Nhung Ten Ban Nuoc

  • July 2020
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Nhung Ten Ban Nuoc as PDF for free.

More details

  • Words: 6,402
  • Pages: 12
---------- Forwarded message ---------From: Truong Nhan Date: 2009/3/16 Subject: Fw: BAN NUOC THEO "TAU" DAY !!!! To:

Nguồn : http://www.hoivanhoanguoiviettudo.com

Bán Nước Theo “Tàu” Đây!!! Nguyễn Thanh Ty

Sau ngày 30/4/75, thời “ngăn sông cấm chợ”, thời “bao cấp”, dân khắp nước đói trơ xương sườn, lòi mắt trắng. Trên các chuyến tàu lửa chạy từ Bắc vô Nam, từ Nam ra Bắc, dân đi buôn chui, bán lậu, ăn vật ngủ vạ trên tàu cả ngày lẫn đêm, đều rất quen thuộc hình ảnh của mấy anh bộ đội “phục viên” với nón cối sờn vành trên đầu, dép râu dưới chân, mình quàng áo trấn thủ bạc màu, ấm nước bằng nhôm trên tay phải, năm ba cái cốc (ly) nhựa cáu bẩn bên tay trái, nhảy tàu xuôi ngược, len lỏi qua các toa tàu, từ toa đầu đến toa cuối, với giọng rao hàng đặc sệt Bắc Kỳ Hà Lội, bán nước trà vối trên tàu lửa: - Trà vối đây… ơ ! Bán lước theo tàu đây… ơ ! Ban đầu, người miền Nam nghe không quen với cái giọng rao hàng có vẻ kỳ cục và chối tai với mấy tiếng “Bán nước theo tàu”. Ở miền Nam trước kia cũng có người xách ấm nước bán dọc theo bến xe đò hay xe lửa, nhưng ở đây người ta rao:

- Trà đá, trà nóng đâ…â…y ! Hoặc: - Nước chè nóng đâ…â…y ! chứ không có nhóm chữ “bán nước theo tàu” kèm theo sau. Nhưng khi ra đến đất Bắc, tai nghe, mắt thấy khắp nơi cái cảnh: Đầu đường đại tá vá xe, Cuối đường thượng tá bán chè đậu đen! Độc đáo hơn nữa, hình ảnh một quán nước ven đường với tấm bảng viết bằng phấn nguệch ngoăc hai câu thơ: Suốt tuổi trẻ xả thân giữ nước, Khi về già bán nước nuôi thân! thì người dân miền Nam mới cảm được cái thâm ý ẩn tàng bên trong của mấy chữ “bán nước” mang một ý nghĩa vừa cay đắng phủ phàng, vừa ngầm báo động cho mọi người biết rằng “đã và đang có một bọn người manh tâm bán nước cho Tầu” từ lâu rồi. Những câu vè trên là do dân “xẻ dọc Trường Sơn đánh Mỹ” phục viên “tự phát” chứ không phải là do “bọn phản động” thua trận miền Nam đặt ra để “bôi xấu” chế độ ưu việt Xã hội Chủ nghĩa. Hãy nghe chính thi nô Chế Lan Viên cũng ăn năn sám hối: Mậu Thân 2000 người xuống đồng bằng Chỉ một đêm, còn sống có 30 Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó? Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong. Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm, Ngồi bán quán ven đường nuôi đàn con nhỏ Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ, Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ! Ai chịu trách nhiệm vậy? Lại chính là tôi! Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời, Tôi ú ớ. Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong Mà tôi xấu hổ. Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.

