Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Mục lục : PHẦN 1 : LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :......................................................................................................1 PHẦN 2 : QUI TRÌNH TRỒNG LÚA NƯỚC :................................................................................3 A. Giai Doạn Phát Triển Của Cây Lúa..................................................................................................3 B. Qui trình kỹ thuật trồng lúa cấy :......................................................................................................7 Chuẩn bị hạt giống.............................................................................................................................8 Ngâm ủ hạt giống...............................................................................................................................8 Các phương thức làm mạ...................................................................................................................9 Làm đất gieo mạ.................................................................................................................................9 Chăm sóc và quản lý ruộng mạ........................................................................................................10 Kỹ thuật làm đất cấy........................................................................................................................10 Kỹ thuật cấy.....................................................................................................................................11 Kỹ thuật chăm sóc lúa cấy...............................................................................................................11 Thu hoạch bào quản.........................................................................................................................12 C. Qui trình kỹ thuật trồng lúa sạ :.......................................................................................................13 Thời vụ và nhóm giống lúa theo vùng sinh thái..............................................................................13 Chuẩn bị giống và làm đất...............................................................................................................14 Kỹ thuật sạ.......................................................................................................................................14 Chăm sóc lúa sạ...............................................................................................................................15 Thu hoạch bào quản.........................................................................................................................15 PHẦN 3 : NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT CỦA NHÓM :......................................................................16 I. Quy trình thực hiện 3 giảm 3 tăng................................................................................................16 III. Luật "2 xanh - 2 vàng" của ruộng lúa năng suất cao.................................................................17 IV. Một số vấn đề cần quan tâm trong sử dụng phân bón cho cây lúa ...........................................18 PHẦN 4 : CÂU HỎI ĐỀ NGHỊ CỦA THẦY :...................................................................................19 PHẦN 5 : CÂU HỎI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN :..........................................................................24
PHẦN 1 : LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : Luùa laø moät trong naêm loaïi caây löông thöïc chính cuûa theá giôùi.
Trang 1
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Luùa laø caây löông thöïc quan troïng nhaát cuûa nöôùc ta, ñaët bieät laø ôû Ñoàng Baèng Soâng Cöûu Long (ÑBSCL). Troàng luùa laø moät ngheà truyeàn thoáng cuûa nhaân daân Vieät Nam töø raát xa xöa; coù leõ khi ngöôøi Vieät coå xöa baét ñaàu coâng vieäc troàng troït thì caây luùa ñaõ ñöôïc quan taâm ñaàu tieân. Kinh nghieäm saûn xuaát luùa ñaõ hình thaønh, tích luõy vaø phaùt trieån cuøng vôùi söï hình thaønh vaø phaùt trieån cuûa daân toäc ta. Nhöõng tieán boä cuûa khoa hoïc kyõ thuaät trong nöôùc vaø theá giôùi treân lónh vöïc nghieân cöùu vaø saûn xuaát luùa ñaõ thuùc ñaåy maïnh meõ ngaønh troàng luùa nöôùc ta vöôn leân baét kòp trình ñoä tieân tieán cuûa theá giôùi. Nhöõng naêm gaàn ñaây, Vieät Nam ñaõ tham gia vaøo thò tröôøng luùa gaïo quoác teá vôùi saûn löôïng gaïo xuaát khaåu haøng naêm ñöùng thöù 2 – 4 trong soá caùc nöôùc xuaát khaåu gaïo. ÑBSCL laø vöïa luùa lôùn nhaát cuûa caû nöôùc, ñaõ goùp phaàn quan troïng trong thaønh quaû chung ñoù. Tröôøng Ñaïi hoïc Caàn Thô “moät Trung taâm Vaên hoùa Khoa hoïc vaø Kyõ thuaät cuûa ÑBSCL” - ñaõ coù nhöõng ñoùng goùp tích cöïc cho saûn xuaát luùa trong vuøng, döôùi nhieàu hình thöùc khaùc nhau, trong ñoù chöùc naêng ñaøo taïo ñoäi nguõ caùn boäkhoa hoïc - kyõ thuaät cho ÑBSCL laø heát söùc quan troïng. Ñoái vôùi ngöôøi Vieät chuùng ta caây luùa khoâng chæ laø moät loaïi caây löông thöïc quyù maø coøn laø moät bieáu töôïng trong vaên chöông aån döôùi "baùt côm","haït gaïo".Vieät Nam, moät nöôùc coù neàn kinh teá noâng nghieäp töø haøng ngaøn naêm nay. Töø moät nöôùc thieáu löông thöïc traàm troïng trong nhöõng naêm chieán tranh nhöng hieän nay, neàn noâng nghieäp cuûa nöôùc ta khoâng chæ saûn xuaát ra ñuû moät löôïng lôùn löông thöïc ñaùp öùng nhu caàu trong nöôùc maø coøn xuaát khaåu sang nhieàu thò tröôøng lôùn treân theá giôùi. Trong ñoù ngaønh troàng luùa ôû nöôùc ta laø moät trong nhöõng ngaønh ngaønh saûn xuaát löông thöïc voâ cuøng quan troïng vaø ñaït ñöôïc nhöõng thaønh töïu ñaùng keå, ñöa Vieät Nam trôû thaønh nöôùc xuaát khaåu gaïo lôùn thöù hai treân theá giôùi. Ñoái vôùi ngöôøi Vieät chuùng ta, hay phaàn lôùn daân AÙ chaâu noùi chung, caây luùa (teân khoa hoïc laø Oryza sativa) vaø haït gaïo laø moät loaïi thöïc phaåm heát söùc gaàn guõi vaø ñoùng moät vai troø cöïc kyø quan troïng trong dinh döôõng. Ngay töø khi coøn trong loøng meï, chuùng ta ñaõ laøm quen vôùi côm gaïo, vaø lôùn leân theo caây luùa cuøng haït gaïo. Vôùi baûn saéc vaên hoùa noâng nghieäp, caây luùa vaø haït gaïo coøn laø moät bieåu töôïng cuûa cuoäc soáng. Ca dao, khaåu ngöõ chuùng ta coù caâu “Ngöôøi soáng veà gaïo, caù baïo veà nöôùc”, hay “Em xinh laø xinh nhö caây luùa”, v.v..
Trang 2
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Qua haøng nghìn naêm lòch söû, luùa ñaõ laø caây löông thöïc chuû yeáu nuoâi soáng caùc theá heä ngöôøi Vieät cho ñeán nay. Trong ñôøi soáng tinh thaàn cuûa con ngöôøi, caây luùa cuõng gaén boù thaân thieát voâ cuøng. Ñieàu ñoù ñöôïc theå hieän raát roõ trong ngoân ngöõ haøng ngaøy, trong caùch noùi, caùch ñaët teân, goïi teân töø cöûa mieäng cuûa nhöõng ngöôøi hai söông moät naéng.
PHẦN 2 : QUI TRÌNH TRỒNG LÚA NƯỚC : A. Giai Doạn Phát Triển Của Cây Lúa Sơ đồ Phát triển:
Giai đoạn sinh trưởng : tính theo giai đoạn sinh trưởng thì có 10 giai đoạn 1. Giai đoạn trương hạt. ↓ 2. Giai đoạn hạt nảy mầm. ↓ 3. Giai đoạn đẻ nhánh. ↓ 4. Gian đoạn phát triển lóng thân. ↓ 5. Giai đoạn phân hoá hoa. ↓ 6. Giai đoạn trỗ bông.
Trang 3
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
↓ 7. Giai đoạn nở hoa thụ phấn, thụ tinh. ↓ 8. Giai đoạn hạt chín sữa. ↓ 9. Giai đoạn hạt chín sáp. ↓
10. Giai đoạn hạt chín hoàn toàn.
Thời gian sinh trưởng phát triển của cây lúa
Thời gian sinh trưởng của cây lúa được tính từ khi hạt lúa nảy mầm đến khi chín hoàn toàn, thay đổi tuỳ theo giống và điều kiện ngoại cảnh. - Đối với lúa cấy: Bao gồm thời gian ở ruộng mạ và thời gian ở ruộng lúa cấy. - Đối với lúa gieo thẳng: Được tính từ thời gian gieo hạt đến lúc thu hoạch. Ở miền Bắc các giống lúa ngắn ngày có thời gian sinh trưởng 90 - 120 ngày, giống lúa trung ngày là 140 - 160 ngày. Các giống lúa chiêm cũ, do thời vụ gieo cấy có điều kiện nhiệt độ thấp nên thời gian sinh trưởng kéo dài 180 200 ngày. Ở đồng bằng sông Cửu Long các giống lúa địa phương có thời gian sinh trưởng 200 -240 ngày ở vụ mùa , cá biệt những giống lúa nổi có thời gian sinh trưởng đến 270 ngày.. Giai đoạn nảy mầm
Đời sống cây lúa bắt đầu bằng quá trình nẩy mầm. Hạt nảy mầm được cần phải hút no nước, do vậy, để hạt lúa nảy mầm cần ngâm hạt vào nước khoảng ba ngày đêm (72 giờ) hạt mới hút đủ nước. Cứ mỗi ngày đêm (24 giờ) thay nước một lần. Hạt đã hút no nước được vớt ra, đãi sạch và ủ hạt từ 24-30 giờ. Trong suốt quá trình ngâm ủ, trong hạt xảy ra các hoạt động hoạt hoá tinh bột, protein và các chất béo để biến đổi thành những chất đơn giản cung cấp dinh dưỡng nuôi phôi, các tế bào phôi phân chia lớn lên thành mầm và rễ mầm, trục phôi trương to, đẩy mầm và rễ mầm ra khỏi vỏ trấu, kết thúc giai đoạn nảy mầm. Giai đoạn mạ
Trang 4
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Thời kỳ mạ dài, ngắn tuỳ thuộc vào giống, mùa vụ hoặc phương pháp gieo trồng. Gieo mạ ruộng (mạ dược) đối với các giống lúa cũ dàI ngày, thời kỳ mạ khoảng 40 - 45 ngày ở vụ mùa, 50 -60 ngày ở vụ đông xuân, các giống lúa ngắn ngày khoảng 25 -30 ngày. Gieo mạ nền, mạ sân tuổi mạ 15 -18 ngày ở trà xuân muộn, gieo mạ khay (mạ Nhật bản) thời gian tuổi mạ chỉ 7-10 ngày tương ứng với 2,5 -3 lá ở vụ mùa. Từ lúc gieo đến khi ra được 3 lá thật tốc độ hình thành các lá đầu tương đối nhanh, rễ phôi cũng phát triển và hình thành vài lứa rễ đầu tiên nhưng số lượng rễ chưa nhiều.để cho cây mạ sinh trưởng thuận lợi sau khi gieo cần giữ ẩm cho ruộng mạ, tránh bị ngập hoặc hạn. Thời kỳ này dinh dưỡng của cây mạ chủ yếu dựa vào chất dự trữ trong hạt nên chưa cần bón thúc. Cây mạ còn nhỏ, yếu, khả năng chống chịu kém. Vì vậy cần tạo điều kiện để cây mạ có khả năng chống chịu rét, sâu bệnh. .. Từ khi cây mạ có 4 lá thật đến khi có 5 - 6 lá đối với giống trung ngày và 6 - 7 lá đối với giống dài ngày là có thể nhổ cấy.
