứ sử sĩ nhiếp sau một cuộc thuyên dời thủ phủ sang thượng ngô phiên ngung lại lấy quý sâm (thuận thành) làm thủ phủ, đến đời Đường thì đã bị đổi tên giao chỉ quận (giao châu) sang an nam đô hộ phủ mà thủ đô của ta lại là loa thành (hà nội) nên trung tâm hoạt động của dân tộc ta thời tiểu việt đã dồn cả về vùng loa thành, lúc đó tàu hay ta cũng lấy đây làm đầu não mà đánh lại với họ và cùng lấy đây làm mục đích. 2.3.2. hồng việt thời đại thời đại này là bắt đầu từ vua Đinh tiên hoàng dùng sức vạn thắng (thắng hết cả mọi thứ về lực lượng cũng như văn hóa) để xây dựng nền độc lập cho dân tộc việt. ta có thể nói cái sức vạn thắng của vua Đinh là bắt đầu phôi thai từ đời hai bà trưng trở đi, mà thời quá độ là thời ngũ quỷ ở tàu, các ông khúc hạo, khúc thừa mỹ sang dương diên nghệ rồi ngô quyền chuyển biến nó lên đến đời sau của vua Đinh, cái sức ấy mới vô cùng mãnh liệt. ngọn cờ bông lau là biểu hiện của dân chúng toàn thể, là tinh thần của cái sức vạn thắng tên hoa lư (bông hoa lau) được lấy đặt cho kinh đô nước Đại cồ việt cũng là để kỷ niệm cái tinh thần toàn dân cùng nổi dậy theo cởi mở gông xích cho việt.

nhưng công cuộc cách mạng vạn thắng còn đủ cho ta thấy những đặc điểm về đời tái sinh cải tạo ấy. a. về văn hóa: Đạo phật chiếm độc tôn, trên chữ nho dùng chữ nôm. b. về quân sự: sau việc tiêu diệt sứ quân, quân lính hầu hết là dân quân đều tập trung vào quyền chỉ huy của tối cao nguyên soái, thập đại tướng quân lê hoàn nên việc quốc phòng rất chuyên (chuẩn bị). c. về chế độ xã hội: nước hoàn toàn độc lập, tuy nhà vua có lập lối phong Điền, nhưng theo lối lạc chế quân điền vẫn thực hiện. tóm lại: kiến thiết rất chuẩn bị, nhất là kinh đô lại đóng ở hoa lư có đủ thiên hiểm để đối nội và đối ngoại. sau đời Đinh nhà tiền lê (lê hoàn) lên thay có theo chế độ trước, nhưng lê hoàn tuy là quân nhân, lại là giới nho học, nên có hơi thiên về nho, vả lúc ấy, đối ngoại vừa tàu vừa chiêm thành đều phải dùng vũ lực nên không cải tạo được bao nhiêu. Đến đời sau là ngọa triều, chính thể lại thối nát, không tiến được bước nào, cũng như việc kiến thiết cũng thế, nhưng cùng là một thời kỳ quá độ để chuẩn bị cho nhà lý về sau. lê ngọa triều chết, lý công uẩn là thập Đạo tướng quân lên làm vua, từ đây việc kiến thiết bắt đầu nảy nở, kinh đô từ hoa lư dời ra thăng long, rộng rãi hơn, vua nhà lý đã xây đắp được nhiều việc đáng ghi. từ khi chế độ phong kiến bị đổ, chế độ quân điền lại áp dụng cho toàn dân, văn hóa tuy sùng phật nhưng lại chú trọng về nho có sức ứng dụng vào việc kiến thiết nhiều hơn, quân đội chú trọng về dân binh, lấy nông dân làm binh chia ra từng khu huấn luyện để dân có thể làm lính, chính trị lấy triều đình hợp với quốc dân, vua thường đến từng làng ăn họp và hỏi ý kiến dân. về đối ngoại, nhà lý thừa dịp nhà tống có cuộc chi a rẽ tân cựu đảng, sai lý thường kiệt mang quân sang uy hiếp hai châu khâm liêm để làm tan sách lược của tàu định lăm le mưu xâm chiếm. công cuộc này đã gây một thời kỳ quá độ cho nhà trần về sau chống mông cổ. hết lý, trần lên. cuối lý sự xa hoa của triều đình không vừa lòng dân và vì vua đã tỏ ra chuyên chế độc đoán. nhà trần lên thấy ý dân đã cao, có quan niệm mạnh mẽ về quốc gia mới nhân đấy lấy vua làm quốc gia, chế độ phong kiến trang điền bỏ hẳn, chính nhà vua ở tức mạc cũng không có gì, mở rộng trường dạy văn và võ, cấm ngặt uống rượu và đánh bạc, nho và phật đồng thời thịnh hành và khuyến khích, vua già thoái vị làm cố vấn (thái thượng hoàng) và đi tu (tránh nạn vua ít tuổi và non nớt). quốc sử bắt đầu chép lấy gốc từ triệu Đà dựng ra nam việt, dùng chữ nho để phổ thông văn hóa, nhờ có sự cải tạo văn hóa ấy mới chống được mông cổ, một sức mạnh qua thế giới lúc bấy giờ. trần suy, hồ quý ly cướp ngôi, lúc ấy ý thức kiến thiết trần đã cằn và trái thời không hợp với quốc dân. quý ly có tài nhưng không thành nên việc xã hội không làm nổi trừ đạo phật, cải lương nho, mở bờ cõi thiên đô về thanh hóa, rút cục gây nội l oạn, nhà minh thừa cơ hội tràn sang, vì vậy mà mất nước. xét sự mất nước này, tuy bấy giờ hán mới đem binh sang đánh chiếm, nhưng thực ra từ đời trần nhân tôn trở đi, nước nhà đã quá thiên về nho học, kinh tế phần nhiều dùng toàn đồ tàu. nghệ thuật như văn chương ca xướng cũng đã bị tàu hóa thì sự mất nước chẳng phải đời hồ mà từ trước lúc ấy.

20 năm minh chiếm cứ, dân bị bắt buộc theo tàu, phải mặc áo minh, sách vở phải bị tịch thu đem về tàu đốt đi, bắt dân phải tìm ngọc trai, săn voi trên rừng để cống hiến mọi thứ thật là đau khổ. nhưng có sự đè nén thì sự quật cường càng cao, vì vậy mà có cuộc khởi nghĩa lam sơn của vua lê thái tổ bật lên, hơn 10 năm chống đánh bằng toàn lực hăng hái, khiến quân minh phải bỏ đất việt kéo quân về nước. cuộc cách mạng lam sơn đã thành công bằng đủ mưu mẹo khôn khéo của vua lê. trong 10 năm nhà minh đã hà hiếp bóc lột, dân ta bị hao mòn cả vật chất lẫn tinh thần. cách mạng xuất phát được không phải là dễ, nhưng vua lê đã khéo léo lợi dụng ngoại giao với chàm và lào làm hậu địa, lại khéo léo biết dùng các cách đánh chiến thuật nên quân minh dù mạnh cũng không chống lại được, vì họ chỉ có quân đội sang đông, thành trì bền vững, nhưng vua lê có toàn thể dân chúng ủng hộ. vua lê lên làm vua lúc ấy như trong cái nhà sụp đổ, nên việc chỉ là sửa soạn, đối nội còn vướng dòng dõi nhà trần cùng trăm người ủng hộ, nên đối ngoại cũng là một việc gian nan về ngoại giao, về phía quốc dân thì tinh thần đã lên cao, sự cải tạo những chế độ cũ là cần thiết, nhưng mà vua lê thái tổ không đủ sức làm thỏa mãn lòng dân, vì vậy mới có việc loạn của nghê dân và việc giết công thần. Đến đời lê thánh tôn, sự kiến thiết mới quy định và thực hiện, các làng được tự trị (theo lạc chế), ruộng đất cùng chia đều (công điền) nhưng cũng cho những người có tiền tậu để làm tư sản, chính trị vừa phân quyền (làng) vừa trung ương tập quyền (triều đình), pháp luật làm mới lại và rất rộng rãi kỹ lưỡng, giáo dục mở rộng (24 điều giáo hóa ra khắp dân chúng). quân lệnh cũng quy định lại và gia tăng thêm, củng cố quốc phòng, đất đai khai khẩn thêm, đê điều đắp lại kiên cố, các nghề nhất là nghề thuốc nam được khuyến khích. một việc đáng ghi nhất là việc làm lại quốc sử lấy gốc từ đời hồng bàng, có lẽ đo là do các kết quả kê cứu từ đời nhà trần đã tìm ra được những gốc gác xưa mà vì thế quân minh mới cho thu hết các sách vở của ta đem về làm lăng chăng? sau đời lê thánh tôn ít lâu, các vua kế nghiệp không đủ sức thực hiện các chế độ trước, các chế độ ấy đã gây ra một sự thể mới trong dân chúng, rồi mạc Đăng dung cướp ngôi, nguyễn kim, trịnh kiểm phù lê diệt mạc, nước nhà chia làm hai phe tranh giành. khi mạc tan, nguyễn–trịnh lại đánh nhau gây ra cái thế một vua hai chúa nội loạn luôn luôn kế tiếp, sự thống khổ ấy đã luôn luôn hun đúc trong lòng người dân việt một ý thức dân tộc thống nhất. vì vậy mà nhà tây sơn, mấy anh em nông dân xuất hiện ra, người trội nhất là vua quang trung đã thừa cơ hội, trước sau đánh bại cả hai phe chúa, rồi thống nhất cả nước. nhờ có sự thống nhất và lòng dân ủng hộ mãnh liệt (vì họ đã thỏa mãn) nên vua quang trung mới đủ sức phá cái mưu xâm lăng của mãn thanh, đánh cho quân của tôn sĩ nghị thua liểng xiểng không còn một mảnh giáp mà rút về tàu, nhưng rồi nhà tây sơn cũng thất bại. sự thất bại này do hai nguyên nhân: a. tuy tây sơn khi đã thống nhất lại muốn xây dựng quốc gia theo lối quý tộc của các vua chúa trước, trái với ý thức dân tộc thời bấy giờ. b. làn sóng Âu châu đã tràn sang mạnh mẽ, người đón được làn sóng ấy và chiều theo nó là phe cừu địch của tây sơn, tức là nguyễn Ánh, dòng dõi chúa nguyễn có nhiều âm đức với dân phía nam nước việt từ quảng bình đến cà mau.

2.4. dân hóa kỳ theo thời kỳ này có thể bắt đầu từ khi gia long nhờ quân pháp (do cố đạo bá Đa lộc) làm môi giới để dứt nhà tây sơn mà thống nhất cả nước. như trên đã nói, sở dĩ vua gia long xây dựng được cơ nghiệp tuy có nhờ ở sự võ trang của người pháp và tây ban nha nhưng ở trong lại có bọn quý tộc và sức dân chúng lúc ấy phân tán sự phản đối của tây sơn và phần nào bọn quý tộc chịu ảnh hưởng của văn hóa tàu giữ đỡ nên vua gia long lên ngôi rồi thì từ pháp luật cho đến việc học đều chịu ảnh hưởng tàu rất nhiều, tuy đến đời minh mạng cũng có ý muốn gây một văn hóa riêng của nước nhà như việc bắt phụ nữ bắc việt mặc quần không được mặc váy, như câu ca dao: * - tháng tám có chiếu vua ra, * - cấm quần không đáy người ta hãi hùng. * - không đi thì chợ không đông * - Đi thời phải lột quần chồng sao đang. những ảnh hưởng của tây sơn rất mạnh, thêm vào đó ảnh hưởng của thiên chúa giáo dồn dập đến cũng không kém phần mãnh liệt, vì vậy kiến thiết thời ấy có ba phái: 1. thiên về hán học (bọn quan liêu quý tộc). 2. thiên về chữ nôm (bọn học giả đi sát dân chúng hay bị ảnh hưởng). 3. thiên về tây học (theo đạo thiên chúa). văn hóa bị ba trào lưu giao động nên việc kiến thiết rất là tròng trành không vững đến đời thiệu trị trở đi, thế lực phía tây (theo đạo) lại mạnh mẽ và thế lực phía theo hán (triều đình quan liêu) cũng mạnh trở thành xung đột (giết đạo) dân chúng là vật ở giữa bị lợi dụng đã tranh giành, gây ra nạn mất nước từ cuối đời tự Đức. trước cái nạn mất nước ấy phái duy tân cải cách nổi dậy, có cố đạo ủng hộ (nguyễn trường tộ) nhưng phái thủ cựu (bảo thủ) văn hóa tàu phản đối nên phái trên thất bại rồi pháp dùng vũ lực can thiệp chiếm nước, sĩ phu (quan lại và học trò) đứn g lên chống lại tức là Đảng cần vương, nhưng việc thất bại, nhà vua xin hàng, sĩ phu bèn lập ra văn thân để chống. khi văn thân thất bại, phái duy tân đổi mới lại quật dậy và đại biểu là phan sào nam. việc nổi dậy của phái duy tân ta có thể chia ra làm 3 thời kỳ: 1. từ 1900 đến 1918. 2. từ 1919 đến 1939. 3. từ 1940 đến 1950 và tiếp đến 1951-2000. về thời kỳ thứ i vừa vận động văn hóa dung hòa cả Á lẫn Âu ở trong nước để thức tỉnh dân chúng cùng giác ngộ mưu việc cải tạo xã hội và chống xâm lăng, vừa tìm ngoại viện ở các nước mạnh ở Á Đông để giúp sức cho mà khôi phục lại đất nước. phong trào cắt tóc

ở nam, Đông kinh nghĩa thục ở bắc, v.v... là vận động văn hóa. việc Đông du (nhật), bắc du (tàu) là cầu viện, v.v... còn trong nước thì nào là việc Đề thám chiếm cứ yên thế, việc Đội cẩn lấy thái nguyên, vua duy tân chống pháp đều là những việc gây ra do sự phản tỉnh của dân chúng theo cái ý thức “cứu quốc tồn chủng” của cụ phan bội châu đề ra trước. Đến thời kỳ thứ ii là sau thời kỳ thế chiến thứ nhất 1914-1918, lúc ấy bộ mặt thực dân của đế quốc đã rõ rệt. sự ỷ lại vào người ngoài bất cứ v ề văn hóa hay về vũ lực đều không có ý nghĩa gì, nên từ đấy trong việc cách mạng luôn luôn kháng ngoại (địch), dân tộc đi sang một giai đoạn khác. vì vậy mà có sự thành lập các đảng phái chính trị xu hướng khác nhau, bọn thân pháp thì níu lấy chủ nghĩa pháp việt đề huề là lý thuyết của một tên việt gian viết ra rồi đổ ẩu cho cụ phan bội châu là tác giả mà cụ thì không thèm cải chính, phái thân tàu thì lấy tam dân chủ nghĩa của tôn văn làm lập trường, phái thân nga thì chủ trương thuyết cộng sản, phái trung lập thì bất cứ chủ nghĩa nào, miễn là đuổi pháp ra khỏi nước là được và bất kể là Đảng nào họ cũng tán thành và họ chiếm đa số, nhưng (tiền của) phần nhiều dùng trong văn chương lỗi thời. phái thân pháp cũng có hai phái, một phe chân chính như cụ phan chu trinh, một phe gian tà mưu lợi riêng như phạm quỳnh, bùi quang chiêu, còn một phe thứ ba thì nửa thật nửa là lợi dụng tức là phe tam Điểm france marcommerue margennene. phái thân tàu như quốc dân Đảng, phái thân nga trước là thanh niên cách mạng Đồng chí hội, sau là cộng sản Đảng. phái trung lập như tân việt Đảng do lê văn huân lập ra từ 1925 ở nghệ tĩnh, v.v... sau khi mấy đảng phái này bị đàn áp tan rã, thời cuộc thế giới mỗi ngày một khẩn trương, cuộc chiến tranh của toàn quốc tất phải phát xuất, các đảng phái lại ngấm ngầm nhỏm dậy từ năm 1936 trở đi. các đảng phái có ba xu hướng, xu hướng nhật vì nhật gần hơn và có thể lợi dụng để đánh đuổi kẻ thù chung là pháp, một số nữa có liên lạc với cộng sản và Đồng minh, quân quốc gia có khuynh hướng Đồng minh. nga tàu gây thành một thế ganh đua chia rẽ thù nhau, tuy vậy trong sự ganh đua chia rẽ ấy gây thành một cuộc liên minh thống nhất các đảng cùng chung một xu hướng cộng sản thân nga, quốc gia thân tàu và một phái quốc gia thân nhật. ba phái trên, phái thân nhật thì hiện nay nhật thất bại đã mất lập trường. còn hai phái cộng sản quốc gia đương công khai phát động, nhưng ta phải xem chủ trương hai phái ấy có hợp với nguyện vọng của dân chúng và đúng với lịch sử quá khứ và hiện tại không? lịch sử ta trên một vạn năm nay là một cái dây đấu tranh truyền kiếp, không phải mới gần đây mấy chục năm bị pháp thuộc, các cuộc cách mạng ấy đều lấy dân tộc làm tất yếu, và muốn đạt được thành công, văn hóa lại là một điều tất yếu hơn nữa, nếu chỉ vận động cho dân tộc g iải phóng mà không có văn hóa chắc chắn thích hợp làm xu hướng cho dân tộc (nghĩa là phải có một nền triết học mới, nghĩa là chủ nghĩa mới, v.v...) thì dù có thành công cũng chỉ là tạm bợ mà thôi. văn hóa của dân tộc căn cứ vào lịch sử, cái quá vãng của l ịch sử có lâu dài thì cái tương lai của dân tộc sau cuộc vận động mới được vững bền, như lời nhà nữ văn sĩ starel về thế kỷ 19 viết rằng: “trong bất cứ một phong trào thời đại nào, người ta phải ngoảnh lại cái quá khứ sâu xa bao nhiêu thì cái công lực phát triển ra tương lai của cái phong trào ấy cũng được dài bấy nhiêu ”. bởi vậy chủ trương của chúng ta là ngoảnh lại cái quá khứ một vạn năm của lịch sử để đặt định một tương lai xa rộng vô cùng cho dân tộc. nên thời kỳ quyết định của dân tộc việt là bắt đầu từ đây, nghĩa là từ năm 1939 đến 1950

cho đến 2000. chúng ta phải dựa vào vết đi của lịch sử mà đặt định một đường lối cho tương lai, nhưng không xa lìa lịch sử của nhân loại và dân tộc, trái thế chẳng những là vong bản mà sẽ còn bị tiêu diệt trực tiếp hay gián tiếp. 3. phÊ phÁn vÀ kẾt luẬn như đoạn trên đã nói, lịch sử việt là một cuộc đấu tranh liên tiếp từ xưa tới nay có non một vạn năm. căn cứ không phải là một sự hàm hồ vu khoát mà là nhận định xác đáng hiển nhiên, mặc dầu về đời Đông châu, khổng tử đã hủy bớt điển tích xưa mà soạn lại điển tích mới thông dụng của nòi hán, nhưng trong các sách ngoại ký, tạp ký của tàu vẫn cho ta nhận thấy những cái dấu vết ngàn xưa của dân tộc việt. hơn một vạn năm trước, giai đất triều lưu sông hoàng hà lên đến núi thái sơn là cuộc tranh giành rất kịch liệt giữa các dân tộc mà trong đó có dân tộc việt đã nắm một thắng thế khá lâu. lại theo các khảo sách và khảo cổ Âu tây, nhật và cả trung hoa cũng đều công nhận như vậy, nhất là từ ngày tìm được cái mai rùa (giáp tuất) trên có ghi chép trong sử sách tàu từ đời hạ vũ trở về trước đã thành lập nghi vấn, xem đấy đủ thấy cái văn minh quá khứ của dân việt. “số tự nam viêm hữu diện tứ chi quốc”, viêm đây là viêm Đế, vua nòi giống việt thời môn hóa, rồi còn bao nhiêu cái ghi chép trong sử tàu, như việt thường hiến chim trĩ, vua hùng hiến vua nghiêu con thần quy (rùa thần) rồi do đó người tàu chế ra quy lịch (lịch rùa). hoàng Đế đánh viêm Đế để lấy nam châm mà xi vưu cũng là giống miêu tức là việt về thời ấy, sử ta nhận vua Đế minh họ thần nông là tổ phương nam đều là những việc có căn cứ. người lào, xiêm, miến Điện nhận giống thái (tây, nùng, dao) là do gốc ở thái sơn tràn xuống. sách chúc phương thi cũng cùng công nhận từ dương tử giang xuống nam, các dân tộc không phải là hán, các dân ấy là cửu mân (9 giống dân việt), bát lạc (8 giống lạc), lạc việt tam Ân (3 giống Ân) và bách việt (nhiều giống việt không đủ tên gọi). lại xét về địa giới của tàu về thời ngang với đời hồng bàng ta, phía bắc chưa qua an sơn, tây chưa qua lưu xá, Đông chưa qua Đông hải, phía nam chưa qua hoàng sơn (hà nam) còn địa thế của giống việt thì bao hàm tất cả ba thục xuống miến Điện (ăn thông ra mã lai, nam dương, phi luật tân lộn về triền sông dương tử). những dấu vết ấy hiện nay còn thấy ở trong đặc tính của dân tộc tại các nơi ấy mà đoạn trên đã nói. dân việt sở dĩ phải lưu tán rời rạc ra, rồi lập ra nhiều nước sở, ngô, việt, văn lang, Đông Âu, nam việt, chiêm thành, nam chiếu, nam dương phù nam, lào, qua thủy nam hóa xa, v.v.. là sự xâm lăng từ xưa của giống hán, từ thiên sơn xuống chiếm mất nơi bọc ổ (berceau) văn minh là thái sơn. mất thái sơn, dân tộc ta mất cảy cứ lẫn vận dụng về văn hóa, sinh hoạt nên cứ phải lùi mãi về phương nam. mãi đến đời hồng bàng lấy được phong châu làm hoa địa, lập ra văn lang, một mặt khôi phục lại văn hóa từ xưa để gây dựng một văn hóa mới, liên lạc các giống việt bị tan rã để g ây dựng lại thời Đại việt đã qua, vì giống hán từ khi cướp được núi thái sơn chiếm được hà Đồ lạc thư là nền gốc của văn hóa, bỏ chữ môn chế ra chữ hán tự cướp được, v.v ...chế rèn ra sắt, đã phát triển mạnh lên, mà muốn luôn xâm lăng, mà về phía việt thì vì để mất những lợi khí căn bản văn hóa, cơ năng vận dụng và lợi thế y cứ, nên khó ma ngăn cản được sự lưu tán của nòi giống, đến đời tần thủy hoàng là nước khương thống nhất được nước tàu (từ trường giang

lên phía bắc giáp với giống Địch) cho quân nam hạ (xuống nam). dân tộc việt bấy lâu được liên lạc phút chốc lại rời rạc, nhưng dù sao đối với sức xâm lăng cũng phải lùi bước một cách êm đềm, cái tinh thần mãnh liệt chống hán từ một vạn năm trước luôn luôn phát hiện, nên từ việc phù Đổng giết giặc Ân cho đến lục lượng chống lại tàu, đủ biểu lộ cho chúng ta tinh thần bất diệt, bất khuất ấy từ xưa. sau cuộc thất bại của lực lượng nước Âu lạc của an dương vương bị tan đổ, kéo dài mãi cho tới ngày nay, dân việt ở mọi nơi từ trường giang, ba thục đến miền nam hải vẫn giữ được nguyên vẹn cái tinh thần cao quý ấy, lịch sử đã chứng tỏ rõ và ở đây vì phạm vi chật hẹp không thể kể ra rành rọt hết. từ trước dân tộc việt (ở nước ta và ở các nơi) nào cũng sẵn sàng tranh đấu, đủ can đảm tranh đấu nhưng không bật hẳn trội lên được, xét nguồn gốc chỉ vì đã thất bại trên văn hóa từ xưa, sự thất bại này bắt đầu từ khi mất thái sơn, mất hà Đồ lạc thư cho nên đến đời hồng bàng dù có hết sức gom góp cũng chẳng sao chỏi lên được. Đến khi hồng bàng đổ, tàu xâm lăng, hán đô hộ, ảnh hưởng văn hóa luôn luôn dồn dập đến, các dân tộc việt ở tây nam lại bị các sức văn hóa của Ấn Độ tràn lan xuống, nên cái lực lư ợng để lập cước (chân đứng) và phát triển cùn đi rất nhiều, dù chưa đến nỗi bị xóa nhòa hẳn. hơn 100 năm nay, sau khi bị ảnh hưởng văn hóa của hán và Ấn, dân tộc ta lại bị ảnh hưởng văn hóa của Âu tây, nhưng cái hay cặn bã thời nhập cảng tới, đã có một số người thấy lạ vồ vập lấy khiến biết bao tai họa. lịch sử việt trên một vạn năm đã c ho ta biết nhiều kinh nghiệm để chúng ta đặt định bước đường đi của dân tộc từ giai đoạn này trở đi, giai đoạn hiện nay đã cho chúng ta thấy rõ thế nào là con đường sống, thế nào là sống, vì các mặt nạ của mọi thứ giả dối mỗi khi xảo quyệt tất yếu đã cởi mở ra sau trận chiến tranh thế giới thứ hai này. người lãnh đạo cho dân tộc không thể lợi dụng một cách mơ hồ như thế mà gọi là thành công. muốn thành công phải có một chủ trương triệt để từ hình thức đến nội dung theo xu hướng của dân tộc mà điều kiện văn hóa là điều kiện tất yếu. chúng ta chỉ có thể sống lâu dài bằng cái quá khứ lâu dài của lịch sử của giống nòi, chúng ta không nên mưu mô, tranh cướp của ai, nhưng chúng ta tránh đừng để ai tranh cướp hay tiêu diệt ta, muốn của người, dựa vào người khác giúp chỉ là tự mình hóa ra người, nô lệ cho người, rồi đi đến chỗ chết hẳn. chúng ta là nòi việt, chúng ta phải mưu cứu vãn lấy ta, nòi giống ta chẳng những chỉ ở trên dải đất chữ s theo bờ bể Đông hải mà còn ở nhiều nơi. chúng ta bị yếu vì giống nòi ta đã bị rời rạc, nếu chúng ta lại tái kiến được thời đoàn viên xưa kia, chúng ta mạnh mẽ, vô cùng mạnh mẽ để sinh tồn, để giữ gìn nòi giống, chứ không phải để xâm lăng kẻ khác. x. y. thái dịch lý Đông a 1943 (4822 tuổi việt). *********************************************************************

Ý niệm thế hệ:

hy vọng của quốc gia và toàn thế giới. ba tuần trước khi phát biểu trên làn sóng này về mục “thế hệ”, chúng tôi có nói: sẽ phát biểu nhiều kỳ và tôi có nói ngay đến vai trò của thế hệ 40 với thế hệ 80 mà không nói gì nhiều về thế hệ 50, 60 và 70. nhiều thính giả sẽ thắc mắc và tự hỏi: phải chăng chúng tôi đã không nhìn thấy vai trò quan trọng của các thế hệ sau 40 trong việc dẫn dắt thế hệ 80 và sau 80 chăng ? xin trả lời là: sự cố tình quên đi các thế hệ sau 40 là có chủ đích rõ rệt vì: “chúng tôi muốn đánh thức tất cả các thế hệ việt nam ở trong cũng như ngoài nước, về vai trò của mình đối với vận mệnh của đất nước trong hiện tại cũng như trong tương lai tới đây”. Ðã nhiều lần trên làn sóng này tôi liên tục nhắc đi nhắc lại nhận định có tính cách rất căn bản đối với lịch sử của bất cứ dân tộc nào, đất nước nào. Ðó là: nếu muốn xây dựng đất nước đến nơi đến chốn, mọi dân tộc phải biết hướng tiến tới của nhân loại và rằng không một dân tộc nào có thể phát triển thật sự nếu dân tộc ấy không biết hoặc chưa dám tiến hành một cuộc thẩm định lịch sử một cách rốt ráo và trọn vẹn về quá trình phát triển của nhân loại cũng như của chính dân tộc mình. như thế, để biết thẩm định lịch sử, anh phải có trí tuệ siêu quần, lòng cam đảm rất cao độ với tất cả ý thức trách nhiệm và thiện ý muốn đem lại no ấm cho nhân dân đất nước anh, để từ đó đóng góp vào việc đem lại an bình cho toàn nhân loại nói chung. lịch sử nhìn theo nghĩa rộng là cả một quá trình phát triển không bao giờ ngưng nghỉ theo rất nhiều hướng khác nhau và nhiều khi đối nghịch nhau; như thế, sự thẩm định lịch sử phải liên tục, khách quan và toàn diện để bảo đảm rằng các biểu hiện tiêu cực của một xã hội, một cộng đồng cần được giảm thiểu đến mức tối đa để tạo điều kiện thuận lợi cho các biểu hiện tốt có cơ hội không ngừng phát triển. trong một xã hội phát triển chậm (nói theo alvin toffler) thì các biển hiện xấu, tiêu cực cũng chậm lây lan và chậm nhìn thấy để mà sửa chữa (thế mới coi là xã hội chậm), nhưng trong một xã hội phát triển nhanh (phương tây ngày nay) thì biển hiện xấu có khả năng lây lan rất nhanh trên quy mô toàn cầu. cho nên việc sửa chữa không phải dễ dàng trong khi “lực tiến nhanh tới phiá trước” phải đối diện với “lực cản trở ở phiá sau” do lịch sử để lại, luôn vin vào một số biểu hiệu tiêu cực để cổ vũ cho một số hành động bảo thủ của mình mà các hành động ấy, thực chất chỉ là nhằm bảo đảm cho quyền lợi của phe phái mình hay các đặc quyền, đặc lợi mà họ hoặc phe phái của họ đang được hưởng do áp bức hoặc bóc lột kẻ khác, dân tộc khác mà họ có được. cuộc chiến đấu giữa cái mới và cái cũ còn nhiều cam go và nhân loại còn phải hy sinh nhiều trước khi có được một tương lai tươi sáng. bây giờ là lúc mà thế giới nói chung, phải đổi mới thật sự về cách suy tư, cũng như hành động, cho dù với nhiều đau thương (nhưng nhân loại không còn một chọn lựa nào khác) để đặt nền tảng cho thế kỷ 21 này và các thế kỷ sau, khi toàn địa cầu này thực sự trở thành một xã hội nhân chủ pháp trị. nhiều người, ngay cả Âu châu vẫn còn nghĩ rằng: hoa kỳ đã đẩy thế giới tiến quá mau về phía trước mà không có các chuẩn bị thích ứng. suy nghĩ như vậy là hoàn toàn sai! ta hãy thử nhìn lại xem, trong lãnh vực kỹ thuật điện tử: từ kỹ thuật analog sang kỹ thuật digital thì cuộc cách mạng này xảy ra chỉ vỏn vẹn chưa đầy 20 năm nếu không nói là chỉ vỏn vẹn có 10 năm cách tân này mà đã làm đảo lộn thế giới, hoàn toàn có khả năng biến con

voi thành con chuột. kỹ thuật tân tiến ngày nay với trí tuệ thông minh đặc biệt, có khả năng làm được nhiều việc mà trước đây 50 năm, cả ngàn con voi cũng không làm được (so sánh máy điện toán ibm thế hệ i với cell phone ngày nay thì ta thấy sự khác biệt là rất rõ rệt). như thế, luận điểm trách cứ hoa kỳ đã đẩy thế giới đi quá nhanh về phiá trước chỉ biểu hiện thực trạng không nhìn xa trông rộng mà thôi. trớ trêu thay, luận điểm sai lầm này lại được nhiều nhóm bảo thủ thuộc thế giới phát triển chậm chia xẻ và được chủ nghĩa bành trướng hán tộc của bắc kinh hoan nghênh. nhiều người, ngay cả Âu châu, nghĩ rằng: khi làm như vậy, hoa kỳ đang muốn bành trướng “chủ nghĩa đế quốc kiểu mỹ, văn hoá kiểu mỹ” trên quy mô toàn cầu. nghĩ như vậy cũng sai! vì lịch sử nhân loại là lịch sử của sự hợp nhất và là quá trình của sự tự giải phóng mình khỏi các ràng buộc do chính con người trong quá trình phát triển của mình đã đặt định ra cho các thế hệ mai sau. như thế, các thế hệ sau, nhất định phải biết dựa vào đà tiến hóa (ngày nay) để mà canh tân cải cách cái cũ, chứ có đâu lại cứ phải vin vào các khái niệm cũ từ cả ngàn năm trước (mà đến nay đã không còn hợp thời nữa) để cố tình kéo lùi thế giới lại, hoặc dựa vào đó để thực hiện các ý đồ đen tối của mình. nói cho cùng ra, nếu anh có trí tuệ thật sự để dẫn dắt thế giới thì thế giới sẽ theo anh ít ra cho tới khi anh tự trở thành lỗi thời, lạc hậu. lịch sử đã từng xảy ra và tiếp tục xảy ra như vậy. cho nên, nếu muốn dẫn dắt thế giới, anh phải tự mình đổi mới liên tục cho phù hợp với đà tiến hóa mới. Ðể làm được việc ấy, anh phải có trí tuệ siêu quần, một lòng cam đảm đích thực và một thiện ý bao la là vậy. cho nên, “hoa kỳ chẳng bành trướng đế quốc mà chỉ đề xuất dân chủ-tự do, và cuối con đường dân chủ tự do là con đường nhân chủ pháp trị được áp dụng trên quy mô toàn cầu, đây là hướng đi đúng nhất mà nhân loại này phải đi không một thế lực nào có thể cản trở hay có thể kéo lại được, vì vậy chúng ta nên hòa mình vào giòng tiến hóa mới của nhân loại”. nói cho rõ ra để giới lãnh đạo của bắc kinh và các thế lực chậm tiến khác khỏi phải suy tư; rằng: ví dụ: trước đây khi đế quốc đỏ nga sô phát động phong trào “giải phóng” để bành trướng cộng sản trên toàn cầu, thì hoa kỳ lại đề cao dân chủ và cuối cùng hoa kỳ đã chiến thắng cả “bạn” lẫn thù. hiện nay trung cộng đang mang mộng hán hóa nhân loại thì hoa kỳ lại xuyển dương học thuyết nhân chủ chỉ có vậy, đó cũng là ý nghĩa của cuộc chiến đấu giữa thiện và Ác, giữa thế lực nhanh với các thế lực chậm, để rồi cuối cùng thì các thế lực chậm tiến cũng phải bị bỏ lại phía sau như một quy luật tất yếu của lịch sử vậy. thế giới rồi đây chỉ còn lại một nền kinh tế chung, một quy luật chung, một luật pháp chung. sự tích hằng nga hậu nghệ sẽ trở thành sự thật mà chúng ta sẽ chứng kiến. * - sông hằng, nước hán đều quy lại, * - Đảo Úc tầng a cũng phục quanh, (trích Đạo trường ngâm – tiên long châu hành. 4822 t.v) nhiều người, ngay cả Âu châu, nghĩ rằng: hoa kỳ luôn lạm dụng bạo lực và không có tình nghĩa trước sau đối với đồng minh. ta tự hỏi: thế nào là lạm dụng bạo lực ? thế nào là tình nghĩa trong chính trị ? nếu xử dụng bạo lực để phục vụ cho ước vọng điên cuồng của cá nhân được bao bọc bởi tinh thần quốc gia dân tộc mù quáng để thực hiện ý đồ thống trị quyền lực tuyệt đối, độc tôn thì đó là lạm dụng bạo lực đích thực. staline, mao trạch Ðông, fidel castro, hồ chí minh, hitler, saddam hussein, kim jong-ill, các giáo sỹ điên rồ ở iran là các kẻ lạm dụng bạo lực đích thực. cho nên các chính quyền, chính phủ do các kẻ

xấu ấy dựng lên cần phải đập tan. nhìn vào lịch sử hoa kỳ trong hơn 200 năm qua, thì ta thấy hoa kỳ luôn luôn đi diệt các kẻ lạm dụng bạo lực để cứu nguy cho nhân loại. hoa kỳ chưa bao giờ đem quân chiếm thuộc địa và bóc lột công sức của các dân tộc chung quanh. Ðấy là chưa kể các chủng tộc nhỏ, các nền văn hóa lâu đời đã bị hoang phế do chiến tranh gây ra bởi các kẻ lạm dụng bạo lực, hoặc bị tàn phá do thời kỳ thực dân để lại, đã và đang được hoa kỳ giúp đỡ để bảo tồn hoặc khai quật để khôi phục lại các nền văn minh đã bị mai một ấy. tình nghĩa trong đời thường là một khái niệm mơ hồ và chẳng có tiêu chuẩn khách quan thống nhất để so chiếu. tình nghĩa đối với người hồi giáo trung đông là giữa những người cùng hệ phái hay bộ tộc với nhau chứ không phải là giữa loài người với loài người theo đúng ý niệm chân chính của từ ngữ này. tình nghĩa trong chính trị phải chăng là một thể hiện giữa đồng minh với nhau đặt căn bản trên sự tương nhượng về quyền lợi mà không có bạn thù. xét theo nghĩa này thì: trong chính trị, vấn đề tình nghĩa không nên đặt ra vì tương quan giữa các phía thay đổi từng ngày, từng giờ. như thế, tình nghĩa chỉ là và luôn là thể hiện một mối quan hệ chân tình giữa cá nhân cụ thể này với một cá nhân cụ thể khác mà thôi. còn mối quan hệ tình nghĩa chính trị thì thực tế cho thấy là rất hiếm hoi và ít bền vững. nếu có chăng chỉ khi nào họ đồng đẳng trong trí tuệ (“quần long vô thủ”). một số người cho là hoa kỳ thiếu tình nghĩa dựa vào cách thức mà hoa kỳ đối xử với một số nhà cầm quyền các nước trong thời kỳ chiến tranh lạnh mà tiêu biểu nhất là miền nam việt nam trước 1975. khi quan sát vấn đề này, ta phải bình tâm quan sát các sinh hoạt chính trị trên quy mô toàn cầu từ cổ đại đến nay và so chiếu với cách thức mà hoa kỳ đả xử sự thực sự với các nhóm thiểu số như thế nào khi họ đến định cư tại nước mỹ. nói một cách khác tình nghĩa trong chính trị của hoa kỳ là: “quyền lợi giữa anh và tôi phải đặt trên căn bản là người”. nhưng một điều mà chúng ta nên ghi nhớ là: lịch sử lập quốc của hoa kỳ là cả một chuỗi dài bị đè nén đau thương. vì hiểu như vậy cho nên lúc nào hoa kỳ cũng sẳn sàng “thề cứu loài người yếu”, tấm lòng hào hiệp của hoa kỳ không ai có thể phủ nhận hay chối bỏ được. cho nên người lãnh đạo các quốc gia dù nhỏ, khi đà nhận trách nhiệm thì anh phải lo cho sự bình an ổn định cho chính dân anh. tôi lo cho dân tôi no ấm thì anh cũng phải lo cho dân anh hạnh phúc, vì tất cả chúng ta đều là con người nên sự tự do hạnh phúc phải được chia đều, không ai có quyền đè nén và bóc lột con người. có như vậy thì đời sống con người mỗi ngày mỗi được thăng hoa lên và tiến lên tiến lên mãi để xây dựng một thế giới đại đồng hạnh phúc. hạt giống nhân chủ phải được nẩy mầm, hoa nhân chủ phải được nở trong mọi nhà, đó cũng là ước mơ ngàn đời của con người vậy. chính trị là một sự ứng dụng của mưu thuật, mỗi mưu kế thích ứng với một thời điểm nào đặc biệt nào đó, phù hợp với một tình huống nào đó. trong chiến tranh lạnh, các kingmakers hay là các kẻ dàn dựng các chính phủ (cia) đã ủng hộ nhiều chính phủ dân chủ sơ khai trong một số vùng tranh chấp nào đó (Ðặc biệt, khi mà trung cộng và liên xô đang “xuất khẩu” cuộc chiến tranh nhân dân đến các vùng đó), mặc dù các vùng đó chưa sẵn sàng cho hạt giống dân chủ nảy mầm. vì thế mới gọi là “chiến tranh lạnh”. nhưng chiến tranh lạnh thật ra cũng không lạnh lắm cho những ai tham gia vô cuộc chiến tranh lạnh ấy (nhất là các nhà lãnh đạo các quốc gia nhược tiểu) mà vẫn cứ nghĩ về độc lập thực sự trong một một thế giới đầy chiến tranh thì suy nghĩ của họ rất sai vì vai trò của một số quốc gia nhỏ chưa thực sự được nhìn nhận (đặc biệt trong các vùng nhạy bén) như các quốc gia độc lập thực sự, mà chỉ được xử dụng như một thành lũy nhằm ngăn chặn, be bờ làn sóng đỏ để làm sụp đổ liên xô mà thôi. ngày nay, mọi chuyện đã và đang thay

đổi tận gốc rễ, nên chính trị cũng phải thay đổi theo cho hợp với hoàn cảnh hiện tại. các hình thức xử dụng các công cụ chính trị bản xứ đã không còn được chấp nhận nữa. thay vào đó là cả một kế hoạch sâu rộng nhằm đưa tự do, dân chủ đến cho mọi người, mọi quốc gia, mọi dân tộc nhỏ yếu chưa bao giờ hiểu được tự do dân chủ. do đó: cơ hội độc lập thực sự, dân chủ tư do thật sự đang thật sự mở ra cho cả nhân loại. chúc cho các dân tộc, nhất là các dân tộc yếu kém, nghèo khổ biết nắm lấy cơ hội ngàn vàng này. * với việt nam: trong buổi tiếp xúc với các cơ quan truyền thông việt ngữ mới đây, ông michael marine đã nói một câu vừa đủ ý nghĩa để nhắc lại với người việt hải ngoại và trong nước: “con đường đi đến dân chủ cho việt nam cũng hàm chứa nhiều khó khăn”. thực ý của ông marine muốn nói thế này: lật đổ chế độ cộng sản việt nam là chuyện nhỏ (đón tiếp ông khải là chuyện nhỏ). việc đem lại tự do dân chủ cho việt nam nếu không khéo thì có thể dẫn đến việc can thiệp, phá hoại toàn diện của bắc kinh vào việt nam. dĩ nhiên trong vai trò đại sứ, ông marine chẳng được phép nói thêm, nhưng những điều ông marine nói tới cũng một phần nào đã xác định nhiều vấn đề đã từng được chúng tôi nói tới nhiều lần trên làn sóng này trong 6 năm qua. chiến lược của bắc kinh thật rõ rằng. Ðó là: trì hoãn và hết sức tránh né một cuộc đụng độ trực tiếp với mỹ trên quy mô lớn cho đến khi nào trung cộng đủ mạnh để đối đầu tay đôi với mỹ hay chẳng đặng đừng lắm thì mới đụng độ với mỹ. trong khi đó, trung cộng vẫn ráo riết chuẩn bị các hình thức chiến tranh du kích, khủng bố toàn diện qua các kẻ trung gian như nhóm al queda hay các tổ chức tội phạm quốc tế, đồng thời âm thầm, ráo riết thôn tính các nước láng giềng nhỏ yếu chung quanh bằng mọi hình thức khác nhau để buộc hoa kỳ phải tương nhượng các quyền lợi ở Á châu cho tàu. Ý đồ “chính trị lộ tuyến” của bắc kinh chẳng qua mặt được ai, nhất là với cụ lý Ðông a, là người đã nói về ý đồ này của tàu cách đây 60 năm. với hoa kỳ thì họ đã hiểu rõ tàu hơn ai hết. hoa kỳ đã tương kế tựu kế để đẩy tàu đi tới chỗ phải làm càn và trở thành căm địch của cả thế giới, nhất là căm địch của các nước Á châu. cho nên, dù bắc kinh có hành động thế nào thì hoa kỳ cũng đã sẵn sàng giáng trả để từng bước dẫn bắc kinh đi tới chỗ bị phân rã toàn diện. Ðối với việt nam, chúng ta đã ở trên tuyến đầu của cuộc chiến tranh lạnh và hiện nay đang ở trên tuyến đầu của cuộc chiến tranh toàn diện chống chủ nghĩa bành trướng hán tộc bắc kinh. như chúng tôi đã trình bày cùng quý thính giả, “đánh tàu bằng đường dài là việc của hoa kỳ và hiện nay là của cả nhật bản nữa. Ðánh tàu bằng đường ngắn là việc của dân tộc việt nam”. chúng ta đánh tàu và bọn tay sai của chúng bằng cách của chúng ta vì hiện nay chế độ cộng sản việt nam về thực chất chỉ còn là công cụ cho bắc kinh sai bảo và xử dụng. Ðó là lý do tại sao trên làn sóng này, chúng tôi đã liên tục mở ra một cuộc chiến tranh văn hoá- tư tưởng. Ðây là một hình thức chiến tranh chưa hề xảy ra trong lịch sử nhân loại nhằm tấn công trực diện vào đầu não của ban lãnh đạo bắc kinh, đạp đổ huyền thoại về nền văn minh trung hoa để sau cùng khôi phục lại vị trí xứng đáng, đích thực của nền văn minh bách việt. nhiều người không thấy tầm quan trọng và tính chất toàn diện của cuộc chiến tranh văn hoá- tư tưởng này mà cụ lý Đông a đang lãnh đạo. một công cuộc cách mạng đầy gian

khổ, lắm khó khăn nhưng cũng vô cùng vinh quang. nó chẳng phải đem lại mọi sự tốt đẹp cho việt nam không thôi mà còn cho cả cộng đồng bách việt từ vùng trung nguyên nước tàu đến vùng Ðại Ðông nam Á (grand south east asia), cho cả loài người yếu và các dân tộc linh lạc trên thế giới này nữa. cho nên, trước các lời phát biểu rất rõ ràng trên làn sóng này trong thời gian qua, mỗi bước tiến tới của tình hình thì bắc kinh mau chóng đáp ứng lại bằng những hành động cụ thể (thí dụ về đập tam khẩu, thành bắc kinh, v.v..). nhưng đặc biệt hơn hết là theo tin chúng tôi mới nhận được thì bắc kinh đang tiến hành một dự án rộng lớn nhằm cố chứng minh rằng: “việt nam ta không có văn hoá. theo sự đánh giá riêng, thì quy mô của chiến dịch văn hóa này rất sâu rộng, đều khắp trên toàn nước tàu và trong các cộng đồng hoa kiều ở hải ngoại. sau đó bắc kinh sẽ mua một số chương trình truyền thông quốc tế nhằm xuyên tạc và bóp méo lịch sử của nhân loại nói chung và của bách việt nói riêng”. hôm nay đây, qua làn sóng này, chúng tôi chính thức trả lời cho giới lãnh đạo bắc kinh về một lọat các nghiên cứu của nhiều học giả phương tây. họ có đủ các kỹ thuật, khoa học và khách quan để quan sát cụ thể và đánh giá chính xác về nguồn gốc của cái mà ta gọi là “văn minh trung hoa”, về cách thức mà hán tộc đã ăn cắp văn minh các lân bang (đặc biệt văn minh bách việt) ra sao, hủy diệt các dân tộc là sở hữu chủ các nền văn minh này để hình thành cái họ gọi là văn minh trung hoa như thế nào: 1) giáo sư jared diamond thuộc viện đại học ucla mới đây đã viết cuốn guns germs and steel đã chứng minh rất rõ ràng là: “về mọi mặt thì văn minh bách việt đã tiến trước văn minh trung hoa nhiều ngàn năm”. 2) giáo sư wolfram eberhard là một học giả mỹ từng dạy ở đại học bắc kinh đã nghiên cứu về văn minh trung hoa hơn 40 năm, trong cuốn sách a history of china của mình, ông đã nói thế này: “người ta biết xưa kia chẳng có chủng tộc tàu, người tàu cũng chẳng có. Ðiều mà ta gọi là tàu thực ra một tiến trình pha trộn phiền toái lâu dài của nhiều chủng tộc khác nhau, vì thế ta không thấy một nước tàu văn minh với xung quanh toàn là những dân tộc man di mọi rợ”. 3) giáo sư edward schaffer trong cuốn ancient china (trung hoa cổ Ðại) phát hành năm 1967 bởi viện đại học stanford thì phát biểu như thế này: “ta không còn nghi ngờ gì nữa về kỹ thuật trồng lúa nước và thuần hoá gia súc là của phương nam (ý nói bách việt). kỹ thuật đúc đồng đỏ thì người thương, người Ân không có trong khi thời hùng vương đã có hiểu biết rất rõ ràng về kỹ thuật luyện kim, đúc đồng”. 4) giáo sư charles hucker cùng với giáo sư will durant thuộc viện đại học michigan đã viết hơn 10000 trang về lịch sử trung hoa và mối liên hệ sâu sắc của lịch sử trung hoa cổ đại với lịch sử bách việt. một phần của 10000 trang này đã được phát hành nhưng các phần chủ yếu vẫn còn được giữ kín như là tài sản trí tuệ của viện đại học michigan. trong cuốn china’s imperial past phát hành năm 1975, giáo sư charles hucker, học giả về trung hoa này đã nói: “nước tàu không hề có truyền thuyết nào đề cập đến vị anh hùng nào đưa nước tàu đến văn minh ngày nay. trung hoa là dân tộc duy nhất không đề cập đến sử thi, thiên di, huyền thoại của dân tộc mình. không ai biết dân tộc tàu từ đâu đến, thuộc giống người nào, đã có văn minh từ bao lâu rồi”.