Vậy đó! Không ai có thể có nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về “chuyện bán nước” hơn những anh bộ đội “phục viên” (giải ngũ) đã từng lăn lưng nơi hòn tên mũi đạn dưới sự chỉ huy của các cố vấn Tầu, suốt hơn hai mươi năm đánh phá, xâm lược miền Nam. Những từ ngữ đao to búa lớn mang tính lừa đảo, bịp bợm như “giải phóng miền Nam”, “đuổi giặc Mỹ xâm lược”, “thống nhất đất nước” v.v… của Ngụy quyền Hà Nội, một thời mê hoặc lòng người đã như một lớp phấn trên mặt mụ điếm già về chiều, trôi tuột theo cơn mưa rào, làm lộ ra những nét nhăn nheo, nứt nẻ gớm ghiếc khi người dân chứng kiến cảnh cán bộ, bộ đội miền Bắc đổ xô nhau vào Nam để cướp bóc tài sản người thua trận. Từng đoàn người, từng đoàn xe nối đuôi nhau, từ ngày này sang ngày khác, từ tháng nọ đến năm kia, cả bầy, cả bọn, lũ lượt hối hả vào Nam để ăn cướp. Ban đầu là tài sản, tiền, vàng bạc, đồ tế nhuyễn. Những kẻ có tài sản đều bị vu cho cái tội “tư sản mại bản” để rồi bị trói thúc ké, giam cầm. Của cải riêng tư bị chúng tịch thu bỏ túi riêng. Tiếp theo là nhà cửa, ruộng vườn, đất đai tư nhân. Tiếp theo là bỏ tù hàng loạt, hàng triệu người để trấn áp và trừ hậu hoạn, thay thế cho chính sách bạo ngược Tần Thỉ Hoàng “phần thư khanh nho” (đốt sách chôn học trò). Tất cả đều bị cướp sạch sành sanh. Cán bộ cộng sản Hà Nội bỗng chốc ai nấy đều giàu sụ. Từ hai bàn tay trắng với đôi dép râu và cái nón cối bây giờ ai cũng có tiền triệu, tiền tỷ đô la Mỹ và vài ba căn biệt thự nguy nga, hoành tráng, xe hơi sang trọng trị giá cả triệu đô. Cái thời gọi là “thống nhất đất nước - độc lập - tự do - hạnh phúc” đó thực sự là cái thời vô chính phủ. Hay nói rõ hơn, đó là cái thời của quân cường khấu cướp núi được huấn luyện tại Hà Nội, tràn xuống đồng bằng, để ăn cướp, đốt phá xóm làng. Các cán bộ cộng sản tha hồ vơ vét như kẻ đói lâu năm nay vớ được cơm trắng cá tươi của “kẻ thù”, tha hồ mà đớp, mà nuốt cho đã nư, cho hả dạ. Người dân miền Nam bị đuổi ra khỏi nhà, đứng trước đường nhìn quân cướp hỉ hả khiêng đồ đạc trong nhà ra xe Môtôlôva, từ cái bàn, chiếc ghế đến cả cái cối đá đâm tiêu của mình… mà lòng ngao ngán, ê chề. Họ xót của thì ít mà thất vọng thì nhiều. Thất vọng vì cái hình ảnh con cháu cụ Hồ, bộ đội cụ Hồ sao mà ẹ quá, bần tiện quá, xấu xa quá, không giống như hình ảnh họ tưởng tượng ra rất cao cả, đẹp đẻ khi được tuyên truyền qua rỉ tai, qua đài phát thanh Hà Nội, qua đài “Mặt trận Giải phóng miền Nam” mà họ lén nghe ban đêm. Nào là “bộ đội cụ Hồ hy sinh xả thân vì nước để đánh đuổi giặc Mỹ xâm lăng”, nào là “cán bộ cụ Hồ hiếu với dân, trung với đảng, vì dân mà phục vụ” v.v… Nay trước mắt, hình ảnh, anh đảng viên, anh bộ đội, anh cán bộ của cụ Hồ trông sao mà bỉ ổi thảm hại quá. Giống y chang hình ảnh tương phản của nàng Kiều lúc ở nhà với lúc bị Tú Bà ép làm “gái”:

Khi sao phong gấm rũ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. Mặt sao dầy gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân… Cái cảnh bộ đội với cán bộ của “Bác Hồ” vào-vơ-vét-về, mãi ba mươi năm sau, anh thủ tướng đãi bôi Võ văn Kiệt khi túi tham đã đầy, ghế cao ngồi đã nhẵn, lúc đã về vườn hưởng lạc mới nói câu đạo đức của “Bà Tú Để” : “ Ngày 30/4 có triệu người vui cũng có triệu người buồn”. Ai vui? Ắt hẵn không cần phải day tận trán, chỉ tận mặt, ai ai cũng đều biết rõ rằng chỉ có quân đi ăn cướp mới vui. Ai buồn? Người bị ăn cướp đương nhiên là buồn. Nhưng Võ văn Kiệt nói lên điều này lúc cuối đời để làm gì? Một chút sám hối ăn năn, tự thú với cái lương tâm và lương tri của mình chợt thức tỉnh giờ thứ 25 chăng? Cũng vì lời tự thú đó mà Kiệt bị đồng bọn, lương tâm bị chó ăn mất, giết chết tươi tại Hà Nội, bằng lưỡi chủy thủ oan nghiệt đâm lút phổi trái! Một người như Võ văn Kiệt đã làm đến chức Tể tướng từ cái thời miền Nam mới bị cướp, đã từng xử dụng luật rừng của bọn thảo khấu “đánh tư sản”, “cải tạo công thương nghiệp”, bán bãi lấy vàng, đuổi người Tàu lẫn người Nam ra biển Đông, mà lúc gần đất xa trời mới dám nói lên “một sự thật” phủ phàng thì quả thật là quá hèn và quá trễ. Diêm Vương không thể lấy lượng khoan hồng ma tha cho tội ngồi bàn chông, đầu đội chậu máu, miệng nuốt lửa đỏ như mẹ của Mục Kiền Liên thuở xưa được. Ngay cái ngày hôm ấy, cái ngày “chiến thắng mùa Xuân” ấy, có một người đàn bà “đái không qua ngọn cỏ” là nhà văn nữ Dương Thu Hương, người đã từng hăng hái nắm nắm tay giơ cao cùng với bầu nhiệt huyết tràn đầy, thề với cụ Hồ và cái đảng (thổ tả) của cụ, lúc tình nguyện đi “Thanh niên xung phong” để “xẻ dọc Trường Sơn” vào Nam đánh giặc Mỹ rằng: - Quyết hy sinh tuổi thanh xuân đời đời đi theo theo Bác, tin theo đảng! đã ngồi bệt bên vệ đường thành phố Sài Gòn khóc ngất, khóc bù lu bù loa như bố mới chết, có lẽ còn hơn thế nữa, khi tận mắt chứng kiến cảnh con cháu cụ Hồ đã để rơi cái mặt nạ giả nhân, giả nghĩa, bịp bợm, láo khoét, lừa gạt nhân dân nhẹ dạ, cả tin hơn ba mươi năm qua, từ cái mùa Thu năm 1945 đến nay. Rặt một lũ ăn cướp. Từ thằng lớn đến thằng nhỏ, đua nhau vào Nam ăn cướp chứ chẳng phải giải phóng cho dân miền Nam như lời dụ dỗ của cụ Hồ bấy lâu nay. Rõ là liều chết mấy chục năm cốt chiếm cho được miền Nam trù phú, giàu có để ăn cướp cứu đói, cứu nghèo cho miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa. Bà chợt hiểu ra là mình và cả một thế hệ tuổi trẻ miền Bắc đã bị Bác lừa. Bà quá đau đớn vì thất vọng ê chề, và quá ghê tởm với bộ mặt thật nhám nhúa, bẩn thỉu của cái đảng Cộng sản VN. Kể từ hôm đó, chủ nghĩa cộng sản, Bác “Mao, Xít”, Bác “Mác, Lê”, Bác “Hồ muôn vàn

