Hochiminh

  • November 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Hochiminh as PDF for free.

More details

  • Words: 3,359
  • Pages: 12
NHỮNG PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

I. “Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản. Tinh thần trong suốt như pha lê, rắn chắc như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin tưởng. Người cộng sản rất yêu cuộc sống nhưng khi cần có thể nhẹ như lông hồng mà chết được.” Hoàng Văn Thụ Bất giác mình đọc khẽ: “ Bây giờ trời biển mênh mông Bác ơi có thấu tấm lòng trẻ thơ”… Không, mình không còn thơ dại nữa mình đã lớn đã dày dạn trong gian khổ những lúc này đây sao mình cảm thấy thèm khát đến vô cùng bàn tay chăm sóc của một người mẹ mà thật ra bàn tay của một người thân hay tệ hơn chỉ là một người quen cũng được, hãy đến với mình, nắm chặt bàn tay mình trong lúc cô đơn, truyền cho mình tình thương, sức mạnh để vượt qua những chặng đường gian khổ trước mắt. *

*

*

Những dòng trên được trích ở đầu và cuối của Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, người viết đã đi từ những tâm tư sâu kín của một cá nhân cụ thể:

II. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh những khái niệm “dân” và “nhân dân” có nội hàm rất rộng, vừa là một tập hợp đông đảo gắn kết, vừa là mỗi cá nhân cụ thể - đó là “mọi con dân nước Việt” , “con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, già trẻ, gái trai, giàu nghèo, trừ bọn Việt gian. Như vậy có thể suy rộng ra cho khái niệm “con người”. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta, là sự kết tinh tinh hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời đại mà mục tiêu hướng tới là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Một cách cụ thể hơn mục tiêu ấy là “độc lập - tự do” và “hạnh phúc”. Hạnh phúc có thể hiểu giản đơn là cảm xúc vui sướng của con người khi được thoả mãn nhu cầu và lợi ích. “Cảm xúc” – luôn gắn với một cá nhân cụ thể. Nên nói đến “hạnh phúc” hay “ý thức” - trước hết phải nhìn nhận ở cá nhân cụ thể - trong một hoàn cảnh không gian và lịch sử cụ thể. Quan tâm đến nhu cầu, lợi ích, hạnh phúc của mỗi cá nhân cụ thể luôn là động lực của tiến bộ xã hội. Con người sinh ra được bú ẵm, dạy đi, dạy nói, dạy đọc, dạy viết, dạy nghề... Khái quát hơn, đó là sự yêu thương, chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Dường như ở mỗi người đều nhận được trước khi có ý thức cho đi – ý thức về “nghĩa vụ” đối với mọi người.

Nghĩa vụ là nhận thức và tình cảm của mỗi cá nhân biết đem nhu cầu và lợi ích của mình kết hợp hài hoà và tôn trọng lợi ích của người khác, của toàn xã hội; khi cần thiết biết đem nhu cầu và lợi ích của mình phục vụ nhu cầu, lợi ích của người khác, của toàn xã hội. Một con người có ba mặt cơ bản: nhận thức, tình cảm, hoạt động – khi ba mặt ấy thoả mãn được “nghĩa vụ” - ấy là khi có thể nói người ấy là “ĐẠO ĐỨC”. III. Môi trường xã hội của con người được hình thành từ sự phát triển của lao động và sản xuất – tác động lịch sử đến đất, nước, núi, sông, trời, biển, đảo. Trong môi trường đó có chế độ chính trị và quan hệ xã hội; có tiếng nói, chữ viết, có phong tục, tập quán, có tôn giáo và nền văn hoá lâu đời. Môi trường này có tên là “Đất nước”, gọi một cách thiêng liêng trìu mến là “Tổ quốc”. Lòng yêu nước là một tình cảm tự nhiên đã có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Nó được lớn dần lên cùng sự mở rộng quan hệ của con người với môi trường xã hội. Qua nhiều thế hệ, lòng yêu nước được kết tinh, được kế thừa và nâng cao lên mãi. Lòng yêu nước là nhận thức và tình cảm đạo đức biểu hiện ở xu hướng muốn đem toàn bộ hoạt động của mình phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Lòng yêu nước bắt nguồn từ đâu? Từ tình yêu cha, mẹ, anh, chị em, họ hàng và những người xung quanh. Lòng yêu nước cũng bắt nguồn từ tình yêu quê hương. Quê hương lúc đầu là thôn xóm, làng xã, huyện tỉnh – nơi sinh ra mình, nơi gắn bó những kỉ niệm ấu thơ, những vật, những điều gần gũi. Từ tình yêu người thân, yêu người xung quanh và yêu quê hương, mỗi người dần tiến đến tình yêu đất nước, yêu nhân dân.

