MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SỞ HỮU NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường đang làm thay đổi cơ bản về cấu trúc kinh tế, cơ chế quản lý, đặc biệt là vai trò nhà nước trong mối quan hệ nhà nước - thị trường - dân cư (doanh nghiệp). Sở hữu nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản và phức tạp trong lý luận kinh tế. 1. Những đặc trưng của sở hữu nhà nước Tính phức tạp của quá trình thảo luận chung quanh vấn đề sở hữu nhà nước có nguyên nhân ở chỗ nhà nước vừa đóng vai trò chủ thể sở hữu như các chủ thể khác, vừa phải là chủ thể định ra khung khổ thể chế cho toàn xã hội. Phân tích các yếu tố cấu thành sở hữu nhà nước có những nội dung sau: Thứ nhất, chủ thể nhà nước là chủ thể đặc biệt vì bản thân Nhà nước là một pháp nhân và quan niệm về nhà nước cũng rất khác nhau ở các hệ thống kinh tế khác nhau. Thứ hai, đối tượng sở hữu nhà nước bao gồm hai nhóm. Nhóm thứ nhất mang tính chất gần như đương nhiên, không thể phân chia cho các chủ thể phi nhà nước như vùng trời, vùng biển, tài nguyên trong lòng đất, hoặc các đối tượng mới xuất hiện gần đây như tên miền trên mạng In-tơnét... Chính nhóm này quy định sự cần thiết khách quan của sở hữu nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Nhóm thứ hai bao gồm các đối tượng vừa có thể thuộc sở hữu nhà nước vừa có thể thuộc các chủ thể sở hữu khác. Thứ ba, chủ thể của sở hữu nhà nước dù tổ chức theo mô hình nào cũng thường có nhiều cấp, nên thường có tính sát sạt rất thấp trong việc thực hiện và kiểm soát thu nhập từ tài sản. Hơn nữa quyền quản lý thường được thực hiện bởi một bộ máy làm việc theo chế độ công chức, cơ chế quy trách nhiệm cá nhân và động cơ đạt mục tiêu hiệu quả và áp lực kiểm soát thường không rõ ràng. Cuối cùng quyền chuyển nhượng thường bị hạn chế, thể hiện một số quyền như thừa kế, tặng, biếu... không thể thực hiện được vì pháp luật không cho phép. Khi bàn đến vấn đề sở hữu nhà nước, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng chưa thống nhất và sử dụng nhiều tên gọi khác nhau nhưng gần nghĩa nhau: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu chung, sở hữu công cộng, sở hữu xã hội. Ở Việt Nam, cho đến nay các học giả tương đối thống nhất ý kiến về quan niệm sở hữu công cộng bao gồm tất cả các hình thức sở hữu toàn dân, nhà nước và tập thể. Sự khác nhau chủ yếu do cách hiểu về sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước. Có ba quan điểm đáng chú ý sau đây: Thứ nhất, cho rằng đây là hai khái niệm khác nhau nhưng thống nhất và đồng quy với nhau. Thứ hai, cho rằng có sự khác nhau giữa sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước, nhưng ở nước ta trong thời kỳ hiện nay chỉ nên sử dụng sở hữu nhà nước là đủ. Chỉ khi nào đạt đến chủ nghĩa xã hội phát triển hoặc chủ nghĩa cộng sản mới nên áp dụng hình thức sở hữu toàn dân. Thứ ba, cho rằng, sở hữu toàn dân hoàn toàn khác với sở hữu nhà nước. Việc đồng nhất sở hữu toàn dân với sở hữu nhà nước sẽ dẫn đến lẫn lộn và lạm dụng trong việc thực hiện các quyền quản lý và định đoạt của Nhà nước khi thực hiện các quyền đại diện sở hữu toàn dân. Ngoài ra, không thấy sự thống nhất tương đối giữa sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước sẽ không phát huy được vai trò của Nhà nước trong quản lý và sử dụng sở hữu toàn dân. Sở hữu công cộng có nội hàm rộng hơn và bao gồm cả sở hữu nhà nước và tập thể. Nhưng sở hữu công cộng được sử dụng như một khái niệm rộng để phân biệt với sở hữu tư nhân. Về sở hữu xã hội có ba cách hiểu khác nhau: sở hữu xã hội được bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu hỗn hợp; sở hữu xã hội là các quan hệ chiếm hữu, định đoạt... giữa một chủ thể rất nhiều người đối với các đối tượng sở hữu đặc biệt trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp
cổ phần; sở hữu xã hội là các quan hệ chiếm hữu, phân phối, quản lý trên quy mô toàn xã hội đối với các đối tượng do các chủ thể khác nhau chiếm hữu. 2. Vai trò của sở hữu nhà nước Để làm rõ vai trò sở hữu nhà nước, cần đặt nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu quan niệm sở hữu nhà nước theo nghĩa rộng, bao gồm cả khía cạnh đại diện cho sở hữu toàn dân, thì vai trò của sở hữu nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất lớn, thể hiện ở chỗ: - Sở hữu nhà nước là nòng cốt trong việc thực hiện quản lý nhà nước, tạo lập các quan hệ sản xuất mới. Thực hiện các mục tiêu chính trị, xã hội bảo đảm sự phát triển bền vững. - Là đại diện cho sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước tồn tại trên các lĩnh vực được Hiến pháp quy định như sở hữu đất đai, tài nguyên, vùng trời, vùng biển và tiềm lực quốc gia. - Sở hữu nhà nước có vai trò hướng dẫn, mở đường, công cụ điều tiết nền kinh tế. Như vậy, sở hữu nhà nước thể hiện tiềm lực nhà nước, là một trong những công cụ quan trọng điều tiết nền kinh tế và được sử dụng linh hoạt trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo lý thuyết thị trường tự do, vai trò của Nhà nước chỉ hạn chế ở những chức năng tối thiểu; từ thế kỷ XIX, đặc biệt là giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ hai, vai trò của nhà nước được đề cao và sở hữu nhà nước được tăng lên đáng kể; từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX lại có những xu hướng mới diễn ra theo hai chiều trái ngược nhau. Trong khi vai trò của Nhà nước vẫn được đề cao, thì những hình thức và biện pháp tham gia của Nhà nước vào nền kinh tế đã có sự thay đổi sâu sắc, khu vực sở hữu nhà nước trong kinh doanh giảm mạnh. Hiện nay, tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước ở các nước công nghiệp phương Tây khoảng dưới 10%, kể cả trong GDP và trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ, trong khi đó tỷ trọng này ở các nước đang phát triển thường lớn hơn khoảng hai lần. Như vậy, sở hữu nhà nước là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự tồn tại của nhà nước, bất kể nhà nước đó thuộc thể chế chính trị xã hội nào. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là một trong những công cụ để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường. Mức độ, phạm vi của khu vực kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước được xác định trên cơ sở yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu khổng lồ thì chính những bất lợi của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ đặc điểm của chủ thể tập thể có xu hướng làm giảm tính hiệu quả của khu vực này, kéo theo sự sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, có xu hướng Nhà nước rút khỏi những ngành cạnh tranh. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp mang tính chất như những chiếc "van" an toàn để bảo đảm tính hiệu quả không những cho các doanh nghiệp nhà nước, mà còn cho cả nền kinh tế. 3. Xác lập phạm vi sở hữu nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Mặc dù sở hữu nhà nước có vai trò to lớn trong chiến tranh, và phát triển kinh tế - xã hội nhưng cơ chế cũ là rào cản cho tăng trưởng kinh tế cần có sự đổi mới về nhận thức và tư duy. Thực tế ở những nơi trong cơ cấu sở hữu có nhiều sở hữu nhà nước thì việc phát triển kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn. Hiệu quả thấp của doanh nghiệp nhà nước là nguyên nhân phát sinh nhiều tiêu cực, lãng phí, thất thoát lớn tài sản của Nhà nước. Hiện nay đầu tư của Nhà nước vào khu vực kinh doanh tuy đã hạn chế, (có xu hướng huy động vốn xã hội vào xây dựng các công trình hạ tầng và một số doanh nghiệp công ích...), nhưng tỷ trọng sở hữu nhà nước vào khu vực kinh doanh vẫn còn cao; trong đó một số ngành cạnh tranh không cần thiết sở hữu nhà nước, cổ
phần hóa chậm và không đạt mục tiêu đề ra. Tuy không trực tiếp đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, nhưng lại tăng quy mô đầu tư vào các chương trình dự án có nguồn gốc ngân sách nhà nước và cơ sở hạ tầng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các bộ, thông qua ban quản lý dự án. Một số ngành cạnh tranh nhưng không có đối trọng nên vẫn duy trì thế độc quyền, đặc quyền, chi phối giá cả, làm phương hại đến lợi ích người tiêu dùng và những người kinh doanh chân chính... Để khắc phục những hạn chế trên cần có sự đổi mới tư duy về vai trò, phạm vi sở hữu nhà nước. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường là vận động theo quy luật khách quan, thị trường là căn cứ để phân bổ các nguồn lực xã hội, các chủ thể kinh doanh bình đẳng, gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng mà sở hữu nhà nước là một bộ phận. Tính đa dạng sẽ tạo ra một cơ cấu sở hữu phù hợp, từ đó, các nguồn lực được mở rộng và sử dụng một cách tối ưu và thông thường tính hiệu quả nằm ngoài khu vực kinh tế nhà nước. Trong cơ cấu sở hữu, sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân bình đẳng trong mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cùng phát triển. Cơ cấu sở hữu không phải bất biến, mà biến đổi theo yêu cầu của phát triển và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, khi cần thiết phải xác lập sở hữu nhà nước, khi đã đạt được yêu cầu quản lý vĩ mô có thể chuyển đổi sở hữu sang khu vực tư nhân. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong cơ cấu sở hữu không phải xác định ở bản thân sở hữu mà ở chủ thể sở hữu, cơ chế phân phối lợi ích của chủ thể sở hữu, thực hiện những ý tưởng và chính sách của Nhà nước vì lợi ích của nhân dân. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là yếu tố kinh tế, mà trước hết là đường lối chính trị và còn là sự tác động tương hỗ của các nhân tố kinh tế, văn hóa. Như vậy, đã đến lúc không nên phân chia quá nhiều thành phần kinh tế như hiện nay, mà nên chia thành hai khu vực chủ yếu: kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân (kinh tế tập thể nên được xem như là những hình thức sản xuất xã hội kết hợp đan xen giữa tư nhân - tư nhân, nhà nước - nhà nước, và nhà nước - tư nhân). Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo để thực hiện quyền lực nhà nước. Muốn vậy, Nhà nước phải có tiềm lực, sở hữu nhà nước tất yếu phải có mặt ở những lĩnh vực quan trọng liên quan đến chính trị, quốc phòng, an ninh, những ngành mới, công nghệ cao, điều tiết nền kinh tế và thực hiện chính sách xã hội, giảm dần đi tới rút lui những ngành cạnh tranh. Có hệ thống thể chế và chế độ trách nhiệm trong việc quản lý thu nhập từ sở hữu nhà nước thông qua thuế, địa tô, đấu giá quyền sử dụng đất, tài nguyên, phân phối lợi nhuận và tái đầu tư vào khu vực nhà nước, công khai hóa và giám sát việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. 4. Về cơ chế thực hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và các chủ thể sử dụng Về thực chất, đây là cơ chế giải quyết mối quan hệ giữa người chủ sở hữu và người sử dụng trong quá trình thực hiện sở hữu về mặt kinh tế. Nếu cơ chế là thích hợp, Nhà nước sẽ thực hiện tốt quyền sở hữu của mình về mặt kinh tế, đồng thời người sử dụng cũng được bảo đảm lợi ích chính đáng, có động cơ khuyến khích sử dụng tài sản với hiệu quả cao. Nếu cơ chế không thích hợp sẽ xuất hiện tình trạng động cơ sử dụng tài sản không rõ ràng, dẫn đến giảm hiệu quả khai thác tài sản và không tránh khỏi lãng phí thất thoát. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa Nhà nước với các chủ thể sử dụng sở hữu nhà nước phải được thể hiện ở hai góc độ: quyền sở hữu pháp lý (danh nghĩa) và quyền sử dụng thực tế. Ở góc độ quyền sở hữu pháp lý, Nhà nước có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu của mình. Điều này đòi hỏi không những phải được khẳng định trong bộ luật về sở hữu và các luật riêng điều chỉnh các lĩnh vực liên quan, mà còn phải tổ chức thực thi có hiệu lực trên thực tế. Khi đã khẳng định Nhà nước là chủ sở hữu (hoặc đại diện sở hữu) đối với tài sản thì cần phải làm rõ: Nhà nước có quyền như thế nào với tư cách là chủ sở hữu để có thể bảo toàn, phát triển và phát huy hiệu quả; quyền phân cấp các cơ quan đại diện; cơ quan kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với việc sử dụng tài sản... Làm được điều này Nhà nước mới thực thi được quyền sở hữu của mình, trong khi các chủ thể sử dụng tài sản nhà nước vẫn có đủ những điều kiện khai thác có hiệu quả và bảo toàn, phát triển nguồn vốn và tài sản của Nhà nước. Ở đây, việc quan trọng là phải xây dựng được hệ