giáo sư will durant thì nói: “văn minh bách việt cổ hơn văn minh trung hoa vì nó đã có trước, góp phần vào việc hình thành nền văn minh hoa hạ (văn minh hoa hạ khoảng đời nhà thương 1783 – 1134 ttl) từ thủa sơ khai, đặt căn bản trên văn minh trồng lúa nước”. 5) một vị giáo sư khác học giả needham, chuyên nghiên cứu về trung hoa thuộc viện đại học oxford trong cuốn sách china thì viết như sau: “ngay cả người tàu thì đã có được bao nhiêu người có được ý niệm về trung quốc xưa kia thực sự ra sao ? Ðấy là nền văn minh cổ xưa nhất thế giới còn tồn tại nếu xét theo sự liên tục về văn hóa, ấy thế mà quá khứ của nó đã bị tái hiệu đính liên miên thay vì được bảo tồn (tàu sửa văn hóa cưỡng đoạt được của bách việt để biến thành của tàu). chẳng những vậy, ngày nay chẳng còn bao nhiêu tài liệu nguyên bản nói về trung hoa, hầu hết chỉ là các bản sao và những họa phẩm”. 6) giáo sư nhân chủng học paul k. benedict đã phát biểu rằng: “nhiều từ ngữ trước đây người ta cứ tưởng là người Ðông nam Á (bách việt) vay mượn của người tàu, thực ra thì trái ngược lại. chính người tàu đã vay mượn các từ ngữ ấy từ cộng đồng bách việt (Ðông nam Á) và rằng: tàu chỉ thừa hưởng, không có ban phát gì hết!” Ðây cũng là nhận định chung của nhiều học giả khác chuyên nghiên cứu về mối liên hệ giữa ngôn ngữ tàu và bách việt. Ðó cũng là mối liên hệ về văn hóa và văn minh giữa dòng tộc Ðại bách việt ở phương nam với hán tộc ở phương bắc. ta cần kể ra ở đây rất nhiều vị như: sử gia lea e. williams thuộc viện đại học oxford, học giả keith weller taylor trong cuốn the birth of vietnam (1983, university of california press), học giả edward g. pulleyblank trong phần the chinese and their neighbor in prehistoric and early historic times của cuốn the origins of the chinese civilization do david n. keightley hiệu đính, hai học giả pierre huard và maurice durand thuộc trường viễn Ðông bác cổ hà nội trong cuốn connaissance du vietnam (hanoi 1954) và nhiều học giả khác, tất cả đều đi đến một nhận định là: “văn minh bách việt là nền văn minh tối cổ trên thế giới đã tạo ảnh hưởng sâu rộng đối với quá trình phát triển của văn minh nhân loại ngày nay”. Ðặc biệt là: nhiều người đã tưởng lầm là văn minh trung hoa có trước văn minh bách việt nhưng trong thực tế thì mọi thứ, mọi mặt của văn minh trung hoa chỉ là vay mượn của văn minh bách việt mà thôi. văn minh trung hoa chỉ là bản sao chép bất toàn của văn minh bách việt về nhiều khía cạnh như từ ngừ, chữ viết đến phong tục tập quán, kiến trúc và nhiều khám phá khác nữa. 1) nhà nhân-chủng-học russell ciochon (tác-giả bài "the ape that was", natural history, november 1991) và nhà khảo-cổ-học john olsen đã khám-phá ra nhiều chứng-tích ở việtnam cho thấy giống người vượn khổng-lồ gigantopithecus cao 10 bộ anh đã từng sinh sống đồng-thời với giống người homo-erectus trong khoảng thời-gian dài tới 500,000 năm. (southeast asia: a past regained, time-life books, virginia, 1995, trang 16-17) 2) brian m. fagan cho biết tại những hang của làng trang, việt-nam, người ta tìm thấy dicốt của người homo-erectus cổ tới 500,000 năm. chứng-tích này thuộc loại cổ nhất Đôngnam-Á (people of the earth, an introduction to world prehistory; 1992, trang 129) 3) ronald provencher còn phỏng-đoán loài người đã xuất-hiện sinh sống tại Đông-nam-Á từ 2 triệu năm trước đây. (mainland southeast asia: a anthropological perspective, viết tắt:

mainland southeast asia, nhà xuất-bản goodyear publishing company, california 4/ 1975, trang 17) 4) học-giả thái-lan sumet jumsai tìm ra rằng chỉ có 3 vùng trên trái đất thuộc vòng đai nhiệt-đới là thuận-hảo cho sự sinh-tồn của loài người trong thời băng Đá. Đó là vùng bình-nguyên sông amazone nam-mỹ, vùng trung phi-châu và vùng Đông-nam-Á. Ông so sánh tình-trạng như sau: mỹ-châu thời đó chưa có người, phi-châu có nhiều giống thú dữ và khu duyên hà, duyên-hải không có dấu tích sinh-hoạt loài người. chỉ còn vùng Đôngnam-Á mới thực-sự là nơi hội-tụ những điều-kiện tiện-lợi để cho loài người sống sót (naga, trang 3) 5) tại mandalay, miến-Điện năm 1979, người ta tìm ra nhiều xương hoá-thạch của loài primate lâu tới 40 triệu năm. vì chứng-tích này cổ hơn bất cứ nơi đâu trên trái đất nên đã có kết-luận rằng: loài primate thoạt tiên sinh sống trong vùng Đông-nam-Á trước, sau mới di-chuyển ngang qua khu-vực tây Á-châu rồi sang phi-châu (naga: cultural origins in siam and the west pacific, viết tắt naga, sumet jumsai, xuất-bản tại singapore, oxford university press, 1988, trang 2.) 6) trong giai-đoạn tiến hoá của loài người, giống homo-erectus (người đứng thẳng) có lẽ tồn-tại lâu nhất tại vùng đất liền Đông-nam-Á, lâu hơn tại tất cả các nơi khác trên địacầu, kể cả phi-châu và Âu-châu (people of the earth, an introduction world prehistory, brian m. fagan, harper collin publishers, new york, 1992, trang 15 7) buckminster fuller, một nhà địa lý kiêm toán học. Ông cho rằng, có thể tìm ra nguồn gốc các nền văn minh căn cứ vào tỷ lệ thuận giữa trình độ văn hóa, di dân và mật độ nhân số. từ lý thuyết đó, ông lập bản đồ dynaxion world maps ( bản đồ động thái thế giới). từ bản đồ của mình, b. fuller kết luận: duyên hải Ðông và Ðông nam Á chỉ chiếm 5% diện tích thế giới nhưng có tới 54% nhân loại đang sống. từ tính toán của ông, người ta suy ra, vào thiên niên kỷ iv-iii tcn, người việt có thể chiếm 15-20% dân số thế giới. 8) hầu hết các phát-minh thuyền bè, buồm, chèo, lái ... của nhân-loại ngày nay đều có gốc rễ từ bán-đảo Đông-dương. chừng 60,000 năm trước, khi những nhóm cư-dân Đông-namÁ đầu tiên dùng bè vượt biển tới Úc-châu, tiền-nhân việt-tộc chắc chắn cũng đã dùng phương-cách di-chuyển như vậy. nhiều tiến-bộ về kiến-trúc thuyền bè đã đạt được và thành-quả đáng kể nhất có lẽ là cách sử-dụng phối-hợp tài-tình hai hệ-thống buồm và xiếm. nhờ vậy, một số loại ghe thuyền ở việt-nam có thể tự nó lái lấy và giữ hướng đi trong nhiều ngày dài, không cần phải sửa đổi tay lái. (connaissance du việt-nam, pierre huard và maurice durand, hanoi 1954, trang 232) nhiều sự khai quật các cổ vật vùng lương châu (liangzhu) và các nơi khác tại nước tàu bây giờ đưa các chuyên gia về lịch sử tàu tới một kết luận: “trung tâm văn minh nước tàu không nằm tại vùng hoa bắc (nơi phát nguồn của hán tộc) mà tại vùng hoa nam nước tàu” (nơi cội nguồn của văn minh bách việt). về quá trình chuyển dịch của con người và văn minh thuộc dòng tộc Ðại bách việt nhằm tạo ra các ảnh hưởng nhất định của bách việt đối với nhiều trung tâm văn minh sau này thì ta phải kể ra đây các công trình nghiên cứu của nhiều học giả khác nữa như: * - lawrence j. ma thuộc university of akron nghĩ rằng giống người homo-sapien (người

thông minh) xuất hiện rất sớm tại Ðông nam Á, sau này là tiền nhân của chủng loại austroloid. lawrence j. ma ước lượng thổ dân vùng này khởi đầu sự gia súc hóa loài vật và trồng trọt từ 15000 năm trước đây, tức là sớm hơn vùng tây nam Á châu (vùng lưỡng hàcận Ðông) tới 5000 năm (cultural diversity, lawrence j. ma, sách “southeast asia, ream of contrast”, hiệu đính bởi ashok k. dutt, westview press, colorado, 1985 trang 54). * - học giả meacham đã ước tính rằng: “Ít nhất là 10,000 năm trước tây lịch, người bách việt đã biết dùng bè để di chuyển trên biển Ðông” (giáo sư william meacham trong cuốn sách the origins of the chinese civilization, berkeley 1983). theo giáo sư nicholas tarling thì: “trước đó 40,000 năm, người Ðông nam Á (bách việt) đã biết xử dụng một hình thức bè thô sơ nào đó để đến Úc châu” (trong cuốn history of southeast asia, cambridge university press 1992). theo học giả wilheim g. solheim thì: “4,000 năm trước tây lịch, bách việt (các vị này chỉ dùng từ ngữ người Ðông nam Á thay vì gọi đích danh là bách việt) đã mang đến Ðài loan và nhật bản nghề trồng khoai sọ và hoa màu”. giáo sư wilheim g. solheim ii (con) thì nói: “thuyền độc mộc đã được Ðông nam Á (bách việt) xử dụng từ 5,000 trước tây lịch”. giáo sư peter bellwood trong cuốn sách man’s conquest of the pacific, new york, 1979) cho rằng: “công trình chinh phục Ấn Ðộ dương và thái bình dương xuất phát từ Ðông nam Á, đặc biệt là từ nền văn minh hàng hải hoà bình và Ðông sơn”. giáo sư edwin doran cũng đưa ra nhận định là: “các di dân từ vùng cổ việt đã di chuyển đến khắp các hải đảo ở Ðông nam Á kể cả Úc và tân tây lan, một phần Ấn Ðộ dương bằng thuyền bè”. Ðiều này được chứng minh rất rõ khi quan sát tục ăn trầu, nhuộm răng của dân cư nhiều hải đảo ở thái bình dương và nhiều sinh hoạt khác đến tận nam mỹ, mà rõ nét nhất là tại Ðông timor. còn rất nhiều các dữ kiện cụ thể khác của các học giả ngoại quốc nữa đã minh chứng là “văn minh tàu ngày nay chỉ là sự sao chép, lấy cắp không toàn vẹn của văn minh bách việt” (nền văn minh khai phá cho nhiều nền văn minh khác của nhân loại). tuy nhiên, các dữ kiện vừa nêu cũng đã quá đầy đủ để phản bác lại các nhận định rất hồ đồ của hán tộc khi xưa và trung cộng ngày nay về nguồn gốc đích thực của nền văn minh bách việt và các cách thức mà hán tộc đã cưỡng chiếm nhiều phần trong các tinh hoa của văn hóa Ðại bách việt để từng bước hủy diệt dân tộc Ðại bách việt (100 con thì 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển, sự tích tiên rồng là một chứng minh hùng hồn nhất về bộ tộc bách việt đã chia nhau 50 con ở lại chiến đấu “lên rừng”, 50 con dẫn nhau đi tìm nơi hiểm địa “xuống biển” để tồn tại và để hổ trợ cho cuộc trường kỳ chiến đấu với bắc phương trải dài qua nhiều ngàn năm. trong một bài khác chúng tôi sẽ giải thích rõ ràng hơn về sự tích tiên rồng), rồi hán tộc tự nhận là chủ nhân của nền văn minh phương Ðông rực rỡ, và trở thành thế lực chi phối các lân bang như thế nào. truyện xưa đã vậy, truyện nay cũng thế. giờ đây sau biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử cận đại, đảng cộng sản việt nam đã trở thành công cụ tay sai của bắc kinh, lệ thuộc vào bắc kinh về đủ mọi mặt. bắc kinh đang lấy cớ là việt nam cần trùng tu các đình chùa miếu mạo của việt nam, đặc biệt là ở phía bắc và bắc trung phần (nơi mà tàu nghi ngờ là còn chứa nhiều bí kiếp quan trọng trong kho tàng văn minh bách việt) nên chúng đã và đang tiến hành những cuộc trộm cắp quy mô bằng cách làm các tượng mới (dĩ nhiên là đẹp hơn các tượng cũ) để thay thế các tượng cũ. vì suy nghĩ hẹp hòi, đầu óc tham lam, những người cộng sản việt nam đâu có thấy ý đồ thâm độc của tàu là chúng sẽ bỏ tiền giả (kể cả đô la giả) mua các tượng cổ ấy đem về tàu để tiếp tục tiến trình (như các vua chúa tàu

làm ngày xưa) ăn cắp và hủy diệt các chứng liệu vô cùng giá trị của tổ tiên ta. việc này được minh chứng rõ ràng khi mà các vụ trộm cắp văn hoá phẩm, cổ vật của việt nam đang ngày càng trở nên quy mô hơn, có hệ thống hơn. ta cần lưu ý là: trong hệ thống chùa chiền ở việt nam, đặc biệt ở miền bắc, những ngôi chùa tối cổ thường chỉ có mang một chữ luôn thuộc họ mễ. thí dụ: chùa gạo, chùa Ðậu, chùa trần, chùa tiêu, v.v… các chùa khác được xây dựng dưới thời hậu lê hoặc nhà nguyễn thường mang tên gọi dựa vào tên làng để đặt tên cho ngôi chùa ấy. trong kế hoạch ăn cắp văn hóa phẩm và cổ vật đại quy mô này, bọn tàu còn nhắm vào việc tiếp tục trấn yểm miền bắc việt nam, nơi mà chúng coi là linh địa, có thể trấn áp cả địa thế nước tàu. chúng ta cần nhìn rõ dã tâm nham hiểm này của lãnh đạo bắc kinh không chỉ đối với việt nam chúng ta không thôi mà còn đối với tất cả các lân bang của tàu như: miến Ðiện, tây tạng, mông cổ, lào, campuchia, v.v… chúng ta cần phải cảnh tỉnh đồng bào trong nước về hiểm họa thâm độc của bắc phương, cực lực tố cáo trước dư luận thế giới, đặc biệt với cơ quan di tích văn hóa lịch sử của liên hiệp quốc về âm mưu đánh cắp đại quy mô, hủy diệt có hệ thống các tài sản về văn hóa, lịch sử, trí tuệ của nhân loại còn sót lại ở việt nam. qua đây, chúng tôi bầy tỏ ước mong là: viện Ðại học michigan sớm bạch hóa các tài liệu mà các giáo sư charlie heckler và will durant đã dày công nghiên cứu về văn minh bách việt. i) bàn về lịch sử việt tộc hay quá trình tiến tới nhân chủ: trong chu tri lục, cụ lý đã viết một câu để đời như thế này: “không đọc sử, không đủ tư cách nói việc quốc gia. Ðọc sử không giải được nghĩa, không nắm được thể dụng, không thể có được bản lãnh về chính trị. phải đem một tri thức suốt mặt thống nhất vào một nhãn quan, mới phân tích được một sự tượng trên lịch sử cho đích đáng”. như thế lịch sử của nòi việt đối với lịch sử hán tộc ra sao? và lịch sử của nòi việt đối với lịch sử của toàn nhân loại này như thế nào? Ðó là các câu hỏi còn làm đau đầu nhiều sử gia trong tương lai dài tới đây, và hẳn nhiên sẽ là các chủ đề chính yếu để các sử gia việt nam đích thực dồn hết mọi nỗ lực nhằm tìm ra các mối liên hệ đích thực và sâu thẳm trong các đống tro tàn, đổ nát mà hán tộc đã cố tình bóp méo sự thật lịch sử khách quan của nòi giống việt trong thời gian ít ra là 3000 năm qua, mà người đầu tiên khơi màu cho việc chiếm đoạt và tiêu diệt văn minh cũng như văn hóa bách việt một cách có hệ thống không ai khác hơn là khổng tử. như thế, cuộc chiến tranh văn hóa - văn minh này không thể kết thúc mau chóng nhằm dành quyền xác định chủ quyền của bách việt ta đối với các yếu tố nền tảng của văn minh Ðông phương. nếu con người đi bằng hai chân và vĩnh viễn vẫn đi bằng hai chân thì văn minh nhân loại cũng sẽ phải tiến bước bằng hai chân theo quá trình chuyển dịch giao tiếp giữa con người với nhau. Ðiều này xác định quá trình hình thành các trung tâm văn minh mới vậy. các trung tâm văn minh mới (so với cái cũ) luôn là một cải tiến so với văn minh cũ về đủ mọi mặt, từ vật chất đến tinh thần. Ðây là một tiến trình không bao giờ ngưng nghỉ và sự chuyển dịch ngày càng trở nên nhanh hơn, quy mô hơn nhằm hình thành quá trình hợp nhất nhân loại trên một nền tảng mới. càng ngày chúng ta càng phát hiện thêm các dữ kiện khoa học để minh chứng cho nhận

định mà tôi đã nêu lên trước đây (tôi đã đề cập đến vấn đề này trong cuốn sách phát hành năm 1993) về vòng quay của các trung tâm văn minh thế giới, theo đó văn minh bách việt đã mở đầu cho tiến trình dài trong việc hình thành các trung tâm văn minh của nhân loại. các trung tâm này chuyển dịch từ bách việt đến Ấn Ðộ, lưỡng hà, ai cập, hy lạp, la mã, Âu châu và nay là hoa kỳ. khi chuyển dịch đến bắc mỹ, văn minh nhân loại đã có đủ sức (trí tuệ và vật chất) để cất cánh và từng bước hình thành nền văn minh liên hành tinh trong khi một bộ phận khác là bộ phận chủ lực tiếp tục quay theo hướng Ðông để mở rộng hơn nữa nền văn minh địa cầu và càng ngày nền văn minh nhân loại càng tiến sâu vào vũ trụ để từng bước củng cố và phát triển hơn nữa nền văn minh liên hành tinh. nhận định nêu trên có thể còn quá mới mẻ đối với nhiều người. nhiều vị sẽ cho là chúng tôi quá chủ quan khi đưa ra các nhận định kiểu ấy. thực ra thì hoàn toàn không phải như vậy. nếu ta tổng hợp các đánh giá mà các học giả phương tây (kể trên đưa ra về nền văn minh bách việt) thì ta sẽ thấy: chủng tộc bách việt là thổ dân đã định cư ở vùng thái sơn (tức là vùng hoàng hà cũng là trung tâm nước tàu ngày nay) trong nhiều ngàn năm cộng với một nhóm khác từ vùng pamir tràn xuống vùng trung nguyên cũng đã hơn một muôn năm trước (cụ lý dùng chữ “muôn” ở đây có ý nghĩa là hơn vạn năm vì người việt miền bắc nói về con số thì theo thứ tự lớn dần ngàn [1000], vạn [10000], muôn [100000]). chủng tộc bách việt đã định cư ở vùng thái sơn trước loài hán tộc, nòi di rất lâu (bao nhiêu ngàn năm thì ta chưa được rõ lắm), sau đó cuộc chiến đấu giữa ba nòi việt-hán-di đã từng xảy ra rất lâu trong thời tiền sử của nhân loại. khi nòi hán diệt nòi di thì cuộc chiến đấu tay ba trở thành tay đôi giữa việt và hán, rồi mở đầu cho cuộc thiên di về phương nam nắng ấm của nòi bách việt. * - công cha như núi thái sơn. * - nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. ca dao. hai câu ca dao trên được lưu truyền trong dân gian qua nhiều ngàn năm cho nên, nếu nói lịch sử việt nam là 4000 nay 5000 thì đây là một nhận định sai lầm. vì cả một thời gian dài hàng chục ngàn năm ấy, các tài liệu cổ ấy đã bị người tàu đánh cắp và hủy diệt qua nhiều triều đại (điển hình là đời nhà minh) như chúng ta đã biết, đến nay không còn tài liệu cổ nào còn tồn tại để nói lên trình độ phát triển của nòi bách việt ra sao. nhưng mới đây, một ngôi mộ cổ vừa được khai quật ở hoà bình (phú thọ), đã được các học giả phương tây dùng các phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất và xác định là ngôi mộ này có niên đại 12000 năm. dụng cụ đồ đá tìm thấy trong ngôi mộ ấy rất là tinh xảo, có khả năng tạo ra các dụng cụ đồ đá khác. cho nên, nhận định của học giả mecham về văn minh bách việt hoàn toàn có cơ sở khoa học khi ông ta kết luận là: “10000 năm trước, bách việt đã biết dùng bè đi trên biển Ðông. còn học giả nicholas tarling thì ước lượng khoảng 40000 năm trước, bách việt đã biết dùng một hình thức bè thô sơ nào đó để đi đến Úc châu”. nếu ta so chiếu ngôn ngữ hàng hải thì ta lại thấy ảnh hưởng của bách việt còn tràn tới nam mỹ, vùng sumerien, lưỡng hà, Ấn Ðộ dương nữa. cho nên nói rằng “lịch sử văn minh việt tộc (bách việt) tiến trước văn minh hán tộc nhiều ngàn năm” là hoàn toàn có cơ sở khoa học vững chắc. Ấy là ta chỉ nói đến lịch sử việt tộc trong vòng 10000 năm trở lại

đây mà thôi. ta cần ghi nhớ là: 14000 năm trước thì người ariel từ vùng afghanistan mới lần mò đi dọc theo vùng trung Á để từng bước đến lập nghiệp ở vùng Ðịa trung hải rồi từ từ lan sang Âu châu. khi hán tộc đang sống trong tình trạng du mục bán khai thì việt tộc (bách việt) đã định canh định cư mà khi có định canh định cư thì kinh nghiệm, kiến thức mới tích lũy và làm thành một hệ thống được, để từng bước tạo ra trật tự xã hội, hình thành văn minh, triết lý, có thái độ sống là “thuận thiên”. xét theo ý niệm cao cả của chữ “thuận thiên” thì xã hội của việt tộc từ thuở xa xưa đã là một xã hội sống có quy củ, trật tự hài hoà giữa con người với con người và con người với thiên nhiên, lấy việc thờ cúng ông bà tổ tiên làm gốc. xã hội bách việt tự ngàn xưa đã có một nền triết lý hài hòa khởi đầu cho việc vợ chồng “phu thê thiên địa chi đại đạo” (trong trời đất đạo vợ chồng là cái đạo lớn nhất), mà đạo vợ chồng là nền tảng để tạo dựng một xã hội vững chắc. cho nên, những ai nói là phương Ðông (việt tộc là chính yếu) không có tôn giáo thì đây là lối nói sai lạc và đầy ác ý! các tôn giáo sau này phát sinh ở vùng cận Ðông- lưỡng hà và ở Ấn Ðộ cũng chỉ là sự biến thái của lẽ sống thuận thiên của bách việt, rồi được biến cải thêm nữa để từng bước đặt nền tảng cho chủ nghĩa cá nhân (điều này đã từng được chúng tôi nói đến). dân du mục bao giờ cũng hiếu chiến, dã man, tàn ác hơn so với dân nông nghiệp, định canh định cư, nên hán tộc đã từng bước chiến thắng việt tộc bằng bạo lực và đẩy việt tộc ra khỏi trung nguyên. cho nên việt tộc phải thiên di về phương nam là vậy. từ đó, ta có kết luận rõ ràng là: 1) dân chúng trong vùng Ðại nam hải (biển Ðông hay vùng Ðông nam Á) rộng lớn đều là người có cùng nguồn gốc việt tộc (bách việt) cả, mặc dù dân chúng có lai một chút ít với các sắc dân khác như: Ấn Ðộ, châu phi. 2) văn minh hán tộc chẳng có gì cả vì hầu như tất cả đều là của cướp đoạt được từ văn minh bách việt mà ra. 3) kẻ ăn cướp thì luôn luôn muốn chiếm đoạt để biến các thứ chiếm đoạt ấy thành tài sản riêng của mình, cho nên giới lãnh đạo hán tộc từ xưa tới nay luôn chủ trương tiêu diệt hay đồng hóa các lân bang, đặc biệt là việt nam là vậy. vì bách việt còn thì hán chẳng yên thân. ii) con Ðường tiến tới dân chủ: chúng tôi xin nêu ra mục đầu tiên mà cụ lý đã viết trong cuốn huyết hoa: “hình thức của văn hóa là sự phản ảnh của đời sống hiện thực xã hội. nội dung và kết cấu của văn hóa, tự thân nó là tổng nghiệp của toàn thể loài người trong dòng sống xã hội, lịch sử và thời đại. lịch sử loài người được chép bằng ngòi bút của máu diễn tiến, mỗi sử ký lộ ra mỗi đặc chứng văn hóa. mỗi sử ký kết tạo bằng một kiến trúc sử của xã hội và quan niệm về kinh tế riêng biệt; cái dây nối suốt mỗi diễn tiến của thời đại, đồng thời còn là những quy luật dẫn dắt cho sự diễn tiến của thời đại kia là xã hội biện chứng. xã hội diễn tiến theo một biện chứng có khoa học tính, phát triển, phát triển mãi; trong hoài bão của mỗi xã hội thời đại từng dựng dục cái lý tưởng của xã hội và thời đại sau, tức là cái

kết cấu hiện thực của xã hội và thời đại sau. cách mạng là công cuộc xoay đổi thời đại trên một giai đoạn diễn tiến xoáy trôn ốc có nút đã đến ngày thành thục của một lẽ sống hàm dưỡng trong nút bế tắc, cần yếu có một bạo đột thủ đoạn cởi mở cho dây diễn tiến đi lên; ý nghĩa và tác dụng của cách mạng là tu chỉnh và cải tiến xã hội cho sang được một xã hội hợp lý hơn, hy vọng hơn, được đi vào một con đường hợp quy luật, hợp với nguyên tắc tiến hóa, hợp với tương lai có dự biết trước có một trông ngóng của lý tưởng hàm dưỡng tự sâu xa. mỗi công cuộc cách mạng sản sinh ra một xuất lộ cho dân tộc, quốc gia và xã hội. khởi điểm của cách mạng đã dựng dục từ trong bào thai của thời đại cũ, đó là lý tưởng trong một quá trình tự nó tiến triển để cho thành thục, thể hiện thực hoàn toàn và y cứ vào hiện thực mà phát triển tinh thần và nguyên tắc với tự do và sản sinh ra một lực lượng đều hoàn toàn là kết quả của hiện thực, tức là cái xuất lộ của quốc gia dân tộc và xã hội đương nhiên là sự kết hợp của nội tại và ngoại tại mà thành một đường lối với một hiệu quả dự cầu.” trên đây chỉ qua một trang ngắn ngủi, những ai muốn nghiên cứu về lịch sử văn minh nhân loại, về lịch sử của giống nòi chỉ cần mở rộng cái tâm ra, khách quan mà xem xét các diễn tiến (tức là biện chứng) và đặt chúng trong cái toàn cảnh khách quan và chủ quan (tức là đại biện chứng) cũng có thể hình thành được một nhãn quan về hiện tại và hướng tiến tới trong tương lai. nếu ta đặt diễn tiến trong phạm vi một quốc gia thì đó là tiểu biện chứng, trong phạm vi khu vực là trung biện chứng và toàn cầu là đại biện chứng. nhiều người trong chúng ta hay nói rằng: kết hợp tinh hoa của phương tây với tinh hoa của dân tộc làm nền tảng cho việc xây dựng lại con người việt nam, đất nước và xã hội việt nam trong tương lai. câu nói này hoàn toàn đúng về tổng thể nhưng ứng dụng vào thực tế thì mọi việc chẳng dễ dàng chút nào vì thử hỏi tinh hoa phương tây là gì? phải chăng là la mã, là Ðức quốc, pháp quốc, anh quốc hay hoa kỳ hay nga? nếu ta cứ lấy từng cái hay nhất của từng quốc gia ấy kết hợp lại, thì thực tế là chưa chắc các cái hay ấy tạo thành cái một hay mới mang tính tổng hợp toàn diện. thực tế đã cho thấy là “các cái hay ấy khi tổng hợp lại (ở đây ta nói về toàn diện cả vật chất lẫn tinh thần) lại thường tạo ra một cái mà hình hài chẳng giống cái gì cả, vì cái hay của mỗi dân tộc là sản phẩm tất yếu của một quá trình hình thành, đấu tranh, đào thải liên tục và lâu dài để hình thành cái đặc trưng của mỗi dân tộc”. nếu nói về tinh hoa của dân tộc ta thì trong chúng ta (các trí thức việt nam) đây, liệu có ai hiểu cái hay thực sự của chúng ta là gì? các thế hệ trẻ thì khi chúng nhìn thấy sự hoành tráng của rome, sự uy nghi của kim tự tháp, của nhà chọc trời, của vạn lý trường thành, của angkor wat so với hồ hoàn kiếm, đền ngọc sơn của ta thì chúng sẽ vội vã lên tiếng phản bác ngay là: ta chẳng có gì để mà đáng hãnh diện cả. chúng sẽ nói là cha ông đã lừa phỉnh chúng hay cha ông đã quá lỗi thời, không biết nhìn ra thế giới bên ngoài. khi tuổi trẻ việt nam không tin vào tổ tiên mình mà chỉ biết tôn thờ cái vĩ đại vật chất của người khác thì sự mất độc lập, tự chủ đã nằm ngay trong tiềm thức của giới trẻ vậy. khi nhìn vào văn hóa nước nhà trong khoảng 100 trở lại đây thì: nếu không “hồn bướm mơ tiên” thì cũng thơ yêu tình tự, không văn chương ngoại quốc thì cũng cổ học tây Âu, không dịch những tiểu thuyết lãng mạng hay “triết học trưởng giả” tây phương, thì cũng tướng tán bàn về những vấn đề xa lạ. nói như thế không có nghĩa là hạ giá văn chương hay cổ học tây âu, mà chỉ muốn nói rằng: trước họa diệt chủng của bắc phương như hiện nay thì bấy

nhiêu đó có làm nên mặt trận văn hóa và tư tưởng chăng? nếu nền văn hóa của việt nam chỉ có bấy nhiêu thì những người không còn tin theo cộng sản nay biết bám víu vào cái gì? Đó là lý do để giải thích sự thất bại của chúng ta khi chúng ta chỉ biết đấu tranh bằng chính trị, văn chương, xã hội mà không hề hiểu thế nào là “triết lý chính trị”. chúng ta không được nhầm lẫn giữa học vấn với văn hóa, văn hóa đích thực phải có lý tưởng và định hướng mới cảm hóa được con người. nếu bỏ con người để lo cho thể chế và luật lệ thì đó là duy vật, chứ không phải đi theo cộng sản mới gọi là duy vật, nên chính trị là một sự ứng dụng, nhưng ứng dụng không có nghĩa là áp dụng nguyên bản từ bên ngoài vào. cho nên kết hợp cái hay của người với cái hay của mình dễ trở thành lời hô hào suông. Ðể lời hô hào ấy không phải là lời hô hào suông, ta nhất thiết phải biết: 1) Ðạo học phương Ðông bách việt là gì ? 2) văn minh tây phương là gì (các mặt chính yếu của văn minh tây phương) ? 3) tại sao thế giới đang bế tắc nên cần có một cuộc cách mạng mới ? nhiều học giả tây phương khi nghiên cứu về Ðông phương thì rất lấy làm lạ lùng là: “tại sao một dân tộc nhỏ bé như việt nam lại luôn luôn chiến thắng kẻ thù phương bắc. ngay cả khi việt nam hùng mạnh, người việt nam vẫn không chủ trương đánh chiếm lại hoa nam vốn được coi là đất tổ của mình. trong lãnh vực văn hóa, việt nam là nước duy nhất biết du nhập chữ quốc ngữ dựa trên mẫu tự la tinh để thay thế cho chữ cổ (nhưng không mất ý và nghĩa) đã tồn tại từ rất lâu đời có xuất xứ từ nền văn hoá môn - khmer cổ đại để truyền bá trong dân gian một cách cực kỳ hữu hiệu như vậy”?. vì thế, họ nghĩ “như vậy cái dân tộc này phải có một cái gì đó rất thâm hậu”? Ðiều này khiến các học giả phương tây phải để tâm xem xét ngọn nguồn mới được. nhưng hào quang của nền văn minh tàu mà đường dây buôn bán tơ lụa và hương liệu đã làm chóa mắt các học giả phương tây khi họ tiếp xúc với phương Ðông, nên họ chỉ để tâm tìm hiểu về tàu mà thôi. Ðương nhiên họ coi các dân tộc nhỏ chung quanh nước tàu chỉ là phụ thuộc của trung tâm văn minh tàu. vào nửa cuối thế kỷ 19, khi các chế độ thuộc địa hoặc đô hộ hoặc nhượng địa đã được củng cố và đi vào ổn định thông qua các tương nhượng giữa các quốc gia tây phương (chủ yếu là anh và pháp) với nhau thì lúc đó giới trí thức Âu châu mới bắt đầu tìm hiểu về nền văn minh Ðông phương có bài bản hơn. nhưng một lần nữa, ta lại chứng kiến sự đột phá của trường phái triết học Ðức (nói chung) trong việc tìm hiểu về Ðông phương chứ không phải là các học giả anh hay pháp, trong khi anh và pháp vốn được coi là hai nước thực dân chính yếu. Ðiều này hoàn toàn phù hợp với vị trí của người Ðức khi họ bị gạt ra ngoài vũ đài chính trị của Âu châu trong suốt thế kỷ 19 và nửa đầu của thế kỷ 20. khi xem xét các luận điểm của nietzsche, kierkegaard, hegel, marx, ta thấy: dù cho họ có luận bàn gì đi nữa thì ảnh hưởng của tư tưởng phương Ðông vẫn bàng bạc xuyên suốt trong các suy nghĩ của các vị ấy. dĩ nhiên các suy nghĩ ấy vẫn lấy tinh thần học thuật phương tây làm nền tảng và trình bày theo cách rất phương tây cho nên thật khó có thể thấy được là trong các luận điểm phức tạp ấy, vẫn để lộ ra tình trạng tiêu hóa không trọn vẹn về tri thức. Ðiều này báo hiệu một cuộc khủng hoảng tri thức thực sự đối với Âu châu và báo hiệu một trung tâm văn minh mới sẽ thay thế Âu châu để làm đại diện tiêu biểu cho nền văn minh phương tây cách trọn vẹn – đó là hoa kỳ. hoa kỳ với chủ nghĩa

thực dụng, có khả năng tổng hợp các cái hay của nền văn minh hy-la, thông qua các phát triển mà các quốc gia Âu châu đã từng bước đạt được để hoa kỳ làm phong phú thêm các nền tảng của học thuật phương tây. nhưng sang nửa sau của thế kỷ 20 thì vấn đề của cội nguồn nền văn minh phương Ðông đã được đặt lại có hệ thống hơn. vị trí của nền văn minh bách việt trong quá trình phát triển của nền văn minh hán tộc đang được nhìn nhận một cách rõ ràng hơn để qua thế kỷ 21, vị trí của nền văn minh bách việt sẽ được từng bước soi rọi, củng cố vững chắc như là nền văn minh trụ cột của quá trình phát triển nhiều nền văn minh khác nhau trên trái đất này, chứ không phải là chỉ với nền văn minh tàu không thôi. như thế, chúng ta cần phải dồn nhiều nỗ lực vào việc tìm hiểu tận gốc rễ các giá trị tinh thần mà tổ tiên ta đã khám phá ra trong thời kỳ sâu thẳm của quá khứ khi mà tuyệt đại đa số nhân loại này vẫn còn sống dưới dạng du mục hoặc bán du mục. loài người từ Ðông sang tây vẫn luôn cố gắng tìm cách giải thích điều không bao giờ giải thích tường tận được đó là: loài người sinh ra thế nào và rồi sẽ đi về đâu?

tự ngàn xưa, khi trí tuệ lòai người còn hạn hẹp thì điều không thể giải thích được ấy cứ gán cho một đấng sáng tạo siêu nhiên nào đó là đủ (như chúa trời, avatar, .v.v..). nhưng khi con người đã đạt được một số tiến bộ nào đó liên quan đến khoa học vật chất thì loài người hiểu rằng: vũ trụ này quá bao la nên sự giải thích đơn điệu như vừa nêu là không thể chấp nhận được. nhưng càng tiến bộ, con người càng cảm nhận được rằng: Ðiều không thể giải thích tường tận ấy vĩnh viễn là điều không thể giải thích tường tận được. cho nên, trong quá trình phát triển của mình - tức là trong quá trình tiến hóa đầy phức tạp và khó khăn ấy, loài người hiểu được đến đâu về khách quan thì biết đến đó mà thôi. nhưng lẽ sống là lẽ thật. nếu không có vũ trụ bao la hoạt động liên tục không bao giờ ngưng nghỉ này thì không có nắng – mưa, nóng – lạnh thì không có trái đất này. nếu không có cây cỏ thảo mộc thì không có muông thú. nếu không có muông thú thì không có con người. cho nên, ít ra đến thời điểm này của lịch sử loài người trên trái đất này thì con người là cứu cánh và mục tiêu tối hậu mà chính con người phải tự tìm cách phục vụ sao cho lẽ sống thật ấy không ngừng được thăng tiến lên để loài người ngày càng trở nên có tính cách người hơn. thực ra, trong điều kiện của khoa học hiện nay, nền văn minh liên hành tinh mới đang trong giai đoạn bước đầu chập chững mà thôi. nếu trong vài ba trăm năm tới, con người tìm được các nền văn minh khác với loài người (ta tạm gọi là như vậy) ở trên các hành tinh khác thì sao ? khi đó nhiều nhận định ngày nay sẽ bị đảo lộn hoàn toàn để loài người trên trái đấy này biết cách thích nghi với loài người trên các hành tinh khác. như thế, trong cái cõi uyên nguyên của vũ trụ sự hiểu biết của con người hiện nay vô cùng hạn hẹp. cho nên, các sự giải thích về khách quan (cái vô cùng lớn và cái vô cùng nhỏ) đều chỉ đánh dấu từng bước phát triển của loài người về mặt tri thức mà thôi, không có gì là mãi mãi đúng mà cũng chẳng có gì là mãi mãi sai. cho nên, loài người phải biết chấp nhận tiến hóa, chấp nhận những cuộc cách mạng liên tục về mặt nhận thức là vậy. một con người cụ thể, một cộng đồng cụ thể, khi giải quyết một vấn nạn nào đó thường

chủ quan, cho rằng đó là quyết định hoàn toàn đúng (ở đây ta nói về tôn giáo là chính), nhưng ta nào đâu biết rằng: ngoài các dữ kiện cụ thể mà ta dựa vào đó để đi đến quyết định và hành động thì con người vẫn bị chi phối bởi luật vô thường của vũ trụ. ta không thể đi ngược cái luật vô thường của vũ trụ được. Ðể tồn tại và tiến hóa, ta phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt cái luật vô thường này, không có một biệt lệ nào cả. nhưng trớ trêu thay, cái luật vô thường này lại không thể chỉ giải thích bằng quy luật của khoa học khách quan được (khoa học vật lý) mà cũng chẳng thể giải thích được bằng cách xé lẻ cái quá trình suy tư của trí tuệ được. nếu tách chúng ra (vật chất và tinh thần) hoặc xé lẻ ra để xem xét một đọan ngắn ngủi nào đó trong quá trình suy tư của mình thì luật vô thường mà ta vừa nói, sẽ không còn trong một thể thống nhất nữa. khi đó, ta sẽ dễ dàng đi vào lầm lạc. vì các lầm lạc này mà loài người đã phải trả bằng biết bao máu xương và khổ ải. quá trình sống của loài người quả là một quá trình dài trong việc tự hoàn thiện lấy mình là vậy. như thế, việc tách rời vật chất với tinh thần ra để nghiên cứu cho mục đích tiến hóa chỉ có tác dụng tích cực đối với loài người khi loài người ý thức được luật vô thường mà thôi. thiên về mặt này hoặc mặt kia thì luật vô thường không còn được tôn trọng nữa, lúc đó mất quân bình xảy ra và xã hội sẽ loạn lạc. cho nên, vũ trụ là thống nhất, hoạt động theo một quy luật mà loài người không thể can thiệp hoàn toàn vào được và mãi mãi nó cứ hoạt động như vậy và tác động sâu rộng trong quá trình tiến hóa của loài người. nói gì đi chăng nữa thì cũng chỉ có một vũ trụ này mà thôi (còn vũ trụ lớn ra sao, tự thân vũ trụ tiến hóa như thế nào là một vấn đề khác, loài người hiểu đến đâu thì biết đến đó là vậy). cho nên, cụ lý Ðông a khi phát biểu về vũ trụ quan, thì cụ mới nói đến duy nhiên là vậy (cần so sánh nhất nguyên với duy nhiên trong phần về triết học tây phương). thế con người thì sao ? ngày nay, ta thấy con người có khác nhau về màu da, ngôn ngữ, tập quán, v..v…nhưng từ ngàn xưa thì con người ra sao? xin thưa: ta chưa hiểu được! sọ của con người homo erectus mà các nhà khảo cổ tìm thấy ở châu phi chưa quá 2 triệu năm. khám phá này không giải thích được tại sao lại có người da trắng, da vàng, da đen. con người ngày nay có các tiến bộ vượt bực so với 100 năm năm trước nhưng hiện nay loài người vẫn chưa thể tìm hiểu thấu suốt xem các dãy dna trong các gene di truyền đã thay đổi thế nào trong việc thích nghi với môi trường khách quan chung quanh để từng bước biến đổi thành da đen, da vàng, da trắng. khi không thể giải thích tường tận được, chúng ta đã vội vã đi đến kết luận (dựa vào một số tiến bộ mà quốc gia nào đó đã đạt được) là “kẻ này không phải là người văn minh, kẻ khác chưa phải là người “thượng đẳng” mà chỉ dân tộc ta mới đích thực có văn minh mà thôi”. kết luận vậy là hoàn toàn sai! thế rồi tôn giáo cũng làm cho con người chia rẽ sâu xa thêm nữa về những niềm tin do con người đặt ra, về cách thức thờ phượng đối với các sản phẩm tinh thần liên quan các vấn đề siêu linh ở một “cõi khác”, trớ trêu thay con người đang sống ở xã hội loài người (cõi người), nhưng không nghĩ cách phục vụ cho cõi người, mà lại phục vụ cho cái cõi không phải ở cõi người (cõi siêu hình khác cõi người?. nhưng chính các tôn giáo lại không thể giải thích được cõi khác đó). Ít ra cho đến thời điểm này của lịch sử nhân loại, cho đến khi “giả định” là con người sẽ có dịp tiếp xúc với loài người khác ở các hành tinh khác, thì trên trái đất này cũng chỉ có một loài người duy nhất mà thôi. sự khác biệt về màu da, vóc dáng chỉ nói lên quá trình thay đổi về gene nhằm thích ứng với thiên nhiên của con người. sự khác biệt về trình độ

hiểu biết, phong tục tập quán là do tổ chức xã hội, môi trường sống, điều kiện phát triển và giáo dục chính yếu tạo ra. loài người là một thể thống nhất mang đầy đủ tính người. dù bạn màu da gì, văn minh đến đâu, dù bạn theo tôn giáo nào, dù bạn sống ở đâu, dù bạn là nam hay nữ, giàu hay nghèo, kể cả khi còn là bào thai thì bạn vẫn là người và cứ là người với đủ bản tính đích thực của con người cho đến khi bạn nhắm mắt xuôi tay, xa lìa cuộc sống trên trần gian này. như thế văn minh nhân loại bao gồm sản phẩm trí tuệ, tinh thần nên không có văn minh khoa học Đông hay tây mà tất cả đều là văn minh khoa học của nhân loại. tài nguyên thiên nhiên cũng là sở hữu của nhân loại nói chung, chứ không phải là của hoàn toàn riêng một quốc gia nào (cho nên việc tranh luận về quyền sở hữu đang được xem xét lại tận gốc rễ). vì thế, cụ lý Ðông a mới nói đến: 1) duy nhân, tức là nói về bản thể của loài người. 2) duy dân, tức là nói đến loài người trong quá trình tiến hóa của mình (loài người và xã hội) 3) duy nhiên, tức là nói đến vũ trụ quan trong cái cách thức mà khách quan tác động lên quá trình tiến hóa của loài người. từ nhận thức có tính cách nền tảng này, ta sẽ tìm hiểu ngọn ngành hơn về quá trình hình thành của nền văn minh nhân loại này, trên trái đất này, đồng thời qua đó, ta cũng sẽ hiểu được những bế tắc hiện nay của thế giới là gì và làm cách nào để nhân loại giải quyết các bế tắc ấy hầu đưa con người vào một thời đại mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. (xin xem duy nhân, duy dân và duy nhiên ở đoạn dưới) * Ðạo học phương Ðông là gì ? câu hỏi này chưa được các học giả phương Ðông xem xét một cách kỹ lưỡng, huống chi là các học giả tây phương. khi nói đến phương Ðông, chúng ta thường nói đến dịch lý dựa trên mối tương quan giữa cặp Âm - dương khi áp dụng vào mỗi lãnh vực khác nhau thì sẽ đem lại các lý giải thích ứng cho lãnh vực đó. nhưng dịch lý là thể dụng của một loạt các nhận thức sâu rộng hơn nhiều mà tổ phụ bách việt của chúng ta đã khám phá ra nhằm dẫn dắt cuộc sống sao cho thuận thiên, tức là phù hợp với quy luật khách quan của thiên nhiên, môi trường sống chung quanh vậy. khi tổ tiên ta nói “nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật” thì điều đó có nghĩa là gì ? nếu giải thích là “trời - Ðất - người” thì tuy đúng và được đa số chấp nhận nhưng dường như trong chỗ sâu thẳm của lẽ sống thì khái niệm ấy vẫn còn hàm chứ nhiều ẩn ý cao siêu hơn so với các suy nghĩ thông tục của chúng ta ngày nay. khái niệm về nhất nguyên (mà tổ tiên ta nói ở đây) nói lên cái lẽ uyên nguyên của vũ trụ trong việc hình thành cặp Âm - dương tức là lưỡng nghi, từ lưỡng nghi mới sinh ra mọi thức khác về vật chất cũng như tinh thần. (“nhất âm nhất dương chi vị đạo”, âm dương chính là đạo lớn). vậy chính khả năng cô đọng cùng cực này lại làm cho dịch có những nét đặc trưng dễ nhất, giản dị nhất, tuy nhiên khi đạo lớn tỏa ra thì bao hàm cả trời đất vũ trụ thì lại khó nhất, cho nên kinh và Điển là sự kết tinh của một nền văn hóa. “khổng an

quốc đời hán có nói rằng: viêm việt (bách việt) chính là nồng cốt của lục kinh”. (chúng ta biết rằng hán tộc chỉ biết đến ngũ kinh mà chưa hề nói đến lục kinh). nên trong chương đầu của kinh thư khổng an quốc có viết rằng: “chúng ta (ám chỉ người hán) chỉ biết phần ngũ kinh (ngũ kinh là: kinh thi, kinh thư, kinh lễ, kinh nhạc, kinh xuân thu), nhưng những sách cổ hơn ngũ kinh như: tam phần, ngũ Điển, bát sách, cửu khâu thì chúng ta lại không biết”. ngũ kinh là tiếp nhận cổ huấn từ ngũ Điển. tóm lại người hán xưa và nay không bao giờ đánh cắp được các kinh Điển tinh hoa của bách việt dù trải qua nhiều ngàn năm xâm lăng và cố gắng đồng hóa dân tộc bách việt, đó cũng là một trong nhiều lý do để giải thích tại sao hơn 1000 năm bắc thuộc mà dân việt không bị đồng hóa là vậy. cho nên đã là con người, với tích cách là người phải sống thuận hoà với vũ trụ, vì con người là tổng hợp hài hoà nhất, cao độ nhất của cặp Âm - dương (vật chất - tinh thần, thêm nữa con người do sự kết hợp nam - nữ mà tạo ra). nếu không có con người thì các thứ khác dù có tự hoàn thiện đến đâu thì cũng kể như không. những thứ này hiện diện không phải do sự vô hạn của chúng mà chính là do ý thức của con người đặt vào chúng. như vậy, con người là người sinh vật tối linh thiêng trong vũ trụ này, (nhân ư vạn vật hữu linh) do đó con người phải là đích điểm để tìm hiểu và phục vụ. Ðiều này được thể hiện khá rõ trong sinh hoạt hàng ngày của xã hội việt nam cổ truyền còn sót lại (đặc biệt là tại miền bắc việt nam, cái nôi của dân việt ). khi ta thấy trong một gia đình có cha mẹ hay ông bà lìa đời thì cây cối chung quanh nhà cũng được để tang màu trắng hay vàng tùy theo tuổi tác của người quá cố. tập quán này không xảy ra bất cứ nơi nào trên thế giới, kể cả bên tàu. nhiều người, đặc biệt là một số giáo sĩ thiên chúa giáo Âu châu thường nghĩ là: Ðông phương không có tôn giáo vì họ định nghĩa từ “tôn giáo” theo lối suy nghĩ của họ. nghĩ như vậy nên họ chẳng hiểu gì về bách việt cả. tôn giáo của phương Ðông mà chủ đạo là bách việt, quan niệm vũ trụ là vô nguyên trong một thể thống nhất, cho nên bách việt không đề xuất tôn giáo kiểu Ấn giáo, thiên chúa giáo hay hồi giáo mà lấy đạo thờ ông bà như là nền tảng nhằm giữ cho gia đình được trật tự, xã hội được kỷ cương. tôn giáo thuận thiên ấy đã bị xã hội vật chất làm hoen ố đi mà thôi. nếu quan sát kỹ lưỡng đà phát triển của văn minh nhân loại ta sẽ thấy: tất cả các nền văn minh sau bách việt đều chịu ảnh hưởng của văn minh bách việt một cách sâu xa, nên nếu nói “nền văn minh bách việt là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn minh nhân loại” cũng không phải là không đúng. nhưng chính văn minh bách việt sống nặng về tinh thần và trí tuệ, tổ tiên ta cố tránh các nạn chinh chiến đao binh nhầm hủy diệt sinh mạng con người. nên trước những kẻ du mục xâm lăng và vì phải bảo tồn nòi giống tổ tiên ta cứ dần dần lui về phương nam để rồi cuối cùng bọn xâm lăng đã chiếm lấy trung nguyên (trung tâm nước tàu bây giờ), nơi vốn là đất tổ của bách việt từ ngàn xưa. vấn đề bách việt xuống định canh định cư ở trung nguyên trước dân tộc hán bao lâu thì đó là một chủ đề của khảo cổ mà không thể lý giải dễ dàng. nền văn hóa môn- khmer với chữ viết khoa đẩu đã tạo ra các tác động gì đối với việc hình thành chữ hán và chữ phạn sẽ là các câu hỏi lớn của lịch sử. nhưng qua các học giả đã nêu trên thì “khi bách việt đã khởi đầu cuộc cách mạng nông nghiệp đầu tiên trên thế giới này, thì lúc đó các dân tộc khác vẫn còn sống du mục”. Ðiều này chứng tỏ là “chính tổ tiên ta đã tìm ra cái lẽ uyên nguyên của trời đất và vũ trụ, của các biến hóa khôn lường của cặp Âm-dương và đặt nền tảng cho đạo học ở phương Ðông, lấy con người làm trục sống và tiến hóa”. các nền văn minh sau bách việt ngày càng tập trú vào các vấn đề của vật chất hơn. chuyện này làm cho xã hội loài người tiến bộ hơn về mặt vật chất nhưng cũng đặt ra nhiều bế tắc mà nhân

loại đang phải đối đầu và đang cố công giải quyết cho ổn thỏa. có người sẽ hỏi: như thế đạo học Ðông phương có gì là cao siêu đâu mà phải tán dương ? và nếu so với lịch sử triết học tây phương thì đạo học bách việt chẳng là gì cả. so sánh như vậy là sai lầm!. như trên đã nói đạo học phương Ðông dễ nhất giản dị nhất, nhưng cũng lại khó khăn sâu thẩm nhất. bởi vì cùng một đạo học mà ra thiện ra ác, ra tốt xấu, nhơ đục. Đời con người ta thì có bờ bến, đạo học thì không bến không bờ, như vậy thì lấy cái bờ bến mà so sánh cái không bến bờ, ấy là so sánh sai lầm vậy. cho nên ta có thể lấy cái khoa học tây phương mà tìm hiểu cái đạo học Đông phương, chứ không ai lấy cái khoa học để so sánh với đạo học. cái gì là nơi bắt đầu của muôn vật, nó tự nẩy ra Âm, dương, rồi “Âm, dương giao thông thành hóa mà sinh vật ?”. ta phải lấy cái con người đã biết để đi tìm cái chưa biết, “biết” rồi phải xem xét suy ngẫm trong cái vũ trụ man mác huyền minh để chúng ta tìm ra Đạo. tóm lại Đạo lúc nào cũng giữ cho trời với người luôn thăng bằng để con người sống đúng ý nghĩa đạo, hiểu được như vậy ta phải nhất mực luôn luôn giữ cho “trực tiết tâm hư” mới được. tâm càng chính thì càng cộng thông với trời đất cao hơn và cuộc sống mới xứng đáng là người hơn. * thế giới này loạn lạc vì: “do cái tâm bất chính mà ra”! có người sẽ nói: thế thì đạo học bách việt phương Ðông đâu có so sánh được với khổng tử với phần “hình nhi thượng” và “hình nhi hạ” đã nói lên hết rồi. thưa là: khổng học chỉ là một bản sao chép bất toàn của đạo học bách việt đích thực mà ra. bởi vì khổng khâu lấy đời nhà chu làm tiêu chỉ để san định lại các sách vở và khổng khâu cũng đã từng nói là “ông ta không làm gì mới”. Ðó là lý do tại sao ông ta lấy biệt hiệu “ngô tòng chu” (tôi theo nhà chu) là vậy. như chúng ta đã biết, nhà chu chỉ mới có cách đây chưa quá 3000 năm, trong khi nền, văn hóa bách việt đã có từ hơn 3000 năm trước nhà chu. thế nên, những ai còn tin vào khổng tử tức là chưa thấy được tinh hoa của tổ tiên bách việt mình. họ chỉ có sáo ngữ lập lại và tin vào những luận điểm của kẻ xâm lăng hán tộc và dùng chúng để mà khoe khoang cái hiểu biết của mình, dùng lý thuyết của kẻ cai trị vẽ ra và được quảng bá bằng những âm mưu thâm độc có tính toán của lãnh đạo hán tộc thời xưa là “xóa sổ văn hóa bách việt, làm cho người việt tưởng dân tộc không có gì hay, toàn học lại từ tàu”, rồi thời gian họ trở thành mất gốc, sẵn sàng bán linh hồn cho ngoại bang là thế. có người lại nói: làm sao đạo học bách việt có thể so sánh được với đạo chúa, đạo phật. thưa là: Ðã nói rằng các tôn giáo đều có một nguồn gốc chung từ đạo học bách việt mà ra. Ðiều này không thể chối cãi, cho nên sự xuất hiện một khổng tử chỉ là để đáp ứng với xã hội hán tộc sau khi đã chiếm được vùng thái sơn (tức là trung nguyên, vùng đất tổ của bách việt). trước hán tộc, là nhà chu hay nhà châu từ phía tây tiến dần đến định cư ở thiểm tây, nên gọi là nhà tây chu. nhà tây chu trước học văn hóa của nhà thương rồi dần dần cảm hóa theo văn minh hoa hạ và sau đó đánh chiếm nhà thương, lập nên nhà tây chu, sau nhà tây chu dời sang phía đông nên gọi là nhà Đông chu. trước nhà chu là nhà thương từ vua thành thang truyền 28 đời đến vua trụ 1783 - 1134 ttl. trước nhà thương là nhà hạ từ vua Đại vũ truyền đến đời vua kiệt 2205 – 1783 ttl, tổng cộng 17 đời. trước nhà hạ là hoàng Đế truyền 7 đời đến vua thuấn 2697 – 2205 ttl. như vậy lịch sử của nước trung hoa bây giờ chỉ có biết từ thời hoàng Đế vào khoảng năm 2697 trước tây lịch, đúng như các sử gia của thế giới đã nói: “trên thế giới này chỉ duy nhất có một nước trung hoa có một nền văn hóa lâu đời nhất mà lại có một lịch sử rất mù mờ nhất” quả không sai).

ta cần để ý là thời Ðông chu có đến 800 chư hầu. như thế, kế của nhà chu là tạm thời chấp nhận sự tồn tại của một số bộ phận bách việt mà nhà chu đã xâm lăng, thôn tính trong khi chờ đợi chính sách đồng hóa thành công mà thôi. sau này khổng tử là người đã đặt ra nền tảng cho chính sách “trung ương tập quyền” ấy, để giúp việc đồng hoá các bộ phận bách việt được mau lẹ thành công, tước bỏ hẳn đạo học bách việt, để mặc cho nhà vua là kẻ thay trời trị vì thiên hạ. Ðó chính là chính sách “trung ương tập quyền toàn diện” vì: vua là người duy nhất đại diện cho trời!. ngay cả la mã trong thời kỳ huy hoàng nhất của vai trò giáo hoàng cũng không thể có địa vị độc tôn như vậy. Ðạo brahman cổ được được thi hành bởi tầng lớp dân chúng nghèo khó bản địa khác với chủng tộc xâm lấn aryan ở phương bắc là một nghịch lý trong cuộc sống của xã hội Ấn Ðộ. bên tàu có vua thay trời trị vì thiên hạ nhưng do truyền thống đạo học bách việt còn có ảnh hưởng nên ở tàu, đặc biệt là trong nhóm bách việt không có giai cấp theo kiểu cha truyền con nối hay phong kiến (ở triều đình thì khác) và việc hình thành các gia đình có tài sản lớn là một cái gì đó gây ra nhiều áy náy trong tâm hồn người bách việt (ở tàu thì vấn đề này nhẹ hơn vì họ chỉ chịu ảnh hưởng của bách việt một phần mà thôi) nhưng qua đến Ấn Ðộ thì vấn đề giai cấp là đạo của họ, là đặc quyền của nòi giống aryan với đa số dân chúng bản địa nghèo khó. Ðạo brahman xác định cái trật tự giai cấp ấy. vì thế đạo phật là sự thoát thai của Ấn Ðộ giáo trong hoàn cảnh Ðức phật thấy sự bất công của Ấn giáo (giới bà la môn) với tầng lớp dân chúng bần cùng nghèo khổ. với đạo chúa thì sự thể đã khác nhiều. Ðạo chúa là cả một sự tổng hợp của đạo học bách việt (qua ý tưởng thiên chúa ba ngôi “chúa cha, chúa con và chúa thánh thần”), lập căn bản trên khái niệm “tam tài – thiên, Địa, nhân” cùng với sự mở rộng khái niệm về sự bình đẳng, bác ái và huynh đệ trong điều kiện dân do thái bị một cổ hai tròng (do thái bị đế quốc la mã cai trị thông qua các quan tay sai ngọai quốc). như thế, đạo chúa phát nguyện như là một phương tiện đấu tranh tư tưởng nhằm lật đổ chế độ chiếm đóng la mã là trước hết, thông qua các điều răn mà môi-sen đã rao giảng thời cựu Ước, (sau chúa jesus mới có tân Ước) nhân danh đấng thượng Ðế chí tôn như một biểu tượng tối ư linh thiêng. khi đạo chúa du nhập vào la mã vào thế kỷ thứ 3 bởi hoàng đế constantine thì la mã thế quyền đã mở ra một lối thoát mới cho đạo chúa và làm cho đạo chúa ngày càng trở nên tông quyền hơn (nói theo cụ lý: “chúa jesus đâu muốn tạo ra tông quyền”), cuộc tranh chấp liên lỷ giữa thần quyền và thế giới la mã sau thế kỷ 6 (sau tây lịch) nhằm hình thành các quốc gia Âu châu vào thế kỷ 13, mà biên giới đã được nhìn nhận cho đến ngày nay đã từng bước đặt nền tảng cho một hệ thống xã hội phân chia giai cấp (như tại Ấn Độ) trong khi đạo chúa được nhìn nhận (hoặc phải được nhìn nhận) như một tôn giáo chính có khả năng kết hợp các bộ tộc Âu châu lại với nhau nhằm kình chống lại các nhóm Ả rập mà vào thế kỷ 7 mohamet cũng bằng con đường tông giáo đã kết hợp các nhóm du mục với người Ả rập để hình thành một thế lực chính trị có khả năng đe dọa an ninh của la mã. cuộc xâm lăng của mông cổ vào thế kỷ 13 đã là nguyên nhân chính trong thời trung cổ làm cho hồi giáo phát triển rất mau, cuộc chiến tranh lạnh vừa qua là một cơ hội khác nữa đối với hồi giáo Ả rập. chỉ điểm sơ qua quá trình phát triển của tôn giáo trên quy mô toàn cầu trong gần 3000 năm qua, cũng đủ cho thấy, đó là một quá trình ngày càng trở nên vật chất hơn ngày càng

xa lìa cái khởi điểm nhất nguyên của đạo học của đạo làm người. bản chất của các bất ổn trên thế giới hôm nay bắt nguồn từ đây và nếu muốn canh tân và cải cách thế giới thì mọi việc cũng phải bắt đầu từ đây vậy. bởi chưng bách việt với đạo học là tượng trưng cho tinh túy của tinh thần, nhưng qua hán tộc thì yếu tố tinh thần đã bắt đầu giảm xuống yếu tố vật chất bắt đầu tăng lên, để theo thời gian khi văn minh nhân loại càng di chuyển về hướng tây (lấy bách việt làm chuẩn) thì yếu tố vật chất càng gia tăng, mà đỉnh cao nhất đạt đến khi văn minh nhân loại chuyển đến hoa kỳ hiện được coi là biểu tượng toàn bích của nền văn minh vật chất vậy. * - bàn về triết tây phương: cụ lý đã nói: * - “triết học là thống quan của con người” nghĩa là triết học đặt nền tảng còn cách thức mà con người suy nghĩ và hành động. như thế khi bàn về tôn giáo mà không bàn về triết học sẽ là một sự thiếu sót nghiêm trọng. nhưng triết học cũng là một môn học tìm hiểu về cái cách thức làm cho loài người được sống hạnh phúc hơn, được viên mãn hơn trong đời mình và cả đời sau mình nữa. nhưng thái cực diễn biến liên tục thông qua cặp Âm- dương, điều này làm cho con người qua cuộc sống của mình phải nương theo thái cực để sinh tồn nhưng không thụ động, thụ động về mặt tri thức tức là đã biến gần đến tình trạng vô tri hoặc theo bản năng là vậy. cho nên cuộc sống vốn gồm hai mặt âm và dương, vật chất và tinh thần cùng kết hợp không thể tách rời nhau; đó không phải là hai mặt của một vấn đề như quan niệm đơn giản của nhiều học giả chỉ biết sử dụng kỹ thuật phân tích thuần túy nhằm va chạm sự thật, nhưng khi tách ra thì sự thật không còn là sự thật nữa. kết quả tất yếu là anh đã đi lạc hướng. Đó là tình trạng của triết học phương tây và cũng là sự bế tắc của triết tây phương vậy. bây giờ ta hãy xem xét đôi điều liên quan đến liên quan đến sự bế tắt của triết học tây phương: văn minh nhân loại là một thể thống nhất và là tài sản chung của toàn thể loài người. mỗi bước tiến đều đánh dấu một quá trình duy dân biện chứng đấy thôi, cho nên sự phân biệt ra triết tây phương (ở đây là để nói về trường phái triết học được hình thành ở Âu châu) được lập căn trên sự nghiên cứu về quá trình tiến hóa của loài người với tính cách là người (tức là tinh thần và vật chất). cái nôi triết học tây phương có căn bản từ thiên chúa giáo la mã kết hợp với nền tảng tri thức đã học được từ các học giả hy lạp, ai cập và lưỡng hà khám phá ra trong thời gian khoảng gần 2000 năm trước thiên chúa giáng sinh. trong thời gian dài đến hơn 10 thế kỷ, sự độc tôn của giáo hội thiên chúa giáo đã chấm dứt hẳn cái cách suy tư độc lập hơn tinh thần hơn mà các học giả hy lạp đã đặt nền tảng ngay từ thế kỷ thứ 6 trước công nguyên. nền văn minh hellenic (greek - hy lạp) xét theo một khía cạnh nào đó là một bước tiến thực tiễn hơn so với đạo học của bách việt được lập căn thuần túy trên tinh thần, nên bách việt bị giống man rợ là hán tộc xâm lăng làm suy yếu đi trước khi bị hán tộc thôn tính. trong bối cảnh ấy, muốn tìm một cách thức nào đó để tồn tại các học giả Âu châu cố phải tránh xa mọi sự suy tư về tôn giáo vẫn là độc quyền của giáo hội ở rome. sự cấm kỵ đó đã

