De 10

  • November 2019
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View De 10 as PDF for free.

More details

  • Words: 8,760
  • Pages: 17
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước Trong số các nguồn lực cần thiết cho sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, vai trò quyết định của nguồn nhân lực chất lượng cao chỉ trở thành hiện thực khi người lao động được đào tạo để có năng lực và phẩm chất Để làm chủ thiết bị công nghệ hiện đại, cần nhân cần thiết đáp ứng được những yêu cầu mà quá trình công lực có trình độ cao nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra hiện nay và cả tương lai. Nghị quyết Đại hội lần thứ 10 của Đảng nhấn mạnh: Đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bác Hồ từng dạy: con người nếu chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, mà thiếu tri thức, kiến thức khoa học, tức có đức mà không có tài, thì cũng chẳng khác gì ông Bụt ngồi trên toà sen, không làm điều gì xấu nhưng cũng chẳng làm được việc gì có ích cho đời. Tri thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết yếu của mỗi con người, bởi vì, tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều phải thông qua đầu óc của họ - tức là phải thông qua trí tuệ. Sự yếu kém về trí tuệ sẽ là lực cản nguy hại nhất dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của con người. Năng lực trí tuệ của con người hiện nay biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, sự nhạy bén, thích nghi nhanh và làm chủ được những kỹ thuật – công nghệ hiện đại; khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp, nghĩa là, kỹ năng lao động giỏi thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn nghề nghiệp,... Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng đi vào chiều sâu càng đòi hỏi trình độ chuyên môn hoá cao của đội ngũ lao động nhằm đạt được năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn hơn nhiều lần. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, người lao động còn phải biết chủ động hội nhập quốc tế. Khác với toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế là hành động chủ quan, có chủ đích của con người nhằm khai thác nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh của đất nước mình. Hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh với thế giới bên ngoài; hội nhập nhưng không hoà tan, vẫn bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc mình và nhất là bảo vệ được nền độc lập dân tộc. Trong điều kiện như vậy, người lao động ngoài bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức dân tộc cao, còn phải có trình độ trí tuệ ngang tầm đòi hỏi ít ra là của khu vực. Điều này đòi hỏi phải cơ cấu lại đội ngũ lao động theo hướng có lực lượng nòng cốt, lực lượng dẫn đầu và nhân tài. Lực lượng nòng cốt của đội ngũ lao động là những công nhân lành nghề – những người trực tiếp sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng cả ở trong nước và nước ngoài. Do đó, họ phải có một trình độ trí tuệ nhất định để tiếp thu và làm chủ được công nghệ tiên tiến. Hơn thế nữa, với những tri thức khoa học và những kinh nghiệm tích luỹ được trong quá trình sản xuất trực tiếp, người công nhân không những sử dụng các công cụ lao động hiện có, mà còn có thể sáng chế ra những tư liệu lao động mới, hoàn thiện kỹ thuật và phương pháp sản xuất. Lực lượng lao động dẫn đầu là đội ngũ trí thức. Với cơ cấu đồng bộ trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ, quản lý kinh tế – xã hội, văn hoá văn nghệ, ... Họ phải thành thạo chuyên môn, nghề nghiệp, có năng lực tiếp thu, chọn lọc và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa học – công nghệ hiện đại, những tinh hoa của văn hoá, văn minh thế giới, những di sản văn hoá dân tộc và văn hoá phương Đông vào thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, họ phải có năng lực sáng tạo về lý thuyết cũng như thực hành, nhằm giải quyết những vấn đề trước mắt cũng như lâu dài của đất nước. Đội ngũ trí thức phải thực hiện có hiệu quả các chức năng: nghiên cứu, thiết kế, tham mưu, sáng tác; thực hiện, thi hành, ứng dụng, phát triển; giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện; quản lý, chỉ huy, lãnh đạo, chỉ đạo... Bộ phận nhân tài có vai trò thực sự quan trọng trong đội ngũ lao động. Bộ phận này là hạt nhân có chất lượng cao, có năng lực khai phá những con đường mới mẻ trong nghiên cứu khoa học để đạt được những thành tựu mới, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lượng của đội ngũ này không nhất thiết phải đông, nhưng thực sự là đội ngũ các nhà khoa học đầu đàn, tiêu biểu cho tinh thần trí tuệ của dân tộc. Một yếu tố không thể thiếu đối với nguồn nhân lực chất lượng cao là sức khoẻ. Sức khoẻ ngày nay không chỉ được hiểu là tình trạng không có bệnh tật, mà còn là sự hoàn thiện về mặt thể chất lẫn tinh thần. Mọi người lao động, dù lao động cơ bắp hay lao động trí óc đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Hơn nữa cần phải có sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, niềm tin và ý chí, khả năng vận động của trí lực trong những điều kiện khác nhau hết sức khó khăn và khắc nghiệt. Nền sản xuất công nghiệp còn đòi hỏi ở người lao động hàng loạt năng lực cần thiết như: có kỷ luật tự