Chủ nghĩa yêu nước chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Khi nói đến lòng yêu nước, ta nói đến ý thức và tình cảm đạo đức. Nhưng khi nói đến chủ nghĩa yêu nước, ta nói đến một phạm vi rộng lớn hơn, là nguyên tắc đạo đức và chính trị, là tình cảm đạo đức và lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của dân tộc, là ý chí bảo vệ và cống hiến cho những lợi ích của Tổ quốc. Đất nước Việt Nam ở vào một vị trí địa lý đặc biệt. Con người Việt Nam sớm đã giao lưu với nhiều dòng văn hoá, sớm giáp mặt với nhiều loại kẻ thù. Nhiều thế hệ Việt Nam đã đứng lên, kiên cường cải tạo thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một sản phẩm của tự nhiên và lịch sử. Tinh thần dựng nước và giữ nước đã được nhân dân thần thoại hoá với những biểu tượng đẹp như “Sơn Tinh”, “Thánh Gióng”. Và những con người thực có công với nước với dân như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... được khắp các làng xã, địa phương thần hoá, lập đền thờ cúng, đời đời biết ơn, ngưỡng mộ. Người Việt Nam yêu nước, gắn chặt vận mệnh cá nhân với vận mệnh đất nước. Ở người Việt Nam, yêu nước là tư tưởng, tình cảm thiêng liêng, cao quí nhất. IV. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh – đó là : Trung với nước, hiếu với dân; Yêu thương con người; Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; Tinh thần quốc tế trong sáng. Những phẩm chất đạo đức này thống nhất trong đạo đức mỗi con người.

1. Trung với nước, hiếu với dân: Nếu như lòng yêu nước là nhận thức và tình cảm đạo đức thì “trung với nước, hiếu với dân” là hành vi đạo đức. Nhận thức, tình cảm đạo đức là cơ sở của hành vi đạo đức. Với người cách mạng, đây là phẩm chất, là chuẩn mực hàng đầu. Dưới thời phong kiến, trung là với vua, hiếu là với cha mẹ. Hồ Chí Minh bàn đến “trung” và “hiếu” cũng với ý nghĩa là bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm của con người nhưng đã gạt bỏ nội hàm hạn hẹp của quan niệm cũ, gạt bỏ những hạn chế trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo và đưa vào những nội dung đạo đức mới. Cụ thể, “trung với nước, hiếu với dân” là: Phải đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc lên trên hết; phải quyết tâm đấu tranh cho sự phồn vinh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân; phải tin tưởng ở sức mạnh ở quần chúng nhân dân, khẳng định và tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền dân chủ; phải gương mẫu và hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước... 2. Yêu thương con người: Hồ Chí Minh vừa là con người của tư tưởng, vừa là con người của hoạt động thực tiễn. Lòng yêu thương con người của Bác vừa bao la biển trời, lại vừa gần gũi với từng số phận con người. Lòng yêu thương con người, lòng nhân ái, sự cảm thông, chia sẻ - mỗi con người chúng ta đều hơn một lần cảm nhận được. Mỗi người sống trong xã hội ai cũng hướng tới hạnh phúc, hướng tới những điều tốt đẹp. Điều thực sự đáng sợ là khi ta không thể cảm thông, chia sẻ đối với người khác. Bởi cuộc sống đâu chỉ toàn

những điều vui. Như thế yêu thương là hạnh phúc của con người. Lòng thương yêu con người là cơ sở của những hành vi xã hội đẹp. Yêu thương con người là bản chất của nhân dân lao động, là nét đẹp của chủ nghĩa xã hội. 3. Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư: Hồ Chí Minh đề cập đến “cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư” một cách thường xuyên. Vì đó là ý thức và hành vi đạo đức của mỗi người với chính mình, với công việc. Đó là vấn đề hàng ngày hàng giờ và suốt quá trình đấu tranh cách mạng. Đó là biểu hiện và minh chứng cho phẩm chất đạo đức “trung với nước, hiếu với dân”. - Cần kiệm: “Cần” yêu cầu con người có ý thức và hành vi lao động nghiêm túc, đạt năng suất cao; làm tốt công việc mà xã hội đã giao phó; không lười biếng; không gian dối, lừa đảo. “Kiệm” yêu cầu tiêu dùng đúng mức, phù hợp với khả năng tài chính và vật chất mà con người có được, không xa hoa, lãng phí; “kiệm” cũng không có nghĩa là bủn xỉn, “vắt cổ chày ra nước” dẫn đến những hạn chế trong công việc và đời sống. - Liêm chính: Liêm: Nói đến “liêm” là nói đến sự trong sạch trong đạo đức. Với người dân bình thường, “liêm” yêu cầu không gian dối, trộm cắp. Đối với những người làm chức việc cho nhà nước thì “liêm” nghĩa là không tham ô, tham nhũng. Chính: là nói đến sự ngay thẳng, trung thực chính mình và với người khác. Mình có chính trực thì mới yêu cầu người khác chính trực được. - Chí công vô tư: đó là hết lòng vì công việc, vì sự công bằng, không thiên vị, không chạy theo lợi ích cá nhân mà phải đặt lợi ích