thống pháp lý quy định chi tiết, chặt chẽ, có phương án khả thi tổ chức khai thác và quản lý sở hữu nhà nước, có một bộ máy có hiệu lực với những cán bộ vừa có năng lực vừa có phẩm chất tốt. Ở góc độ quyền sử dụng thực tế, Nhà nước phải xây dựng và phát triển những tổ chức quản lý có hiệu quả tài sản và vốn của Nhà nước giao phó. Hiện nay, kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế vừa đang chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, vừa phải chủ động hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Việc xây dựng và phát triển các chủ thể sử dụng sở hữu nhà nước đòi hỏi phải vừa kế thừa, đổi mới các tổ chức cũ, vừa phải xây dựng và phát triển các loại hình mới trên cơ sở học tập kinh nghiệm tốt của nước ngoài. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của các chủ thể này phải là góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội chung của khối tài sản thuộc sở hữu nhà nước trong nền kinh tế. Mối quan hệ giữa chủ sở hữu là Nhà nước với các chủ thể sử dụng là các doanh nghiệp hoặc các tổ chức sự nghiệp sử dụng tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân (đối với đất đai) là mối quan hệ đặc biệt. Nhà nước vừa là cơ quan quản lý nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế, bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, vừa là cơ quan quản lý vĩ mô thông qua các công cụ, tác động vào hệ thống kinh tế, trong đó có công cụ tổ chức sở hữu nhà nước. Giữa Nhà nước và các chủ thể sử dụng tài sản nhà nước phải có một hệ thống thể chế thật minh bạch, ràng buộc quyền hạn và trách nhiệm của cả hai bên. Hình thức và thể chế ràng buộc này có thể là luật, chính sách, có thể là khế ước, hợp đồng, có thể là những tập tục (đối với sở hữu cộng đồng). Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, mối quan hệ nêu trên phải được xử lý trên cơ sở pháp luật là nền tảng, kết hợp với các hình thức là khế ước, hợp đồng. Luật Đất đai và Luật Doanh nghiệp nhà nước mới ban hành năm 2003 đã thể hiện khá rõ quan điểm này. Tuy nhiên, trên thực tế, để bảo đảm thực hiện có hiệu quả sở hữu nhà nước, một mặt, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa các luật về sở hữu nhà nước, mặt khác, phải khắc phục tình trạng lạm dụng quyền lực để vụ lợi cá nhân trong sử dụng sở hữu nhà nước. Tuy việc thiết lập cơ chế thực hiện sở hữu nhà nước đang được định hình, nhưng đã có thể thấy rõ cơ chế đó phải giải đáp thỏa đáng hai vấn đề sau đây: - Phải thiết lập các quan hệ hành chính, pháp lý, kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể sử dụng sở hữu nhà nước thông qua các hình thức thể chế phù hợp như luật, hợp đồng, quy chế. Nội dung thể chế phải thể hiện rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích của cả hai bên, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được quy định. Về phía Nhà nước, những quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích cũng phải được quy định rõ ràng, cụ thể, bảo đảm cho sự sở hữu trên thực tế của Nhà nước được thực hiện nhất là về lợi ích chủ sở hữu thông qua thuế, lợi nhuận, địa tô... Đây là cơ sở pháp lý để Nhà nước vừa bảo vệ được tài sản của mình, vừa thu được phần lợi ích tương xứng từ việc sử dụng tài sản đó. - Liên quan đến các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền sở hữu trên thực tế của Nhà nước có ba ý chính: + Nhà nước phải xác định chính xác các chủ thể có khả năng sử dụng tài sản của mình với hiệu quả cao nhất: chọn các tổ chức cá nhân có chức năng sử dụng tài sản nhà nước, vừa áp dụng mạnh cơ chế cạnh tranh trong việc sử dụng tài sản nhà nước. + Các điều kiện ràng buộc các chủ thể sử dụng tài sản và vốn bao gồm quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích được hưởng. + Nhà nước phải có bộ máy và phương thức bảo đảm việc tuân thủ các cam kết hợp đồng hoạt động hữu hiệu. Đó là bộ máy tư pháp đủ mạnh và hoạt động minh bạch.
Để thực hiện quyền sở hữu nhà nước trên thực tế, cần phải thực hiện đồng bộ các yếu tố trên. Thiếu hoặc yếu khâu nào trong số đó thì lợi ích kinh tế thực sự của Nhà nước sẽ bị tổn hại trong sử dụng tài sản của mình. Xét trên khía cạnh cơ chế phân bổ lợi ích kinh tế cho thấy, bản chất của cơ chế thực hiện quyền sở hữu nhà nước sẽ được thể hiện ở sự phân phối lợi ích giữa hai chủ thể. Về phía Nhà nước, lợi ích kinh tế của chủ sở hữu phải được cụ thể hóa trong thể chế sao cho: toàn bộ của cải mà Nhà nước giao cho các chủ thể sử dụng bao gồm tài sản, tiền vốn, vật tư phải được bảo toàn về mặt giá trị; giá trị tài sản, tiền vốn đó không những được bảo tồn mà còn phải được sinh lợi. Mức sinh lợi này phải được tính toán trên cơ sở so sánh lợi ích xã hội với chi phí xã hội, bảo đảm không thấp hơn hệ số hiệu quả của nền kinh tế; Nhà nước còn được hưởng lợi ích từ sự đóng góp của các chủ thể sử dụng về các nghĩa vụ của chúng đối với ngân sách, đối với xã hội. Về phía các chủ thể sử dụng, lợi ích kinh tế phải được thể hiện trên các mặt: phải được ổn định trong sử dụng tài sản hoặc vốn Nhà nước giao, được giữ lại một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng; bản thân chủ thể sử dụng tài sản phải được xã hội thừa nhận những giá trị xã hội mà họ đóng góp khi sử dụng tài sản sở hữu nhà nước; các chủ thể sử dụng được tự chủ trong các quyền của mình đối với tài sản.
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA VIỆT NAM
1. Tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ và phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể là Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp ứng yêu cầu "đi tắt, đón đầu" đang đặt ra như một yếu tố sống còn. Sự hình thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình tìm tòi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện. Nếu như trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương 6 khoá VI, Đảng ta mới đề ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đây là vấn đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội", thì đến Đại hội VII, Đảng đã khẳng định: "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tới Đại hội Đảng IX, kinh tế thị trường lại được khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là mô hình kinh tế tổng quát hay mô hình mới của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước. Theo chúng tôi, có những khía cạnh đáng lưu ý, quy định tính tất yếu của việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thứ nhất, mô hình chủ nghĩa xã hội cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế và nhược điểm, rốt cuộc đã tỏ ra không còn sức sống và khả năng tự phát triển nội sinh về mặt kinh tế, bị va vấp nặng nề trong thực tiễn. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận đã lợi dụng tối đa những mặt mạnh của kinh tế thị trường để tạo ra động cơ về lợi ích và sự cạnh tranh mạnh mẽ, phát triển các lực lượng sản xuất cũng như tiềm năng kinh doanh. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng vai trò nhà
nước như một chủ thể xã hội sáng tạo và hùng mạnh để can thiệp – quản lý các quá trình kinh tế vĩ mô, nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển, xã hội hoá các lực lượng sản xuất. Thứ hai, mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có những thành công nhất định trong phát triển kinh tế thị trường, nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng, phát triển kinh tế thị trường theo con đường tư bản chủ nghĩa không phải là duy nhất đúng mà trong nó cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro. Thực tế phát triển ngày càng cho thấy rõ mặt trái cũng như nguy cơ thất bại ngay chính trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Ngày nay, nhân loại đã nhận thức được rằng, mô hình phát triển kinh tế thị trường theo kiểu phương Tây hay đi theo con đường phương Tây hoá không phải là cách tối ưu. Những mô hình phát triển theo kiểu này đã tỏ ra mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị truyền thống, làm tăng tính bất ổn của xã hội và khoét sâu hố ngăn cách giầu - nghèo. Hơn nữa, nó còn có nguy cơ ràng buộc các nước chậm phát triển hơn, đẩy các nước đó vào tình trạng bị lệ thuộc và bóc lột theo kiểu quan hệ "trung tâm - ngoại vi". Thứ ba, trong thực tế không có một mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi quốc gia, mà trái lại, mỗi quốc gia - dân tộc tùy theo trình độ phát triển, đặc điểm cơ cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả các yếu tố văn hoá - xã hội truyền thống, mà xây dựng những mô hình kinh tế thị trường đặc thù của riêng mình. Không thể phủ nhận những hạn chế và mâu thuẫn cố hữu của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngay tại quê hương của nó và việc khắc phục những mâu thuẫn đó vẫn đang là vấn đề cực kỳ nan giải. Một số nước Tây Âu và Bắc Âu với mong muốn tìm kiếm con đường riêng của mình, nhằm khắc phục hạn chế của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã chủ trương đi theo "con đường thứ ba" hay nhấn mạnh "Nhà nước phúc lợi": nhà nước tư bản chủ nghĩa ở đây được gắn thêm chức năng "sáng tạo" khi tham gia giải quyết các vấn đề xã hội và phân phối lại thu nhập mang tính định hướng xã hội, tạo ra cái gọi là "nền kinh tế cho mọi người" hay "chủ nghĩa tư bản nhân dân". Nhưng trong phạm vi của quan hệ tư bản chủ nghĩa thì những nỗ lực trên rõ ràng đã không mang lại kết quả như mong muốn. Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao hơn - hậu thị trường, hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Trong những điều kiện hiện đại, con đường phát triển rút ngắn như C.Mác đã từng dự báo, trở thành một khả năng hiện thực xét cả về hai phương diện: tính tất yếu kinh tế - xã hội và tính tất yếu công nghệ - kỹ thuật. Nếu như nền văn minh công nghiệp ra đời trên cơ sở phủ định nền văn minh nông nghiệp thì trái lại, nền văn minh hậu công nghiệp - kết quả của làn sóng cách mạng khoa học – công nghệ lần thứ ba lại có thể hàm chứa và gần gũi với nền văn minh nông nghiệp. Thực tế cho thấy, công nghệ cao có khả năng áp dụng trong hoàn cảnh nông nghiệp và tương ứng, một nền nông nghiệp truyền thống có thể đi tắt sang hậu công nghiệp mà không bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa nặng nề, tốn kém. Ví dụ, sản phẩm công nghệ cao vi điện tử và sinh học, do tính nhiều vẻ lại có thể phù hợp với nhu cầu xã hội, với nguồn nguyên liệu sẵn có và điều kiện sản xuất phân tán của những nước lạc hậu. Thứ năm, xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá - thị trường chỉ là hình thái đặc biệt, là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xã hội từ trình độ xã hội nông nghiệp, phi thị trường, lên trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường. Nếu xét kỹ, ngay ở giai đoạn phát triển phồn thịnh, sung mãn của các quan hệ thị trường thì sự xuất hiện của chúng cũng không có nghĩa là đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Chính sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã ra đời trên cơ sở tách rời các yếu tố người và vật của sản xuất, các yếu tố này vốn gắn bó hữu cơ trong sở hữu tư nhân của kinh tế hàng hoá giản đơn. Thứ sáu, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế giới đang bước vào giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội nhập. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời đại, sự khái quát
hoá, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam. Kinh tế thị trường như là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch sử, là thành quả của văn minh nhân loại, nó có thể được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc mà không phải là tài sản riêng của chủ nghĩa tư bản, chỉ phục vụ cho riêng chủ nghĩa tư bản. Thoát khỏi giới hạn chỉ làm giàu cho tư bản, kinh tế thị trường sẽ có những mục tiêu và động lực xã hội mới, phù hợp với những đặc tính xã hội hóa vốn có, để trở thành công cụ phát triển kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung cho toàn xã hội. Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương sử dụng hình thái kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển. 2. Bản chất, nội hàm của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa a - Bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Như chính tên gọi, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển đầy đủ và chín muồi. Về nội dung và thực chất, đây là nền kinh tế quá độ của xã hội quá độ, đang trong quá trình chuyển biến cách mạng lên nấc thang mới. Do đó, nó vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của bản thân hệ thống (kinh tế thị trường), lại vừa chịu sự chi phối của những nguyên tắc và quy luật nằm ngoài hệ thống (nguyên tắc xã hội hoá - xã hội chủ nghĩa và những quy luật phản ánh bản chất xã hội hoá - xã hội chủ nghĩa). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với tư cách là nền kinh tế quá độ, tiềm tàng những lực lượng cách mạng, những nhân tố mới và những khả năng cũng như phương án phát triển rộng lớn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế quá độ thuộc dạng đặc biệt: "tiến hoá - cải cách", khác biệt với các bước quá độ thông thường: "tiến hoá - tự nhiên" từng diễn ra trong lịch sử. Về nguyên tắc, nền kinh tế thị trường hiện đại không thể ra đời tự phát như trong các thế kỷ trước. Đây phải là nền kinh tế thị trường được định hướng cao về mặt xã hội và phát triển theo xu hướng xã hội hoá - xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn đặc trưng bởi "thuộc tính kép" hay "quá độ bậc hai": kết hợp đồng thời giữa bước quá độ sang nền kinh tế thị trường mà nhân loại đã đạt được với bước quá độ toàn nhân loại sang xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường và nền kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh tế thị trường kiểu mới, có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nó hoạt động trên cơ sở kết hợp giữa sự nhận thức tính tất yếu khách quan với phát huy vai trò năng động sáng tạo của chủ thể, nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn, đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới và trở thành quốc gia phát triển trong thế kỷ XXI. b - Nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội hàm của nền kinh tế thị trường này bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây: - Hệ thống mục tiêu và động lực: Đảng ta đã nêu lên mục tiêu xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Chính mục tiêu đó sẽ quy định phương tiện,