Giai đoạn đẻ nhánh Điều kiện bình thường sau cấy 5 -7 ngày cây lúa có thể bén rễ hồi xanh, chuyển sang đẻ nhánh. Trời âm u, thiếu ánh sáng, nhiệt độ thấp, thời gian bén rễ hồi xanh kéo dài 15 -20 ngày, thậm chí 25 - 30 ngày ở vụ chiêm xuân phía Bắc. Thời kỳ đẻ nhánh, cây lúa sinh trưởng nhanh và mạnh về rễ và lá . Thời kỳ này quyết định đến sự phát triển diện tích lá và số bông. Thời gian đẻ nhánh phụ thuộc vào giống, thời vụ và biện pháp kỹ thuật canh tác. Thời gian đẻ nhánh có thể kéo dài trên dưới 2 tháng ở vụ chiêm xuân, 40 - 50 ngày ở vụ mùa, 20 - 25 ngày ở vụ hè thu. Trên cây lúa chỉ có những nhánh đẻ sớm, ở vị trí mắt đẻ thấp, có số lá nhiều, điều kiện dinh dưỡng thuận lợi mới có điều kiện phát triển đầy đủ để trở thành nhánh hữu hiệu ( nhánh thành bông). Giai đoạn phát triển đốt thân Trên đồng ruộng sau khi đạt số nhánh tối đa cây lúa chuyển sang thời kỳ làm đốt * Thời gian làm đốt - Thời gian làm đốt dài hay ngắn có liên quan chặt chẽ đến thời kỳ trỗ bông, cũng như liên quan đến số lóng kéo dài trên thân nhiều hay ít. - Giống lúa ngắn ngày có thời gian làm đốt khoảng 25 -30 ngày, giống lúa trung ngày 30 - 40 ngày và dài ngày khoảng 50 -60 ngày. Thời gian làm đốt cũng có những quy luật nhất định. ở vụ mùa, cây lúa làm đốt vào trung tuần tháng 8, trước khi làm đòng 7 đến 20 ngày tuỳ giống. ở vụ chiêm xuân, cây lúa làm đốt vào trung tuần tháng 3, trước khi làm đòng 5 - 7 ngày. * Quá trình làm đốt: Thân lúa được phát triển từ trục phôi. Trong thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng, thân lúa là thân giả do các bẹ lá tạo thành. Từ thời kỳ làm đốt trở đi, thân lúa chính thức mới hình thành. Quá trình làm đốt được tính khi lóng thứ nhất ở gốc thân có chiều dài lớn hơn 0,5 cm . Các lóng ở dưới gốc thường ngắn, tốc độ phát triển chậm. Các lóng trên dài hơn và tốc độ phát triển nhanh hơn. Giai đoạn làm đòng
Trang 5
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Giai đoạn làm đòng ( từ phân hoá đòng đến đòng già), là quá trình phân hoá và hình thành cơ quan sinh sản, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành năng suất lúa. Ở thời kỳ này, cây lúa có những thay đổi rõ rệt về hình thái, màu sắc lá, sinh lý, khả năng chống chịu ngoại cảnh. Quá trình này diễn ra ở dỉnh điểm sinh trưởng của các nhánh cây lúa, có thể nhìn thấy đòng lúa bắng mát thường khi đòng đã dài 1mm, nông dân gọi là cứt gián. Sau khi hình thành bông nguyên thủy là giai đoạn vưon dài kết hợp với sự hình hình thành bông, gié và hoa hoàn chỉnh. Lúc này chiều dài của đòng có thể đạt từ 6-12cm, bằng 1/2 chiều dài của bông sau này. Đòng lúa lớn dần, phình to và phát triển cả về chiều dài. Giai đoạn trổ bông
Khi đòng đã hoàn chỉnh cây lúa bắt đầu trỗ. Toàn bộ bông lúa thoát ra khỏi bẹ lá đòng là quá trình trỗ xong với thời gian 4-6 ngày. Thời gian trỗ càng ngắn càng có khả năng tránh được các điều kiện thời tiết bất thuận. Cùng với quá trình trỗ bông, có giống vừa nở hoa vừa thụ phấn ngay, nhưng cũng có giống phải chờ trỗ xong mới tiến hành nở hoa thụ phấn. Giai đoạn nở hoa, thụ phấn và thụ tinh
Trên một bông, những hoa ở đầu bông và đầu gié nở trước, các hoa ở gốc bông thường nở cuối cùng. Trình tự nở hoa có liên quan đến trình tự vào chắc. Những hoa gốc bông nở cuối cùng, nên vào chắc muộn và khi gặp điều kiện bất thuận thường dễ bị lép và khối lượng hạt thấp. Khi nở hoa phơi màu, vỏ trấu mở ra. Bao phấn vỡ, hạt phấn rơi vào đầu nhụy, ống phấn vươn dài tới phôi nang, vỡ ra, giải phóng 2 hạch đực. 1 hạch kết hợp với trứng và phát triển thành phôi. Hạch đực còn lại kết hợp với hạch thứ cấp và phát triển thành phôi nhũ. Sau 8-10 ngày có thể phân biệt rõ các bộ phận của phôi như trục phôi, mầm và rễ phôi. Sau 2 tuần phôi đã phát triển xong và nằm ở dưới bụng hạt. Giai đoạn làm hạt
Giai đoạn chín một lượng lớn các chất tinh bột và đường tích luỹ trong thân, bẹ lá được vận chuyển vào hạt, hạt lúa lớn dần về kích thước, khối lượng, vỏ hạt đổi màu, già và chín. Lá lúa cũng hoá già bắt đầu từ những lá thấp lên trên theo giai đoạn phát triển của cây lúa cùng với quá trình chín của hạt. Giai đoạn chín sữa
Sau phơi màu 5 - 7 ngày, chất dự trữ trong hạt ở dạng lỏng, trắng như sữa. Hình dạng hạt đã hoàn thành, lưng hạt có màu xanh. Khối lượng hạt tăng nhanh ở thời kỳ này, có thể đạt 75 - 80 % khối lượng cuối cùng. Giai đoạn chín sáp
Giai đoạn này chất dịch trong hạt dần dần đặc lại, hạt cứng. Màu xanh ở lưng hạt dần dần chuyển sang màu vàng. Khối lượng hạt tiếp tục tăng lên. Trong pha khởi đầu của sự chắc hạt, hàm lượng nước của hạt khoảng 58% và giảm xuống còn khoảng 20 %. Khi nhiệt độ tăng, hàm lượng nước giảm nhanh hơn. Giai đoạn chín hoàn toàn
Giai đoạn này hạt chắc cứng. Vỏ trấu màu vàng - vàng nhạt. Khối lượng hạt đạt tối đa.
Trang 6
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
B. Qui trình kỹ thuật trồng lúa cấy :
Chuẩn bị hạt giống ↓ Ngâm ủ hạt giống ↓ Các phương thức làm mạ ↓ Làm đất gieo mạ ↓ Chăm sóc, quản lý ruộng mạ ↓ Kỹ thuật làm đất cấy ↓ Kỹ thuật cấy ↓ Kỹ thuật chăm sóc lúa cấy ↓ Thu hoạch và bảo quản
Trang 7
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Chuẩn bị hạt giống Vụ đông xuân: Gieo đầu tháng 11 đến 25/11. Sử dụng các giống lúa OMCS 2000, OMCS21, TNĐB100, ML48, OM1706, OM1633, VND404, VND95- 19, M Vụ hè thu: Gieo đầu tháng 4 đến 25/4. Sử dụng các giống lúa OMCS 2000, OMCS21, TNĐB100, ML48, OM1706, OM1633, VND404, VND95- 19, MTL250, Vụ mùa: Gieo 5/5- 30/5. Sử dụng các giống lúa VND404, VND95-19, MTL250,MTL392, MTL449,Khao105, Nàng thơm chợ đào 5, Nàng Hương 2... Để có hạt giống tốt đối với những hộ nông dân tự làm giống phải tuân thủ quy trình sản xuất và bảo quản giống do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định. Nếu không tự sản xuất được thì phải mua hạt giống tại những cơ sở cung cấp giống tin cậy. Hạt giống khỏe phải đảm bảo những yêu cầu sau: • • •
Hạt giống phải khô, sạch, chắc mẩy, thuần, đúng giống, đồng nhất về kích cỡ, không bị lẫn những hạt giống khác, không bị lẫn hạt cỏ và tạp chất, không có hạt lem, lép và không bị dị dạng. Hạt giống không bị côn trùng phá hoại (sâu mọt), không mang mầm bệnh nguy hiểm. Tỉ lệ nảy mầm cao, đạt 85% trở lên.
Ngâm ủ hạt giống Thực hiện tốt các khâu kỹ thuật ngâm ủ hạt giống sẽ có tỷ lệ nảy mầm cao, loại bỏ được một số loại bệnh hại và kí sinh trên hạt • • •
Phơi lại hạt giống Thử tỷ lệ nảy mầm Chọn hạt tốt, loại bỏ hạt lép lửng
Trang 8
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2 •
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Xử lí hạt giống : Có thể sử dụng một trong các phương pháp sau: + Xử lí bằng nước nóng 540c ( pha tỷ lệ 3 sôi 2 lạnh): Ngâm hạt vào nước lạnh 24 giờ, sau đó đưa vào nước nóng 45- 470c trong 5 phút và cuối cùng là nước nóng 54- 550c trong 10 phút. + Xử lí bằng nước vôi: Hòa tan 1kg vôi sống vào 100 lít nước, ngâm 1-2 ngày ở vụ mùa, 3-4 ngày ở vụ xuân, đãi sạch rồi ủ thúc mầm. + Xử lí bằng hoá chất Formalin: Dung dịch 2% phun vào hạt giống ( 5 lít dung dịch cho 50 kg hạt giống), ủ kín 3 giờ, đãi sạch rồi thúc mầm.
