Xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam
1. sơ lược về mặt trận dân tộc thống nhất và ý nghĩa của nó đối với cách mạng Việt Nam: Đoàn kết, yêu nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong suốt quá trình hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Kế thừa và phát huy truyền thống đó, kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm "dân là gốc" của ông cha và "cách mạng là sự nghiệp quần chúng" của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, 76 năm trước đây, gần 10 tháng sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, ngày 18-11-1930, Hội Phản đế đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam ở nước ta ra đời do Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi xướng và lãnh đạo, đã đánh dấu sự phát triển về chất phong trào đoàn kết, yêu nước của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp đô hộ và bè lũ tay sai. Kế tục sự nghiệp cách mạng của Hội Phản đế đồng minh (1930 - 1936) và của Mặt trận Dân chủ Đông dương (1936 - 1939), Mặt trận Việt Minh (1941) đã tập hợp các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và các tổ chức cứu quốc, đoàn kết, động viên toàn dân vùng lên giành chính quyền, đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân và quân đội ta với sức mạnh vô địch, đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", đưa cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi, giải phóng một nửa đất nước, xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nhân dân và quân đội ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ý nghĩa to lớn của mặt trận được thể hiện rõ nét trong quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta theo đó, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng luôn quán triệt quan điểm cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, trong thực tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Trong tác phẩm "Đường kách mệnh", đồng chí Nguyễn ái Quốc đã nói: Kách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không phải là việc của một hai người. Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", Mác và Ǎngghen chỉ rõ: "... Những người cộng sản phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước". Lênin còn cho rằng chỉ một mình giai cấp vô sản tiến hành cuộc đấu tranh một cách đơn độc "thì đó không những là một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa". Ý nghĩa của mặt trận càng tỏ ra đặc biệt quan trọng hơn khi đặt nó vào trong bối cảnh nước ta. Trải qua bốn nghìn nǎm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất khuất của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm vào bức tường đó, chúng cũng phải
thất bại". Cho nên, có thể thấy, sự ra đời của mặt trận dân tộc thống nhất là một vấn đề cấp thiết và tất yếu mang tính lịch sử của cách mạng Việt Nam. 2. Xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kỳ: 2.1. 1930 – 1935: Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong những nǎm 1930-1935 tuân theo một quy luật chung là ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Đế quốc Pháp trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng kinh tế lên vai thuộc địa. Nên kinh tế Việt Nam vốn đã kiệt quệ do chính sách bóc lột thậm tệ của thực dân Pháp, nay lại càng kiệt quệ. Đời sống của các tầng lớp nhân dân ta đều bị đe doạ, trong đó công nhân và nông dân chịu nhiều tai hoạ nhất. Do đó nhiệm vụ của Đảng đặt ra là "phải lấy những sự nhu yếu hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng... để dự bị họ về phía võ trang bạo động sau này". Song, nếu chỉ thấy lực lượng cách mạng có hai giai cấp công nhân và nông dân thì sẽ dẫn đến cô độc, hẹp hòi, hạn chế việc mở rộng lực lượng cách mạng. Trong chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh Đông Dương ra ngày 18-11-1930, Thường vụ Trung ương Đảng đã phân tích, chỉ rõ tính "biệt phái" của phong trào, thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng để lôi cuốn các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn quốc gia độc lập. Đó là nhận thức mới, cách nhìn mới, đánh giá đúng các tầng lớp, giai cấp trong dân tộc của Đảng. Chỉ có như vậy mới tập hợp được lực lượng của cả dân tộc. Vì "Cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công". Đội quân chính trị quần chúng có tính quyết định là công nông, nhưng muốn đánh đổ kẻ thù lớn mạnh, đạt tới thắng lợi nhanh nhất và giảm bớt tổn thất cho cách mạng, đội quân chính trị ấy không thể chỉ có công nông, mà phải bao gồm hết thảy các giai cấp và tầng lớp có khả nǎng chống đế quốc và phong kiến. 2.2 1936 – 1939 Điểm đặc biệt