VẤN ĐỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CNXH

VẤN ĐỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CNXH Nhóm thuyết trình:… Nguồn lực con người luôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển ,muốn xây dựng thành công CNXH cần phát huy có hiệu quả nguồn lực con người của đất nước . I .Nguồn lực con người và vai trò của nó trong quá trình xây dựng CNXH 1. con người và nguồn lực con người a) Quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin về con người và con người XHCN *Quan niệm con người :con người là một thực thể tổng hợp của nhiều yếu tố trong đó: • Con :là thực thể tự nhiên ,sinh học . • Người :là thực thể xã hội Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì sự kết hợpgiữa hai thực thể đó tạo nên con người và đông thời cũng là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người trong quá trình tồn tại có sự tác động ,làm biến đổi tự nhiên và quan hệ với nhau tạo nên bản chất con người,là con người khác con vật ,bản chất con người là tổng hòa của

những quan hệ xã hội. Con người không thể tồn tại khi tách rời xã hội. *Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa Con người XHCN bao gồmcả những con người từ xã hội cũ và những con người sinh ra từ xã hội mới,vì vậy vẫn còn chịu ảnh hưỏng từ xã hội cũ.Cho nên quá trình xây dựng con người mới XHCN là cuộc đấu tranh gay go,quyết liệt giữa cái cũ và cái mới,cái tiến bộ và lạc hậu. Con người XHCN vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng CNXH ,vừa là sản phẩm của quá trình đó. Trong lao động sàn xuất ,đấu tranh xã hội,con người tạo ra những điều kiện cơ sở vật chất ngày một tốt hơn,phục vụ cho đời sống ngày nay.Và cũng chính trong quá trình cải tạo tự nhiên-xã hội mà con người cải tạo chính bản thân mình. Khi con người hình thành những phẩm chất tốt đẹp hướng theo mục tiêu XHCN thì họ sẽ trở thành chủ thể tự giác để phát triển xã hội theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin ,tiếp thu truyền thống dân tộc,căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,những đặc trưng con người XHCN mà chúng ta phấn đấu xây dựng là: • Con người XHCN là con người có ý thức ,trình độ và năng lực làm chủ. • Con người XHCN là con người lao động mới ,có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc. • Con người XHCN là con người sống có văn hóa,tôn trọng các giá trị nhân văn,có tinh thần cầu tiến . • Con người XHCN là con người giáu lòng yêu nước ,thương dân,có ý thức bảo vệ tính bền vững của chế độ XHCN. b) Nguồn lực con người Trong các nguồn lực có thể khai thác thì nguồn lực con người là quyết định nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy.Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt ,ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng ,phong phú và có khả năng nội sinh không bao giờ cạn.Ngược lại nguồn lực con người càng được sử dụng ,lại càng được nâng cao chất lượng và hiệu quả. Các lĩnh vực khoa học khác nhau,có thể hiểu nguồn lực theo những cách khác nhau,nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố mà mỗi nhân tố đó có vai trò riêng nhưng có mối quan hệ với nhau tạo nên sự phát triển của một sự vật ,hiện tượng nào đó . Từ cách hiểu như vậy ,nguồn lực con người là những yếu tố ở trong con người có thể huy động ,sử dụng để thúc đẩy sự