Bí quyết ngâm : • •
Ngâm hạt: Để hạt nảy mầm cần phải ngâm hạt hút đủ độ ẩm cần thiết. Thời gian ngâm tùy thuộc nhiệt độ, 1-2 ngày ở vụ mùa, 2-3 ngày ở vụ đông xuân. Trong quá trình ngâm, hạt hô hấp yếm khí, thiếu ô xy làm nước chua, cần phải thay nước mỗi ngày một lần. Ủ thúc mầm: Sau khi hạt đã hút đủ nước, đem ủ, để hạt nảy mầm. Trong quá trình ủ, nên định kỳ vảy nước và trộn đảo hạt để hạt nẩy mầm đều.
Các phương thức làm mạ Tùy điều kiện đất đai và thời tiết, có thể làm mạ bằng nhiều phương pháp khác nhau: Mạ dược: Là hình thức phổ biến nhất. Ruộng mạ được giữ nước, làm đất kỹ, trang phẳng rồi lên luống, gieo hạt đã nảy mầm, giữ ẩm thời kỳ đầu sau đó mới tưới nước cho đến lúc cấy. Mạ sân (mạ nền): Những năm rét nhiều ở vụ xuân, mạ dược thường chết gây thiêu mạ, phảI khắc phục bằng làm mạ sân (Thường là vụ xuân muộn). Xuất phát từ kinh nghiệm làm mạ Dapog của Philippin. Làm đất khô trước khi gieo, lót giấy PE hoặc lá chuối, rải một lớp đất bột mỏng rồi gieo hạt, tưới ẩm. Mạ Dapog gieo dày (2-2,5 Kg/m2), tuổi mạ 10-15 ngày. Mạ khô (mạ đồi, mạ nương): Làm đất khô, gieo sâu 2-3 cm (hoặc chọc lỗ bỏ hạt) dùng cào, bừa răng lấp hạt. ..ở đồng bằng, làm đất nhỏ lên luống, gieo hạt, lấp một lớp đất bột mỏng và tưới ẩm. Loại mạ này, sau cấy bén rễ nhanh, mọc khỏe. Mạ nổi (mạ bè): Phổ biến ở vùng đất trũng không làm được mạ dược (mạ nước). Lấy rơm cỏ kết thành bè rộng 1-1,2 m, nổi lên 3-5 cm, dùng đất sét, bùn loãng rải lên rồi gieo mầm. Làm đất gieo mạ a. Mạ dược: Chuẩn bị ruộng mạ : Chọn chân ruộng cao, chủ động tưới tiêu, đất cát pha hoặc nhẹ và tiện chăm sóc. Làm đất: Đất cày ngả sớm, bừa 4-6 lần, nhuyễn và sạch cỏ. Nếu đất chua có thể bón vôi 20 kg/ sào Bắc Bộ. Bón lót 3- 4 tạ phân chuồng, 7-10 kg supe lân, 2 kg urê và kali/ sào. Lên luống rộng 1,2 - 1,4 m, có rãnh thoát nước, mặt luống phẳng ở vụ đông xuân, mặt luống hơi vồng ở vụ mùa để dễ thoát nước.
Trang 9
thịt 153kg
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Gieo mạ: Hạt giống sau khi xử lí, ngâm ủ nảy mầm đều là đem gieo Mật độ và kỹ thuật gieo: Vụ đông xuân gieo 40-45 kg/ sào Bắc bộ, vụ mùa ít hơn( tùy theo giống, thời vụ và khối lượng hạt). Gieo hơi chìm hạt, nhất là vụ đông xuân để chống rét, sau gieo có thể phủ một lớp tro mộc ( 8-10 kg/sào). b. Mạ sân, mạ trên nền đất cứng: Là giải pháp tình thế trước đây để khắc phục hiện tượng thiếu mạ trong vụ đông xuân, do thời tiết rét đậm kéo dài, mạ dược bị chết nhiều. Song hiện nay biện pháp này đã trở thành tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi. Làm mạ sân hay mạ trên nền đất cứng không phức tạp chỉ cần chọn được nền đất cứng (bờ mương, ven đường, sân, vườn..), làm cho mặt đất phẳng, rải một lớp bùn hoặc đất bột mỏng lên sân hay nền đất cứng . Chăm sóc và quản lý ruộng mạ
Chăm sóc mạ dược: Nước: Ở thời kỳ mạ non (từ gieo đến 3lá), mặt luống cần được giữ ẩm để rễ phát triển thuận lợi. Khi mạ có 4 lá đến nhổ cấy tùy theo thời tiết và sinh trưởng của mạ để quyết định chế độ tưới nước. Khi cần chỉ tưới nước vào rãnh để luống mạ đủ ẩm. Trước khi nhổ có thể tưới trước 5-7 ngày cho đất mềm, dễ nhổ, tránh đứt rễ. Phân bón: Bón thúc vào thời kỳ mạ 3-4 lá, Lượng bón từ 0,5- 1,0 kg Urê/ sào Bắc bộ tùy theo giống và độ phì đất. Trước khi nhổ cấy 3-5 ngày, có thể bón tiễn chân giúp cây mạ ra rễ mới. Mạ tốt, mạ già không nên bón thúc nhiều. Phòng chống rét: Dùng các giống chịu rét. Gieo đúng thời vụ, gieo vào lúc trời ấm, gieo mật độ dày, tăng phân chuồng và lân, không bón đạm vào lúc trời rét, điều tiết nước và che phủ Nilon cho mạ trong những đợt rét. Phòng chống mạ già, mạ ống: Mạ đông xuân rất mẫn cảm với nhiệt độ. Cần đề phòng mạ ống khi thời tiết ấm, nhiệt độ bình quân trên 200c kéo dài và tích ôn đạt 5000c . Điều kiện đất tốt, nước nhiều, gieo dày cũng dẫn tới mạ ống. Biện pháp chống mạ già và ống: Rút nước để ruộng mạ khô, không bón đạm, bố trí thời vụ thích hợp và tránh tình trạng “mạ chờ ruộng”. Phòng chống sâu bệnh cho mạ: Tiến hành phòng trừ khi sâu bệnh phát sinh rộ. Tiêu chuẩn mạ tốt: Mạ cứng cây, khỏe, tỉ lệ bẹ / lá cao, đanh dảnh, màu sắc lá xanh vàng, tỉ lệ C/N thích hợp, mạ không bị ống, có sức ra rễ mạnh và không có sâu bệnh. Đúng tuổi: Tuổi mạ cấy tùy thuộc vào giống, thời vụ và phương pháp làm mạ. Để tính tuổi mạ có thể dùng ngày tuổi hoặc số lá. Thí dụ, ở vụ mùa tính tuổi mạ theo ngày tuổi, còn ở vụ đông xuân theo số lá (mạ dược 5-6 lá, mạ sân hoặc mạ trên nền đất cứng 2-3 lá). Chăm sóc mạ sân: Đối với mạ sân, sau khi gieo hạt cần đặt biệt điều tiết nước và giữ ẩm cho mạ. Số lần tưới nước phụ thuộc vào nhiệt độ và cường độ ánh sáng trong ngày. Ở vụ mùa số lần tước nước đòi hỏi nhiều hơn ở vụ xuân, đặc biệt vào những ngày nắng nhiều và nhiệt độ cao. Khi đó, cứ 20- 30 phút cần tưới nước một lần để giữ ẩm. Khi mạ có 2,5 - 3 lá là đủ tuổi để nhổ cấy. Kỹ thuật làm đất cấy Đất trồng lúa có hai dạng cơ bản :
Trang 10
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Đất chuyên canh lúa, Đất luân canh lúa-màu: Đất lúa cần phải cày sớm, ruộng làm dầm phải giữ nước. Ruộng làm ải cần được phơi kỹ, giữa đợt cày đảo ải. Làm ải có tác dụng cho đất thoáng, tiêu diệt được một số loại dịch hại trong đất. Nếu phơi ải gặp mưa lớn không có khả năng phơi lại thì phải giữ nước, chuyển sang làm dầm. Làm đất lúa phải cày sâu, bừa kỹ cho đất nhuyễn, mặt ruộng phải phẳng thuận lợi cho khi cấy đồng đều và điều tiết nước. Cày sâu tạo điều kiện cho bộ rễ lúa phát triển tốt, tăng nguồn dự trữ dinh dưỡng, có lợi cho các hoạt động của vi sinh vật vùng rễ phân giải các chất hữu cơ khó phân huỷ, tăng cường dinh dưỡng cho lúa. Yêu cầu đất lúa trước khi cấy phải sạch gốc rạ, cỏ dại. đất lúa cấy mạ sân càng phải được làm kỹ hơn, mặt ruộng phẳng hơn và để mức nước nông để lúa cấy xong phát triển thuận lợi. Bón lót Trong quá trình làm đất sẽ kết hợp với bón lót. Bón lót phân chuồng, phân xanh, vôi và các loạ phân vô cơ như lân, kali, đạm…Bón lót sâu và hợp lí : Bón lót phân xanh và vôi (nếu có) vào lúc cày ngả, phân chuồng và phân lân bón vào lúc cày lại, đạm và kali bón trước khi bừa cấy. Vụ chiêm xuân nhiệt độ đầu vụ thấp cần quan tâm bón lót nhiều hơn vụ mùa. Kỹ thuật cấy
Mật độ và khoảng cách cấy Mật độ có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành số bông. Thời vụ cấy: vụ có nhiệt độ thấp cấy dầy hơn vụ có nhiệt độ cao. Vụ xuân cấy mật độ: 45-55 khóm/m2, 2-3 dảnh /khóm Vụ mùa cấy mật độ: 40- 45 khóm/m2, 2-3 dảnh / khóm Khoảng cách: Vụ xuân: 20 cm X 11cm hoặc 18 cm X 11 cm Vụ mùa: 20 cm X 11 cm. Giống: loại hình nhiều bông cấy dày hơn loại hình to bông. Giống nhiều bông cấy 200 -250 dảnh cơ bản /m2 Giống to bông: cấy 180 -200 dảnh cơ bản /m2 Kỹ thuật cấy Cấy thẳng hàng, cấy nông 3-4 cm( cấy sâu 5-6cm lúa sẽ phát sinh tầng rễ), ở vụ chiêm xuân cấy sâu hơn vụ mùa. Để cấy nông, cần làm đất kỹ, giữ nước nông, cấy ngửa tay. Cấy thẳng hàng dễ kiểm tra, bảo đảm mật độ và tạo điều kiện thuận lợi cho khâu chăm sóc sau này.
2
Kỹ thuật chăm sóc lúa cấy Làm cỏ Khi cây lúa bén rễ hồi xanh thì bắt đầu làm cỏ kết hợp với sục bùn và bón thúc. Sau đó tuỳ vào giống lúa ngắn hay dài ngày có thể tiếp tục làm cỏ sục bùn từ 1-2 lần nữa và kết thúc trước khi lúa bước vào thời kỳ làm đòng. Làm cỏ sục bùn có tác dụng diệt cỏ dại, vùi phân tránh mất bổ sung ô xy cho rễ, làm đứt rễ già và kích thích ra rễ mới. Làm cỏ bằng cào răng đẩy tay.