của Tổ quốc, của nhân dân, của tập thể lên trước. Chí công vô tư đòi hỏi hết sức tránh những sai phạm có liên quan đến tình cảm thân quen, sự ban ơn trả nghĩa, hối lộ đút lót... Hồ Chí Minh cho rằng giữa các khái niệm “cần” - “kiệm” – “liêm” – “chính” – “chí công” – “vô tư” có sự liên hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Đó là phẩm chất đạo đức của mỗi người. Và đặc biệt quan trọng với Đảng viên, với cán bộ, quan chức Nhà nước, bởi trong công cuộc cách mạng, trong quá trình thực hiện các chủ trương chính sách, các dự án kinh tế, nếu thiếu “cần”- “kiệm”“liêm”- “chính”- “chí công”- “vô tư” họ sẽ thành hủ bại, sâu mọt đục khoét của nhân dân. Thực tế ngày nay, chủ nghĩa cá nhân, thói quan liêu, hoang phí, nạn tham ô, tham nhũng hết sức trầm trọng thực sự là nguy cơ lớn đối với công cuộc cách mạng của ta, đòi hỏi sự đấu tranh phải quyết liệt. 4. Tinh thần quốc tế trong sáng: Thế giới chúng ta đang sống gồm nhiều quốc gia. Bên cạnh những mối quan hệ trong nội bộ quốc gia, luôn tồn tại các mối quan hệ giữa các quốc gia. Nếu những quan hệ quốc gia và lòng nhân ái giữa người trong nước với nhau làm nảy sinh lòng yêu nước thì những quan hệ quốc tế và lòng nhân ái giữa người nước này với nguời nước khác là nền tảng nảy sinh tinh thần quốc tế. Khi nói “tinh thần quốc tế”, ta nói đến ý thức và tình cảm đạo đức cao đẹp. Khi nói “chủ nghĩa quốc tế”, ta nói đến nguyên tắc cơ bản của hệ tư tưởng giai cấp công nhân các nước – đoàn kết đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. “Chủ nghĩa quốc tế” đối lập với “chủ nghĩa dân tộc” - một trong những nguyên tắc của hệ tư tưởng tư sản - đề cao quyền lợi vị kỉ dân tộc, quốc gia mình, chà đạp lên các dân tộc, quốc gia khác. Dưới góc độ đạo đức, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “ Trên thế giới này chỉ có hai giống người: bóc lột và bị bóc lột. Những người

bị bóc lột dù màu da, tiếng nói, chúng tộc có khác nhau vẫn có thể thương yêu nhau như anh em một nhà, vẫn có thể đại đoàn kết, đại hoà hợp. Trên thế giới chỉ có tình hữu ái thực sự là tình hữu ái vô sản”. Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến vấn đề đoàn kết với nhân dân tiến bộ toàn thế giới, với giai cấp công nhân thế giới, với các dân tộc bị áp bức. Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới; coi việc ủng hộ và giúp đỡ cách mạng thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội là bổn phận, nghĩa vụ của người cách mạng. Trong công cuộc cách mạng ngày nay, quan điểm của Đảng và nhân dân ta là: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới trên tinh thần tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, bình đẳng hợp tác cùng có lợi. V. Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiến sĩ cộng sản, là người Việt Nam đẹp nhất. Người được toàn thể người dân Việt và bạn bè trên thế giới yêu kính. Người là linh hồn của hai cuộc kháng chiến, của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là sự kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, những giá trị đạo đức Đông Tây, những giá trị đạo đức tiến bộ từ chủ nghĩa Mac – Lenin và thực tiễn cách mạng nhân loại. Người cũng là một tấm gương thực hành đạo đức tuyệt vời. Ngày nay chúng ta nêu cao sống, học tập và làm việc theo gương Bác Hồ vĩ đại.