công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đạt tới mục tiêu. Đó là sử dụng kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn. - Chế độ sở hữu và thành phần kinh tế: Các hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu xã hội, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân chỉ là những hình thức hay cấp độ của sở hữu kinh tế. Bởi sở hữu như một phạm trù kinh tế luôn chứa các cực kinh tế đối lập hay những mâu thuẫn xã hội hiện thực, bắt buộc phải thừa nhận lẫn nhau như những chủ thể kinh tế riêng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu xã hội sẽ có ý nghĩa ngày càng quan trọng để đảm bảo tính kế hoạch và định hướng xã hội chủ nghĩa cho quá trình phát triển. - Cơ chế vận hành kinh tế: Đương nhiên cơ chế thị trường là cơ chế chủ yếu vận hành kinh tế, nhằm đảm bảo phân bổ hợp lý các lợi ích và nguồn lực, kích thích phát triển các tiềm năng kinh doanh và các lực lượng sản xuất, tăng hiệu quả và tăng năng suất lao động xã hội. Tuy nhiên, điều đó không hề phủ nhận vai trò của "nhân tố mới" – Nhà nước xã hội chủ nghĩa - trong việc quản lý, hiệu chỉnh những sai lệch và thất bại của cơ chế thị trường. Trong trường hợp này, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thông qua chức năng tổ chức và quản lý vĩ mô, sử dụng tốt các công cụ hành chính – pháp lý và kinh tế, đặc biệt, công cụ kế hoạch hoá và các chương trình mục tiêu quốc gia, các chiến lược phát triển trung và dài hạn cũng như các kế hoạch ngắn hạn, các công cụ đòn bẩy, để quản lý nền kinh tế phát triển đúng hướng. - Hình thức phân phối: Kết hợp phân phối theo lao động, theo đóng góp và cổ phần, trên nguyên tắc ưu tiên phân phối theo lao động và hiệu quả, đồng thời đảm bảo phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội. Điều này vừa khác với phân phối theo tư bản của kinh tế thị trường thông thường, lại vừa khác với phân phối theo lao động mang tính bình quân trong chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Trong kinh tế thị trường hiện đại và kinh tế tri thức, tiềm năng lao động - "tư bản con người" được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu và có khả năng sáng tạo rất lớn. Việc đề cao con người cũng như nguyên tắc phân phối theo lao động là phù hợp với xu thế và tính nhân văn của phát triển hiện đại. Mặt khác, bảo đảm sự phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội thái quá cũng là điều kiện để nuôi dưỡng, phát triển chính nguồn lao động sáng tạo này. - Chủ thể lãnh đạo, quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể ai khác là Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần không ngừng được củng cố, trên cơ sở phát huy đầy đủ quyền và trách nhiệm của toàn dân tham gia vào quá trình tổ chức, xây dựng nhằm sáng tạo hệ thống kinh tế thị trường mới. Đó là những điều kiện tiên quyết cho việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành công. 3. Ý nghĩa của việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Sự lựa chọn mô hình phát triển "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập trung (đồng nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây dựng hệ thống kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Nói rõ hơn, đây không phải là nền kinh tế thị trường bất kỳ hoặc dập khuôn theo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (đã và đang bị phủ định). Đây phải là hệ thống kinh tế thị trường văn minh, đảm bảo định hướng cao về mặt xã hội, tuân theo nguyên tắc xã hội hoá - xã hội chủ nghĩa. - Đây là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu và văn minh nhân loại. Chúng ta không chấp nhận kinh tế thị trường như là một thứ công nghệ – kỹ thuật thuần tuý, hay như một phương thức đơn thuần, thủ đoạn tạo ra của cải và sự giàu có cho tư bản, mà phát huy những thế mạnh của kinh tế thị trường, chủ động hướng kinh tế thị trường phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân,
sự phồn vinh và hạnh phúc toàn xã hội. Để đạt điều đó cần có sự can thiệp mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và toàn xã hội. - Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thấm nhuần sự kết hợp giữa tính tất yếu thời đại với nguyện vọng tha thiết của một dân tộc yêu tự do, độc lập và luôn mong muốn sống trong hoà bình, hạnh phúc, với các giá trị truyền thống dân chủ, nhân văn và tương thân tương ái. Đó hoàn toàn không phải là sự thổi phồng đặc điểm dân tộc hay chủ ý đi theo "con đường riêng", mà là sự vận dụng sáng tạo quy luật chung vào những hoàn cảnh cụ thể của đất nước. - Khẳng định quyết tâm và vai trò sáng tạo rất cao của kiến trúc thượng tầng chính trị - pháp luật là Đảng Cộng sản, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm tạo lập thể chế kinh tế thị trường văn minh và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan cũng như vai trò lãnh đạo của chủ thể và kiến trúc thượng tầng chính trị – pháp lý xã hội chủ nghĩa là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mọi sự vô hiệu hoá vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường sẽ chỉ dẫn tới sự hỗn loạn và bất ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội. Thực tế thế giới đã khẳng định điều đó.
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC – DƯỚI GÓC NHÌN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI BỀN VỮNG
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một trong những hướng quan trọng của quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước - bộ phận không thể thiếu trong thành phần kinh tế nhà nước. Trong đổi mới kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Để giải phóng lực lượng sản xuất, tất yếu phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường và xây dựng thể chế kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Muốn vậy, phải đổi mới mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước. Theo hướng đó, sau nhiều năm tìm tòi và thử nghiệm trong thực tế, Đảng ta đã lựa chọn cổ phần hóa như một phương thức có hiệu quả để đổi mới các doanh nghiệp nhà nước như các Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã chỉ rõ. Cho đến nay, với sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và tinh thần chủ động trong thực hiện của các cấp, các ngành, từ trung ương tới địa phương, tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã thu được những thành tựu bước đầu đáng khích lệ, đủ để chứng minh tính đúng đắn của sự lựa chọn đó. Tuy nhiên, trong xã hội cũng như trong tư tưởng, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn có những băn khoăn, lo lắng. Dựa vào những khiếm khuyết thực tế ở một số doanh nghiệp đã cổ phần hóa, có ý kiến lo lắng rằng, đó là cơ hội cho tình trạng chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, là một hình thức tránh né thuật ngữ "tư nhân hóa", là sự thủ tiêu hoặc làm suy yếu vai trò điều tiết nền kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,... Về cơ bản, đó là những suy nghĩ thật tâm của những người đã từng gắn bó rất lâu với mô hình kinh tế cũ, bởi quan điểm cho rằng "càng nhiều quốc doanh thì càng nhiều chủ nghĩa xã hội". Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cho tới nay đã thực sự trở thành một trong những thách thức phải vượt qua, trên con đường tiếp tục đổi mới kinh tế, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Không vượt qua được thách thức này là
rất nguy hại cho chính thành phần kinh tế nhà nước nói riêng và cho cả nền kinh tế quốc dân nói chung. Theo số liệu của các cơ quan hữu quan, đến cuối năm 2005, có 5.000 doanh nghiệp nhà nước ở nước ta, tạo ra khoảng 30% GDP và 15% việc làm phi nông nghiệp, nhưng lại chiếm gần 50% tổng số dư nợ tín dụng của các ngân hàng trong nước. Xét về hiệu quả kinh tế - xã hội, đây thực sự là vấn đề đáng lưu ý. Tỷ lệ nợ xấu của khu vực này lại đang có chiều hướng gia tăng (8 tháng đầu năm 2005 là 3,08% so với cùng kỳ năm 2004 là 2,41% và năm 2003 là 2,72%)(1). Những vướng mắc từ việc thu hồi nợ đối với doanh nghiệp nhà nước là một bài toán rất nan giải trong suốt thời kỳ đổi mới. Điều đáng lưu ý là, nhóm doanh nghiệp nhà nước "hoạt động yếu kém nhất" theo phân loại dựa trên mức lợi nhuận và mức nợ lại bao gồm tất cả các loại hình doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ. Rõ ràng là, quy mô không phải là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng như trên của doanh nghiệp nhà nước. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Bài học của các nền kinh tế phát triển nhanh nhưng không bền vững là hết sức rõ ràng và cần xem xét một cách nghiêm túc. Nếu phát triển nhanh trong một vài thập niên như các "con rồng", "con hổ" châu Á, để rồi phải gánh chịu khủng hoảng tài chính như năm 1997, chấp nhận các điều kiện của IMF làm một lối thoát duy nhất là rất nguy hiểm. Tư nhân hóa ồ ạt để được công nhận là một nền kinh tế thị trường như các nước Đông Âu và SNG, cũng có nghĩa là chấp nhận một giai đoạn đổ vỡ về kinh tế và xã hội, chấp nhận một đa số nghèo đi để có một thiểu số giàu lên rất nhanh đến mức có đại diện trong số vài chục người giàu nhất thế giới. Nước Nga vào cuối năm 2005, với 2% số người giàu nhất chiếm 30% của cải xã hội, còn 10% dân số nghèo nhất chỉ có 2,4% của cải và qua thăm dò dư luận có 74% người dân tiếc nuối về Liên bang Xô-viết(2). Trung Quốc trong tiến trình cải cách và mở cửa, nhất là trong cải cách kinh tế, xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đã chú ý thử nghiệm chế độ cổ phần và có những tìm tòi lý luận về vấn đề này đáng để chúng ta tham khảo. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa ở hầu hết các nước, tăng trưởng GDP thường được coi là nhu cầu cấp bách, là ưu tiên số một trong chiến lược phát triển, nhưng về lâu dài người ta càng thấy rõ nó không phải là duy nhất của sự phát triển. Càng ngày nhân loại càng ý thức được một cách rõ ràng hơn tầm quan trọng sống còn của sự phát triển bền vững cả về kinh tế và xã hội. Thực tiễn thế giới cho thấy, chất lượng sống cao nhất không phải là ở những quốc gia giàu có nhất theo mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa triệt để nhất. Nhiều công trình nghiên cứu từ những góc độ khác nhau về thực tiễn đều có chung một kết luận rằng, loại hình sở hữu hỗn hợp dưới hình thức phổ biến là các doanh nghiệp cổ phần, có sức cạnh tranh cao nhất và tạo nên chất lượng tăng trưởng tốt nhất. Không phải ngẫu nhiên các nhà cải cách Trung Quốc đề xuất chế độ cổ phần là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu. Việc cổ phần hóa phần lớn các doanh nghiệp nhà nước mà chúng ta đang nỗ lực thực hiện, cũng chính là xác lập chế độ cổ phần trong kinh tế nhà nước, nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thực chất là phát triển hình thức sở hữu hỗn hợp để từng bước làm tăng thực lực kinh tế của chế độ sở hữu công cộng toàn dân. Xét về mặt lịch sử và lý luận, chế độ cổ phần (biểu hiện thành giải pháp kinh tế là cổ phần hóa doanh nghiệp) đã ra đời trong quá trình phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa từ mấy thế kỷ trước đây. Do sản xuất - kinh doanh càng phát triển, nên yêu cầu tập trung và tích tụ vốn càng cao. Cổ phần hóa đáp ứng yêu cầu đó. Nó chính là hình thức hùn vốn trong sản xuất, kinh doanh, trong đó những ai tham gia vào quá trình này sẽ được hưởng lợi (hoặc chịu rủi ro), theo tỷ lệ đóng góp cổ phần. Công ty Đông Ấn Độ của Anh trong thời kỳ thực dân Anh thống trị Ấn Độ là một loại hình chế độ cổ phần. Nước Mỹ hồi cuối thế kỷ XIX, khi cần tập trung một nguồn vốn lớn để xây dựng đường sắt, cũng đã tổ chức xí nghiệp theo chế độ cổ phần.