Trang 11
đạm, tay,
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Trừ rong rêu: Những ruông lúa có nhiều rong rêu thì nên trừ bằng cách tháo cạn nước 5-6 ngày kết hợp bón vôi bột (5-10 kg/ha), hoặc phun CuSO4 5-10% vào ngày nắng từ 1-2 lần, mỗi lần cách nhau 2-3 ngày, hoặc dùng MCPA dung dịch 0,4% phun 500 lít/ ha.
Bón thúc • • •
Bón thúc đẻ nhánh: Khi lúa bén rễ hồi xanh kết hợp với làm cỏ đợt I, bón 50 -60 % lượng đạm Bón đón đòng: Trước trỗ 30 -35 ngày. Bón đón đòng có tác dụng xúc tiến phân hóa gié và hoa nhằm đạt số hạt / bông cao. Bón nuôi đòng: Tiến hành vào thời gian trước trỗ 12-15 ngày. bón nuôi đòng có tác dụng tăng tỉ lệ hạt chắc và khối lượng hạt.
Để tăng hiệu quả của phân bón thúc nên bón sâu theo cách kết hợp với làm sục bùn, giữ nước vừa phải, không bón khi thời tiết xấu . . .có thể dùng phân viên tổng hợp bón tập trung vào gốc sẽ năng cao hiệu quả của phân. Tưới nước Tuỳ điều kiện cụ thể mà có thể đảm bảo chế độ nước phổ biến như sau: duy trì mức nước < 5 cm vào thời kỳ sau cấy đến thời kỳ đẻ nhánh hữu hiệu, > 20cm vào thời kỳ cuối đẻ nhánh để hạn chế đẻ nhánh vô hiệu. Nếu lúa tốt, sinh trưởng mạnh thì nên rút nước phơi ruộng, hạn chế dinh dưỡng cũng có tác dụng làm giảm đẻ nhánh vô hiệu. Duy trì 5-10 cm nước vào thời kỳ làm đòng đến chín sữa. Sau thời kỳ chín sữa có thể rút nước, lúa tiếp tục vào chắc, thuận lợi cho khâu thu hoạch. Phòng trừ sâu bệnh Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, phát hiện và phòng trừ sâu bệnh kịp thời. Thu hoạch bào quản Thu hoạch lúa
o Thu hoạch thủ công: Liềm các loại là công cụ chủ yếu và được sử dụng phổ biến tại các hộ gia đình, trang trại nhỏ. o Thu hoạch cơ giới: Sử dụng các máy gặt cải tiến loại vừa và nhỏ để thu hoạch lúa. o Đập, tuốt lúa: Đập lúa bằn tay, trục lúa bằng trục đá có trâu bò kéo, tuốt lúa bằng máy đạp chân, bằng máy tuốt thủ công nhỏ hoặc bằng máy tuốt lúa. Nơi đập tuốt lúa phải được lót bạt, hoặc tực tiếp ở sân phơi, nhưng phải sạch rác, sạn và không được lẫn với giống khác. Phơi sấy, cất trữ bảo quản Phơi sấy: yêu cầu phơi khô để hạt có hàm lượng nước đạt < 13%, Trang 12
cỏ
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
cũng như không cho mầm bệnh phát triển và hoạt động. Có thể sử dụng 2 phương pháp phơi sấy chủ yếu sau: • Phơi bằng ánh sáng mặt trời • Phương pháp làm khô bằng hệ thống quạt không khí nóng Cất trữ bảo quản: Sau khi lúa đã phơI khô, quạt sạch trấu, hạt lép, đóng vào bao để bảo quản trong kho chuyên dụng. Kho bảo quản phảI được khử trùng, dọn sạch trước khi cất trữ. Ở các hộ gia đình nên cho thóc vào bồ, thùng phi hoặc thùng tôn đặt ở nơI khô ráo, thoáng mát. Thường xuyên kiểm tra ẩm mốc, mọt và chuột. Nếu bị dịch hại và ẩm mốc cần phảI xử lí ngay. C. Qui trình kỹ thuật trồng lúa sạ :
Thời vụ và nhóm giống lúa theo vùng sinh thái ↓ Chuẩn bị giống và làm đất ↓ Kỹ thuật sạ ↓ Chăm sóc lúa sạ ↓ Thu hoạch và bảo quản
Thời vụ và nhóm giống lúa theo vùng sinh thái Có thể sử dụng các giống lúa khác nhau để gieo thẳng. Trong thực tế, thường gieo thẳng các giống lúa ngắn ngày, thấp cây, khả năng chống đổ tốt. a) Vùng đồng bằng sông Hồng Vụ xuân: + Xuân muộn: gieo 5/2- 25/2 với các giống lúa: ĐB5, ĐB6, Q5, KD18, BT7, HT1, LT2, AC5, IRi352, BM9820, PD2, Nhị ưu 838, HYT83, TH3-3, Việt lai 20… Vụ mùa: + Mùa sớm: gieo 10/6- 20/6 với các giống lúa: ĐB5, ĐB6, Q5, KD18 ,HT1, LT2, AC5, IRi352, BM9820, PD2, Nhị ưu 838, Bacưu 64, Bacưu 903, HYT83, TH3-3, Việt lai 20… + Mùa trung: gieo 15/6- 25/6 với các giống lúa: X21, Xi23, VN10, NX30, 17494, MT6, M6, P1, P6, TK 106…
Trang 13
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
b) Vùng đồng bằng ven biển Trung bộ Vụ đông xuân: gieo 15/11- 5/12 với các giống lúa: Tập lai, X21, Xi23, M6, CM1,… Vụ mùa : gieo 25/5- 20/6 với các giống lúa: Xi23, 9830, P1, P6, 17494. c) Vùng đồng bằng sông Cửu Long Vụ đông xuân: Gieo đầu tháng 11 đến 25/11. Sử dụng các giống lúa OMCS 2000, OMCS21, TNĐB100, ML48, OM1706, OM1633, VND404, VND95- 19, MTL250, MTL392, MTL449, OM4498, OM4495, OM2395, OM2517, OM3405... Vụ hè thu: Gieo đầu tháng 4 đến 25/4. Sử dụng các giống lúa OMCS 2000, OMCS21, TNĐB100, ML48, OM1706, OM1633, VND404, VND95- 19, MTL250, MTL392, MTL449, OM4498, OM4495, OM2395, OM2517, OM3405... Vụ mùa: Gieo 5/5- 30/5. Sử dụng các giống lúa VND404, VND95-19, MTL250,MTL392, MTL449, OM4498, OM4495,OM2395, OM2517, OM3405, Khao105, Nàng thơm chợ đào 5, Nàng Hương 2 Chuẩn bị giống và làm đất
Chuẩn bị hạt giống Chuẩn bị hạt giống khoẻ, đủ tiêu chuẩn chất lượng, xử lí hạt giống thực hiện tương tự như như đối với lúa cấy, chỉ khác ngâm ủ và lượng hạt giống gieo để phù hợp với gieo sạ Sạ khô: Hạt giống đã được ngâm và no nước. Lượng hạt giống cho 1 ha: 110- 120 kg. Sạ ướt: Hạt giống được ngâm ủ nảy mầm. Lượng hạt giống từ 80- 100kg/ ha. Sạ ngầm: Hạt giống đã được ngâm 10 giờ và đem gieo khi mực nước chỉ còn 10- 15cm. Lượng hạt giống từ 150- 200 kg/ha do có nhược điểm là tỷ lệ nảy mầm thấp, thiếu oxy và cây mọc yếu. Kỹ thuật làm đất Làm đất gieo khô: Làm đất kỹ, mặt ruộng phẳng, có hệ thống tưới tiêu chủ động và sạch cỏ dại. Làm đất gieo ướt (nước): Làm đất kỹ hơn, mặt ruộng phẳng, có hệ thống tưới tiêu chủ động, sạch cỏ dại, rút nước để gieo. Kỹ thuật sạ
a) Sạ khô: Áp dụng đối với những vùng cây lúa sinh trưởng chủ yếu nhờ nước trời. Tuỳ điều kiệncó thể thực hiện theo những phương pháp sau: • Dùng bừa kéo thành rãnh có độ sâu 1- 3cm. Gieo hạt theo rãnh sau đó lấp đất kín, hạt sẽ nảy mầm thành cây lúa. • Có thể gieo hạt tự do, chọc lỗ bỏ hạt theo hốc sau đó lấp hạt. b) Sạ ướt: Là phương thức sạ phổ biến nhất. Cách sạ: Làm luống để dễ chăm sóc và quản lí nước, kích thước luống từ 2,5- 4m tuỳ theo diện tích ruộng gieo đều trên toàn bộ mặt luống c) Sạ ngầm (Gieo chìm hạt ): Khi mực nước từ 10- 20cm, cần tiến hành lồng đất. Hạt giống đã được Trang 14
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
ngâm 10 giờ và đem gieo khi mực nước chỉ còn 10- 15cm. Sau khi gieo 2- 4 ngày, nước ruộng phải được rút hết d) Sạ bằng máy theo hàng: Nguyên lý hoạt động: rắc hạt bằng trống đựng hạt xoay tròn. Các loại máy thông dụng có 6 trống, gieo được 12 hàng với khoảng cách 16 cm X 2-3cm. Ưu điểm của phương pháp này là năng suất lao động tăng, giảm bớt công tỉa dăm, ruộng lúa thông thoáng, chủ động độ sâu gieo, chủ động mật độ song yêu cầu làm đất kỹ, mặt ruộng bằng phẳng để dễ điều tiết nước.