kính yêu” trong lòng bà đã từng một thời gắn bó sắt son với bốn chữ “Sinh Bắc tử Nam” xâm vào cánh tay, giờ theo ngõ sau mà bài tiết ra ngoài hết. Sau trận càn quét khủng khiếp như cuồng phong bão tố ấy, người dân miền Nam từ mũi Cà Mau đến sông Bến Hải đều bị lột sạch, lột truồng. Tất cả chỉ còn cái khố rách để che hạ bộ và phải nhá bo bo, rễ cây để gắng sống vất vưởng cho qua kiếp người. Miền Nam lúc bấy giờ thật không còn gì nữa để cho chúng cướp, chúng lột. Nhưng với bọn lòng tham vô đáy, mặt người dạ thú đầy mưu ma chước quĩ, những năm về sau bọn Hà Nội lại nghĩ ra mưu đồ khác với những luật này, lệ kia, nghị định nọ… để thu hết đất đai, ruộng đất về một tay Nhà nước quản lý. Từ đó chúng lại mở đầu phương pháp ăn cướp đất đai của nông dân, của người nghèo bằng những “đồ án qui hoạch” xây dựng phát triển xã hội nghe rất nhân đạo, hợp pháp, hợp tình hợp lý bằng phương cách giải tỏa, đền bù thiệt hại. Thật ra chỉ là một cách cướp đất của dân được che đậy một cách tinh vi mà thôi. Lấy đất của dân, đền bù chỉ có một rồi đem bán lại cho bọn ngoại quốc đầu tư khai thác giá tới trăm, tới ngàn lần hơn. Chưa có một xứ sở nào trên thế giới kể cả nước Mỹ giàu có bậc nhất, mà một mét vuông đất có giá trị bằng năm, bảy lượng vàng ròng như ở Việt Nam trong thế kỷ 21 này! Bọn cầm quyền Hà Nội của cái đảng cộng phỉ, từ tên chóp bu là Nông Đức Mạnh xuống đến một tên Huyện, Xã nhỏ nhất cũng đều có quyền ngang nhiên xà xẻo đất đai của dân đem ra bán lấy tiền tư túi. Chúng cướp đất của dân một cách ngang ngược và trắng trợn giữa ban ngày, ban mặt, có công an, du kích với dùi cui, súng ống rần rộ đàn áp hổ trợ. Và chúng chia lô bán lại cho ngoại bang, lấy tiền bỏ túi trước mắt người dân, chẳng chút e dè hay ngại ngùng gì cả. Hàng ngàn, hàng vạn dân oan khắp nước kéo nhau đi thưa kiện. Chúng cùng nhau cười vào mũi dân. Đơn từ Xã, Huyện đưa lên Tỉnh, lên Trung Ương. Bọn Trung Ương cười khẩy, trả về cho địa phương. Cứ thế dân oan dầm mưa dãi nắng, hết đời ông đến đời cha tới đời con… đã ba đời tiếp nhau đi kiện mà đơn kiện cứ chạy lòng vòng như đèn cù chẳng có thằng quan nào xét đơn giải quyết. Tiền chia nhau nuốt rồi giải làm sao, quyết làm sao đây? Tự xưa đến nay có quân ăn cướp nào đem của trả lại cho ai bao giờ! Đại tá Việt cộng Bùi Tín, Phó Tổng biện tập báo Quân đội Nhân dân, một tay tả bật hữu phù của chế độ Hà Nội, một trong những người đầu tiên xông vào dinh Độc Lập ngày 30/4/75 buộc Tổng thống VNCH Dương văn Minh phải đầu hàng chứ không phải trao quyền, nay đã hơn 18 năm bỏ của chạy lấy người sang tị nạn cộng sản tại Pháp vì đã nhận ra bộ mặt bán nước, buôn dân của cái đảng cướp cộng sản gian manh xảo trá. Sau hơn 33 năm, nhân ngày 30 tháng 4, trả lời phỏng vấn một số báo trong và ngoài nước, Bùi Tín phát biểu như sau: “Hôm nay tôi sẵn sàng nói to cho mọi người nghe rõ: đất nước ta sau ngày 30/4/75 không hề được giải phóng, cũng không hề được thống nhất. Ngày 30/4 đảng cộng sản thắng, toàn dân vẫn thua, vẫn bị thống trị bởi độc quyền đảng trị.