Áp dụng chế độ cổ phần bằng cách cổ phần hóa doanh nghiệp, sẽ liên kết được những nguồn vốn và tư liệu sản xuất phân tán của các sở hữu tư nhân lại với nhau, làm cho nó trở thành nguồn vốn xã hội, thúc đẩy nhanh việc xã hội hóa nguồn vốn và tư liệu sản xuất. Đây là điều được rút ra từ thực tiễn xã hội hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa ở thế kỷ XIX, mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt quan tâm nghiên cứu. C. Mác cho rằng, chế độ cổ phần là đòn bẩy mạnh mẽ để phát triển sức sản xuất của xã hội hiện đại. Ph. Ăng-ghen cũng chỉ rõ, sản xuất tư bản chủ nghĩa do công ty cổ phần kinh doanh đã không còn là sản xuất tư nhân, quá trình chuyển đổi vốn tư nhân thành vốn xã hội đã thúc đẩy mạnh mẽ việc xã hội hóa sản xuất và phát triển sức sản xuất. Lô-gíc nhận thức ở đây, nhìn từ góc độ kinh tế và phát triển kinh tế cho thấy: đã thừa nhận kinh tế thị trường thì một cách tất yếu tự nhiên cần phải thừa nhận chế độ cổ phần và cổ phần hóa. Với chế độ sở hữu tư nhân (tư hữu) tư bản chủ nghĩa, chế độ cổ phần phục vụ cho việc tăng nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh tư bản chủ nghĩa, chủ yếu đem lại lợi ích cho nhà tư bản. Với chế độ sở hữu xã hội (công hữu), cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phục vụ cho việc tăng nguồn lực cho sản xuất - kinh doanh, vì lợi ích của người lao động. Trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, công nhân và người lao động tham gia mua cổ phiếu, có cổ phần và có vị thế làm chủ của những người cổ đông. Họ trở thành đồng sở hữu cùng với doanh nghiệp và Nhà nước. Đó là sự hiện diện của sở hữu cá nhân, hợp thành cơ sở để hình thành sở hữu xã hội. Đây thực sự là sở hữu vốn và tư liệu sản xuất, tạo cho công nhân và lao động địa vị kinh tế để thực sự làm chủ doanh nghiệp. Cần khắc phục trong nhận thức là, chỉ thấy sở hữu cá nhân về tư liệu sinh hoạt, trong khi không ý thức được hoặc phủ nhận sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất, mà đây mới là bản chất của vấn đề làm chủ kinh tế của người lao động. Không có sự tham gia của sở hữu cá nhân thì sở hữu xã hội không có nội dung hiện thực, trừu tượng, phi lịch sử. Cá nhân người lao động không có sở hữu của mình, thì hành vi lao động của anh ta thiếu vắng căn bản động lực kích thích và trên thực tế anh ta chỉ có thể làm chủ một cách hình thức, danh nghĩa mà thôi. Trước đây do bệnh giáo điều, chúng ta đã đồng nhất sở hữu tư nhân với sở hữu cá nhân, đó là chưa kể đến sự giản lược, đồng nhất mọi hình thức tư nhân (tư nhân tư hữu, chiếm hữu bằng bóc lột, phi lao động của tư sản là hoàn toàn khác với tư nhân của người lao động cá thể). Vượt qua được những hạn chế và định kiến này, tôn trọng lợi ích cá nhân, tôn trọng sở hữu cá nhân của người lao động, chúng ta sẽ thấy cổ phần hóa là giải pháp thực hiện hình thức sở hữu hỗn hợp giữa sở hữu tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) với sở hữu tập thể và sở hữu Nhà nước. Sức mạnh sở hữu toàn dân là hợp thành từ nhiều đồng sở hữu mà Nhà nước (doanh nghiệp nhà nước) có vị trí chi phối chủ đạo. Kinh nghiệm của Trung Quốc qua hơn 28 năm cải cách cho thấy, cải cách chế độ cổ phần được coi là một đột phá lý luận kinh tế để xây dựng lý luận kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc đạt được những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực này, từ năm 1997 đến 2001, xí nghiệp chế độ cổ phần (cổ phần hóa) tăng từ 7.200 lên tới gần 300.000, số lao động từ 6,437 triệu người lên 27,466 triệu người, doanh thu từ 813,1 tỉ nhân dân tệ (NDT) lên 5.673,3 tỉ NDT. Thực tế đó có sức thuyết phục, đem lại nhận thức đúng đắn về vai trò của chế độ cổ phần, của cổ phần hóa trong xây dựng kinh tế quốc hữu. Trong điều kiện của nước ta, khi chuyển từ mô hình kinh tế có tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước rất cao nhưng hiệu quả kinh tế - xã hội lại rất thấp, sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cổ phần hóa bộ phận lớn doanh nghiệp nhà nước là một bước đi tất yếu, không chỉ vì mục tiêu thoát khỏi tình trạng năng suất thấp, mà còn vì sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Sự đóng góp của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vào sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội là ở chỗ, nó làm tăng vốn, tăng lợi nhuận, giảm nợ xấu, chia xẻ rủi ro cho các chủ sở
hữu riêng lẻ, tạo động lực làm chủ cho người lao động, tạo sức mạnh kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường... Sau hàng chục năm thực hiện, tuy rằng tiến độ còn rất chậm, song nguyên nhân không phải vì tính không hiệu quả của doanh nghiệp cổ phần mà là do nhiều nguyên nhân khác. Cổ phần hóa doanh nghiệp của Việt Nam không phải là "sự rút lui toàn diện của doanh nghiệp nhà nước" hay là tư nhân hóa, như một số người lo lắng. Tính đến ngày 27-10-2005, cả nước đã cổ phần hóa được 1.960 doanh nghiệp nhà nước, hầu hết đều hoạt động có hiệu quả, vốn điều lệ và doanh thu tăng, thu nhập của người lao động được cải thiện rõ rệt. Riêng 10 tháng của năm 2005, đã cổ phần hóa được 400 doanh nghiệp nhà nước. Tại Hà Nội, bình quân của 86 doanh nghiệp đã cổ phần hóa tăng doanh thu tới 1,5 lần(3). Vốn nhà nước được bảo toàn và tiếp tục tăng. Doanh nghiệp "tự thân vận động" tốt hơn khi còn được bảo lãnh vay vốn của Nhà nước, xóa bỏ được tình trạng giãn nợ và khoanh nợ cho Nhà nước, tiến dần tới sự liên doanh giữa ngân hàng và doanh nghiệp cùng có lợi và cùng chia sẻ rủi ro như thông lệ của kinh tế thị trường. Điều đáng lưu ý là, có rất ít doanh nghiệp cổ phần kinh doanh có hiệu quả mà không hề có cổ đông là Nhà nước. Thực tế cho thấy những doanh nghiệp mà Nhà nước định bán hết 100% cổ phần, đều rất khó thực hiện cổ phần hóa. Đó là một vấn đề cần được quan tâm, tìm hiểu kỹ lưỡng. Khi tham gia cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, các cá nhân sẽ vững tin hơn nhiều nếu thấy Nhà nước còn nắm giữ tỷ lệ cổ phiếu nhất định, không phải vì đó là di sản của thời bao cấp như một số người quan niệm, mà bởi vì người ta chưa tin có cá nhân hay pháp nhân kinh tế nào có đủ độ tin cậy hơn Nhà nước, cho dù Nhà nước của ta vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém về mặt quản lý kinh tế. Chừng nào kinh tế nhà nước còn đủ sức để đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thì chừng đó Nhà nước vẫn là nhân tố quan trọng nhất bảo đảm cho sự phát triển bền vững của các thành phần kinh tế khác. Nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu nhất định, Nhà nước có thể định hướng được doanh nghiệp sau cổ phần hóa tiếp tục phục vụ lợi ích của các cổ đông và bảo đảm lợi ích hợp pháp của người lao động, trong điều kiện kinh doanh một cách thân thiện với môi trường. Hơn thế, với tư cách là một một cổ đông quan trọng, Nhà nước bảo đảm thực thi các chính sách, luật pháp của mình hữu hiệu hơn tại chính doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa tạo ra khả năng phát triển nguồn vốn nhà nước bằng cách thu hút và tổ chức thêm nhiều nguồn vốn từ xã hội, mở rộng phạm vi chi phối của nguồn vốn nhà nước. Cổ phần hóa còn tạo thuận tiện cho việc lưu động vốn nhà nước giữa các doanh nghiệp và ngành nghề khác nhau, thông qua thị trường vốn, làm tăng hiệu quả vốn trong sản xuất - kinh doanh. Đối với người lao động, cổ phần hóa tạo điều kiện cho họ trở thành cổ đông, tăng thêm lợi ích thông qua vốn đầu tư. Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước không gây ra những tiêu cực trong kiểm kê tài sản, đánh giá, thẩm định tổng lượng vốn của doanh nghiệp, đánh giá toàn bộ tài sản doanh nghiệp, định mức cổ phiếu và thu hút được đông đảo công nhân tham gia cổ phần. Do đó, cần tăng cường các biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát và phát huy được vai trò làm chủ của công nhân để ngăn chặn những tiêu cực có thể xảy ra. Bởi lẽ, giải pháp, chủ trương nào, ngoài tính đúng đắn, hợp lý của nó cũng có thể phát sinh những mặt trái phải phòng ngừa. Sự bền vững trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, được bảo đảm bởi rất nhiều nhân tố chứ không phải chỉ có cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Như đã phân tích ở trên, cổ phần hóa là một trong những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế nhà nước. Tính chất bền vững của một quốc gia, một nền kinh tế đang trên chặng đường vừa chuyển đổi mô hình, vừa thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xét cho cùng lại tùy thuộc rất nhiều vào sự bền tâm, vững chí của đại đa số nhân dân. Đến lượt nó, sự bền tâm, vững chí đó lại được xây dựng trên nền tảng của lợi ích trước mắt và lâu dài của người lao động và của cộng đồng xã hội. Bảo đảm lợi ích thiết thân cho người lao động và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa các chủ thể lợi ích trong cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, đó là thực hiện dân chủ hóa kinh tế. Theo ý nghĩa này, đối với đại đa số người lao động ở nước ta, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (nơi họ đang làm việc,
hoặc được hưởng lợi từ các dịch vụ và hàng hóa làm ra) có tầm vóc của một giải pháp mang tính đột phá trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước vì sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, tạo động lực để thực hiện có hiệu quả mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ CÁC VÙNG VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có trọng điểm với các vùng phát triển trước, phát triển nhanh (tam giác phát triển) đòi hỏi phải có hình thức quản lý văn hoá phù hợp. Ý nghĩa của công tác quản lý văn hoá vùng không gì khác hơn là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái đa dạng và cái thống nhất, giữa hành chính và văn hoá v.v.. Đây chính là cách thức thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tính dân tộc, tính nhân dân trong hoạt động văn hoá và quản lý văn hoá. Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta, Nghị quyết Đại hội X của Đảng xác định “bằng chính sách thích hợp tạo điều kiện cho tất cả các vùng trong cả nước phát triển nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh...; đồng thời, tạo sự liên kết giữa các vùng, nhằm đem lại hiệu quả cao, phát triển nhanh và ổn định, có sức cạnh tranh, khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính” (1). Trong quá trình này cần thiết phải hình thành chính sách quản lý các vùng văn hóa. 1. Quan niệm vùng văn hóa Xét về mặt từ nguyên “Vùng” - Region, được hiểu là một khu vực địa lý, như vùng đất, vùng trời, vùng biển, không gắn với một cấp hành chính nhà nước. Trong khi đó, thuật ngữ “lãnh thổ” Territoire, được hiểu là một vùng hay khu vực địa lý thuộc một cấp quản lý hành chính nhà nước. Do đó trong một vùng có thể có nhiều lãnh thổ. Thuật ngữ “khu vực” được hiểu, được sử dụng với những biến thái khác nhau: có thể nhỏ hơn vùng như khu Tả ngạn, Hữu ngạn sông Hồng, khu vực Hồ Gươm, Hồ Tây ở Hà Nội..., hoặc tương đương vùng, ví dụ khu vực (hay vùng) Tây Bắc; cũng có thể lớn hơn vùng và tương đương miền, ví dụ khu vực (hay miền) Bắc, Trung, Nam. Thuật ngữ “miền” thì rõ ràng là lớn hơn “vùng”. Ở nước ta, do yếu tố lịch sử để lại, cho đến nay dưới lãnh thổ quốc gia là các cấp độ: (2) “miền” tương đương với khu vực, dưới “vùng” có thuật ngữ “tiểu vùng”, “tiểu khu” với biến thái khá lớn tương tự như biến thái của thuật ngữ “khu vực”. Ngoài ra còn thuật ngữ “xứ” trong lịch sử, và được dùng ở mọi cấp độ khác nhau, từ miền, vùng đến tiểu vùng, như “xứ Bắc Kỳ”, “xứ Quảng”, “xứ Huế”, v.v... Cũng cần nói thêm rằng, thuật ngữ “vùng” không chỉ liên quan đến vùng kinh tế, mà cơ bản dùng để chỉ một vùng văn hóa. Ở phương Tây, từ cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện lý thuyết văn hóa vùng (Culture area). Năm 1894, O.T.Mason, lần đầu tiên trình bày lý thuyết văn hóa vùng trong tạp chí American Anthrôpohogist (Nhân loại học Mỹ), để làm cơ sở phân loại các bộ lạc thổ dân da đỏ. Tiếp đó, vào những năm 1950, giới dân tộc học ở Liên Xô cũ, trước tiên là các giáo sư N.N.Trebôcxarốp và M.G. Lêvin, đã xây dựng lý thuyết về loại hình kinh tế - văn hóa và khu vực lịch sử - dân tộc học, hay có thể gọi chung là lý thuyết lịch sử - văn hóa.