phát triển xã hội. Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn lực con người.Chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất ,tinh thần ,đạo đức ,phẩm chất,trình độ tri thức ,vị thế xã hội …tạo nên năng lực của con người ,của cộng đồng người có thể sự dụng,phát huy trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội. Số lượng nguồn lực con người được xác định trên quy mô dân số ,cơ cấu độ tuổi,giới tính,sự phân bố dân cư.Chất lượng nguồn lực con người là một khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về thể lực,trí lực,tay nghề,năng lực quản lý ,phẩm chất đạo đức,ý thức trach nhiệm với bản thân ,gia đình ,xã hội và đất nước .Trong đó phâm chất đạo đức và trình độ học vấn là quan trọng nhất.Số lượng và chất lượng nguồn lực con người có quan hệ với nhau một cách chặt chẽ Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người có chất lượng cao.Muốn thực hiện được điều đó cần có sự quan tâm ngay trong quá trình đào tạo,quá trình sử dụng và phân công lao độngxã hội. 2.Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh đã khẳng định :”Muốn xây dựng CNXH,trước hết cần có những con người XHCN”.Để làm rõ quan điểm trên,chúng ta tiến hành nghiên cứu vai trò nguồn lực con người trong các lĩnh vực :kinh tế,chính trị,văn hóa và xã hội. a) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế Trong bất cứ xã hội nao,người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất.V.I.Lênin đã chỉ ra:”Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân ,là người lao động”. Con người khi được làm chủ tư liệu sản xuất,được đào tạo một cách chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng kinh tế.Ngày nay vai trò người quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng ,do vậy, các quốc gia thường rất quan tâm tới đào tạo,bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Trong quá trình xây dựng CNXH,người lao động đã trở thành người làm chủ đất nước,làm chủ quá trình tổ chức quản lý sản xuất.Điều đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con người ,phát triển kinh tế-xã hôi nhanh và bền vững ,làm cho đất nước ngày càng giàu đẹp. b) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng

nhà nước chuyên chính vô sản,Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý rằng,nước ta phải đi đến dân chủ thực sự,”Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội,để nâng cao đời sống của nhân dân,thực hiện dân chủ thực sự” Cán bộ nhà nước có hiểu biết lý luận ,hiểu biết thực tiễn ,thấy được trách nhiệm của mình đối với nhân dân ,sẽ hết lòng phụng sự và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Cán bộ nhà nước tích cực tuyên truyền đường lối của đảng,kết hợp với việc người dân chủ động tích cực thực hiện đường lối đó sẽ làm tăng sức mạnh của nhà nước XHCN. Nói về vai trò quân chúng tham gia công việc của Nhà nước,Hồ Chí Minh đã viết:khi người dân”…biết hưởng quyền dân chủ,biết dùng quyền dân chủ của mỉnh dám nói ,dám làm”,”thì việc khó khăn mấy họ cũng lam được,hy sinh mấy họ cũng không sợ”. Có thể khẳng định ,nguồn lực con người là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nhà nước XHCN,nhà nước của dân,do dân,vì dân;Trong quá trình đấu tranh bảo vệ những thành quả cách mạng,bảo vệ chế độ XHCN;đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. c) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa Nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong đời sống văn hóa xã hội. Quần chúng lao động là những người góp phân xây dựng nên những công trình văn hóa ,những người sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật. Một khi con người có tri thức ,có hiểu biết vầ các hình thức nghệ thuật,sẽ tham gia sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao. Con người có văn hóa cũng là những người có nghĩa vụ bảo tốn di sản văn hóa của đất nước ,của nhân loại. Trình độ tri thức của mỗi người về văn hóa là tiền đề cho họ tiếp nhận những giá trị tốt đẹp của dân tộc khác,loại bỏ những yếu tố không phù hợp để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc mình,làm phong phú đời sống tinh thần cá nhân. Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đào tạo,bồi dưỡng đội ngũ tri thức ,tạo điều kiện tốt cho họ cống hiến hết khả năng trí tuệ cho đất nước ,cho sự phát triển của xã hội. d) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội Những vấn đề xã hội bao gồm:Vấn đề lao động việc làm,thực hiện công bằng xã hội,xóa đói –giảm nghèo…muốn giải quyết tốt những vấn đề này,đòi hỏi chúng ta phải phát huy tốt vai trò nguồn lực con người. Muốn giải quyết tốt vấn đề lao động việc làm ,đòi hỏi chúng

ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người từ nâng cao sức khỏe,trình độ học vấn ,tay nghề ,năng lực quản lý,tới ý thức chính trị cho người lao động. Chính sách xóa đói giảm nghèo là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.Chính sách này chỉ phát huy hiệu quả khi chính những người nghèo thấy được trách nhiệm của mình để nỗ lực phấn đấu vươn lên. Như vậy con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất ,mà còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội.Sự phối hợp giữa các thành viên trong cộng đồng sẽ tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát huy nguồn lực con người để nhận thức ,cải tạo tự nhiên và xã hội. Hiệu quả việc phát huy nguồn lực con người tùy thuộc vào chế độ xã hội,cơ chế và chính sách của xã hội. Nguồn lực con người không khai thác ,không phát huy được là lãng phí lớn nhất.Nước ta đang còn là một nước nghèo,kinh tế kém phát triển,thì việc phát huy nguồn lực con người để xây dựng đất nước càng trở nên quan trọng. II .Phát huy nguồn lực con người Việt Nam: @Thực trạng: Ở Việt Nam , phát triển con người cũng đã được biết tới từ lâu như là một khái niệm rất cơ bản trong "Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản" (1848) nổi tiếng. Ở đây trình bày thành tựu phát triển con người theo nội hàm và cách lượng hóa chung của thế giới: Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống dài lâu, khỏe mạnh và sáng tạo. Vào thập niên 80 của thế kỷ 20, Chương trình phát triển LHQ (UNDP) đã đưa khái niệm này làm tiêu chí phát triển của từng nước hay vùng lãnh thổ, và quan trọng hơn là đã xác định cụ thể hệ tiêu chí và đưa ra cách tính toán rất chính xác từng tiêu chí, để đánh giá và xếp hạng trình độ phát triển của các nước trong LHQ theo hệ tiêu chí phát triển con người (tiếng Anh viết tắt là HDI) gồm một tiêu chí về thu nhập quốc dân đầu người (GDP/đầu người) và 2 tiêu chí về năng lực con người (giáo dục và sức khỏe), nhấn mạnh ý tưởng coi con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục tiêu của sự phát triển, phê phán những quan điểm phiến diện, như chú trọng phát triển, nhưng vô tình hoặc cố ý "bỏ quên" con người, nhìn con người chỉ như là công cụ, là phương tiện của sự phát triển, v.v. Từ năm 1990 đến nay, UNDP hằng năm công bố báo cáo phát triển con người. Báo cáo của Việt Nam được xuất bản năm 2001, với chủ đề Ðổi mới vì sự nghiệp phát triển con người,

đã được đánh giá cao, được UNDP bình chọn tặng thưởng vào năm 2006. . Tiêu chí đánh giá của nước ta : Từ đó HDI đã trở thành công cụ xác định chiến lược phát triển của các quốc gia, thước đo đánh giá trình độ phát triển hằng năm trên thế giới - đây thật sự là một thành quả cực kỳ to lớn của chủ nghĩa nhân văn trong thời đại mới. Ðại hội IX (2001) Ðảng ta đã đưa HDI thành chỉ tiêu quốc gia. Các chỉ số HDI cơ bản được mang giá trị từ 0 đến 1; chỉ số giáo dục được coi là có giá trị bằng 1, khi 100% số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết; bằng 0, khi 0% số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết. Chỉ số tuổi thọ được coi là có giá trị bằng 1, khi tuổi thọ bình quân là 85 tuổi; bằng 0, khi tuổi thọ bình quân chỉ đạt 25 tuổi. Chỉ số kinh tế được coi là có giá trị bằng 1, khi GDP bình quân đầu người đạt 40.000 USD (tính theo PPP - giá trị sức mua của đồng tiền); bằng 0, khi GDP bình quân đầu người chỉ đạt 100 USD (tính theo PPP). TRONG 15 năm qua, HDI của Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể, nói lên thành tựu to lớn và quan trọng của đường lối đổi mới (xem bảng 1) . Bảng số liệu : HDI của Việt Nam Năm Chỉ số Thứ bậc so Chỉ số HDI với các nước giáo dục tham gia xếp hạng 1990 0,608 74/130 nước 1995 0,539 120/174 nước 0,78 2000 0,671 108/174 nước 0,83 2004 0,691 112/177 nước 0,82 2005 0,704 108/177 nước 0,82 Nguồn: Báo cáo phát triển của UNDP công bố hằng năm . So sánh chỉ số GDP với các nước khác : Ðiều đáng lưu ý là nhiều nước có thu nhập quốc dân đầu người cao hơn Việt Nam, như In-đô-nê-xi-a (PPP, 2001: 2.940 USD/PPP Việt Nam, 2001: 2.070 USD), Ai Cập (PPP, 2001: 3.520 USD), Goa-tê-ma-la (PPP, 2001: 4.400 USD), Na-mi-bi-a (PPP, 2001: 7.120 USD), Ga-bông (PPP, 2001: 5.990 USD), thậm chí GDP trên đầu người rất cao như Nam Phi (PPP, 2001: 11.290 USD)... song do các chỉ số về tuổi thọ và giáo dục đều thấp, nên đã bị xếp ở thứ hạng thấp hơn Việt Nam về phát triển con người. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ 108/117 nước: GDP/đầu người từ 200 USD (1990) lên khoảng hơn 600 USD, tuổi thọ tăng từ 63 tuổi (1990) lên 71,5 tuổi (2005), trình độ học vấn tính theo số lớp trên đầu người tăng từ 3 - 4 lớp (trước 1990) lên 7 - 8 lớp.