Đảng cộng sản đã thực hiện chính sách chiếm đóng và thống trị miền Nam, bỏ tù và quản thúc hàng triệu người dân, tước đoạt của cải của dân qua đổi tiền và cải tạo, thải loại ngay Mặt trận Dân tộc Giải phóng, gây thảm cảnh hàng triệu thuyền nhân. Như thế mà là giải phóng, là thống nhất ư? Sau 30/4/75, chỉ riêng đảng cộng sản cầm quyền, không cho ai lập hội, không cho một tư nhân nào ra báo, không có tự do ứng cử và bầu cử, thế mà gọi là giải phóng dân tộc ư? Là tự do ư? Còn nay thì đảng giàu, giàu sụ, dân nghèo, nghèo rớt. Thống nhất kiểu gì vậy? Phát triển kiểu gì vậy? Một nước “độc lập” mà buộc phải ký những hiệp ước bất bình đẳng, để bị mất đất, mất biển hàng trăm, hàng nghìn ký lô mét vuông, mất đảo, mất vô vàn tài nguyên hải sản, rồi người nước ngoài (Tàu) muốn đuốc của họ vào nước ta, vào lúc nào, ở đâu là do họ quyết định, bộ trưởng ngoại giao của họ lại còn sang thủ đô ta để giao nhiệm vụ cho bộ trưởng ngoại giao ta, cho thủ tướng, cho chủ tịch quốc hội phải bảo vệ đuốc của họ cho triệt để và còn cho an ninh vũ trang của họ vào tham gia đàn áp nhân dân nếu có biểu tình ôn hòa… thì thử hỏi nước ấy độc lập ở chỗ nào?có chủ quyền ở chỗ nào? Những người lãnh đạo của ta có còn chút thực quyền, có còn chút tự hào dân tộc gì nữa đâu! Người Việt chân chính tự trọng không xử sự như thế.” Sau ngày Trung Quốc tuyên bố thành lập huyện Tam Sa để chính thức sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ của chúng thì làn sóng chống đối của người dân Việt yêu nước bùng nổ dữ dội. Họ đã xuống đường giương cao biểu ngữ phản đối Bắc Kinh và đòi lại chủ quyền hai đảo trên. Trong khi ấy, bọn lãnh đạo Hà Nội lại nín khe, không một lời phản kháng hay chống trả. Ngược lại còn cho lực lượng công an,cảnh sát hùng hậu đi dẹp biểu tình để làm vui lòng đám quan thầy Trung Quốc. Người dân bấy giờ hỏi nhau trong ngỡ ngàng: - Tại sao Nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam lại có thái độ hèn nhát đến như thế? Sau đó họ mới ngã ngữa ra bất ngờ khi Trung Quốc trưng bằng cớ là Hồ Chí Minh đã dâng đảo cho họ từ lâu bằng cái công hàm bán nước do Thủ tướng Phạm văn Đồng ký cho Chu Ân Lai ngày 14 tháng 9 năm 1958. Thì ra thế! Bọn Bắc Bộ phủ còn cãi cái gì được nữa? “Cha già dân tộc” họ Hồ đã ký giấy bán giang sơn cho người ta rồi, con cháu Hồ nối ngôi làm sao nói ngược được? Dần dà người dân mới hiểu ra là tại sao bọn Tàu Ô nhiều lần ngang nhiên xâm phạm lãnh hải Việt Nam, ngang nhiên bắn giết và bắt cầm tù ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc mà “bộ đội biển” của cụ Hồ lại đứng nhe răng vẩu ra nhìn chứ không dám giương súng ra đánh trả để cứu dân mình. Thì ra “bộ đội biển” đã nhận được mật lệnh của “Tổng Tư lệnh bộ đội” Nông Đức Mạnh cấm có động đến lông chân của lính Đại Hán. Động đến có mà mang khốn! Động đến có mà mất ghế! Chưa hết, trong hai năm 1999-2000, bọn chóp bu đảng gồm Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm… trong Bộ Chính trị đã lén ký 2 Hiệp ước bất bình thường, phản bội dân tộc trong việc Bán đất Biên