Các lý thuyết trên mặc dù khác nhau nhưng về cơ bản đều dựa vào trình độ sản xuất các phương tiện sinh sống để phân chia các loại hình kinh tế - văn hóa; ngoài ra còn chú ý đến các yếu tố cảnh quan - lãnh thổ, quá trình cộng cư lâu dài, cùng chung vận mệnh lịch sử trong quá trình hình thành, tồn tại, phát triển của các vùng văn hóa. Giới dân tộc học, văn hóa học nước ta nhìn chung chịu ảnh hưởng nhiều của lý thuyết lịch sử - văn hóa của các nhà khoa học Xô-viết. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các nhà khoa học ở Việt Nam đều có chung quan điểm về kết quả phân vùng văn hóa. Chẳng hạn, tác giả Ngô Đức Thịnh (năm 1993) cho rằng ở nước ta có 7 vùng văn hóa là: Việt Bắc, Tây Bắc, Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, Duyên hải Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung và Nam Trung Bộ, Trường Sơn - Tây Nguyên và Nam Bộ.(3) Các tác giả Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận năm 1995 xác đinh nước ta có 10 vùng văn hóa: Việt Bắc, Tây Bắc, đồng bằng miền Bắc, Vùng Nghệ - Tĩnh, Thuận Hóa - Phú Xuân, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng miền Nam, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.(4) Các tác giả Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn (năm 1995) xem xét văn hóa Việt Nam là tổng hòa các vùng văn hóa: Việt Bắc, Tây Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Trường Sơn - Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long (5). Tác giả Trần Quốc Vượng (năm 1997) phân văn hóa Việt Nam thành 6 vùng: Tây Bắc, Việt Bắc, Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ (6). Đây có thể là cách phân chia hợp lý về văn hóa nói chung. Nhưng nếu chú ý đến sự khác biệt về mặt kinh tế và từ đó cũng có sự khác biệt nhất định về mặt văn hóa thì nên tiếp tục chia Trung Bộ thành 2 vùng: Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ; và cũng tiếp tục chia Nam Bộ thành 2 vùng: Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Như vậy sẽ có 8 vùng kinh tế - văn hóa: Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay quan niệm về 8 vùng kinh tế - văn hóa được thừa nhận rộng rãi. Chỉ có một bất cập là dùng thuật ngữ “Đồng bằng sông Hồng” để chỉ cả lưu vực châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình, là chưa chính xác. Đúng ra phải dùng thuật ngữ “Đồng bằng Bắc Bộ” để định danh cho cả vùng châu thổ này. Cuối cùng, có thể quan niệm “vùng văn hóa” là một thực thể văn hóa, bao gồm những đặc điểm về cảnh quan - lãnh thổ, trình độ và cách thức hoạt động kinh tế, và các đặc điểm về văn hóa vật thể (nhà cửa, y phục, ăn uống...), về văn hóa phi vật thể (phong tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng - tôn giáo...); trong đó có một số đặc trưng điển hình so với các vùng khác.(7) Các vùng văn hóa dẫu sao cũng không phải là những “ốc đảo”. Các đặc điểm, kể cả những đặc trưng điển hình của vùng, như thực tế trong và ngoài nước đều cho thấy, chủ yếu là kết quả tiếp biến từ hai, ba vùng khác nhau liền kề vùng đó. Trong quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, những đặc điểm, kể cả những đặc trưng điển hình, có thể đã và sẽ mai một ở mức độ nào đó. Tính thống nhất của các vùng văn hóa đã và sẽ được tăng cường, đồng thời ngày càng bộc lộ rõ trên nhiều phương diện. Vì thế, vấn đề đặt ra hiện nay là phải chú trọng bảo tồn, phát triển những đặc điểm, đặc trưng điển hình với tính cách là những lợi thế so sánh, nhằm thúc đẩy các vùng văn hóa phát triển nhanh, ổn định trong nền văn hóa Việt Nam thống nhất mà đa dạng. 2. Nhiệm vụ của công tác quản lý vùng văn hoá - Tổ chức các hoạt động sản xuất (sáng tạo) trong lĩnh vực văn hoá bao gồm cả việc nghiên cứu khoa học, nhằm tạo ra các sản phẩm văn hoá làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống con người. - Tổ chức sưu tầm, bảo quản và tôn tạo vốn di sản văn hoá nghệ thuật dân tộc. - Kịp thời truyền bá (thông tin và giáo dục) những giá trị văn hoá dân tộc và của nhân loại cho mọi người dân. Ở đây, cần phải đổi mới các hình thức thông tin đại chúng, văn hoá đại chúng, để
xã hội hoá văn hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, đặc biệt lôi cuốn quảng đại nhân dân tham gia tích cực vào đời sống văn hoá nhằm tạo ra bầu không khí say mê sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ chuyên nghiệp và những người làm công tác văn hoá nghiệp dư. - Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý văn hoá với tính cách là lĩnh vực sản xuất tinh thần phù hợp với cơ chế thị trường, cần có sự định hình một cơ cấu văn hoá bảo đảm sự hội nhập văn hoá với khu vực và thế giới trên cơ sở giữ gìn và phát huy không ngừng bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Sự tiếp nối và liên thông không gian văn hoá vùng phải trở thành mô hình lưu giữ và phát triển không ngừng bản sắc văn hoá Việt Nam, để trên cơ sở đó, thực hiện giao lưu, hội nhập văn hóa với khu vực và thế giới. Vùng văn hoá phải là cái nôi bảo quản, phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời cũng là nơi khẳng định tính tiên tiến của nền văn hoá Việt Nam. Nhìn chung quản lý văn hoá thường phải xử lý đồng thời được hai chiều vận động của hoạt động văn hoá. - Theo chiều dọc: hoạt động văn hoá và sản phẩm văn hoá di chuyển từ trên xuống dưới, cụ thể từ cấp quốc gia, xuống địa phương, cơ sở, rồi đến mỗi cá nhân. - Theo chiều ngang: hoạt động văn hoá và sản phẩm văn hoá vận động từ cộng đồng này sang cộng đồng khác, từ cá nhân này sang cá nhân khác. Nếu vận động theo chiều dọc thì mối liên hệ của nó gần trùng khít với mối liên hệ theo cấp độ hành chính. Còn nếu vận động theo chiều ngang thì không hẳn như vậy. Ở đây là sự tổng hợp các mối liên hệ cá nhân, cộng đồng, xã hội; các mối liên hệ quá khứ, hiện đại và tương lai; các mối liên hệ lãnh thổ (làng, vùng, quốc gia); các mối liên hệ tộc người, tôn giáo - tín ngưỡng v.v.. Đây chính là cái khách quan của sự tồn tại việc quản lý không gian văn hoá vùng như là sự bổ sung và hỗ trợ cho quản lý văn hoá theo địa bàn hành chính, mà nếu thiếu nó, thì sẽ tước bỏ nhiều tính đặc thù của lĩnh vực sản xuất tinh thần, như tính cá thể, tính liên tục của mỗi chuỗi hoạt động tinh thần - văn hoá v.v.. Những tính đặc thù của sản xuất tinh thần quy định một cách khách quan sự phát triển đa dạng của đời sống tinh thần - văn hoá. Đến lượt mình, đời sống tinh thần - văn hoá cũng rất khách quan quy định sự phong phú, đa dạng phương thức quản lý văn hoá. Không gian văn hoá vùng là biểu hiện tổng hợp cho các tính đặc thù của lĩnh vực sản xuất tinh thần. Bản thân các thực thể văn hoá này mang nhiều nét đặc thù, thậm chí có khi đơn nhất, nhưng đồng thời cũng chịu sự quy định của rất nhiều yếu tố phổ quát của nền văn hoá quốc gia dân tộc. Sự thống nhất mâu thuẫn này cần được xử lý bằng những hình thức quản lý phù hợp, để kiến lập được bản chất đa dạng trong sự thống nhất của nền văn hoá Việt Nam. Ngày nay, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có trọng điểm với các vùng phát triển trước, phát triển nhanh (tam giác phát triển) đòi hỏi phải có hình thức quản lý văn hoá phù hợp. Ý nghĩa của công tác quản lý văn hoá vùng không gì khác hơn là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái đa dạng và cái thống nhất, giữa hành chính và văn hoá v.v.. Đây chính là cách thức thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tính dân tộc tính nhân dân trong hoạt động văn hoá và quản lý văn hoá. 3. Một số nội dung chính sách quản lý vùng văn hoá hiện nay Là một bộ phận của quản lý nhà nước về văn hoá, quản lý vùng văn hoá nhằm thực hiện các mục tiêu sau:
- Hạn chế và tránh xuất hiện sự mất cân đối về mặt tinh thần - văn hoá giữa các không gian lãnh thổ trong điều kiện đã và đang có sự đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nhịp điệu phát triển không đồng đều giữa các vùng kinh tế. - Phát huy những bản sắc văn hoá địa phương đồng thời với việc định hướng cho các tiểu vùng, vùng không gian văn hoá hoà nhập, liên thông với nhau, để làm cho sự phát triển của bộ phận phù hợp với trào lưu phát triển chung, tiếp nhận ở cộng đồng lớn hơn những nguồn lực thúc đẩy cho sự phát triển của bộ phận. - Giữ gìn, tôn tạo các cảnh quan văn hoá và môi trường văn hoá địa phương, để chấn hưng các thể loại Folklore, từ các công trình kiến trúc (đình, chùa, miếu mạo v.v.), các thể loại văn học, nghệ thuật dân gian, các truyền thuyết dân gian cho đến văn hoá nghệ thuật chuyên nghiệp ở mỗi địa phương. Đặc biệt, cùng với quản lý hành chính có thể bảo vệ được các làng và các tiểu vùng có truyền thống văn hoá nghệ thuật nổi tiếng trong nước. Mục tiêu cơ bản của quản lý không gian văn hoá là tránh được sự phát triển quá cao ở một số vùng nhưng lại làm chậm phát triển ở một số vùng khác, phát triển kinh tế mà không tàn phá cảnh quan và môi trường văn hoá đặc thù của tiểu vùng và vùng. Khi sự quản lý văn hoá nghệ thuật vùng hợp lý thì cũng tạo được cơ sở và môi trường cho quản lý văn hoá theo địa bàn hành chính một cách thỏa đáng. Các tương quan theo lãnh thổ của nền văn hoá được xây dựng dần dần phù hợp với sự phân vùng kinh tế, từ đó xu hướng phát triển văn hoá vận động phù hợp với phát triển kinh tế theo lãnh thổ. Nội dung chính sách quản lý không gian văn hoá vùng gồm: Thứ nhất, trong chương trình chỉ đạo hằng năm và kế hoạch dài hạn, ngành văn hoá - thông tin nên có kế hoạch tổ chức hoạt động chấn hưng và giao lưu văn hoá vùng hay tiểu vùng trên cơ sở một hình dung nào đó về các không gian văn hoá vùng ở nước ta. Cách thức phân vùng có thể khác nhau, số lượng vùng văn hoá có thể nhiều hoặc ít hơn, nhưng tựu trung đều phải hướng tới mục tiêu vì một nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Từ các không gian văn hoá vùng có thể xác định trọng tâm vào các làng văn hoá, tiểu vùng văn hoá nổi tiếng, để có biện pháp chấn hưng và bảo vệ ở cấp quốc gia. Kế hoạch chấn hưng, giao lưu văn hoá vùng sau khi được soạn thảo phải mang tính pháp lệnh và kèm theo các điều kiện về tổ chức, tài chính, biện pháp..., để thực hiện. Trong kế hoạch hợp tác và giao lưu văn hoá quốc tế cần chú ý hơn nữa đến việc cử đoàn nghệ thuật dân gian, dân tộc và nghệ thuật quần chúng đại diện cho từng vùng văn hoá. Thứ hai, Nhà nước có kế hoạch và ngân sách hỗ trợ việc tổ chức những ngày hội văn hoá - thể thao theo từng vùng văn hoá. Để việc tổ chức có hiệu quả thiết thực cần có sự phối hợp cấp trung ương với các địa phương và cơ sở thuộc vùng văn hoá. Bên cạnh ngày hội văn hoá tiểu vùng được tổ chức trong vòng 2-3 năm một lần, phấn đấu từ 3-5 năm tổ chức trên quy mô lớn ngày hội văn hoá - thể thao cả vùng. Thứ ba, Nhà nước nên quy định những hình thức phù hợp để xây dựng quỹ hoạt động và phát triển các không gian văn hoá, đồng thời tạo điều kiện cho mỗi vùng tập trung xây dựng một đoàn nghệ thuật, nhất là ca múa nhạc dân tộc ở một tỉnh có nhiều thế mạnh trong vùng; có cơ chế và kinh phí để các hội văn hoá nghệ thuật dân tộc, quỹ văn hóa dân gian hoạt động có hiệu quả. Thứ tư, xây dựng làng văn hoá các dân tộc với ý nghĩa như một trung tâm văn hoá các dân tộc và của cả nước. Cùng với trung tâm văn hoá này cần xây dựng các trung tâm văn hoá ở các vùng trên cả nước. Bảo tồn, phát triển các lò tuồng, lò cải lương, chèo sân đình, đội rối nước v.v. theo hình thức dân lập tự quản. Xây dựng, kiện toàn nhà văn hoá nhằm giúp đỡ phong trào, tổ chức giao lưu, giới thiệu văn hoá địa phương bằng các hình thức khác nhau. Ngành văn hoá thông tin và các cấp chính quyền địa phương cần tiếp tục xác định cơ chế, tổ chức, quy mô, nhất
là cán bộ quản lý có năng lực, để các nhà văn hoá làng và xã hoạt động có hiệu quả. Mở rộng hệ thống bảo tàng theo hướng trưng bày và giới thiệu toàn diện các khía cạnh văn hoá vật chất, tinh thần của vùng. Để xây dựng và phát triển một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và bản sắc các vùng đất nước thì việc xây dựng và thực hiện phương pháp quản lý không gian văn hoá là rất cần thiết. Muốn vậy, phải có sự thống nhất từ nhận thức đến phương hướng hoạch định chính sách văn hoá, đặc biệt phải cụ thể hoá bằng kế hoạch có tính pháp lệnh cũng như củng cố các thiết chế, để thực thi việc quản lý các không gian văn hoá vùng như là một bộ phận cấu thành của công tác lãnh đạo, quản lý văn hoá của Đảng và Nhà nước.