. 8 mục tiêu của thiên niên kỷ :Các số liệu vừa dẫn ra đã cho thấy rõ sự cố gắng to lớn của Nhà nước cũng như nhân dân ta trong việc chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân, ngày càng quan tâm hơn tới lợi ích thiết thực của con người. Trước mắt cần có kế hoạch thật cụ thể thực hiện tốt tám Mục tiêu Thiên niên kỷ: 1- Xóa hết nghèo, đói; 2- Phổ cập trung học cơ sở và phổ cập trung học phổ thông; 3- Tăng cường bình đẳng giới và tăng cường khả năng của phụ nữ; 4Giảm tỷ lệ trẻ em chết yểu; 5- Cải thiện sức khỏe bà mẹ; 6Chống HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các bệnh khác; 7- Bảo đảm môi trường bền vững; 8- Phát triển đối tác toàn cầu vì phát triển. . Thực trạng ở nước ta :Chúng ta tiếp tục kiên định triển khai tư tưởng đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Trong các chỉ số HDI, chúng ta cũng tự thấy còn nhiều hạn chế, mức thu nhập trung bình đầu người còn thấp, mức sống nói chung còn nhiều điều chưa đạt yêu cầu, nhất là chất lượng sống còn nhiều đòi hỏi chưa được thỏa mãn; giáo dục còn biết bao vấn đề ngổn ngang; y tế (sức khỏe) cũng vậy, cả mạng lưới khám chữa bệnh lẫn trung tâm y tế chất lượng cao, đều rất xa so với yêu cầu của cuộc sống, môi trường sống có nhiều vấn đề chưa thể an tâm. Trong nhiều mặt, nhân cách con người nói chung có một số biểu hiện tiêu cực: xu thế chuyển từ "con người xã hội" sang "con người kinh tế" ở nhiều nơi ngày càng chiếm ưu thế, ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức từng người và đạo đức xã hội; "con người thực dụng" lấn át con người sống có lý tưởng, con người cá nhân chủ nghĩa trong nhiều trường hợp dễ được chấp nhận: chỉ có lợi ích cá nhân, sao nhãng lợi ích cộng đồng và xã hội, tác phong nông nghiệp còn phổ biến, tư duy còn nặng về cảm tính, cảm tình... Hiện trạng phát triển con người, dưới góc độ giá trị tinh thần lẫn giá trị vật chất, giá trị nhân cách đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách là phải trên cơ sở kế thừa, phát triển, làm sao xây dựng cho được hệ giá trị Việt Nam làm cơ sở cho chiến lược chung về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, cần có đủ chính sách cụ thể về giáo dục và y tế, về sử dụng người, nhất là chính sách dùng người tài - đầu tàu của nguồn nhân lực. Chỉ số phát triển trí tuệ (IQ) của chúng ta không thua kém các nước phát triển, vấn đề là sử dụng, trọng thị, chăm sóc sao có lợi nhất cho đất nước. Ðể thực hiện mục tiêu nâng vị thế của nước nhà trên thế giới

theo tiêu chí HDI lên mức trung bình trên thế giới, như Ðại hội IX Ðảng ta đã quyết định, được đông đảo nhân dân hưởng ứng, Ðảng và Nhà nước cùng toàn thể xã hội phải đầu tư vào phát triển con người nhiều hơn nữa, nhằm phát triển toàn diện (đức, trí, thể, mỹ, nghề) theo định hướng giá trị đúng, có lý tưởng độc lập dân tộc và XHCN, phát huy mọi tiềm năng và tài năng của con người, ai ai cũng được lao động tự do sáng tạo, coi trọng vai trò của từng cá nhân trong sự phát triển của cộng đồng và xã hội, động viên tính tích cực của từng người, làm cho mọi người đều năng động, phát huy sáng kiến, kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội, dân trí ngày càng cao, nhân tài nảy nở, dân khí đồng tâm, phấn chấn, vượt qua tình trạng kém phát triển, sánh vai với bạn bè năm châu bốn biển. Chú thix: GDP: Grross Domestic Product : Tổng sản phẩm nội địa là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ trong một khoảng thời gian nhất định , thường là một năm. Khi áp dụng cho phạm vi toàn quốc gia, nó còn được gọi là tổng sản phẩm quốc nội. Gần đây, trong các tài liệu thống kê mang tính nghiêm ngặt, thuật ngữ tiếng Anh National Gross Domestic Product- NGDP hay được dùng để chỉ tổng sản phẩm quốc nội, regional (hoặc provincial) gross domestic product hay dùng để chỉ tổng sản phẩm nội địa của địa phương. GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó.Đối với các đơn vị hành chính khác của Việt nam, thông thường ít khi dịch trực tiếp mà thường sử dụng từ viết tắt GDP hoặc tổng sản phẩm trong tỉnh/huyện v.v UNDP ::United Nations Development Programme: Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc HDI: Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc gia. Chỉ số này được phát triển bởi một kinh tế gia người Pakistan là Mahbub ul Haq vào năm 1990. 1. Phát huy nguồn lực con người Việt Nam trong những năm qua