đẩy các học giả Âu châu cổ vào chổ tìm hiểu về khoa học tự nhiên (như giáo hội đã nói: “trái đất là mặt phẳng” ai nói trái đất là một khối cầu thì bị chém đầu, mặc dầu giáo hội cũng nhìn nhận trái đất là một khối cầu điều đó đúng, nhưng giáo hội {độc đoán} đã nói thì không thể sai lầm được) vốn là một địa bàn ít bị dòm ngó hơn. Điều này làm cho xã hội Âu châu đạt được các bước tiến về phương diện vật chất, việc xây dựng các công trình thờ phượng nguy nga như là biểu tượng cho niềm tin tôn giáo, nhưng mặt khác cũng để lộ sự cạnh tranh ngấm ngầm giữa các dân tộc (như gaulois, anglo saxon, german) với quyền uy của rome. bước kế tiếp tất yếu là việc hình thành các nhà nước Âu châu, từ nhà nước Âu châu phong trào thanh giáo hình thành và chỉ còn chờ thời gian ngắn ngủi để trường phái triết tây được hình thành, thóat khỏi cái bóng quá lớn của roma. như vậy, triết tây đã bắt đầu từ khởi điểm sai lạc vì các tôn giáo đều đã bị tông quyền hóa và ngay từ lúc khởi đầu đã manh nha các ý đồ chính trị trong đó, và trong một xã hội theo đuổi một khuynh hướng về vật chất thì tri thức đặt nặng việc nghiên cứu về vật chất là hoàn toàn phù hợp vậy. triết tây phương hình thành trong cái bối cảnh ấy. ta không loại bỏ các ảnh hường rất tích cực của học thuật phương tây khi tập trung nghiên cứu phát triển về các lãnh vực liên quan đến khoa học vật chất, điều này làm cho phương tây tiến bộ rất nhanh về phía trước, nhưng nói như vậy không có nghĩa là các tiến bộ ấy là miên viễn và bế tắc không phải là không xảy ra; bế tắc là bế tắc đó là một thực tế vậy. Đỉnh cao của triết tây phương là khi họ đề ra biện chứng pháp lập căn trên cặp chính đề phản đề để hình thành hợp đề, để rồi hợp đề nọ lại trở thành một chính đề của chu trình kế tiếp với một phản đề và hợp đề mới. Đó là một quá trình liên tục không bao giờ ngưng nghỉ áp dụng với mọi loài, mọi vật. trước hết khoa biện chứng không thể so sánh được với khái niệm đạo học bách việt đã đưa ra từ: * - “thái cực- âm dương - tứ tượng”. * - “nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật”. bởi vì khoa biện chứng đã không giải thích được chính đề đầu tiên là gì?. chính đề đầu tiên ấy trong quá trình sinh diệt của mình là tự phát khởi hay do và vì con người mà chính đề ấy hình thành, hiện hữu và được đặt cho một tên gọi. bởi vì chính ý thức của con người đặt vào chính đề ấy nên chúng mới hiện hữu cho nên con người mới là tâm điểm để phục vụ; tách vật chất và tinh thần ra thì chỉ một bước tới cõi hư vô là vậy. cho nên đỉnh cao của triết tây phương cũng là đỉnh cao của bế tắc đối với tri thức tây phương là vậy (ta cần ghi nhớ điều ấy). chúng ta tiếp tục đào sâu hơn nữa về quá trình chuyển hóa của triết tây phương đối với con người đặc biệt trong thế kỷ 20 này. học giả tây phương bàn luận nhiều vấn đề rất ư lạ lùng. “tiền hậu hữu vô” khi họ nêu ra vấn đề vật chất và tinh thần cái nào có trước? câu hỏi này dẫn đến việc hình thành hai trường phái nhất nguyên luận duy tâm (tinh thần có trước) và nhất nguyên luận duy vật (vật chất có trước) họ cũng nêu ra câu hỏi là: “vật chất và tinh thần cũng tồn tại song

hành”. Điều này là nhận định cơ bản của phái nhị nguyên luận. khách quan mà đánh giá cả hai phái nhất và nhị nguyên luận đều đặt căn bản trên một nền tảng sai lầm. bách việt giải thích “nhất thể sinh lưỡng diện” một cách đơn giản và rất chính xác: - “nhất thể được sinh ra bởi khí hạo nhiên của trời đất, tất cả là do ý thức con người định đặt vào đó mà nó tồn tại, nếu không có con người thì không có tất cả, cho nên vấn đề chính là con người chứ không phải là các hiện tượng vốn được coi là khánh thể”. sự bế tắc của trường phái triết học Âu châu lục địa mà tiêu biểu là trường phái Đức, dường như có những biểu hiệu muốn trở lại với cái uyên nguyên của trời đất (nhưng chưa đủ tri thức, tình trạng xã hội chưa chín mùi), trong khi đó hướng tiến tới của triết học tây phương vào giữa cuối thế kỷ 19, được dẫn dắt với nhiều nhóm khác nhau có tinh thần thực dụng hơn qua việc đa số họ đều tập trung nghiên cứu về cách thức cải thiện cuộc sống của con người về mặt vật chất. mặc dù tiền căn của cao trào thực dụng chủ nghĩa này đã được phát khởi từ rất lâu trước đó (như diderot, jj rousseau...), nhưng nó đã nở rộ vào giữa cuối thế kỷ 19 để sang đầu thế kỷ 20 thì một loạt các trường phái mới được hình thành nhằm nghiên cứu về khía cạnh vật chất của cuộc sống con người. nhiều người nghĩ rằng chủ nghĩa thực dụng được cổ vũ tại mỹ là một đặc thù trong xã hội mỹ, một xã hội được lập căn trên việc thờ phụng tuyệt đối thần vật chất; nghĩ như vậy là hoàn toàn sai, nó sai vì chỉ dựa vào một số sự quan sát, một thiểu số biểu hiệu tiêu cực trong xã hội mỹ như: tệ nạn thờ tiền bạc nhằm phục vụ tối đa nhu cầu vật chất của một ai đó mà thôi, nó sai vì chỉ dựa vào các hành động của nước mỹ (tức là chính trị) đối với thế giới, các hành vi ấy chỉ dựa vào một ý đồ duy nhất là vì quyền lợi của mình là trên hết. không ! như vậy nếu người mỹ sống như vậy thì đâu có gì là lạ. nó trở nên lạ là vì xứ này quá tự do để một người có tiền thì có quyền sử dụng tiền bạc của họ theo ý họ, điều này tạo ra các tác động kinh tế để khuyến khích họ làm việc, hoa kỳ chấp nhận các hệ lụy tất yếu ấy như là một cái giá phái trả cho sự tự do vậy. tất cả các cá nhân ấy dù tổng hợp lại không nói lên được nước mỹ thực tế qua cuộc sống của các trí thức đích thực của nước mỹ, cũng như qua các đường hướng lâu dài mà nước mỹ làm và sẽ làm nhiều nửa cho thế giới trong tương lai. thực ra thì chủ nghĩa thực dụng tại mỹ đã có tiền căn từ Âu châu thời trung cổ và từng bước xác lập bởi nhiều tầng lớp trí thức Âu châu khác nhau trong suốt mấy thế kỷ liền, để càng ngày càng hướng xã hội phương tây vào con đường truy tìm thăng tiến nền văn minh vật chất mà thôi. nhưng trớ trêu thay, Âu châu không ứng dụng được cái thành quả ấy vì xã hội Âu châu vẫn còn bị quá khứ lịch sử đè nặng, các quốc gia và chủng tộc mâu thuẫn nhau kềm kẹp lẫn nhau để không thể hình thành được hướng đi chủ đạo. chỉ khi trung tâm văn minh thế giới di chuyển đến bắc mỹ thì các hạt giống mà Âu châu cố công nuôi dưỡng mới có cơ hội lớn lên một cách toàn diện, cho nên chủ nghĩa thực dụng phát khởi tại mỹ là một tất yếu lịch sử, tự thân nó, chủ nghĩa thực dụng không phải là thấp hèn như nhiều người nghĩ (nhất là nhiều ông việt nam thuộc phái Âu châu học và phái tàu học); mà nó là đỉnh cao ngất trời của chiều hướng hướng về vật chất của nền văn minh phương tây nói chung. Ở

bắc mỹ các tiến bộ khoa học, cấu trúc xã hội khung cảnh về kinh tế mới đủ điều kiện để từ đây xã hội hoa kỳ trở thành một xã hội tiêu thụ thứ thiệt mà cả loài người đều ước ao trong suốt mấy chục thế kỷ qua. nhưng cũng ở bắc mỹ này các bế tắc của thế giới hiện đại mới có điều kiện để lộ ra hết thảy các chân tướng của nó. thế giới bị hư thì phải sửa, sửa từ đâu? * - “lấy óc mà chửa bệnh óc” là vậy. (trích huyết hoa - x.y. thái dịch. lý Đông a) * - bế tắc của thế giới: triết học vốn là thống quan đối với loài người; nhận định này hoàn toàn đúng vì khi ta suy nghĩ ta cứ tưởng rằng ta dựa vào các dữ kiện thực tiễn và chính xác nhất để đi đến một quyết định và từ quyết định ấy ta đi đến một hành động, nhưng nội cách ta suy nghĩ, cách ta nhìn ra sự vật cũng đã nói lên rằng trí tuệ ta bị chi phối bởi một cái gì đó sâu thẳm mà ta chẳng hay, ta không thể nói đó là vô thức được, vì vô thức là sản phẩm của vô thức; mà ta phải nói; Ðó là dạng tri thức nói những điều tri thức, kẻ thiếu tri thức nói điều thiếu tri thức là vậy. cho nên khi bàn về các bế tắc hiện nay của loài người, trong phần trên đã đi ngay vào hai lãnh vực cốt lõi đó là: tôn giáo và triết học là vậy. trải qua nhiều ngàn năm kể từ khi con người có và viết lịch sử (giai đoạn đầu bị mất mát rất nhiều), thì đạo học bách việt đã tìm thấy lẻ uyên nguyên của vũ trụ và cách thức mà cần biết để sống và tồn tại trong điều kiện vừa phải khắc phục thiên nhiên để sống, nhưng đồng thời vừa phải thuận thiên để tồn tại (thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong thiên đây là thiên nhiên). quan sát quá trình chuyển dịch của các trung tâm văn minh khởi đầu từ bách việt ra ta thấy rất rõ là: càng chuyển về hướng tây (tức là càng xa bách việt bao nhiêu) thì văn minh càng nặng về vật chất bấy nhiêu. nhân loại gọi đó là tiến bộ nhằm giải phóng con người khỏi các ràng buộc do lịch sử để lại, đó cũng còn là một quá trình đào thải không khoan nhượng giữa cái cũ và cái mới nhằm thống nhất loài người lại trên căn bản mới, đó cũng là tiến trình biện chứng toàn diện và đích thực vậy. tiến trình ấy đã từng tạo ra nhiều nút bế tắc và mỗi một nút bế tắc ấy thường được đánh dấu bằng những bước bạo đột như để mở cho dây diễn biến được đi lên. nhưng khi nhân loại này chưa đủ văn minh thì các nút bế tắc ấy thường giới hạn trong một khu vực nào đó thôi và sự nguy hiểm đối với sự tồn vong của loài người cũng ở trong mức độ giới hạn. quá trình giải phóng con người tăng tốc trong chưa đầy 200 năm qua khi chủ nghĩa thực dân được thành hình đã đặt ra cho nhân loại này biết bao vấn đề vô cùng phức tạp, tệ hại thay chưa một thế lực nào đủ sức giải quyết các bế tắc ấy đến nơi đến chốn. - dưới đây ta hãy bàn đôi điều về vấn đề này: 1) - vấn Đề chủng tộc: * - x.y. thái dịch lý Đông a nói: nhân loại là nhất nguyên bao gồm nhiều sắc tộc của một

chủng tộc hoặc nhiều chủng tộc nghĩa là con người là một thể thống nhất mang đầy đủ tính người vô luận màu da, ngôn ngữ, nên gọi là thống nhất tính. sự khác biệt giữa điều mà ta gọi là chủng tộc chỉ là thể hiện quá trình thích nghi với các điều kiện sống khách quan mà con người đã trải qua, cho dù các quá trình ấy có khác nhau và lẽ đương nhiên tạo ra các nền văn hóa khác nhau, nhưng nhìn chung quá trình ấy đều nói lên điều cốt lõi và chung nhất: Đó là quá trình thống nhất tính của biện chứng duy dân. sự khác biệt giữa các điều mà ta gọi là quốc gia càng xác nhận các tiến trình duy dân biện chứng ấy, vì điều mà ta gọi là quốc gia là biểu hiệu rõ nét nhất trong tiến trình hợp nhất giữa những con người tự cảm thấy rằng họ đều có chung một quá khứ lịch sử. một giá trị tinh thần để bảo trọng và một nhu cầu cần hợp nhất để tồn tại, để khắc phục thiên nhiên, nhưng cũng là để chống lại những thế lực khác luôn muốn thôn tính và tiêu diệt họ. quá trình hình thành các hình thức khác nhau của việc điều hành một cộng đồng (từ nhỏ là bộ tộc, công xã, quốc gia...) đều đánh dấu từng bước tiến trong việc sắp đặt một trật tự cho cộng đồng ấy với sự thỏa hiệp của các thế lực được hình thành từng bước một trong tiến trình tiến hóa, đấu tranh để sinh tồn, để giữ vững cái không gian sinh tồn (space vital) cho cộng đồng mình đang sinh sống. như thế duy dân biện chứng là một tiến trình đi lên liên tục, thống nhất, toàn diện giữa loài người với nhau; nói một cách khác: Đó là một tiến trình cách mạng liên tục luôn hướng thượng về mọi mặt và luôn tương tác với nhau nhằm tạo ra các bước đột phá mới để mở đường cho nhân loại tiến lên về phía trước. Đó là cả một chu trình không bao giờ dứt vì tiến hóa là liên tục nên bước đột phá của ngày hôm nay sẽ trở thành một cản trở của ngày mai, cho nên ngày mốt nhân loại cần thực hiện một bước đột phá mới với những nổ lực lớn hơn nữa để đẩy văn minh nhân loại tiến nhanh về phía trước với vận tốc cao hơn nữa so với quá khứ. lịch sử của nhân loại này được làm nên bởi mọi người với tính cách là người, nhưng hướng đi thường được định đoạt bởi một vài cá nhân nào đó mà sứ mệnh của họ dường như được sinh ra, dưỡng dục và điều kiện khách quan bên ngoài đặt họ vào trong một vị trí phải thực hiện các bước đột phá ấy, phải làm những việc có tác động sâu xa lâu dài đối với quá trình tiến hóa của loài người nói chung. Đức phật, chúa giê su, alexander macedonia, albert einstein, các tổ phụ của nước mỹ đều là điển hình tiêu biểu đánh dấu các mốc quan trọng trong quá trình diễn tiến của loài người nói chung vậy. quan sát một cách toàn diện - tức là đặt các biến cố trong toàn bộ tiến trình phát triển của văn minh nhân loại - ta luôn thấy một điều rất kỳ thú đó là: trong khi lực tiến về phía trước hình thành (tức là vòng quay hình thành trung tâm văn minh mới), thì lịch sử nhân loại luôn xuất hiện các lực cản trở có khuynh hướng muốn xoay ngược trở lại với hướng tiến tới phía trước. ta hãy xem, khi đạo học bách việt chuyển đến Ấn Độ để hình thành nền văn minh Ấn Độ với đạo brahman trở nên vật chất hơn, áp bức hơn để tạo ra tiền đề cho sự xuất hiện của phật giáo với 8 vạn 4000 pháp môn, nhưng khi chuyển đến lưỡng hà để thành nền văn minh lưỡng hà (mà người kurd mới là cha đẻ nền văn minh này) để tạo điều kiện cho sự

xuất hiên của abraham cũng như các nền văn minh hy lạp, ai cập và la mã. quá trình chuyển dịch này lại là tiền đề cho sự xuất hiện của alexander macedonia mà qua các chiến dịch của mình, ngoài ý đồ quân sự thuần túy ta phải nhìn nhận rằng: Ông cũng còn muốn tìm đến cái nguồn gốc sâu xa của cội nguồn của văn minh nhân loại nữa. dãy hy mã lạp sơn đã là một cản trở thiên nhiên để alexander macedonia không thực hiện được tham vọng của mình nhưng ông đã đóng góp không nhỏ vào việc làm cho phương Đông (đối với la mã) yếu đi, để tạo điều kiện cho việc hình thành đế quốc la mã sau này, khi người la mã biết kết hợp sức mạnh tình thần của hy lạp với sức mạnh vật chất mà bài học của alexander đã để lại cho họ. khi trung tâm văn minh la mã bắt đầu suy tàn, điều này được đánh dấu bằng hơn một thế kỷ thập tự chinh với người Ả rập, biến cố đó mở đầu cho việc hình thành các nhà nước Âu châu vào thế kỷ thứ 13 tiếp theo cuộc xâm lăng của mông cổ. chính qua cuộc xâm lăng này mà một liên minh la mã - Âu châu được hình thành một cách lỏng lẻo. ta gọi là lỏng lẻo vì Âu châu muốn lật la mã nhưng chưa đủ sức, la mã muốn tồn tại thì họ phải cần đến Âu châu như là một sân sau an toàn của la mã nên cuộc chiến với mông cổ là một bài học đáng ghi nhớ. Ở một khía cạnh khác thì cũng qua cuộc chiến này, phương tây hiểu rằng: “tin đồn về văn minh của phương Đông là không đúng, vì mông cổ đã thể hiện nguyên hình của một đạo quân du mục nên không thể so sánh với hành động của alexander macedoine xảy ra 15 thế kỷ trước đó” . phương tây khinh thường phương Đông từ đây. cuộc đấu tranh giữa Âu châu với la mã dĩ nhiên vẫn tiếp tục, Âu châu hiểu la mã chỉ dựa vào vũ khí tôn giáo để thu phục lòng dân Âu châu (cũng là để khống chế Âu châu), như vậy nếu muốn làm cho la mã bị khuất phục thì con đường duy nhất là tạo dựng sức mạnh thông qua các khám phá phi tôn giáo, lấy khoa học tự nhiên làm nền tảng để la mã không thể thống nhất lực lượng nhằm đánh lại các quốc gia Âu châu khi các quốc gia này trong giai đoạn mới hình thành và giữa họ với nhau vẫn còn các mâu thuẩn nhất định. các khám phá ấy từng bước một đã đóng góp không nhỏ vào việc hình thành nền văn minh Âu châu ngày càng thoát khỏi cái bóng của la mã thần quyền, đồng thời cũng tạo ra các cách biệt ngày càng sâu rộng hơn với phương Đông mà Âu châu thực ra chưa hiểu nhiều (khi khám phá ra châu mỹ, Âu châu cứ tưởng rằng đó là Ấn Độ). Đó cũng là tiền đề của cao trào phản kháng đối với la mã được thực hiện bởi anh, Đức để mở đầu cho cuộc cách mạng công nghiệp và xã hội trong thế kỷ 19. nhưng ở khía cạnh khác cuộc cách mạng công nghiệp tuy làm cho la mã yếu đi để lần hồi trở thành một thế lực chỉ còn chi phối trong lãnh vực tôn giáo thuần túy thôi, nhưng nó lại làm gia tăng thêm các mâu thuẫn giữa các quốc gia Âu châu với nhau, giữa các giai cấp mới được hình thành qua cuộc cách mạng công nghiệp với tầng lớp lao động nghèo khó, vốn dĩ có nguồn gốc là các công dân tự do được giới quí tộc trả tự do nhưng không có đất để canh tác để sinh sống nay trở thành lực lượng lao động chính yếu chiếm đa số trong xã hội, nên bị giai cấp mới giàu bóc lột sức lao động mà không hề có luật pháp gì ngăn cản lại được. bóc lột sức lao động trong nước mới là một mặt của thảm kịch mà thôi, cuộc cách mạng công nghiệp còn mở đầu cho cao trào đi xâm lăng chiếm thuộc địa nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của nhân dân các quốc gia khác nữa. thảm kịch của Âu châu này trở thành thảm kịch toàn cầu vì Âu châu không hề thực hiện bất cứ một cải

cách nào ngay cả với xã hội Âu châu chứ nói chi đến cải cách tại các quốc gia họ đã xâm lăng và chiếm làm thuộc địa. vì thế sự xuất hiện của karl. marx chính là một tất yếu lịch sử vậy. nhưng karl marx cũng lại đưa ra một cái bất toàn đầy khiếm khuyết để nhằm sửa chữa lại một xã hội đầy hư hỏng hơn, vì bản chất của học thuật ấy là tìm cách thăng tiến đời sống con người về mặt vật chất mà quên đi yếu tố tinh thần nơi con người, cho nên mâu thuẫn gia tăng là thế. nhiều người tự hỏi: nếu không có sự hiểu biết về mặt tinh thần, làm sao học thuật phương tây phát triển được? đúng! nhưng cái tinh thần cốt lõi của học thuật phương tây đã được định hướng ngay trong yếu tố vật chất, cho nên xã hội phương tây bất quân bình nghiêm trọng giữa hai yếu tố làm cho loài người trở nên người. Đó là “vật chất với tinh thần”. ta với người tuy hai mà một người với ta tuy một mà hai. ... là vậy. 2) - vấn Đề tôn giáo tôn giáo theo cái nhìn từ Ấn Độ đến Âu châu qua đến hoa kỳ hiện nay chưa chứa đựng trong tôn giáo các nền tảng của tôn giáo đích thực. tôn giáo đích thực chính là “đạo học làm người” đạo học làm người mới thực là đạo của các đạo, đạo học làm người khó lắm thay! “Ôi đạo học khó thay! cùng một cái học mà ra thiên tài, mà ra nô tài, mà ra nhân tài. cho nên dạy người hay cầu học tóm lại có ba phương châm: 1. nuôi tâm sinh thiên tài. 2. nuôi óc sinh nhân tài. 3. nuôi thân sinh nô tài.” (trích huyết hoa - x. y. thái dịch lý Đông a). nhiều người nghĩ rằng: thực tế thì chủ nghĩa thực dân có đem lại nhiều cải tiến cho thế giới đấy chứ. Điều này không phủ nhận, nhưng có cải tiến không có nghĩa là không có các di hại lớn lao. các di hại ấy có thể tóm gọn trong hai điều sau đây: a- tạo ra tình trạng bất quân bình giữa các chủng tộc và trong cùng một chủng tộc trong phạm vi lãnh thổ cụ thể nào đó. b- thúc đẩy toàn loài người hướng về một thứ tôn giáo thờ thần vật chất trong điều kiện tài nguyên thiên nhiên ngày càng trở nên cạn kiệt, kỹ thuật chưa thể đáp ứng được với các đòi hỏi lớn lao đó, nhân loại chưa tìm được phương cách nào có thể hóa giải được các mâu thuẫn về tôn giáo về chủng tộc đang càng ngày càng trở nên nguy hiểm đối với tương lai thế giới. 3) - bế tắc về chủng tộc quốc gia: chủ nghĩa thực dân đã dùng sức mạnh võ lực để thôn tính nhiều vùng rộng lớn đặc biệt là

tại châu phi, đặt các vùng rất khác biệt về văn hóa chủng tộc ấy dưới quyền cai trị của nhà cầm quyền thực dân, thậm chí khi có cuộc tranh chấp giữa các quốc gia thực dân với nhau các chủng tộc bị xé lẻ ra làm nhiều mảnh và đặt mỗi mảnh dưới quyền cai trị của từng quốc gia thực dân khác nhau, khắp các quốc gia ở châu phi hiện nay đều lâm vào tình trạng này. chủ nghĩa thực dân cũng đã thực hiện nhiều cuộc di dân nhằm khai thác đất đai mầu mở ở các vùng thực dân có nhằm khai thác nông sản phục vụ cho chính mẫu quốc cũng như đặt căn cứ quân sự để dễ bề nắm ưu thế đối với các quốc gia khác. trường hợp di dân Ấn Độ đến nam phi là tiêu biểu cho vấn nạn này. các thế chiến nổ ra ở Âu châu trong thế kỷ 20 đánh dấu sự bế tắc giữa các quốc gia dân chủ Âu châu với nhau dựa trên một nhận thức cổ điển là: trước khi anh là một xã hội dân chủ thì anh đã là một quốc gia rồi. nhận thức ấy thực ra phải được suy diễn như sau: trước khi là một quốc gia dân chủ thì anh đã là người rồi. cho nên các bế tắc của Âu châu đã lan tràn đến các quốc gia cựu thuộc địa, khi thế chiến thứ hai chấm dứt để mở đầu cho cuộc chiến tranh lạnh kéo dài suốt nửa thế kỷ. thực ra thì sự xuất hiện của cao trào cộng sản quốc tế, đứng về mặt thuần túy mà nhận thức đó là biểu hiệu của cao trào đối kháng lại với chủ nghĩa tư bản cá nhân trong điều kiện xã hội không thể đáp ứng được với các diễn biến mới, nhằm điều tiết các của cải vật chất và tinh thần sao cho hợp với đà tiến hóa mới do các tiến bộ khoa học kỹ thuật đem lại. cho nên chủ nghĩa cộng sản về mặt lịch sử mà nói là một tất yếu lịch sử, điều nói ở đây là: chủ nghĩa quốc gia cực đoan đã lợi dụng chiêu bài cộng sản nhằm mưu cầu sự thống trị toàn thế giới thông qua người anh cả (nói theo george owens) nhằm biến con người thành cái máy người lại là một sự thất bại ê chề của các xã hội Âu châu. trong cuộc chiến tranh lạnh ấy, các quốc gia đua nhau hình thành và được cả hai khối Đông - tây ra sức o bế thông qua các nhà độc tài mà không thèm đếm xỉa gì đến tình trạng chủng tộc vốn dĩ đã trở nên rất nguy hiểm tại các quốc gia còn non kém này. kết quả là: khi chiến tranh lạnh kết thúc với sự tan rã của liên xô, hoa kỳ và Âu châu (nay đã tỏ ra thống nhất hơn) phải quay về để giải quyết các tồn đọng do hậu quả của chiến tranh lạnh để lại, nên đã không mấy quan tâm đến thực tế phức tạp tại các quốc gia thuộc địa. Đây là cơ hội để trung quốc tiến lên nhằm khai thác các lổ hổng khổng lồ do cuộc chiến tranh lâu dài mà cả liên xô và hoa kỳ đều phải hứng chịu. xét cho cùng thì bản chất ý đồ của trung quốc chả khác gì với ý đồ của liên xô (Đại nga) trước đây, tất cả đều lấy vũ lực để thôn tính làm phương châm hành động; nhưng trung quốc tỏ ra thực tiễn hơn liên xô khi họ biết lợi dụng các luật chơi trong thương mại (mà người mỹ rất sở trường) để thực hiện ý đồ của mình, đó là tìm mọi phương cách nhằm thống trị Á châu trước, tam phân thiên hạ với mỹ và Âu châu, sau hết là áp đặt trật tự trung quốc trên qui mô toàn cầu. cuộc đối đầu giữa hoa kỳ và trung quốc trong điều kiện của thế giới hôm nay thực ra nguy hại hơn thời kỳ chiến tranh lạnh và cấp bách hơn rất nhiều vì:

a- phân hóa giữa chủng tộc, tôn giáo. ngay cả một số quốc gia dân chủ lâu đời vẫn không tránh khỏi, thí dụ vấn đề basque ở tây ban nha, vấn đề bắc Á nhĩ lan... b- vũ khí nguy hiểm nay được phổ biến dễ dàng bởi các nhóm tội phạm quốc tế với sự toa rập của nhiều nhà cầm quyền đặt biệt là nhà cầm quyền trung cộng. c- cao trào đấu tranh đòi quyền sống bởi các bộ tộc đã hiện diện lâu đời tại một lãnh thổ nào đó trước khi người da trắng tới lập cư cũng đang trong chiều hướng phát khởi (như tại mexico...) 4) - bế tắc về tôn giáo: tôn giáo khi bị tông quyền hóa đã trở thành công cụ phục vụ cho các ý đồ chính trị nhằm áp đặt các tín đồ trong vòng cương tỏa của giáo điều, để nhóm lãnh đạo tôn giáo thực hiện một số mục tiêu cụ thể; mục tiêu ấy trước tiên là giữ cho dân chúng khỏi làm loạn khi họ đặt tất cả niềm tin để tôn thờ một quyền lực siêu nhiên nào đó và chấp nhận sự an bài của đấng tối cao, sau đó các nhóm tông quyền tìm mọi cách bành trướng ảnh hưởng vì “đấng tối cao” muốn các tín đồ làm việc ấy như để tỏ lòng tộn kính đấng tối cao (vậy đấng tối cao nào muốn như vậy?). như thế các tôn giáo càng di chuyển về hướng tây càng mang tính đấu tranh cao hơn, điều này rất phù hợp với đà phát triển văn minh nhân loại nhưng nó cũng để lại một loạt các hậu quả vô cùng lớn lao đối với loài người hiện nay, khi các tôn giáo không chịu chấp nhận cùng tồn tại trong khung cảnh chung có thể chấp nhận được. nói cho cùng ra thì tôn giáo là sản phẩm của tinh thần con người chứ con người đâu phải là sản phẩm của tôn giáo, sự giải thích về đấng tối cao cũng là do trí tuệ của con người đặt vào đó mà khái niệm về đấng tối cao mới được hình thành. cho nên khi con người tiến lên thì tôn giáo cũng phải thay đổi để thích nghi với đà tiến ấy mới được. nếu tôn giáo nào không thích nghi để sửa đổi cho phù hợp với đà văn minh càng ngày càng đi lên của nhân loại, thì tôn giáo ấy sẽ bị bỏ lại đằng sau như là một quy luật tất yếu của tinh thần hướng thượng. khi đối chiếu các tiến bộ mà loài người đã đạt được như ngày hôm nay, thì tôn giáo trong thực tế vẫn đắm chìm trong các lý giải về thiên nhiên như những gì mà người sáng tạo đã đề xướng ra cả ngàn năm trước. thế giới đã thay đổi quá nhiều nền văn minh vật chất đang bành trướng với sức mạnh vũ bão của nó, trong khi các giá trị tinh thần mới nhằm đáp ứng với đà tiến bộ ấy chưa được hình thành, nhằm thay thế cái trật tự tinh thần cũ lấy đè nén áp bức như là phương cách chính yếu nhằm khống chế loài người. cái nguy hiểm của loài người bây giờ là: trong khi những người có đầu óc thiển cận vẫn còn suy nghĩ như thời trung cổ, thì họ lại có tất cả các trò chơi nguy hiểm và hiện đại nhất mà loài người đạt được, họ có khả năng làm cho tan rã trái đất này như chơi mà chẳng tiếc hận gì (thể hiện như: iran, bắc hàn, trung cộng đã thủ đắc các võ khí nguyên tử mà các chính trị gia gọi đây là trục ác qủy). cái nguy hiểm của loài người bây giờ là một bộ phận nhân loại tự nghĩ rằng họ có tự do tuyệt đối mà không thèm đếm xỉa gì đến trách nhiệm đối với đồng loại; nền tảng đạo lý gia đình bị phá vỡ một cách có hệ thống do các tiến bộ kỹ thuật đạt được hàng ngày, do cuộc cạnh tranh không khoan nhượng giữa các quốc gia với nhau và do cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra liên tục ngày càng nhanh. tất cả các thứ ấy đóng góp vào việc phá

hoại nền tảng gia đình như là cái gốc của xã hội, đồng thời sản sinh ra biết bao người mang đủ mầm bệnh về tinh thần (các vụ tự sát tập thể của các giáo phái xa lạ với loài người) là các chứng minh rõ nét nhất về tình trạng khủng hoảng về tâm thức của loài người nói chung. như thế khi loài người nói về một trật tự tôn giáo mới là gì? thực ra thì con người cần một đời sống đạo đức hơn là một niềm tin tôn giáo. nhưng thế nào là đạo đức phổ quát để loài người sống cho ra người khi mà sự khác biệt về tiến bộ trong nhân loại này quá khác biệt nhau; bộ phận tiến về phía trước quá mau của nhân loại đang tiến đến tình trạng phủ nhận tôn giáo (theo khái niệm cũ) một cách có hệ thống và không có thể cản trở được, trong khi đó một phần lớn nhân loại thuộc về xã hội chậm vẫn còn duy trì niềm tin tôn giáo như những gì mà người sáng tạo đã đặt để ra và một phần khác của nhân loại đang sống theo một cái nhìn thuộc về bản năng đối với thiên nhiên. mục tiêu tối hậu của nhân loại là gì? phải chăng chính là tự hoàn thiện mình để đời sống con người được viên mãn hơn xét về tinh thần cũng như về vật chất, trong khi đó vẫn giữ được thế quân bình đối với thiên nhiên trong phạm vi trái đất này cũng như trong vũ trụ bao la kia mà loài người hiện nay có hiểu biết về trái đất này rất ư là giới hạn. như thế tôn giáo theo quan niệm cũ chỉ nên coi là cách thức mà loài người cố lý giải về điều không thể lý giải được và đặt điều không thể lý giải được như là “trái cấm”, để buộc chặt con người vào một trật tự của tôn giáo do các giáo sĩ đặt ra. trong tiến trình duy dân biện chứng này thì: cách lý giải về tự nhiên không quan trọng (thậm chí chẳng là gì cả) bằng các giáo luật mà các giới tăng lữ đặt ra cho người theo đạo (vô luận là đạo nào) khi tôn giáo được tông quyền hóa. theo tiến trình này thì bách việt đề ra đạo học một cách toàn bích và trong sáng tức là thuận thiên, theo đó tuy con người là chủ thể của thiên nhiên nhưng con người vẫn phải nương theo thiên nhiên mà tiến hóa. Đến trung hoa thì yếu tố thuận thiên tuyệt đối nơi bách việt đã giảm xuống để thành một chế độ trung ương tập quyền, đó cũng là tiền đề để hán tộc xâm lăng và hán hóa bách việt. càng duy chuyển về phía tây thì khái niệm về thuận thiên càng giảm đi để con người bắt thiên nhiên phải phục vụ mình mà quên hẳn cái hệ lụy tất yếu là: đến lúc nào đó thiên nhiên có thể quay ngược lại hủy diệt chính loài người nói chung. cái chu kỳ cực lớn là nóng - lạnh này dường như đã từng xảy ra mà loài người chưa đủ sức để truy tìm đến nơi đến chốn đấy thôi. * - trước cái bế tắc ấy, tôn giáo không thể giải quyết nổi. * - trước cái bế tắc ấy, các quốc gia không thể giải quyết được vì họ còn mải mê chém giết nhau vì quyền và lợi để tồn tại. * - trước cái bế tắc ấy, cả nhân loại phải hợp sức lại mới mong giải quyết được nhằm kéo dài sự tồn tại của nền văn minh này. khi nói về một “trật tự tôn giáo mới” (new religion in order), phải chăng ta muốn nói đến một hình thức siêu tôn giáo có khả năng kết hợp tinh thần - vật chất nhằm thống nhất nhân loại lại trên một căn bản mới? không hoàn toàn không vì quá trình hợp nhất nhân loại là tất yếu của lịch sử tiến hóa của loài người, trong đó vai trò của vật chất lẫn tinh thần luôn quyện lại với nhau để loài người biết đi bằng hai chân và mãi mãi cứ đi bằng

hai chân. trật tự tôn giáo cũ là sản phẩm của thời đại cũ, nó được sản sinh ra nhằm đáp ứng với đà tiến hóa ấy, nó cũng đem lại một số lợi ích thiết thực đối với một cộng đồng nào đó trong một thời kỳ nào đó, nó cũng đã đóng góp vào việc làm cho văn minh nhân loại tiến về phía trước với nhiều máu và nước mắt. ngày nay thế giới đã đổi thay, phát triển quá nhiều và quá nhanh (về vật chất cũng như tinh thần) nên tôn giáo đã bị bỏ lại quá xa ở phía sau, tôn giáo (cuồng tín quá khích) nay đang trở thành các cản trở sâu rộng về mọi mặt đối với đà tiến hóa mới mà các hiểm nguy đối với nhân loại ngày nay đã được nhìn thấy một cách cụ thể và rõ ràng hơn. nhân loại hiện nay vẫn đi vào chém giết nhau, tranh dành sự sống dưới ánh mặt trời, điều đó thuộc về bản năng của mọi sinh vật, nhưng là con người, loài người phải biết rằng mình chống cái gì? mình mưu cầu cái gì? nếu loài người cứ lấy sự chống nhau làm mục tiêu cuối cùng thì tự loài người hủy diệt loài người vậy. trước thiên nhiên bao la và đầy bất trắc kia, trái đất này với hơn 6 tỷ người chỉ là hạt cát trong cái vô cùng lớn ấy mà thôi. như vậy vấn đề không phải là chống lại cái vô cùng lớn ấy hay chống lại cái vô cùng nhỏ (là con người) mà là thuận với cái vô cùng lớn và cái vô cùng nhỏ để cùng tồn tại nhưng không thụ động đề chờ chết (một cái chết tập thể) là vậy. nói tóm lại nhân giới và nhiên giới, nội giới và ngoại giới chỉ là một để cùng tồn tại. dường như nhân loại này vẫn còn nhập nhằng giữa tôn giáo và đạo; cách giải thích thiên nhiên của những nhà khai sáng ra tôn giáo tưởng rằng thiết lập căn bản cho đạo bằng cách khuyên người theo tôn giáo ăn ngay ở lành. nhưng trớ trêu thay chính tôn giáo lại không sống với tinh thần đạo đích thực, thay vào đó lấy sự chém giết làm căn gốc cho nên các tôn giáo đã xa rời gốc đạo vậy. Ấy là chưa kể đến việc qua đấu tranh không khoan nhượng và liên tục khi con người sa vào trạng thái “động liên tục” mà không biết đến tĩnh là gì. Động và tĩnh vốn là căn gốc trong cuộc sống của loài người, nếu quá “động” thì lại càng xa gốc đạo vậy. “tĩnh - Động” theo lối nhìn của đạo học bách việt thì: phật giáo là tĩnh, khổng giáo là động hơn, thiên chúa giáo la mã thì tĩnh và hồi giáo thì quá động. Đánh giá về mặt xã hội, nếu ông alvin toeffle nói về xã hội nhanh với xã hội chậm thì về phương diện tâm linh mà nói về con người, thì ta cần phân biệt là xã hội cổ là xã hội tĩnh xã hội hiện đại là một xã hội quá động, mà quá động là đầu mối của loạn nếu nhân loại không tìm ra một phương cách khác để giữ cho đà tiến hóa về vật chất được tiếp tục duy trì (tức là động) trong khi tìm cách gia tăng cái yếu tố tĩnh nơi con người. * - Động - tĩnh phải quân bình con người mới tồn tại, xã hội loài người mới bền vững. như thế tôn giáo thì nhiều, nhưng đạo chỉ có một đó là: “Đạo làm người”. Đạo làm người không phải đơn giản là chỉ dạy ta sống bác ái, bình đẳng mà còn dạy ta sống thuận thiên, luôn giữ quân bình giữa vật chất với tinh thần. giữa động với tĩnh, giữa âm với dương cũng như hiểu được sự biến hóa ảo diệu của dịch học, nên Âm là nguồn gốc của dương, tĩnh là nền tảng của Động. Đó là chân lý của Đạo. Đạo chấp nhận tiến hóa với tất cả ý thức và trách nhiệm. Đó là Đạo làm người (nhân Đạo). nhân Đạo dạy ta lấy con người làm chủ đề để mà phục vụ: Đó là “nhân chủ Đạo”. 5) - nhân chủ đạo

nói đến nhân chủ đạo ta phải nghĩ ngay đến đạo học bách việt vốn được coi là chủ thể của nền văn minh Đông phương, là khởi điểm của nền văn minh nhân loại này trên trái đất này, xét theo tiến trình duy dân biện chứng, thì ta phải nghĩ đến quá trình di chuyển nhằm hình thành các trung tâm văn minh sau bách việt để hình thành nền văn minh địa cầu này. khi trung tâm văn minh di chuyển đến hoa kỳ mà về căn bản ta phải coi đó là sự tổng hợp cao độ nhất của các tinh hoa mà loài người đã khám phá ra trong quá khứ (cho nên văn minh nhân loại đâu của riêng ai mà là chung của loài người, để phục vụ cho con người). tiến bộ khoa học mà loài người đã đạt được mới tạo điều kiện để nền văn minh trái đất tiếp tục cất cánh để trở thành nền văn minh liên hành tinh. nền văn minh liên hành tinh (mà nhân loại đang ở bước chập chửng) sẽ tỏa sáng trên quy mô toàn cầu để trở lại với điểm khởi đầu là văn minh bách việt. như thế văn minh trái đất đã đi hết một chu kỳ trọn vẹn thì nền văn minh trái đất mới đủ sức cất cánh để trở thành nền văn minh liên hành tinh. cho nên khi ta nói đến việc tống hợp Đông - tây, suy nghĩ đến tận cùng của nó chính là tổng hợp giữa văn minh vật chất với văn minh tinh thần là vậy. văn minh vật chất đại diện bởi hoa kỳ văn minh tinh thần đại diện bởi bách việt đây cũng là ý nghĩa của sự kết hợp “rùa, rồng”. nên kể từ đây, khi khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba, con người biết đi bằng hai chân đích thực (vật chất với tinh thần, động với tĩnh, âm với dương) và con người biết trở lại với đạo đích thực là vậy: Đó là tính cách “là người”, với đạo “làm người” để trở “thành người” chân, thiện, mỹ. Đây là tiến trình không thể đảo ngược được vì lẽ sống là lẽ thật nên các tôn giáo xa rời khỏi gốc đạo đều phải tìm cách thích nghi với điều kiện khách quan mới đối với loài người, một cuộc lột xác không khoan nhượng một cuộc cách mạng toàn diện, triệt để, hướng thượng là thế. cho nên ta có thể đưa ra vài dự đoán cho thế kỷ này: “các tôn giáo sẽ ngày càng hợp nhất hơn, ngày càng trở nên các định chế lấy sự phục vụ xã hội con người là chính, giáo lý sẽ đơn giản đi rất nhiều mà mức độ còn tùy thuộc vào trình độ dân trí ở từng địa phương. như vậy giáo hội nói chung trở thành các hội đoàn (associates) chứ không phải là một tổ chức cứng ngắc đầy quyền năng như trong thời gian dài đã qua. nhân chủ Đạo học sẽ sáng chói và trở thành nền tảng mẫu mực để con người sống sao cho hài hòa hơn, hạnh phúc hơn, đời sống con người sẽ trở nên viên mãn hơn, yêu thương nhau hơn”. chúng ta cần trở về với thực tế của thế giới hôm nay. nhân loại đã đạt được nhiều tiến bộ ngoạn mục trong thế kỷ 20, nhưng cũng phải đến cuối thế kỷ 20 thì thần vật chất mới để lộ ra các nanh vuốt của mình và thế giới mới bắt đầu nhìn thấy các bế tắc xem ra không thể giải quyết được của loài người ở phía trước. mãi đến cuối thập niên 60 của thế kỷ trước nhân loại mới thấy tác hại của môi sinh là nguy hiểm đến dường nào đối với loài người, từ ngày đó đến nay đã 40 năm qua thế mà mọi chuyện chỉ bàn luận suông thôi, thỏa ước koyto vẫn còn là văn kiện trên giấy tờ, liên hiệp quốc bó tay, thiên tai càng ngày càng hoành hành dữ dội. cuộc tranh chấp dành quyền sống mà không thèm đếm xỉa gì đến người khác được thi hành bởi các quốc gia dựa vào quy mô của mình đang gây ra rất nhiều hệ quả nghiêm trọng, nhiều dân tộc nhỏ bé đang bị tước đi nguồn sống để phải đối diện với cái chết toàn diện, khi một loạt các quốc gia nhỏ bé khác, các dân tộc linh lạc khác có thể bị các nước lớn thôn tính bằng

những thủ đoạn thâm độc nhất bằng kinh tế, văn hóa, quân sự nếu cần. trong khi khoa học vật chất đạt được nhiều tiến bộ vượt bực thì tài nguyên thiên nhiên càng ngày càng trở nên cạn kiệt, nhân số toàn cầu đã hơn 6 tỷ người. vào thời kỳ chúa giê su sinh ra loài người chưa quá 200 triệu, trong 50 năm tới dân số toàn cầu có thể lên tới 10 tỷ người. nuôi 10 tỷ người là một thách đố cực lớn đối với loài người, vấn đề không đơn giản chỉ là nuôi ăn mà còn làm thế nào để số tài nguyên thiên nhiên ấy vốn ngày càng trở nên eo hẹp ấy có thể cung ứng cho 10 tỷ người trong tương lai mà với hiện tình thì chiến tranh để tìm nguồn sống sẽ trở nên gay gắt cực kỳ nguy hiểm đối với tương lai nhân loại. cho dù khoa học tiến triển vượt bực để đáp ứng được nhu cầu khổng lồ ấy, nhưng chỉ nội chất thải không thôi cũng đã đủ để làm cho trái đất này trở nên dơ bẩn và thần thiên nhiên sẽ quay trở lại để hủy diệt trái đất này (phim the war world's, vụ bắn vào sao chổi mới đây là các tín hiệu rõ ràng). trong khi khoa học tiến nhanh về phía trước thì cấu trúc của thế giới vẫn được lập lại trên căn bản quốc gia dựa trên sự thỏa hiệp (theo thời gian với nhiều cuộc tranh chấp nội bộ đẫm máu) giữa người cùng sống trong một lãnh thổ với một sự tương đồng nào đó về văn hóa (tôn giáo, tập quán). quốc gia thần quyền, quốc gia vương quyền và quốc gia dân chủ đều xác định cái không gian sinh tồn ấy, nên quốc gia mạnh luôn luôn tìm cách thôn tính các quốc gia khác và sẵn sàng hủy diệt các nền văn hoá khác một cách không thương tiếc. khái niệm về dân chủ được đề xuất hơn 3 thế kỷ trước cũng chỉ đạt được các bước tiến rất chậm chạp; ngày nay quốc gia thần quyền vẫn còn hiện diện đó đây (iran là tiêu biểu) hoặc thế lực chậm và xấu còn manh nha các mầm mống chỉ chờ chực nổi lên nếu chính quyền sở tại đi vào hỗn loạn. quốc gia độc tôn, chính quyền độc tài đều có một đặc trưng chung nhất là tạo quyền lực cho cá nhân hay cho phe nhóm họ, mặc cho họ cái vỏ bọc là tinh thần dân tộc để thâu tóm quyền lực, nhằm mở rộng quyền lực và quyền lợi cho gia đình cá nhân hay cho phe nhóm mình cho cái không gian sinh tồn của riêng dân tộc mình, nhưng cũng là để thỏa mãn tham vọng cá nhân được dẫn dắt bởi cái nhìn sai lạc và vô trách nhiệm đối với thế giới. xem thế, chủ nghĩa thượng tôn chủng tộc như Đức quốc xã xem ra chưa hung hiểm bằng những kẻ lợi dụng chủ nghĩa để bành trướng quyền lực. cải tiến duy nhất mà nhân loại có được là việc hình thành tổ chức liên hiệp quốc, nhưng liên hiệp quốc lại chỉ là một diễn đàn vô thưởng vô phạt vì mọi nghị quyết đều phải được các quốc gia liên hệ chấp nhận tuân thủ thì nghị quyết mới có giá trị. theo nguyên tắc của công pháp quốc tế thì: “các quốc gia đều bình đẳng”, nhưng các quốc gia có 1 triệu dân với lợi tức 200 mỹ kim cho một đầu người cũng đồng đẳng với quốc gia có tổng số lượng nội địa là 11,000 tỷ mỹ kim sao? chả lẽ quốc gia lấy độc tài chuyên chế, vi phạm đủ thứ luật quốc tế cũng có tiếng nói quyết định về các vấn đề trọng đại của thế giới sao?. quốc gia nào đứng ra giải quyết các vấn nạn ấy? liệu liên hiệp quốc có thẩm quyền để ban cho quốc gia ấy cái chính danh để họ hành động hay không? và thế nào là tính chính danh trong quan hệ quốc tế bây giờ. duy dân biện chứng là tổng hợp toàn diện và phổ quát có thể áp dụng và lý giải về quá trình tiến hóa của loài người, giữa loài người với thiên nhiên và giữa thiên nhiên với vũ trụ trong phạm vi hẹp; trong phạm vi rộng lớn thì ứng dụng ra sao ta chưa thể biết được vì vũ trụ là vô nguyên, hiểu tới đâu thì biết tới đó. cho nên lịch sử nhân loại cần được nhìn thông suốt qua khoa học duy dân biện chứng thì mới toàn diện và không bị sai lạc.