QUYỀN CON NGƯỜI - QUAN ĐIỂM VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA
Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng… là những quyền cơ bản của con người. Quyền con người là thành quả phát triển của lịch sử lâu dài sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại. Trong một thế giới đang toàn cầu hoá hiện nay, quyền con người ở mỗi quốc gia, không kể hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị - xã hội, kinh tế và văn hoá đều có những giá trị chung giống nhau, không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau, đó là tính phổ cập của quyền con người. Tuy nhiên, quyền con người còn mang tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hoá và tôn giáo. Chính từ những đặc điểm này mà trên thế giới tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người. Trong khi cộng đồng quốc tế thừa nhận cả hai đặc tính của quyền con người, thì một số quốc gia (các nước tư bản phát triển, đứng đầu là Mỹ) lại phủ nhận tính đặc thù của quyền con người, đề cao tự do cá nhân, rêu rao học thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Họ tự cho mình là người bảo vệ nhân quyền, lợi dụng các vấn đề về “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”, “dân tộc” xuyên tạc, vu cáo các nước khác vi phạm nhân quyền, ngang nhiên can thiệp vào công việc nội bộ, đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ các quốc gia có chủ quyền. Trong thế giới văn minh ngày nay vẫn còn tình trạng người bóc lột người, phân biệt chủng tộc, kỳ thị dân tộc, tôn giáo, buôn bán nô lệ và còn tồn tại một vài chế độ độc tài đang thi hành chính sách bài ngoại cực đoan, kìm hãm sự phát triển tự do cá nhân, thủ tiêu các quyền cơ bản của con người. Do đó, cuộc đấu tranh vì quyền con người gắn với bảo vệ quyền dân tộc tự quyết vẫn là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt. Quyền con người vẫn là khát vọng cháy bỏng của cả nhân loại. Từng là nạn nhân của chủ nghĩa thực dân và phải trả bằng xương, máu trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân Việt Nam hiểu hơn bao giờ hết giá trị của độc lập, tự do. Đảng và Nhà nước Việt Nam trước sau như một, kiên trì quan điểm giải quyết vấn đề quyền con người trên nguyên tắc nhân quyền không được cao hơn chủ quyền, bảo đảm quyền con người phải căn cứ vào hoàn cảnh kinh tế - xã hội và truyền thống văn hoá, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền. Quan điểm về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hoá dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu chuẩn về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Trong khi đánh giá cao giá trị cải tạo xã hội, giải phóng con người của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chủ nghĩa Mác – Lê-nin cũng chỉ ra những hạn chế của các cuộc cách mạng đó. Các nhà tư tưởng mác-xít cho rằng, những giá trị về quyền con người do các cuộc cách mạng dân chủ tư sản đem lại còn mang nặng tính hình thức, thực sự nó chỉ đem lại quyền tự do cho giai cấp tư sản, một bộ phận rất nhỏ trong xã hội, đại bộ phận quần chúng lao động chưa được giải
phóng, chủ nghĩa tư bản duy trì sự bất bình đẳng về quyền sở hữu, do đó sự bất bình đẳng về năng lực cá nhân là điều không thể tránh khỏi. C. Mác cho rằng, con người vừa là sản phẩm của xã hội vừa là sản phẩm của tự nhiên, vì vậy khi xem xét vấn đề quyền con người cần phải đặt vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể và quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá (do chế độ kinh tế đó quyết định). Theo Ph. Ăng-ghen, quyền con người không phải tự nhiên mà có, đó là thành quả của sự phát triển lịch sử, của các cuộc cách mạng xã hội; bình đẳng là một sản phẩm lịch sử, không có quyền bình đẳng trừu tượng, muốn có bình đẳng thực sự thì việc xoá bỏ đặc quyền giai cấp là chưa đủ, mà phải xoá bỏ bản thân giai cấp. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin và chủ nghĩa yêu nước chân chính. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quyền con người là sự kết hợp giữa chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa với truyền thống yêu nước, thương nòi của dân tộc Việt Nam, giữa lý luận mác-xít và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm trên được Người thể hiện bằng bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, ngay trong ngày khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” (Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945). Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới năm 1945, không chỉ nhằm công bố với thế giới về sự ra đời của một quốc gia độc lập, có chủ quyền mà còn là một bản tuyên ngôn về quyền con người của Việt Nam và khẳng định nhân dân Việt Nam quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng để bảo vệ giá trị thiêng liêng đó. Tuyên ngôn Độc lập và Cánh mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh phá tan hệ thống thuộc địa thế giới, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân cũ giành độc lập dân tộc từ châu Á, châu Phi đến Mỹ La-tinh thời kỳ giữa thế kỷ XX. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 còn là một đóng góp lớn lao vào tư tưởng nhân quyền của nhân loại. Lần đầu tiên, các quyền tự do cá nhân được mở rộng thành quyền dân tộc, đó là độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết. Những đóng góp đó vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Kế thừa và phát huy giá trị của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống văn hoá dân tộc, quan điểm nhất quán và xuyên suốt về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng và Nhà nước ta khẳng định, con người và quyền con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hoà bình và tiến bộ xã hội của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Nội dung cơ bản của các quan điểm và chính sách đó là: 1. Đảng và Nhà nước ta khẳng định quyền con người là thành quả và khát vọng chung của nhân loại. Đảng chỉ rõ: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”(1). Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng chỉ đạo “ Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính về phẩm giá con người”(2) . 2. Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản, nhân quyền không được cao hơn chủ quyền. Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch, xuyên suốt. Đảng ta cho rằng, sự nghiệp giải phóng con người, đưa lại các quyền tự do cá nhân gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, cải tạo xã hội cũ. Bài học “nước mất - nhà tan” đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam được đúc rút qua lịch sử trên 4000 năm dựng nước và giữ nước. Qua kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, Đảng ta khẳng định rằng, chỉ ở một nước độc lập thực sự, chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người mới được thực thi đầy đủ và có điều kiện để đảm bảo một cách chắc chắn. Đấu tranh chống các thế lực thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc cũng là nhằm giành quyền tự do cho cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, nếu nước độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chủ quyền quốc gia hay quyền dân tộc tự quyết và quyền con người tuy là những phạm trù khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết và thống nhất với nhau. Thực thi quyền con người phải dựa trên cơ sở ưu tiên bảo vệ quyền dân tộc tự quyết, chủ quyền quốc gia. Nếu dân tộc không được độc lập, chủ quyền quốc gia không được xác lập thì không có quyền con người. 3. Giải quyết các vấn đề cụ thể về quyền con người phải kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù. Thừa nhận tính phổ biến của quyền con người với những giá trị chung của nhân loại, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh khi giải quyết vấn đề nhân quyền phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ngoài những giá trị phổ biến, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia tuỳ theo chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hoá dân tộc, tôn giáo có những giá trị riêng không ai có thể xâm phạm được (nếu nó không đi ngược lại những giá trị chung của nền văn minh nhân loại). Nhà nước ta tôn trọng những giá trị đã được quốc tế thừa nhận, như: Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau; trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hoá và tôn giáo. Đảng chỉ đạo: “Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, từng bước thể chế hoá nội dung các quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta và với tiêu chuẩn tiến bộ về quyền con người đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi” (3). Tính phổ biến của quyền con người chỉ có thể được đảm bảo chắc chắn khi tính đến những đặc thù khác nhau ở mỗi khu vực, trong những điều kiện cụ thể về lịch sử, văn hoá, tôn giáo, chế độ chính trị, chế độ kinh tế. 4. Quyền con người mang tính giai cấp. Lịch sử đấu tranh giải phóng con người, cải tạo xã hội trong xã hội có giai cấp là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp. Quyền con người là thành quả của các cuộc đấu tranh đó. Vì vậy, quyền con người không thể không mang tính giai cấp. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thủ tiêu chế độ người bóc lột người là nhằm đem lại quyền lợi cho toàn thể nhân dân lao động. Những người cộng sản không đấu tranh cho riêng giai cấp của mình mà đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng nhân loại. Nhân dân Việt Nam thừa nhận những người cộng sản Việt Nam không chỉ là đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân mà còn là đại biểu trung thành lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Sau khi Liên-xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, cục diện thế giới đã có những thay đổi căn bản, chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, nhưng các mâu thuẫn lớn của thời đại, trong đó mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại và đang diễn ra rất gay gắt. Chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ từ bỏ bản chất hiếu chiến, xâm lược và mưu đồ thủ tiêu phong trào cộng sản và công nhân thế giới, ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn, lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Do đó, cuộc đấu tranh vì quyền con người vẫn là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt ở cấp độ toàn cầu. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào những người cộng sản không được phép lơ là, mất cảnh giác trước những luận điệu sai trái về quyền con người của chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế. 5. Quyền con người ở Việt Nam được thể hiện trong quyền và nghĩa vụ công dân, thực hiện quyền con người gắn liền với quá trình thực hiện dân chủ hoá xã hội. Cương lĩnh của Đảng chỉ rõ, dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thể hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng hình thức dân chủ trực tiếp; dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hoá bằng pháp luật và được pháp luật đảm bảo. Quyền con người là sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ công dân, giữa quyền, lợi ích cá nhân với quyền và lợi ích cộng đồng. Các quyền và lợi ích của công dân nước ta luôn được gắn với nhau, được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật. Công dân Việt Nam được thực hiện các quyền tự do cá nhân mà pháp luật không cấm, nhưng quyền tự do cá nhân không được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và cộng đồng, không được thực hiện các hành vi gây nguy hại đến an ninh quốc gia và trật tự luật pháp xã hội chủ nghĩa.