a) Những kết quả đạt được Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945,những người Việt Nam đã từ địa vị những người mất nước,người nô lệ trở thành những người làm chủ đất nước.Nhà nước của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là nhà nước của dân,do dân ,vì dân. Những năm qua,kinh tế –xã hội Việt Nam ngày càng phát triển ,năng suất lao động ngày càng cao,đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời sống nhân dân,giúp cho việc chăm sóc con người ngày một tốt hơn. Việt Nam đã quan tâm tới giáo dục đào tạo,đã đưa tỷ lệ số người biết chữ từ 5% trước đây ,tới nay đã gần 90% dân số biết chữ.Nhà nước khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,tạo ra điều kiện thuận lợi để “cả nước trở thành một xã hội học tập”.(văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX). Việc chăm sóc sức khỏe cho các tầng lớp nhân dân đã được xã hội quan tâm.Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên nhiều so với trước đây .Thể lực của người Việt Nam đã được cải thiện hơn trước . Nhìn chung ,trong những năm qua,Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo tới việc bồi dưỡng nguồn nhân lực của đất nước cả sức khỏe ,tri thức,năng suất,phầm chất đạo đức ;thực hiện cải cách bộ máy Nhà nước về mọi mặt;tạo điều kiện cho mỗi người phát huy được khả năng của mình đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. b) Những hạn chế của việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam Hạn chế trong việc phát huy nguồn lực con người con người ở Việt Nam,trước hết chúng ta đề quá cao mặt xã hội ,nặng động viên tinh thần,nhẹ mặt tự nhiên,không quan tâm đúng mức đến chu cầu vật chất ,tài năng cá nhân chưa được coi trọng. Hai là ,có lúc chúng ta đề cao quá mức tính giai cấp ,coi nhẹ tính nhân loại,không chú ý kế thừc những giá trị truyền thống dân tộc,chưa làm theo đúng quy luật mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra.Sự hiểu biết về tinh hoa văn hóa trong nhiều người Việt Nam còn hạn chế.Điều đó gây ra những khó khăn trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay. Ba là ,tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước ,một bộ phận cán bộ tham nhũng,vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân;không ít kẻ cơ hội,hữu khuynh chui vào tổ chức đảng,cơ quan nhà nước gây ra những tác động xấu đang làm xói mòn lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước ta. Cơ cấu đào tạo giữa các ngành,các bậc học chưa hợp