trong cách tập hợp lực lượng cho mặt trận trong thời kỳ này chính là khả năng cơ động nhạy bén trong nhận thức tình hình, nhận thức thời cơ cách mạng của Đảng Mặt trận dân chủ, một hình thức mặt trận thích hợp nhất lúc đó đã thay thế Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế. Thành phần tham gia Mặt trận dân chủ rộng hơn Mật trận phản đế. Mặt trận dân chủ không chỉ có các lực lượng tiên tiến, kiên quyết chống đế quốc mà gồm cả những thành phần chỉ có yêu cầu cải cách, không chỉ có quần chúng cơ bản là công nhân, nông dân mà còn có cả những tầng lớp tư sản, địa chủ, các đảng phái cải lương ít nhiều tiến bộ, các thủ lĩnh dân tộc, tôn giáo đấu tranh cho dân chủ, tự do cơm áo, hoà bình. Mặt trận không chỉ bao gồm những người tán thành dân chủ thuộc ba nước Đông Dương, mà còn thu hút cả những ngoại kiều như Hoa kiều, Pháp kiều tán thành mục tiêu này. Để tập hợp đồng đảo quần chúng, trong chính sách mặt trận, Đảng coi trọng liên minh các tầng lớp, giai cấp cơ bản, vừa thực hiện liên minh các tầng lớp, giai cấp cơ bản, vừa thực hiện liên minh với các tầng lớp trên, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Trong cuộc tổng diễn tập lần thứ nhất (1930-1936) lực lượng đấu tranh chủ yếu là công nông, thì trong cuộc tổng diễn tập tân thứ hai (1936-1939) ngoài công - nông là nòng cốt
còn có đồng đảo các tâng lớp, giai cấp tập hợp trong Mặt trận dân chủ. Trên cơ sở phong trào quần chúng rộng rãi, nòng cốt là khối liên minh công - nông đã hình thành trên thực tế từ cao trào 1930-1931, Đảng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đó là bước tiến mới trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng về xây dựng lực lượng cách mạng. 2.3 1939 – 1945 Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đồng chí Hồ Chí Minh về nước, cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám khoá I (tháng 5-1941), dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Hồ Chí Minh đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ, thành lập Mặt trận Việt Minh để mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Mặt trận Việt Minh chủ trương đoàn kết hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu, nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị nhằm đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặt trận Việt Minh ra đời đã thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp nhân dân. Từ cuối nǎm 1941 đến đâu nǎm 1942, các hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, đội tự vệ cứu quốc đã được thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Mặt trận Việt Minh thực sự đã đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân. Trong hai nǎm 1943-1944, thực hiện Nghị quyết của Ban thường vụ trung ương Đảng tháng 2-1943, hầu hết các đảng bộ địa phương vùng động bằng Bắc Bộ, sau những đợt chống khủng bố, đã đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố các đoàn thể Việt Minh ở nông thôn và thành thị. ở Hà Nội, tổ chức Việt Minh được phát triển mạnh trong nhiều nhà máy, trường học. ở các tỉnh đồng bằng và ven biển miền Trung, nhiều tổ chức cơ sở của Đảng và Việt Minh đã đi vào quần chúng công nhân, nông dân, dân nghèo, đồng thời phát triển vào các tầng lớp tiểu tư sản, trí thức ở thành thị. ở Nam Bộ, cùng với sự phục hồi một số cơ sở công hội, tổ chức Việt Minh được xây dựng ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và một số tỉnh khác. Hoạt động của các đội tuyên truyền xung phong và vũ trang ở nhiều thành phố, thị xã đã gây thanh thế cho Việt Minh, thúc đẩy việc phát triển các đoàn thể cứu quốc. ở vùng rừng núi và trung du Bắc Bộ, có những dấu hiệu của cao trào cách mạng. ở Cao Bằng, hệ thống Việt Minh được xây dựng khắp các cơ sở trong tỉnh. Đội tự vệ vũ trang và du kích được thành lập ở các xã, các huyện. Các lớp huấn luyện chính trị, quân sự mở ra liên tiếp. Phong trào chuẩn bị khởi nghĩa sục sôi trong toàn tỉnh. Không khí chuẩn bị khởi nghĩa dâng lên mạnh mẽ ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Việt Trì. Dưới ngọn cờ đại đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã dấy lên một cao trào kháng Nhật cứu nước sôi nổi và đều khắp, nắm vững thời cơ đưa Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thắng lợi là kết quả hợp thành của các nhân tố chủ quan và khách quan, trong và ngoài nước. Nhưng quyết định trực tiếp, trước hết là các nhân tố chủ quan bên trong. Đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và tinh thần quật khởi mạnh mẽ của toàn dân ta. Trong suốt 15 nǎm, kể từ khi ra đời đến Cách mạng Tháng Tám 1945, qua ba cao trào, Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng về mọi mặt. Nhờ có lực lượng toàn dân đoàn kết được xây dựng rộng khắp, có tổ chức chặt chẽ nên cách mạng Tháng Tám đã diễn ra nhanh, ít đổ máu và thắng lợi vẻ vang. 2.4 1946 – 1954 Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, quân Pháp núp sau quân đội Anh trở lại xâm lược nước ta từ phía Nam, còn quân Tưởng kéo vào phía Bắc. Trước tình thế hiểm nguy ấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất. Trong chỉ thị kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945. BCH TW Đảng đã chỉ rõ “ kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.vì vậy, phải lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân pháp xâm lược, mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân. thống nhất mặt trận Việt – Miên – Lào, kiên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc cho toàn dân tộc. Tháng 5-1946, Mặt trận Liên Việt ra đời, và đến tháng 3/1951 Việt Minh và Liên Việt được hợp nhất thành mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, làm hậu thuẫn vững chắc cho chính quyền cách mạng. Đảng đã áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt để thêm bạn, bớt thù, do đó đã đẩy lùi được mọi âm mưu thâm độc của thù trong, giặc ngoài. những chính sách đúng đắn trong công tác xây dựng mặt trận đã tập hợp được một lực lượng rộng rãi quần chúng nhân dân tham gia vào cách mạng, tạo nên một động lực to lớn làm nên một chiến thắng ĐBP lẫy lừng năm châu, vang dội toàn cầu. Đồng thời bụôc người Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán với chúng ta tại Geneve. 2.5. 1954 – 1975: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp nghị Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Nhưng ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã thay thế thực dân Pháp, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới. Chúng trở thành kẻ thù chính của nhân dân miền Nam và của cả dân tộc ta. Trong hoàn cảnh mới, Đảng chủ trương thành lập ở mỗi miền một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm mở rộng và tǎng cường khối đoàn kết dân tộc để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tháng 9-1955, ở miền Bắc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời. Tháng 12-1960, ở miền Nam, sau cao trào "đồng khởi", Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Từ cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân nǎm 1968, các lực lượng tiến bộ ở các đô thị miền Nam đã tập hợp trong liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hoà bình Việt Nam. Nhân dân ta còn đoàn kết với nhân dân các dân tộc Lào và Campuchia anh em, hình thành Mặt trận đoàn kết ba nước, các lực lượng hoà bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến Mỹ, cứu nước đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận: ở trong nước, trên bán đảo Đông Dương và trên thế giới, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ để lên án và cô lập đế quốc Mỹ xâm lược. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nhân dân và quân đội ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. 3. Kết luận với nhứng kinh nghiệm như trên trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta qua các thời kỳ. xây dựng lực lượng cách mạng vừa rộng rãi,vừa vững chắc, đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân, hình thành mặt trận dân tộc dân chủ chống đế quốc, phong kiến tiến lên xây dựng CNXH. Mặt trận vững vì có khối công nông liên minh làm nền tảng và Đảng lãnh đạo nên ta đã tập hợp được sức mạnh hùng hậu của cách mạng dân tộc trong mỗi giai đoạn của cách mạng.cũng qua đó, ta rút ra được một số vấn đề mang tính quy luật trong xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất: Thứ nhất: Phải xác định đúng kẻ thù, sắp xếp đúng bạn đồng minh Muốn có chính sách mặt trận đúng đắn, trước hết phải xác định đúng kẻ thù cụ thể, trước mắt. Điều đó đòi hỏi phải có lập trường giai cấp vững vàng, nhãn quan chính trị sâu sắc, nhạy bén. Trong đấu tranh cách mạng, không thể chỉ nêu ra kẻ thù chung chung, mà phải chỉ rõ kẻ thù cần phải đánh đổ trong từng giai đoạn chiến lược, có khi trong từng thời kỳ của một giai đoạn. Có như vậy mới tập trung được toàn bộ lực lượng cách mạng đánh đổ chúng. Xác định rõ kẻ thù cụ thể mới lợi dụng được những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và vận dụng sách lược mềm dẻo để cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất. Trong thực tế, đã có lúc, có nơi không phân biệt được kẻ thù chủ yếu với kẻ thù thứ yếu, kẻ thù nguy hiểm trước mắt với kẻ thù lâu dài, thậm chí đã lẫn lộn bạn - thù, như ở Nghệ Tĩnh trong những nǎm 1930-1931 đã nêu khẩu hiệu "trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ...", do đó đã không tranh thủ được lực lượng và các tầng lớp trung gian để tập trung lực lượng chống đế quốc xâm lược. Đảng ta đã có nhiều thành công nổi bật trong việc xác định kẻ thù cụ thể và chính sách mặt trận trong các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt là trong thời kỳ 1945-1946, công tác mặt