VI. Đất nước ta đã độc lập, thống nhất hơn ba mươi năm, thực hiện đổi mới toàn diện hơn hai mươi năm. Thông qua đổi mới, trọng tâm là đổi mới về kinh tế, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Song chặng đường trước mắt còn vô vàn những khó khăn, thử thách. Ta: Thuở ấu thơ sống trong sự đùm bọc, yêu thương, chăm sóc. Những kỉ niệm ấu thơ thật khó phai theo suốt đời người. Thời thanh niên đi qua những bước ngoặt quan trọng của đời người: một tư cách công dân đầy đủ, sức trẻ và lý tưởng, hoài bão, Đảng và Đại học, yêu đương và gia đình, công việc và trách nhiệm... Trung niên là khi chín chắn, vững vàng gánh vác nhiều trọng trách. Và tuổi già được nghỉ ngơi, chăm sóc, kính trọng. Đời người thật mong manh, ta phải sống mỗi ngày sao cho ý nghĩa!? Con người là sản phẩm của thời đại, thế hệ sau có sự kế thừa đối với các thế hệ trước. Ở phần đầu, người viết đã trích dẫn những dòng nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, đó là là những suy cảm của một thanh niên thời chiến nhưng cũng mang tâm hồn cả dân tộc. Đó là những năm tháng “lãng mạn cách mạng”. Một thời đại hào hùng, thời đại Hồ Chí Minh. Họ đã giành được độc lập, tự do cho dân tộc. Họ yêu cầu thế hệ sau phải sống cho xứng đáng. Trong nhật ký Đặng Thuỳ Trâm dường như trang viết nào cũng buồn. Rất kỳ lạ: niềm lạc quan chiến đấu và niềm tin vững vàng kiên định vào chiến thắng lại toát nên từ chính những dòng đầy sự đa sầu, đa cảm đó. Vì sao chúng ta là những người chiến thắng qua cuộc chiến vô cùng khốc liệt : vì chúng ta đều là những con người đa cảm, đa sầu. Những con người rất người.

Cuốn nhật ký nhỏ của Thuỳ Trâm còn quý giá và có sức hấp dẫn ở khía cạnh: nó rất đời, nói về tất cả với một sự chân thật đến thắt lòng. Một con người đòi hỏi cao về đạo đức, về tình yêu, về lòng yêu Tổ quốc; rất nhân hậu, rất rộng lòng mà cũng đầy tự ái, dễ bị tổn thương. Có lẽ đây là “chất lửa”, gây xúc động từ sâu thẳm tâm hồn, có sức cảm hoá lớn, khiến cho cả những con người bên kia chiến tuyến phải sửng sốt, trân trọng. Con người của chúng ta ngày ấy, những người con trai con gái của chúng ta ngày ấy là như vậy đấy. Ngọn lửa chiến tranh vừa thiêu đốt quê hương, vừa chiếu rọi những góc đẹp sâu kín mà phong phú đến không ngờ trong con người. Những góc đẹp tuyệt vời mà có thể trong chen chúc đời sống ngày nay, chúng ta lỡ để cho vùi lấp mất rồi. Cuốn nhật ký nhỏ của một cô gái nhẹ nhàng mà nghiêm khắc nhắc chúng ta về những giá trị tâm hồn, những giá trị đạo đức. Trong xây dựng đất nước, trong nền kinh tế thị trường, con người chạy theo những giá trị vật chất. Những giá trị đạo đức, tinh thần ít nhiều bị tổn thương. Phải đồng thời coi trọng động lực vật chất và tinh thần đối với sự phát triển con người và xã hội. Bồi dưỡng, phát triển toàn diện con người thì trong đó đạo đức, tinh thần chiếm một vị trí quan trọng, to lớn. Kinh tế học có khái niệm “tư bản xã hội” – đó là sự thừa nhận vai trò của những giá trị truyền thống, những giá trị đạo đức, tinh thần. Gìn giữ, phát huy những giá trị ấy là kỳ vọng của tiền nhân, cũng là nhiệm vụ của chúng ta ngày nay. Bài viết này xin được kết thúc bằng những dòng cuối cùng của cuốn nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc – như một sự tri ân đối với thế hệ đi trước.

Ừ, nếu như tôi không trở lại, ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau này? Tôi chỉ có ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn những dòng sôi nổi và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này./ .................

Related Documents

Hochiminh
November 2019 8
Vo Hochiminh
November 2019 7
La Balada De Hochiminh
November 2019 4