* - giải quyết các bế tắc: * - có trời thì cũng có ta * - xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều. (ca dao) cách mệnh là gì? “cách” trong kinh dịch của nền đạo học Đông phương, quẻ “cách” có nghĩa là đổi thay. thông thường thì con người ta có xấu xa mới mong thay đổi. quẻ “hoả thủy vị tế” tức là lửa ở trên nước ở dưới, lửa cháy thì bốc lên, nước nặng thì chìm xuống đó là một nghịch lý, làm cho mọi vật đi vào bế tắc không lối thoát, cho nên với tình trạng hỏa thủy vị tế là tình trạng đi vào bế tắc, xấu xa, không ở trong vị thế có thể ứng dụng được cho nên phải đổi thay. vậy muốn khai thông tình trạng bế tắc ấy chúng ta phải phá vỡ tình trạng bế tắc của “hỏa thủy vị tế” là chúng ta phải hành động bằng cách lật ngược vị trí của “hỏa thủy vị tế” để trở thành “thủy hỏa ký tế”, nghĩa là nước ở trên hỏa ở dưới, thì cuộc sống mới điều tiết được mọi việc sẽ hanh thông. “mệnh” (hay là mạng) mệnh đây là mệnh trời, theo quan niệm của phương Đông, con người sinh ra mỗi người có một cái mệnh của trời cho (trời ở đây là thiên nhiên-mother nature), nhưng nếu mệnh trời cho con người xấu quá, khổ quá, nên con người không chấp nhận mệnh trời, vì không chấp nhận nên họ đứng lên để chống lại mệnh trời. nói cách khác chỉ có con người mới có cách mạng, hành động cách mạng là chống lại xã hội, chống những ràng buộc của xã hội tạo ra, chẳng những không chấp nhận sinh mệnh xấu xa của mình trong xã hội mà còn dám đứng lên phá bỏ những luật lệ của xã hội đưa ra, phá bỏ những luật lệ của một xã hội đã lỗi thời thoái hóa, để giòng sinh mệnh của mình được tiến hóa. tóm lại cách mạng là để đứng lên xóa bỏ những cái xấu xa lỗi thời của xã hội đó, phá bỏ những gì cần phá bỏ khai thông những bế tắc của một xã hội ươn hèn đầy thành kiến, để làm cho xã hội đó được đẹp hơn tốt hơn, để đời sống con người được tròn đầy hơn và tiến hóa hơn. nhưng cách mạng phải được dẫn dắt bằng những tư tưởng cao đẹp, nếu không cách mạng chỉ làm cho xã hội điêu tàn và đổ nát thêm, khốn khổ thêm, nghèo đói và bần cùng thêm. (xã hội việt nam hiện nay là một ví dụ rõ nét nhất của một cuộc “cách mạng điêu tàn” thoái hóa, rõ nét nhất của những con người kém trí tuệ chỉ biết đập phá mà không biết xây dựng, chỉ biết cổ vũ hận thù đấu tranh giai cấp, cộng sản đã dạy cho con người đánh mất đi nhân phẩm nhân cách, đạo đức luân thường, tất cả đều tan nát dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản). trãi qua lịch sử loài người ta thấy loài người từ khi còn sống trong thời kỳ ăn lông ở lỗ đã cố gắng tiến lên - cụ lý gọi đó là tiền trình duy dân biện chứng - nhầm tìm kiếm một đời sống sao cho tốt đẹp hơn có ý nghĩa hơn. nhưng về phương diện vật chất loài người được phục vụ tốt hơn thì điều đó chưa chắc đã bảo đảm là đời sống con người trở nên có ý nghĩa hơn, điều đó nói lên cái gì? phải chăng đó là thể hiện rõ nét nhất của tình trạng bất ổn trong tinh thần; ta không bằng lòng với một cái gì cả quá khứ hiện tại cũng như tương lai, loài người càng tìm cách dụng thiên nhiên thì thiên nhiên càng vây hãm loài người một cách chặt chẻ hơn. cho nên nếu ta chỉ biết sống thác loạn hôm nay và chỉ hôm nay

thôi, đó là dấu hiệu của sự bế tắc trong tư tưởng. nếu chỉ có duy tâm không thôi thì con người chỉ có thần thức của tôn giáo. nếu chỉ có duy vật không thôi thì con người chỉ có luật tắc của khoa học, nhưng tiếc thay trong mỗi con người được hội đủ cả hai yếu tố tâm và vật, vì vậy con người mới có mộng mơ hạnh phúc, mới biết đau khổ oan thương. nhưng cũng vì những uớc mơ hạnh phúc đó đã thôi thúc con người đứng lên làm cách mạng, để mong có một cuộc đổi đời sáng lạn hơn. biết trước sự bế tắc trong tư tưởng của tâm và vật nên cụ lý nói: * - bút nghiên đèn sách đều sai lạc. * - kim cổ đông tây cũng hão huyền. trích Đạo trường ngâm - Đạo trường ngâm 4822 t.v. từ hàng trăm năm qua đường đi của nhân loại tựa như quẻ hỏa thủy vị tế, vì không có tư tưởng để chỉ đạo cho nhân sinh quan, tất cả đã đi vào bế tắc. nên xã hội con người hiện nay đang cần một cuộc cách mạng toàn diện, triệt để và hướng thượng để giải quyết tận gốc rễ của mọi vấn đề tinh thần cũng như vật chất, đó là một tất yếu phải có và công cuộc cách mạng này con người phải quyết tâm thực hiện. nhưng cách mạng có tiến trình, qui luật, mục đích và điều kiện của cách mạng. cách mạng phải có đạo đức, phong thái, văn hóa của cách mạng, cho nên cách mạng phải có một tinh thần chuẩn bị sẳn, một nguyên tắc tiềm tàng sẳn, một phong khí tẩm nhuần sẳn. khi hội đủ các yếu tố đó thì cuộc cách mạng toàn diện triệt để và hướng thượng mới đi đến thành công được. biến cố ấy đang xảy ra hôm nay trên trái đất này thuộc về nền văn minh này của lịch sử loài người. cách mạng là hành vi tất yếu của loài người, bởi loài người, vì loài người và chỉ có con người mới biết làm cách mạng, những bước đột khởi ấy không xảy ra tự nhiên đột biến, mà cách mạng là cả một quá trình diễn tiến liên tục của một loạt các động thái tắc - mở trong phạm vi hẹp trước khi dẫn đến một bế tắc lớn, chỉ khi nào bế tắc lớn kia được khai mở thì xã hội mới hanh thông mà thôi. cho nên cụ lý đã nói: “khởi điểm của cách mạng đã dựng dục từ trong bào thai của thời đại cũ”. như thế nếu xét nét theo chiều dài của lịch sử nhân loại thì thời đại cũ ở đây đã kéo dài nhiều ngàn năm để đến thời điểm này thế giới đang ở trong bế tắc lớn nhất và nguy hiểm nhất (dĩ nhiên trong nhiều ngàn năm đó nhân loại đã từng xảy ra nhiều cuộc bế tắc và cách mệnh rồi). lịch sử đã để lại điều này; tuy lịch sử được làm nên bởi mọi người nhưng hướng đi được quyết định bởi một nhóm người nhỏ nào đó mà thôi, khi nhóm nhỏ tìm thấy hướng đi đúng thì mọi người đi theo. thế giới hôm nay không đi ra ngoài quy luật ấy được, cho nên chính nghĩa của một cuộc cách mạng không phải do bên ngoài ban cấp cho nó mà nó có chính nghĩa. chính nghĩa của một cuộc cách mạng nằm ngay trong mục đích của cuộc cách mạng ấy. cho nên điều mà cụ lý gọi là: “cách mệnh trên quy mô toàn cầu trong thế kỷ này nhằm giải phóng con người khỏi các ràng buộc do lịch sử để lại, nhằm thiết lập một xã hội nhân chủ pháp trị”. như thế tính chính danh của một cuộc cách mạng này là không còn gì phải bàn cãi nữa. vấn đề kế tiếp là: quốc gia nào sẽ đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử ấy đối với loài

người? cụ lý đã nói: cách mạng có tiến trình, quy luật, mục đích và điều kiện của nó. * - tiến trình ấy là cả một quá trình hình thành nền văn minh này của nhân loại. Đặc biệt trong 200 năm qua tiến trình đưa nhân loại trở nên gần gũi nhau hơn đã đạt được các bước tiến đáng kể nhất là trong hơn 50 năm qua, tiến trình ấy đã được thúc đẩy rất mạnh mẽ bởi hoa kỳ. * - quy luật tức hình thành thế lực chủ đạo với một lý thuyết trong sáng nhằm dẫn dắt nhân loại đi vào tương lai có dự cầu. dĩ nhiên đối với các thế lực cản trở, việc sử dụng bạo lực cách mạng là cần thiết không phải là để hủy diệt con người mà là nhằm khuất phục các thế lực cản trở ấy để họ phải chấp nhận hướng đi mới. * - mục đích là tổ chức lại thế giới trên một căn bản mới để lợi ích của các tiến bộ được san sẻ hợp lý hơn trên qui mô toàn cầu, nhân phẩm và nhân cách con người được tôn trọng để họ được yêu thương nhau hơn, vì giấc mơ muôn thuở của loài người từ buổi hồng hoang đến nay đều muốn sống trong thái bình, hạnh phúc, loài người đều muốn thương yêu và chia xẻ về vật chất cũng như tinh thần, vì vậy con người mới tìm đến nhau sống quay quần tạo thành một xã hội, mà những ước mơ đó đã khởi đi từ những con người siêu việt có một trí tuệ trong sáng, để dẫn loài người thoát ra khỏi cảnh vô minh. vì lẽ đó nên các dân tộc nhỏ linh lạc phải được khôi phục và thoát khỏi ách đô hộ hoặc thôn tính của các chế độ tham vọng độc tài, để từng bước thiết lập một xã hội nhân chủ pháp trị trên quy mô toàn cầu. * - Điều kiện hiện nay đã chín mùi cho một cuộc cách mạng toàn diện triệt để và hướng thượng, chỉ trong 10 năm qua hệ thống thông tin điện tử (internet) đã đưa loài người lại gần nhau hơn rất nhiều so với trước khi có thông tin điện tử. (internet - world, wide, web, được gọi là “hệ thống điện tử chuyển tin toàn cầu”, vậy từ đây ta không nên gọi là “mạng hay mạng lưới”, vì văn hóa phải làm giàu cho ngôn ngữ, phát triển sao cho ngôn ngữ ngày càng trong sáng, làm nghèo ngôn ngữ là ta đã xóa bỏ văn hóa, “từ tư tưởng bước sang hành động” phải có cầu ngôn ngữ để truyền đạt là vậy). như vậy trong điều kiện của thế giới hôm nay thì hoa kỳ là quốc gia đầu tiên đi vào duy dân nhân chủ, nên cụ lý gọi “hoa kỳ là quốc gia tiền duy dân”. chính vì vậy mà cụ lý mới nói đến ngày cách mạng sẽ bùng nở như một quy luật phải có, nên cụ đã đưa ra một tiến trình cách mạng gồm 3 phần: * - “huyết thai” là nhân và duyên. * - “huyết nụ” là tiến trình đi tới cách mạng. * - “huyết hoa” là hoa máu tức là hoa cách mạng sẽ bùng nở. huyết thai, huyết nụ, huyết hoa, đó là một tiến trình cách mạng. cách mạng là một công cuộc chuẩn bị để đổi thay không phải cho một cá nhân mà là chuẩn bị để đổi thay cho cả một tập thể lớn hay nói đúng hơn là cho cả một dân tộc và cho cả nhân loại như hiện nay. huyết thai là gì, huyết là máu, thai là nhân hay là hạt, đó là khởi điểm của mầm sống,

trong con người (cũng như mọi sinh vật) thai là sự kết hợp của tinh cha huyết mẹ để tạo nên một con người. nói một cách khác “huyết thai” là mầm của sự sống được nuôi dưỡng bằng máu của nhiều thế hệ đi trước truyền lại cho chúng ta. (cụ lý không dùng danh từ nhân hay hạt mà lại dùng danh từ thai, bởi vì nó cụ thể nó tượng hình bằng nhân sinh quan và nhân tử quan, vì cách mạng là một hành động hoàn toàn có tính cách nhân tính và chỉ có con người mới biết làm cách mạng, đó là hành vi của con người). từ huyết thai đi đến huyết nụ là tiến trình đang đi của công cuộc cách mạng để đi đến sự bùng nổ cách mạng tức là huyết hoa, huyết hoa tức là hoa máu hay còn được gọi là hoa cách mạng. từ huyết nụ đi đến huyết hoa là một tiến trình cách mạng cam go đòi hỏi phải có thời gian tính và những điều kiện ngoại tại với sự trợ duyên, phù hợp với tiến trình cách mạng để đưa cách mạng đến thành công, tức là hoa máu sẽ bùng nở. * - “từ muôn ngàn tàn lụi không tên * - sẽ bùng nở một trời hoa lạ quý”. (1) trích tập thơ Đồng lầy (vô Đề) - Đừng sợ -1975. hay, * - “lấy máu đào tươi thắm tưới cho hoa * - máu ươm hoa, hoa máu chan hòa * - hoa sẽ nở muôn nhà muôn vạn đóa * - hoa hạnh phúc tự do vô giá * - máu căm hờn phun đẫm mới đăm bông !” trích tập thơ Đồng lầy (vô Đề) - Đồng lầy -1972. (1). x.y. thái dịch lý Đông a đã viết ra chủ thuyết duy dân nhân chủ trong hơn 60 năm qua, nhưng ít được nói tới (không tên), bởi lẽ cụ đã biết trước người quốc gia việt nam sẽ mất quyền lãnh đạo đất nước bởi cộng sản trong một thời gian dài. sau trận thất bại ở nga my cụ đã giải tán đảng duy dân vào năm 1946 và đi ở ẩn (…tàn lụi không tên), cho đến nay vì thời cơ đã đến cụ lại xuất hiện để lãnh đạo công cuộc phục hưng và phục hoạt đất nước. hiện nay chủ thuyết duy dân nhân chủ đã được nhiều người biết đến, nhưng hoa kỳ đã xiển dương và phổ biến một cách rộng rãi bằng hành động (nhập nhĩ xuất sự). hoa kỳ là quốc gia đầu tiên (tiền duy dân) cầm ngọn cờ duy dân nhân chủ để “dẫn nhân loại đi trên con đường muôn thuở”. trong một ngày gần đây thế giới sẽ kinh ngạc khi nhìn thấy sự thành công vượt bực của mọi ngành, mọi giới do hoa kỳ lãnh đạo, thế giới sẽ chuyển mình phá bỏ những lối sống cũ, những suy tư cũ, để hoà mình vào một tương lai mới mà chủ thuyết duy dân nhân chủ sẽ đem lại những kết quả không ngờ, xã hội loài người nói chung và việt nam nói riêng sẽ như một khu vườn khi mùa xuân đến (sẽ bùng nở một trời hoa lạ quý) và hòa bình thật sự sẽ đến với con người, chính bàn tay con người sẽ tạo dựng một thiên đường tinh thần và vật chất ngay cõi đời này, ngay trong kiếp nhân sinh này, chứ không phải hứa hẹn nơi kiếp nào xa xôi khác.

* - Đạo và giáo (đạo giáo) trong Đạo học bách việt có nói đến đạo và giáo (giáo dục): * - thiên mệnh chi vị tính. * - xuất tính chi vị đạo * - tu đạo chi vị giáo từ ý nghĩa trên tức là trời đất sinh ra con người đã có cái bản tính của trời Đất (thiên nhiên) cho, nhưng bản tính đó phải được giáo dục và sống theo đạo thống của con người, từ sự giáo dục đó con người có thể làm thay đổi được cái sinh mệnh của mình (từ xấu sang tốt) đến khi chính cá nhân đó hiểu được chính mình, kiểm soát được hành động của mình, kềm hảm được những cái xấu xa ti tiện trong con người mình thì đương nhiên hạt giống san sẻ yêu thương sẽ được nẩy mầm, tứ đó trên thế giới này, biên cương hận thù tôn giáo, chủng tộc (chiến tranh tôn giáo hay chiến tranh chủng tộc) sẽ bị xóa nhòa, để trong mỗi con người chỉ còn lại duy nhất chỉ có một cái Đạo đó là đạo làm người, đạo làm người phải được đề cao như một ngọn đuốc lý tưởng, không còn các cực quyền tôn giáo khống chế tư tưởng của con người. tất cả các tôn giáo phải được thống nhất, tất cả các đạo giáo phải được sửa đổi để hòa vào nhân Đạo, chứ không phải thần đạo. nhưng nếu chúng ta muốn thực hiện các điều trên thì không có cách nào khác hơn là con người phải được giáo dục đến nơi đến chốn, nghĩa là các thế hệ bây giờ và trong tương lai, phải được giáo dục để hiểu một cách rõ ràng thế nào là nhân Đạo tức là thế nào là Đạo làm người, đó là ý nghĩa của câu tu đạo chi vị giáo. khi con người đã hiểu được thân phận của mình rồi thì con người mới đứng lên để làm cách mạng, vì con người không chấp nhận những cái xấu xa của nhân giới (những áp bức bất công của giới cầm quyền) cũng như nhiên giới (trồng rừng đấp đê để tránh thiên tai bão lụt) đã áp đặt cho chính cá nhân hay những người chung quanh họ. vì vậy không có con người thì không có cách mạng, cách mạng là một hành vi của nhân tính, vì con người mà làm cách mạng, cách mạng ngay chính bản thân mình, chống lại những ươn hèn, những thói hư tật xấu ngay chính mình, cách mạng ngay chính xã hội mình đang sống, cách mạng chống lại những tàn phá của thiên nhiên để làm thăng hoa nhân giới và hòa mình cùng nhiên giới (thiên nhiên ở đây là khách quan, không có gì mâu thuẫn với khái niệm thuận thiên cả). cho nên cách mạng nếu không có tư tưởng cao đẹp chỉ đạo cho hành động, thì cuộc cách mạng ấy sẽ thoái hóa và quay trở lại phá hoại xã hội, (xin xem lại mục cách mạng ở trên). nhưng nếu muốn tư tưởng và hành động hợp nhất không gì bằng mài giũa để mỗi ngày mỗi tiến lên mãi, nên trong “Đạo trường ngâm” cụ lý nói: * - rùa rồng gọt giũa hoa thuần túy. Đạo trường ngâm – nga my hành (2824 t.v). rùa tượng trưng cho hạ tầng xây dựng kinh tế vật chất tức là phương tây (mà hoa kỳ là đại diện). rồng tượng trưng cho thượng tầng lãnh đạo tư tưởng (tinh thần) tức là đạo học bách việt

(biểu tượng của tàu là sư tử hay cọp chứ không phải là rồng, quan vân trường được cả dân tộc tàu ngưỡng mộ và tôn thờ cũng chỉ là một trong ngũ hổ tướng của thời tam quốc). “rùa rồng gọt dũa hoa thuần túy”. một ý nghĩa sâu xa khác muốn nói đến những nhà lãnh đạo trí tuệ siêu việt của việt nam và hoa kỳ đã kết hợp đầy đủ nhất giữa vật chất với tinh thần nhằm lãnh đạo thế giới trong hiện tại và tương lai. * - “x. y. thái dịch lý Đông a” như thế trong điều kiện của thế giới hôm nay, khi cuộc cách mạng đang khởi điểm, các thế lực chống đối đang ra sức kết bè lập đảng để cản trở quá trình này, các thế lực ấy sẽ thất bại chúng chỉ có thể trì hoãn đôi chút thời gian mà thôi. và vì “giác biện chứng lớn” cho nên cụ lý mới dùng danh hiệu: “x. y. thái dịch lý Đông a” là thế. dưới đây là ý nghĩa của cụm từ x.y. thái dịch lý Đông a. * - (x.y.) - vũ trụ quan - duy nhiên - Đại Đồng. biết là trục của sự sống, biết là một thể hệ. thể hệ là một hệ thống tròn đầy, người hiểu được thể hệ biết thì tầm hiểu biết phải rộng, phải xa, nghĩa là phải có một viễn kiến sâu rộng, nhưng sợi đan phải nghiêm mật, nghĩa là phải biết một cách chi tiết và rõ ràng, nhưng viễn kiến sâu rộng và sự biết kia phải mang tính chất khoa học, mọi sự, mọi việc phải thiết kế được bằng đồ biểu, cũng như phương thức và phương pháp, có như vậy người biết mới đi sâu vào từng vấn đề nhỏ của mọi vấn đề nhỏ, để hoạch định những vấn đề thiết kế cho nhân sinh bây giờ và cho cả tương lai. Đó là ý nghĩa của câu “biết là trục của sống” vì “sống đến đâu là vũ trụ đến đó”. nên tên lý Đông a là biểu hiệu của cụ (cụ tên thật là nguyễn hữu thanh), “chủ thuyết duy dân nhân chủ của lý Đông a” là biểu hiệu của cả một thể hệ học, một hệ thống lý luận, chủ thuyết duy dân nhân chủ của lý Đông a tựa như một lâu đài văn hóa bao gồm nhiều mặt. x.y. tức là trục tung và trục hoành đó là hình thức diễn đạt các Đạo hàm trong toán học, mà môn toán học được coi là một môn khoa học chính xác nhất của nền văn minh cơ khí phương tây, nên khoa học là một phương tiện để con người tìm hiểu thiên nhiên và khoa học cũng khám phá ra những bí mật của vũ trụ. trục tung là trục của thời gian, trục hoành là trục của không gian. như vậy x.y. tượng trưng cho vũ trụ quan ngày xưa môn khoa học được gọi là môn “cách trí”, tại sao gọi là cách trí?. cách trí là chữ viết tắt của một cụm từ gọi là “cách vật trí tri”, nghĩa là phải tìm hiểu hay thay đổi sự vật ở nhiều khía cạnh để sự tìm biết được viên mãn, nghĩa là sự tìm kiếm phải biết đến nơi đến chốn. “trí tri” trí là đến nơi tri là hiểu biết. “cách vật” là mổ xẻ sự vật đó ra, phải nhìn từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong, phải lật ngược lật xuôi sự vật để tìm hiểu vào từng vấn đề nhỏ của sự vật. ví dụ: chúng ta phải mổ xẻ các sinh vật nhỏ như chó, mèo, cóc, nhái để tìm hiểu chi tiết và cách cấu tạo của các sinh vật, từ đó đưa ra những khám phá mới, để phục vụ cho con người để tránh các bịnh tật hay định bịnh cho con người. vậy “cách vật trí tri” được chia ra làm 2 vấn đề nhỏ. a) . phân tích là để tìm hiểu các cơ quan cũng như để tìm ra những chi tiết, dữ kiện. b) . tổng hợp là để hiểu một cách toàn thể các cơ quan và các sự vận hành chung của cơ quan đó từ những chi tiết những dữ kiện (phân tích) có được.

như vậy phân tích và tổng hợp sẽ đi đến thống nhất của vấn đề, để tìm ra cái toàn vẹn (tổng thể) kết quả của vấn đề. nhưng vũ trụ quan là gì? vũ trụ quan là quan niệm khoa học về thế giới bên ngoài của chúng ta như: trời, đất, sông, biển, sinh vật hay các hành tinh ở xa trái đất chúng ta. nhưng khi quan sát vũ trụ chúng ta phải quan sát với tính cách khách quan chứ không quan sát một cách chủ quan, vì tất cả mọi người ai ai cũng hiểu rằng nước thì xôi ở 100 độ và đông đá ở 0 độ, vậy không có nền khoa học Đông hay tây mà chỉ có khoa học của loài người, vì con người ai cũng có thể ứng dụng được các phát minh do khoa học mới làm ra, vì thế khoa học mang tính cách chung của chân lý Đại Đồng, nên gọi là vũ trụ quan - Đại Đồng. duy nhiên là gì? duy nhiên là kết hợp toàn thể thiên nhiên và trạng thái tự nhiên trong vũ trụ này lại để tìm hiểu theo nguyên tắc khoa học, vì càng tìm hiểu thiên nhiên và tự nhiên bao nhiêu thì tầm hiểu biết chúng ta về vũ trụ càng xa và rộng bấy nhiêu, loài người càng hiểu về vũ trụ bao nhiêu thì chúng ta càng xử dụng vũ trụ một cách hữu hiệu chính xác bấy nhiêu. ví dụ như các khoa học gia lấy các chất trong vũ trụ để ứng dụng vào trong nghành nông nghiệp (điều này đã thành công) hay khoa học kỹ thuật để phục vụ cho nhân sinh bây giờ và trong tương lai, và cứ như vậy con người lại đi những bước đi kế tiếp, để làm chủ nhân giới cũng như nhiên giới, cũng như để hòa cùng vũ trụ (cùng vũ trụ hòa). (mai đây nền khoa học hiện đại sẽ cho chúng ta biết rằng: các hành tinh xa cách chúng ta hàng triệu triệu dậm (miles) cũng có sự sống như quả địa cầu của chúng ta hiện nay. Đó là thời kỳ “liên hành tinh” mà các bài viết trước đây chúng tôi có đề cập đến). tóm lại như trên đã nói “biết là trục của sống”, nên biết đến đâu là sống toàn vẹn (vũ trụ) đến đó. và đó cũng là lý do để giải thích tại sao con người khổ đau vì vô minh (không biết), nhưng muốn biết tràn đầy và toàn vẹn để tránh vô minh đau khổ cho tương lai thì không có gì hơn bằng cách phải học, nghĩa là mọi người phải được giáo dục (giáo dục là chung điểm và khởi điểm của chính trị vậy). * - (thái dịch) - nhân sinh quan - duy nhân - tuyệt Đối ngoài khoa học ra trong sự hiểu biết của con người phải nói đến triết học, vì không có triết học sự sống con người sẽ bị bế tắc về nhiều lãnh vực và sẽ đi vài hủy diệt. vậy triết học là gì? nói vắt tắt triết học là thống quan của con người để áp dụng cho nhân sinh quan, sự sống của con người là một sự vận hành không bao giờ ngưng nghỉ, như thế theo quan niệm của nhân sinh thì triết học chính là dịch học và vì sự ứng dụng vào đời sống con người qua sự vận hành của nó nên gọi đó là thái dịch. thái dịch là gì? thái là lớn, dịch là sự biến đổi, đổi thay. theo cách diễn nghĩa trên thái dịch là sự biến đổi lớn. tất cả muôn vật mang sự sống trong vũ trụ này đều đổi thay rung động, vì bản chất của sự vật là sống mà sống tức là sự rung động là đổi thay. ví dụ: sự rung động của ánh sáng, âm thanh hay sự rung động của một giòng điện (vi-ba, vibration, âm ba) đều mang tính Âm và dương. Đó là ý nghĩa vòng tròn của thái dịch được cắt làm đôi (thái dịch sinh lưỡng nghi - sideway). bản chất của sự sống là rung động vì tĩnh lặng là sự chết không còn biến đổi nửa. nói một cách khác là khi con người chưa đạt đến đỉnh cao nhất của triết học, nghĩa là chưa thông hiểu được triết học (dịch học), thì triết học cứ tản mạn bàn về những ý niệm không thực tiễn bên ngoài đời sống của con người, còn

những gì sâu thẳm tàng ẩn bên trong con người thì họ lại quên đi. như vậy con người sẽ bị xoay vào các cơn lốc ảo tưởng của ý niệm mà không làm sao nhìn được hướng đi cho nhân tính. triết lý là gì nếu không là sự chăm lo cho con người, lấy những nhu yếu chính để làm nền tảng của con người, triết lý phải được tỏa rộng như một “Đại Đạo”, phải nhìn xa trông rộng, phải ngàn tay vạn chân, để chăm lo cho đời sống con người nói chung. Đó chính là tinh hoa của triết học. bởi vì trong con người được hội đủ cả hai yếu tố tinh thần và vật chất (âm – dương). một là phần vật chất hạn hẹp gói trọn trong bản thân, hai là phần tinh thần tỏa rộng ra vũ trụ, nhưng khi nào con người còn bị giam cầm trong thân xác hạn hẹp của vật chất, thì bấy lâu con người chưa thể đạt đến giai đoạn “lưỡng nghi”. lưỡng nghi là cân bằng vật chất và tinh thần có nghĩa là âm dương phải giao thoa trong thân thể của mỗi con người, vậy nếu “duy vật” chất thì bất thành, nên sách có câu “nhất dương bất sinh” là vậy. tổ tiên bách việt đã thiết lập một nền văn minh văn hóa Đông phương một cách huyền diệu, đã nhìn được lưỡng nghi tính trong thân thể con người, tức là “chỉ thị” hai cực trong cùng một thực thể, quy củ ấy phải liên hệ với một thực thể vượt tầm giác quan, nên có khả năng hòa hợp hai cực đối chọi. Đây chính là tinh hoa của nền triết học Đông phương. vì thế cho nên học giả needham người dày công nghiên cứu về nền văn hóa bách việt đã đưa ra một nhận định bất hủ rằng: “trong nền văn hóa bách việt không có ý niệm tội lỗi mà chỉ có sự cố gắng đạt đến hòa hợp”. hòa trời với đất “tam thiên lưỡng Địa” để tạo thành con số 5. mọi người việt ta ai cũng biết Âu cơ là tổ của các loài chim, chim cũng là tượng trưng cho tổ vật của họ hồng bàng. vì vậy số 5 là chìa khóa mở cửa đi vào ý nghĩa để hiểu nhiều truyền thuyết, huyền thoại, cũng như huyền sử (huyền học cổ sử) của nền văn hóa bách việt. vậy theo định nghĩa trên thái dịch tức là nhân sinh quan. nhân sinh quan là quan niệm để sống mà sự sống thì phải mỗi ngày mỗi đổi thay (nhật tân nhật nhật tân) để sống tiến hóa. nhân sinh quan là quan niệm sống, nên quan niệm sống đó là một chân lý tuyệt Đối, bởi vì mỗi một cá nhân phải tin và sống theo cái quan điểm của mình. trong tinh thần yêu nước cao độ dạt dào tình cảm của những chiến sĩ cách mạng đầy quả cảm, đã có biết bao nhiêu anh hùng vô danh, dám quên thân mình oai hùng nằm xuống cho đại nghĩa cho tổ quốc, những người dám hy sinh sự sống của cá nhân mình cho kẻ khác là một hành động vô cùng cao đẹp không phải ai ai cũng xả thân làm được hay có thể làm. theo quan điểm của họ đó là lý do để giải thích tại sao chân lý sống tuyệt Đối, để họ dám tin, dám sống và dám chết cho đại nghĩa. trong nhân sinh quan bao gồm cả quan niệm tình yêu (tình gia đình, tình vợ chồng, tình yêu tổ quốc), vượt trên hết tất cả những ràng buộc đẳng cấp, màu da, chủng tộc, mọi thị phi của xã hội để mong tìm một thay đổi đầy lạc quan, cho chính cá nhân họ, cho xã hội hay cho tổ quốc họ. nhân sinh quan là quan niệm sống, mà sự sống của mỗi con người phải được tự do về cả hai phương diện tinh thần lẫn thể xác, nên sự tự do đó phải được bảo vệ tuyệt đối. trong quan niệm triết học gọi đó là nhân sinh quan tuyệt Đối. tuyệt đối trong cá nhân của mỗi con người, để con người có quyền sống theo sự tự do và suy nghĩ tuyệt đối của mình, vì là trong phạm vi của con người và cho con người. nên quan niệm triết học đó được gọi là duy nhân (con người). hay nói khác đi là quan niệm sống của mỗi cá nhân, mỗi xã hội, mỗi dân tộc đều có cách sống riêng theo bản sắc và văn hóa của họ, nhưng cách sống đó phải hướng thượng, phải đi theo những tiến bộ của nhân loại, phải đi theo đà tiến văn minh của con người, để làm cho nhân giới và nhiên giới được hài hòa, nội giới với ngoại giới phải tương ứng. (ví dụ như vấn đề môi sinh chẳng hạn, như nhiều

quốc gia hiện nay lạm dụng phá rừng một cách bừa bãi, đã làm cho quả đất thêm nóng, từ đó gây ra bão tố, mưa lũ tàn phá sự sống con người). nếu mỗi người đều có một quan niệm sống riêng, thì con người đều giống nhau trong đại thể nhưng lại khác nhau trong tiểu tiết. (đây là quan niệm Đại Đồng, tiểu dị). không ai có thể dùng (tinh) thần quyền để mong đoàn ngũ hóa cuộc sống của loài người, cũng không ai có thể bần cùng hóa con người bằng vật chất được, những hành động nêu trên có tính cách phản lại con người và hủy diệt con người, cho nên con người khi sống thì tinh thần phải được tự do phóng khoáng và tự do suy tư, suy nghĩ. bản sắc của mỗi cá nhân, bản sắc của một dân tộc dù nhỏ cũng phải được tôn trọng, không có sự tôn trọng lẫn nhau giữa cá nhân và cá nhân, giữa dân tộc và dân tộc thì con người không có hạnh phúc và lạc quan để chung sống với nhau. vậy nhân sinh quan - duy nhân - tuyệt Đối, tuyệt đối ở điểm mang tính cách chủ quan cá nhân (khác với chân lý đại đồng là tổng thể khách quan). tiếc thay đã nhiều ngàn năm qua xã hội loài người đã bị đóng khung trong “tín ngưỡng thần quyền” nên sự phát triển về tri thức của con người đã bị dừng lại, nếu không muốn nói là tín ngưỡng đã bóp nát tri thức con người và bắt con người sống thoái hóa về tri thức cũng như lối suy tư. hiện nay trên thế giới này cũng còn có một số quốc gia hay những tổ chức mệnh danh là tôn quyền (hay thần quyền) để khống chế và áp đặt vào trong tư tưởng con người những điều ảo tưởng. nếu đất sét có thể nặn thành người, khúc xương sườn có thể trở thành người mẹ hiền, thì vũng nước ổ gà kia có thể hóa đại dương, những tên hề nhi nhô cũng có thể vang danh trở thành những vĩ nhân lừng danh sách sử. con người của thế kỷ 21 này phải mạnh dạn cởi bỏ những cái xấu xa hủ bại đã choàng và cổ con người ở những thế kỷ trước, chúng ta phải đứng dậy để tiến về phía trước, để theo kịp đà tiến hóa văn minh ở nhiều lãnh vực của nhân loại hôm nay. * - (lý Đông a) – chính trị quan – duy dân – tương Đối “lý” trong kinh dịch được gọi là quẻ lễ (lý giả, lễ giả) nghĩa là con người trong cuộc đời này nên lấy lễ nghĩa để đối xử với nhau, người trên kẻ dưới phải có những tương quan liên hệ ra sao trong gia đình cũng như ngoài xã hội, trong một quốc gia hay cùng một chủng tộc. “Đông a” là đất thuộc vùng Đông Á , đó là biểu hiệu của một vùng “Địa lý chính trị”, nên gọi là “chính trị quan duy dân”. chính trị quan duy dân là chính trị kết hợp các dân tộc, các người dân trong một vùng địa lý chính trị đó lại với nhau, bởi vì dân tộc thì nhiều mỗi dân tộc đều có một sắc thái riêng và có một nền văn hóa riêng, cho nên họ có cách sống và cách sinh hoạt đặc thù của riêng họ. theo “nhân sinh quan tuyệt đối” ở trên do đó chúng ta phải tôn trọng văn hóa, sắc thái riêng của họ. vì dân tộc thì nhiều nhưng nhân loại (con người) thì chỉ có một. Đây là quan niệm “Đại Đồng - tiểu dị” áp dụng trong chính trị quan đó là “chân lý tương Đối”. bởi theo nguyên tắc của tự do thì ai cũng có quyền sống theo cách suy nghĩ của mình, dân tộc nào cũng có quyền tự do để đòi độc lập cho tổ quốc mình cả, nếu con người của một xã hội đó yêu chuộng và tôn trọng tự do thì dân tộc đó phải được độc lập. Độc lập là gì? là sự tự do của một quốc gia mà người dân trong quốc gia đó có quyền

quyết định cách sống của dân tộc mình, quyết định cách sống theo văn hóa của đất nước mình mà không ai có quyền áp đặt. Độc lập của một quốc gia cũng tương tự như sự tự do của một cá nhân, sự độc lập của một quốc gia hay sự tự do của cá nhân phải đi đến xây dựng giàu đẹp và hạnh phúc cho chính cá nhân và cho quốc gia đó. Độc lập cho một quốc gia, tự do cho một cá nhân là để mưu cầu bình an và hạnh phúc, một vài quốc gia còn sót lại trên thế giới này (việt nam hiện nay là một ví dụ) cũng đưa ra phương châm: “Độc lập, tự do, hạnh phúc”nhưng tiếc thay đó chỉ là lời nói mỉa mai của những kẻ độc tài kém hiểu biết và chỉ biết chinh phục con người bằng sức mạnh của bạo lực. lý thuyết cộng sản là một lý thuyết phản lại nhân tính con người, nó không đem lại tiến bộ cho loài người và cũng không mang lại no ấm, hạnh phúc, tự do cho loài người. Điều này là một sự thật hiển hiện cho nên chúng ta không cần bàn nhiều ở đây tóm lại “x.y. thái dịch lý Đông a” là một “thể hệ học” và một “thể hệ biết” bao gồm: triết học, khoa học và chính trị học (sử học - lịch sử là chính trị của quá khứ, chính trị là lịch sử của tương lai). nhưng vì sao lại có chính trị học? vì chính trị là một nghệ thuật tổ chức xã hội mà con người không bao giờ tự sống ngoài xã hội được. xã hội là một môi trường sống, nhưng nếu môi trường sống (thiên nhiên) ấy bị ô nhiễm thì xã hội con người sẽ bị khổ sở, bệnh tật vì không thể sống được, vì vậy môi trường đó phải được bảo vệ cho thật trong sạch, cho nên chính trị quan phải tương đối để phù hợp với cuộc sống của con người. chính trị quan phải có nhân bản, nhân tính, nhân chủ để thăng bằng giữa thiên nhiên và vạn vật, (trong đó con người là chủ thể). Đóa hoa huyết (người ta bừng thức giấc) phải nở để từ khởi điểm nhân bản với tiến trình cách mạng nhân tính con người phải được phát huy đến cao độ, để con người sống sao cho xứng đáng với nhân phẩm và đầy đủ nhân cách trong tiến trình làm người để đạt đến đích điểm nhân chủ. nên trong Đạo trường ngâm cụ lý nói: * - nhất nguyên tóm lại ngôi hoàng cực. Đạo trường ngâm - bạch sơn hành (4823 t.v.) “nhất nguyên” nghĩa là chỉ có một “chủ nghĩa duy dân nhân chủ”, chỉ có một nước hoa kỳ mới có đầy đủ chính nghĩa để lãnh đạo thế giới đi vào công cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu này. “ngôi hoàng cực” hoa kỳ phải thành công. lê văn xương ---------------

phần 2 tiếp theo phần thứ nhất của bài “Ý niệm thế hệ” này chúng tôi đã trình bày một cách khái quát về lịch sử văn minh nhân loại theo cái nhìn duy dân biện chứng nhằm giải thích nhiều sự tượng của lịch sử phát triển của nhân loại theo một tầm nhìn toàn diện, triệt để và hướng thượng. nó cũng đặt ra các chủ đề mới, “rất mới” cho các suy nghĩ của thế giới ngày mai, đồng thời cũng đặt nền tảng cho việc xây dựng lại thế giới về lâu về dài. các sự tượng của thế giới không hề bị xé lẻ ra để đặt chúng trong thế đối kháng, thay vào đó được đặt trong thế tiến hóa không ngừng nghỉ nhằm đưa nhân loại đến sự thống nhất về nhận thức. sự

thống nhất về nhận thức này sẽ từng bước đóng góp vào việc hóa giải các mâu thuẫn, các câu thúc hiện nay giữa loài người với nhau hầu mở đường cho giai đoạn thống nhất loài người trên quy mô toàn cầu. Ðó cũng là ước mơ căn bản của loài người vậy. nhưng giữa ước mơ chính đáng của loài người và thực tế xã hội loài người luôn bị cản trở bởi nhiều khó khăn khách quan. các cản trở ấy do thiên nhiên gây ra nhưng chính yếu là do con người tạo ra, vì loài người trên thực tế đã đi lạc hướng trong suốt quá trình tiến hoá của mình. bình tâm suy nghĩ lại thì bây giờ không phải là lúc loài người trách cứ nhau, trách cứ quá khứ đã gieo rắc hận thù bằng cách này hay cách khác. thay vào đó, loài người cần phải nhìn vào quá khứ của mình cách tích cực hơn; bởi vì các thứ đó cho dù có sai lầm, cũng đã đóng góp vào quá trình thống nhất nhân loại một cách thực tế để ngày nay chúng ta thực hiện được trong thực tế. như cụ lý đã nói: “nhân loại đã từng xảy ra nhiều bế tắc, mỗi bế tắc đều cần một bước bạo đột thủ nhằm phá vỡ bế tắc ấy để nhân loại tiến lên”. vậy khi nhìn vào thực tế thì bế tắc ngày nay của nhân loại là gì ? phần thứ nhất của bài này chúng tôi sẽ trình bày về những bế tắc của thế giới đương đại nhưng trên một căn bản thuần túy lý thuyết mà thôi. phần thứ hai chúng tôi sẽ trình bày về cách thức mà nhân loại cần phải giải quyết các bế tắc ấy, cũng như các vấn đề nền tảng để theo một cách nào đó, đóng góp vào việc xây dựng lại thế giới trong tương lai. thế giới bị bế tắc thì chúng ta phải phá vỡ những bế tắc đó để mở đường cho nhân loại tiến lên. nhân loại đi lạc hướng thì phải đưa nhân loại đi về hướng đúng. trong các bế tắc, lạc hướng mà nhân loại đã và đang trải qua, có những cái có thể sữa chữa được, có những cái phải đập bỏ đi để mở đường cho nhân loại tiến về phía trước. ai sẽ làm, làm khi nào và làm thế nào ? Ðó là các câu hỏi mấu chốt hiện nay. Ðể trả lời, chúng ta cần phải trở lại với các nan đề của thế giới hiện nay. “kinh cựu Ước” có nói chuyện ông adam và bà eva sau khi ăn trái cấm thì biết hổ thẹn về sự trần truồng của mình. phải chăng “trái cấm” mà “cựu Ước” nói ở đây là bước khởi đầu của ý thức làm người để thành người. nhưng thượng Ðế cũng nói: “từ nay, các ngươi phải tự lo liệu lấy cho chính bản thân các ngươi”. Đến nay chưa ai rõ được là loài người đã xuất hiện trên hành tinh này bao lâu. nhưng chắc chắn con người có trước khi “kinh cựu ước” ra đời trên hành tinh này ít nhất hàng trăm ngàn năm. như vậy đoạn văn trên trong “kinh thánh” được các nhà hiền triết thời xưa viết ra khoảng 2000 năm qua đã khuyên con người nên ý thức và hiểu được ý niệm làm người, phải chiến đấu với thiên nhiên để sinh tồn. nghĩa là: loài người từ khi xuất hiện trên quả đất này phải đấu tranh với thiên nhiên và với sinh động vật (thậm chí cả đồng loại) để dành sự sống cho chính bản thân mình. như thế, nói chung, đấu tranh với ý thức là thuộc về bản năng của con người. vì có ý thức, con người mới tiếp thu được kinh nghiệm, hệ thống hoá các kinh nghiệm ấy truyền lại cho các đời sau, để các đời sau học cách tiến lên và làm chủ đời mình. nói một cách khác thì: “loài người là một thể thống nhất được sinh ra từ lưỡng cực (âm và dương) và từ khi đã ý thức mình “là người” thì con người phải tranh đấu để sống đúng nghĩa một con người, để có thể trở “thành người” viên mãn hơn và duy nhất chỉ có một loài người”.

(nhưng mới đây các nhà khoa học đã tiết lộ cho chúng ta biết rằng: “các hành tinh khác cũng có loài người như trái đất chúng ta đang ở”. xin tìm xem bản tường trình của cơ quan nasa hoa kỳ vào tháng 8 năm 1986, đại khái họ tiết lộ rằng: phi thuyền voyager 2 được phóng ra vũ trụ vào năm 1977, nhưng phải mất gần 10 năm sau phi thuyền voyager2 mới đến nơi và phải gần 20 năm sau (năm 2005 này) thì tài liệu nói trên mới được bạch hóa, vì lẽ đó nên trong chốn riêng tư “ai đó” đã tiết lộ những tài liệu bằng hình ảnh về không gian và “có lẽ” giáo hoàng đã tận mắt nhìn thấy, vì thế trong chuyến công du hoa kỳ trước đây, giáo hoàng john paul ii mới mạnh mẽ tuyên bố rằng: “thiên đường, địa ngục [{trong kinh thánh}] không có thật mà chỉ có trong tâm khảm của con người”. nói cho rõ ràng là: giáo hoàng john paul ii đã chính thức tuyên bố rằng những điều trong kinh thánh không có thật). như thế từ lưỡng cực (“một cặp Âm dương sinh ra con người và muôn vật”) đến các công xã nguyên thủy thì loài người phải tốn biết bao trăm ngàn năm ? các công xã nguyên thủy là nền tảng ban sơ của xã hội loài người dựa trên một cặp kiểu Âm dương hay nói theo người việt chúng ta là cha rồng mẹ tiên lấy nhau (sự tích “rồng tiên”, lạc long quân và Âu cơ của bách việt) mà sinh sôi nảy nở ra con cháu sau này. vậy sự hợp nhất trên căn bản gia đình là nền tảng làm thành xã hội loài người. gia đình ấy vì cùng chung huyết thống nên dễ dàng hợp sức với nhau, nương tựa nhau mà sống, mà chiến đấu với thiên nhiên, với đồng loại (tức là các công xã nguyên thủy khác). Ở trình độ này, các thành viên trong công xã không có quyền tư hữu, quyền ấy thuộc về toàn thể thành viên trong công xã. mặc dù các công xã chiến đấu với nhau nhằm dành sự sống, khi đã tiến bộ hơn lên, họ phải nghĩ đến việc định canh định cư, việc này đòi hỏi các công xã phải hợp nhất với nhau, thường là hợp nhất thông qua bạo lực mà trật tự, lề luật được định bởi công xã nào có đông người hơn, mạnh hơn, giỏi hơn để hình thành các công xã lớn hơn, quy mô hơn so với công xã nguyên thủy. một công xã đông người hơn thể hiện qua việc công xã ấy chiếm hữu được khu canh tác lớn hơn, tốt hơn, nhưng nó cũng còn cho thấy công xã ấy sản sinh ra được nhiều người khỏe hơn, thông minh hơn để đủ sức áp đặt trật tự của mình trên các công xã yếu kém khác nhằm hình thành một hình thức cao hơn cho công xã nguyên thủy. tiến trình này xảy ra trong bao lâu, nhân loại chưa hiểu rõ được. lúc đó chưa có một kiểu chính quyền rõ rệt nào cả, cũng chưa có quyền tư hữu. các quyết định chính yếu được thực hiện bởi các bô lão trong công xã, vì các vị này có kinh nghiệm về thời tiết, thiên nhiên và môi trường sống hơn. vì lo tranh sống với thiên nhiên, thú dữ và đồng loại từng ngày, từng giờ cho nên suy nghĩ về tâm linh của con người còn rất đơn sơ. cách sống ấy không thay đổi cho đến khi con người biết định canh định cư, cuộc sống bắt đầu khá hơn, có thêm thời giờ nhàn hạ hơn, do vậy có điều kiện tìm hiểu một cách khách quan, tập trung hơn về thiên nhiên và kiếp người. từ đó con người bắt đầu biết suy nghĩ về tâm linh rồi đặt ra các vấn nạn tâm linh: “ con người từ đâu đến ? con người sống để làm gì và chết thì sẽ đi đâu ?”. nhiều ngàn năm qua câu hỏi trên đã làm điên đầu các nhà thần học đến nay vẫn còn có nhiều lối giải thích mù mờ. (nhưng chúng ta hãy chờ xem trong một thời gian ngắn nữa câu hỏi trên có lẽ sẽ được giải thích rõ ràng và chính xác hơn).

từ những lời giải thích mù mờ của các nhà “thần học”, tôn giáo được hình thành nhằm cố giải thích “những điều họ không thể giải thích được” ấy (tôn giáo mà ta nói ở đây là theo nghĩa tổng quát nhất của từ ngữ này), rồi chính quyền được thành lập, cũng từ đó một hình thức manh nha nào đó của quyền tư hữu được hình thành để củng cố sức mạnh của cộng đồng nói chung nhưng đồng thời cũng tạo ra các tiền căn của các bước nhảy vọt kế tiếp trong lịch sử nhân loại. dĩ nhiên trong quá trình dài lâu của tiến trình hợp nhất, các công xã cũng từng bước hợp nhất kinh nghiệm của nhiều chủng tộc rời rạc khác nhau làm phong phú thêm về ngôn ngữ, chữ viết, suy nghĩ, cách sống, giao tiếp giữa các chủng tộc khác nhau để đóng góp vào việc gia tăng dân số của các cộng đồng. việc gia tăng dân số là rất quan trọng với các xã hội nông nghiệp. nhưng nó cũng thể hiện sức mạnh để xâm lăng, chiếm đoạt và đồng hóa các chủng tộc lân bang yếu hơn nhằm hình thành các cộng đồng lớn hơn nữa trước khi hình thành một chính quyền mang tính tổng hợp sức mạnh của tập thể. ta hãy lấy lịch sử thời thượng cổ ở Á châu làm gốc để ước tính: nếu nền văn minh lúa nước xuất hiện đầu tiên ở Ðông nam Á, cho dù bởi những người từ vùng pamir tràn xuống vùng châu thổ bắc việt và nam trung hoa ngày nay, hay từ lục địa phi châu tràn tới khi trái đất hãy còn trong thời kỳ băng hà với hai khối băng khổng lồ bao phủ toàn vùng nam và bắc bán cầu, thì thử hỏi con người có thể sống được ở bắc Âu, Ả-rập, tây nam Á hay siberia được không ? lúc đó băng giá bao phủ hầu hết địa cầu, trừ một vài vùng nắng ấm dọc theo xích đạo. khi đó, các quần đảo ở indonesia, phi luật tân, người ta có thể đi lại bằng đường bộ vì nước biển rút hết lên hai cực (đóng băng) của trái đất rồi. khi dân số tăng lên, quá trình biến đổi của vũ trụ làm cho băng giá tan nhanh để biến các khu vực lạnh giá khi xưa thành các vùng có thể cư trú được, nên con người mới thiên di mà cụ thể nhất là người aryan từ vùng afghanistan ngày nay di cư theo hai hướng một là xuống phương nam để hình thành nhóm aryan Ấn Ðộ ngày nay, nhóm hai là hướng về phía tây để đi đến Âu châu bây giờ. trong quá trình di chuyển ấy, một bộ phận người aryan lại lai giống với người châu phi tràn tới làm cho một vùng rộng lớn từ trung Ðông tới Ấn Ðộ có nước da ngăm (đen cộng trắng). trong khi đó người Á châu bách việt vì vướn dãy hy mã lạp sơn nên không thể di chuyển về hướng tây nên văn minh bách việt dù huy hoàng trong thời cổ đại, nhưng đã bị khựng lại. nhưng một số tinh túy của nền văn minh bách việt đã đi đến được các vùng Ấn Ðộ, sumeria, lưỡng hà để mở đường cho tiến trình phát triển của nhân loại sau này, mà hướng chính là đi về phía tây nhằm hình thành các trung tâm văn minh lưỡng hà, hy lạp, la mã như ta đã thấy. quan sát nền văn minh nhân loại trong thời tối cổ cho ta thấy: có di chuyển, có giao thoa thì mới có tiến bộ và việc xây dựng xã hội trên các vùng đất mới sẽ tạo ra các bước bức phá lớn trong quá trình phát triển của loài người. nhận định này được thể hiện rất rõ ràng khi văn minh phương tây di chuyển tới vùng đất mới là bắc mỹ và càng được chứng tỏ hơn nữa khi quan sát xã hội Âu châu cổ đại, ta không thấy các tàn tích của tình trạng bộ tộc công xã nguyên thủy hiện diện ở đấy (không kể vùng nam Âu châu tiếp giáp với Ðịa trung hải, nơi mà một vài hang động được khám phá ra mới đây có chứa một số tàn tích này). Ðiều này tự nó giải thích được thời kỳ băng hà lúc băng hà bao phủ hầu hết địa cầu làm cho vùng Ðịa trung hải ngày xưa như là một cái hồ lớn để người châu phi có thể di chuyển đến vùng hang động niềm nam nước pháp hay nam bán đảo iberia (tây ban nha và bồ Ðào nha ngày nay).