lý,việc đào tạo và sử dụng cán bộ còn nhiều bất cập.Tình trạng thiếu việc làm trong một bộ phận thanh niên đang tạo sức ép lớn cho xã hội. Bốn là,sự kết hợp các nguồn lực ở nước ta còn nhiều hạn chế,hiệu quả khai thác đất đai ở nước ta còn thấp trong khi đó sức lao động còn dôi dư khá nhiều.Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn và một bộ phận người lao động ở thành phố gây ra sự lãng phí lớn về nguồn lực con người Năm là,năng lực lao động của người Việt Nam còn hạn chế.Tinh thần kỷ luật ,trách nhiệm chưa cao. *Những hạn chế trong việc xây dựng ,bồi dưỡng ,phát huy nguồn lực con người Việt nam trong thời gian qua do những nguyên nhân sau: Thứ nhất:Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH,việc chăm sóc đầy đủ ,đảm bảo những điều kiện cho con người phát triển toàn diện còn hạn chế. Thứ hai:Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh,hấu quả chiến tranhy còn để lại rất nặng nề đòi hỏi toàn đảng ,toàn dân phải tiếp tục khắc phục. Thứ ba:những ảnh hưởng của phong tục tập quán ,thói quen của người sản xuất nhỏ . Thứ tư:tư tưởng chủ quan nóng vội,muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội.Cơ chế hành chính bao cấp tạo nên tư tưởng trông chờ ỷ lại,sự thiếu dân chủ trong đời sống xã hội đã hạn chế phát triển tính năng động ,sáng tạo ,tính dám chịu trách nhiệm của con người Việt Nam. Thứ năm:Trong quá trình chuyển dang nền kinh tế thị trường ,mở rộng giao lưu quốc tế,một mặt cũng tạo ra những tác động tích cực ,nhưng mặt khác cũng tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực như :lối sống thực dụng,vì lợi má không ít người có thể làm mọi việc bất chấp đạo lý. Thứ sáu:Sự đầu tư cho giáo dục-đào tạo còn hạn chế “công tác quản lý giáo dục-đào tạo có những mặt yếu kém bất cập “(văn kiên Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII) trực tiếp ảnh hưởng tới việc phát huy nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay. Thứ bảy:những yếu kém trong quản lý nàh nước ,hệ thống luật pháp chưa đồng bộ. 2. Những phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay a) Những phương hướng Thứ nhất :Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa ,phát triển nền kinh tế đất nước.Công nghiệp hóa ,hiện đại hóa đất nước vừa là điều kiện để xây dựng ,bồi dưỡng phát

huy nguồn lực con người ,đồng thời đến lượt nó phát huy nguồn lực con người lại là yếu tố quyết định thắng lợi sự nghiệp cộng nhgiệp hòa ,hiện đại hóa đất nước . Thứ hai:Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh một hệ thớng chính sách xã hội phù hợp.Chính sách xq4 hội là một bộ phận hợp thành chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN .Chính sách xã hội thể hiện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế tới văn hóa ,giáo dục,chính sách lao động việc làm.Thực hiện tốt chính sách xã hội sẽ góp phấn to lớn phát triển kinh tế đất nước .Cần phải bảo đảm “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển “ (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII). Thứ ba :Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ XHCN.Cơ chế quản lý là toàn bộ hệ thống thiết chế ,quy định về quan hệ trách nhiệm ,quyền hạn giữa cá nhân với tổ chức,tổ chức với tổ chức,nhằm thực hiện mục đích quản lý xã hội theo một định hướng nhất định của giai cấp cầm quyền.Xã hội phải tạo điều kiện cho người lao động tham gia tích cực vào cọng việc quản lý đất nước,thông qua đó mà họ tích cực đóng góp tài năng ,trí tuệ cho xã hội. Thứ tư :thực hiện cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa .Cuộc cách mạng này có nhiệm vụ trang bị lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin,tư tưởng Hồ Chí Minh cho quần chúng nhân dân lao động. Những phương hướng trên nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực nước ta ngày càng đạt chất lượng cao,có năng lực quản lý,làm chủ đất nước,đồng thời phát huy ngày càng tốt hơn nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng một xã hội “dân giàu ,nước mạnh,xã hội công bằng ,dân chủ ,văn minh”, tiến tới CNXH Cụ thể: a) Biến đổi cơ cấu nguồn lực con người phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội Về cơ cấu lao động, cần khắc phục tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu lao động giữa các ngành, các khu vực sản xuất, từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, giảm lao động nông nghiệp. Đại hội Đảng lần thứ IX nêu lên mục tiêu: tăng lao động trong công nghiệp, xây dựng và dịch vụ lên 50% vào năm 2010, giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 61,3% (năm 2000) xuống còn 50% (năm 2010). Trong những năm tới cần phải nỗ lực nâng cao tỷ lệ lao động