trận lúc này hết sức phức tạp, nhưng phong phú và sáng tạo. Tình hình lúc bấy giờ thay đổi từng ngày, từng tháng. Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đối phó với nhiều kẻ thù, nhưng Đảng đã đánh giá đúng các loại kẻ thù, xác định đúng kẻ thù chính, để có sách lược và phương pháp đấu tranh phù hợp, tạm thời hoà hoãn với kẻ thù này, phân hoá, cô lập kẻ thù kia, tránh thế bất lợi phải chống với nhiều kẻ thù cùng một lúc, để tǎng thêm sức mạnh giành thắng lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã sáng suốt chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất không chỉ của dân tộc ta mà của cả loài người tiến bộ là đế quốc Mỹ, nên đã hình thành được ba tầng mặt trận: ở trong nước, ở Đông Dương và trên thế giới, tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trong công tác mặt trận, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân và quan điểm dân tộc đúng đắn. Vì trong dân tộc có nhiều giai cấp, nên Đảng phải đánh giá đúng thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau để sắp xếp đúng đắn vị trí các lực lượng trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vai trò lãnh đạo, lực lượng nòng cốt, bạn đồng minh lâu dài và gần gũi, bạn đồng minh tạm thời, v.v.. Nhân dân ta bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Đó là cơ sở cho sự tập hợp rộng rãi các lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt trận dân tộc thống nhất để chống đế quốc và tay sai. Để biến khả nǎng ấy thành hiện thực, điều quyết định là phải có sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Đó là tất yếu khách quan của cách mạng nước ta và nhiều nước khác trong thời đại ngày nay. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã đánh giá đầy đủ vị trí của giai cấp nông dân Việt Nam, giai cấp đông đảo nhất, chiếm 95% số dân, là bạn đồng minh cách mạng và trung thành nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Hai giai cấp công nhân và nông dân có liên minh chặt chẽ mới phát huy đầy đủ sức mạnh, thực hiện triệt để nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giai cấp. Sự liên minh của hai giai cấp công nhân và nông dân ở nước ta là nền tảng vững chắc của Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng ta xác định rõ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, vai trò nòng cốt của liên minh công - nông, vị trí quan trọng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và ra sức tập hợp đông đảo lực lượng về phía cách mạng, đồng thời đánh giá cao truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã lôi cuốn giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận hoặc từng cá nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến địa chủ có tinh thần yêu nước tham gia cách mạng giải phóng dân tộc. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng hết sức chú ý phân tích thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp, nhất là các tầng lớp trên để tranh thủ mọi khả nǎng có thể tranh thủ nhằm tǎng cường mặt trận dân tộc rộng rãi để chống đế quốc và tay sai. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục lắng nghe, tìm hiểu quan điểm, tư tưởng và thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp để kịp thời đề ra những chủ trương chính sách đúng đắn, những hình thức tổ chức sát hợp để tập hợp lực lượng đông đảo, nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, Phải Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận Để tránh tả và hữu khuynh trong việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận. Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp Mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng dân tộc chống đế quốc xâm lược và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Nó bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp được tập hợp, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành động chung. Các giai cấp trong mặt trận đều thống nhất về lợi ích chung của dân tộc. Đối với giai cấp công nhân, lợi ích chung của dân tộc và lợi ích riêng của giai cấp là nhất trí. Nhưng đối với các giai cấp khác, thì lợi ích riêng của giai cấp và lợi ích chung của dân tôc có mặt nhất trí và có mặt không nhất trí. Vì vậy, Đảng phải nêu ra được những mục tiêu chung mà tất cả thành viên của mặt trận có thể chấp nhận được. Đó là cương lĩnh chung, chương trình hành động của mặt trận. Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng nêu ra mục tiêu đấu tranh đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh; trong thời kỳ 1939-1945 là đấu tranh chống Nhật, Pháp, giành độc lập dân tộc; trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước đã có lúc Đảng nêu ra mục tiêu trước mắt tranh đấu cho miền Nam Việt Nam, hoà bình, trung lập, v.v.. Cương lĩnh chung của mặt trận thể hiện đúng mối quan hệ giữa lợi ích chung toàn dân tộc với lợi ích riêng từng giai cấp. Nếu vượt ra khỏi giới hạn mục tiêu đó là phạm sai lầm tả khuynh. Trái lại, không đấu tranh để thực hiện những mục tiêu chung đã xác định là phạm sai lầm hữu khuynh. Mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận. Đây là mối quan hệ lớn nhất trong công tác mặt trận. Đảng ta đã giải quyết thành công mối quan hệ này thông qua việc giải quyết đúng mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Trong khi nhấn mạnh đoàn kết dân tộc, không bao giờ Đảng coi nhẹ vai trò nền tảng của mặt trận là khối liên minh công nông, vì liên minh công nông có vững chắc mới có thể mở rộng được mặt trận; ngược lại, làm tốt công tác mặt trận càng làm cho liên minh công nông thêm vững chắc. Chỉ nhấn mạnh liên minh công nông mà không chú ý tranh thủ các giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi, tả khuynh. Ngược lại, chỉ chú ý vận động các giai cấp, tầng lớp khác mà không chú ý củng cố liên minh công nông là phạm sai lầm hữu khuynh. Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên bằng việc thường xuyên nắm vững mục tiêu lâu dài và mục tiêu chủ yếu trong từng thời kỳ cách mạng, phân tích được mâu thuẫn chủ yếu để vạch rõ kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất. Khi cần tập trung lực lượng để giải quyết những nhiệm vụ cấp bách nhất của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng mức quyền lợi của công nông và của các giai cấp, các tầng lớp tham gia mặt trận. Mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên đi đôi với phát động quần chúng cơ bản. Đây là mối quan hệ phức tạp đòi hỏi phải có giải pháp khéo léo. Về bản chất giai cấp, tầng lớp trên đối lập với quần chúng cơ bản của cách mạng là công nông. Nhưng Đảng có thể và cần phải tranh thủ tầng lớp trên, nhất là những cá nhân có uy tín trong quần chúng,
đó là điều cần thiết và có lợi cho việc phát động quần chúng cơ bản. Nhưng phong trào vững chắc phải là phong trào cách mạng của quần chúng cơ bản. Chỉ khi nào phong trào đó mạnh mới bảo đảm tranh thủ được tầng lớp trên. Đồng chí Nguyễn Vǎn Cừ đã phân tích: muốn lôi cuốn được tầng lớp trên tham gia đấu tranh vì quyền lợi của dân tộc thì điều "cốt yếu là do lực lượng đấu tranh của quần chúng". Vận động các dân tộc ít người là một trong những công tác quan trọng bậc nhất của mặt trận, của chính quyền cách mạng. Chính sách đối với các dân tộc ít người là một bộ phận trong chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng. Đảng đã chỉ rõ, phải tranh thủ tầng lớp trên có ảnh hưởng đối với quần chúng ở vùng dân tộc ít người, "cụ thể là đoàn kết với họ, đồng thời giáo dục, cải tạo họ, phê bình những thiếu sót của họ. Muốn tranh thủ tầng lớp trên, phải đi sâu vào quần chúng, phát động tư tưởng quần chúng nông dân lao động vùng dân tộc ít người". Mấu chốt của vấn đề đoàn kết các dân tộc anh em là phải thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp về kinh tế và vǎn hoá, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc. Để đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo, Đảng đưa ra chính sách tự do tín ngưỡng và giáo dục quần chúng nhân dân lao động phân biệt tín ngưỡng với những hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống lại chính sách và pháp luật của Nhà nước. Phải nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giáo dân, làm cho họ phân biệt rõ địch - ta, ra sức đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần. Đối với tầng lớp trên trong tôn giáo, Đảng chủ trương đoàn kết với họ trên tinh thần yêu nước chân chính và giúp đỡ họ hiểu biết đường lối, chính sách của cách mạng, vận động họ cùng với đồng bào theo các tôn giáo làm những việc có ích cho Tổ quốc, chống lại mọi âm mưu chia rẽ dân tộc và phá hoại của kẻ thù. Trong việc xây dựng mặt trận, Đảng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh. Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh trong thực tế dẫn đến phá vỡ khối đoàn kết, thủ tiêu mặt trận. Do đó, trong mặt trận cần thiết phải có đấu tranh nhằm mục đích thực hiện cương lĩnh chung của mặt trận. Đấu tranh vượt quá cương lĩnh là phạm sai lầm tả khuynh, trái lại, thiếu đấu tranh để thực hiện cương lĩnh là hữu khuynh, dẫn đến mất đoàn kết. Thứ ba, phải nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận Một vấn đề có tính nguyên tắc là không ngừng tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận dân tộc thống nhất, phải giữ vững đường lối chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chống mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò của Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo trong mặt trận, xa rời phương hướng, mục tiêu chiến lược của cách mạng. Mấu chốt để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong mặt trận là hoàn chỉnh đường lối cách mạng và không ngừng củng cố khối liên minh công nông. Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng ta phân tích đúng đắn các mối quan hệ giai cấp để đề ra một cương lĩnh chung của mặt trận nhằm tập hợp thật rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp, các cá nhân yêu nước trong mặt trận.
Các giai cấp, các tầng lớp trong nhân dân đi theo Đảng chẳng những vì Đảng có đường lối đúng, mà còn vì Đảng có lực lượng. Vì vậy, phải không ngừng củng cố khối liên minh công nông. Đảng ta rất coi trọng mặt trận, nhưng trước hết phải xây dựng khối liên minh công nông vững mạnh. Liên minh công nông bao giờ cũng là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng cũng là một tổ chức chính trị trong mặt trận, nhưng mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, vì Đảng có đường lối chính trị đúng, gồm những người giác ngộ chính trị sâu sắc, tự nguyện, hết lòng phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, tiền phong gương mẫu trong mọi phong trào cách mạng của quần chúng; vì Đảng biết tạo ra sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, biết phối hợp hành động giữa Đảng và các thành viên khác trong mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng "phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và nǎng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo". Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận, phải luôn luôn tránh hai khuynh hướng lệch lạc là: cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ; hoặc đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không đấu tranh đúng mức với những tư tưởng và việc làm sai trái của các thành viên trong mặt trận. Chính vì đã làm như thế, nên vai trò lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận dân tộc thống nhất được đề cao, nền tảng liên minh công nông được củng cố vững chắc, đồng thời tính chất rộng rãi của mặt trận được phát huy đầy đủ. Về phần mình, Đảng không ngừng phấn đấu nâng cao nǎng lực lãnh đạo bằng sự hoàn thiện đường lối chiến lược, đổi mới chủ trương, sách lược cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và cải tiến phong cách, phương thức làm việc trong mặt trận, chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh, thiếu kiên trì giáo dục, thuyết phục. Kinh nghiệm lịch sử trước đây và hiện nay ở nước ta cũng như ở các nước cho thấy: phản kích vào những người cộng sản để hòng chia rẽ bộ phận trung kiên nhất của cách mạng với quần chúng là một thủ đoạn có tính chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Bài học thành công của Đảng ta về xây dựng khối đoàn kết thống nhất dân tộc thông qua hình thức tổ chức các mặt trận là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta từ trước đến nay. Sự cố kết giữa Đảng ta với Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước trước đây, cũng như với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là một sức mạnh không gì có thể phá vỡ nổi. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta không ngừng tự đổi mới, nhằm nâng cao nǎng lực lãnh đạo cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng mở rộng, tập hợp mọi thành phần, lực lượng của đất nước, tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và vǎn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tóm lại, mặt trận Dân tộc thống nhất luôn luôn là một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta, là điều kiện tiên quyết giúp cho nhân dân ta chuyển hóa đại đoàn kết dân tộc từ sức mạnh tinh thần tiềm ẩn thành sức mạnh vật chất tự giác và có tổ chức, là một công cụ sắc bén để nhân dân ta phát huy sức mạnh tổng hợp vĩ đại của mình trong
cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhân dân ta trong việc phấn đấu thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhằm "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại...".