Chăm sóc lúa sạ Khâu quản lý chăm sóc có tính chất quyết định năng suất lúa gieo sạ. Yêu cầu là lúa mọc đều, bảo đảm số cây trên đơn vị diện tích và phòng trừ tốt cỏ dại và sâu bệnh. Nước: Sau gieo phải giữ ẩm cho hạt mọc đều. Khi cây bắt đầu mọc, cho nước vào ruộng ở mức 1- 3 cm và điều chỉnh nước theo sinh trưởng của cây. Làm cỏ, tỉa dặm: Cần tỉa dặm sớm khi lúa được 4- 5 lá. Kết hợp bón phân và làm cỏ đợt 1 nhằm tạo điều kiện cho lúa đẻ nhánh sớm. Bón thúc: Bộ rễ của lúa gieo sạ phát triển mạnh ở lớp đất mặt, nhu cầu dinh dưỡng cần nhiều hơn. Cần bón thúc sớm cho cây mọc khỏe, ra lá nhanh, đẻ sớm và kết thúc sớm, bón nặng thời kỳ đầu để lúa đẻ tập trung. Bón thúc còn tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, giống lúa và thời gian sinh trưởng của giống. Bón thúc cho lúa sạ thâm canh có các thời kỳ cơ bản sau: • Lúa có 2 lá: Thúc 3 kg đạm Urê + 3 kg kali clorua cho 1 sào Bắc bộ hay 80kg Urê + 80kg kali clorua cho 1ha. • Lúa có 6 lá: Thúc lần 2 bằng 3 kg đạm Urê + 3 kg kali clorua cho 1 sào Bắc bộ hay 80kg Urê + 80kg kali clorua cho 1ha. • Lúa phân hoá đòng: Bón thúc tiếp 2kg đạm Urê + 2 kg kali clorua cho 1 sào Bắc bộ hay 55kg Urê + 55kg kali clorua cho 1ha. • Lúa trỗ báo: Bón nuôI hạt lần cuối bằng 2kg đạm Urê + 4 kg kali clorua cho 1 sào Bắc bộ hay 55kg Urê + 110kg kali clorua cho 1ha. Trừ cỏ dại: Bằng biện pháp canh tác như cày ngả sớm, ngâm kỹ diệt cỏ dại, không để ruộng mất nước. Dùng các loại thuốc trừ cỏ, loại thuốc trừ cỏ cho lúa nước thường dùng như Sofit, lượng dùng 35ml + 10lít nước phun cho 1 sào Bắc bộ, hay 1 lít nước pha với 300 lít nước phun đều cho 1ha. Phun thuốc trừ cỏ phảI phun đều, không được bỏ sót và phảI phun cả phần rãnh luống. Phòng trừ sâu bệnh Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, phát hiện và phòng trừ sâu bệnh kịp thời. Thu hoạch bào quản Thu hoạch lúa • Thu hoạch thủ công: Liềm các loại là công cụ chủ yếu và được sử dụng phổ biến tại các hộ gia đình, trang trại nhỏ. • Thu hoạch cơ giới: Sử dụng các máy gặt cải tiến loại vừa và nhỏ để thu hoạch lúa.
Trang 15
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
•
Đập, tuốt lúa: Đập lúa bằn tay, trục lúa bằng trục đá có trâu bò kéo, tuốt lúa bằng máy đạp chân, bằng máy tuốt thủ công nhỏ hoặc bằng máy tuốt lúa. Nơi đập tuốt lúa phải được lót bạt, hoặc tực tiếp ở sân phơi, nhưng phải sạch rác, sạn và không được lẫn với giống khác. Phơi sấy, cất trữ bảo quản •
Phơi sấy: yêu cầu phơi khô để hạt có hàm lượng nước đạt < 13%, cũng như không cho mầm bệnh phát triển và hoạt động. Có thể sử dụng 2 phương pháp phơi sấy chủ yếu sau: • Phơi bằng ánh sáng mặt trời: hạt lúa nói chung có thể được phơi bằng ánh sáng tự nhiên, độ dầy 3-7 cm, thường xuyên đảo hạt để hạt khô đều, tránh cường độ ánh sáng mạnh. • Phương pháp làm khô bằng hệ thống quạt không khí nóng: Hạt lúa có thể làm khô băng hệ thống sấy có thổi không khí nóng với nhiệt độ 40 - 450c, Cất trữ bảo quản: Sau khi lúa đã phơI khô, quạt sạch trấu, hạt lép, đóng vào bao để bảo quản trong kho chuyên dụng. Kho bảo quản phảI được khử trùng, dọn sạch trước khi cất trữ. PHẦN 3 : NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT CỦA NHÓM : I. Quy trình thực hiện 3 giảm 3 tăng Ba Giảm ba Tăng (3G3T) trước đây còn được gọi là Quản lý dinh dưỡng & dịch hại tổng hợp được gọi tắt là ICM (Integrated Crop Management) là chương trình quản lý dịch hại dựa trên mối quan hệ của dinh dưỡng cây trồng và sự gây hại của dịch hại. Dựa vào những mối tương quan biết được, các nhà khoa học IRRI, và Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) đã triển khai ứng dụng trong quản lý dịch hại cho cây lúa. 1- Quan hệ của dinh dưỡng & dịch hại Vai trò của phân đạm (N) - Làm tăng + Cỏ dại, khô vằn, rầy, cào cào, muỗi hành, sâu đục thân + Tỷ lệ sống, chống chịu stress + Quyến rủ côn trùng ăn thực vật + Gây cho vài giống phóng thích Oryzanone quyến rủ sâu đục thân + Tăng số chồi - Bù thiệt hại do sâu - Làm giảm mật số bù lạch Vai trò của phân lân (P2O5) Phát triển rễ - Đền bù thiệt hại rễ Vai trò của phân kali (K2O) Kiềm chế dịch hại (giảm đường, Amino acid, vách tế bào dầy, gia tăng hấp thu Silic). Vai trò của Kẽm (Zn) Làm giảm thiệt hại do sâu đục thân. Vai trò của NPK Làm giảm mật số ốc bươu vàng Do đó điều cần nhất là phải bón phân cân đối, nên chia phân ra nhiều lần bón để giảm sự mất mát và áp lực dịch hại. 2- Mục đích & phương pháp thực hiện mô hình 3G3T Mục đích Giúp nông dân tự nhận thấy canh tác theo tập quán cũ (gieo sạ dầy, bón phân không cân đối, sử dụng nhiều thuốc BVTV,..) là không cần thiết. Giảm ô nhiễm môi trường sống. Giúp nông dân tự đánh giá việc bón phân không hợp lý có liên quan đến dịch hại. Tạo sự tin tưởng cho nông dân về hiệu quả của các lần phun thuốc trừ sâu trước và sau khi tham gia thí nghiệm. Giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao thu nhập cho hộ gia đình.
Trang 16
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Góp phần nâng cao phẩm chất gạo xuất khẩu,... Phương pháp Sử dụng phương pháp nông dân tham gia thí nghiệm "FPR" để giúp nông dân tự đánh giá về 1 số biện pháp kỹ thuật mới trong quản lý dinh dưỡng và dịch hại. Ruộng đựơc chia thành 2 lô, 1 bên làm theo tập quán nông dân, 1 bên làm theo chương trình. 3- Một số bước thực hành cơ bản - Làm đất kỹ, chọn giống tốt, trồng cây sạch bệnh: Giống phải được chọn lọc kỹ, tách bỏ hạt lép lững, tối thiểu phải đạt tiêu chuẩn là giống xác nhận (giống phải được khử lẫn, sạch mầm bệnh,...) - Gieo sạ thưa : Gieo theo hàng hoặc sạ thưa với mật độ 80-120 kg/ha - Phòng trừ dịch hại theo IPM : Áp dụng nhiều biện pháp nhằm quản lý dịch hại ở mức thấp nhất, chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật cần thiết. - Bón phân cân đối : Sử dụng phân bón 1 cách hợp lý & cân đối. Nếu có điều kiện sử dụng phân vô cơ kết hợp với phân hữu cơ. Chú trọng việc bón lót trước khi gieo sạ (nhất là khu vực có nhiều ốc bươu vàng) nhằm giảm thất thoát do bón phân không hợp lý. Bón phân đạm theo bảng so màu lá lúa (LCC) theo chỉ số màu sau: Bảng có 6 chỉ số màu từ nhạt đến xanh đậm - Với lúa có màu lá nhạt như lúa mùa, 1 số giống lúa thơm chỉ số màu cực trọng là 3 dưới chỉ số nầy cần phải bón thêm đạm (N) - Với lúa có màu lá xanh đậm (đa số giống lúa trồng đại trà hiện nay) chỉ số màu cực trọng là 4 dưới chỉ số nầy cần phải bón thêm đạm (N). - Với 1 số giống lúa lai chỉ số màu cực trọng là 5 dưới chỉ số nầy cần phải bón thêm đạm (N) Ngoài ra cần chú ý đến mùa vụ gieo trồng. Thí dụ mùa Đông Xuân, chỉ số màu cực trọng là 4, mùa mưa (Hè Thu) chỉ số màu cực trọng là 3. (Tuy nhiên trong từng điều kiện cụ thể có thể áp dụng chỉ số màu 4 cho vụ Hè Thu) Thực hiện so màu bắt đầu từ 14 ngày sau khi cấy hoặc 21 ngày sau khi sạ. Sau đó cứ 7-10 thực hiện 1 lần cho đến khi lúa trổ và so màu phải cùng 1 thời điểm trong ngày. (Chú ý 2 thời điểm quan trọng là 20-25 và 40-45 ngày sau nếu thừa hay thiếu N sẽ ảnh hưởng đến chồi và số hạt chắc/bông) - Thu hoạch đúng độ chín (90-95%≈ 25-28 ngày sau trổ), phơi sấy đúng kỹ thuật. Thu hoạch khi 1 số hạt trên gié lúa trong cùng (gần bẹ lá đòng) vẫn còn xanh nhằm giảm thất thoát do rơi rụng lúc thu hoạch. -Phơi sấy đúng kỹ thuật, không phơi mớ ngoài đồng, không sấy át lửa sẽ làm gia tăng tỷ lệ hạt gẫy. III. Luật "2 xanh - 2 vàng" của ruộng lúa năng suất cao Cây lúa không phải là cây rau. Rau thì cần xanh liên tục tức cần nhiều đạm để cho năng suất cao, trái lại cây lúa phần cần thu hoạch chính là hạt (chứ không phải là rơm), nếu không điều chỉnh bón phân cân đối, hợp lý nhất là bón thừa đạm vào cuối vụ (lúc lúa làm đòng trở đi) lúa sẽ giữ màu xanh liên tục sẽ dẫn đến mất cân đối (chỉ phát triển thân lá, bông hạt kém, nhiều sâu bệnh). Do vậy, một ruộng lúa muốn đạt năng suất cao thì bà con nông dân phải hiểu rõ quy luật 2 xanh, 2 vàng để điều khiển đúng quy luật. Xin giải thích như sau:
XANH 1: Lúc bắt đầu gieo: Rất cần chuẩn bị mặt bằng đồng ruộng tốt, chất lượng giống tốt, ngâm ủ nảy mầm trên 90% khi gieo xuống cây lúa sẵn sàng mọc trong điều kiện thuận lợi nhất để có màu xanh ngay khi ra lá đầu tiên gọi là XANH 1. Nếu vì lý do gì sau khi gieo xong, cây lúa không mọc nổi, thiếu nước, thiếu phân, bị sâu bệnh tấn công lá bị vàng, cây không mọc nổi là trái với quy luật.