giới và Bán Vịnh Bắc phần cho Tàu. Ngày 25/12/ 2000 Bắc Bộ phủ lại âm thầm ký thêm với Bắc Kinh cái gọi là Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ, theo báo chí ngoại quốc, bọn chúng đã bán cho Trung Quốc tại biên giới Việt Trung hơn 15.600 Km2 và 20.000 Km2 lãnh hải trong Vịnh Bắc Phần. Tiếp theo, chiều ngày 31/12/2008, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tấn Dũng đã phải hối hả ký Nghị định thư về biên giới theo sự thúc ép của Tàu, giao cho chúng phần đất ải Nam Quan và thác Bản Giốc đúng hẹn nếu không thì cả hai sẽ bị mất chức. Và mới đây, bất chấp lời can ngăn của tướng Võ Nguyên Giáp và hàng chục nhà khoa học, chuyên gia đã trình bày các điều nguy hại trong việc cho Tàu khai thác quặng bô xít trên Tây Nguyên về môi trường ô nhiểm, về kinh tế, văn hóa và cả về an ninh lãnh thổ, Nguyễn Tấn Dũng đều bỏ ngoài tai, cương quyết cho Trung Quốc tiến hành dự án khai thác. Dũng còn tuyên bố chắc như đinh đóng cột rằng: “Việc khai thác bô xít tại Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng và Nhà nước”. Nguyên do nào mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam trong Bộ Chính trị đã rất ngoan ngoãn từng bước, từng bước rất bài bản, hết dâng đất liền, dâng biển, hải đảo rồi đến núi rừng Tây Nguyên như vậy? Phải chăng đây là kịch bản do Tàu bá quyền đã viết sẵn từng hồi, từng cảnh từ lúc đưa Hồ Chí Minh giả hay thật (Hồ Tập Chương) về nước để cài cắm trong kế hoạch “kim thiền thoát xác” lâu dài để thôn tính nước Việt Nam một cách êm thấm kiểu tầm ăn dâu như nhà sử học Đài Loan Hồ Tuấn Hùng vừa công bố trong tác phẩm “Hồ Chí minh sinh bình khảo”. Không biết các tài liệu trong sách thật, hư được bao nhiêu phần trăm, chỉ có điều Bộ Chính trị của Bắc Bộ phủ cho đến nay, chuyện bí mật về Hồ Chí Minh chúng luôn coi như “thần linh bóng đè” “nhạy cảm” không được đụng chạm đến, vẫn thủ khẩu như bình, không xác nhận hay phủ nhận, khác hẵn với thái độ giãy nảy như đĩa phải vôi khi có ai đó lên tiếng chỉ trích nhân quyền hay tự do tín ngưỡng tại Việt Nam bị cộng sản đàn áp. Như vậy là kế họach “di hoa chiết mộc” hay “kim thiền thoát xác”, hay nói nôm na là mưu đồ buôn vua của bá quyền Trung Hoa đã trường kỳ gian khổ thực hiện đến màn chót. Đất liền biên giới phía Bắc, mặt biển phía Đông đã xong. Nay chiếm đóng được núi rừng Tây Nguyên, “nóc nhà của Đông Dương”, một điểm chiến lược tối quan trọng, là hoàn tất chiến quốc sách ba mũi giáp công. Đại tướng Pháp Delattre de Tassigni khi nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, sau khi đã đi quan sát khắp nơi ở Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt đã có nhận định: - Ai giành quyền làm chủ được giải Cao nguyên Trung phần và Hạ Lào thì người đó làm chủ chiến trường Đông Dương. (Cao nguyên Trung phần gồm Pleiku, Kontum, và Ban Mê Thuột. Cao nguyên Hạ Lào là Boloven gồm hai tỉnh Attopeu và Saravane. Hai giải cao nguyên này nối tiếp nhau làm thành một hành lang thiên tạo và một căn cứ địa vững chắc ít nơi nào bằng) Bây giờ Trung Quốc đã giành được quyền làm chủ vùng Cao nguyên Trung phần mà