cũng từ sự quan sát nghiêm túc lịch trình hình thành các nhà nước thuộc nền văn minh trên trái đất này, ta thấy: lịch sử nước tàu thời cổ đại đi lên đến hoàng Ðế, tức là niên đại chưa đến 5000 năm. nếu kể thời kỳ tranh chấp giữa hán - di - việt, thì thời kỳ ấy cũng chưa đến 10000 năm. các triều đại sau hoàng Ðế (nhà ngu, hạ, thương, chu) thì cấu trúc xã hội tàu ra sao ? (xin tìm đọc bộ “trung hoa triết học sử cương” của bác sĩ sử gia hồ thích, đây là bộ sách nghiên cứu sử học trung hoa đứng đắn nhất từ trước đến nay. Đại khái sử gia hồ thích nói rằng: “từ thời chư tử cổ Đại tức là trước thời nhà chu gần 2000 năm, thì người trung hoa hiện nay không có sử liệu, còn từ thời nhà chu trở đi thì các sử liệu ấy chỉ có 1 phần 10 là có thể tin được, các sử gia trung hoa viết sử nhưng không đi tìm sử liệu, các sách thần thoại họ cũng dùng làm sử liệu thì không thể tin được. nếu sử liệu không thể tin được, thì làm sử bằng các sử liệu ấy là thứ lịch sử không đáng tin, vô giá trị vậy”. triết gia hàn phi tử trong bộ “hiển học thiên” còn nặng lời hơn với giới sử gia của trung hoa, ông nói: “vô tham nghiệm nhi tất chi giả, ngu dã”, nghĩa là: viết sử mà không tham bác và xét nghiệm nhưng nhất định cho là phải, như thế là bọn ngu. và ông cũng nói rằng: “tham nghiệm tức là nói có chứng cứ, vậy chứng cứ về khảo cổ học văn hóa cổ sử của trung hoa về trước thời Đông chu, thì chỉ còn có được một thái độ hoài nghi. vì các chứng cứ văn hóa cổ đại của trung hoa đều căn cứ vào bộ sách thượng thư và thác cổ, song các bộ sách ấy đều của nho gia làm ra, nó đều không có giá trị sử liệu văn hóa về thời cổ đại của trung hoa”. mạnh tử một triết gia nổi tiếng của trung hoa luôn tôn sùng khổng tử, nhưng ông vẫn nghi ngờ về các sách vở của khổng tử, mạnh tử nói: “tận tín khổng thư tắc bất như vô thư”, nghĩa là nếu hoàn toàn tin vào sách vở của khổng tử thì tốt hơn đừng tin. chúng ta nên nhớ các vị triết gia trên đây đều là người trung hoa cả). còn sự giải thích sau này của người tàu thì tạm giải thích như sau: tam hoàng, ngũ Ðế bên tàu lúc đó tuy đại diện cho chính quyền trung ương nhưng nền tảng xã hội tàu lúc đó là bách việt, còn hán tộc thì đang học hỏi nhằm thích nghi với một chủng tộc (bách việt) có nền văn minh cao hơn hán tộc, để đến thời kỳ sau nhà chu mới xuất hiện một khổng tử giải thích tính chính danh cho nhà vua là “thế thiên hành đạo”. chính ý tưởng này, chính vì coi vua là “con trời” cho nên xã hội Ðông phương mới ì ra một chỗ. trong khi đó thì hướng tiến lên của văn minh nhân loại tiếp tục đi về hướng tây nhằm hình thành các nhà nước ai cập, hy lạp, la mã. cả phương tây lẫn Ả-rập bị mê hoặc bởi Ðông phương huyền bí. Ðông phương huyền bí không hẳn là các thầy fakir Ấn Ðộ hay các thiền sư tây tạng mà trong chỗ sâu thẳm nhất của tâm hồn họ. “huyền bí Ðông phương ẩn tàng một cái gì đó rất cao siêu mà phương tây lẫn Ả-rập chưa thể với tới được”. Ðiều này giải thích cuộc trường chinh của alexander macedonia 23 thế kỷ trước. “huyền bí Ðông phương chính là văn minh bách việt”. xã hội Ðông phương cổ được lập căn trên sự mở rộng các khái niệm về công xã nguyên thủy khi mà của cải vật chất và tinh thần là tài sản chung của công xã nên tuy xã hội ổn định nhưng tiến bộ chậm, cá nhân giữ một vai trò khiêm nhường trong trật tự xã hội ấy. vì vậy, ta không ngạc nhiên khi quan sát xã hội Á châu, ta không thấy chế độ nô lệ và cũng không có lãnh chúa (chúa đất) như thời phong kiến ở Âu châu (nhật bản là xã hội đặc thù khác trong xã hội Á châu, vì đó là văn hóa, văn minh hải đảo) xã hội trung Ðông như là gạch nối giữa xã hội Ðông phương và tây phương, cho nên xã hội tây phương tự nó mang tính đấu tranh tích cực với thiên nhiên và con người ở mức độ cao hơn. Ðiều này thúc đẩy xã hội loài người tiến bộ mau hơn, thúc đẩy quá trình hợp

nhất nhân loại mau chóng hơn nhưng cũng gây ra nhiều hiềm khích hơn giữa con người với nhau. Ðỉnh cao của cuộc tranh chấp dành quyền thống trị vùng Ðịa trung hải và cũng là giữa hai giá trị tinh thần thiên chúa giáo la mã và hồi giáo trung Ðông là thời kỳ hơn một thế kỷ thánh chiến. trên chiến trường khi thắng bại bất phân thì đã dẫn đến việc củng cố các nhà nước phong kiến ở Âu châu, để từng bước một, các nhà nước phong kiến Âu châu đã biết trưng dụng của cải vật chất và tinh thần để khai phá các vùng hoang vu của thế giới thông qua các hiểu biết về hàng hải, khiến Âu châu phong kiến có thể bỏ qua vùng trung cận Ðông tiến thẳng đến phương Ðông huyền bí bằng hai hướng qua thái bình dương và nam Ðại tây dương để xâm lăng vùng tiểu lục địa Ấn-hồi và sau đó là Á châu thái bình dương nhằm hình thành điều mà ta gọi là chủ nghĩa thực dân phương tây. vào ba thế kỷ 16, 17 và 18 khi các nhà truyền giáo phương tây (giai đoạn này người tây ban nha và bồ Ðào nha nắm vai chính yếu khi giáo hoàng ở la mã chia thế giới cho hai quốc gia nhỏ bé này vì họ có công đánh bại quân mông cổ) đến rao giảng đạo thiên chúa giáo (công giáo) ở khắp nơi từ trung hoa, việt nam, Ðại hàn, nhật bản, Ấn Ðộ, .v.v… thì họ không nghĩ rằng họ đã góp sức cho chủ nghĩa thực dân bành trướng vào thế kỷ 19. chủ nghĩa thực dân do nhiều yếu tố kết hợp lại: từ sự chậm tiến về phương diện vật chất của phương Ðông đến việc Âu châu cần nguyên liệu, sức lao động và đất đai của các vùng này. lúc đó, việc phát triển đạo thiên chúa giáo ngày càng trở nên không còn là yếu tố chính để biện minh cho việc thôn tính các quốc gia khác nữa. vì thực tế, giáo hoàng ở la mã không còn mấy quyền hành đối với các chính quyền ở Âu châu sau cuộc cải cách thanh giáo được thực hiện ở anh, Ðức và cuộc cách mạng dân quyền 1789 ở pháp, cũng như sau nhiều học thuyết khác nhau được hình thành trong các thế kỷ 17,18,19 giúp Âu châu hiểu hơn về thế giới. nhưng ý đồ của Âu châu cho đến thế chiến ii thực ra không rõ ràng gì cả. rồi giữa họ với nhau lại đầy mâu thuẫn, họ như những con thú cùng tranh nhau một miếng mồi, cứ y như thế giới này là của riêng họ từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên đến con người. cuối cùng thì bế tắc chồng chất lên bế tắc khiến Âu châu mất quyền lãnh đạo thế giới về tay hoa kỳ. hoa kỳ mặc dù cũng tuân thủ theo những các truyền thống Âu châu nhưng có đủ thời gian tĩnh tâm, lên kế sách lâu dài trong việc thu hút các tinh hoa của cả Âu châu lẫn Á châu để hình thành nước mỹ và đưa nước mỹ đến vai trò thống nhất nhân loại một cách thực tế. Ðể làm được việc này, ta cần xem xét lại tình hình thế giới trong thế kỷ trước (thế kỷ 20) rồi từ đó đưa ra các dự kiến cho thế kỷ 21 này. Âu châu cổ khi xâm chiếm các thuộc địa chỉ nhằm củng cố vai trò của từng quốc gia Âu châu riêng lẻ trong điều kiện mà các mâu thuẫn giữa họ với nhau vẫn hiển hiện từ hơn 6 thế kỷ trước đó mà không hề có bất cứ cải tiến nào. xã hội Âu châu cổ vào thế kỷ 19 vẫn là các cấu trúc xã hội còn rất giống với xã hội Âu châu vào cuối thế kỷ 13 sau khi quân mông cổ xâm lăng thế giới. vào thời điểm ấy, biên giới các quốc gia Âu châu đã được định hình gần giống như ngày hôm nay rồi. trong khi mâu thuẫn giữa dân chúng trong từng quốc gia Âu châu không hề được giải quyết đến nơi đến chốn. xã hội Âu châu vào thời kỳ thực dân cho đến thế chiến ii là tiêu biểu cho một xã hội “laisser-faire”, trong đó các cấu trúc xã hội quá cổ nên không thể thích nghi được với thế giới khi cao trào đấu tranh dành quyền sống tại các quốc gia bị trị ngày càng mạnh mẽ hơn và mâu thuẫn giữa

các quốc gia Âu châu ngày càng trở nên gay gắt hơn. vì thế, sự tan rã của Âu châu cổ là tất yếu của lịch sử. nó đã được báo hiệu ngay từ đầu thế kỷ 20 qua thế chiến i và thực sự tan rã vào thế chiến ii khi phe trục (Ðức-Ý-nhật) phát động chiến tranh. thế chiến ii chấm dứt đã đặt thế giới vào một tình huống hoàn toàn mới. một loạt các quốc gia mới được hình thành mà không hề được chuẩn bị cách thích ứng với tình thế mới và sự khó khăn cho các quốc gia này được gia tăng gấp bội khi chủ nghĩa cộng sản cũng ứng dụng biện pháp huy động tổng hợp sức mạnh thông qua bạo lực nhằm thống nhất thế giới dưới một ngọn cờ chung do nga sô điều động. như thế, nếu so sánh với chủ nghĩa quốc xã và quân phiệt trong thế chiến ii thì cao trào cộng sản quốc tế làm cho tình hình thế giới sau thế chiến ii nguy hiểm hơn rất nhiều vì vũ khí nguyên tử nay đã được phổ biến rộng rãi. kế đó, không có gì có thể kềm hãm tinh thần quốc gia cực đoan chắc chắn sẽ xuất hiện trong số các quốc gia tiêu biểu cho các nền văn minh cũ (thí dụ nga, tàu), nay cũng muốn nhân cơ hội chủ nghĩa thực dân bị cáo chung, lại cũng muốn nổi lên tước đoạt ngọn cờ lãnh đạo thế giới. như thế, giải quyết các vấn đề của thế giới sau thế chiến ii sẽ hoàn toàn không đơn giản chỉ là sử dụng sức mạnh kỹ thuật và kinh tế để đoạt chiến thắng được. tình hình này đòi hỏi rất nhiều kế sách khác nhau (nhiều khi mâu thuẫn nhau nữa) mà còn phải tính trên đường dài hàng nhiều chục năm, đồng thời phải cân nhắc rất cẩn trọng về các ưu tiên, chỉ sơ sểnh một chút cũng có thể làm cho toàn bộ kế hoạch bị đổ vỡ và nhân loại phải đối diện với sự tan rã toàn diện. cho nên, sau thế chiến ii, hoa kỳ quyết tâm dồn mọi nỗ lực vào việc đánh sập chủ nghĩa cộng sản ở liên xô là trước hết, sau đó mới dồn nỗ lực để ổn định thế giới vì đối với các quốc gia cựu thuộc địa muốn nổi lên thao túng thế giới thì hoa kỳ đủ sức đập tan các thế lực ấy để đặt thế giới vào trật tự chung mà vào thời điểm sau 1945 thường được gọi là pax americana, tức là trật tự mỹ. nhưng bây giờ, chúng ta cần tìm hiểu xem hoa kỳ đã hành động như thế nào trước đà tan rã của Âu châu cổ và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản trên quy mô toàn cầu và các hệ lụy sau đó khi các thế lực mới muốn nổi lên để tìm kiếm sự thống trị thế giới theo cách của mình. i) hoa kỳ trước Ðà tan rã của Âu châu cổ. thế chiến i đánh dấu cuộc khủng hoảng của toàn Âu châu về đủ mọi mặt khi chủ nghĩa thực dân đang đi vào bế tắc toàn diện. các quốc gia Áo - phổ (Ðức ngày nay) đang nổi lên đòi hỏi hai thế lực thù địch chính là anh - pháp phải nhượng bộ về thuộc địa cũng như về hệ thống cung cấp than đá cho các tàu thuyền của họ đi lại trên biển khơi. thiếu hệ thống cung cấp này, nền kinh tế của các quốc gia ấy không thể phát triển được, xã hội các quốc ấy sẽ đi vào suy thoái và dễ dàng bị anh-pháp khống chế. thế chiến i nổ ra là vì vậy. vào thời điểm nổ ra thế chiến i, xã hội hoa kỳ đang vươn lên thành một nền kinh tế lớn nhất toàn cầu chỉ sau 50 năm sau của cuộc “nội chiến”. chỉ sản lượng thép do dale carnegie sản xuất cũng đã hơn tổng sản lượng thép của cả Âu châu cộng lại, riêng dầu hỏa là năng lượng của tương lai thì đã nằm trong tay của rockefeller, cuba và phi luật tân nằm trong tay của hoa kỳ. hoa kỳ nắm chặt phi luật tân để chuẩn bị cho mặt trận thái bình dương vì hoa kỳ hiểu rằng nơi này sẽ là vùng đầy sóng gió trong tương lai và cũng là thị trường rất to lớn đối với thế giới. nhưng xã hội hoa kỳ không sẵn sàng can thiệp vào Âu châu, mặc dù Ðức hoàng wilhelm muốn hoa kỳ làm việc này tức là đóng vai trò trung gian hòa giải giữa Áo - phổ với anh - pháp. chiến tranh nổ ra là tất yếu vì chỉ có nó mới

làm suy yếu Âu châu cổ mà thôi. hoa kỳ hiểu rằng không có cách nào khác làm tan rã Âu châu ngoài việc từng bước một làm tan rã Âu châu cổ bằng cách này hay cách khác (mà cách nhanh nhất là chiến tranh) để xây dựng lại một Âu châu mới nhằm hoá giải các mâu thuẫn đã tồn đọng lại hàng ngàn lịch sử của cựu lục địa này. sự can thiệp của hoa kỳ vào giai đọan cuối của thế chiến i chỉ đem lại cho Âu châu cổ một thời kỳ hưu chiến ngắn ngủi giữa hai thế lực tương tranh (anh-pháp với Áo-phổ) mặc dù sau thế chiến i, một tổ chức được gọi là hội quốc liên đã được đề nghị thành lập như là một diễn đàn chung của các quốc gia Âu châu, nhưng khi thế giới “đang chuyển mình mạnh mẽ” thì một diễn đàn chung cho Âu châu - nơi mà các mâu thuẫn vẫn tồn tại, thì liệu người ta có thể làm gì được để ổn định Âu châu ? hoa kỳ đứng ngoài các toan tính này mặc dù tổng thống mỹ lúc đó là woodrow wilson nhiệt tình ủng hộ. thế chiến i cũng đánh dấu việc hình thành một thế lực mới đang ra sức can thiệp vào Âu châu (lúc mà Âu châu đang yếu đi vì chiến tranh), đó là việc thành lập nhà nước cộng sản do lennin lãnh đạo, đang nêu cao chủ nghĩa cộng sản do karl marx đề xướng nhằm mục tiêu tối hậu là thống nhất các thuộc địa của Âu châu để thực hiện ý đồ bành trướng kiểu Ðại nga, đánh bại chủ nghĩa tư bản phương tây. thời kỳ hưu chiến giữa các quốc gia Âu châu kéo dài chẳng được bao lâu, chỉ vọn vẹn có 21 năm (1918-1939) thì một lần nữa cũng lại Ðức chủ mưu cùng với sự tham gia của nhật và Ý để phát động thế chiến ii, mà về thực chất thì lý do duy nhất vẫn là tranh chấp về việc xâm lăng thuộc địa và tài nguyên thiên nhiên. hoa kỳ thấy rõ hiểm nguy trước việc chủ nghĩa cộng sản đang bành trướng, có khả năng làm đảo lộn mọi toan tính của mình và làm tan rã nền văn minh nhân loại. nhưng hoa kỳ cũng thấy đây là cơ hội để thống nhất Âu châu, khi Âu châu đã chín mùi cho sự tan rã toàn diện để từng bước đặt nền tảng cho việc xây dựng lại một Âu châu mới. trong 21 năm hưu chiến ngắn ngủi ở Âu châu, khi mà thị trường thế giới bị xé lẻ ra và bị quan tỏa bởi các thế lực thực dân Âu châu thì nền kinh tế mỹ đã đi được các bước phát triển mới với khả năng sản xuất ngày càng gia tăng. mặc dù thị trường nội địa của hoa kỳ cũng đã gia tăng nhiều trong thời gian ấy nhờ vào các lực lượng di dân từ Âu châu kéo vào hoa kỳ vì họ chán nản sự nghèo khổ cũng như với sự trì trệ ở Âu châu, nhưng chính vì hàng hóa dư thừa đã dẫn đến cuộc. Ðại khủng hoảng năm 1930 làm cho nền kinh tế hoa kỳ bị ảnh hưởng trầm trọng, xã hội mỹ phải đối diện với một thách đố lớn lao. xem xét tình trạng xã hội mỹ vào thời Ðại khủng hoảng năm 1930 cho ta thấy: 1) về mặt xã hội thì cách biệt giàu nghèo quá lớn, kế đến thị trường nội địa trong nước chưa được quan tâm đúng mức để khuyến khích tiêu thụ trong điều kiện sản lượng được gia tăng trên quy mô lớn (phương pháp sản xuất dây chuyền taylor là một thí dụ điển hình). 2) chính quyền liên bang và tiểu bang vẫn còn mang một hình thái nào đó của chủ nghĩa “laisser fair” đối với số di dân mới tới từ Âu châu cũng như như với thiểu số da đen tại mỹ. 3) thị trường thế giới bị khoanh vùng nghiêm ngặt đã làm cho các sản phẩm của mỹ ít có cơ hội xâm nhập

4) cơn đói về nguyên liệu tất yếu sẽ dẫn đến chiến tranh giữa các quốc gia thiếu thuộc địa và các quốc gia nhiều thuộc địa 5) chủ nghĩa cộng sản sẽ là mối đe dọa thật sự với Âu châu về lâu về dài. từ các nhận định mang tính cơ bản vừa nêu, các nhóm ảnh hưởng ở mỹ được lãnh đạo bởi những người như dale carnegie, rockefeller, j. p. morgan, averell harriman, franklin d. roosevelt và nhiều chính khách tên tuổi khác đã đi đến một thoả thuận có tính cơ bản gồm các đường lối chính yếu sau đây: 1) cần giải quyết thoả đáng các mâu thuẫn trong lòng nước mỹ, đặc biệt là về vấn đề quyền lợi lao động giữa chủ và thợ theo đúng tinh thần bản hiến pháp năm 1776 của hoa kỳ qua việc củng cố vai trò của chính quyền liên bang, gia tăng công chi để tạo thêm sức tiêu thụ trong thị trường nội địa hầu khôi phục lại sản xuất. các cơ sở sản xuất phải được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của chính quyền hầu tránh tối đa các bất trắc như đã từng xảy ra (Ðại khủng hoảng năm 1930) 2) cần chuẩn bị tối đa về mặt an ninh cũng như kinh tế xã hội để hoa kỳ sẵn sàng tham chiến trên quy mô toàn cầu khi tình hình đòi hỏi, trong đó vào thập niên 1930, nhật bản đang trở thành thế lực đe dọa an ninh của nước mỹ và liên xô đang trở thành thế lực muốn chi phối toàn cầu (ở Ðức thì hitler đã nổi lên nắm chính quyền rồi). do đó, ta không ngạc nhiên khi tổ chức mafia ở mỹ bị tiêu diệt không khoan nhượng vào thời điểm đó. 3) cách tốt nhất để hoá giải các mâu thuẫn giữa các quốc gia là dựa vào nguyên tắc “bỏ chung vô một rổ để tính toán”. nó có nghĩa là sau khi chiến tranh kết thúc thì các quốc gia đã từng mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế, an ninh, dưới sự giúp đỡ của mỹ, đều phải ngồi lại dưới một diễn đàn chung để tương nhượng nhau về các vấn đề gây chia rẽ dựa trên nguyên tắc về “một thị trường chung” trên qui mô toàn cầu. từ các nhận định căn bản ấy cho nên kế hoạch new deal (nghĩa là thoả hiệp mới) được franklin d. roosevelt đem ra trưng cầu dân ý thông qua bầu cử để ông roosevelt tiến vào toà bạch Ốc với một chương trình rất cụ thể và một mục tiêu rất rõ ràng. do thế, hoa kỳ đã ngồi nhìn hitler tái vũ trang, nhìn nhật bản thôn tính mãn châu (trung quốc), rồi thương thuyết lấy lệ với quân phiệt nhật về vụ cấm vận dầu hỏa. trong khi đó hoa kỳ lại chuẩn bị các kế hoạch nhằm bắt tay với staline, vì người mỹ biết rằng vào một ngày xấu trời nào đó, hoa kỳ sẽ cần liên xô trong cuộc chiến ở Âu châu nhằm làm suy yếu lực lượng Ðức quốc xã tại Âu châu. thế chiến ii kết thúc đã đặt hoa kỳ vào một tình thế hoàn toàn mới mẻ, người mỹ không thể trở về với học thuyết monroe (tổng thống thứ 5 của mỹ là james monroe, ông đưa ra chủ trương châu mỹ của người mỹ), do đó họ không còn chọn lựa nào khác ngoài việc nhận lãnh lấy sứ mạng lãnh đạo thế giới trong một cuộc chiến mới nhằm đánh bại chủ nghĩa cộng sản trên quy mô toàn cầu và sau đó là các thế lực mới nổi lên nhằm dành quyền thống trị thế giới. các thế lực này cũng hung hãn chẳng kém gì chế độ cộng sản của liên xô. bản chất của cuộc chiến tranh thế giới sau Ðệ nhị thế chiến đã thay đổi một cách sâu rộng, trong đó vũ khí, sức mạnh kinh tế không phải là công cụ tối hậu có thể đánh bại kẻ

thù (của nhân loại). việc chiếm đóng không làm cho an ninh của mỹ và thế giới trở thành tốt đẹp hơn. thuyết phục thông qua việc làm thay đổi tương quan lực lượng về mọi mặt giữa hoa kỳ với liên xô là con đường tốt nhất để thúc đẩy liên xô từ bỏ tham vọng bành trướng của mình. khi liên xô (vỡ mộng Đại nga) đồng ý từ bỏ tham vọng bành trướng, thì tất cả các thứ khác đều có thể thương thuyết được để nước nga có thể đạt được vị trí thích đáng của nước nga trên bàn cờ thế giới. dĩ nhiên để đạt được mục đích làm tan rã liên xô, rất nhiều mưu kế khác nhau đã được thực hiện trong vòng hơn 45 năm của cuộc chiến tranh lạnh ấy. các mưu kế ấy nếu nhìn bề ngoài thì có vẻ rất mâu thuẫn nhau, nên nhiều người không biết chuyện cứ tưởng rằng hoa kỳ bất nhất, tráo trở. sự thực không phải vậy! chính nhờ các nghịch lý trong chiến tranh lạnh mà thế giới mới tránh được thảm họa bom nguyên tử luôn rình rập đe dọa toàn cầu trong thời gian vừa qua. hai nghịch lý chính yếu khác mà ta cần phải kể ra đây là: hồi giáo và trung cộng (tc). với tc: nếu de gaule, tổng thống nền Ðệ ngũ cộng hoà pháp chủ trương kéo Ấn Ðộ để đe dọa liên xô và tc thì hoa kỳ chủ trương khác hẳn (điều này cho thấy de gaule hẹp trí). hoa kỳ nghĩ rằng: Ấn độ thuộc khối không liên kết, nước Ấn không sẵn sàng lao vào các hành động mạo hiểm (xã hội Ấn bất ổn). nếu Ấn theo mỹ thì hẳn nhiên liên xô sẽ ra sức giúp tc (mà tc mới là đại địch thực sự của nhân loại), và lúc đó, các đồng minh Ả-rập của mỹ sẽ ngả theo liên xô như thế vùng dự trữ dầu hỏa thế giới là trung Ðông sẽ đi vào xáo trộn toàn diện. cho nên việc chọn con bài tc để thuyết phục tc ngả theo mỹ là ý đồ chiến lược chính yếu trong chiến tranh lạnh để đẩy liên xô đến chỗ phải chấp nhận thua cuộc. việc giải quyết vấn đề tc sau đó lại là chuyện khác. trong chiến tranh cũng như chính trị, ta phải lượng sức mình mà đánh, phải lượng sức đối phương mà ra tay. làm sao cho ta vừa đánh địch vừa xây dựng nền kinh tế của ta được vững mạnh hơn. khi đó ta mới có phương tiện để đánh tiếp hay có thể kéo dài chiến tranh mà không sợ bị kiệt sức đến độ phải đầu hàng, thua cuộc. Ðó là sự chọn lựa khôn ngoan và bài học để đời cho bất cứ ai lăm le muốn làm chính trị hay đúng hơn là muốn mở một xuất lộ cho thế giới. cho nên một nguyên lý để đời cho những ai muốn làm chính trị tới nơi tới chốn là: “balance of commitment and resources”, tức là phải biết quân bình giữa cam kết và tài nguyên. tc chủ trương bành trướng theo đúng truyền thống hán tộc. họ đủ thực tiễn để vòi vĩnh hoa kỳ đủ điều. hoa kỳ âm thầm đáp ứng để thử lòng nhau cho đến khi tc xác định quyết tâm đi với mỹ vào đầu năm 1969, thì rốt cuộc 20 năm sau thì liên xô tan rã là vậy. Ý đồ của mao trạch Ðông cũng chẳng tốt lành gì. Ðây chỉ là cái deal, mặc cả để tc có được những cái mà liên xô không dám cung cấp cho tc (kỹ thuật nguyên tử và hỏa tiễn), bao gồm thêm: một lời hứa hẹn về mở rộng thị trường mỹ cho hàng hoá tàu nhập cảng vô mỹ ào ạt, một chỗ đứng ở hội Ðồng bảo an liên hiệp quốc. Ðổi lại, tc chẳng mất gì cả ngoài việc giảm sự ủng hộ cho các cuộc chiến tranh du kích trong vùng Ðông nam Á (mà đang đi vào thế tàn lụi, ngoài cuộc chiến việt nam đang tăng cao). với thế giới hồi giáo thì họ hiểu là hoa kỳ đang rất bận tâm về cuộc chiến tranh lạnh, cả

thế giới đều cần dầu hỏa nên họ gia sức tăng giá dầu, nhưng không phải lấy lợi tức dầu hỏa để phục vụ cho dân chúng nước họ mà là để bành trướng hồi giáo ra khắp địa cầu, đặc biệt là vùng châu phi là nơi đang bị bỏ ngỏ trong một thời gian dài, rồi đem hồi giáo cực đoan để cấy vào trong lòng xã hội Âu-mỹ như là đạo quân thứ 5 (về tôn giáo). như thế, ý đồ của trung cộng (tc) và của các nhóm hồi giáo quá khích chả xa lạ gì với hoa kỳ, nhưng hoa kỳ đành làm ngơ vì vấn đề liên xô mới là ưu tiên hàng đầu cần phải giải quyết lúc đó. năm 1990, khi liên xô đang tan rã thì cũng trùng lúc đó, saddam hussein tung quân vào chiếm kuwait, khiến mỹ có cớ chính đáng để một mặt đánh bại và làm suy yếu saddam hussein, nhưng đồng thời cũng thử xem liên xô phản ứng như thế nào khi mỹ và đồng minh đổ quân ào ào vào vùng nhậy bén này. hoa kỳ không tiêu diệt saddam hussein ngay vì tình hình thế giới chưa chín mùi cho một giải pháp tối hậu ở trung Ðông. vả lại, tiến đến quá gần biên giới của nga thì cánh cựu cộng sản nga có thể có cớ để hồi sinh, và quan trọng hơn hết là sau 45 năm chiến tranh lạnh, hoa kỳ cần rút về để củng cố lực lượng quân sự, kinh tế, xã hội nhằm chuẩn bị cho trận đánh kế tiếp nhằm dứt khoát diệt trừ các hậu họa (tàu cộng, hồi giáo quá khích) cho toàn nhân loại. công cuộc chuẩn bị này đã được tổng thống bill clinton thực hiện khá chu đáo cùng với nhiều kế sách khác nhau kể cả việc tt clinton cố tình tỏ ra nhu nhược trước các vấn đề đối ngoại cũng như tạo ra các vụ tai tiếng về tình ái giả hiệu để cho hai kẻ thù của nhân loại là tàu cộng và hồi giáo quá khích qua đó, cứ tưởng là nước mỹ suy đồi, yếu kém để hai nhóm này hợp tác với nhau trong canh bài toàn diện nhằm hủy diệt nước mỹ, nô lệ hoá thế giới. khi nước mỹ bị hủy diệt thì thế giới sẽ nằm trong tay của chủ nghĩa bành trướng hán tộc và nhóm cực đoan hồi giáo. khi tt bush lên nắm quyền, mọi vấn đề của nước mỹ đã được chuẩn bị chu đáo cho nên các thế lực thù nghịch của nhân loại mới nghĩ là cần phải ra tay sớm, để lâu thì có thể các dự tính của chúng sẽ không thể thi hành được. cho nên vụ 9-11 năm 2001 mới nổ ra. hoa kỳ một lần nữa lại tham chiến với tất cả sức mạnh trong cuộc chiến tranh không khoan nhượng này nhằm đưa thế giới vào một trật tự mới trong đó không còn chiến tranh chủng tộc, tôn giáo, nghèo đói, bất công, đàn áp và con người sống hài hoà, thịnh vượng, tốt đẹp hơn. khi nhìn theo con mắt thông thường thì: hoa kỳ đã tỏ vẻ hiếu chiến, muốn suy tôn vai trò của nước mỹ như là một thế lực chính yếu, muốn áp đặt trật tự thế giới theo kiểu của mình. như vậy, có khác chi với chủ nghĩa thực dân hồi xưa không ? khi ta đặt vấn đề này trong bối cảnh an ninh toàn cầu thì mọi sự lại khác hẳn. phải chăng các nỗ lực của loài người từ xưa tới nay là tìm cách thống nhất nhau lại ? từ thủa khai thiên lập địa tới bây giờ, đã có biết bao nền văn minh từng có thời kỳ sáng chói rồi tự nhiên biến mất đi, chỉ còn để lại vài truyền thuyết mù mờ, hoặc một vài dấu tích rời rạc mà nền văn minh atlantis là còn được ghi nhớ nhất. phải chăng các nỗ lực của con người thuộc nền văn minh hiện nay chỉ là riêng của một dân tộc nào đó mà thôi. ví như trung cộng hiện nay tự nhận lấy quyền có thể làm mọi thứ kể cả cướp đoạt các tài sản chung của nhân loại ? loài người từ thời công xã nguyên thủy đến nay đã trải qua biết bao vật lộn đắng cay với

chính loài người với nhau và với thiên nhiên để tồn tại trong an hòa, sống một đời sống xứng đáng là con người hơn. Ðó là tiến trình “duy dân biện chứng” nhằm thống nhất loài người lại trong một thế giới có trật tự, kỷ cương, luật pháp nhằm chấm dứt hẳn nạn “cá lớn nuốt cá bé”. giúp xử dụng các tài nguyên thiên nhiên một cách khôn ngoan nhất để làm ra thật nhiều của cải vật chất và tinh thần cho toàn thể nhân loại nói chung, để loài người được sống viên mãn hơn. như thế những kẻ nào muốn nhân danh tín ngưỡng, tôn giáo hay chủng tộc hoặc muốn xử dụng sức mạnh về dân số (tàu cộng) đông đảo đang có mặt khắp mọi nơi trên thế giới, để thực hiện mưu đồ thống trị thế giới, thì đều là kẻ thù của nhân loại và cần bị đập tan mau chóng. cho nên, việc hủy diệt các ác thế lực, tăm tối đó thật là chính đáng. ai có thể làm việc diệt kẻ ác tới nơi tới chốn được nếu không phải là hoa kỳ ? truyền thống hơn 200 năm lập quốc của hoa kỳ đã đủ chứng tỏ rằng: 1) sứ mệnh của hoa kỳ là phải đón nhận những trách nhiệm cao cả trước nhân loại 2) xã hội hoa kỳ là một xã hội duy nhất có chủng mà không có tộc, nên gọi hiệp chủng quốc hoa kỳ là vậy, nơi đây, mọi sắc dân trên thế giới đều có thể tới sinh sống, có cơ hội làm ăn và phát triển một cách bình đẳng (thế nên nước mỹ mới được gọi là vùng Ðất của cơ hội, làm cho mọi người trên thế giới đều mong ước được tới mỹ sinh sống) trong khuôn khổ của hiến pháp cũng như luật pháp và cùng nhau thi hành trách nhiệm của mình với xã hội (bổn phận công dân với đất nước). cho nên xã hội này tự nó đã là xã hội “tiền duy dân” đáng làm mẫu mực để cả thế giới noi theo. 3) xã hội mỹ thực ra không phải được lãnh đạo bởi đám đông ô hợp, mà được lãnh đạo trong thực tế bởi một nhóm nhỏ có trí tuệ siêu quần, một tinh thần đạo đức gương mẫu, một tấm lòng vị tha với con người và coi việc quyết tâm phục vụ con người như là mục tiêu tối hậu. một ban lãnh đạo tốt đẹp như vậy chỉ nước mỹ mới có mà thôi. ngoài ra, muốn dẫn dắt nhân loại, anh phải biết trưng dụng của cải vật chất và tinh thần cách tốt nhất để san xẻ cho các quốc gia, các vùng nghèo khó hơn để họ được sống bình an hơn hiểu biết hơn. việc này, cũng chỉ có nước mỹ làm được mà thôi. 4) ngoài sức mạnh kinh tế, kỹ thuật, anh còn phải có sức mạnh quân sự và một khối kiến thức sâu rộng về mọi vùng khác nhau trên thế giới để vừa điều tiết được các mâu thuẫn do lịch sử hàng ngàn năm để lại, đồng thời lại biết xử dụng “chuyên chính dân chủ” khi cần thiết để làm cho các nước, các nhóm sống hài hoà với nhau trong một trật tự xã hội mới (tình hình iraq, afghanistan là tiêu biểu cho điểm này) như thế, chính nghĩa của hoa kỳ trong việc dẫn dắt nhân loại tiến vào thời đại nhân chủ không thể là từ sự cho phép của liên hiệp quốc (lhq) được. vì lhq chỉ là tập hợp gồm nhiều quốc gia mà phần lớn còn đang trong tình trạng chuyển hóa để tiến lên dân chủ (kể cả các quốc gia độc tài). chính nghĩa của hoa kỳ cũng không đi từ sự ban phép của bất cứ tôn giáo nào, vì mọi tôn giáo đều đang phải đối diện với sự thay đổi tận gốc rễ để thích nghi với thế giới mới mà nhân loại đang tiến vào, đó là xã hội nhân chủ pháp trị trên quy mô toàn cầu. như thế, chính nghĩa hoa kỳ nằm ngay trong lòng bản hiến pháp mỹ năm 1776 và nằm

trong các sự giải thích về học thuyết duy dân nhân chủ do cụ x.y. thái dịch lý Ðông a đã đề xướng ra cách đây 60 năm. ii) cực Ðoan hồi giáo - trung cộng là liên minh tội Ác chống nhân loại: thế giới không ngạc nhiên về liên minh “ác quỷ” này. một bên ỷ vào dân số 1 tỷ 3 người tại trung cộng và một lực lượng đông đảo người tàu hiện diện khắp nơi trên thế giới, như là đạo quân thứ 5 có khả năng khuynh loát các chính quyền địa phương nơi có người tàu cư trú đông đảo và nắm nguồn lợi kinh tế (vùng Ðông nam Á). bắc kinh tin tưởng là với mạng lưới tình báo hoa kiều của họ giăng mắc khắp nơi ở Ðông nam Á, họ có thể kiểm soát được vùng này và dùng vùng này như là một bàn đạp để thống trị thế giới, áp đặt trật tự kiểu tàu lên toàn nhân loại. bên kia lợi dụng hồi giáo với những tín điều cực đoan, mù quáng, cũng đã cấy vào nhiều nơi trên thế giới những kẻ hay tổ chức cuồng tín, sắt máu nhất để chống lại phương tây là trước mắt, sau đó là chống lại toàn thể nhân loại, chống lại các tôn giáo khác và nhất là chống lại những giá trị nhân bản của con người (như coi các tôn giáo khác là thù địch cần phải tiêu diệt, coi nhân phẩm phụ nữ chỉ là món đồ chơi, coi tự do chân chính của con người là trò ma quỷ, v.v..) bằng mọi hình thức như khủng bố nhằm hủy hoại các chính quyền hồi giáo ôn hòa tại nhiều quốc gia hồi giáo, đồng thời gây xáo trộn, bất ổn tại các quốc gia phương tây nơi có người hồi giáo sinh sống, nhất là tập trung phá hoại hoa kỳ, quốc gia mà nhóm hồi giáo quá khích này coi là biểu tượng lãnh đạo của các thế lực thù nghịch với hồi giáo. tuy bọn quá khích này chỉ là thiểu số nhỏ nhoi nhưng được sự tiếp tay của một số giáo sĩ hồi giáo quá khích và cuồng tín tại các quốc gia Ả-rập, bọn chúng một phần nào đó đã tạo ra được những bất ổn, gây khó khăn cho các chính quyền sở tại bằng việc chém giết, đặt bom giết người vô tội nhằm hủy diệt các suy nghĩ đúng đắn của dân chúng hồi giáo nói chung. nếu bọn chúng thành công trong việc áp đặt các suy nghĩ cực đoan kiểu này, thì 1 tỷ 3 dân hồi giáo khắp thế giới sẽ phải sống dưới ách cai trị hà khắc của chúng như nhóm taliban đã từng làm trước đây tại afghanistan. cả hai thế lực dã man, cực đoan và tăm tối này đều đã liên kết với nhau trong cùng một kế hoạch chung, vì họ có chung một mục tiêu ngắn hạn là: tiêu diệt mỹ và phương tây để đi tới việc thống trị thế giới theo cách suy nghĩ cực đoan của mình. nhưng cả hai đã bị trúng kế của mỹ trong thời kỳ ông tổng thống bill clinton, khi ông ta tỏ ra là hoa kỳ bị yếu kém về mặt ngoại giao lẫn quyết tâm khi phải can thiệp vào các vùng lộn xộn trên thế giới mà các bài học tại liban năm 1983 (mấy trăm lính mỹ tại toà đại sứ mỹ ở liban bị bọn khủng bố hồi giáo đặt bom giết chết), somalia năm 1993 (mỹ can thiệp vào sự lộn xộn tại quốc gia này, sau đó lại tháo chạy) là rất rõ. thêm vào đó, những cuốn sách nhỏ kiểu có tựa đề “in retrospect: the tragedy and lessons of vietnam” của ông mc namara cựu bộ trưởng quốc phòng mỹ đã chuyển đến cho trung cộng, việt cộng lẫn bắc hàn những tín hiệu sai lạc để cố tình đánh lạc hướng ý đồ chiến lược của hoa kỳ đối với thế giới. cho nên tc và al-qaeda ra sức xúc tiến vụ 9-11 năm 2001 tại nước mỹ (dĩ nhiên còn rất nhiều chuyện khác nữa). nhiều người nghĩ rằng: tại sao hoa kỳ biết rõ ý đồ của bắc kinh và nhóm cực đoan hồi giáo mà lại không ra tay trước để ngăn chặn ? thực ra thì mục đích là “phải để chúng ra tay trước thì mới cảnh tỉnh thế giới và dân mỹ được”, đồng thời mới có lý do chính đáng hình thành liên minh toàn cầu chống trục ác quỷ lớn. trước hiểm họa vô cùng lớn lao ngày nay của nhân loại, không một nhà lãnh đạo khôn ngoan nào lại dám cả gan dùng vũ

lực để hủy diệt một thiểu số độc tài nhưng lại gây ra cái chết cho hàng trăm triệu người vô tội cả, trừ trường hợp bất khả kháng mà thôi. quyết định vội vả một việc vô cùng quan trọng như vậy thì sẽ ảnh hưởng tới âm đức của dòng họ mình và cả đất nước mà mình đang lãnh đạo nữa. vậy những kẻ muốn lấy tội ác chồng lên tội ác thì hãy để chúng tự làm cái việc tự hủy diệt họ. nên sách xưa có câu: “nhân hữu thổ điền, nhữ phản hữu chi, bỉ nghi hữu tội, dân chi sở dục, thiên tất tòng chi”, nghĩa là “người ta có đất đai bây dùng bạo lực để đoạt lấy, bây là kẻ có tội, khi người dân đã định tội bây như vậy, thì trời cũng phải nghe theo”. bây giờ ta hãy xem trung cộng (tc) cấu kết với nhóm cực đoan hồi giáo như thế nào! Ðặc biệt xem coi tc dính líu như thế nào vào một loạt các tội ác có thể làm hủy diệt cả nhân loại ra sao: 1) tc âm thầm thôn tính các lân bang nhằm cố gắng đưa chiến tranh ra khỏi nước tàu càng xa càng tốt với hy vọng rằng: như trong chiến tranh lanh, hoa kỳ sẽ nhảy vào các quốc gia ấy để thực hiện kế bao vây tc, như thế hoa kỳ sẽ rơi vào bẫy sập của tc. khi đó bắc kinh sẽ trở lại với cuộc chiến tranh du kích nhằm làm tiêu hao lực lượng và ý chí của dân mỹ. 2) tc ra sức phổ biến vũ khí hạch nhân và hỏa tiễn (mà tc có được là do hoa kỳ cho, kể cả việc tc ăn cắp kỹ thuật này của nga và hoa kỳ) đến các quốc gia hồi giáo và các quốc gia côn đồ (vì dễ vận chuyển) nhằm tạo ảnh hưởng về mặt ngoại giao, chính trị và kinh tế hầu mở rộng liên minh ác quỷ, thậm chí lan rộng đến cả sân sau của mỹ là vùng châu mỹ la tinh. kế đến là khi thế giới đầy những nước côn đồ, thù mỹ và tây phương nhưng lại có bom nguyên tử thì mỹ phải tìm mọi cách đối phó cho nên không có thời giờ quan tâm tới sự bành trướng của tàu trong vùng Ðông nam Á và Á châu, mà mỹ còn phải tương nhượng nhiều quyền lợi trong vùng này cho tc để tc có thể yểm trợ mỹ trên một phương diện ngọai giao quốc tế nào đó (vụ vũ khí nguyên tử của bắc hàn là một thí dụ rõ rệt nhất trong những thủ đọan thâm độc này của tc). 3) tc xử dụng thặng dư mậu dịch với mỹ để củng cố sức mạnh quân sự (chứ không phục vụ cho mục tiêu dân sinh của người dân trung hoa) nhằm kiểm soát các vùng nhạy bén có trữ lượng dầu hỏa phong phú (chiếm giữ quần đảo hoàng sa và trường sa của việt nam, tranh chấp vùng biển có trữ lượng khí dầu hỏa và khí đốt với nhật bản) gần tc, sau đó là khắp vùng Ðông nam Á (giới cầm quyền trung cộng trong thập niên 1906’s đã cho viết lại sách vở trong các trường đại học để dạy giới sinh viên là: “việt nam là một tỉnh của trung hoa và gần đây trung cộng cho viết lại sách giáo khoa dạy cho giới trẻ tàu và giới trẻ người tàu trong vùng Ðông nam Á cũng cùng một ý đồ xâm lăng như trên”). việc này thực hiện bằng cách tc thiết lập các căn cứ tiền tiêu dọc theo vùng Ðông nam Á đến Ấn Ðộ dương để làm thế ỷ dốc, yểm trợ cho các nhóm hoa kiều tại Ðông nam Á để nhóm hoa kiều này có chỗ dựa nhằm chuẩn bị cho việc thôn tính toàn Ðông nam Á, kế tiếp là thôn tính Úc và các hải đảo vùng nam thái bình dương. kế đó nửa là đánh bật mỹ ra khỏi vùng châu Á-thái bình dương cũng như là Ấn Ðộ dương và sau cùng đuổi mỹ khỏi vùng vịnh ba tư (persian gulf) để tc làm chủ vùng dự trữ dầu hỏa chiến lược lớn nhất thế giới này. 4) tc đứng đằng sau vụ 9-11 qua việc yểm trợ ngầm cho nhóm al-qaeda để phá mỹ, thêm bằng chứng hiển nhiên nhất là giang trạch dân rất thích thú xem đi xem lại nhiều lần đọan

băng ghi lại cảnh hai máy bay không tặc đâm vào toà tháp Ðôi tại new york. như thế, tc hy vọng rằng: cú 9-11 sẽ làm nước mỹ điêu đứng và cú đấm kinh hoàng này sẽ làm cho mỹ ngã xuống và không đứng lên được nữa ít ra là trong vòng 2 năm. hai năm đủ để tc và nhóm hồi giáo quá khích tiếp tục tung ra những cú đánh khác vào hoa kỳ và tây phương làm cho hoa kỳ và tây phương mất thế và tc cũng như nhóm al-qaeda sẽ tạo được ảnh hưởng sâu rộng trong vùng Ðại Ðông nam Á. nhưng ước tính của giang trạch dân và nhóm lãnh đạo bắc kinh đã không xảy ra như họ nghĩ vì al-qaeda chỉ làm được một cú 9-11 duy nhất mà thôi. vì vụ 9-11 mà chế độ độc tài hồi giáo điên khùng, lạc hậu của nhóm taliban ở afghanistan bị tiêu diệt, và saddam hussein bị lật đổ . tóm lại, vì vụ 9-11 mà mỹ có thể đưa quân vào trấn những điểm chiến lược trong vùng vịnh ba tư cũng như tây nam Á châu là iraq và afghanistan. thực ra trong chiến dịch này, tc ra tay thông qua bàn tay của nhóm al-qaeda nhưng khi nhóm al-qaeda không làm thêm trò trống gì thì tc bắt buộc tự mình phải ra tay, nhưng tc ra tay rất ngấm ngầm và thâm độc để không ai có thể quy kết tội ác cho tc được. tc làm như sau: một mặt bên ngoài thì tc “làm lớn” vụ Ðài loan, xúi bắc hàn làm lớn chuyện vũ khi nguyên tử sau đó là bày cho bắc hàn chơi trò thương thảo cù nhầy với mỹ, còn bên trong thì tc âm thầm thực hiện âm mưu đầu độc toàn cầu bằng vũ khí sinh học thông qua cửa ngõ chính là việt nam (chúng ta phải nhớ là trong mấy năm vừa qua, tc là nơi phát xuất ra những bịnh kỳ lạ và tại việt nam cũng có nhiều trường hợp bị bịnh kỳ lạ mà không bao giờ xảy ra trước đó). khi làm việc này, tc nhắm vào hai mục tiêu: a) hủy diệt sinh lực của dân tộc việt nam b) qua các người việt về nước thăm gia đình, mầm bịnh sẽ được lây lan qua khắp thế giới. Ấy là chưa kể số người tàu ở khắp nơi trên thế giới khi về thăm nước tàu hay làm ăn buôn bán, sau đó khi quay lại các nước sở tại thì sẽ là mầm truyền bệnh cho khắp nơi. chính trong điều kiện này mà trì hạo Ðiền, cựu bộ trưởng quốc phòng của tc mới chắc chắn cả quyết nói (trong bài diễn văn đọc trước các cán bộ cao cấp của đảng cộng sản trung cộng trong buổi họp “mật”) về trận chiến bằng vũ khí sinh học do tc phát động, nhằm tiêu diệt toàn bộ thế giới phương tây, đặc biệt là hoa kỳ để tc có thể đem người đến chiếm đóng nước mỹ, Úc, canada nơi đất rộng, tài nguyên phong phú và còn đầy đủ các phương tiện khoa học, kỹ thuật tân tiến sau khi bị tc đánh sụp. bây giờ thì hậu quả khủng khiếp cho thế giới do tc (tạo ra) chưa xảy ra nhưng sẽ xảy ra trong những ngày tháng sắp tới đây, vì mầm dịch bịnh cúm gia cầm giết người h5n1 đã lây lan đến nga rồi Âu châu, ngay cả canada là nơi có khoảng 50 người chết vì bịnh lạ mà chưa khám phá được nguyên nhân (sau đó bộ y tế canada nói là có 16 người chết và mầm bịnh đã được ngăn chặn. chúng tôi không tin vào lời tuyên bố này vì sự việc đâu có dễ dàng như vậy). trong điều ấy, các cơ quan chuyên môn của thế giới đã lên tiếng cảnh báo là trên 100 triệu người toàn cầu sẽ chết vì bịnh dịch cúm gia cầm này (do tc gây ra để giết nhân loại, tạo bất ổn trên thế giới. Ðây là hình thức chiến tranh vi trùng mà trì hạo Ðiền đã hăm dọa mỹ và tây phương). các cơ quan y tế của thế giới và liên hiệp quốc cũng lên tiếng cảnh báo là đại dịch cúm gia cầm chỉ còn chờ cơ hội theo tháng ngày ngắn ngủi để

bùng nổ mà thôi, cho nên các nước cần phải chuẩn bị để đối phó với đại dịch này. nhưng ngăn chận ra sao ? mọi việc đâu có dễ dàng như chiến tranh thông thường mà nhân loại đã từng chứng kiến. khi đại dịch xảy ra mà chỉ cần một trường hợp được báo cáo là vi khuẩn h5n1 lây từ người sang người để trở thành loại dịch cảm cúm nơi người (avian flu) như đã từng xảy ra vào năm 1918 ở Âu châu (tây ban nha và giết chết khoảng 50 triệu người ở nhiều nơi) thì mọi nơi trên thế giới sẽ phải thiết lập hàng rào y tế. khi hàng rào y tế được lập ra thì mọi sinh hoạt bình thường sẽ bị đình đốn, mọi việc đi lại sẽ bị tê liệt và như thế, kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào đại khủng hoảng một cách nghiêm trọng. ta hãy xem nếu cuộc đại khủng hoảng sắp tới xảy ra thì sẽ ảnh hưởng như thế nào tới thế giới: ta biết rằng dự trữ dầu hỏa của tc chỉ có vỏn vẹn 3 tuần lễ (hiện nay thượng hải và 1 số thành phố lớn của tc phải thay phiên cúp điện khoảng 12 tiếng một tuần), nếu đại khủng hoảng do bịnh dịch cúm gia cầm gay ra thì mọi sự đi lại trên biển cũng bị phong tỏa, các nước cung cấp dầu hỏa cũng phải ngưng việc cung cấp dầu thô. như vậy, chỉ sau 3 tuần lễ, toàn bộ nước tàu chìm trong bóng tối và hỗn loạn, cướp bóc trên quy mô lớn sẽ xảy ra ngay trong nước tàu, vì dân chúng tại các quốc gia cộng sản hay độc tài như tc đã lâu ngày sống trong chế độ gian trá, tàn ác nên dân chúng đã mất nhiều tính nhân bản của con người, rồi họ lại bị kìm kẹp, đàn áp quá lâu cho nên khi có dịp, họ sẵn sàng vùng lên làm loạn (lãnh đạo bắc kinh đâu biết rằng khi gây đại họa cho thế giới thì họ cũng đang tự giết mình) thiếu dự trữ năng lượng mới chỉ là một trong nhiều vấn đề khó khăn của tc mà thôi, ấy chưa kể chuyện cung cấp lương thực cho các thành thị của tc cũng chẳng dễ dàng gì vì dự trữ thực phẩm của tc trên thực tế, không quá 2 tháng. vì vậy, nếu hàng rào y thế được thiết lập trên quy mô toàn cầu trong vòng 3 tháng thì nước tàu sẽ đi vào tan rã thật sự. trong tình hình ấy, tập đoàn lãnh đạo hiếu chiến, gian ác bắc kinh sẽ không còn chọn lựa nào khác ngoài việc phát động chiến tranh công khai với lân bang (nhật, Ðài loan, việt nam, Ấn Ðộ,v.v) nhằm phá thế bế tắc, loạn lạc trong nước tàu. nhưng khi tc phát động chiến tranh công khai, liệu có máy bay hay hoả tiễn nào của tc có thể rời khỏi bệ phóng hay phi trường được không hay tất cả đều bị đánh tan hoặc phát nổ trước khi bay lên bầu trời ? trong tình huống đó, hoa kỳ và các đồng minh thân cận sẽ ra tay hủy diệt lực lượng quân sự, công an, các cơ sở sản xuất vũ khí sinh hóa của tc, vì đó cũng chính là chỗ dựa chính yếu để đảng cộng sản tàu dùng làm lực lượng trấn áp, bóc lột dân tàu cũng như dân chúng các nước lân bang và xa hơn nữa là toàn thể nhân loại. khi nước tàu bị phân rã làm 15 mảnh thay vì 9 mảnh như dự trù trước đây thì tất các nhóm cực đoan hồi giáo cũng phải chịu “nộp kiếm” (kiếm là biểu tượng chiến tranh của hồi giáo), các chế độ hung hăng hiếu chiến cực đoan ở iran, syria, bắc hàn, cuba, việt nam, venezuela, miến Ðiện, v.v.. sẽ bị giật sập đồng loạt để trả lại cho dân chúng các nước này một cơ hội sống xứng đáng làm người. tình huống ấy cũng đánh dấu một giai đọan hoàn toàn mới đối với lịch sử nhân loại khi cả

nhân loại cùng bước vào giai đoạn cùng nhau xây dựng một thế giới mới, nhân ái, hài hoà, nhân bản và ấm no hạnh phúc. iii) bàn việc cải tổ thế giới: vì yêu thương con người như chính bản thân mình, vì tương lai của nhân loại, cho nên chúng ta vạn bất đắc dĩ mới phải xử dụng đúng mức “chuyên chính nhân chủ” nhằm đập tan các chế độ độc tài đảng trị, luôn dùng bạo lực dã man để đàn áp, tàn phá con người, tiêu diệt các chế độ tôn giáo hay chủng tộc toàn trị (hồi giáo cực đoan và tàu cộng) nhân danh các giá trị viễn vông, các nhóm manh nha ý đồ đen tối muốn nhận chìm thế giới trong biển máu, lầm than, khổ cực và tan rã. các chế độ tàn ác ấy rõ ràng muốn đưa con người trở về thời kỳ đồ đá cổ xưa, chúng chẳng có lòng trắc ẩn nào và cũng chẳng hề biết rằng những gì mà nhân loại đạt được cho tới ngày nay là công sức đóng góp của biết bao thế hệ loài người trong quá khứ. ngày nay khi nhìn lại các quá khứ ấy, chúng ta phải nói rằng: các thế hệ loài người trong quá khứ đã để lại cho chúng ta những sản phẩm tinh thần lẫn vật chất quý giá nhưng cũng để lại biết bao tai ương, đắng cay, hận thù, cản trở, bế tắc mà con người ngày nay đang cố công giải quyết. trách cứ người xưa không phải là một thái độ khôn ngoan và tích cực trong việc giải quyết các bế tắc hiện nay của nhân loại. nhìn lại quá khứ, ta thấy lúc đó nhân loại chưa có điều kiện chín mùi để hợp nhất lại toàn diện trên quy mô toàn cầu. khi đó, lịch sử nhân loại mới chỉ là lịch sử của từng mảnh rời rạc, ở mỗi mảnh rời ấy, xuất hiện những con người vào thời điểm nào đó của lịch sử của mảnh ấy đã đứng lên đáp ứng lại với các diễn biến của tình thế vào lúc ấy nhằm thống nhất con người trong từng mảnh riêng rẽ ấy. trong mỗi mảnh rời rạc ấy, con người luôn có sự đấu tranh với nhau để phát triển và tồn tại để hình thành những mảnh lớn hơn. ngay khi một mảng lớn được hình thành do sự áp đặt trật tự của nhóm mạnh nhất trên các nhóm yếu thì tự bản thân của mảng lớn ấy vẫn tồn tại các giá trị được coi là tiến bộ của những mảng nhỏ (tức là các mảnh nhỏ, nhóm người nhỏ vẫn có công đóng góp vào sự phát triển chung của toàn khối lớn) trước đó, nay được xác nhập vào mảng lớn, nhưng sự kết hợp này cũng tạo ra các giao thoa giữa các mảng nhỏ với nhau. Ðiều này làm cho lịch sử văn minh nhân loại trở lên đa dạng, phong phú hơn, hợp nhất hơn và ngày càng hợp nhất hơn, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra các mâu thuẫn mới. cho nên, đấu tranh liên lủy giữa cái mới và cái cũ là một vấn đề thuộc bản năng của loài người trong đó con người luôn muốn vươn lên, tiến lên theo chiều hướng thượng. ta gọi là bản năng vì theo darwin thì ngay cả trong thiên nhiên, các sinh vật khác kể cả thảo mộc cũng đi theo quy luật khách quan này của tạo hóa. như thế, nhìn lại lịch sử hình thành các mảng mà nhỏ nhất là công xã nguyên thủy lấy gia đình làm gốc đến mảng lớn hơn là bộ tộc thường là do nhiều công xã nguyên thủy hợp lại, rồi đến xã hội phong kiến sau đó là xã hội dân chủ, ta đều thấy: quả thực đó là một quá trình duy dây biện chứng. Ðể thích ứng với mỗi xã hội ấy (hay gọi nôm na là mảng ấy), ta đều thấy có một trình độ tri thức tương ứng trong kinh tế, thương mại, cấu trúc xã hội, niềm tin hay các giá trị tinh thần, đạo đức khác. tất cả các thứ đó kết hợp lại tạo thành đặc trưng của mảng mà ta đang nói đến ở đây. nó cũng cho thấy sự khác biệt giữa các mảng là như thế nào trong một thời điểm cụ thể nào đó khi các mảng giao thoa với nhau nhằm hình thành mảng mới lớn hơn,

hợp lý hơn. nhưng mặc khác, nó cũng cho thấy các mâu thuẫn giữa các mảng với nhau là như thế nào và các mảng ấy phải đấu tranh với nhau ra sao để tồn tại thông qua chiến tranh để đi đến dung hoà nhằm hình thành các cái mới được sự chấp nhận của các mảng liên hệ. quá trình hợp nhất là tất yếu lịch sử của nhân loại, đó là biện chứng duy dân đích thực nhằm thống nhất loài người một cách toàn diện khi điều kiện khách quan cho phép. như thế, quá trình thống nhất phải phù hợp với quy luật khách quan trên căn bản từng mảng từ nhỏ đến lớn để cuối cùng là trên quy mô toàn cầu. ta đã nói: lịch sử mỗi mảng đánh dấu quá trình nhận thức của mảng ấy đối với khách quan để đáp ứng lại với khách quan ấy như là một tất yếu lịch sử vậy. nên ta coi các sai lạc của quá khứ không phải là với hận thù, trách cứ vì ta biết rõ rằng lịch sử thời ấy đánh dấu tiến trình đáp ứng lại với điều kiện khách quan ấy. thế nên, ngày nay nếu phải giải quyết các tồn đọng ấy của lịch sử loài người, chúng ta sẵn sàng sắn tay áo lên để cùng loài người giải quyết các bế tắc ấy một cách rốt ráo, trọn vẹn. như thế, khi tuyên bố: “chúng ta yêu thương con người như chính bản thân mình” thì lời tuyên bố này xuất phát từ đáy lòng mình cùng với một trí tuệ cao trội khi nhìn nhận lịch sử văn minh nhân loại như là một tiến trình thống nhất và toàn diện. như thế, khi tuyên bố rằng: “chúng ta phải nắm vững chuyên chính nhân chủ để đưa loài người vào trật tự thích đáng để con người có thể sống xứng đáng là người”, chúng ta không lạm dụng bạo lực nhằm phục vụ cho những toan tính bẩn thỉu. chính vì con người mà chúng ta phải dùng bạo lực lúc cần thiết khi những sự thuyết phục bằng lời nói đã không đạt được kết quả mong muốn mà nếu vấn đề không giải quyết nhanh chóng, cứ để lâu dài thì sẽ di hại cho nhân loại, lúc đó chúng ta không còn chọn lựa nào khác ngoài phải dùng sức mạnh. thực tình mà nói, ngay cả các kẻ chủ trương khủng bố hay các kẻ chủ trương bành trướng, chúng ta vẫn phải yêu thương họ như là con người bởi vì họ cũng chỉ là sản phẩm của bất toàn của quá khứ lịch sử, của những mảng cũ còn sót lại. họ như những trái đắng trong một vườn cây mà loài người đang muốn vui xới. Ðể trái đắng ấy tồn tại thì chúng có nguy cơ phá hủy cả vườn cây. cho nên nhân loại phải vứt bỏ các trái đắng ấy đi là vậy. thử hỏi những người bình thường, yêu chuộng sự an lành thì họ có lỗi gì khi họ không thích nghi được với đà tiến hóa của thế giới mới (chúng ta không nhắc tới những người quá khích cực đoan ở đây) ? họ không có lỗi gì cả, cớ sao họ chưa được sống như những con người đích thực ? do vậy, vấn đề của lương tri nhân loại ngày hôm nay là: “khuyến khích, giúp đỡ họ để họ có cơ hội thích nghi với thế giới mới, để cho họ có cơ hội tạo dựng cuộc sống xứng đáng dưới ánh mặt trời”. nhưng để làm được như vậy, các chế độ ác sát, các cá nhân, nhóm hay quốc gia muốn nô lệ hoá con người phải bị dẹp tan trước đã, rồi sau đó mới bàn tới chuyện xây dựng lại thế giới đến nơi đến chốn được, để từ các thành quả ấy mới tạo ra bối cảnh thuận lợi cho mỗi con người trong từng mảng nhỏ kết hợp thành mảng toàn cầu. như vậy, con người mới có cơ hội thuận lợi được sống trong phẩm giá, công đằng, tự do no ấm, hạnh phúc. cho dù có nhiều cách biệt về ngôn ngữ, tập quán, tôn giáo, ..v.v... nhưng con người có khả năng biết tự giải phóng mình khỏi các ràng buộc do lịch sử mảng để lại, hầu đi vào dòng chính của thế giới trong khi vẫn có thể bảo tồn bản sắc của riêng mình mà không bị mất khi đi theo đúng tiến trình duy dân biện chứng.