Trang 17
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Cần giữ màu xanh của lúa trong giai đoạn XANH 1 cho đến cuối thời kỳ đẻ nhánh hữu hiệu (từ lúc gieo cho đến khoảng 30 ngày sau khi gieo). Lưu ý trong giai đoạn này nếu có sử dụng thuốc trừ cỏ 2,4D chỉ nên áp dụng vào 2 thời kỳ: 15-18 ngày sau khi sạ (NSS) (trước lúc bón phân đợt 2) và 30-38NSS (sau khi lúa đã đẻ kín hàng) sẽ không làm tác hại lớn đến quy luật XANH 1 này (không làm sựng cây lúa). Phòng trừ sâu bệnh tốt (lưu ý bọ trĩ, sâu phao và cháy lá). VÀNG 1: Cần áp dụng mọi biện pháp cho cây lúa chuyển sang màu vàng tranh lúc chuẩn bị đón đòng là rất cần thiết. Nếu ruộng lúa nào không chuyển sang màu vàng tranh trước lúc đón đòng là sai quy luật VÀNG 1, cây sẽ phát triển thân lá, về sau nhiều sâu bệnh, bông hạt kém, lốp đổ. Biện pháp tích cực để tác động cho cây lúa chuyển sang VÀNG 1 Bón phân cân đối theo bảng là: so màu lá lúa - Bón phân đợt 2 sớm (18-20NSS), không đợi cấy dặm xong mới bón. Tác dụng của việc bón phân đợt 2 chủ yếu để nuôi những nhánh đã đẻ trước đó (chủ yếu là 2 ngạnh trê) đủ dinh dưỡng, khỏe, mập, mạnh để sẵn sàng trở thành những chồi cho bông về sau. Các nhánh đẻ muộn về sau, do bón phân đợt 2 sớm nên ruộng lúa sẽ hết phân lúc các nhánh phụ này có dưới 3 lá sẽ tự chết. Điều này tạo thành ruộng lúa ít có lá ủ (lá chưn), thông thoáng, các nhánh chính thì khỏe, mập, mạnh về sau sẽ cho bông dài, nhiều hạt (bông cái có trên 100 hạt và 2 ngạnh trê có từ 40-60 hạt). - Nên cắt nước lúc ruộng lúa đã đẻ kín hàng (từ 30-40 NSS) với mục đích là hạn chế các nhánh đẻ vô hiệu, làm cho đất thông thoáng, rễ lúa đủ oxy hô hấp, giảm bớt các độc chất trong môi trường ngập nước, cây lúa cứng lại, ít sâu bệnh, chuyển sang làm đòng hết sức thuận lợi. - Màu sắc của lá lúa sẽ từ màu xanh đậm (30NSS) sẽ lợt dần cho đến khi chuyển sang màu vàng tranh (khoảng 40-45 ngày sau sạ). XANH 2: Quan sát ruộng lúa khi có trên 2/3 đã chuyển sang màu vàng tranh (khoảng từ 40-45 ngày đối với các giống lúa có thời gian sinh trưởng 90-95 ngày) thì nên đưa nước vào và bón phân đón đòng theo kỹ thuật "Không ngày, Không số": Chỗ lúa vàng tranh bón 50kg Urê + 50 kg Kali/ha; Chỗ lúa còn xanh (lúa tốt) bón 100kg Kali/ha (không bón Urê); Chỗ ½ vàng, ½ xanh lúa còn hơi tốt, bón 25 kg Urê + 75 kg Kali Các biện pháp chính để giữ cho 3 lá trên cùng xanh là: - Không sạ quá dày, lá sẽ che khuất lẫn nhau. - Bón phân cân đối, tránh thừa đạm, thừa lân vào cuối vụ. - Nước đầy đủ (từ làm đòng - chín sáp), phòng trừ sâu bệnh tốt, kịp thời. Nếu lá vàng, có thể xịt phân bón lá để giữ lá xanh lâu. VÀNG 2: Cần tháo nước trước lúc thu hoạch để thúc đẩy quá trình chín của ruộng lúa: tạo điều kiện cho lúa chuyển sang VÀNG 2 Tùy theo địa hình, nếu ruộng lúa có địa hình cao, dễ mất nước chỉ cần tháo nước trước 5-7 ngày; ruộng có địa hình trũng, lầy, cần tháo nước trước 10-15 ngày. IV. Một số vấn đề cần quan tâm trong sử dụng phân bón cho cây lúa Cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng, cần sử dụng 16 nguyên tố, C, H, O chiếm cao và có trong tự nhiên. Còn lại 13 nguyên tố cần phải bổ sung, chia ra: - Nguyên tố đa lượng: cây cần số lượng lớn, là N, P2Ọ và K2O. - Nguyên tố trung lượng: Ca, Mg, S - Nguyên tố vi lượng: Fe, Co, Zn, Mn ... 1. Đạm (N): giúp cây phát triển thân lá, tăng chiều cao, đẻ nhánh, tăng năng suất, chất lượng và cần suốt thời gian sinh trưởng. 2. Lân (P2O5): Giúp phát triển bộ rễ, tăng đẻ nhánh, kích thích phân hoá hoa, trổ sớm. Cần nhiều ở giai đoạn đầu. 3. Kali (K2O): Tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, hạn, rét. Tăng tỷ lệ hạt chắc, tăng năng suất và chất lựơng. 4. Lưu huỳnh (S): Tăng năng suất, tăng hàm lượng Protein.
Trang 18
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
5. Magiê (Mg): Tăng hấp thu và vận chuyển lân, tăng khả năng quang hợp. 6. Canxi (Ca): Tăng độ cứng cây, tăng khả năng chống chịu. Tùy mùa vụ, vùng đất, loại giống, sẽ có công thức phân khác nhau. Thông thường tại An Giang, có thể áp dụng công thức phân như sau: - Vụ Đông Xuân: 90 – 100 N – 40 – 60 P2O5 - 40 – 60 K2O - Vụ Hè Thu: 80 – 100 N – 40 – 60 P2O5 - 40 – 60 K2O Riêng vụ Hè Thu, để tiết kiệm phân bón, nên cày ải, phơi đất ít nhất 15 ngày sẽ giúp đất tơi xốp, rễ phát triển tốt, cắt nguồn lây lan dịch bệnh. Trước tình hình giá phân bón hiện nay, nhất là giá DAP tăng cao, nếu có điều kiện sử dụng phân đơn sẽ giúp giảm chi phí phân bón. Phân lân đơn hiện nay trên thị trường có nhiều loại, nhưng phổ biến là Super Lân Long Thành (khoảng 18-20% P2O5), Lân Văn Điển (khoảng 15% P2O5 và 35% CaO), Lân Ninh Bình (khoảng 15% P2O5). Lân Văn Điển và lân Ninh Bình là phân nung chảy, khi sử dụng cần bón lót là tốt nhất. Lân Super Long Thành có thể bón giai đoạn đầu. Để đáp ứng 40-60 P2O5 , lượng lân cần bón cho 1 ha là: Lân Văn Điển – Lân Ninh Bình : 300 – 400 kg/ha. Lân Super Long Thành : 200 – 300 kg/ha. Đạm Urê để đáp ứng 80 – 90 kg N/ha cần 170 – 200 kg/ha, chia 3 lần bón: + Lần 1 : 7 – 10 ngày sau sạ : 5 – 7 kg/công. + Lần 2 : 18 – 22 ngày sau sạ : 7 – 10 kg/công. + Lần 3 : Bón đón đòng - cần quan sát tình hình đòng để bón – quan sát tình hình cây lúa – nên bón đạm theo bảng so màu lá, khoảng 5 – 7 kg/công. Phân Kali (KCl) chủ yếu bón ở giai đoạn đón đòng – 70 – 100 kg Clorua Kali. Ngoài ra, trên thị trường có nhiều loại phân chuyên dùng cho lúa – tùy giá cả thị trường, tùy vùng đất, bà con nông dân có thể tham khảo để quyết định chọn loại phù hợp với giá rẻ nhất, đáp ứng được công thức phân bón, loại phân cho từng thời kỳ sinh trưởng, nhằm đạt năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành hạ. PHẦN 4 : CÂU HỎI ĐỀ NGHỊ CỦA THẦY : Câu 1 : Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng chất lượng hạt gạo lại không thể bằng được bằng được chất lượng gạo ở Ấn Độ hay Pakistan nguyên nhân chính là từ giống lúa, Ở Ấn Độ, Pakistan họ đã ứng dụng trồng được cây mạ giàu chất dinh dưỡng và khô thay vì những cây mạ nước, không những giúp tăng chất lượng mà còn tăng sản lượng từ 3 tấn/ha lên đến 4-5 tấn/ha trong khi sử dụng lượng nước ít hơn 40% so với phương pháp trồng giống lúa nước Phương pháp mới dựa vào những nguyên tắc khác hẳn so với cách trồng lúa hiện nay. Đó là phát triển các cây mạ giàu chất dinh dưỡng và khô thay vì những cây mạ nước; đảm bảo khoảng cách rộng hơn khi gieo mạ, ưu tiên phân ủ hoặc phân chuồng trại hơn là chất bón nhân tạo; và quản lý nước tối ưu để tránh rễ lúa bị sũng nước. Quá trình hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế nước nhà đang theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và chúng ta phải trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, năng lực cạnh tranh trên thị trường trong và ngòai nước với các giống lúa chất lượng cao là mục tiêu hàng đầu • Đa dạng hóa nguồn di truyền, giảm sức ép chọn lọc do sâu bệnh hại chính gây nên • Nhu cầu nước tưới ngày càng lớn, nhưng khả năng đáp ứng ngày càng bị giới hạn • Sức ép dân số cao và vấn đề an ninh lương thực, yêu cầu phát triển và đất trồng lúa có khả năng bị thu hẹp • Giống lúa đáp ứng với yêu cầu cơ khí hóa
Trang 19
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Mục tiêu chung là phát triển giống lúa đáp ứng cả hai yêu cầu về an toàn lương thực và có khả năng cạnh tranh cao về chất lượng nông sản ngoài những hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn, tạo giống lúa chúng ta có thể mang giống từ vùng khô, nghiên cứu tạo được các giống lúa khô sao cho thích hợp với điều kiện trong nước, góp phần nâng cao chất lượng hạt gạo cũng như giải quyết vấn đề thiếu nước hiện nay.