không phải tốn một viên đạn, một giọt máu, lại do bọn “mãi quốc cầu vinh” dâng hiến. Kế hoạch xâm lược đất đai đã hoàn tất. Giờ là thực hiện bước thứ hai kế tiếp: - Hán hóa. Kế họach Hán hóa được Bắc kinh đề ra lâu dài, gồm hai bước: 1/ Đồng văn: Phổ biến văn hóa phẩm của Tàu rộng khắp. Khuyến khích, cổ võ, hổ trợ các cơ sở xuất bản, phát hành sách tối đa để in ấn sách của Tàu. 2/ Đồng chủng: Khuyến khích, phát động phong trào ăn mặc như Tàu, học viết và nói tiếng Tàu thay tiếng Việt. Tiếng Việt dần dà sẽ bị triệt tiêu. Lúc ấy Việt Nam sẽ là một quận của Tàu, sẽ là một cửa ngõ thênh thang cho Tàu thông ra biển, một mơ ước ngàn đời của chúng để giao thương với thế giới bên ngoài. Kế họach “đồng chủng” phải còn lâu. Nhưng mưa dầm thấm đất. Nhà Hồ trị vì càng lâu thì kế hoạch Hán hóa càng có cơ thành công sớm. Hiện nay, bọn lãnh đạo Bắc Bộ phủ đang thực thi từng bước theo chỉ thị của quan thầy Tàu rất bài bản. Người ta nhớ lại Bản Tuyên Bố Chung của Nông Đức Mạnh khi thăm Trung Quốc từ ngày 30/5 đến 02/6/2008 đã cam kết với các lãnh đạo cộng sản Trung Quốc ở khoản 4 rằng: “ Hai bên nhấn mạnh sẽ tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp tiếp xúc mật thiết giữa lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước, tuyên bố thiết lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc. Hai bên nhất trí phát huy đầy đủ vai trò của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, qui hoạch tổng thể và thúc đẩy toàn diện sự hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực, xây dựng cơ chế giao lưu và hợp tác giữa các cơ quan Trung ương hữu quan của hai Đảng, đi sâu trao đổi về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và về xây dựng Đảng, quản lý đất nước, tiếp tục tổ chức tốt các cuộc hội thảo lý luận giữa hai Đảng, thúc đẩy hợp tác về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, thúc đẩy cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các bộ, ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh, mở rộng hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục..., triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức nhân dân, phối hợp các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống hữu nghị giữa nhân dân hai nước.” Giờ thì người dân không còn ngạc nhiên và lấy làm lạ là tại sao những cuộc biểu tình của sinh viên, học sinh, văn nghệ sĩ yêu nước xuống đường phản đối Tàu khựa cướp đất, cướp đảo lại bị chính quyền Hà Nội ra tay đàn áp dã man. Những bước ngoạn mục của kế hoạch Hán hóa đang tiếp diễn: - Lễ mừng công hoàn thành phân giới cắm mốc Việt – Trung Ngày 31/12/2008, lúc 8giờ tối, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tấn Dũng bị hai quan Thái thú Tàu là Vũ Đại Vĩ, Thứ trưởng Ngoại giao và Vương Gia Thụy, Trưởng ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Cộng sản Trung Quốc đè cổ, cầm tay điểm chỉ vào Nghị định thư về việc cắm mốc biên giới giao đất, giao thác cho chúng đúng hẹn ấn định bắt buộc.

Cái sợ hãi đến són vãi trong quần của Mạnh và Dũng còn chưa kịp tan thì ngày 22 tháng 2 năm 2009 lại bị buộc phải làm “Lễ mừng công hoàn thành phân giới cắm mốc ViệtTrung”. Mạnh và Dũng vâng dạ luôn miệng và răm rắp tuân lệnh. Theo VnMedia mô tả thì buổi lễ chính thức diễn ra vào lúc 14.30 ngày 22/2/2009. Tham gia buổi lễ mừng công có đến 600 đại biểu tham dự gồm lãnh đạo hai nước, lãnh đạo các bộ ngành, các tỉnh có biên giới với Trung Quốc. Phía Tàu có Đới Bình Quốc, Ủy viên Quốc vụ viện, Vũ Đại Vỹ, Thứ trưởng Ngoại giao. Phía Việt Nam có Phó thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Phạm Gia Khiêm và Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng. Tỉnh Lạng Sơn được vinh dự lựa chọn là nơi tổ chức. Lễ được tiến hành một cách rất trang trọng có cả Đoàn Nghệ thuật Lạng Sơn biểu diễn giúp vui cùng với các màn múa hát, múa sư tử… nội dung ca ngợi quê hương đất nước, tình hữu nghị Việt Trung trong màn khai hội kéo dài 20 phút rất hoành tráng, mang đậm bản sắc dân tộc Lạng Sơn. Ngoài số quan khách 600 vị còn có hàng trăm quần chúng được huy động đến để vỗ tay và hô khẩu hiệu 16 chữ vàng. Trong tiếng hô vang trời khản cổ: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” người ta nghe trong gió có lẫn 16 tiếng khác là “Láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn dân, lấn biển lâu dài, thôn tính tương lai”. Âm thanh nghe rất u uất sầu thảm. - Trong buổi lễ khai mạc Hội Chùa Hương năm nay, Phạm Quang Nghị, Tổng bí thư thành ủy Hà Nội kiêm Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương đã trịnh trọng trong một cái áo đại cán rặc Tàu chệt, lên đọc diễn văn lễ khai mạc. Người dân nhớ lại cái bản mặt bèn bẹt gà mái của đồng chí Nghị lúc đi xe hơi thăm dân Hà Nội bị nước lụt, tuyên bố rất thối là “dân ngày nay ưa ỷ lại Nhà nước”, giờ lại mặc cái áo Tàu chệt nên đã đồng loạt phán cho đồng chí một câu để đời là “Thằng Nghị đúng là quân bán nước không biết nhục”. - Xây dựng 40 nghĩa trang trên đất nước Việt Nam để ghi ơn người Trung Quốc. Trong bài viết “Phía sau một tấm hình” của tác giả Lê Trung Thành kể lại chuyện một lãng tử người Trung Quốc đã một mình, một xe đạp vượt hơn ngàn cây số vào lãnh thổ Việt Nam ngao du sơn thủy rồi dọc đường ghé nghĩa trang liệt sĩ người Trung Quốc khói hương cho những vong linh còn nằm lại trên đất khách quê người. Có đến 40 nghĩa trang đẹp đẻ với hàng bia thẳng tắp, tượng người lính Trung Quốc đứng sừng sững, khói hương nghi ngút và nhiều vòng hoa viếng điếu có hàng chữ: “Nhân dân Việt Nam đời đời nhớ ơn các liệt sĩ Trung Quốc”. Người khách Trung Quốc này lấy làm hãnh diện cũng như phần đông những người Trung Quốc khác, họ ưỡn ngực tự hào rằng Trung Quốc đã có một nền văn hóa lâu đời, phong phú và vĩ đại, họ tự hào rằng đang sống trên một đất nước Trung Quốc giàu mạnh ngang hàng với các cường quốc năm châu. Ông ta suy nghĩ rằng: “Những vòng hoa nơi đây là của người Việt Nam mang đến, những người dân nơi đây rất kính trọng các liệt sĩ chúng ta. Trong giai đoạn giúp Việt chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đã vì Việt Nam mà đóng góp không biết bao nhiêu tài lực, nhân lực, vật lực, pháo binh, công binh, nhân viên đường sắt, nhân viên thư tín, hải quân, không quân, hậu cần vận tải…16 chi đội hơn 30 vạn người ở Việt Nam trong suốt hơn 3 năm 9 tháng đấu tranh…Từ năm 1950 đến năm 1978, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ Mỹ Kim, và trong đó đến 93% là viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu mà