nói cho cùng ra, thì trong chỗ công khai, chưa một ai dám bàn chuyện xây dựng lại thế giới, nhưng trong chỗ riêng tư, đối với những người gần gũi với các cụ ở hai phía việt-mỹ thì vấn đề trọng đại này đã được bàn rất chi tiết và chính các cụ đã đi đến quyết định chung cuộc nhằm thiết định một thế giới tương lai hầu từng bước dẫn dắt loài người đi vào một xã hội nhân chủ pháp trị trên quy mô toàn cầu. trong khuôn khổ bài này, chúng tôi chỉ đặt ra một số vấn đề có tính cách khái quát để các thế hệ trẻ việt nam nói riêng và các thế hệ trẻ của thế giới nói chung, có dịp làm quen và nếu có cơ duyên thì các thế hệ trẻ việt nam sẽ có dịp mở rộng và thực hành trong thực tế để trở thành những công dân mẫu mực không phải chỉ cho việt nam không thôi mà còn cho toàn thể nhân loại nữa. vì khi biết nhìn theo chiều rộng và chiều sâu của vấn đề nhân loại, thì các bạn trẻ sẽ nắm được các bước tiến hoá, nắm được các nguyên tắc để dù ở bất cứ cương vị nào, ở đâu, các bạn vẫn có khả năng hành động thống nhất trên một mục đích chung, một đường lối chung có lợi cho tổ quốc và nhân loại. Ước mong của thế hệ chúng tôi là: các bạn có cơ hội để trở thành các cán bộ nhân chủ đích thực trong một thế giới mới với một tầm nhìn thật chuẩn xác về tương lai dân tộc và nhân loại. các câu hỏi cần được đặt ra như thế này: 1) thế giới có thể tồn tại được hay không khi chu kỳ nóng của trái đất đang đi tới một đỉnh cao nhất trong tiến trình chuyển hóa của vạn vật ? Ðiều này đang làm cho môi sinh bị đảo lộn toàn diện, băng giá đang tan nhanh ở một mức độ mà cách đây 10 năm, con người chưa thể hình dung ra rõ được, rồi tầng lớp ozone ở hai cực trái đất bị mỏng đi một cách đáng quan ngại. 2) thế giới có thể tồn tại được hay không khi dân số loài người có thể sẽ vượt qua con số 10 tỷ vào cuối thế kỷ này ? các vấn đề ăn ở, đi lại, sinh họat sẽ trở thành một thử thách lớn lao với 10 tỷ người này. Ðó mới chỉ là một mặt của vấn đề bao quát hơn khi ta nhìn vào vấn đề chất thải do 10 tỷ người này thải ra hàng ngày. các chất thải này sẽ đóng góp nghiêm trọng vào việc làm cho trái đất ô nhiễm hơn, làm chết đi các nguồn hải sản vốn được coi là một trong những nguồn thực phẩm chính của nhân loại, nhất là của các nước nghèo hay đang phát triển hiện nay. khi nước biển dâng cao thì đất đai sinh sống sẽ bị thu hẹp lại, tranh chấp dành sự sống, nguồn nước ngọt và thực phẩm sẽ trở thành gay gắt hơn và ngày càng trở thành gay gắt thêm lên. việc này sẽ dẫn tới chuyện chính loài người sẽ tiêu diệt loài người bằng những thứ vũ khí có sức hủy diệt ghê ghớm nhất như bom nguyên tử chẳng hạn. bản phúc trình mới đây từ sự nghiên cứu do bộ quốc phòng mỹ và công ty shell tài trợ đã nói rõ về thảm họai này của nhân loại. 3) thế giới có thể tồn tại được hay không khi kỹ thuật về vũ khí có tầm sát hại trên quy mô lớn như nguyên tử được phổ biến rộng rãi trên khắp toàn cầu ? bất hạnh thay cho thế giới là các kỹ thuật ấy hiện đang được các quốc gia hung đồ sở đắc và các nhóm cực đoan hồi giáo săn tìm. các kỹ thuật về vũ khí sinh học đang được các quốc gia hung đồ tập trung nghiên cứu để chúng xử dụng vào mục tiêu sát hại nhân loại. ngay cả các kỹ thuật chế tạo chất nổ cũng được phổ biến công khai ở trên internet (các hệ thống chuyển tin điện tử toàn cầu) để mọi người có thể truy cập, tìm hiểu, chế tạo và xử dụng chúng. 4) thế giới có thể tồn tại được hay không khi bệnh dịch cúm gia cầm chết người đang lây lan trên quy mô toàn cầu nhanh chóng vì sự đi lại của con người trên hành tinh này đã

quá dễ dàng và mau lẹ ? bệnh aid, cúm gia cầm là các bằng chứng hiển nhiên nhất. nếu chúng ta không ngăn chặn kịp thời thì hàng trăm triệu người sẽ chết như chơi vì dịch cúm gia cầm và cả trăm và triệu người khác sẽ chết vì bịnh aid. di hại của bệnh dịch sẽ không ngừng ở đó, số trẻ mồ côi sẽ gia tăng nhanh chóng đến một con số chóng mặt. con số vài trăm triệu trẻ mồ côi này tập trung tại các vùng nghèo khổ trên thế giới như châu phi, nam và Ðông nam Á, châu mỹ la tinh và chúng sẽ trở thành mục tiêu khai thác của các tổ chức tội phạm quốc tế (ma túy, mãi dâm, băng đảng, ..v.v..). các vấn nạn về mặt xã hội trên quy mô toàn cầu sẽ tiếp tục xoay chung quanh vòng lẩn quẩn ấy mà không có lối thoát. các chính quyền địa phương hiện nay đang bó tay để mặc cho thảm họa tiếp tục xảy ra. Ðây là vấn đề thách thức lương tâm nhân loại về mặt đạo đức. 5) thế giới có thể tồn tại được hay không khi các quốc gia vẫn lao vào các cuộc chiến tranh về chủng tộc, tôn giáo và dùng tối đa tài nguyên để tranh bị cho guồng máy quân sự khổng lồ hầu tìm cách lấn chiếm lân bang (thí dụ như trung cộng hiện nay) mà quên đi sứ mạng thiêng liêng nhất của nhà cầm quyền là: chăm lo cho sự hạnh phúc, an hoà, no ấm của toàn dân. 6) thế giới có thể tồn tại được hay không khi cách biệt giàu nghèo tính trên quy mô toàn cầu ngày càng gia tăng ? trong phạm vi từng quốc gia, nhất là tại các quốc gia độc tài và các quốc gia đang phát triển thì cách biệt giàu-nghèo còn lớn lao hơn nữa, trong đó người nghèo là đa số, đang bị sống dưới mức nghèo khó. họ chiếm một tỷ lệ không nhỏ, có thể từ 20% tới 30% tổng dân số tùy theo từng quốc gia. việc rao bán phụ nữ việt nam ở singapore hay Ðài loan trên internet là một thí dụ điển hình của thảm trạng này. 7) thế giới có thể tồn tại được không khi của cải vật chất và tinh thần của thế giới đang bị nhiều nhóm ích kỷ tự coi mình là sở hữu chủ của các tài sản ấy và còn tìm mọi cách tích lũy thêm mà họ không hề động lòng trắc ẩn khi nhìn thấy thế giới đang đi vào bế tắc toàn diện ? 8) thế giới có thể tồn tại được hay không khi các nhóm tội phạm quốc tế đang củng cố mạng lưới toàn cầu nhằm cung cấp các loại thuốc kích thích, ma túy, mãi dâm trên một quy mô lớn. tệ hại thay, lại có một số chính phủ hung đồ dính líu vào việc này và cũng thật tệ hại thay khi các nhóm này có thể khuynh loát, làm tê liệt chính quyền của một số quốc gia độc tài, tham nhũng và biến dân chúng của các quốc gia ấy thành tù nhân thực tế trong tay chúng. các vấn nạn này, thế giới đã biết rõ ít nhất là từ hơn 30 năm qua và được cập nhật hoá từng ngày. nhưng câu hỏi là tại sao thế giới không giải quyết dứt khoát các vấn nạn ấy đến nơi đến chốn để đến nay, tình hình càng trở nên suy đồi mau chóng hơn. xin thưa: thực ra trên thực tế thì nhân loại đang được lãnh đạo bởi hoa kỳ và hoa kỳ đã và đang giải quyết các vấn nạn ấy một cách có hệ thống, toàn diện, triệt để và hướng thượng đấy chứ! nhưng vì hoa kỳ không nói rõ ra việc này cho nên chỉ những ai có “duyên tri ngộ” thì mới thấy rõ hướng đi của nhân loại mà các cụ mỹ - việt đã vạch ra mà thôi. ta cần trở lại lịch sử nhân loại trong thế kỷ 20 khi thế chiến ii phát khởi. lúc đó, trong thực tế, hoa kỳ chưa hình thành ban lãnh đạo uyên bác như hôm nay và cũng chưa có đủ các chuyên viên đủ tầm cỡ nhìn thấu thị về thế giới như bây giờ. quyền lực của hoa kỳ lúc đó chỉ tập trung chung quanh một số đại gia mỹ về tài sản (như rockerfeller, j.p.

morgan, ford, dale carnegie, ..v.v..) hoặc có trí tuệ như quý ông hill, cabot lodge (cha) (bố của ông cựu đại sứ mỹ tại vn cabot lodge) là các vị được coi là các ngự lâm về văn hóa. sự kết hợp vật chất và tinh thần này chỉ nhằm mục đích chuẩn bị nước mỹ nhằm đánh bại phe trục (Ðức-Ý-nhật) để mở cửa các thị trường thế giới dựa trên một nguyên tắc “bỏ chung tất cả vào một rổ để tính toán” (tức là nhất thống thị trường) làm cho các quốc gia cùng tham gia, dựa vào sự cạnh tranh tự do về thị trường mà nền kinh tế xã hội của mỹ đã chứng tỏ là hoạt động rất hữu hiệu. cho nên khi thế chiến ii kết thúc (thực ra thì từ năm 1944) các vấn đề thống nhất về tiền tệ, thương mại đã được đặt ra khi các chuyên gia mỹÂu họp bàn và đi tới kết qủa là hình thành quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng thế giới và sau đó là tổ chức mậu dịch thế giới mà lúc đầu thành lập, được gọi là thỏa Ước tổng quát về quan thuế và mậu dịch (gatt). nếu nhìn sâu vào việc thành lập tổ chức liên hiệp quốc (xin đọc là lhq) và các cơ quan phụ thuộc của nó, ta thấy đây cũng là ứng dụng nguyên tắc “bỏ tất cả chung vào một rổ để tính toán”. cho nên, trong chiến tranh lạnh sau đó kéo dài 45 năm, lhq với tính cách chỉ là một diễn đàn chung, cũng đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của nó: giảm bớt được hiểm họa của một cuộc thế chiến hủy diệt trên quy mô lớn. sau chiến tranh lạnh, cuộc chiến iraq năm 1991 không phải là cuộc chiến chính, cuộc chiến iraq năm 2003 và afghanistan 2001 chỉ mới là màn giáo đầu cho một cuộc chiến lớn hơn nhiều lần sắp xảy ra mà thôi. vấn đề al-qaeda và các nhóm hồi giáo cực đoan hôm nay đây không phải là quá lớn đối với thế giới. syria, iran cũng chẳng phải là vấn đề thực lớn với nhân loại. vấn đề mấu chốt trong bế tắc hiện nay của thế giới chính là sự cản trở của trung cộng. trung cộng đã và đang cản trở, làm cho nhân loại không tiến lên mau lẹ được. vì thế: “Ðập tan tập đoàn trung cộng là tất yếu của lịch sử nhân loại vậy”. khi tập đoàn lãnh đạo cộng sản bắc kinh bị đập tan thì thông lộ sẽ mở ra cho rất nhiều dân tộc đang bị tàu ngấm ngầm hay công khai khống chế. khi đó, các bế tắc mà ta đã liệt kê ở trên mới có cơ hội giải quyết đến nơi đến chốn. như thế, ta có thể ví các bế tắc hiện nay của thế giới (nhìn lịch sử thì 60 hay 100 năm chỉ là khoảnh khắc mà thôi) đã được giải quyết thông qua từng bế tắc một: 1) phe trục trong thế chiến ii 2) phe cộng sản trong chiến tranh lạnh 3) trung cộng và cực Ðoan hồi giáo trong thế chiến iii (tạm gọi thế chiến iii) hai bế tắc trên đã giải quyết xong thì bế tắc thứ 3 cũng phải giải quyết xong bằng cách này hay cách khác. chúng tôi vững tin vào sự thành công của các đường hướng sắp tới để mở đường cho việc giải quyết các vấn nạn toàn cầu mà ta đã nêu ở trên. iv) vấn Ðề tái tổ chức lại thế giới: 1) con Ðường nhân chủ: kể từ khi các tổ phụ mỹ đề ra hiến pháp như là luật tối thượng để đặt ra các nhận định có tính cách nền tảng cho xã hội hoa kỳ và hướng dẫn cách thức cho các thế hệ di dân đến nước mỹ noi theo để làm việc và mưu tìm cuộc sống ấm no cho

chính mình thì đến nay đã hơn 200 năm. thời gian hơn 200 năm ấy không phải là dài đối với lịch sử nhân loại, nhưng cột mốc lịch sử ấy đánh dấu bước chuyển mình rất quan trọng trong quá trình nhân loại tự tìm ra mình, tự tìm ra cách thức tốt nhất để cho các thế hệ con người tự thích nghi với nhau mà tồn tại, phát triển và làm sung mãn thêm cho thế giới loài người. hơn 200 ấy, nước mỹ không phải là không có những sai lầm, nhưng họ biết cách sửa chữa các sai lầm ấy một cách thực tiễn và với lòng bao dung (cuộc “nội chiến” nam-bắc là một điển hình). cũng có lúc nước mỹ đã đi những bước chân sai lạc, nhưng họ biết hối cải và sửa chữa lại cách thích đáng (việc chiếm phi-luật-tân năm 1898 là một điển hình). trong hơn 200 năm ấy của lịch sử loài người kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp được hình thành, chủ nghĩa thực dân đã để lại biết bao nhiêu mâu thuẫn, khổ đau cho thế giới, chủ nghĩa cộng sản đã được đề ra với hy vọng là làm cho nhân loại thoát khỏi các bế tắc, làm cho bộ mặt của thế giới có vẻ nhân bản hơn. nhưng chủ nghĩa thực dân, tự nó cũng là một trào lưu làm cho các dân tộc khác có một khái niệm đầy đủ hơn về thế giới loài người với những khác biệt và sự đa dạng của cung cách sống. như thế, nó cũng đẩy quá trình hợp nhất nhân loại trở nên mau chóng hơn (ta nhìn cả hai mặt tích cực và tiêu cực). còn chủ nghĩa cộng sản mặc dù rất tàn bạo, nhưng nhìn vào chỗ sâu thẳm của lịch sử, thì nó cũng có đóng góp vào việc kềm hãm các khuynh hướng tự do vô chính phủ của các chủ nhân ông thiếu trí tuệ và làm cho chủ nghĩa tư bản ngày càng trở thành nhân bản hơn. karl marx đã đưa ra các nhận định rất cực đoan như là: tôn giáo là thuốc phiện, chính quyền chỉ là công cụ trấn áp của phe này với phe kia. như vậy karl marx đã đi vào ngõ cụt của tri thức, nhưng tệ hại hơn hết chính là những kẻ dùng chủ nghĩa của marx như là tấm bình phong biện minh cho hành động bạo ngược, tàn ác chống nhân loại của mình (lenine, staline, mao trạch Ðông, hồ chí minh, kim nhật thành, fidel castro, polpot, ceausescu của rumania, v.v…). kiểm điểm lại tình hình thế giới thì: kể từ hơn 200 năm qua, các tiến bộ về mặt vật chất mà con người thực hiện được là vô cùng lớn lao đến đỗi thượng Ðế cũng phải kinh ngạc, nhưng tiến bộ về mặt tinh thần thì lại vô cùng chậm lụt (tinh thần ta nói ở đây nghĩa là cách thức mà con người nhìn nhận khách quan về đồng loại). cấu trúc thế giới ngày nay vẫn dựa trên những nhận định mơ hồ về những khái niệm liên quan đến quốc gia (bao gồm con người và lãnh thổ), lấy sự chiếm đoạt bằng họng súng là chính yếu. như vậy, nhìn vào tổng thể thì cho dù con người có tiến bộ về vật chất rất nhiều nhưng về mặt tinh thần thì con người vẫn hành xử như những sinh vật hành động theo bản năng. Ðưa con người thoát khỏi bản năng tính trong một chừng mực nào đó nhưng không quá thiên về lý tính là một bước quan trọng làm cho con người sống quân bình hơn. sống quân bình hơn thì thế giới sẽ an bình hơn. có như thế, con người mới thăng hoa được, nhân chủ mới bén rễ và nảy mầm được và xã hội nhân chủ pháp trị mới thực sự hình thành trên trái đất này được. chính trong chiều hướng này, cách đây trên 60 năm, hiệp hội triết học hoa kỳ mới lập ra một uỷ ban đặc nhiệm có nhiệm vụ nghiên cứu chiều hướng phát triển cần được thúc đẩy của tri thức cùng sứ mệnh của triết học. năm 1945, ủy ban này đã đưa ra kết quả của cuộc nghiên cứu qua cuốn sách “philosophy in american education”. một thành viên cốt cán của ủy ban là ông brand blanshard (một trong năm thành viên của ủy ban) ghi nhận trong báo cáo là: các yêu cầu lớn trong triết học là thống nhất tri thức, thống nhất tâm thức, tái định nghĩa dân chủ và triết học nhân sinh (theo

cuốn triết lý lý Ðông a, chương 14, tác giả phạm khắc hàm). thực ra thì qua cuốn sách nêu trên, tác giả phạm khắc hàm và những người tham gia viết cuốn sách này không làm phong phú thêm về học thuyết nhân chủ của cụ lý Ðông a, nếu không nói là “cuốn sách đã làm cho người đọc bị lạc hướng để cuối cùng chẳng còn hiểu học thuyết nhân chủ là cái chi nữa”. học thuyết nhân chủ là một cương lĩnh để hành động dựa trên một loạt các nhận thức thống nhất, đan chéo vào nhau trong một thể hoàn chỉnh nhằm mục đích tối hậu là đưa nhân loại đi đúng hướng, ngỏ hầu cải tổ thế giới một cách toàn diện, triệt để và hướng thượng để đưa thế giới tiến vào thời kỳ nhân chủ pháp trị trên quy mô toàn cầu. do thế, muốn viết về cụ lý thì đọc sách suông không đủ, đã từng là duy dân hay con cháu duy dân thôi cũng chưa đủ. muốn nói, viết về cụ lý, anh phải là người làm việc về vấn đề này (tức là gần gũi với quyền lực toàn cầu), anh phải nắm vững Ðại biện chứng để hiểu rõ ngọn nguồn về hướng tiến tới của nhân loại và quyết tâm đi theo hướng ấy với tất cả ý thức trách nhiệm và lòng cam đảm. ngoài ra, những người khác chỉ nên giới hạn vấn đề, tức là khai triển một vấn đề cụ thể trong biết bao vấn đề mà cụ lý đã nêu ra. khi hàng loạt các chuyên gia am tường các vấn đề cốt lõi ấy hợp lại trong một cấu trúc hoàn chỉnh và cùng nhau hành động thì thế giới mới tiến lên nhân chủ được. trở lại vấn đề mà ông blanshard đã nêu ra, ta thấy hiến pháp mỹ không nói như thế mặc dù bản văn hiến pháp mỹ toát ra ý ấy một cách giới hạn. vấn đề mà ông blanshard nêu ra lại bao gồm một cách cụ thể và rất rõ nét về tinh hoa của học thuyết nhân chủ mà cụ lý đã đề ra từ ngay các năm 1942-1944 ở liễu châu (tàu). ta cần ghi nhận là vào thời điểm ấy, liễu châu là nơi tập trung nhiều nhà cách mạng vn cùng với oss (tiền thân của cia sau này), ngay cả có một số người mỹ đã đến vn học và ở lại vn rất lâu cũng đã đến cư trú tại liễu châu khi nhật bản tham chiến trong thế chiến ii và gián tiếp cai trị Ðông dương thông qua bàn tay người pháp tại Ðông dương. cho nên ân tình giữa cụ lý và người mỹ xuất phát ngay từ lúc ấy và ông blanshard mới có dịp nói lên nhận định để đời là vậy. ta thấy chế độ quân chủ ở Ðông phương được hình thành bằng việc giải thích của khổng tử về tính chính danh của nhà vua là thay trời trị dân (sách chính danh). chế độ quân chủ ở Ðông phương không giải thích quyền tư hữu, mặc nhiên công nhận thẩm quyền của bộ tộc còn sót lại và để cho làng xã giải quyết vấn đề phức tạp về mặt xã hội này. nhà vua cũng chẳng dám can thiệp vào vấn đề sinh sống của dân chúng nên khi triều đình cần lính hay thuế khóa, triều đình cứ bổ xuống cho các quận huyện tùy nghi thi hành. tự bản thân xã hội như vậy đã hàm chứa trong nó cái mầm mống của sự trì trệ rồi, cho nên Ðông phương không tiến nhanh về phía trước được là rất đúng (thị thành ở Ðông phương là một khía cạnh khác của vấn đề mà ta cần quan tâm nghiên cứu sau này). chế độ phong kiến ở phương tây có nhiều khác biệt, chế độ ấy hình thành do sự chiếm đoạt đất đai hoang vu và sự chiếm đoạt nô lệ do chiến tranh đem lại, nên quyền hành tập trung vào giới quý tộc cùng sự thoả hiệp với giới tăng lữ nhằm phân chia quyền lợi và thỏa hiệp trách nhiệm (hai bên hòa mà chẳng đồng là vậy). vì thế, chế độ phong kiến tây phương có khả năng tổng hợp sức mạnh khi cần thực hiện các công trình nào đó đồng thời vẫn duy trì được sự ổn định, cũng như các tài sản tinh thần, vật chất được lưu giữ

một cách tốt hơn so với phương Ðông (cho nên tây phương có rất nhiều tài liệu trong khi Ðông phương có rất ít). tình hình này làm cho tây phương xác định hướng đi của nhân loại chứ không phải là Ðông phương, mặc dù Ðông phương khởi đầu cho nền văn minh nhân loại. sự giải phóng nô lệ là tất yếu của lịch sử trong xã hội tây phương khi các nô lệ có tay nghề cao hơn, thậm chí kiến thức cao hơn giới tăng lữ và quý tộc, họ sống cần cù, nhẫn nại, làm việc siêng năng hơn trong khi đó, giới tăng lữ và quý tộc sống xa hoa, ỷ lại. việc này làm tương quan trong xã hội thay đổi đủ để hình thành cuộc cách mạng tư sản rồi từng bước hình thành nhà nước dân chủ. nhà nước dân chủ hay quốc gia dân chủ khi hình thành chỉ là sự biến cải từ lãnh thổ và dân cư trong chế độ phong kiến mà ra, nên khi nhà nước dân chủ được hình thành - phù hợp với trình độ sản xuất của nhà nước ấy, lúc đó cuộc cách mạng công nghiệp mới bắt đầu chớm nở. vì vậy, việc chiếm hữu thuộc địa tạo ra chế độ thực dân, làm cho mâu thuẫn các quốc gia dân chủ tây phương không ngừng gia tăng, khiến chiến tranh liên miên xảy ra giữa các quốc gia này với nhau. cuối cùng nhà nước dân chủ phải đối diện với sự tan rã. Ðiều mà ông diderot, rousseau nói về dân chủ là dân chủ giữa người trong một quốc gia, cho nên dân chủ ở pháp và Ðức có khác nhau và hoàn toàn không phải là dân chủ cho algeria, maroc, Á châu. trong khái niệm dân chủ này, dân thuộc địa bị coi là “sub-human” hay dân ngu dốt. (chúng ta nên chú ý từ “dân chủ” của pháp hay của anh hay của Đức là dân chủ đã bị đóng khung và hẹp hòi. khác xa với sự áp dụng dân chủ của hoa kỳ, “dân chủ của hoa kỳ” là dân chủ làm cho con người bất tri bất giác thực hành dân chủ trong tinh thần vô chính phủ. nên nhớ là “tinh thần vô chính phủ”, chứ không phải xã hội vô chính phủ và vì lầm tưởng hay không hiểu gì về xã hội hoa kỳ nên nhiều người cứ tưởng rằng hoa kỳ là một xã hội vô chính phủ). như thế, khi nói về tái cấu trúc dân chủ, chúng ta cần hiểu rằng: thế giới phải tiến lên nhân chủ. nhưng dân chủ theo tiến trình của duy dân nhân chủ là: “chính trị dân chủ, kinh tế dân chủ, giáo dục dân chủ, dân tộc dân chủ và nam nữ dân chủ”. Ðó là hướng đi tất yếu mà nhân loại này cần phải đi đúng theo “duy dân biện chứng”. trên tổng thể đó, ta coi chế độ phong kiến là bước chuyển tiếp để loài người tiến lên dân chủ và dân chủ là bước chuyển tiếp để nhân loại tiến vào nhân chủ Ðạo, rồi từ nhân chủ, loài người sẽ sống trong an bình, thịnh vượng hơn, hợp nhất hơn nhằm chuẩn bị cho các bước nhảy vọt vô cùng ngoạn mục tới đây (có thể cần 100 năm hay ít hơn). nhất định văn minh nhân loại sẽ cất cánh để biến thành nền văn minh liên hành tinh là vậy. v) cải tổ hệ thống tổ chức quản trị thế giới: thực ra thì khi nói đến nhân chủ, điều đó không có nghĩa là nhân loại sẽ tiến lên nhân chủ ngay được vì sự cách biệt về tri thức và nhận thức đối với lịch sử. con người vẫn còn giới hạn trong nhiều lãnh vực ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới, cho nên chỉ có một số quốc gia có thể tiến sớm hơn vào con đường nhân chủ. các quốc gia độc tài đảng trị hiện nay phải tiến vào con đường dân chủ như là một tất yếu lịch sử để chuẩn bị tiến lên nhân chủ. Đánh giá sự chín mùi của tình hình thì hoa kỳ là quốc gia sẽ sớm đi vào chế độ nhân chủ, kế đến là Âu châu, nhật bản, Úc, sau đó mới là nam mỹ, Á châu, trung Đông và cuối cùng

là châu phi. hiện nay hoa kỳ được coi là xã hội tiền nhân chủ. khi nói đến dân chủ, chúng ta cần nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo quốc gia cùng với vị trí của người dân trong cấu trúc xã hội. về nguyên tắc thì ý kiến của mỗi người dân phải được tôn trọng trước các vấn đề của xã hội. nhưng người dân bình thường đâu có đủ hiểu biết để thấu hiểu được các vấn đề của đất nước và của thế giới mà đất nước ấy là một bộ phận. trong khi đó lãnh đạo đất nước đòi hỏi một tầm nhìn sâu rộng về đủ mọi khía cạnh của xã hội, một tầm nhìn như thế ngay cả nhiều người có học vị rất cao cũng chưa chắc đã nắm vững thực tế của xã hội loài người. Ở đâu cũng thế, những người như vậy rất hiếm hoi, không nhất thiết họ phải là những người có học vị cao nhất. chính yếu là ở chổ đầu óc họ có khả năng đặc biệt, để có thể tổng hợp toàn bộ các kiến thức của nhân loại trong một tầm nhìn toàn diện để xác định hướng đi, không vì cái ngã (cái ta) và sẵn sàng sống ở phía sau hậu trường chỉ để đắm chìm trong suy nghĩ mà thôi. Đó là các tinh hoa đích thực của mỗi dân tộc và của cả thế giới nên chẳng phân biệt anh thuộc sắc dân nào. trong cấu trúc xã hội còn chậm tiến thì thỉnh thoảng cũng xuất hiện những bậc tài trí như thế, xã hội quá nhiễu nhương nên các vị này thường phải đứng ngoài quyền lực nên chẳng đóng góp được gì vào việc làm thăng tiến xã hội. quyền lực tại các quốc gia ấy lại càng nằm trong tay những kẻ cơ hội, tham lam, đầu óc hẹp hòi. thế giới hôm qua và cả hôm nay tại nhiều nơi đang bị chi phối bởi nhóm vô lại này, cho nên lật đổ quyền lực chính trị hiện đang nằm trong tay các nhóm vô lại này là tất yếu lịch sử. ngay trong cấu trúc xã hội Âu châu, những “bậc thạc Đức” cũng đã hiếm hoi, họ cũng không gần nhiều với quyền lực để có thể đóng góp thực sự vào việc lãnh đạo cụ thể đối với đất nước. các đảng phái chính trị tại đó tuy có thực hiện được các sinh hoạt hài hòa giữa các đảng nhưng trong đường dài thì sao? các quốc gia ấy thực tế vẫn nhận được các khuyên cáo của các “bậc thạc Đức chính thực” người mỹ. rút tỉa các kinh nghiệm ấy, hoa kỳ đã giải quyết các vấn đề tưởng chừng mâu thuẫn nhau ngày một cách khôn khéo, bằng vào việc tổng hợp sức mạnh trí tuệ với sức mạnh kinh tế trong một ban lãnh đạo duy nhất gồm toàn những “bậc thạc Đức chính thực” để chăm lo cho nước mỹ trong đường dài. trong đường ngắn thì các đảng chính trị làm việc thi hành theo đúng tiến trình hiến pháp. Ở cấp địa phương thì người dân toàn quyền quyết định về các kế hoạch ở địa phương mình với rất ít sự can thiệp từ chính quyền liên bang. cho nên những ai nghĩ rằng nước mỹ này là của tài phiệt, phục vụ cho quyền lợi của tài phiệt là rất sai lầm. thực tế mà nói phục vụ cho quyền lợi của các đại công ty là phục vụ cho ai? các đại công ty đâu có phải là tài sản của cá nhân (microsoft đâu phải là của bill gate, bill gate chỉ làm cái việc tổ chức và điều hành microsoft mà thôi). tất cả các đại công ty hay tiểu công ty thậm chí ngay cả các doanh nghiệp sở hữu cá nhân vẫn là tài sản của nước mỹ khi nhìn vào tổng thể. khi cả hệ thống ấy hoạt động tốt và hữu hiệu, thì nước mỹ ổn định phát triễn, dân mỹ sống trong ấm no. “cho nên an dân và dưỡng dân là trách nhiệm cao cả của nhà cầm quyền”. nhưng an dân dưỡng dân không có nghĩa là để chủ nghĩa vô chính phủ “laisser faire” thao túng (mọi người cần nhớ việc này). cho nên khi nói nước mỹ là quốc gia tiền duy dân là rất đúng vì các lý do sau đây:

1) hoa kỳ hình thành được một ban lãnh đạo mạnh, lãnh đạo nước mỹ trong đường dài có mục tiêu tối hậu là phục vụ con người dù sống bất cứ nơi đâu trên trái đất này, chứ không phục vụ cơ cấu. 2) dân chủ và lãnh đạo xã hội dân chủ được giải quyết rốt ráo trọn vẹn, nó tránh được các bấp bênh của các xã hội độc tài hay các xã hội dân chủ nửa vời thiếu lãnh đạo. 3) của cải vật chất và tinh thần trong xã hội được đặt trong tay những trí thức mẫn tiệp nhất để chăm lo cho toàn dân. chính sự vững chắc của cấu trúc xã hội như vậy nên dù anh ở đâu đến, văn hóa, màu da gì, khi đến đây anh phải sống trong khuôn khổ luật pháp mỹ và hoàn toàn được bảo vệ bởi luật pháp. làm được như vậy, anh được sống hạnh phúc và đóng góp công sức của anh làm giàu cho nước mỹ và thế giới vậy. như thế khi nói về tái cấu trúc thế giới, ta phải bàn đến một loạt rất nhiều vấn đề thực tế khác nhau. tựu chung các vấn đề ấy có thể tóm gọn vào các chủ đề chính sau đây. 1) quyền lực chính trị toàn cầu cần được đặt trong tay các trí thức. 2) quyền sở hữu toàn cầu cần được đặt trong tay các trí thức. 3) ban lãnh đạo toàn cầu cần được đặt trong tay các trí thức. quyền lực chính trị toàn cầu: Đúng hơn thế giới đang phí phạm các tài nguyên nhân lực trên quy mô lớn, các chế độ độc tài luôn coi các trí thức đích thực là nhà của mình. trong khi đó đào tạo một trí thức đâu có dễ dàng gì; thời gian để hình thành được những người như vậy có thể tốn đến 30 năm trong một cấu trúc ổn định. Ấy thế mà tại nhiều quốc gia các tài sản trí tuệ này bị hủy diệt không thương tiếc (staline, mao, hồ đã từng làm việc ấy) sắp tới đây khi mầm mống của bất ổn thế giới bị dẹp tan (trung cộng và hồi giáo cực đoan) để đưa thế giới vào giai đoạn tái cấu trúc lại toàn diện thì vấn đề tối ư quan trọng là: Đặt trách nhiệm điều hành mỗi quốc gia vào tay các trí thức đích thực, nhiên hậu từng bước một mới hình thành được ban lãnh đạo của từng quốc gia để mỗi quốc gia cho dù khác nhau về văn hóa và tập quán - vẫn đi theo đúng theo dòng chính của nhân loại là ; từng bước tiến vào nhân chủ trên quy mô toàn cầu. Để cho trí thức sống nghèo hèn là tội lớn đối với bất cứ nhà cầm quyền nào, để cho những người có kinh nghiệm về các vấn đề của quốc gia và thế giới phải sống trong tủi nhục là một lổi lầm không thể tha thứ được. Đặc trưng của xã hội chậm tiến là họ phí phạm các tài nguyên ấy. cho nên dẹp tan chủ nghĩa bành trướng bắc kinh hay hồi giáo cực đoan chỉ mới là bước khởi đầu mà thôi. cuộc chiến đấu về mặt xã hội sau đó tại các quốc gia đang phát triển sẽ thoát khỏi ách độc tài sắp tới đây cũng cam go chẳng kém. vì thế vai trò của lực dẫn đạo thế giới, của các tổ chức thế giới, của các tổ chức phi chính phủ trong tương lai tới đây sẽ là vô cùng quan trọng.

chúng tôi cũng cần nói với các quốc gia mới hoặc sẽ thoát khỏi ách độc tài sắp tới đây là: hợp tác với thế giới không phải là làm tay sai cho mỹ hay phương tây, người mỹ nhận lấy sứ mệnh thế giới tiến vào nhân chủ là hoàn toàn đúng với tiến trình duy dân biện chứng vậy. các bài học Đức - nhật, nam triều tiên và biết bao bài học khác đã chứng minh thiện ý của hoa kỳ. quyền sở hữu toàn cầu: lấy gì để biện minh cho quyền sở hữu trong chế độ phong kiến khi các vương quyền sở đắc tất cả những gì do các nô lệ làm ra. lấy gì để biện minh cho quyền sở hữu chủ tư bản khi họ sở đắc các giá trị thặng dư ?. vấn đề không thể giải quyết một cách máy móc như karl marx nói được, vì sự công hữu hóa tư liệu sản xuất đặt để trong tay nhà nước còn nguy hại hơn gấp bội so với quyền sở hữu cá nhân; vì khi đó mọi người cùng làm chủ là chả có ai làm chủ cả, sản xuất bị đình đốn, xã hội đi vào bế tắc, con người từ từ bị mất hướng và từng bước mất dần tính người để trở thành cái máy người. Ấy là chưa nói đến việc sẽ xuất hiện một nhóm thư lại ăn hại đại diện cho người anh cả (nói theo george owens) sẽ làm ung thối xã hội, khi đó bạo lực chồng lên bạo lực, sự tan rã của xã hội là tất yếu (các bài học về liên xô cũ, trung cộng thời mao, việt cộng hiện nay là điển hình). cũng khá giống với quyền lãnh đạo chính trị trong một xã hội dân chủ, ở đây quyền sở hữu và quyền quản lý xã hội cần được tách biệt ra thật rõ ràng nhằm hóa giải các mâu thuẫn giữa chủ sở hữu với người lao động, cũng như quyền quản lý của cá nhân hay tập thể, cá nhân kết hợp lại với quyền sở hữu của xã hội trên căn bản quốc gia là trước hết. sau đó là trên quy mô toàn cầu. ta cũng phải đặt và nhìn nhận vấn đề trên căn bản toàn khối (quốc gia hay thế giới) cũng như trong một thời hiệu căn bản đó mới được (trọng đối một người cụ thể). bây giờ ta đặt vấn đề trên căn bản quốc gia trước khi bàn về căn bản toàn cầu. trên căn bản từng quốc gia thì lịch sử nhân loại là lịch sử của quá trình giải phóng con người khỏi các ràng buộc do lịch sử khách quan để lại, đó cũng là lịch sử của quá trình hợp nhất nhân loại. về phương diện kinh tế, thì đó là tiến trình tổng hợp được sức mạnh trí tuệ vô vật chất để làm ra thêm của cải vật chất và tinh thần để phục vụ loài người, cho nên quá trình giải phóng, quá trình hợp nhất và quá trình sản xuất luôn quyện vào với nhau trong một thể thống nhất không thể tách rời được. kể từ khi con người được giải phóng thì của cải vật chất và tinh thần đã không ngừng được gia tăng. do đâu ? chính là do sáng kiến cá nhân khi họ nuôi tham vọng làm giàu cho chính bản thân mình là trước hết. nhưng khi họ làm giàu cho bản thân mình thì họ cũng làm giàu cho xã hội, cho nên các kiến thức mà họ thu thập được qua quá trình làm ăn (thậm chí cả bóc lột nữa) không thể luôn bị coi là tội lỗi đối với xã hội. xã hội thiếu vắng những người như vậy nào có hay ho gì đâu; khi cái đói khổ, bệnh dịch đến với xã hội, lúc đó nguy hại càng lớn hơn nhiều. như thế quá trình tích lũy tư bản (nhìn theo nghĩa rộng bao gồm cả kiến thức lẫn tiền bạc) là tất yếu để doanh nghiệp không ngừng phát triển, họ thuê mướn nhân công nhiều hơn, sản xuất tốt hơn trong cạnh tranh tự do với sự điều tiết của luật pháp, sẽ làm cho họ trở nên có trách nhiệm hơn đối với xã hội và với lực lượng lao động mà họ thuê mướn. tình hình đó làm cho xã hội được phát triển lên, đời sống con người được thăng tiến lên cao

hơn nữa. khi đó, mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội sẽ trở nên bền chặt hơn để giữ cho ổn cố hơn. vậy ta không thể coi một cái cây vì một vài trái đắng mà chặt bỏ cây, vấn đề là điều tiết thế nào thông qua luật pháp để con người cố phát huy sáng kiến để làm ra của cải cho xã hội. làm được việc ấy họ được xã hội thưởng công trong đời họ và được ghi ơn trong đời sau. có như thế xã hội mới đối xử công bằng với con người và con người mới cố làm tốt hơn cho xã hội. ban lãnh đạo toàn cầu: thế còn những người giàu về trí tuệ thì sao ? Đất nước phải được lãnh đạo bởi những bậc trí tuệ, đạo đức, có lòng bao dung thương dân thương nước. những kẻ có đầu óc kém cỏi lại ngồi trên cương vị quá cao thì chỉ mang họa cho chính họ và làm cho đất nước tan hoang, dân tình ngu dốt (xã hội việt nam hiện nay là thí dụ rõ nét nhất, những kẻ dốt thì làm việc gì cũng nát cả, nên gọi “dốt nát” là vậy). trong một xã hội khôn ngoan thì người có trí tuệ phải được toàn xã hội kính trọng, không nên bạc đãi và để cho người trí thức sống nghèo hèn, vì họ là thành phần hiểu biết và lãnh đạo, phải kết hợp vật chất và tinh thần trong thể thống nhất, có như vậy thì đất nước mới mỗi ngày mỗi tiến lên được. quan sát sâu rộng xã hội mỹ, nhiều người tưởng rằng đây là một xã hội tư bản tư nhân thứ thiệt. họ đã nhầm lẫn rất lớn. Đây là một xã hội mà quyền sở hữu của xã hội nắm vai trò chủ đạo, sở hữu tư nhân chỉ nắm vai trò rất khiêm nhường mà thôi. nên nếu nói nước mỹ là quốc gia tư bản là sai, mà phải nói hoa kỳ là quốc gia tư bản xã hội mới nói lên được một phần nào đó cái thực của xã hội này, thực tế được sở hữu bởi xã hội, nhưng việc quản lý thông qua tư nhân. Điều đó không làm phát sinh ra người anh cả và nhóm thủ hại, ăn hại, mà lại trọng điều kiện, để cá nhân tự do phát huy sáng kiến của mình. xét cho cùng ra thì đây mới là “xã hội chủ nghĩa thứ thiệt”, chứ không phải là những gì mà trước đây (phe cộng sản) ra sức tung hô (cứ xem việc công nhân được quyền hùn vốn mua cổ phần trong các công ty thì rõ). chúng ta đã bàn nhiều về cấu trúc của nước mỹ, vì xã hội này đáng để các quốc gia khác lưu tâm học hỏi. xã hội này giải quyết các mâu thuẫn một cách rốt ráo trọn vẹn đúng theo quy luật biện chứng, xã hội này mạnh trong lãnh đạo nhưng không phá hủy sáng kiến tư nhân, xã hội này điều tiết quyền sở hữu một cách thực tiễn và khôn ngoan để từng bước giảm thiểu các cách biệt giàu nghèo (98% trung lưu 1% giàu 1% nghèo), xã hội này mới có khả năng tập trung sức mạnh để thực hiện các công trình lớn cho nhân loại và dẫn dắt nhân loại vào con đường nhân chủ. bây giờ khi nêu lên vấn đề sở hữu toàn cầu cho dù là một chủ đề rất mới mẻ với thế giới tương lai, nhưng đó là một vấn đề đang gây mâu thuẫn trên thế giới giữa các quốc gia giàu có với các quốc gia nghèo. các quốc gia nghèo vẫn bám víu vào thời thuộc địa đáng nguyền rủa đã qua, để quy kết tội cho các quốc gia giàu mà quên rằng mầm móng của nghèo khó nằm ngay trong lòng các quốc gia chậm tiến đó, nói như vậy không có nghĩa là các quốc gia nghèo gánh chịu tội lỗi về sự nghèo kém của mình, bởi chưng loài người đã cách biệt trong quá trình duy dân biện chứng của mình (kẻ trước người sau). cho nên duy chỉ có hoa kỳ mới có những kế sách và tiền của để giúp đỡ các quốc gia nghèo vươn lên

Định nghĩa phổ biến hiện nay về quốc gia là lãnh thổ, chủng tộc, cần được duyệt lại đến nơi đến chốn, sự phân bổ về dân cư không đều, tài nguyên thiên nhiên khác nhau, trí tuệ và cấu trúc xã hội của nhiều quốc gia đang bị đè nén bởi tầm nhìn hạn hẹp do một thiểu số đặc quyền đặc lợi nào đó. Đa số họ vẫn chưa chấp nhận một thẩm quyền quốc tế như là bậc tối thượng, cho nên bình tâm mà xét, hơn một nữa nhân loại này đang sống trong tình trạng rất bấp bênh không thực sự tin vào tương lai của chính mình. nhiều quốc gia vẫn nhìn các công ty đa quốc như là biểu tượng của chủ nghĩa thực dân kiểu mới đại diện bởi hoa kỳ, các nhóm cực đoan luôn dùng hận điểu sai lệch này nhắm cổ vũ cho hận thù. cho nên việc đập tan nhóm cực đoan hồi giáo và chủ nghĩa bành trướng bắc kinh sẽ tạo ra một luồng gió mới thổi vào các quốc gia đang đắm chìm trong bạo loạn và độc tài. không ai có thể giải quyết riêng lẻ từng vấn đề trong một loạt các vấn đề phức tạp ấy được, mà phải giải quyết trên căn bản toàn khối, nhằm chấm dứt ngay tức khắc các cuộc tranh chấp về chủng tộc, biên cương, tôn giáo trong từng quốc gia và các mâu thuẫn giữa một số quốc gia với nhau. do thế ta mới nói đến việc cần nắm vững “chuyên chính nhân chủ” là thế, để đưa mọi chính quyền vào trật tự chung. như vậy khi nói về sở hữu toàn cầu ta không nói suông, đó là một tất yếu lịch sử, một mặt làm cho đời sống nhân loại được hài hòa hơn, mặt khác là xây dựng để đặt nền tảng cho một chính quyền toàn cầu tương lai. trong giai đoạn hiện tại của lịch sử loài người, là thời kỳ quá độ để tiến lên chế độ nhân chủ trên quy mô toàn cầu, nên trong mọi việc vẫn phải dựa vào sức mạnh vật chất và tinh thần của mỹ và hy vọng người mỹ nhận lãnh trách nhiệm thiêng liêng cao cả này. trong nhận định này, từ ngữ “sở hữu xã hội” được dùng, thay vì từ ngữ “sở hữu toàn dân”, “sở hữu nhà nước” như người cộng sản hay xử dụng. cho nên, trong 50 năm tới đây, với sự giúp đỡ của hoa kỳ, toàn thể các quốc gia trên thế giới thực hiện công cuộc chuyển hóa đầy ngoạn mục, để hình thành sở hữu xã hội như nước mỹ ngày nay. khi đó, sở hữu toàn cầu sẽ thành hình; điều đó sẽ làm đảo lộn các khái niệm về quốc gia theo quan niệm cổ điển, trong khi nhân loại đã ở ngưỡng cửa của nhân chủ Đạo. trong giai đoạn này, các công ty đa quốc sẽ biến thể thành công ty thế giới, để họ góp tay tích cực vào việc chuyển giao công nghệ, điều tiết thị trường. các quốc gia giàu có tài nguyên sẽ đóng góp vào việc chung của thế giới theo tỷ lệ ấn định. cách biệt giàu nghèo trong phạm vi toàn thế giới sẽ giảm đi rất nhiều, để mỗi quốc gia sẽ đóng góp phần mình vào việc thành hình chính quyền toàn cầu. vi) bàn về chính quyền toàn cầu: chính quyền toàn cầu là tất yếu của lịch sử khi nhân loại tiến đến nhân chủ, nhằm thống nhất loài người, thống nhất trí tuệ nhân loại, thống nhất mức sản xuất trên quy mô toàn cầu. có như vậy con người mới đáp ứng được với các thách đố ở phía trước. Đồng thời có thể thực hiện được các công trình khoa học kỹ thuật nhằm thúc đẩy nền văn minh này đi sâu hơn vào vũ trụ để hình thành nền văn minh liên hành tinh. thế nên, khi nói về chính quyền toàn cầu, mà không nói đến luật pháp toàn cầu và không nói đến các phương tiện để chính quyền toàn cầu có khả năng thi hành trọng trách của mình thì đó là lời nói suông.

thế giới cần một hiến pháp toàn cầu như một luật tối thượng không? rõ ràng là rất cần, nếu thiếu một văn bản luật tối thượng thì các cơ cấu quốc tế nhân danh cái gì? có đủ tính chính danh để ép buộc các quốc gia tuân thủ các đường lối phục vụ cho lợi ích của nhân loại. nếu bảo rằng hiến chương liên hiệp quốc (lhq) là đủ thì hiến chương ấy hiện nay có bao nhiêu quốc gia tuân thủ? nếu hoa kỳ cho dù thông qua hội Đồng bảo an lhq để thi hành một nghị quyết nào đó thì có chắc quốc gia liên hệ có thi hành không? hay họ tìm các cớ khác nhau để báo trước và luôn coi sự can thiệp của mỹ vào vấn đề nội bộ của họ. thế giới vì tương lai của con người cần chấm dứt tình trạng vô kỷ luật này bằng việc thông qua một bản hiến pháp toàn cầu. một hiến pháp toàn cầu giới hạn thẩm quyền của các quốc gia về nhiều vấn đề khác nhau để khi một quyết định được thông qua thì quyết định ấy có giá trị chấp hành dứt khoát. vấn đề trọng đại liên quan đến toàn cầu nhiều người xem như viễn vông, nhưng lại là một vấn đề thực tiễn sẽ xảy ra trong vòng 30 năm tới hay sớm hơn. một hiến pháp toàn cầu nếu được các quốc gia chính yếu thông qua thì các quốc gia khác phải chấp nhận. Đó mới là một cú đấm rất mạnh đánh ngay vào đầu não các kẻ độc tài hoặc manh nha độc tài; nó có khả năng mau chấm dứt các cuộc nội chiến hiện nay đang manh nha ở nhiều vùng trên thế giới. nhưng trước hết phải cải tổ toàn diện từ cấu trúc đến phương pháp làm việc. khi ông bolton được bổ nhiệm làm đại sứ hoa kỳ ở lhq là nhằm mục đích chuẩn bị sâu rộng cho dự án cải tổ này để từng bước biến lhq thành một hội Đồng quản trị toàn cầu với các đại diện quản trị rộng rãi hơn các vùng hiện còn quá cách biệt nhau về nhận thức. nếu các vùng ấy bị gạt ra ngoài, cho dù họ có là hội viên tạm thời trong hội Đồng bảo an như hiện nay, thì trách nhiệm của các vùng ấy với thế giới sẽ bị giới hạn. cho nên, sau khi đã đập tan chủ nghĩa bành trướng bắc kinh, và chủ nghĩa cực đoan hồi giáo thì ưu tiên của nhân loại là hình thành một hiến pháp toàn cầu để thay thế hẳn cho bản hiến chương lhq trước đây. các vấn đề liên quan đến thủ đô chính trị của thế giới nơi lhq đóng trụ sở, liên quan đến cấu trúc hội Đồng quản trị thế giới sẽ được bàn sau đó. Đối với các tổ chức trực thuộc lhq như hiện nay sẽ dễ dàng biến cải vào cấu trúc toàn cầu mới này mà không gặp các khó khăn đáng kể. vấn đề đại diện các quốc gia trong các tổ chức chuyên môn ấy phải được giảm thiểu tối đa để từng bước chuyển hóa các cá nhân tại các tổ chức này thành các công chức của thế giới. giả định rằng: các dự kiến trên là đúng và sẽ xảy ra thì chính quyền toàn cầu sẽ làm gì để giải quyết các vấn nạn của thế giới? các vấn đề ấy là: a) - giải giới toàn cầu. b) - xóa đói giảm nghèo toàn cầu. c) - chống tội phạm toàn cầu.

d) - giáo dục và y tế toàn cầu. Đ) - kinh tế toàn cầu e) - bảo vệ môi sinh toàn cầu. g) - luật pháp toàn cầu a) - giải giới toàn cầu: thế giới có an toàn không khi vũ khí nguyên tử được phổ biến rộng rãi và được sở đắc bởi các nhóm hung đồ vô trách nhiệm với tương lai thế giới. thế giới có được an toàn không khi tài nguyên tại nhiều quốc gia thay vì để phục vụ nhân sinh lại được huy động để mua vũ khí giết người trên quy mô lớn nhằm giải quyết các mâu thuẫn trong nước cũng như giữa các quốc gia láng giềng. các chính quyền tăng trưởng quân lực là các chính quyền chủ trương chiến tranh và sẳn sàng trấn áp nhân dân nước họ - thế giới chẳng thể để cho các chính quyền này tồn tại được vì mầm mống sự xáo trộn toàn cầu sẽ tiếp tục tiếp diễn từ họ. khi nói như vậy, ta tự hỏi: tại sao hoa kỳ hô hào hòa bình nhưng lại là quốc gia xuất cảng vũ khí lớn hàng đầu thế giới? trong điều kiện của thế giới hôm qua và hôm nay, việc xuất khẩu quân sự trong thời gian qua không phải cho nhu cần kinh tế như nhiều người lầm tưởng mà là rất cần cho đường lối ngoại giao tạm thời trong điều kiện mà thế lực bành trướng bắc kinh và các nhóm hồi giáo cực đoan chưa bị dẹp tan. nhưng trong thế giới yên bình của ngày mai thì hoa kỳ sẽ là nước đầu tiên tuyên bố chấm dứt hẳn việc sản xuất vũ khí quân sự. cho nên ở một khía cạnh nào đó, như Ấn Độ và a phú hãn, hoa kỳ muốn kéo Ấn Độ về phía mình nhằm thành hình liên minh chống tàu thì hoa kỳ phải nghĩ ngay đến việc đáp ứng đòi hỏi của Ấn Độ là tái trang bị quân cụ. nếu Ấn tái trang bị thì pakistan coi là Ấn đe dọa khi tương quan lực lượng trong vùng thay đổi có lợi cho Ấn Độ. Ấy là chưa kể đến việc tàu cũng lăm le dùng xuất khẩu quân sự cho Ấn để lôi kéo đồng minh và tạo tai mắt tình báo trong vùng. khi quan sát vấn đề này, ta thấy tất cả đều tập trung tại hai điểm nóng chính yếu là Á châu thái bình dương và trung Đông. thực tế cho thấy mọi việc “xuất khẩu” kỹ thuật nguyên tử đều phát xuất từ tàu. Đã từ lâu tàu lợi dụng lúc liên xô sa lầy ở a phú hãn, khi hoa kỳ cố tình buông lơi vùng này thì trung cộng nhảy vào trám chổ nhằm tạo ảnh hưởng trong vùng Đông nam Á. thực ra, thì việc hoa kỳ cố tình buông lơi vùng này với lý do sâu thẳm hơn nhiều, vì sau năm 1975 sự thối lui tạm thời của hoa kỳ ở chiến trường việt nam và Đông nam Á tạo ra một mồi nhử để liên xô rơi vào bẫy lớn là quân đội liên xô phải tham chiến ở khắp các chiến trường (cấu trúc xã hội liên xô không sẵn sàng để đáp ứng được kế hoạch nữa). khi liên xô tan rã, quân đội liên xô rút khỏi a phú hãn, hoa kỳ cũng không tính việc hiện diện trong vùng, bỏ ngỏ cho trung cộng thao túng với một chính quyền pakistan thân tàu và đầy tham nhũng với một a phú hãn cai trị bởi khủng bố taliban mà tình báo tàu đã cấy sâu vào đấy (cho nên ta không ngạc nhiên khi nói: tàu và a phú hãn dính chặt với nhau trong cuộc chiến tạo khủng bố toàn cầu luôn cả chiến tranh sinh học). Đó là tiền căn của cuộc chiến khủng bố toàn cầu.