Câu 2 ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), ngoài 2 vụ lúa chính là đông xuân và hè thu, bà con còn làm thêm lúa vụ ba (xuân hè hoặc thu đông). Nhưng có một thực tế là, dù chỉ là “làm thêm” nhưng năng suất lúa vụ xuân hè thường đạt xấp xỉ vụ hè thu, vụ thu đông có thể cao hơn. Vấn đề cần quan tâm là xác định nơi nào có điều kiện thuận lợi về nước và đất cho vụ xuân hè, nơi nào lý tưởng cho vụ thu đông. Nếu điều kiện làm lúa vụ ba được cải thiện, chúng ta có thể tăng diện tích gieo trồng lên 4 - 4, 5 triệu hecta/năm. Khảo sát của Viện Lúa ĐBSCL ở Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, những nơi có truyền thống làm 3 vụ lúa và 2 năm 7 vụ cho thấy, phần lớn diện tích đều cho năng suất cao, chất lượng gạo thơm ngon. Như vậy, kinh nghiệm tăng vụ lúa ở ĐBSCL đã được áp dụng và tích lũy, bổ sung qua nhiều năm. Không thể phủ nhận là, sản xuất lúa liên tục có thể làm giảm độ màu mỡ của đất; đặc biệt ở những nơi làm bờ bao ngăn cách nước lũ để tăng vụ lúa. Vì vậy, để sản xuất lúa vụ ba hiệu quả, cần chọn địa điểm phù hợp, thuận tiện, những nơi không làm được lúa vụ ba có thể luân canh các cây trồng khác. Việc sản xuất 3 vụ lúa ở ĐBSCL là có thể và cần thiết để tăng sản lượng lúa, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và tăng lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, để giữ độ phì nhiêu của đất, hạn chế dịch bệnh, cần quy hoạch cụ thể cho từng tiểu vùng sinh thái, đồng thời nghiên cứu xác định giống và kỹ thuật thích hợp; Về giống và biện pháp kỹ thuật canh tác, ngoài tiêu chuẩn giống lúa đạt năng suất cao, chất lượng tốt, kháng sâu bệnh, cần đặc biệt quan tâm giải pháp rút ngắn thời gian vụ lúa chiếm ruộng bằng giống ngắn ngày như OMCS1490, OMCS 2000... Kỹ thuật canh tác không khác biệt 2 vụ lúa chính là đông xuân và hè thu. Tuy nhiên, người nông dân cần thay đổi nhận thức như không phun xịt thuốc trừ sâu trước 40 ngày sau sạ; phòng trừ sâu bệnh cho lúa cần quan tâm ngay từ khâu xử lý hạt giống. Nếu áp dụng đầy đủ các biện pháp kỹ thuật theo khuyến cáo, chắc chắn sản xuất lúa vụ ba ở ĐBSCL sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Câu 3 Diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, lao động nhàn rỗi ở nông thôn ngày càng nhiều không còn là vấn đề xa lạ trên các mặt báo chí. Mặc dù công cuộc đổi mới trong hơn 20 năm qua đã mang lại những đổi thay rõ rệt trong nông thôn nước ta và trong đời sống người nông dân: sản xuất tăng trưởng, nhà cửa, đường sá khang trang hơn, ôtô đã vào được trung tâm của nhiều xã, đường điện kéo dài đến nhiều nhà dân, trẻ em đến độ tuổi được đi học nhiều hơn trước rõ rệt, các trạm y tế xã được xây dựng...Tuy vậy nông thôn đang còn phát triển chậm so với thành thị, đời sống của nông dân còn nhiều khó khăn, nhiều vấn đề xã hội chưa được giải quyết tốt..Nếu có thể giải quyết được vấn đề việc làm cho nông dân lúc nhàn rỗi ở Đồng Bằng nói riêng và các vùng nông thôn nói chung thì có thể góp phần nâng cao đời sống cửa nông dân, giảm bớt gánh nặng cho xã hội. Sau đây là một số giải pháp việc làm cho người nông dân trong lúc nhàn rỗi: • Hướng dẫn bà con kỹ thuật chăn nuôi tại nhà, có thể hỗ trợ nguồn vốn cho nông dân vay với lãi suất thấp. • Hỗ trợ và phát triển các nghành nghề truyền thống như các ngành tiểu thủ công nghiệp • Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiên về chế biến nông sản, thực phẩm.. tạo điều kiện việc làm cho nông dân. •
Phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp đặt biệt là các ngành công nghiệp nông thôn sẽ tạo ra việc làm tại chỗ, góp phần phân bố lao động hợp lý hơn. Hơn nữa, phát triển các ngành nghề phi
Trang 20
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
nông nghiệp ở nông thôn thường cho thu nhập cao hơn làm nông nghiệp, nên góp phần tăng thu nhập và tăng sức mua cho thị trường nông thôn. •
Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ vốn hay vốn có lãi suất thấp để thu hút các cá nhân đầu tư phát triển và mở rộng các cơ sở của họ từ đó co thể thu hút nhiều nhân công góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động nông dân nhàn rỗi.
Câu1 : Là nhà quản trị bạn làm gì giúp cho nông dân những lúc rảnh rỗi Là một nhà quản trị thì tôi sẽ giúp cho nông dân về công việc đồng án của mình sau khi kết thúc mùa màng .họ có thể trồng xen canh vào , đồng ruộng của họ ví dụ như các loại họ đậu , các laọi rau ( như rau muống ,rau lan , ….) Ngoài ra họ có thể cải tạo đất bằng nhiều cách khác nhau như tròng xen canh cũng có thể cải tạo đất rất hiệu quả
L Để tìm hiểu sự xuống dốc của cây bông vải, chúng tôi về các huyện Tuy Phước, An Nhơn - các địa phương có chương trình phát triển cây bông vải của tỉnh. Ông Trần Duy Tranh, cán bộ kỹ thuật Phòng NN-PTNT Tuy Phước cho biết: “Vụ sản xuất đông-xuân năm nay, toàn huyện chỉ thực hiện được 1,5 ha bông vải do Trạm BVTV huyện triển khai làm mô hình thí điểm IPM. So với vụ bông năm trước, thì năm nay diện tích đạt không bằng 1/3, nhiều vùng đất năm ngoái nông dân trồng bông vải khá lớn như Phước Thành, Phước An, Phước Mỹ…, thì vụ này không còn thấy bóng dáng cây bông đâu cả.” Còn ở An Nhơn, vụ bông năm ngoái toàn huyện thực hiện được 56,54 ha, thì trong vụ sản xuất này chỉ còn 8,45 ha. Những bãi đất soi ven sông xã Nhơn Thành từng được xem là khá triển vọng cho phát triển cây bông, giờ đây nông dân chỉ trồng các loại cây trồng cạn như đậu nành, đậu phụng, và rau đỗ các loại... * Tương lai cây bông vải…? Liệu đến năm 2005 toàn tỉnh sẽ có khoảng 3.000 - 4.000 ha cây bông vải như NQ của Đảng bộ tỉnh đã đề ra? Đó vẫn là câu hỏi còn nhiều trăn trở. Với thực tế phát triển diện tích cây bông vải như hiện nay, cho thấy khả năng Bình Định khó đạt được diện tích bông vải như mong muốn trong vài ba năm tới. Đó là chưa nói về lâu dài, chủ trương của tỉnh sẽ hình thành vùng nguyên liệu bông để xây dựng Nhà máy dệt sợi liên hợp trên địa bàn tỉnh. Và vì thế, cây bông vải đang là một thách thức đối với ngành nông nghiệp Bình Định. Ông Nguyễn Văn Thiện cho chúng tôi biết thêm: Hiện nay chủ trương của ngành nông nghiệp là chỉ chú trọng phát triển cây bông vải ở những diện tích đảm bảo nước tưới tiêu, khuyến khích nông dân trồng xen canh với cây đậu phụng để tăng hiệu quả kinh tế. Còn việc phát triển mạnh mẽ, rộng rãi cây bông vải thì còn phải nghiên cứu lại bởi lẽ cây bông vải đòi hỏi nước tưới và nhiều điều kiện kỹ thuật khá chặt chẽ... Xem ra chương trình phát triển cây bông vải của tỉnh không hề đơn giản, mặc dù nông dân Bình Định có truyền thống trồng bông kéo sợi. Nông dân với nỗi lo hội nhập Khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, Chính phủ sẽ không được phép trợ giá đối với các hàng nông sản. Để các mặt hàng nông sản của Việt Nam có thể cạnh tranh trên một thị trường có lẽ “quá hớp” đối với nông dân trong nước, nhất là nông dân ở ĐBSCL, các ngành chức năng cần có sách lược cụ thể trước mắt cũng như lâu dài giúp bà con quen dần với cách làm ăn thời hội nhập.