1446 chiến sĩ đã hy sinh, 4200 người trọng thương…những hy sinh đó tuyệt đối không thể tính bằng tiền”. Ông Lê trung Thành viết: “Trên đây là cách nhìn của một người Trung Quốc về quan hệ Việt Trung, họ cho rằng nhân dân Việt Nam phải khắc ghi công ơn các chiến sĩ Trung Quốc vào sử sách, nhưng than ôi, công là công gì đây? ơn là ơn gì đây? Khi chính cái chủ nghĩa cộng sản của ông Hồ Chí Minh mang về đã làm cho đất nước chúng tôi ngày hôm nay thê thảm nông nổi này??? Có phải công đã đày đọa một dân tộc tụt hậu thấp kém về mọi mặt của đời sống xã hội? Có phải công ơn là đẩy hàng triệu người lao lực kiếm ngày hai bữa ăn không nỗi? Thật là một nỗi đau khi thấy những tấm bia cao ngất ghi hàng chữ “Ghi ơn các liệt sĩ Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ”, càng đau lòng hơn vì chống Mỹ mà ngày hôm nay mới đeo thêm cái gông cùm cộng sản lên đầu, mới nghèo đói, lạc hậu, mới suy đồi… đau làm sao khi những hy sinh, những mất mát của chiến sĩ ta bị lờ đi, cái đất nước này còn bao nhiêu anh hùng liệt sĩ cần một nơi an dưỡng đường hoàng mà chưa có, nay lại đi dựng đài liệt sĩ để nhớ ơn Tàu, thiệt là một việc làm rồ dại. Hãy nghe Đỗ Trung Quân không kiềm chế được nỗi lòng về những chiến sĩ bị lãng quên trong cuộc chiến biên giới 78-79, và chỉ còn có thể đặt vòng hoa và hương khói trong tâm tưởng: Đánh xong Polpot ta về ngủ Kẽo kẹt đêm đêm võng một mình Tiếng chân mẹ rót như sương rụng Vẫn làm giật bắn cả bình minh Chưa xong giấc ngủ thèm mơ mộng Máu đỏ loang từ biên giới xa Ba lô xốc lại chờ ra trận Lại cúi hôn lên trán mẹ già Thôi thì chinh chiến không ai muốn Vẫn phải sôi gan giặc đến nhà Vận trời – Máu chỉ loang chừng ấy Rừng đào linh hiển vẫn ra hoa Đá núi nghìn năm nằm thở khói Lau trắng nghìn năm lau trắng thêm Cớ gì sông núi hao gầy mãi Ai nhớ và ai đang muốn quên? (17/2/79 – 12/2/2009) Thế đó, còn biết bao sự hi sinh to lớn của những người con của mẹ Việt Nam cần được dân tộc dựng bia ghi nhớ, vậy mà ngày hôm nay, hãy nhìn xem, nhìn hình ảnh vòng hoa “Nhân dân Việt Nam đời đời nhớ ơn các liệt sĩ Trung Quốc” của cán bộ Việt cộng dâng hương, trời ơi! họ có còn là người Việt Nam nữa hay không? Ôi, lòng tôi không khỏi đau đớn thay cho số phận dân tộc mình, cho tôi thành kính dâng giọt nước mắt hôm nay, nỗi niềm xót xa này, cho những người lính Bắc Việt đã bị đảng lừa cho trắng tay, trắng mắt. Cho những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã chết vì giá trị tự do. Dù hôm nay thế hệ trẻ trong nước dưới sự giáo dục mất dạy của đảng Việt cộng đã gọi anh là ngụy quân, ngụy quyền, nhưng anh là chính nghĩa và lịch sử biết đến anh.(Lê. T. Thành)