Để đối đầu với lực lượng khủng bố quy mô toàn cầu, hoa kỳ cần có những kế hiểm, và thâm sâu để chuẩn bị trong thời gian dài của 20 năm để thi hành trọn vẹn. nhìn thời cuộc nhiều người mù mờ không thấy, nhưng những ai biết nhận định tình hình đúng mức thì: khi cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 xảy ra cả trung cộng và hồi giáo cực đoan đã ở trong thế thua cuộc rồi. khi cuộc chiến không khoan nhượng này tàn, cho dù còn phải vài năm để bảo đảm là con thú hoang bị chết thật sự, nếu hoa kỳ không giải giới toàn diện các quốc gia hung đồ, độc tài khác hiện đang nhan nhản trên thế giới và ở cả lhq nữa thì đó mới là điều làm cho ta khó giải thích. * - giải giới, mọi chính quyền phải giải giới. mọi quốc gia phải giải giới, giải giới là khẩu hiệu sắp tới đây. * - giải giới để đem lại sự bình an cho thế giới, cho xã hội chúng ta đang sống. * - giải giới để bứng tận gốc rễ chổ dựa của các nhà độc tài nhược trí, làm sạch lhq để đặt vào đó những con người đại diện đích thực của nhân dân nước họ, để đem lại cho con người một cơ hội sống “là người”. sứ mệnh cao cả này nếu không có hiệp chủng quốc hoa kỳ thì không quốc gia nào có thể làm được. b) - xóa Đói giảm nghèo toàn cầu: cụ lý nói: “không đổ máu, tuyệt không thể giải quyết được vấn đề”. thực tế ngày hôm nay đang xảy ra đúng như vậy. cụ lý cũng nói: coi chừng chiến thắng trong chiến tranh nhưng thất bại trong hòa bình. lời nói này chắc chắn hoa kỳ hiểu rõ lắm. cho nên xử dụng bạo lực trấn áp các nhóm hung đồ chỉ mới là bước khởi đầu của một loạt kế hoạch sâu rộng hơn cho thế giới, xây dựng lại thế giới trong tương lai đòi hỏi hoa kỳ phải hy sinh công sức nhiều hơn nữa cùng với sự tiếp tay của nhiều quốc gia đã được hưởng nhiều lợi ích do các hành động của hoa kỳ đem lại (các quốc gia ấy cũng thiện chí, sẵn lòng) như nhật, Đài loan, Âu châu ..v..v.. thực ra thì các quốc gia ấy có trí tuệ và hiểu rằng: qua các công tác xây dựng lại toàn diện thế giới thì nền kinh tế toàn cầu sẽ phát triễn ổn định trong lâu dài nên các lợi ích mà họ có được là vô cùng lớn lao. nó có khả năng giảm thiểu hẳn tỷ lệ thất nghiệp tại Âu châu (hiện nay thất nghiệp tại Âu châu là trên khoảng 10%, Đức trên 12%) cho nên thế giới cần một kế hoạch “giám sát rộng lớn” (marshall) nhằm xóa hẳn nạn nghèo đói tại nhiều quốc gia, nó cũng đóng góp vào việc làm thăng tiến đời sống con người sao cho nhân ái hơn, giáo dục được phát triển tốt hơn, giảm thiểu đáng kể, giảm nạn di dân lậu đang lan tràn trên khắp thế giới cũng như giảm nhiều tệ nạn khác đang lan tràn khắp toàn cầu. thực tế mà nói, kỹ thuật nông nghiệp của mỹ, việc nuôi sống con người là đạt được mà không gây ảnh hưởng quá lớn với môi sinh. tình trạng thực phẩm dồi dào núi bơ bể sửa tại mỹ gây ra sự thèm thuồng đối với rất nhiều người nghèo khó trên thế giới. qua hình

ảnh này, các quốc gia nghèo coi hoa kỳ là vô lương tâm trước các đau khổ của nhân loại. nhưng cho đâu phải là dễ khi tất cả các vùng đó đều nằm trong tay các nhóm hung đồ. cho nên biện pháp dùng vũ lực là cần thiết để đưa vào trật tự nhưng sau vũ lực phải biết cho cách cho những người đáng nhận và giúp cho họ biết làm ra của cải vật chật mà phục vụ cho chính bản thân mình. Đối với những người quá nghèo đói trong một xã hội luôn bị áp bức bóc lột, họ không dám tin tưởng ai và không dám toan tính xa. khôi phục niềm tin cho họ cũng phải mất hơn 5 năm cho giai đoạn khởi đầu để rồi áp dụng chính sách giáo dục tốt hơn tạo tình hình ổn định sẽ giúp cho thế hệ sau một niềm tin vững chắc hơn vào tương lai. cho nên việc này phải tính xa cho 25 năm, đó cũng là thời gian cần thiết để nhóm cực đoan hồi giáo tan rã hoàn toàn. thực ra thì đối với những người khốn khó ấy, họ còn sống nặng nề với bản năng cho nên cái ăn cái mặc sẽ là những sứ giả thuyêt phục tốt nhất, lý tưởng phải thực tiễn, sờ thấy được. trong tình hình ấy thì vai trò của guồng máy nông nghiệp mỹ và Âu châu sẽ đóng một vị trí quan trọng trong việc cung cấp viện trợ thực phẩm trên quy mô lớn đến nhiều vùng trên thế giới, kế đó là đem kỹ thuật nông nghiệp cải biến gene đến các vùng khốn khó để tự họ có thể nuôi thân. họ có cơm no áo ấm thì mới nói đến điều tốt đẹp được. khi đói thì nói điều gì tốt lành cũng không ai nghe. việc đem thực phẩm cải biến gene nuôi thế giới là tất yếu, Âu châu hay nhật không vì bất cứ lý do gì để phản bác vì cái đói triền miên còn nguy hại hơn rất nhiều. tình hình các quốc gia nghèo khó ấy tại một số khu vực đầy xáo trộn, nếu phải xử dụng quân đội mỹ và Âu châu kết hợp với quân đội bản xứ trong việc hình thành các nông trại lớn nhằm sản xuất ra hàng loạt nông sản trên quy mô lớn thì thế giới vẫn phải làm. cái đói phải giải quyết ngay và rất cấp bách để đẩy lùi bệnh tật và sự phân hóa, khôi phục được niềm tin. khi đó chính nghĩa mà hoa kỳ xiển dương mới thực sự có giá trị và việc xử dụng bạo lực nhầm đưa các thế lực cực đoan vào trật tự toàn cầu. vì xuất thân từ chốn khốn khó nên tôi hiểu đời sống những nguời dân bần hàn khốn khó, tôi quyết tâm lo cho họ mà chẳng mưu cầu tư lợi. hoa kỳ đã không khéo cho trong thời gian dài đã qua. khi quan sát cách làm việc của usaid, cơ quan điều hành các chương trình viện trợ kinh tế theo thể thức tam giác (hoa kỳ - nước nhận viện trợ - nước cung cấp hàng) cũng như cách xử dụng các ngân khoản được gọi là quỹ đối giá. các ngân khoản ấy giúp đỡ rất ít cho quốc gia được nhận viện trợ. người dân khốn khổ cảm nhận sự giúp đỡ qua cái bao tử của họ là trước tiên, sau đó là môi trường nơi con em họ được đến trường hàng ngày, sau đó là bệnh viện chữa chạy bệnh tật cho họ. chính nghĩa được thể hiện qua các sản phẩm cụ thể ấy. một câu ngạn ngữ pháp nói: cách cho quý hơn của cho (la facon de donné vant mieux que ce quón donne). hoa kỳ trong giai đoạn này của lịch sử nhân loại cần phải duyệt lại toàn bộ cách cho sao để xứng hợp, để một đồng tiền cho ra hôm nay sẽ có giá trị 10 đồng của ngày mai. chúng ta đã nói đến kế hoạch “giám sát lớn” (marshall) vì năm 1945 trị giá khoản 30 tỷ đô la, ngày hôm nay hoa kỳ có thể cung cấp ngân khoản 200 tỷ đô la mà không gây ra hệ

lụy gì đối với nền kinh tế mỹ. vì lợi tức ngầm của nền kinh tế mỹ là rất lớn đặc biệt là giá dầu tăng trong thời gian qua hay chứng khoán gia tăng sẽ làm cho nền kinh tế hoa kỳ trở nên rất mạnh so với các nền kinh tế khác. nhật, Âu châu sẽ đóng góp ít ra là 200 tỷ nữa. như vậy mới đủ phương tiện để khôi phục sản xuất trong các vùng kém mở mang này. kế hoạch ấy “có thể” xuất phát từ bộ quốc phòng nên được đặt tên là “grand rice” một tên gọi như vậy sẽ rất hay, vì bà rice là người da mầu, và làm ngoại trưởng như ông marshall trước đây. (mặt dù kế hoạch này do bộ quốc phòng soạn thảo dưới thời ông stumpson làm bộ trưởng quốc phòng) “grand rice plan” là kết hợp chữ pháp-anh. tại phi châu thì chữ pháp cũng còn khá thịnh hành. Đối với các quốc gia đã chiếm thuộc địa trước đây là dịp để họ hối lỗi bằng hành động cụ thể. làm lỗi thì dể, nhưng có dịp để hối lỗi thì không nhiều. hoa kỳ là quốc gia không đi chiếm thuộc địa, nay hoa kỳ dẫn đầu kế hoạch này thì các quốc gia khác nên noi theo. nhiều sự kiện mới đây khiến cho ta có thể tin vào sự thành công của dự án to lớn này. khi quan sát quân đội hoa kỳ tham dự vào việc cứu trợ bão katrina ở new orlean, qua việc hoa kỳ cung cấp trực thăng tải thương cho nạn nhân động đất ở vùng kashmir thuộc pakistan. bà rice tuyên bố hoa kỳ cam kết giúp đỡ lâu dài cho vùng trên. sau cuộc chiến không khoan nhượng này, quân đội hoa kỳ đi vào giai đoạn xây dựng kinh tế cho các quốc gia nghèo sẽ là một thành công rất lớn về mặt tâm lý. sự thống nhất nhân loại sẽ mở ra từ các hành động cụ thể và đầy tình người. các thành quả ấy bỏ ra 3000 tỷ đô la cũng chưa chắc chắn mua được. c) - chống tội phạm toàn cầu: các tổ chức tội ác quốc tế đã trở thành vấn nạn toàn cầu từ nạn mua bán nô lệ tình dục của phụ nử, trẻ em, rửa tiền, bán nô lệ lao động, nạn làm hàng giả đến việc sản xuất mua bán ma túy. các tội ác ấy kết hợp lại với nhau, hợp tác với nhau sẽ hủy hoại nghiêm trọng các nỗ lực của các chính phủ công chính muốn lo cho nhân loại, chúng có khả năng khuynh loát những chính phủ như colombia, al qaeda là điển hình nhất. tiêu diệt các nhóm tội phạm quốc tế này là một công việc lâu dài không bao giờ chấm dứt được. khi loài người hợp nhất lại, vai trò của quốc gia đang được duyệt lại tận gốc rễ để mở đường cho việc thành hình một chính quyền toàn cầu trong tương lai tới đây. trong buổi giao thời này vai trò của tổ chức cảnh sát quốc tế interpol chưa thể đảm nhận trách nhiệm to lớn là cảnh sát toàn cầu hoặc cơ quan điều tra toàn cầu có đủ căn bản pháp lý và phương tiện để trấn áp các tội phạm có tổ chức, thì hoa kỳ với tính cách là lực lãnh đạo thế giới sẽ phải tiếp tục nhận lấy trách nhiệm điều phối các công tác chống tội phạm chính yếu trên quy mô toàn cầu. các chi phí lớn lao ấy ngân sách hoa kỳ phải gánh chịu, đó chỉ mới là một phần nhỏ của công tác này mà thôi. vấn đề phức tạp là rất nhiều cơ quan của hoa kỳ đều phải có mặt ở hải ngoại điều này làm cho guồng máy ở bộ ngoại giao và ở các tòa Đại sứ thành quá phức tạp và quá cồng kềnh, làm cho việc phối hợp và việc bảo mật trở nên khó khăn hơn (các cơ quan fbi, cia, atf, dea, dia..v..v.. đều phải điều động ra hải ngoại. trong tương lai kể cả cơ quan môi sinh, fema v..v.. có thể cũng phải hiện diện trên thế giới).

Đó cũng chỉ là một mặt của vấn đề mà thôi! vấn đề quan trọng nhất là các quốc gia và nhân dân các quốc gia khác sẽ coi việc hoa kỳ can thiệp quá sâu rộng vào hoạt động quốc nội của họ, hình ảnh của hoa kỳ sẽ bị hoen ố trong khi hoa kỳ có đầy thiện ý giúp nhân loại. Để việc làm trong sáng thì nhân loại này cần có một hiến pháp toàn cầu. hiến pháp toàn cầu sẽ tạo tính chính danh các trách nhiệm trực tiếp của nhiều tổ chức quốc tế hiện nay để từng bước các cơ quan này thay thế hoa kỳ trong việc điều phối các công tác toàn cầu. trở lại vấn đề tội phạm quốc tế, vào thập niên 50 của thế kỷ trước khi thổ nhĩ kỳ và tam giác vàng là hai vùng chính trồng cây thẩu (cây thuốc phiện). công cuộc mở rộng Âu châu đã chấm dứt, việc trồng cây thẩu ở thổ nhĩ kỳ là một thành công ngoạn mục. nhưng ở khu tam giác vàng (lào miên thái) không hề đạt được tiến bộ gì cả. vì chiến tranh lâu dài trong vùng nhạy bén có liên quan đến trung cộng (việc vận chuyển ma túy vùng này hiện nay do nhóm ngưòi hoa có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với trung cộng thực hiện cùng với sự tiếp tay của vài chính quyền trong vùng như miến Điện, bắc triều tiên và cả cộng sản hà nội nữa). tôi không thấy bất cứ dấu hiệu nào cho thấy sản xuất ở vùng tam giác vàng bị suy giảm. nếu tính theo tỷ lệ thì có giảm xuống khi a phú hãn dưới thời taliban và colombia nổi lên thành hai nơi sản xuất chính cung cấp cho toàn thế giới. tổ chức làm hàng giả là một khía cạnh khác của vấn đề phức tạp này. do hong kong và nhóm hoa kiều hải ngoại điều động lan tràn khắp nơi trên thế giới, đã trực tiếp hay gián tiếp đứng sau các tổ chức sản xuất, phân phối hàng giả trên quy mô lớn. nhóm này hoạt động như một hội kín như mafia hoặc có thể là một biến thái của “thiên Địa hội” nay đã suy tàn, nên không dễ gì xâm nhập, càng ngày hàng giả càng tinh vi do sự mua bán mang thiết bị trở nên dễ dàng hơn. thị trường chính là các quốc gia độc tài hoặc bán độc tài khi quyền lực chính trị và kinh tế nằm trong tay một nhóm nhỏ thao túng nhân danh đảng trị. kết hợp với tham nhũng đút lót vốn là sở trường của người hoa, nhóm này thực tế đang kết hợp, đe dọa những người hoa chân chính khác để trở thành các tổ chức tống tiền, từ đó lan sang lãnh vực khác như buôn người, di dâu lậu, sòng bài, rửa tiền ..v..v.. Ảnh hưởng của nhóm hoa kiều này tăng lên rất nhiều trong hơn 20 năm qua khi hoa lục được hoa kỳ chìu đãi, hoa lục đã trở thành nơi ẩn náu an toàn và là chổ dựa vững chắc cho các tổ chức tội phạm này. Ở một khía cạnh nào đó, ta cần đánh giá là hong kong trước đây đã coi kỹ nghệ làm hàng giả là một phần rất quan trọng của nền kinh tế hong kong vào lúc cao điểm thập niên 50, nền kinh tế của hong kong có thể chiếm đến 40% tổng sản lượng nội địa của hong kong. nay hong kong đã giàu có hơn nên các nhóm làm hàng giả ở hong kong đã chuyển sang hoa lục để thành hình một tập đoàn làm hàng giả quốc tế với sự liên minh nhiều nhóm khác nhau kể cả về chủng tộc. thực sự không ai có thể đưa ra hình ảnh đầy đủ của nền kinh tế phạm pháp này nhưng ít ra thì trị giá hàng năm của nền kinh tế phạm pháp này có thể lên đến 200 tỷ đô la hoặc hơn nữa. chưa kể riêng về vấn đề buôn bán và phân phối thuốc phiện trên quy mô toàn cầu đã đem lại cho chính quyền hoa lục khoảng 300 tỷ (ba trăm tỷ) đô la mỗi năm (đây là một bản báo cáo rõ ràng không phải phỏng đoán). vấn đề không đơn giản khi nhìn vào ảnh hưởng trực tiếp của vấn đề, nguy hiểm là ảnh hưởng gián tiếp của các tệ nạn quốc tế này sản sinh ra thêm một loạt các tệ nạn khác về

mặt xã hội, nó hủy hoại các thế hệ trẻ và dẫn dụ họ vào băng đảng trên đường phố, nó làm gia tăng số người bị bệnh hiv/aids. các quốc gia phải chi phí rất nhiều nhằm giải quyết tệ trạng phức tạp này. nhưng những giải quyết trước đây đều mang tính cách thụ động hoặc phòng thủ mà thôi. chưa có nỗ lực nào trên quy mô toàn cầu đánh thẳng vào các nhóm ấy một cách toàn diện, liên tục và đều khắp cả. vấn đề chính yếu là chưa giải quyết xong trung cộng và cực đoan hồi giáo thì việc đụng vào nhóm tội ác này là chưa phải lúc, bức giây động rừng. sắp tới đây khi vấn đề trung cộng được giải quyết, thế giới cùng dùng lực để khai thác chiến thắng đập tan các nhóm sản xuất phân phối ma túy. bản thân người nông dân ở colombia trồng cây thẩu không có tội tình gì, sự sống của họ không được bảo đảm trong khi các tay trùm ma túy có vũ khí và sẵn sàng xử dụng bạo lực để ép nông dân trồng cây thẩu. họ thâu hoạch và mua lại với giá tạm đủ cho người dân sống qua ngày. trách cứ xã hội là một việc, sửa chữa các sai lầm là việc cần hơn. Ở a phú hãn thì trồng cây thẩu là chủ trương của nhóm khủng bố taliban và là nguồn lợi chính cho taliban nuôi quân khủng bố. người dân ở đây không có tội tình gì. Điều này cũng tương tự như khu tam giác vàng. cho nên việc giải quyết dứt khoát vấn nạn này thông qua vũ lực và cải tiến xã hội tại chổ như tại thổ nhĩ kỳ trước đây thì mới chấm dứt được tệ nạn rất nghiêm trọng này của thế giới. một lần nữa, chỉ có hoa kỳ có thể cáng đáng nổi việc làm mà thôi! giải quyết dứt khoát vấn đề này, tội phạm ở mỹ có thể giảm thiểu đến 30% và đặc biệt làm biến đổi rất nhiều về hình ảnh người da đen mỹ, cũng như nước mỹ đối với thế giới (nuôi một tù nhân ở mỹ tốn 40,000 đô la hàng năm), điều giảm tội phạm giúp cho hoa kỳ xứng đáng là thủ đô của nhân loại. dĩ nhiên hoa kỳ còn nhiều việc khác phải làm. d) giáo dục và y tế toàn cầu: xử dụng sức mạnh quân sự phối hợp với các kế hoạch kinh tế xã hội sẽ làm thăng tiến cuộc sống của nhân dân thế giới mới đẩy lùi được nghèo đói bệnh tật, mới tạo ra các tiền đề để con người tin vào tương lai của mình hơn. nhờ đó mầm non dân chủ mới bén rễ ở các vùng mà lịch sử lâu dài của họ chỉ toàn là áp bức, bóc lột, bất công. sứ mệnh cao cả này ai làm được? tôn giáo chỉ hứa suông chứ làm rất ít cho nhân loại. Đây là một thực tế mà chúng ta phải nhìn nhận điều phủ phàng này, và nhiều lúc cũng như ở nhiều nơi trên thế giới, những người mang danh là các “nhà lãnh đạo tôn giáo”lại là những tội phạm tống tình và tống tiền. lịch sử nhân loại là lịch sử duy dân biện chứng, điều này tuyệt đối đúng và mãi mãi đúng cho dù con người tiến vào nền văn minh liên hành tinh, để từng bước hình thành một văn minh vũ trụ (vị trí của con người trên trái đất này ra sao trong nền văn minh vũ trụ, điều này chưa nói được ở đây). một xã hội nếu không biết hoặc không dám chia sẻ của cải vật chất và tinh thần cho đa số quần chúng nhân dân thì xã hội ấy bế tắc, tan rã đang chờ ở phía trước. Điều này đúng

trên quy mô một quốc gia cũng như trên quy mô toàn cầu. Đó là vấn đề đạo đức tối thượng, đó là sứ mạng cao cả mà các tổ chức nhân danh con người từ chính quyền đến tôn giáo ..v..v.. phải làm và là lý do chính yếu giải thích sự hiện diện của các tổ chức ấy. kể từ đó khi tổ chức lhq được thành lập đến nay đã 60 năm. 60 năm ấy tổ chức giáo dục y tế lhq làm được rất ít trong việc làm thăng tiến phẩm cách cuộc sống của nhân dân thế giới. chiến tranh phân hóa đã cản trở các nổ lực quốc tế này. khi chiến tranh qua đi, các tổ chức quốc tế này cần đóng một vai trò tích cực hơn trong một kế hoạch toàn diện lâu dài nhằm ngăn chận bịnh dịch trên quy mô toàn cầu. sự quan sát hoạt động của các tổ chức quốc tế trực thuộc lhq, trên 50% ngân sách chi vào giấy tờ, di chuyển khi tiền viện trợ đến tay các quốc gia tiếp nhận lại mất thêm ít nhất là 25% vào túi riêng của lãnh đạo tham nhũng; người dân nghèo đói chẳng được hưởng bao nhiêu. nếu thực thi đúng thì chi phí hành chính và di chuyển chỉ cần 25%, và 75% còn lại phải đến tay người nhận. trong điều kiện của thế giới hôm nay, nhiều chính phủ còn rất bấp bênh, viện trợ nhân danh lhq qua chính phủ tham nhũng không được bảo đảm rằng kế hoạch được thực hiện đến nơi đến chốn. Điều chính là tất cả các tổ chức chuyên môn thuộc lhq cần phối hợp làm việc trên một cam kết lâu dài (về ngân sách, kỹ thuật) nhằm điều hành trực tiếp các cơ sở y tế giáo dục tại các quốc gia ấy, thông qua các công chức lhq tại địa phương (người địa phương là chính yếu, vai trò của người ngoài sẽ từ từ giảm thiểu khi khả năng và sự hiểu biết của người địa phương được thăng tiến lên), cho đến khi các quốc gia này vững mạnh thì vai trò các tổ chức quốc tế sẽ giảm xuống để trả lại quyền quản lý điều hành cho chính quyền địa phương. thực tế, quyền giám hộ về chính trị không xảy ra, nhưng đó là biểu hiệu của quyền giám hộ chuyên môn. vả lại, sự hiện diện của chính quyền toàn cầu dù là bàng bạc thôi, cũng đủ tạo ra cho nhân dân sở tại một cái nhìn về thế giới để họ có trách nhiệm hơn với chính quê hương họ và thế giới. khuyến khích tư nhân làm y tế, giáo dục song song với chính quyền và song song với lhq lại là một kế hoạch khác cần nghĩ tới. cách cho quý hơn của cho là thế. cơ quan lhq hiện được coi là trong giai đoạn chuyển tiếp lên chính quyền toàn cầu, lhq sẽ và phải đi vào từng quốc gia cũng như các vùng khác biệt nhau về văn hóa và còn nhiều đố kỵ với phương tây, với một kế hoạch khả thi và hữu hiệu nhằm thực hiện quyền giám hộ thực tế, trong một hạn kỳ nhất định khoảng 20 năm cho đến khi chính quyền toàn cầu được thật sự thành hình. cho nên lhq phải cải tổ toàn diện là thế, dùng võ lực dẹp các chủ nghĩa bành trướng, xâm lăng như bắc kinh và hồi giáo cực đoan là hợp đạo đức. chiến thắng trong hòa bình là tất yếu. về phương diện giáo dục, văn hóa, lịch sử mỗi dân tộc có cái khác nhau và thậm chí đầy đố kỵ với nhau trong tiến trình duy dân biện chứng. cho nên chỉ có sự giáo dục là công cụ chính yếu nhằm kết hợp nhân loại để hợp nhất ý chí toàn cầu, triệt tiêu các mầm mống phân rẽ chủng tộc.

nhân chủ học thuyết là tất yếu lịch sử có khả năng hóa giải các mâu thuẫn về tôn giáo, biên cương, chủng tộc nhằm thống nhất loài người, trên căn bản bình đẳng và yêu thương, con người phải chấp nhận “đại đồng, tiểu dị” để cùng sống. trong thời điểm rất tế nhị này của lịch sử nhân loại, nếu chỉ lấy tinh thần hiến pháp hoa kỳ ra để áp dụng không thôi, thì sẽ bị phản ứng của nhiều quốc gia cho là “thời kỳ thực dân tây phương thứ 2” và sẽ được các nhóm cực đoan chống mỹ tận tình khai thác. vì vậy thế giới cần nỗ lực đề cao nhân chủ học thuyết để cho mọi người trên thế giới có cái nhìn theo trật tự mới, hiểu biết về một thế giới mới. học thuyết nhân chủ do một người việt nam là cụ x. y. thái dịch lý Đông a đề xướng, cụ là một đại biểu cho một dân tộc bị áp bức bóc lột trong suốt mấy ngàn năm qua, điều cụ lý đề xướng ra dễ dàng được các nước nghèo khó bị đè nén chấp nhận. (cách cho quý hơn của cho là thế). nên cụ lý đã quyết tâm mang hoài bảo cứu vớt con người (người do thái cũng mang hoài bảo cứu vớt nhân loại từ chúa giê-su đến karl marx, nhưng đều bị thất bại). đ) - kinh tế toàn cầu: trong phần trên khi đặt ra vấn đề quyền sở hữu toàn cầu, chúng tôi chỉ nói ngắn gọn, đó là vấn đề sẽ được mở rộng hơn trong phần này khi ta bàn về kinh tế toàn cầu. xã hội nào chính quyền ấy, kinh tế ấy, luật pháp ấy. khi một mặt này tiến mau về phía trước thì các mặt khác cho dù có phản ứng (đó là yếu) nhưng sẽ phải chấp nhận tiến theo sao cho đồng bộ và làm cho xã hội thăng tiến hơn. nhưng dù chính quyền, hay nhà doanh nghiệp hay nhà luật pháp có đề ra các cải biến, thì điều xuất phát các cải biến này là từ con người và phải vì con người mới được xã hội chấp nhận, nếu không là đi ngược lại và bị đào thải tự nhiên. cho nên một xã hội năng động, tức là một xã hội đi bằng hai chân thực sự thì các cải tiến liên tục là tất yếu. lịch sử là tiến trình duy dân biện chứng là vậy. (mác gọi là cách mạng liên tục không bao giờ là một khái niệm đúng về tiến trình này). nhận định này hoàn toàn đúng trong phạm vi một cộng đồng nhỏ như công xã nguyên thủy cũng như trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu. cho nên chấp nhận tiến hóa đào thải liên tục là một tất yếu lịch sử, nó mở đường cho những bật tài trí đứng lên để mở ra hướng đi chủ đạo cho nhân loại trong việc phá bỏ các bế tắc. nhiều người tự hỏi: nếu loài người hợp nhất tức là mâu thuẫn nội tại biến mất thì chẳng lẽ loài người không tiến hóa nữa hay sao? thưa không phải như vậy!, mâu thuẫn ngoại tại là vũ trụ sẽ mãi mãi tạo ra các thách đố mới làm cho loài người phải đấu tranh và tìm cách thích nghi với vũ trụ để tồn tại. cho nên hôm nay đây chúng tôi muốn gởi đến nhóm lãnh Đạo bắc kinh một tín hiệu cụ thể rõ ràng là: chúng tôi chống chủ nghĩa bành trướng bắc kinh không phải vì hận thù (mặc dù hận thù giữa bách việt và hán tộc không bút nào tả cho xiết), mà vì lòng thương yêu con người, vì chính nghĩa trong sáng nhân danh con người và vì điều đó đi đúng với tiến trình duy dân biện chứng (thầy của chúng tôi dạy như thế). nhiều người hay nói lịch sử nhân loại là lịch sử của chiến tranh, điều đó không đúng hoàn toàn, mà phải nói rằng: lịch sử nhân loại là lịch sử của đấu tranh với đồng loại (cái củ với cái mới) và với khách quan (thiên nhiên) với mục đích tối hậu là làm thăng tiến con người về mọi mặt, để từng bước thống nhất loài người. Đó cũng là lịch sử giao lưu của

các chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa. Đó cũng là lịch sử của sản xuất và tiêu thụ. Đó cũng là lịch sử của tôn giáo, của khoa học kỹ thuật, âm nhạc, nghệ thuật hay các mặt tồi tệ khác trong sinh hoạt hàng ngày của xã hội loài người. Ở mỗi mặt chuyên môn ấy các chuyên viên sẽ đưa ra nhận định của mình. đ1) - về vấn đề kinh tế. trình độ tri thức xác định cấu trúc xã hội, xác định guồng máy sản xuất lưu thông phân phối của xã hội ấy, nó cũng xác lập cái quyền sở đắc của cải vật chất và tinh thần phù hợp với xã hội ấy. chiến tranh là tồi tệ thật đấy! chủ nghĩa thực dân là tồi tệ thật đấy! nhưng nó đã thúc đẩy tiến bộ và kết hợp loài người. nó phù hợp với cuộc cách mạng công nghiệp phát khởi Âu châu, chủ nghĩa marx là tồi tệ nhưng nó cũng là một cái thắng (tuy bất toàn) để kềm bớt chủ nghĩa cơ hội tư sản khi mới thành hình ở Âu châu (staline, mao, hồ mới thực sự là tồi tệ). ta khách quan đánh giá các diễn tiến đó không phải với hận thù hay lòng hoài nghi mà với trí tuệ thực dụng khi quan sát tiến trình duy dân biện chứng. theo cái nhìn của các tay chủ tư bản ở Âu châu vào thế kỷ 19 - 20 thì quyền sở hữu là vĩnh viễn (họ muốn như vậy), điều đó có nghĩa là họ có quyền ban phát theo ý họ muốn mà chẳng bị một ràng buộc nào cả. chính quyền và luật pháp ở Âu châu lúc đó đang còn trong bóng mờ, còn lại bị thao túng bởi chủ nghĩa tư bản và các thế lực cũ còn tồn tại. các cuộc đấu tranh của nhân dân châu Âu đã giới hạn cái quyền sở hữu này lại qua việc canh cải về thuế khóa (như thuế khóa bất di tài sản, thuế di sản, thuế lợi tức) và về ngân sách nhằm san sẻ sự sung mãn cho nhân dân thông qua chính quyền. như thế khi nhìn theo duy dân biện chứng thì cuộc cách mạng nông nghiệp đã thúc đẩy việc hình thành các quan niệm mới về cách thức tổ chức và điều hành chính quyền vậy. nhưng họ đến chế Độ Đại nghị và ngưng ở đây nên không hình thành được ban lãnh đạo để chăm lo cho quốc gia trong đường dài, cho nên xã hội Âu châu thiếu năng động, chiến tranh triền miên, ít thực hiện các chương trình lớn cho đến thời gian sau này là vậy. trong cấu trúc xã hội ấy hướng chủ đạo ấy không được định rõ, vì có quá nhiều người cũng coi như là có quyền lực và cũng muốn thao túng quyền lực cho nên mâu thuẫn nội tại quá lớn. xã hội Á châu, nam mỹ, Á rập hiện nay đang trong thời kỳ như Âu châu vào thế kỷ 19 vậy. nhưng tệ hại hơn vì sự can dự của nhóm hoa kiều ở Đông nam Á, nhóm bảo hoàng hoặc giáo điều hồi giáo ở trung Đông hoặc các tổ chức tội phạm ở nam mỹ. cho nên sứ mạng của các quốc gia tiên tiến càng không thể nói suông là đem dân chủ đến cho họ được, mà phải hành động cụ thể về mọi mặt thì dân chủ thật sự mới bén rễ được. đ2) - tại sao ta lại nói đến quyền sở hữu ở đây? vì quyền sở hữu rất quan trọng trong việc định hình hướng đi của nền kinh tế nói chung cũng như ảnh hưởng đến cấu trúc xã hội. Động lực phát triển của xã hội là con người và mục tiêu của phát triển là vì con người, bỏ con người ra tất cả là vô nghĩa là duy vật (cụ lý đã nói vậy). như thế cấu trúc xã hội không tạo điều kiện để con người phát triển làm việc trong tự do đích thực thì xã hội ấy bế tắc không phát triển được. nhìn trong ngắn hạn hoặc nhìn vào con số ngụy tạo của nhà cầm quyền gian xảo (thì không cần phải nói),

trong đường dài thì tình hình ấy từng bước một làm con người mất đi tính người là thế (hãy xem dân cựu cộng sản ở Đông Đức và trong các chế độ cộng sản độc tài, con người tha hóa và mất hết đạo đức). quyền sở hữu trong chổ thâm sâu của nó còn giải thích khía cạnh đạo đức trong kinh doanh buôn bán, nghĩa là kinh doanh thương mại là phục vụ chứ không phải là lợi nhuận. tóm lại là tính chính danh của quyền sở hữu. các xã hội từ Đông sang tây từ cổ chí kim đều phải đối diện với câu hỏi muôn đời. quyền sở hữu với việc quản lý là hai mặt của cùng một vấn đề, là làm thế nào để xã hội tiến lên tức là làm sao để của cải ngày càng nhiều hơn, tốt hơn, tiết kiệm hơn để con người tiêu dùng. nhìn sâu, ta thấy những người được đặt cho địa vị làm chủ có sứ mạng cao quý lắm đối với xã hội; xã hội khôn ngoan phải biết không ngừng bồi đắp, tạo điều kiện thuận lợi cho họ làm việc nhưng sự răn đe lúc nào cũng phải sẵn sàng. từ quan niệm nêu trên ta thấy chủ trương của marx là cực đoan đến như thế nào và ai áp dụng chủ thuyết ấy là nhược trí ra sao. Đặc trưng của xã hội hiện đại là biết huy động sức mạnh tập thể một cách tự nguyện, tránh xa bạo lực để làm tăng gia của cải cho xã hội và quyền sở hữu, với vai trò quản lý của cải ấy được dung hòa ra sao để ý chí cá nhân được tôn trọng và không ngừng tăng tiến, trong khi quyền lợi của xã hội được bảo toàn trong đường dài (vì đời người là hữu hạn, xã hội con người là vĩnh viễn). cho nên quyền của cá nhân trong khi mưu tìm sự giàu có cho mình phải được luật pháp tối thượng bảo vệ, xã hội có trách nhiệm phải tăng tưởng thưởng cho họ vì công lao ấy, không có họ thì hẳn gì xã hội đã có của cải ấy. nhưng sự tưởng thưởng không phải là vĩnh viễn như trong chế độ phong kiến xưa. khi họ chết đi của cải ấy phải trả lại cho xã hội dưới một dạng khác nhằm vinh danh các công đức mà họ đã đóng góp lúc còn sinh tiền. Điều này mới tỏ cho thấy sự thủy chung của nhà nước, tự nó mặc cho nhà nước một khuôn mặt người công chính đích thực nhưng lại không tạo cho nhà nước trở thành người anh cả đáng nguyền rủa (như george owens đã nói về chế độ cộng sản). Để xã hội làm được điều đó, của cải phải được đặt trong tay những trí thức đích thực là vậy. những ai đang có của cải, tùy theo mức độ đạo đức và trí tuệ cần được xã hội giáo dục, giúp đỡ để họ ý thức thật rõ nguyên tắc căn bản này, để họ biết giữ đạo đức trong thương trường cũng như trong sản xuất và họ tự nguyện trả lại tài sản cho xã hội khi họ ra đi. Điều hành một xã hội nếu để dân chúng phập phòng lo sợ thì hậu quả khôn lường, không ai muốn tỏ ra có trách nhiệm cả, đó là môi trường thuận lợi nhất của bè phái, tham nhũng, vô trách nhiệm, cẩu thả và vô đạo đức (quan sát xã hội cộng sản tàu, cộng sản hà nội, bắc triều tiên là rõ). cho nên xã hội nào muốn thực sự phát triển thì vấn đề này phải quan niệm cho rõ, thật rõ để mọi người yên tâm làm ăn trong khuôn khổ luật pháp đã định.

đ3) - tính chính danh được lập lại là thế. khi xã hội biết tuyển chọn những người công chính nhất, chuyên môn cao nhất và thực tiễn để bồi đắp để cung cấp phương tiện cho họ hình thành các đại công ty, hầu làm ra của cải vật chất cho xã hội thì xã hội sung túc hơn, hàng hóa nhiều hơn, người lao động có việc làm nhiều hơn, được trả lương tốt hơn. như thế các công ty dù sở hữu tư nhân hay

sở hữu xã hội (không phải là quốc doanh) thông qua chứng khoán đều là những bộ phận không thể tách rời của xã hội. Để một đại công ty tan rã là trách nhiệm của xã hội, vì hệ lụy khi đó là giây chuyền là niềm tin bị mất, niềm tin bị mất thì biết bao lâu mới khôi phục lại. bây giờ ta quan sát xã hội mỹ, nền kinh tế mỹ vốn được coi là tiêu biểu cho “xã hội tư bản” đích thực. Định nghĩa về tư bản dường như chưa có trong sách vở một cách chính danh, đó không hẳn là sở hữu chủ cá nhân thuần túy, mà đúng ra là: tư nhân quản lý của cải ấy dùm xã hội mà thôi. cho nên ngưòi mỹ rất vững tin vào hệ thống của mình vào đạo đức của xã hội mỹ và dẫn dắt thế giới. ta hãy xem khi nhân loại tiến vào nhân chủ thì từng bước một biên giới bị xóa nhòa đi để thành hình các tổ chức tài chánh quốc tế, thị trường thế giới trở thành thị trường chung toàn cầu, các công ty đa quốc sẽ kết hợp lại để thành các đại công ty thế giới với hàng triệu nhân công trải dài trên khắp châu lục, có khả năng khai thác tài nguyên thiên nhiên trên một diện rộng cho nên nếu không có luật pháp để kềm chế họ, thì họ lại trở thành các thế lực khuynh loát như anh quốc đã làm ở Ấn độ vào thế kỷ 19, qua công ty đó Ấn thuộc anh. hiện nay các dấu hiệu đang xuất hiện từ từ thí dụ như: các liên danh giữa chrysler và mercedes ..v..v.. nếu mai này các công ty quốc doanh tại một số nước được tư doanh hóa thì hẳn nhiên nhiều tập đoàn dầu hỏa sẽ nhảy vào tạo thành các đế quốc khổng lồ. ai sẽ kiểm soát họ? nếu không phải là chính quyền toàn cầu thực hiện trách nhiệm giám sát về tài chính, môi sinh, kỹ thuật, an toàn, lao động ..v..v.. để bảo đảm rằng các tập đoàn ấy giữ đúng mức đạo đức và trách nhiệm với thế giới. như đã nói ở trên, quyền làm chủ của cá nhân trong phạm vi quốc gia không phải là vĩnh viễn; nhưng quá trình làm giàu của họ cũng nhờ vào thị trường toàn cầu vào sức lao động toàn cầu. như vậy khi họ trả lại tài sản cho xã hội thì trong đó có một phần tài sản là của toàn nhân loại này. cho nên các hiệp hội (foundation) của mỹ cần mở rộng ra cho toàn thế giới và khuyến khích các tỷ phú tại khắp nơi trên thế giới cũng lập ra các hiệp hội (foundation) nhằm phục vụ cho nhân loại. tập quán tốt cho nhân loại bắt đầu từ đây. với một nền kinh tế toàn cầu, nền tài chính toàn cầu thì hệ thống giám sát toàn cầu phải nghiêm ngặt, vì từng bước một cho đến ngân hàng trung ương của từng quốc gia hiện nay cũng phải tái duyệt lại để chỉ còn các chi nhánh địa phương có nhiệm vụ giám sát các sinh hoạt kinh tế tài chính tại địa phương mà thôi, các ngân hàng tư nhân, các công ty tài chánh môi giới chứng khoán, các quỹ hưu bổng, các quỹ đầu tư, các cơ quan bảo hiểm và tái bảo hiểm quốc tế sẽ sáp nhập lại trên một diện rộng. nếu một định chế bị hư hỏng hay lạm dụng thì tác hại chẳng nhỏ đối với thế giới. Đành rằng lấy cạnh tranh là chính yếu, nhưng khi đó người tiêu thụ không có nhiều chọn lựa và dể bị nhóm trung gian lừa bịp. nhưng việc hợp nhất là tất yếu không thể đảo ngược được, chiều hướng hiện nay là khá rõ ràng, thí dụ nhiều dự án cải tổ tại nhiều quốc gia tiên tiến đang thực hiện nhằm chuẩn bị cho chiều hướng này thí dụ như: ntt của nhật là tiêu biểu, cải tổ hệ thống hưu liễm ở pháp là một điển hình khác (ntt ngoài viễn thông còn làm công tác hưu liễm cho nhật) cho nên không quốc gia nào có thể đứng ngoài hệ thống mới đang từng bước hình thành này được. sự thống nhất loài người sẽ là sự thống nhất toàn diện về các mặt của xã hội loài người. vấn đề nếu tiến quá nhanh về phía trước thì nhiều quốc gia mới sẽ dể dàng đi vào trình trạng bội thực, cho nên bước tiến mới cần nhắm vào các quốc gia tiền tiến công

nghiệp trước rồi sau đó mới lan ra quy mô toàn cầu. nhưng dù sao, có lẽ chỉ trong vòng 50 năm tới đây cả thế giới cũng chỉ còn một đồng tiền duy nhất được thực hiện thông qua tổng sản lượng của từng quốc gia và tiền giấy sẽ biến mất để chỉ còn là thẻ tín dụng mà thôi (debit card). khi ấy luật lệ thế giới đã đủ hoàn chỉnh để đặt nhân loại vào một trật tự chung, chiến tranh sẽ vĩnh viễn chấm dứt trên trái đất này, quân đội hiện dịch cũng chẳng còn nữa thay vào đó là lực lượng vệ binh có nhiệm vụ giữ an ninh trật tự là chính yếu. khi ấy con người sẽ nhìn nhau để nhận ra nhau là người đích thực chứ không phải là kẻ thù hay đối thủ như hiện nay. khi ấy nhân chủ học thuyết thật sự bắt đầu tỏa sáng trên quy mô toàn cầu và mở đầu cho nền văn minh liên hành tinh thực sự, để có thể trong vòng 200 năm tới con người có thể là lực chủ đạo của nền văn minh địa cầu. e) - bảo vệ môi sinh toàn cầu liệu thế giới có thể chận đứng đà nóng tăng lên của trái đất ? hay khôi phục lại băng hà bắc cực, nam cực để tạo lại quân bình cho sinh thái toàn cầu, những dự kiến các thiên tai như động đất, núi lửa, sóng thấn, bão lốc được không? (động đất cũng làm tan băng bắc nam cực). dù thế giới này làm được nhưng phải nhìn qua nhiều kế hoạch cụ thể phối hợp trên qui mô toàn cầu và một số phương tiện khổng lồ cùng với sự chấp nhận giới hạn đúng mức thẩm quyền quốc gia. (nhiều quốc gia chưa chấp nhận quan niệm này, nhưng vì tương lai của thế giới nên bắt buộc phải dùng sức mạnh để dẹp bỏ các nhóm cực đoan chậm tiến vì đó là lực cản trở thực sự vào lúc này). nên hoa kỳ có thể đóng góp vào các trách nhiệm lớn như khôi phục được băng hà, môi sinh, giảm nhiệt toàn cầu để cân bằng hóa hay chậm lại quá trình nóng lạnh ấy trước khi tìm ra giải pháp tốt hơn cho nhân loại nói chung. như vậy, cũng chỉ hoa kỳ mới đủ lực lãnh đạo thế giới mà thôi vì họ hiểu trên không gian, trong lòng đất, và trong lòng người (nhờ họ nghiên cứu và thu thập đầy đủ tin tức về mọi vùng của trái đất) và những nguyên nhân chính là các trận mưa bão, lũ lụt, động đất, sóng thần, đất lở thường xảy ra trong những thập niên gần đây. nạn phá rừng, xây đập bừa bải gây ra lũ lụt tàn phá môi sinh cũng không nhỏ. theo cơ quan lương thực và nông nghiệp của hội Đồng bảo an lhq gọp tắt là (fao) thì mức độ phá rừng cao nhất xảy ra ở Á châu, từ 9.5% trong thập niên 1960 đến 11% trong thập niên 1980, cũng như nhiều nơi khác trên thế giới đang tàn phá môi sinh địa cầu một cách trầm trọng. các cuộc điều tra và nghiên cứu của hoa kỳ cũng như nhiều nơi khác trên thế giới đã chứng minh rằng nguyên nhân hàng đầu của lũ lụt là có quá nhiều mưa xảy ra trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng ở những vùng có nhiều cây cối sẽ ít lũ lụt hơn những vùng trơ trọi và việc phá rừng có thể ảnh hưởng quan trọng đối với lũ lụt trong các lưu vực hạn hẹp ở Á châu. g) - luật pháp toàn cầu hoa kỳ phải thống nhất con người lại dưới một luật pháp chung, các tôn giáo phải được giải phóng, biên cương màu da phải được xóa mờ, mọi thành phần thấp kém nhất trên thế giới phải được sự giáo dục đúng mức, có vậy con người mới có đủ những điều kiện để tự

cải tổ chính đất nước họ xã hội họ đang sống, và có như vậy thế giới này mới bình an. con người không sinh ra để chém giết nhau, để đàn áp lẫn nhau hay để bóc lột lẫn nhau, các ngân khoản tài chính mà các chính quyền độc tài đảng trị dùng để chế súng đạn võ khí làm phương tiện dùng để đàn áp và đè nén người khác, những tiền bạc thừa mứa do bọn cầm quyền bóc lột người dân đang phung phí ăn chơi, hưởng thụ trên nỗi thống khổ của đồng loại, phải được thu hồi về cho người dân, dùng những ngân khoản đó để mở trường học cho dân chúng, mở nhà thương chữa trị giúp người dân, mở những nơi dưỡng lão cho những người già cả, lập ra những viện mồ côi cho các em không thân thuộc, giúp đỡ những gia đình nghèo hay bị tàn tật hoặc khuyến tật. nói chung luật pháp trên quy mô toàn cầu phải được áp dụng đúng mức và luật pháp toàn cầu phải căn cứ trên con người trong chủ thuyết duy dân nhân chủ, chứ không căn cứ trên người dân của mỗi quốc gia, có như vậy chúng ta mới thi hành luật pháp một cách triệt để. vii) bàn về nước hoa kỳ: trước các nhận định lạc quan vừa nêu ra, nhiều người vội nghĩ ngay rằng: chúng tôi quá lạc quan đến độ viễn vông, làm gì có việc nước mỹ tốt đến như vậy. Ở đây ta không vội bàn đến chuyện nước mỹ tốt và xấu. nhưng chúng ta tin tưởng một điều là thế giới này rồi đây sẽ thật sự hòa bình và rồi đây loài người sẽ được sống trong thương yêu cũng như giúp đỡ của chính con người, hay nói đúng hơn là sự tận tình giúp đỡ từ các cường quốc giàu có luôn luôn muốn cho nhân loại này được bình an, họ muốn cứu giúp cho thế giới này với tâm hồn vô ngã. và cứu giúp thế giới này cũng có nghĩa là họ tự cứu họ, như vậy nước mỹ phải bước ra để lãnh đạo thế giới. Để hiểu rõ lòng tốt của người mỹ chúng ta thử nhìn trong 60 năm trở lại đây thôi. Âu châu trong thời đệ nhị thế chiến nếu không có hoa kỳ lao vào cuộc chiến để cứu giúp, thì Âu châu đã nát dưới gót giầy sắt của hitler lâu rồi. Á châu nếu không có hoa kỳ ra sức ngăn chận làn sóng đỏ cộng sản, thì Ấn Độ, nhật bản, Đài loan. phi luật tân và các quốc gia nam Á châu đã bị nhuộm đỏ lâu rồi. nếu không có một nước mỹ tốt thì làm gì có nam hàn như ngày hôm nay, làm gì có một Đài loan như bây giờ, một kuwait hồi giáo phồn thịnh như bây giờ ..v.v.. (đành rằng kuwait có dầu hỏa, nhưng con người không uống dầu lửa để sống được mà cuộc sống cần nhiều thứ khác nửa. cộng sản hà nội cũng khoe là việt nam hiện có mỏ dầu hỏa lớn ngang ngửa với kuwait, nhưng hoa kỳ vẫn lờ đi “lý do tại sao?”. tại vì người mỹ tuy vậy nhưng họ không bao giờ thành thực hay làm bạn với những kẻ tham lam, tham nhũng chuyên làm tay sai cho ngoại bang). hiện tại và tương lai thế giới này chẳng lẽ được lãnh đạo bởi những người như giang trạch dân, hồ cẩm Đào hay trì hạo Điền ?. hay chẳng lẽ được dẫn dắt bởi bọn hồi giáo cuồng tín như bin laden hay zarqawi ?. nếu thế giới được dẫn đạo bởi những kẻ như vậy, thì thế giới này đã trở thành địa ngục như quần đảo gulag lâu rồi, hay thành như các trại tập trung thời hitler hay cánh đồng giết người thời polpot. chứ không còn là thế giới đầy hy vọng như ngày hôm nay ta phải rất thực tế để hiểu về thực trạng của cả thế giới. liệu những người có trí tuệ có thể tĩnh tọa ngồi nhìn thế giới này đắm chìm trong loạn lạc, ngồi nhìn bắc kinh và hồi giáo

cuồng tín phá hoại thế giới ? hiển nhiên là không, cho nên cứu nhân loại này là cứu chính mình vậy, hoa kỳ và nhiều cường quốc khác đã thấu hiểu thực trạng này và chúng ta cũng hiểu vấn đề này một cách rốt ráo, nên ta phải dứt khoát kiên định lập trường của ta. bây giờ ta hãy xem hoa kỳ chuẩn bị cho xã hội mỹ như thế nào nhằm đáp ứng với chiều hướng mới mà về cơ bản chúng tôi đã trình bày ở trên. nhận định ấy có thể khác nhau về thời gian và chi tiết nhưng chắc chắn nó sẽ xảy đến như một tất yếu lịch sử trên con đường duy dân biện chứng vậy. ta hãy xem xét hoa kỳ trong 12 năm trở lại đây thôi; khởi đầu từ thời tổng thống bill clinton (lúc tôi mới đến định cư ở hoa kỳ, như thế tôi ăn cơm mỹ chưa nhiều và đi làm đầy đủ để thực hành trách nhiệm là người dân). khi tôi mới qua, màn ảnh tv hoa kỳ đầy dẫy bạo lực và nhiều hình ảnh sex nhưng không đầy 8 năm sau, các cảnh ấy hầu như biến mất, mặc dù ngày nay internet cũng xuất hiện, nhưng các cảnh này có lẽ sẽ chấm dứt sớm tới đây. các vụ khủng bố oklahoma hay waco, texas đâu phải tự nhiên xảy ra, những ai biết chuyện thì phải hiểu rằng các nhóm cực đoan vô chính phủ ấy phải chịu một áp lực ghê gớm lắm thì các nhóm ấy mới hành động cực đoan như vậy, hoa kỳ dẹp tan các nhóm ấy một cách cương quyết. ta hãy xem các đại công ty mỹ, tuyệt đại đa số có dám ngồi xổm trên luật pháp không ? một thiểu số cố tình làm ăn không ngay thẳng là bị dẹp tan và bị trừng phạt bởi luật pháp ngay. nếu bảo hoa kỳ là quốc gia tư bản tài phiệt thì làm sao những vụ nói trên xảy ra được? nhưng nó đã xảy ra đủ để cho chúng ta thấy nước mỹ có kỹ cương, trật tự và luật pháp nghiêm minh; nó xác định rằng nước mỹ này có người cầm cân nẩy mực đàng hoàng và những người ấy đúng là “thiện giả thực tiển”. người việt nam ta cũng có câu “duy thiện bất khả vi chính” (người hiền lành quá thì không thể làm chính trị được, nhưng ngược lại nếu quá tàn ác như: mao trạch Đông, hồ chí minh, polpot thì cũng chỉ gây tai họa cho đất nước). cho nên nước mỹ dân chủ (nhưng có tinh thần vô chính phủ như trên đã nói), và một ban lãnh đạo mạnh, biết nhìn xa trông rộng (có viễn kiến - far vision), một số sự kiện tiêu biểu vừa nêu đủ để cho thấy nước mỹ trong thời gian 12 năm qua: “một mặt chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới nhưng mặt khác họ kiên quyết sửa chửa nước mỹ cho đúng là nước mỹ của tương lai đóng vai trò mẫu nghi thiên hạ là vậy”. lại bảo vụ clinton với monica thì sao? vụ đó xảy ra là cả một loạt mưu kế mà trong trường hợp cần thiết một ai đó phải đóng vai đó mà thôi, thế mới thấy người làm chính trị ở mỹ (như ông bill) phải biết hy sinh và dám hy sinh cho mục tiêu của nước mỹ và kỷ luật là thế. dù gì chăng nữa thì ta cũng phải nói như thế này: hoa kỳ phải mất một thế hệ mới chuyển mình thành một xã hội mẫu mực được. mọi việc phải thông qua luật pháp cho nên việc bổ nhiệm các chánh án tối cao pháp viện sắp tới đây (sẽ còn thay đổi nữa do sự từ chức của vài vị còn lại trong tối cao pháp viện), sẽ cho thấy trong tương lai tối cao pháp viện đây sẽ là biểu tượng của một nước mỹ chính thống để từ đấy các phán quyết được đưa ra có thể vô hiệu hóa các phán quyết hoặc luật pháp tiểu bang đã có trong thời gian qua về các

vấn đề như phá thai hay vấn đề hôn nhân đồng tính. nếu so sánh với Âu châu thì Âu châu cởi mở hơn nhiều nhưng Âu châu có cải sửa gì chưa ? chưa cải sửa gì cả! thế mà nước mỹ đã và đang tự hoàn thiện mình (vụ new orlean trong cơn bảo katrina là một điển hình khác) để chuẩn bị bước vào nhân chủ, họ nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt nhân loại đi vào thời đại mới. chúng ta phải “tận kỳ ngôn cùng kỳ lý” để xem xét sự việc, nhất là những việc trọng đại của thế giới liên hệ đến tình hình đất nước của chúng ta như hiện nay, chúng ta không làm công việc khen người mỹ, nhưng chúng ta phải tự nhận trách nhiệm, để nói lên những điều đúng cần phải nói, khi những điều đúng này đem lại lợi ích cho các dân tộc nhỏ yếu, những điều đúng này sẽ giải phóng các nước nhược tiểu ra khỏi sự đàn áp bóc lột của những nước thực dân lớn và cuối cùng là đem lại bình an, hạnh phúc cho con người kể ra thì thiên mệnh của nước mỹ thật lớn nên mới sản sinh ra các đầu óc thật lớn, và thiên mệnh của nước việt nam cũng không nhỏ nên duyên đưa các cụ mỹ có dịp gặp và trao đổi với cụ lý về nhiều vấn đề của thế giới 60 năm trước ở liễu châu lúc đó họ còn trẻ cả. nên mối duyên tri ngộ dù phải trãi qua nhiều thử thách, nhưng cuối cùng thì trí lực đã hợp nhất để chăm lo cho nhân loại sau này như cụ lý Đông a đã nói: chỉ có chủ thuyết nhân chủ mới hóa giải được các mâu thuẫn tồn đọng của thế giới mà thôi và cũng chỉ có chủ thuyết nhân chủ mới hợp nhất nhân loại mà thôi. sự hợp nhất mà nhân loại sẽ dẫn đến sự tổng hợp sức mạnh tinh thần và vật chất trên một qui mô lớn nhằm bảo vệ cho sự an toàn của nhân loại trên trái đất này cũng như các sự đe dọa đưa vào từ bên ngoài trái đất. những kế hoạch vĩ đại ấy chỉ thực hiện được thông qua một lực chủ đạo dám nhận lãnh trách nhiệm mà thôi, nhiều quốc gia sẽ hoan hỉ đóng góp công sức công sức mình vào công trình chung này. trước các câu hỏi là: làm thể nào để lưu trữ các kiến thức mà nhân loại này đã thu thập được trong một quá trình phát triển của mình trên một hay hai hành tinh khác như một gia phả của nhân loại, để sau này “nếu trái đất” không còn nữa thì người đời sau biết thế nào để xây dựng lại. như vậy sẽ có nhiều người cho là viễn vông. Ý nghĩ viễn vông phát xuất từ đầu óc nhỏ tí teo, còn với đầu óc lớn thì rất thực tế và đứng đắn. lưu trữ lịch sử chưa đủ, phải đem con người lên một hành tinh nào đó an toàn để đề phòng bất trắc. các dự án như vậy tốn cả ngàn tỷ đô la để thi hành trong thời gian hàng hai mươi hay ba mươi năm liên tục cho từng dự án. Để cùng tự đó các vẫn thạch có khả năng đe dọa an toàn cho toàn cầu phải được phá vỡ từ xa trước khi nó đến gần trái đất. và rồi, nếu nhân loại tiếp xúc với các nền văn minh khác thì phải đối đầu hay thỏa hiệp. Đối đầu trên vấn đề gì và thỏa hiệp thế nào và nếu các nền văn minh này có nguồn gốc thật xa xưa từ địa cầu thì sao ? cuộc hội ngộ phải kỳ thú lắm. Đó chỉ là vấn đề từ trên trời, còn những vấn đề cụ thể của trái đất như xóa đói giảm nghèo toàn cầu liệu có làm được không ?. rõ ràng là nhân loại phải làm với quyết tâm cao độ. các chế độ độc tài không có khả năng xóa đói giảm nghèo trong phạm vi quốc gia được và sự nghèo đói tiếp tục lan tràn. chỉ ở điều này cho thấy các chế độ này là kẻ thù của nhân loại. liên hiệp quốc có làm gì được không ? câu trả lời là không (nên hiện nay phải cải tổ tận gốc, để có một lhq mới sẽ phải từng bước đảm nhận chính yếu vai trò này.