6. Chúng ta chủ trương giải quyết vấn đề quyền con người bằng đối thoại hoà bình và mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và luận điệu lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ:“Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam”(4). Dựa trên quan điểm bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam, nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách đảm bảo quyền con người và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất nước ta tiến dần đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì mục tiêu hoà bình và tiến bộ xã hội. Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người như: Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (1979), xoá bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc (1966), về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội (1966), về các quyền dân sự (1966), về quyền trẻ em; Nghị định thư bổ sung Công ước Giơne-vơ về bảo vệ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế… và tham gia các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) với tư cách là thành viên của tổ chức này. Ở trong nước, các chính sách kinh tế - xã hội đã đem lại nhiều quyền lợi và điều kiện để người dân thực hiện các quyền con người, đặc biệt là thành quả trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, văn hoá, tự do báo chí, tự do tôn giáo, chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách an sinh xã hội, an ninh con người… được quốc tế thừa nhận. Hiện nay, các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Chúng không thừa nhận tính đặc thù của quyền con người, cho rằng quyền con người chỉ là giá trị chung không phụ thuộc vào pháp luật hay đạo đức của bất kỳ xã hội nào và phải được áp dụng với những chuẩn mực và phương thức đồng nhất ở mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử và văn hoá. Chúng rêu rao quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, tuyệt đối hoá quyền tự do cá nhân, đặc quyền của cá nhân cao hơn chủ quyền của cộng đồng dân tộc. Vì vậy, chúng ta phải tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình” (chủ yếu trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo) của chúng. Trước âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, các cấp, các ngành cần tăng cường chỉ đạo và thực hiện các biện pháp sau: - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thấm nhuần sâu sắc lập trường, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề nhân quyền, nâng cao ý thức cảnh giác trước luận điệu sai trái và âm mưu của các thế lực thù địch và các nước bảo trợ chúng lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để chống phá ta. - Đẩy mạnh thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các chương trình và chính sách phát triển vùng, trong đó ưu tiên phát triển vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới và vùng căn cứ cách mạng gắn với chương trình xoá đói, giảm nghèo, chính sách với người có công và chính sách dân tộc, tôn giáo; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam có đủ 5 đức tính đã được Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) xác định; chiến lược phát triển nguồn nhân lực và giáo dục - đào tạo; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân…, làm cho mọi người Việt Nam đều được hưởng thành quả của công cuộc đổi mới. Đồng thời phải khắc phục những hạn chế về quyền con người trong truyền thống và hiện tại nhằm hoàn thiện quyền con người ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong giải quyết vấn đề quyền con người, tiếp tục xây dựng hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế. Các cơ quan tham mưu của Đảng và cơ quan chức năng của Nhà nước cần chủ động phối hợp nghiên cứu dự báo những vấn đề mà quốc tế quan tâm xung quanh lĩnh vực “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc”, chuẩn bị lý lẽ để trả lời kịp thời, đầy đủ, chính xác, đồng thời đập tan luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch. Tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia, các tổ chức quốc tế (nhất là các nước trong thế giới thứ ba, Ủy ban nhân quyền, Tiểu ban nhân quyền và Ủy ban kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc). Kiên quyết đấu tranh không để các tổ chức phản động lưu vong có tư cách tư vấn tại Liên hợp quốc. Quyền con người, đảm bảo quyền con người trong thời đại toàn cầu hoá đang có những diễn biến mới và rất phức tạp, đòi hỏi phải kiên trì và có bước đi, giải pháp đúng đắn, vừa tập trung phát triển kinh tế - xã hội trong nước, nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng dân chủ trong Đảng, trong xã hội vừa đẩy mạnh đấu tranh trên trường quốc tế. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải kiên trì nguyên tắc “nhân quyền không được cao hơn chủ quyền, nhân quyền không được phủ nhận chủ quyền”./.
CÁC MÔ HÌNH THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
I. Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế phổ biến của thế giới đương đại. Đây là thành tựu chung của văn minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm mang tính đặc thù của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, việc áp dụng và thực hiện mô hình kinh tế thị trường trên thế giới rất phong phú, đa dạng. Ở các nước tư bản phát triển, mô hình kinh tế thị trường đã trải qua nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm, tiến hóa theo thời gian cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế, dưới tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật, ngày nay là cách mạng khoa học công nghệ. Các mô hình kinh tế thị trường của các nước này có những sự biến đổi, thích nghi để tồn tại và phát triển. Trong những năm gần đây, dựa theo những nét khác biệt và tương đồng, người ta đã chia các mô hình kinh tế thị trường đang vận hành ở các nước tư bản phát triển trên thế giới thành 3 nhóm tiêu biểu: - Mô hình thể chế kinh tế thị trường tự do (tiêu biểu là nền kinh tế thị trường của Mỹ, Anh, Ốxtrây-li-a,...). - Mô hình thể chế kinh tế thị trường xã hội (tiêu biểu là Đức, Thụy Điển và các nước Bắc Âu khác). - Thể chế kinh tế của mô hình nhà nước phát triển (tiêu biểu là nền kinh tế Pháp, Nhật Bản). Ba mô hình thể chế kinh tế thị trường nêu trên có những điểm khác biệt với nhau như sau: 1- Đặc điểm của mô hình thể chế kinh tế thị trường tự do - Có một cơ chế thị trường tự do thuần khiết hơn so với các nền kinh tế khác. Trong mô hình kinh tế thị trường này, các mối quan hệ kinh tế đều được giải quyết thông qua thị trường là chính, còn sự can thiệp của nhà nước rất hãn hữu. Do đó, mọi sự bất cập và thất bại của nền kinh tế đều do nguyên nhân chủ yếu từ sự trục trặc hay sự phát triển thiếu đồng bộ của thị trường. - Trong mô hình này, thị trường lao động có tính linh hoạt cao và các luật lệ về thị trường lao động đều thiên về bảo hộ người chủ tư bản hơn là người lao động làm thuê. 2 - Đặc điểm của mô hình thể chế kinh tế thị trường xã hội
- Ra đời trong bối cảnh của nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ hai và là kết quả của sự thỏa hiệp giữa 4 trường phái lớn theo đuổi những chủ trương khác nhau về khôi phục nền kinh tế nước Đức thời hậu chiến. - Mô hình kinh tế thị trường xã hội là một dạng biến thể của mô hình kinh tế thị trường tự do. Nhưng nó có nội dung thực chất là sự gắn kết trên cơ sở thị trường một cách hợp lý giữa các mặt kinh tế - xã hội và chính trị. - Coi các thị trường chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ và coi luật pháp, nhà nước, đạo đức,... không hề kém quan trọng hơn so với các chính sách kinh tế, tài chính. - Coi trọng vai trò điều tiết của nhà nước và phúc lợi xã hội. 3 - Thể chế kinh tế của mô hình nhà nước phát triển - Chức năng chủ yếu của nhà nước trong mô hình này là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế dài hạn. Do đó, nhà nước phải chủ động thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ trên cơ sở những thành tựu của công nghiệp hóa và tái công nghiệp hóa dựa vào tri thức, nhằm thích ứng với sự biến động nhanh chóng của nhu cầu thị trường để luôn tạo ra được lợi thế so sánh mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh, không thụ động chấp nhận sự phân công lao động quốc tế dựa trên những lợi thế so sánh có sẵn. - Nhà nước không chỉ quan tâm đến luật chơi của nền kinh tế thị trường mà còn đi sâu hướng dẫn, chỉ đạo, điều tiết cả phương hướng, nội dung của hoạt động kinh tế nhằm thực hiện chức năng phát triển của nhà nước. - Cơ sở lý thuyết về chức năng phát triển của nhà nước là những phân tích "lợi thế so sánh động" của một nền kinh tế dựa vào tri thức. - Khu vực doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của các nước phát triển nền kinh tế theo mô hình này. Bên cạnh những điểm khác biệt của mỗi mô hình như đã nêu trên, giữa 3 mô hình này cũng có những điểm tương đồng rất cơ bản: - Cả 3 mô hình thể chế kinh tế thị trường nêu trên đều được xây dựng và vận hành dựa trên 4 nguyên tắc cốt lõi là: sở hữu tư nhân, lợi ích cá nhân, cạnh tranh thị trường và tự do dân chủ theo kiểu phương Tây. - Những thể chế, chính sách trước đây bị coi là phi kinh tế như chính sách giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ thì ngày nay trở thành những chính sách phát triển hàng đầu, do giáo dục đào tạo và khoa học, công nghệ trong những thập niên gần đây đã trở thành những động lực trọng yếu của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chính nhờ tập trung những khoản đầu tư lớn cho phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học, công nghệ mà Mỹ trở thành nước đang dẫn đầu trong các ngành mới, hiện đại và thu được nhiều khoản lợi nhuận kếch sù từ các ngành công nghiệp bán dẫn, máy tính, In-tơ-nét, công nghệ sinh học,... Đó chính là cơ sở trọng yếu để nền kinh tế Mỹ duy trì được đà tăng trưởng mạnh mẽ trong suốt thập niên vừa qua. Trong vài thập niên gần đây, tuy rằng cả sự phát triển bền vững và sự phát triển con người đều vượt ra ngoài lô-gíc bình thường của chủ nghĩa tư bản. Nhưng những yêu cầu đó đều là xu thế tất yếu của thời đại mà chủ nghĩa tư bản hiện đại không cưỡng lại được, cho nên không chỉ Mỹ mà ở tất cả các nước theo những mô hình nêu trên đang khôn ngoan tìm cách thích nghi.
- Trên thực tế, cả 3 mô hình này đều sử dụng rộng rãi sự điều tiết và quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, vai trò điều tiết và quản lý vĩ mô của nhà nước luôn được thay đổi linh hoạt, theo những hình thức và phương pháp phù hợp với diễn biến và yêu cầu khách quan của tình hình thực tế. Chính phủ ở các nước này đều sử dụng những biện pháp can thiệp có chủ đích nhằm trợ giúp một số ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong sự phát triển dài hạn của nền kinh tế, hoặc kiểm soát, hạn chế sự phát triển của những doanh nghiệp, những ngành gây ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế. II. Mỗi một mô hình kinh tế thị trường trên đây đều có những nét ưu việt cùng những hạn chế, khiếm khuyết nhất định. Chưa có cơ sở chắc chắn để khẳng định mô hình nào sẽ thắng thế lâu dài và có khả năng trở thành một hình mẫu chung cho tất cả các nước khác nhau trên thế giới. Tuy vậy, hiện nay mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ đang ưu thế, vì trong những năm gần đây các mô hình kinh tế thị trường của Đức, Nhật Bản, Thụy Điển và Đông Á đều trì trệ, khủng hoảng. Trong khi đó, mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ dựa trên lý thuyết kinh tế Tân tự do và dựa vào sức mạnh kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ của Mỹ cùng sự ủng hộ của IMF, WB, WTO,... được khuyếch trương rộng rãi. Từ đó, nhà cầm quyền Mỹ tự cho phép mình đặt ra luật lệ cho "cuộc chơi" và chi phối các tổ chức quốc tế đa phương để điển hình hóa mô hình kinh tế thị trường của Mỹ thành kiểu mẫu đem chuyển giao cho các nước đang phát triển và các nước đang chuyển đổi dưới tên gọi "Đồng thuận Oa-sinh-tơn". Hầu hết các nước đang phát triển đều thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường đã thu được những thành công hay thất bại rất khác nhau: có một số nước thành công, đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định như các nước công nghiệp mới ở Đông Á (NICs) và các nền kinh tế công nghiệp hóa mới (NIEs). Nhưng nhiều nước lại thất bại: kinh tế tăng trưởng chậm, luôn bị khủng hoảng, thậm chí bị suy thoái như các nước ở châu Phi và Mỹ La-tinh. Từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, Liên bang Nga và nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đã tiến hành chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng việc áp dụng máy móc, rập khuôn đã thất bại với hậu quả nghiêm trọng. Trong khi đó, Trung Quốc có điểm xuất phát thấp hơn đã tiến hành chuyển đổi và cải cách mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Cách tiếp cận này, vừa đổi mới, vừa đúc rút kinh nghiệm và khái quát lý luận làm căn cứ cho việc triển khai các bước cải cách thể chế tiếp sau, nhằm đạt mục tiêu xây dựng một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc. Quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã thu được những thành tựu to lớn, tuy có phải trả những khoản học phí không nhỏ. Bài học quý báu cả về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, cả trong thành công cũng như thất bại đang tiếp tục phát triển, bổ sung, hoàn thiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc. Thực tế trên cho thấy, thực tiễn và lý luận về mô hình kinh tế thị trường hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp, không thể áp dụng máy móc mô hình kinh tế thị trường của nước này cho nước khác được. Nó luôn là bài toán đầy thách thức đối với bất cứ nước nào muốn phát triển nền kinh tế thị trường. Do đó mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cần thực sự cầu thị, khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm của các nước khác. Không nên rập khuôn, máy móc theo bất cứ một mô hình ngoại lai nào. Phải phát huy hiệu quả nội lực kết hợp thu hút các nguồn ngoại lực, chủ động nghiên cứu tìm tòi để sáng tạo, quyết định và thực hiện mô hình kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình. Quán triệt tinh thần đó, công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện bắt đầu từ năm 1986 chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định
"phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là đường lối chiến lược nhất quán trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Đây là giai đoạn lịch sử, các yếu tố xã hội chủ nghĩa đang phát triển từng bước từ thấp lên cao. Trong trạng thái quá độ này có sự tồn tại đan xen của rất nhiều yếu tố phức tạp. Trạng thái này làm cho chúng ta khó nhận biết được đúng, sai và khó xác định được các thang bậc định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khác với bản chất kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là: "Hệ thống luật pháp, thể lệ, quy định,... của Nhà nước và các chủ thể kinh tế tham gia thị trường được xây dựng, vận hành và hoạt động sao cho vừa đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa đảm bảo thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn". Do đó, mô hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với những bộ phận cấu thành phương thức sản xuất đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xét về mặt kinh tế, định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở nhiều phương diện, nhiều khâu, từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ việc vạch ra đường lối chính sách, luật pháp đến quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện. Kinh tế thị trường chỉ xuất hiện và phát triển khi lực lượng sản xuất đã phát triển tới trình độ cho phép đạt được khối lượng lao động thặng dư và tương ứng với nó là khối lượng sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều. Do đó, ở nước ta hiện nay, muốn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Còn nếu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cốt để khai thác được nhiều tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản và sức lực của người lao động nhằm thu lợi nhuận tối đa, bất chấp hậu quả về xã hội và môi trường là đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề rất cơ bản có ảnh hưởng lớn tới định hướng xã hội chủ nghĩa là phải phân bố lực lượng sản xuất như gắn kết một cách hợp lý tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Nếu phân bố theo cơ chế thị trường tự phát, người ta chỉ phân bố lực lượng sản xuất tập trung vào ngành, vùng có nhiều lợi nhuận, không quan tâm đến một số ngành, vùng khác, dù đó là ngành, vùng xung yếu. Hậu quả là tạo nên sự cách biệt quá xa về trình độ phát triển và tình trạng chênh lệch quá mức về thu nhập và đời sống giữa các tầng lớp dân cư. Những vấn đề kinh tế khác như hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế tự chủ, giải quyết mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng v.v... đều có quan hệ trực tiếp đến định hướng xã hội chủ nghĩa. Biểu hiện tập trung nhất và thước đo cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở quan hệ sản xuất. Trong quan hệ sản xuất thì vấn đề sở hữu là quan trọng nhất. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay là: sở hữu công cộng đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu, ở những lĩnh vực huyết mạch, những vị trí then chốt của nền kinh tế quốc dân do Nhà nước nắm. Kinh tế nhà nước cần thông qua hợp tác liên doanh, liên kết kinh tế với các thành phần kinh tế khác mà phát huy vai trò chủ đạo để cùng với kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã, hợp thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Cùng với nền tảng đó là đa dạng hóa các hình thức sở hữu, chú trọng phát triển hình thức sở hữu cổ phần, đa dạng hóa các thành phần kinh tế và các thành phần kinh tế phi công hữu đều là những bộ phận cấu thành quan trọng, tất yếu của nền kinh tế quốc dân. Sở hữu là vấn đề quan trọng nhất, nhạy cảm nhất, có ý nghĩa sống còn đối với mọi chế độ chính trị. Do đó, các thế lực thù địch trên thế giới thường nhằm vào vấn đề sở hữu để chống phá.