Trang 21
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Một nông dân ở ĐBSCL đã nói lên nỗi lo lắng của mình như sau: “Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức WTO. Cho tới bây giờ chúng ta chỉ mới tính tới việc xây dựng vùng sản xuất liệu có kịp không? Khi gia nhập thì hàng rào thuế quan được tháo dỡ, hàng hoá nước ngoài tràn vào Việt Nam, mà hàng hoá nước ngoài thường chất lượng cao hơn, giá cả cũng rẻ hơn, vậy liệu hàng nông sản của Việt Nam có cạnh tranh nổi không? Có thua ngay trên sân nhà không? Mong rằng các nhà quản lý, các ngành chức năng tìm biện pháp tháo gỡ cho nông dân. Nếu có làm thì xin hãy gấp rút lên để cho bà con nông dân đỡ khổ”. Nỗi lo của người nông dân này cũng chính là nỗi lo chung của hàng chục triệu nông dân trong cả nước. Có một thực tế là từ trước tới nay chúng ta vẫn đánh giá nông dân ĐBSCL rất nhạy bén tiếp thu cái mới, tuy nhiên nông dân ĐBSCL lại rất thiếu thông tin. Có một nghịch lý đã tồn tại từ rất lâu đời và mãi đến nay nó vẫn còn, đó là khi nông dân đi mua bất cứ thứ gì cũng bị người ta định giá trước. Ví dụ như: vật tư phân bón, thuốc trừ sâu dùng sản xuất nông nghiệp, nếu bà con không đồng ý mua thì người ta không bán. Ngược lại, hàng hoá do nông dân làm ra thì rất khó bán, khi bán cũng không thể tự mình định giá trước. Vậy đâu là nguyên nhân của vấn đề? GS-TS Mai Thành Phụng, Trung tâm Khuyến nông quốc gia phía Nam cho rằng: nông dân không tiếp cận được thông tin, ở đây lỗi thuộc về hai phía. Về hệ thống khuyến nông, phải có một hướng dẫn, dự báo thường xuyên và cập nhật thông tin, giúp cho bà con nông dân tiếp cận dự báo này một cách thuận lợi và chính xác. Đây là một việc rất cần thiết, hiện nay, Nhà nước chủ trương giao quyền tự chủ cho nông hộ. Như vậy, nông hộ sẽ chọn phương án trồng cây gì, nuôi con gì nông dân sẽ tự tính toán, để giúp nông hộ tính toán sát với thực tế thì Nhà nước phải cung cấp cho nông dân thông số đầu vào. Thông số đầu vào này phải có những dự báo được “mã hoá” bằng ngôn ngữ của nông dân để bà con hiểu. Những thông tin, những dự báo phải rất cập nhật về lúa gạo, cây ăn trái, chủng loại... Các viện, trường và các cơ quan chức năng có đầy đủ cách để làm được việc này. Giúp nông dân tiếp cận thông tin Hiện nay, hệ thống dự báo này chỉ đến tầng lớp cán bộ chứ không đến tay nông dân, trong khi đó, nông dân chính là đối tượng cần thông tin này nhất. Nông dân là người quyết định nên trồng cây gì, nuôi con gì? Chính vì dự báo về thị trường không đến với nông dân là một trong những nguyên nhân khiến cho những chuyện vừa trồng xong thì chặt rất thường xuyên xảy ra trong nông dân. “Tôi mong muốn Nhà nước bằng cách gì đó, đầu tư mạnh vào khâu này để giúp bà con nông dân tiếp cận một cách rất nhanh chóng và rất dễ, khi cần thì bà con biết mình sẽ hỏi ai. Người được hỏi phải có trách nhiệm trả lời những thông tin chính xác trước khi bà con quyết định trồng cây gì, nuôi con gì?” ông Phụng nói. Để giúp nông dân sản xuất hàng nông sản đáp ứng thị trường xuất khẩu trong thời hội nhập, cách tốt nhất là hỗ trợ cho nông dân thông tin thị trường cần thiết, đó là cách tốt nhất giúp cho nông dân trong thời hội nhập. Hiện nay, nông dân rất thiếu thông tin thị trường, không nắm được thông tin. Vậy họ cần sản xuất loại trái cây gì, nông sản gì, bán ở đâu, nước nào và lúc nào, loại gì và bán với giá nào? Những nông dân lên mạng truy cập thông tin làm kinh tế chỉ đếm được trên đầu ngón tay? Theo ông Phụng, công tác quy hoạch và chính sách cũng là vấn đề hết sức cần thiết cho bà con nông dân. Nghề vườn của bà con nông dân ĐBSCL với diện tích rất lớn, kế hoạch cũng rất lớn nhưng đầu tư ngược lại
Trang 22
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
cho nông dân thì chẳng là bao. Số liệu khuyến nông cho những vườn cây ăn trái cho thấy con số này rất thấp, chỉ có vài tỉ đồng so với tổng số 6 triệu tấn trái cây. Riêng Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam chỉ đầu tư có 350 triệu/năm. Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam 150 triệu/năm, Viện Rau quả miền Bắc 243 triệu/năm, kinh phí dùng cho công tác khuyến nông chưa quá 3 tỉ cho cả nước, một con số quả thật rất khiêm tốn! Điều này cho thấy tầm nhìn và những đầu tư của Nhà nước về công tác khuyến nông cho cây ăn quả chưa xứng tầm. Nông dân ngày nay muốn họ làm được điều gì cần phải có mô hình sản xuất để chứng minh cho bà con hiểu. Mặc dù bà con rất năng động nhưng có những cái Nhà nước phải dẫn đường trước nhất là trong giai đoạn tiền hội nhập. Câu 2 : khi lua mọc lên và trổ bông Trồng trọt là nghề chính của người nông dân,đặt biệt là trông lúa nhưng việc trông lúa không phải là một công việc dễ dàng như chúng ta tưởng,mà trông lúa là cả một qui trình, và đòi hỏi phải có kĩ thuật và công nghệ mới có thể thành công trong các mùa thu hoạch. Ngoài những khó khăn đó người nông dân còn găp không ít trắc trở như hạn hán, các yếu tố gây hại cho lúa,lấn áp cây lúa, trong đó cỏ cũng là một vấn đề cần phải nhanh chống giải quyết. khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện" (Mt 13:26) và lấn át cả lúa. Cây lúa cũng như rau cải đều cần thời gian mới phơi bày tất cả ra ánh sáng. Khi nhìn đến hạt cải nằm giữa các hạt giống khác, ai cũng coi thường, vì kích thước quá bé nhỏ của nó. "Nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ rau lớn nhất … đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành được" (Mt 13:32) Dù cỏ lùng có tràn ngập, nhưng bao lâu còn cây lúa, thửa ruộng vẫn hứa hẹn một tương lai tươi sáng. Người nông dân không lạ gì về một loại cỏ vẫn thường mọc lên cùng với cây lúa trong đồng ruộng của mình. Loại cỏ này thật lạ, nó không khác gì cây lúa từ mầu sắc, thân hình đến cách phân chia thân để lớn lên. Người nông dân chỉ có thể phân biệt cỏ này với lúa nếu như họ dùng phương pháp cấy, nghĩa là cấy mạ theo thứ tự với một khoảng cách nhất định. Khi đó nếu thấy cây nào mọc sai vị trí, có thể đó là loại cỏ quái ác kia. Tuy nhiên cũng không dễ vì nhiều lúc loại cỏ này “chen” vào cùng mọc lên với cây lúa cùng một vị trí, nên không dễ phân biệt. Nhưng nếu dùng phương pháp xạ như trường hợp trong bài Tin mừng thì đành chịu, phải chờ cho đến khi cây lúa trổ bông, loại cỏ này mới lộ diện. Còn một số loại cỏ cũng ảnh hưởng không ít đến mùa màng của người dân.như cây năn.môt truông hợp như sau:hai chị em Phạm Kim Nguyện và Phạm Mỹ Hừng, ở ấp Mỹ Tường B có cánh đồng… năn là 3 công đất không trồng lúa được của bà Cà Phe, ở ấp Mỹ Tường. Vụ hè thu, gieo giống ba lần nhưng mất trắng nên bà Phe để năn mọc xanh um, bà “chia” 1 công cho hai chị em Nguyện nhổ trong 5 tháng với giá 250.000đ.Công việc của Hừng và Nguyện bắt đầu từ 5g30, đến hơn 7g thì cột từng bó năn to (cỡ 2 gang tay chụm lại) mang ra chợ bán, giá 1.000 đ/bó. Nguyện kể: “Nhà không có đất, mùa mưa nào chị em tui cũng nhổ năn bán. Nếu 2 người nhổ gần 2 giờ khoảng 60–70 bó năn, bán được trên 60.000đ”. Từ một cánh đồng như thế mà người dân không thể thu hoạch lua theo ý muốn của mình,nhưng họ cũng tìm được cách thoát bớt cảnh nghèo. Vì lẻ đó mà ta có thể nói là người dân ta biết biến cái hại thành cái lợi cho mình.đò cũng là một cách hay.không những chỉ có cây năn mà còn có cây lát: “Giống như vùng Mỹ Tây, Mỹ Tường… đất ở vùng Mỹ Thọ, Mỹ Đông của xã Mỹ Quới (Ngã Năm, Sóc Trăng) phèn cũng nhiều không kém. Cưới vợ xong, anh Huỳnh Văn Chiến, ở ấp Mỹ Đông 1 được bên nhà vợ cho 6 công đất. Siêng năng làm lụng, vậy mà cái nghèo vẫn đeo đẳng anh. Năm nào may mắn, lúa được chừng 8-10 giạ lúa/công/vụ là mừng quýnh, còn thời tiết không thuận, là coi như mất trắng. Đánh liều vay 5 triệu đồng của quỹ xóa đói giảm nghèo, anh Chiến làm bờ bao… trồng lác. Đi qua ruộng anh, ai cũng chặc lưỡi vì… thằng Chiến “khùng”.
Trang 23
Nhóm : NÔNG NGHIỆP LỚP 07QK2
ĐỒ ÁN : QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ TRỒNG LÚA NƯỚC GVHD : TRỊNH VŨ DŨNG
Nông dân Ngã Năm phơi lác dệt chiếu hoa. Thế nhưng, chỉ vài tháng sau, những người dệt chiếu trong xã đổ xô tìm đến tận ruộng anh, tranh mua lác tươi với giá 1,5 triệu đồng/công. Anh khoe: “Ngoài cây lác tôi xen canh, kiếm thêm vài trăm ký cá đồng. Mới một năm, tôi đã trả dứt nợ ngân hàng và trả lại sổ hộ nghèo”. Theo anh Chiến, nếu bón phân thường xuyên, 1 công lác có thể thu hoạch đến 4 vụ/năm (thu nhập khoảng 6 triệu đồng/công/năm), chưa tính đến nguồn cá đồng nuôi xung quanh ruộng lác. Đó là chưa kể, lúc “khát” nguyên liệu, giá lác tăng từ 1,8 triệu đồng đến 2 triệu đồng/công. Chỉ nhờ 1 công lác mà gia đình chị Nguyễn Thị Liên (ấp Mỹ Thọ, xã Mỹ Qưới) đã thoát cảnh nghèo. Chị Liên tính toán, 1 công lác dệt được 200 đôi chiếu trắng, giá 40.000 đ/đôi. Trong 3 tháng, 1 công lác sẽ cho thu nhập 8 triệu đồng. “Mỗi năm thu hoạch 4 vụ, lấy nguyên liệu phục vụ nghề dệt chiếu sẵn có của gia đình, tôi sẽ có tổng thu nhập 30 triệu đồng, đủ lo cho mấy đứa nhỏ ăn học”- chị Liên phấn khởi. Cũng trồng lác- dệt chiếu nhưng thu nhập của chị Lâm Thị Hoàng khá hơn nhờ dệt chiếu hoa (vì giá chiếu hoa gấp 3 lần chiếu trắng)... Toàn xã Mỹ Quới hiện có hơn 50 hộ trồng loại “cỏ dại” này mà cung vẫn không đủ cầu. Không chỉ có lác tươi, loại lác “dạt” (lác ngắn, không dệt chiếu được) còn tiêu thụ mạnh ở các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau… chỉ cần phơi sơ 2 nắng, bán cho thương lái mua, giá 3.000 đ/kg”. Mô hình trồng lác - nuôi cá; trồng lác - dệt chiếu hiệu quả ngày càng thiết thực nên UBND xã Mỹ Quới đã lập đề án để Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Ngã Năm cho những hộ nghèo, ít đất sản xuất vay vốn để trồng lác. Bước đầu, đã có hơn 90 hộ được vay vốn ưu đãi (từ 2,5 đến 3 triệu đồng/hộ, trong thời hạn 3 năm) để trồng lác kết hợp nuôi cá và dệt chiếu. PHẦN 5 : CÂU HỎI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN :
Trang 24