Âu châu làm được không ? câu trả lời là không! Âu châu còn hẹp lượng và đóng khung, không đủ sức huy động sức mạnh và cũng không dám làm chuyện ấy, chưa kể đến quá khứ lịch sử của Âu châu bị hoen ố từ thời chủ nghĩa thực dân đi xâm lăng các thuộc địa). chỉ hoa kỳ mới có thể nhận lãnh sứ mệnh này mà thôi, hoa kỳ sẽ giúp thế giới thực hiện sứ mạng ngoạn mục này thông qua kế hoạch grand rice plan như đã nói trên. nếu không phải là hoa kỳ thì ai có thể làm việc này, vì hoa kỳ là đất nước mạnh trong lãnh đạo, nhìn xa trông rộng, có nhiệt tình và đầy thiện cảm (đừng đánh giá nước mỹ qua playboys, penthouse hay ngoài phố, mà hãy tìm hiểu ban lãnh Đạo hoa kỳ nghĩ gì), nên họ mới huy động được sức mạnh vật chất lẫn tinh thần của toàn nhân loại để nhân danh nhân loại mà hành động lớn lao cho nhân loại (có ai khi có cơ hội lại không muốn đến hoa kỳ để sống không ? điều đó cho thấy trong chổ sâu thẳm của tâm hồn mỗi con người, tự họ ủng hộ kế hoạch mà hoa kỳ đề ra). câu hỏi lớn là: hoa kỳ lấy phương tiện đâu để làm hành trang lớn khi ngân sách, ngoại thương thâm thủng trên quy mô lớn, số nợ khổng lồ khoản 10,000 tỷ đô la vào lúc này. Điều đó đúng, nhưng khi đặt ra câu hỏi ấy tức là chưa hiểu được nước mỹ. như đã nói nhiều lần là: quá trình hợp nhất và giải phóng nhân loại, một mặt xã hội loài người tạo dựng những con người tự do có trách nhiệm và có trí tuệ (chứ không phải tự do vô chính phủ “laisser faire” như Âu châu trước đây, Á châu trong hiện tại, và tương lai là trung Đông, phi châu). nhưng ở một mặt khác là tổng hợp sức mạnh cho xã hội thông qua cá nhân tự do được đào tạo đến nơi đến chốn. cho nên cấu trúc xã hội mỹ nhìn thì thấy tinh thần trọng thương mại bao phủ nghiêm ngặt toàn bộ các sinh hoạt của nước mỹ (như ứng cử đòi hỏi phải có tiền, phải biết truyền đạt ý kiến của mình cho cử tri). nhưng nhìn sâu sắc thì mọi sự lại khác hẳn, nào là kể hoạch đánh lạc hướng toàn cầu, nào là “quốc doanh” bao cấp ..v..v.. mà hiếm người có thể nhìn thấy. có ai tìm hiểu tại sao giá xăng mỹ chỉ bằng ½ giá xăng Âu châu ? các hàng hóa khác chỉ bằng ¼ giá Âu châu ? như vậy tính ra thâm thủng mậu dịch thì hoa kỳ lấy đâu để bù đắp ? nếu không phải là quốc doanh ? nhưng có ai trên thế giới này thấy quốc doanh mỹ là gì không ? khuyến khích cá nhân phát huy sáng kiến là để làm giàu cho xã hội, để cuối cùng thì xã hội lại tập trung của cải và giao cho các cá nhân khác tiếp tục làm giàu, dựa vào sáng kiến cá nhân trong một tiến trình dài không ngưng nghỉ, là con đường tiến vào chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc mà không hủy hoại cấu trúc của xã hội là một chọn lựa thật khôn ngoan và đúng theo tiến trình biện chứng. vậy cho nên, có ai hiểu được rằng: trong 7 chị em (7 sisters) tức là 7 công ty liên đới dầu lớn nhất thế giới do rockerfellers tiếp tay thành lập trong đầu thế kỷ trước. khởi đầu là tài sản cá nhân, nhưng khi ông rockerfellers chết đi thì tài sản trả lại cho xã hội thì xét ra bao nhiêu phần trăm của 7 công ty liên đới dầu khí này là tài sản của nước mỹ ? có ai biết trong ibm tỷ lệ tài sản của nước mỹ với tính cách pháp nhân là bao nhiêu không ? còn trong microsoft, cisco, cie hay các công ty tài chính khác cũng vậy. về phương diện kinh tế, lý giải duy nhất cho thấy: đó là quốc doanh nhưng không phải

quốc doanh quản trị. trong thực tế, chính phủ chỉ làm việc giám sát thông qua luật pháp mà thôi. ai làm kinh tế đều hiểu rằng: con gà đẻ trứng thì phải nuôi gà cho tốt để có trứng mà ăn cho nên tạo điều kiện để của cải được tập trung vào các đại công ty thông qua các nhà quản trị được đào tạo có văn bằng (certified) là tất yếu. Đó hoàn toàn không là tài phiệt như thế giới đã nhìn quá sai lệch về hệ thống xã hội mỹ (người mỹ giữ bí mật này một cách chặt chẽ, phải rất trí tuệ mới thấy được, và sách vở của ông samielson không bao giờ nói đến). nước mỹ nuôi gà rất kỹ là thế, nước mỹ giàu có là vậy (để hưởng được mức sống như mỹ thì nhật hay Âu châu phải đạt lợi tức đầu người ít ra là 45,000 đô la). so chiếu với Âu châu hay nhật, hay các quốc gia đang tìm lối thoát cho bế tắt thì ta sẽ thấy các hệ thống ấy quá nhiều sơ hở và không đi đúng tiến trình duy dân biện chứng. tại Âu châu, nơi mà thuế di sản có thể lên đến 95% như tại Ý chẳng hạn, điều đó cho thấy họ không vỗ béo con gà nhưng ngược lại họ phanh thây gà ra để lấy trứng. họ không tạo dựng được lớp quản trị có trách nhiệm và trí tuệ, họ không huy động được của cải cho xã hội, cho nên họ đứng lại thay vì tiến lên bằng đôi chân vững chắc. các tổ chức công đoàn này rõ ràng là thiếu trí tuệ nên chỉ nghĩ đến việc ăn rỗi ở thì mà thôi. trong các chế độ cộng sản thì, tồi tệ quá mức! cộng sản tàu cho dù có vài tiến bộ nhưng chủ yếu thông qua bóc lột và đi trên hai chân bằng đất sét. với các quốc gia vẫn còn dựa vào một phần quốc doanh như là phương pháp tốt nhất nhằm huy động vốn liếng kỹ thuật. tất cả các cách thức huy động chỉ nên coi là tạm thời, như là chuyển tiếp để trả lại cho tư nhân vai trò chủ đạo của họ trong sinh hoạt kinh tế, nếu quốc gia ấy không muốn đối diện với bế tắc ở phía trước. thị trường chứng khoán là một công cụ khác, có nhiệm vụ huy động tài nguyên điều tiết thị trường và giám sát thị trường nhằm bảo đảm rằng thị trường hoạt động trong điều kiện an toàn nhất có thể được. khi một công ty chính thức ra đời (public) họ được thị trường chứng khoán giám sát kỹ về tài chánh, kế toán trong thời điểm ít ra là 3 năm liên tục trước khi được phép ipo (initial price offer) nhằm tăng vốn hoạt động. quá trình hoạt động ấy được ngân hàng đầu tư, kiểm soát độc lập, thị trường chứng khoán, cố vấn, thuế vụ ..v..v.. giám sát liên tục. như vậy, có ai dám làm bậy không? mà họ làm bậy để làm gì khi ở cuối đường thì tài sản ấy cũng trả về cho xã hội. cho nên, của cải phải được đặt trong tay các trí thức mẫn tiệp nhất là như vậy. quá trình phát triển của văn minh nhân loại trong 100 năm qua thực tế được dẫn đạo bởi hoa kỳ và trong hàng trăm năm tới đây vẫn tiếp tục dẫn đạo bởi hoa kỳ vậy. khi xem xét các công ty đa quốc (multiple national corp), ta sẽ thấy đó là công cụ huy động vốn liếng trên quy mô toàn cầu nhằm tạo ra đà phát triển cho thế giới. chính các công ty này mà của cải sẽ tập trung vào nước mỹ nhiều hơn nữa, để từng bước tiến của cải ấy trở thành của cải, tài sản cho toàn nhân loại, nhưng nhìn bề ngoài thì do hoa kỳ làm chủ là đa số, để từ đó hoa kỳ sẽ đóng góp tích cực vào việc giải quyết toàn diện các vấn nạn toàn cầu mà ta có dịp nói ở trên. ta hãy xem liệu giòng họ fah ở Ả rập giàu có là nhờ từ đâu ? kho dầu nếu không có kỹ thuật mỹ thì vẫn nằm dưới đất thôi, nếu bảo rằng Ả rập đóng 40% trị giá sản lượng khai

thác ấy cho nhân loại thì liệu họ có chịu không ? hẳn nhiên câu trả lời là không! vậy phải làm sao ? Điều này cũng đúng với venezuela hay mễ tây cơ. cho nên, phải có phương pháp khác hữu hiệu hơn nhằm huy động của cải ấy cho nhân loại, phần còn lại là của quốc gia sở đắc. việc lập aramco (liên doanh dầu khí Ả rập - mỹ) là một biểu hiệu cho quá trình này. các liên doanh khác ở khắp nơi trên thế giới không phải chỉ có gom vào dầu khí sẽ hoá giải các mâu thuẫn về quyền khai thác tài nguyên, mà không đụng chạm đến tác quyền quốc gia trong tương lai tới đây, để từng bước một tiến đến việc hình thành các đại liên doanh sắp tới đây trên quy mô toàn cầu. có như vậy thì bộ mặt của thế giới này sẽ trở thành dễ thương hơn, các bế tắc sẽ giải quyết đến nơi đến chốn nhằm kéo dài sự tồn tại của nền văn minh của nhân loại trên trái đất. theo đúng tiến trình này là điều không thể đảo ngược được, là sẽ làm thay đổi cấu trúc của thế giới một cách sâu sắc. nó có khả năng hóa giải các tồn đọng về tôn giáo, quyền sở hữu cá nhân - quốc gia - toàn cầu. nó tạo ra một cơ hội rất lớn để loài người đi đến sự giao thoa sâu rộng hơn. có lẽ chỉ trong 100 năm tới đây, đa số nhân loại sẽ có mầu da khác, ngôn ngữ khác so với hiện nay khá nhiều, khi ngôn ngữ từng vùng được cải biến nhằm thích nghi cho thế giới mới hơn. trong điều kiện ấy của thế giới. hoa kỳ sẽ là thủ đô chính trị - văn hóa - tài chính - kỹ thuật cho cả nhân loại này. lời kết: nhân chủ pháp trị là tất yếu lịch sử. nhân loại hiện nay đang trong thời kỳ quá độ từ xã hội dân chủ lên xã hội nhân chủ liệu thế giới đang phải chứng kiến nhiều bế tắc trong mọi lãnh vực. nhưng thực tế, bế tắc lớn nhất hôm nay không còn nằm chủ yếu trong nhóm cực đoan hồi giáo mà nằm ngay ở bắc kinh khi trung cộng quyết liệt không chấp nhận trật tự mới “trật tự nhân chủ pháp trị trên quy mô toàn cầu” phá vỡ bế tắc này là tất yếu phải hoàn tất trong thời gian rất gần (có thể nói tính theo từng tháng). chúng ta đánh đổ cộng sản bắc kinh không phải vì ghét bỏ người trung hoa, mà là vì lòng yêu thương con người, yêu thương dân tộc trung hoa bắt buộc chúng ta phải làm. thời gian để thuyết phục đã quá đủ. trung cộng chẳng những không hề lắng nghe, mà còn đang thi hành kế hoạch hủy diệt thế giới một cách có hệ thống ngấm ngầm phía sau bằng các loại vũ khí sinh học, vũ khí vi trùng, thậm chí họ có thể xử dụng cả vũ khí nguyên tử như lời trì hạo Điền đã từng tuyên bố (Điền là cựu bộ trưởng quốc phòng trung cộng). http://www.dominotrungcong.com/chientranhkhongxa.htm nếu không đánh đổ chính quyền bắc kinh thì đó mới là chuyện lạ, như vậy thì làm sao giải thích được sự chính đáng khi hoa kỳ lao vào trong thế chiến i, ii ? làm sao giải thích được sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân việt nam trong cuộc chiến tranh lạnh đã qua? các cuộc chiến đã làm cho nhiều thế hệ con người và hàng triệu thanh niên mỹ đã chết trong

thế kỷ qua và vẫn còn tiếp tục chết ở irag, a phú hãn và các nơi khác, khi hoa kỳ phải thống nhất và đem quân bình định thế giới. cuộc thảm sát giết hại hàng triệu người cam bốt do sự điều động bởi cộng sản bắc kinh đứng sau lưng. và cuộc chiến ấy đã giết hơn 3 triệu người việt nam, đó là chưa kể đến 2 triệu người việt chết do cuộc chiến của thực dân pháp xâm lăng đất việt (tôi suýt là nạn nhân). số người bị thương tật là vô cùng lớn lao, với tỷ lệ 1/10 về tinh thần cũng như vật chất. cho nên, vì tương lai của nhân loại, vì loài người yếu mà nhân loại cần nắm vững chuyên chính nhân chủ để đập tan chủ nghĩa bành trướng “Đại hán” và các chế độ độc tài cộng sản còn sót lại họ chỉ biết dựa trên sự áp bức bóc lột con người. ai dám đảm nhận việc làm ấy nếu không phải là hoa kỳ ? hoa kỳ có đủ chính nghĩa để làm việc ấy cho dù phải gánh vác nhiều đau thương như cụ x. y. thái dịch lý Đông a nói: “không đổ máu tuyệt không xoay chuyển được thời đại”. (trích huyết hoa). như vậy xã hội loài người được nới rộng ra từ xã hội của quốc gia, chiều hướng chung của nhân loại ngày nay không còn phải đóng kín biên giới mà phải mở rộng biên giới, nghĩa là phải thống nhất loài người trên căn bản con người. xã hội xưa thống nhất quốc gia trên căn bản chủng tộc hay trên căn bản người dân của một quốc gia, đây là một điều tiến bộ nhưng chưa đủ. nói theo ngôn từ của cụ lý: thì đó là loại tiến bộ còn lom khom hay tiến bộ còn đội mũ cánh chuồn chân chưa đứng thẳng, chưa dám cởi bỏ những cái cần cởi bỏ. muốn tiến lên, xã hội hiện tại cần phải mạnh dạn đứng thẳng nhìn vào sự thật, nhìn vào nhu cầu hoàn cảnh hiện tại của nhân loại ở một thời đại mới. hiện nay đã đến lúc loài người trưởng thành và có đầy đủ hiểu biết, những gì con người ngày hôm nay cảm thấy lỗi thời cần phải vứt bỏ, ta nên mạnh dạn vứt bỏ. Đây là điều mà cụ lý gọi là: “vứt bỏ những dư thừa có hại cho loài người”. phải vứt bỏ những truyền thống cổ hủ không cần thiết, vứt bỏ những thói mê tín dị đoan những thứ mà các tôn quyền đã áp đặt vào tinh thần con người trong hàng ngàn năm qua, vứt bỏ những sai lầm tự tôn của những dân tộc tự kiêu căng, vứt bỏ những cái xấu xa đã áp đặt lên con người theo lề lối của bọn thực dân phong kiến, vứt bỏ những ý nghĩ xem thường và khinh miệt tổ tiên, vứt bỏ những tâm lý kiêu nịnh tổ tiên. tóm lại là vứt bỏ tất cả những cái thừa thải có hại cho mình, có hại cho dân tộc mình và những cái thừa thải có hại cho con người. chúng ta phải bình tâm xét nghiệm lấy căn bản là “con người” dám nhìn vào sự thật của lịch sử để nói thật cho các thế hệ kế tiếp hiểu lấy cái sai và cái đúng của lịch sử. lấy ví dụ nước mỹ đây mà nói: “người lãnh đạo hoa kỳ họ dám nhìn thẳng vào sự thật lịch sử của nước họ, họ mạnh dạn phê phán lịch sử và xin lỗi những điều “sai lầm”trong quá khứ. cụ lý nói: “ví như thể đất mỹ trải qua một thời nòi giống xâm lược, máu và nước mắt, xấu ác hôi tanh ở trên mồ đống đã nở ra đóa hoa tháng năm. Đóa hoa tháng năm đó đã xum sê phủ kín cái mồ đống tội ác lịch sử kia. Đóa hoa ấy tưới bón bằng những chất tố lịch sử của mồ đống đó…….Đó là trường hợp của 1865, nam - bắc chiến tranh cho cái lý tưởng cởi mở dân tộc da đen. cuộc chiến tranh ấy gọi là phân liệt (secession) thì chửi rủa lịch sử quá. cuộc ấy là thần thánh chiến tranh, thuần vì lòng yêu thương và nghĩa công đạo. cuộc ấy phải là vị tha chiến tranh, không tư

lợi và không vị kỷ”. (trích hoa tháng năm - huyết hoa. x. y. thái dịch lý Đông a). vì vậy phải gột rửa ngay cả máu dơ bẩn trong chính con người của chúng ta hay mỗi cá nhân của chúng ta, cuộc chiến tranh nam - bắc mỹ (1861 - 1865) được gọi là cuộc chiến tranh thần thánh, chứ không phải là chiến chiến tranh phân liệt (hay ly khai) như nhiều người đã tưởng (xin tìm đọc war of secession 1861 - 1865 north anh south, america). người mỹ vì lý tưởng nên không bao che tội lỗi ngay cả chính anh em của mình, để giải phóng nô lệ da đen. ngày nay con người phải nhìn nhận lịch sử như những con người nhìn lại quá khứ của mình, để thành khẩn ăn năn sửa đổi, chứ không phải để bao che tội lỗi cho nhau. hoa kỳ đã đi những bước chân đầu tiên kêu gọi mọi dân tộc trên thế giới này phải thành tâm nhìn lại các tội ác của chính họ đã làm trong quá khứ, kêu gọi yêu thương và xin tha thứ, kể cả các tôn giáo, tôn quyền đã nhúng tay vào tội lỗi của những thế kỷ trước đối với các dân tộc nhỏ yếu. Đây là mục đích chính của sự tiến hóa về mặt tri thức. mục đích của sự tiến hóa là gì ? là mỗi ngày con người một “tiến - hóa” nên con người đã nhìn lại quá khứ, để tìm xem con người đã sai phạm ở điểm nào và kịp thời sửa chữa, cái gì tốt thì chúng ta nên gìn giữ và làm cho thêm đẹp thêm hoàn hảo, những gì xấu xa dơ bẩn thì nên vứt bỏ để tránh những tai hại cho ngày mai. nhưng tất cả những tiến - hóa vừa nói trên đây phải đặt trên căn bản con người và phải có mục đích là phục vụ cho con người, thì tiến - hóa mới tồn tại và tiếp tục tiến - hóa, vì con người là vốn quí của nhân loại, loài người là của chung của muôn thuở, chứ không phải con người là thành phần cá nhân với những cái kiêu căng hãnh diện thoáng qua vô nghĩa và lại càng không phải của mỗi cá nhân phân chia đè nén, ghen ghét, áp bức, bất công. nếu trái đất này, xã hội này không có con người thì mãi mãi hành tinh này không có gì cả, chúng ta phải nhìn con người trong đó có ta, phải nhìn xã hội này trong đó có gia đình ta và phải nhìn cho rõ để thấy thế giới này trong đó có tổ quốc chúng ta, cho nên khi chúng ta sống là phải chấp nhận tiến - hóa với mọi người chung quanh. Đó là quy luật chung của loài người, con người phải có “phật tính”, phải có “chúa tính” (xin hiểu phật tính, chúa tính theo một nghĩa rộng hơn nghĩa hẹp của lối nhìn duy tâm), thì con người mới hoàn thiện được. nói rộng ra là: phải có nhân bản, nhân tính thì con người mới có thể hoàn thành một xã hội nhân chủ. Đó cũng là mục đích cuối cùng của sự “tiến - hóa”. nhân chủ học thuyết sẽ đi đến một tổng hợp chung cho loài người. tổng hợp chung đó là gì ? Đó là một chế độ duy dân nhân chủ pháp trị của một chính phủ toàn cầu, của một làng địa cầu (global village) nhỏ bé trong vũ trụ bao la này (xin đọc lại bài 1 nói về nền văn minh liên hành tinh và thời gian tới đây con người sẽ có cơ hội hiểu thêm về nền văn minh khác trong vũ trụ). hiện tại con người sống trong một xã hội hầu như đều bị lệ thuộc vào nhau, con người đang ở giai đoạn đầu của thiên niên kỷ thứ iii này không còn là một cá nhân đơn lẻ nửa, mà là một tập thể con người trong một làng địa cầu. vì vậy tập thể con người có trách nhiệm liên hệ, liên đới với nhau, thương yêu nhau giúp đỡ cho nhau để cùng sống và cùng tiến mau về phía trước, vì hiện tại loài người của chúng ta chỉ có một quả đất này để cùng sống mà thôi (tương lai có một địa cầu khác để sống, thì đó lại là một chuyện khác nửa). cho nên tài nguyên thiên nhiên, môi sinh, bịnh tật, thiên tai và sự hâm nóng địa cầu phải được đặt ra một cách thận trọng, không ai có quyền “tự do” làm sai để phá hủy môi sinh của địa cầu này. các quốc gia càng văn minh, càng hiểu biết về khoa học kỹ thuật bao nhiêu thì lại càng phải hạn chế nhiều hơn các chất phế thải có thể làm ô nhiễm môi sinh cho toàn cầu.

từ thập niên 1980’s đến nay hoa kỳ là một quốc gia đi tiên phong trong việc bảo vệ môi sinh một cách chặc chẽ, nhưng 60 năm trước cụ lý Đông a đã có đưa ra vấn đề duy nhiên trong học thuyết nhân chủ của cụ, vì cụ biết rằng: “giữ được cân bằng sinh thái của thiên nhiên thì chúng ta sẽ tránh được bịnh tật, cũng như các đại họa do thiên tai đem lại cho con người và nếu thiên nhiên bị tàn phá thì không khéo thiên nhiên có thể hủy diệt loài người”. (cơn động đất tạo ra sóng thần tsunami ở nam dương hôm 26 tháng 12 năm 2004 đã thật sự giết khoảng 1 triệu (1,000,000) người nam dương và các du khách, không biết có làm cho nhà cầm quyền hoa lục và cộng sản hà nội tỉnh ngộ chăng ? hay họ chỉ tham lam và kém hiểu biết vẫn tiếp tục phá rừng, xây đập, ngăn chận sông ngòi một cách bừa bải vô ý thức, điều này đã tàn phá môi sinh của Á châu và của chính họ một cách trầm trọng và theo sự đánh giá của chúng tôi, thì hai nhà cầm quyền nói trên đã tàn phá môi sinh một cách có hệ thống vì mưu đồ chính trị để xâm lăng, xâm thực các quốc gia lân bang mong thống trị Á châu mà cộng sản hà nội là tay sai đắc lực nhất hiện nay của bắc kinh). hiện nay các cường quốc văn minh họ đã góp công, góp của, góp sức rất nhiều trong việc bảo vê môi sinh và họ cũng sẽ làm nhiều hơn nữa để giúp các quốc gia nghèo kém mở mang, vì đây là trách nhiệm của các cường quốc và đó cũng là ý nghĩa của câu: “lá lành đùm lá rách” mang đầy tính yêu thương, chứ không phải là hình thức bố thí hay đi xâm lăng chiếm thuộc địa như vài quốc gia Âu châu trong quá khứ đã làm với các quốc gia Á châu, phi châu hay các quốc gia trung Đông. trong sự giúp đỡ mang đầy tính yêu thương này không ai có thế chối bỏ tấm lòng hào hiệp của các cường quốc mà nhất là đối với hoa kỳ về môi sinh để cải thiện đời sống tốt đẹp cho con người trên trái đất này. trong vấn đề cấp bách như hiện nay giới sĩ phu và trí thức của việt nam nói riêng: phải mạnh dạn đứng lên cứu lấy nước giữ lấy nòi, phải cứu lấy hơn 80 triệu con dân việt thoát khỏi ách nô lệ của trung cộng và cộng sản hà nội, những nạn tham lam, tham nhũng cũng như nạn bệnh tật, đói nghèo môi sinh đang tàn phá đất nước việt nam. Đây là một việc làm gấp bách và vô cùng trọng đại. hơn nửa giới trí thức là thành phần hiểu biết hơn người, có cơ hội hơn người, cho nên phải ra sức cứu lấy dân tộc mình, cứu lấy con dân của mình, vì họ cũng là con người như mình và gần hơn nửa họ là anh em đang mang cùng một giòng máu việt như mình. vì vậy điều kiện tối thiểu thương dân thương nước là phải cứu dân giúp đỡ người dân, mở tấm lòng bao dung, rộng lượng, là người trí thức hiểu biết nhiều hơn thì phải có trách nhiệm hy sinh nhiều với tổ quốc hơn là những kẻ thất phu. trong giai đoạn hiện nay của thế giới nói chung và việt nam nói riêng. trí thức là thành phần tinh hoa của một quốc gia của một dân tộc, cho nên công việc đầu tiên của giới trí thức là mạnh dạn đứng lên gióng tiến nói thay cho đại chúng, thành phần trí thức là thành phần luôn có ưu thế trong một xã hội và được người dân luôn dành nhiều sự kính trọng, người trí thức vì hiểu biết nhiều nên phải hy sinh nhiều hơn và có trách nhiệm nhiều hơn, chứ không phải lo cho dân là một ưu tiên cao cả nào đó để họ coi thường người dân, khinh khi người dân, mà nên coi là một trách nhiệm phải đóng góp cho xã hội việt nam. thành phần trí thức phải nhận lấy hết mọi trách nhiệm khi quốc gia suy vong tai biến. theo quan niệm của người xưa, kẻ trí thức khi nhận trách nhiệm lãnh đạo là nhận trách nhiệm với trời với đất để lo cho dân, chứ không nhận trách nhiệm lãnh đạo để chỉ sống xa hoa và hưởng thụ, hay không phải lãnh đạo đất nước để ức chế đất nước, coi tổ quốc như

của riêng mình tùy nghi đem rao, đem bán để mưu cầu quyền và lợi. “làm trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ” đó cũng là trách nhiệm của kẻ sĩ phu, quân tử đối với lịch sử dân tộc vậy. * - xuân thu ướm hỏi bởi vì vị, * - hay bởi xuân thu bởi vị vì. (trích Đạo trường ngâm. x. y. thái dịch lý Đông a) người lãnh đạo không thể đem lại cơm no áo ấm cho người dân cũng như đem lại bình yên cho đất nước, đấy chỉ là bọn người cơ hội và kém trí, họ là những kẻ tội đồ của dân tộc, họ là những kẻ cầm quyền bạo ngược, họ không phải là những người lãnh đạo đúng nghĩa của nó. mọi người sống trong một xã hội đều phải bình đẳng trong trách nhiệm và bình đẳng trước luật pháp, cho nên người lãnh đạo, người trí thức hoàn tất nhiệm vụ của người lãnh đạo, người trí thức. người nông dân, người chiến sĩ làm tròn nhiệm vụ của người nông dân, người chiến sĩ. Đó là trách nhiệm của mỗi người sống trong một xã hội, đó cũng là trách nhiệm mà đất nước đã phó thác cho mình, càng ngồi trên cương vị cao của xã hội bao nhiêu thì trách nhiệm và bổn phận càng nặng nề to lớn bấy nhiêu. người trí thức khi đã nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo đất nước thì không được quyền làm sai vì: “thất bại là có tội với tổ quốc” và không có luật gia giảm, vì mỗi quyết định sai lầm của người lãnh đạo là mỗi tàn phá ghê gớm xảy ra cho dân cho nước. tóm lại ngày xưa con người thường ích kỷ và muốn sống xa rời xã hội, từ ý nghĩ “tôi”, của riêng tôi, gia đình tôi, làng tôi, tôn giáo tôi, dân tộc tôi, đất nước tôi và cái gì “tôi” cũng đều muốn hơn người. nhưng với thời gian cũng như hiện tại đây những suy nghĩ trên đã trở nên đóng khung và hẹp hòi, vì vậy muốn hòa đồng và bình đẳng trong một xã hội hài hòa thì chúng ta phải phá vỡ những suy nghĩ hẹp hòi trên để cùng nhau sống yên vui. khi chúng ta hiểu được nỗi khổ của người cũng là nỗi đau của mình, sự bình an của người cũng là hạnh phúc của ta, chúng ta yêu người để được người kính trọng, thì đó là một xã hội thái bình an lạc để cùng giúp nhau tiến lên. sự giới hạn biên cương quốc gia của thời quá khứ đã làm cho con người bị giới hạn về nhiều lãnh vực, chúng ta nên hiểu rằng giá trị của mỗi cá nhân không phải vì màu da hay chủng tộc, vì địa vị xã hội, vì tài chính giàu nghèo, mà giá trị của mỗi cá nhân được đánh giá qua sự hiểu biết, đạo đức và lòng bao dung. thiếu những đức tính trên con người đó không được trọng nể, hơn nửa một xã hội nhân chủ không đánh giá mỗi cá nhân qua màu da, chủng tộc, tôn giáo, giàu nghèo, nhưng một điều cần nhắc lại ở đây là: “bình Đẳng và Đồng Đẳng” hoàn toàn khác nhau (xin xem lại bài 1 trong ý nghĩa “quần long vô thủ”. bình đẳng ở ngoại tại, nhưng đồng đẳng chỉ khi nào con người đồng đẳng trong nội tâm nghĩa là bằng nhau trong sự hiểu biết của trí tuệ), để rồi một ngày nào đó trong tương lai không xa con người sẽ được đồng đẳng trong trí tuệ, vì lúc đó mỗi cá nhân đều biết tự giác và hoàn thành trách nhiệm của chính mình những thứ “dân quyền”, “dân chủ” giả hiệu của thời quá khứ hiện nay đều không được chấp nhận và không được mọi người tin và nghe theo nữa. rồi đây mọi chủng tộc trên thế giới này sẽ phá tan biên cương màu da, để chỉ còn lại trên làng địa cầu nhỏ bé này chỉ có “một loài người”, cũng vì sự giới hạn của chủng tộc của tôn giáo, mà con người hàng ngàn năm qua đã không ngớt chém giết nhau coi như như kẻ thù cần phải tiêu diệt. nói

một cách khác đã đến lúc con người phải xóa bỏ biên cương màu da, lòng hận thù tôn giáo, lòng ghen ghét đố kỵ, con người phải xuyển dương học thuyết nhân chủ để cho con người có cơ hội bình đẳng, để cho thế giới có một cơ hội hòa bình, con người có cơ hội sống đúng nghĩa là một con người họ sẽ góp công góp sức vào công việc hoàn thiện và làm thăng hoa con người trên trái đất này. những ai cố tình phân chia chủng tộc, cố tình đàn áp bóc lột hay hành hạ diệt chủng các dân tộc nhỏ yếu, là họ đã cố tình chia rẽ và diệt chủng loài người và họ có dã tâm muốn phá hủy nền văn minh địa cầu này. họ là tội phạm của loài người. vì văn minh của nhân loại mà chúng ta đang có ngày hôm nay là nền văn minh tổng hợp của loài người, nên không có văn minh Đông hay tây mà chỉ có một nền văn minh, đó là “văn minh của loài người” và loài người đã phải mất nhiều ngàn năm mới dựng xây nên được, cho nên mỗi cá nhân trong chúng ta đều phải có nhiệm vụ bảo vệ. khi đạt đến tinh thần nhân chủ thì mỗi cá nhân phải hiểu rằng chúng ta xây dựng một xã hội bình an cho chúng ta, chúng ta làm việc để hoàn thành xã hội cho chúng ta, cho con người chung quanh chúng ta, cho đất nước chúng ta đang sống. Đó là sự giáo dục đúng nghĩa duy nhân cương thường trong học thuyết nhân chủ vậy. quá khứ chúng ta đã thấy con người đã suy đồi đạo đức, vô trách nhiệm ngay chính bản thân của chính họ (lấy một ví dụ ngay xã hội việt nam hiện tại dưới sự “giáo dục của cộng sản” đây thì rõ, con người cộng sản chỉ biết lười biếng, lường gạt lẫn nhau, lãnh đạo cộng sản thì lo tham lam tham nhũng. lo vơ vét làm giàu cho bản thân và gia đình, bỏ dân chết mặc dân. người dân khi đã chán chê chế độ thì họ chống đối chế độ bằng cách sống buông thả, nên họ cũng lười biếng và vô trách nhiệm đối với đất nước. người xưa quả nói không sai “thượng bất chính thì hạ tắc loạn” là vậy. kinh nghiệm người ta cho rằng dưới chế độ cộng sản họ dạy con người theo “văn hóa sợ hãi của cộng sản”, cũng vì sợ hãi nên con người không còn đặt nặng vào niềm tin tương lai và càng nhiều sợ hãi nên con người càng nhiều dối trá. cho nên người dân sống ở bất cứ chế độ cộng sản nào trên thế giới họ đều chống lại nhóm cầm quyền cộng sản bằng cách thoái hóa nhân cách (thoái hoá nhân cách là: ăn cắp, nói dối, lười biếng, lường gạt, vô trách nhiệm với ngay chính bản thân của họ). vì vậy khi chúng ta đưa ra tinh thần nhân chủ là tinh thần không còn sợ hãi, mọi người được vực lại niềm tin, họ tự tin nơi chính bản thân của họ, họ tự chủ lấy chính họ, họ tự trọng lấy ngay con người của họ, có như vậy chúng ta mới tạo được cơ hội chung cho tất cả mọi người, để rồi ngày mai con người sẽ được bình đẳng trong nội tâm cũng như ngoại tại. họ tự giác, tự chủ để tự thắng, thắng những nỗi sợ hãi nơi nội tâm, thắng những ươn hèn, tham lam, ti tiện của ngoại tại. Đó cũng là lúc mỗi cá nhân họ đã hiểu và biết trách nhiệm của chính mình, hiểu biết để rồi hoàn thành trách nhiệm với xã hội mình đang sống, có như vậy thì mỗi con người, mỗi cá nhân mới có thể đạt đến “chân, thiện, mỹ” được. nhưng để đào tạo những con người tự giác, tực lực, tự chủ, tự tin, tự trọng, thì không có gì hữu hiệu bằng áp dụng tinh thần nhân chủ như trên đã nói. muốn có tinh thần nhân chủ thì trước hết con người phải có khởi điểm đầu tiên là “bình sản thủy chuẩn”, vì con người muốn sống phải có kinh tế, kinh tế là khởi điểm của sự sống là điều kiện sống tối thiểu của mỗi cá nhân . cho nên wto là tạo ra cho mọi quốc gia trên thế giới có một cơ hội chung, có một hoàn cảnh kinh tế chung cho mọi dân tộc, để mọi người trên trái đất này có điều kiện tối thiểu để sống như một con người, sống xứng đáng với danh con người. xây dựng lại con người nhất là con người ở các quốc gia độc tài đảng trị, con người ở những quốc gia đó họ hầu

như mất hết phẩm giá của con người thật sự. công việc đầu tiên là phải xây dựng một nên kinh tế thật sự vững mạnh, sau kinh tế là giáo dục, y tế ..v..v… đều phải có tính cách chung cho mọi người, xa hơn mỗi dân tộc, mỗi quốc gia là vấn đề toàn cầu phải được giải quyết ở nhiều lãnh vực khác nhau như ví dụ: bệnh dịch cúm gia cầm h5n1 (chúng tôi đã nhiều lần nói qua, xin miễn nhắc lại ở đây) chẳng hạn hay tai nạn thiên tai như: sóng thần (tsunami) xảy ra ở nam dương vào năm 2004, thì mọi quốc gia trên thế giới đều phải giúp đỡ lẫn nhau khi những thiên tai bất ngờ xảy ra cho một quốc gia nào đó. thế giới ngày hôm nay quả thật nhỏ bé so với khoa học kỹ thuật hiện đại và các hệ thống truyền thông, truyền hình tối tân của thời đại điện tử ngày hôm nay. tóm lại là con người phải tiến lên cao đến nền nhân chủ (humocracy), vì nếu con người của ngày hôm nay không tiến lên nhân chủ thì thế giới sẽ phải đối diện với các cuộc chiến tranh chủng tộc, chiến tranh tôn giáo và chiến tranh về biên cương (tranh giành lãnh thổ), bởi lúc đó con người không nhìn thấy cái chung mà họ chỉ nhìn thấy cái riêng, họ không chấp nhận bản chất chung của con người, với những cái hay, cái đẹp, cho nên con người không thể thống nhất được, vì vậy giá trị của con người là giá trị chung mà mọi người, mọi quốc gia đều phải chấp nhận để làm mẫu mực chung cho toàn thế giới. thế cho nên hoa kỳ là quốc gia đầu tiên chấp nhận cái giá trị chung của con người và sẽ trở thành giá trị chung cho toàn cầu trong tương lai, quyền tự do, quyền tư hữu, quyền của con người đã được hiến pháp hoa kỳ đề cao không phải chỉ dành riêng cho người dân hoa kỳ không thôi, mà còn áp dụng cho con người trên toàn thế giới nửa, vì đó là tiêu chuẩn của loài người. Đời sống của người dân hoa kỳ là một niềm mơ ước cho hàng triệu triệu người trên thế giới này, vì người dân trên thế giới này ai cũng mong ước có một cuộc sống với tiêu chuẩn như người dân hoa kỳ, có đầy đủ tiện nghi tối thiểu của cuộc sống, không bị kỳ thị bởi màu da, có công ăn việc làm, được tự do phát biểu tư tưởng cho riêng mình, trước luật pháp mọi người đều được bình đẳng. nhưng nước mỹ không thể là nơi dung thân cho hơn 6 tỷ người trên thế giới này, nếu xóa bỏ đi biên cương lãnh thổ, (cứ nhìn người dân trên thế giới này nhập cư bất hợp pháp vào mỹ chúng ta sẽ thấy điều này), vì vậy trong hiện tại muốn giải quyết vấn đề của con người trên thế giới chỉ có một điều là hoa kỳ mang ý niệm dân chủ ra cho cả thế giới, với sự cộng tác của các phần tử trí thức của từng quốc gia đó, (phải dân chủ hóa toàn cầu trước khi tiến lên ý niệm nhân chủ), để ở bất cứ nơi nào trên thế giới này cũng hiểu và cũng có được dân chủ như hoa kỳ, (vì mọi người dân trên thế giới này khi họ đã có những điều kiện dân chủ thì họ sẽ không còn bỏ nước họ để ra đi), và với sự quyết tâm của hoa kỳ và các phần tử trí thức trên thế giới, chúng ta sẽ dựng xây một nền dân chủ vững mạnh trước khi tiến lên nhân chủ vậy. trong Đạo trường ngâm x.y. thái dịch lý Đông a có nói: * - sao được tráng sĩ vài nghìn muôn, * - cùng ta dong ruỗi khắp doanh hoàn, * - lập lại non sông xưa bách việt, * - dựng nên thế giới mới duy dân * - chèo sang một bến cực lạc. * - vớt lấy năm bể trầm luân.

* - ………………………… * - ………………………….. trích hứng ngâm . 4822 t. v. Đạo trường ngâm cho nên vì lẽ đó hoa kỳ đã mạnh mẽ cổ võ cho nền dân chủ và lên án các chế độ độc tài đảng trị ở những quốc gia còn đang bị đàn áp bóc lột, mà việt nam hiện nay dưới sự cai trị của đảng cộng sản hà nội là một thí dụ rõ nét nhất (kể cả trung cộng, bắc hàn, cuba), và đến một lúc nào đó hoa kỳ sẽ dùng biện pháp quân sự nếu các nước độc tài đảng trị không chịu từ bỏ quyền lực tham lam của họ. lý tưởng yêu thương con người đề cao con người phải được thực hiện đúng mức, nên nhớ là chúng ta đề cao con người chứ không đề cao chủng tộc nào cả, có như vậy con người mới cảm thấy bình đẳng, cảm thấy yên vui hơn, và khi con người tự cảm thấy bình an trong tâm hồn (nội tâm), thì họ mới xây dựng một xã hội (ngoại tại) lý tưởng , và sống đúng theo nhân cách của con người được. con người là sống cho … sống với … chứ không ai có thể tự sống một mình được, vì có như vậy mới tạo thành một xã hội, nhưng khi đã thành một xã hội thì xã hội phải đi theo nguyên tắc sau đây: “giao dịch, biến dịch và bất dịch” và khi đã hiểu được nguyên tắc thì chúng ta phải biết dùng nguyên tắc trên để tiến lên, con người vì có trí khôn nên con người nhìn được nhiều vấn đề để sửa đổi những cái sai của quá khứ. nói khác đi là: “làm sao cho cuộc sống tốt đẹp hơn, làm sao để ngày mai phải vượt xa ngày hôm qua”, người xưa có dạy “nhật tân, nhật nhật tân” (mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn) quả không sai. tự do nội tâm và ngoại tại không phải một thứ để con người phải đi xin ở bất cứ ai (tự do nội tâm - cũng có nghĩa là tín ngưỡng - chúng ta nên nhớ điều này), mà con người phải tự tìm lấy cho nên phải tranh đấu để được có, nhưng tranh đấu phải có phương tiện để tranh đấu, phải có hiểu biết mới tranh đấu hiệu quả được (xin xem lại bài 1 về chân lý tuyệt đối, chân lý tương đối và chân lý đại đồng). sự đụng chạm của một nền văn hóa là vì cách làm khác nhau, cho nên chúng ta phải chọn ra một phương pháp hay nhất và hòa đồng giữa hai nền văn hóa Đông và tây là vậy. văn hóa là cốt để làm cho mọi sự việc phát triển hay hơn, tốt đẹp hơn. những nền văn hóa cổ lâu đời trên thế giới này nếu không đem ra phục vụ cho xã hội, cho con người, thì dầu văn hóa có cổ xưa và tồn tại bao lâu chăng nửa cũng trở nên vô nghĩa và không có giá trị. vì văn hóa đó không phục vụ cho con người. chúng ta phải đào sâu để tìm lại quá khứ của các nền văn hóa cổ trên hành tinh này để hiểu được kinh nghiệm và từ kinh nghiệm đó chúng ta mới có thể rút ra được điểm đúng và sai, từ điểm đúng và sai đó chúng ta lại áp dụng cho tương lai. nói một cách khác chúng ta phải đọc lịch sử để có bản lĩnh chính trị và một cái nhìn suốt dọc cho tương lai của quốc gia của loài người (trong đó có chúng ta). chúng ta học cái đúng của lịch sử để làm đẹp cho tương lai, nhưng chúng ta cũng nên học cái sai của người xưa để tránh lầm lẫn vậy. con người tự xa xưa cho đến nay đều có những điểm giống nhau, ví dụ như: phải ăn mới sống được, phải có những nhu cầu hít thở, phải có nhu cầu học hỏi, phải có nhu cầu truyền sinh ..v.v…Đó là những như cầu căn bản muôn thuở của con người. nhưng khi nói đến sự tiến hóa của loài người thì những nhu cầu căn

bản nói trên phải được nâng cao cả phẩm lẫn lượng, có nghĩa là từ cuộc sống thiếu thốn, nghèo đói của ngày qua, con người của ngày nay phải thăng hoa lên cho cuộc sống có nhiều, ý vị, ý nghĩa sống hơn và cuộc sống có nhiều giá trị hơn, cho nên chúng ta phải đề cao con người, đề cao con người là đề cao phẩm giá của loài người, đề cao giá trị của con người là ý nghĩa đó. từ ý nghĩa này chúng ta đi vào thực hành là tôn trọng nhân quyền, đề cao nhân chủ. Đề cao giá trị của con người ngày hôm nay là đề cao dân quyền (không phải thứ “dân quyền” của ngày qua), nhưng chỉ có dân quyền không thôi vẫn chưa đủ và không hữu hiệu để giải quyết những bế tắc trong xã hội loài người. vì đề cao dân quyền chỉ đóng khung trong một xã hội nào đó, hay nói nôm na là “đèn nhà ai nấy rạng”. chúng ta đề cao giá trị của con người ngày hôm nay là một trách nhiệm chung cho toàn cầu và đề cao giá trị của mọi chủng tộc dù nhỏ hay lớn, dù giàu hay nghèo, và vì tất cả đều là con người sống trong ngôi làng địa cầu nhỏ bé này, cho nên thiên tai và bịnh tật xảy ra cho một nước láng giềng là thiên tai bịnh tật cho tất cả mọi người trên thế giới (ví dụ như các loại bịnh dịch truyền nhiễm như hiện nay), con người càng ngày càng ý thức cho nên con người càng ngày càng liên kết với nhau. vì vậy những suy nghĩ hẹp hòi, những đầu óc kém cỏi, những con người kém trí ti tiện cần phải được dẹp bỏ. con người hiểu biết có trách nhiệm và có suy nghĩ lớn cần phải đứng lên để giải quyết các vấn nạn đang xảy ra cho toàn nhân loại. Ở mỗi quốc gia những thành phần trí thức hiểu biết của từng quốc gia ấy phải có trách nhiệm đối với đất nước của mình, lo cho sự đói nghèo của dân mình, lo cho sự bình an hạnh phúc của chính tổ quốc mình, thì những nước lớn (cường quốc) có trách nhiệm sẽ giúp đỡ. Để cho nhân dân đói khổ đất nước lầm than nghèo đói, đó là trách nhiệm của phần tử trí thức. người trí thức hiểu biết nhưng vẫn ngoảnh mặt làm ngơ trước sự thống khổ của dân mình, sống vinh thân phì da trong khi hàng triệu người khốn khổ, hay chỉ biết chạy theo bả danh vọng của đám cầm quyền ti tiện tham lam để hưởng thụ trục lợi, thì đó là một trọng tội với dân với nước. cụ lý nói: * - thẹn những bác y ô chi lải nhải * - mải sân trình, cửa khổng, mải ba lê! * - mộng hầu quan tứ xứ lạc đường quê, * - quê nước ở trong hồn người tự chủ. * - …………………………………… * - thẹn dân nước trong sống còn ngoi ngóp. * - cũng vua quan, phẩm sắc, cũng giàu sang. * - miếng thịt xôi luồn lọt mà đỉnh đang, * - luống để thẹn nghìn năm người da ngựa. Đạo trường ngâm - quốc sỉ - 4824 t.v. trí thức là thành phần hiểu biết, là tinh hoa của một xã hội. là người trí thức mình phải nhìn nhận công ơn của dân của nước và coi đó như là công ơn của một công trình giáo

hóa, mà không thể coi như một thị trường mua bán chữ nghĩa. nghĩa là thành phần trí thức phải tự nhận mình có trách nhiệm với đất nước để lo cho dân cho nước khi được người dân tôn trọng và dành cho mình một địa vị xứng đáng trong xã hội, chứ không phải ngồi vào địa vị cao trong xã hội mà chỉ biết tham lam, tham nhũng, đàn áp bóc lột, ức hiếp người dân để vinh thân phì da. những suy nghĩ trên là quan niệm của thời thực dân, phong kiến ngày hôm qua còn rơi rớt lại. nhưng ngày hôm nay thì lại khác hẳn, người trí thức của ngày hôm nay là lo cho thiên hạ trước nhưng lại hưởng sau thiên hạ. kiến thức của ngày hôm qua trước tiên là dùng để phục vụ cho chính bản thân mình, cho gia đình mình. kiến thức của ngày hôm nay là để phục vụ chung cho tất cả mọi người, ngày nay và ngày mai là kiến thức chung của toàn nhân loại để phụng sự cho nhân loại, vì vậy chúng ta nói rằng không có văn minh Đông hay tây mà chỉ có một văn minh chung của nhân loại. chỉ có những con người hiểu biết mới dám mạnh dạn bước đi những bước tiên phong, chỉ có những con người hiểu biết mới dám hy sinh cho đại nghĩa, chỉ có hiểu biết mới mạnh dạn đứng lên đem ánh sáng vào trong bóng tối. giá trị của giáo dục là cải hóa con người, biến đổi con người từ xấu sang tốt, giáo dục là dạy con người không biết trở thành người hiểu biết, và từ sự hiểu biết đó con người sẽ thương yêu nhau nhiều hơn, chúng ta thương yêu trẻ, kính già, vì chúng ta hiểu rằng trẻ thơ của ngày hôm nay sẽ tiếp tục thay thế vai trò của chúng ta ngày mai và ngày mai chúng ta cũng sẽ trở thành già nua lỗi thời, chúng ta được sự hiểu biết không phải vì chúng ta giỏi mà vì chúng ta may mắn có được môi trường, có được cơ hội tốt để học hỏi, cho nên chỉ có quên mình thì chúng ta mới nhìn thấy chính mình, vì người cũng giống như mình, họ cũng biết đau, biết khổ, biết vui, biết buồn. nói một cách khác là chúng ta tạo ra một hoàn cảnh tốt cho người để ngày mai chúng ta lại được giúp đỡ vì tiến trình sống của mỗi con người đều giống nhau trong quan niệm sinh lão bịnh tử, sự hiểu biết là một thấu kính nhìn xuyên suốt vào tương lai mà người không hiểu biết không thể nhìn được. cho nên giá trị của sự giáo dục là giá trị cao nhất cho kiếp nhân sinh này, chỉ có giáo dục mới đem con người tiến nhanh đến xã hội nhân chủ. chúng ta đang trong tiến trình hình thành một xã hội nhân chủ cho toàn cầu, nên phải áp dụng chính trị quan tương đối để thực hiện lý tưởng của con người, ngày mai đây khi con người hiểu được sự “tiến - hóa”, thì nhân loại sẽ thống nhất và định được hướng đi đến xã hội “duy dân nhân chủ pháp trị”. như vậy cuộc cách mạng hiện nay hoa kỳ đang mang một sứ mệnh là: thống nhất nhân loại, chỉ có hiến pháp hoa kỳ mới bảo vệ nhân quyền (con người) chứ không bảo vệ chỉ riêng công dân hoa kỳ. nghĩa là hiến pháp của hoa kỳ bảo vệ tất cả mọi người dân sống trong đất nước của họ không phân biệt màu da hay chủng tộc, hay cho dù những người sống bất hợp pháp, xa hơn nửa “nhân quyền” là bảo vệ con người sống trong “làng Địa cầu” này. cuộc cách mạng “dân quyền của pháp” đã được thay thế bằng cuộc cách mạng “nhân quyền của hoa kỳ” (chúng ta không được lần lẫn điều này). sự đụng chạm giữa hai nền văn hóa Đông và tây phải giải quyết trên căn bản con người. Đó là sự ra đời của các ủy ban không biên giới và tất cả phải ăn năn phải sám hối trước “mồ Đống lịch sử”, quên đi quá khứ thù hận và hướng về tương lai với tất cả chân tình để xây dựng ngày mai. Đó là tinh thần “viêm tế của hoa kỳ” như cụ lý đã nói tới. nhóm người khủng bố đã xem sự sống con người quá rẻ, dùng sinh mạng của con người

để tạo áp lực, cũng như vài chính quyền cộng sản còn rơi rớt lại trên hành tinh này chúng xem sinh mạng và sự sống con người như là một phương tiện, điều này sai nên không thể chấp nhận được. các nhóm khủng bố, nhà cầm quyền bắc kinh cũng như các chính quyền cộng sản, độc tài cần phải bị đập tan, thì nhân loại này mới thật sự bình an. lê văn xương còn tiếp bài 3 ---------------------------------------------------------------------