Chúng gây sức ép trong các mối quan hệ để đòi chúng ta phải tư nhân hóa nền kinh tế và tìm mọi cách ủng hộ, khuyến khích sở hữu tư nhân phát triển. Cùng với việc xác định vị trí của chế độ sở hữu công cộng và cơ chế thực hiện thì cần phân định các loại hình sở hữu và các thành phần kinh tế. Vì đây là một công cụ rất quan trọng trong thực thi lãnh đạo, quản lý nền kinh tế. Có phân định, chúng ta mới thấy được tỷ trọng của mỗi loại hình sở hữu và của mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Từ đó có giải pháp sát hợp, hữu hiệu trong lãnh đạo, quản lý. - Nội dung thứ hai của quan hệ sản xuất là tổ chức quản lý. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta về mặt tổ chức quản lý phải bảo đảm được sự gắn kết hợp lý giữa 3 yếu tố cơ bản: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng, phát triển đất nước và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phản ánh đúng xu thế khách quan của thời đại và điều kiện cụ thể của đất nước. Sự quản lý, điều hành phù hợp, có hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân bằng một hệ thống đồng bộ luật pháp, các chính sách, công cụ, phản ánh đúng ý Đảng, lòng dân và thực lực kinh tế của Nhà nước. Vai trò làm chủ và tham gia quản lý của nhân dân lao động thực sự được phát huy thông qua thực hiện quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích của họ đối với những tư liệu sản xuất thuộc sở hữu cá nhân, đối với vốn cổ phần, đối với những tư liệu sản xuất được Nhà nước phân giao quyền sử dụng và kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế có liên quan. Đây là những yếu tố cấu thành tất yếu về tổ chức quản lý trong mô hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". - Một nội dung khác của quan hệ sản xuất liên quan rất mật thiết đến định hướng xã hội chủ nghĩa và rất nhạy cảm đối với chính trị của chúng ta là vấn đề phân phối. Trong mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải đề cao nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và các nguồn lực khác đầu tư vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Vì định hướng xã hội chủ nghĩa trong phân phối sẽ làm nổi bật tính ưu việt của chế độ ta trong điều kiện sức sản xuất còn thấp kém. Điều này được thể hiện thu nhập giữa những người hưởng lương, chính sách tiền lương không để cách nhau quá xa giữa bậc lương thấp nhất và cao nhất. Trong quá trình xử lý vấn đề tiền lương đã không ngừng nâng mức lương tối thiểu, đã chú trọng các nghề cần khuyến khích; chú ý lao động nặng nhọc, độc hại... Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phân phối còn là tạo ra các nguồn lực xã hội hóa trợ giúp người có thu nhập thấp, có hoàn cảnh khó khăn, người nghèo, góp phần làm cho hố ngăn cách mức sống không bị doãng ra, tỷ lệ đói nghèo được giảm xuống một cách nhanh chóng. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phân phối không chỉ là cho người nghèo "con cá", như trong thời kỳ bao cấp trước đây, mà quan trọng hơn là phải tạo cho họ cái "cần câu cá", tức là tạo cho họ cơ hội và phương tiện để tham gia các hoạt động kinh tế đem lại thu nhập để bảo đảm cuộc sống, khắc phục những tư tưởng trông chờ, ỷ lại một cách thụ động vào sự cứu trợ của Nhà nước và xã hội. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định nhiệm vụ "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng". Đó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Nhà nước đã từng bước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là xây dựng một nhà nước thực sự của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân; nhà nước được tổ chức và vận hành một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn đất nước, tổ chức, hoạt động của nhà nước phải đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự điều chỉnh của pháp luật; nhà nước quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật vì con người; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có cơ chế an toàn và hiệu quả ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1 - Quá trình nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc cũng như xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo việc củng cố, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta hết sức coi trọng việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới. Đặc biệt, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), Đảng ta đã khẳng định phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Phương hướng đó được cụ thể hóa một bước tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, khóa VII đầu năm 1995. Tại Hội nghị này, 5 quan điểm cơ bản để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền được xác định. Tiếp đến, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta một lần nữa khẳng định 5 quan điểm cơ bản nêu trên. Đó là: - Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. - Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. - Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức. - Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) tiếp tục khẳng định nhiệm vụ "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng" và chỉ rõ "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân".
Như thế, từ khi ra đời cho đến nay, trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - phương tiện quan trọng trong quản lý nhà nước. 2 - Các nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân Trong quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho đến nay Nhà nước ta đã ban hành 4 bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ. Đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, trong đó quy định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định về tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp với thực tiễn các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta. Từ thực tiễn này, các nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân ngày càng được định hình: Một là: Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hai là: Xác định quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước. Ba là: Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bốn là: Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Năm là: Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Sáu là: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Như vậy, xuất phát từ bản chất của chế độ, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, ngoài việc đáp ứng các yêu cầu, đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền nói chung thì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có những đặc trưng riêng thể hiện rõ nét bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là: - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước mà ở đó quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; không tam quyền phân lập; mọi cách thức tổ chức và hoạt động của Nhà nước đều có mục đích chung là vì lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, dân tộc và lấy việc phục vụ nhân dân làm mục đích duy nhất và tối cao. - Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện trong điều kiện một đảng cầm quyền duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
3 - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần tập trung vào một số việc sau đây: 1 - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước phải luôn luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt chức năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và chính sách đó; phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. 2 - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải dựa vào lực lượng nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích của nhân dân và dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. 3 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và phân công quyền lực nhà nước thực sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện ba quyền thống nhất có sự phân công rành mạch, trong đó, đề cao trách nhiệm, tính chủ động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp hợp lý quyền lực nhà nước giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để xây dựng Nhà nước vững mạnh, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; xác định rõ tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục nghiên cứu làm rõ mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra) cho phù hợp với yêu cầu mới; tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Theo đó: - Quốc hội phải thật sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội cần được đổi mới mạnh hơn nữa theo hướng tăng cường chất lượng và vị thế của đại biểu Quốc hội, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; tăng cường số đại biểu Quốc hội chuyên trách đến tỷ lệ hợp lý (khoảng 40% hoặc 50% tổng số đại biểu Quốc hội); tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, đổi mới phương thức giám sát và cách thức quyết định ngân sách nhà nước. - Chính phủ phải nâng cao hiệu lực hoạt động của mình, thực sự là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện mọi chính sách, biện pháp hữu hiệu nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân; xác định rõ hơn trách nhiệm của Chính phủ và từng Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong việc quản lý ngành, lĩnh vực phụ trách; cải tiến việc phân định, phân cấp trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp mạnh hơn nữa cho địa phương kết hợp với quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Chính phủ khẩn trương hoàn thiện hợp lý cơ cấu tổ chức bộ máy của mình theo hướng quản lý vĩ mô và mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; từng bước sắp xếp, tổ chức lại các bộ, ngành ở trung ương, bảo đảm tinh gọn, hợp lý và được hiện đại hóa.
Tiếp tục quán triệt chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước một cách sâu rộng, toàn diện, đồng bộ từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Tập trung cải cách thể chế hành chính; cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa các thủ tục trong các lĩnh vực có tác động trực tiếp tới đời sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân; loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết; công khai các quy định, thủ tục hành chính; triển khai trong các cấp hành chính của cả nước thực hiện cơ chế "một cửa"; chấn chỉnh việc ban hành các thủ tục hành chính và quy định lệ phí, bảo đảm chặt chẽ; nâng cao chất lượng giải quyết các khiếu kiện của nhân dân; chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính; cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu chuyên nghiệp hóa, nâng cao chất lượng cả về phẩm chất và năng lực, kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, tham nhũng, thoái hóa, biến chất và các tiêu cực khác trong hệ thống hành chính; loại bỏ cán bộ, công chức kém phẩm chất và năng lực ra khỏi bộ máy hành chính nhà nước. Thực hiện cơ chế bãi miễn những người không xứng đáng. Có những giải pháp đồng bộ để khắc phục cho được thái độ vô trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Đó là thái độ làm việc thụ động, né tránh khó khăn, sợ va chạm, cốt sao giữ yên được vị trí trong cơ quan nhà nước. Kiên quyết xóa bỏ mọi rào cản đối với công cuộc cải cách hành chính. - Xác định Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong một thể thống nhất của chính quyền địa phương. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu đại diện cho nhân dân địa phương, hoạt động mang tính tự quản, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. - Đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp để xây dựng một nền tư pháp Việt Nam vững mạnh, minh bạch, bảo đảm công lý, công bằng, dân chủ, tận tụy phục vụ nhân dân. Phải xuất phát từ mục tiêu lấy tổ chức và hoạt động của tòa án làm trung tâm của cải cách tư pháp. Thực hiện việc tổ chức tòa án theo cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm); không tổ chức tòa án gắn với đơn vị hành chính; xây dựng hệ thống tòa án theo hướng: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực để xét xử phúc thẩm các vụ án mà Tòa án cấp tỉnh đã xét xử sơ thẩm mà có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án Nhân dân tối cao có nhiệm vụ xét xử các vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và làm nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, ban hành án lệ. Viện Kiểm sát thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp cần được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa án. Nghiên cứu thành lập Viện Công tố thuộc Chính phủ và tiến tới thực hiện cơ chế: cơ quan công tố chỉ đạo, chỉ huy điều tra. Chính quy hóa lực lượng điều tra, nghiên cứu tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, có thể thành hệ thống cơ quan độc lập thuộc Chính phủ hoặc thuộc hệ thống cơ quan công tố. Đổi mới công tác thi hành án theo hướng tập trung thống nhất quản lý vào một đầu mối (Bộ Tư pháp). Nghiên cứu thành lập Tòa án Hiến pháp (hoặc Ủy ban bảo hiến) với chức năng bảo vệ Hiến pháp bằng thẩm quyền xét xử để ra phán quyết về sự vi phạm Hiến pháp của các văn bản quy phạm pháp luật, xét xử các quyết định, hành vi vi phạm Hiến pháp của cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước và làm nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, luật pháp (trong điều kiện còn ban hành pháp lệnh thì giải thích cả pháp lệnh). 4 - Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng việc định hướng về tổ chức bộ máy nhà nước, lựa chọn, giới thiệu cán bộ để giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước, lãnh đạo cơ quan nhà nước thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật; tăng cường quản lý và kiểm tra tổ
chức đảng, cán bộ, đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy được tính chủ động, năng động và tự chịu trách nhiệm của những người đứng đầu của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Như vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình tương đối lâu dài với những bước đi vững chắc gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.