- Ca tụng lính Trung Quốc là anh hùng Người Buôn Gió viết trong Blog của mình: - Ngày 17 tháng 2 năm nay là đúng 30 năm, ngày quân xâm lược Bắc Kinh dày xéo biên cương Việt Nam. Chúng tàn sát nhân dân ta, biến các tỉnh, thị xã biên cương thành hoang địa. Gần đến ngày đó, những người còn sống sót qua trận lửa đạn dã man của quân xâm lăng lại nôn nao thương nhớ đến người thân đã chết vì đạn giặc. Hàng chục nghìn người đã ngã xuống là hàng trăm nghìn nỗi đau của thân nhân còn âm ỉ, day dứt. Khói hương còn nghi ngút trước di ảnh người thân. Vết thương còn chưa khép kín. Thế nhưng, dường như không biết đến lịch sự, không biết đến lòng dân tộc mình. Báo Hà Nội Mới, số ra ngày 19/9/2008. Đã đưa bài Ca ngợi Hứa Thế Hữu, tướng Tàu chỉ huy đánh hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1979. Không hiểu vì có quan họ dòng tộc với Hứa Thế Hữu hay vì lý do chính trị mà báo Hà Nội Mới ngang nhiên ca ngợi tên tướng đã tàn sát dân tộc mình. Ngang nhiên xát muối vào lòng những người Việt Nam có thân nhân đã anh dũng hy sinh, bảo vệ từng tấc đất biên cương. Bất chấp những nỗi đau đớn của người sống, bất chấp tuổi thanh xuân vĩnh viễn mất đi của những đứa con Việt Nam đã dâng cho đất mẹ thiêng liêng… Phải chăng báo Hà Nội Mới muốn thách thức tinh thần dân tộc Việt Nam, muốn chà đạp và chôn vùi tính tự cường của 4000 năm lịch sử chống ngoại xâm? Hay báo Hà Nội Mới muốn đón đầu lập công dâng đảng… cộng sản Trung Quốc. - In sách phát tán ca ngợi chiến công anh hùng của línhTrung Quốc trong chiến tranh biên giới năm 1979. Để đánh dấu 30 năm ngày xảy ra trận chiến biên giới Việt Trung, quân xâm lược Tàu tràn sang bắn giết đồng bào ta rất dã man, nhà Xuất bản Văn Học liên kết với Công ty Văn hóa Phương Nam xuất bản cuốn sách có tên là “Ma Chiến hữu” của nhà văn Trung Quốc, Mạc Ngôn, được Trần Trung Hỷ dịch, Nguyễn Cừ chịu trách nhiệm xuất bản, Triệu Xuân và Mạc Nguyên biên tập. Sách dày 200 trang, in đẹp, giấy dầy láng, bìa tốt. Giá chỉ có 23.000 Đồng. “Ma Chiến Hữu” ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, ca ngợi những người lính Trung Quốc chiến đấu ở phía Nam Trung Quốc và giết được rất nhiều địch. (?) Khoan nói về “Ma Chiến Hữu” của Mạc Ngôn đã. Hãy nói về tác phẩm “Rồng Đá” của Vũ Ngọc Tiến và Lê Mai. Tác phẩm này vừa được nhà Xuất bản Đà Nẵng in xong, chưa kịp phát hành thì bị Nhà nước và đảng ta ra lệnh cấm phát hành và tịch thu toàn bộ. Hai tác giả bị công an mời làm việc và toàn ban Giám đốc nhà Xuất bản bị cho thôi việc. Cơ sở in ấn bị đóng cửa. Vì lý do gì? Phản động chăng? Đồi trụy chăng? Tố cáo quan lớn tham nhũng chăng? Tất cả đều không phải! Xung quanh sự kiện này còn có nhiều “uẩn khúc” mà nhiều báo “chính thống” của ta không dám đăng. Nhiều người cho rằng đây là một “đòn” đánh vào

nhà văn Đà Linh, Tổng biên tập Nhà Xuất bản Đà Nẵng, như một cách để nhổ đi cái gai sau hàng loạt đầu sách như “Ba người khác” của Tô Hoài, “Bóng đè” của Đỗ Hoàng Diệu, và “Thơ Trần Dần”… Nhưng thật ra, lý do chính mà đảng ta phải “khẩn trương ---

-Hồn Nhiên Nam quốc sơn hà nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Lý Thường Kiệt

Related Documents

Nhung Ten Ban Nuoc
July 2020 6
Ban Ten
May 2020 8
Can Ban Ve Mau Nuoc
November 2019 9
Nuoc
November 2019 17