đã qua đào tạo với cơ cấu: đại học 1, trung học chuyên nghiệp 5, công nhân kỹ thuật 10. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng thừa “thầy”, thiếu “thợ” như hiện nay theo hướng gắn việc hình thành các khu công nghiệp, khu công nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo nghề. Phát triển nhanh và phân bố hợp lý các trường dạy nghề trên địa bàn cả nước, mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng động. Phấn đấu đạt số học sinh công nhân kỹ thuật tăng 11-12%/năm trong giai đoạn 2000-2005. b) Nâng cao toàn diện chất lượng nguồn lực con người Về tầm vóc, thể lực Tầm vóc và thể lực là những đặc điểm sinh thể quan trọng, phản ánh một phần thực trạng của cơ thể con người, liên quan chặt chẽ đến khả năng lao động của con người. Do mức sống của nước ta vào loại thấp nhất của thế giới, chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn chủ yếu là chất bột nên đã ảnh hưởng đến thể lực của con người. Qua điều tra xã hội học cho thấy, người Việt Nam trong lứa tuổi lao động (từ 17 đến 55 tuổi) có thể lực thuộc loại trung bình thấp trên thế giới. Vì vậy, hướng phát triển của chúng ta là phải tăng thể lực, bao gồm: tăng chiều cao, cân nặng, tăng sức khoẻ, tăng khả năng làm việc, cùng với việc cải thiện đời sống vật chất, nhu cầu tinh thần của con người cũng không ngừng được nâng lên. Việc thoả mãn những nhu cầu đó vừa góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất sức lao động, vừa nâng cao thể lực của con người. Về trí lực Nâng cao trí lực là nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt quá trình xây dựng nguồn lực con người đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam . Bởi vì, trí lực là yếu tố quan trọng nhất, quyết định chất lượng của người lao động trong điều kiện kinh tế tri thức đang phát triển mạnh mẽ. Để nâng cao năng lực chuyên môn, trình độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động, trong những năm tới phải quan tâm hơn nữa các lĩnh vực sau: đảm bảo cho trẻ em trong độ tuổi đi học cấp I đều được đến trường; phấn đấu phổ cập trung học cơ sở trong cả nước, tiếp tục thực hiện việc xoá mù chữ, khắc phục tình trạng tái mù chữ và nâng cao trình độ học vấn cho người lao động thông qua hệ thống giáo dục thường xuyên; phấn đấu đến năm 2010, nâng tỷ lệ lao động được đào tạo lên 40%. Hiện nay số người lao động không được đào tạo nghề ở nước ta còn đông. Trong nền kinh tế thị trường và mở cửa, người lao động không biết nghề thì bản thân họ rất khó tìm việc và sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá cũng không thành công, vì ngày nay người ta quan tâm chủ yếu đến chất lượng lao động chứ không tập trung vào khai thác số lượng lao động như trước đây. Vì vậy, phát triển đào tạo nghề phải gắn với các chương trình kinh tế – xã hội của đất nước, với nhu cầu phát triển kinh tế của các ngành, các vùng kinh tế. Thực hiện xã hội hoá đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho việc đào tạo nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ hội học nghề để tìm kiếm việc làm. Cùng với việc nâng cao trình độ cho người lao động, vấn đề cải cách hành chính là một trong những chương trình trọng tâm của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước. Ngoài những cải cách về quy định thủ tục, thể chế hành chính, việc đào tạo công chức nhà nước đóng vai trò quan trọng. Nội dung chủ yếu trong đào tạo đội ngũ công chức là những kiến thức, phương pháp quản lý Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế… Vai trò của Nhà nước không còn như trước kia là can thiệp trực tiếp và sâu vào các hoạt động kinh tế mà chủ yếu là hỗ trợ, tạo điều kiện và quyết định hành lang thể chế cho các hoạt động kinh tế. Đội ngũ trí thức, lực lượng nòng cốt của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng cần phải có sự đầu tư thích đáng. Từ việc nghiên cứu thực trạng đội ngũ trí thức, chúng ta thấy Việt Nam hiện nay đang thiếu nghiêm trọng những cán bộ đầu ngành, những chuyên gia kinh tế giỏi và những nhân tài trong lĩnh vực khoa học – công nghệ. Vì vậy, đi đôi với tăng cường số lượng đội ngũ trí thức, cần nâng cao chất lượng đội ngũ này Về phẩm chất đạo đức – tinh thần của con người Việt Nam Phẩm chất đạo đức – tinh thần ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn lực con người. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn lực con người không chỉ chú ý đến thể lực và trí lực mà phải coi trọng cả phẩm chất đạo đức – tinh thần của con người. Để có được những con người có phong cách sống và kỹ năng lao động nghề nghiệp tốt, nói khát quát là có nhân cách đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trước hết cần phát huy tốt những giá trị truyền thống trong đó có giá trị đạo đức của con người Việt Nam. Những giá trị truyền thống cần kế thừa và phát huy là: tinh

thần yêu nươc, ý thức tự tôn dân tộc, ý chí tự lực tự cường của con người Việt Nam … Tuy nhiên những giá trị này cũng cần phải phát triển, bổ sung cho phù hợp với nội dung của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh việc phát huy những giá trị truyền thống cũng cần phải hạn chế những tiêu cực đang tồn tại trong con người Việt Nam bao gồm cả hạn chế do thói quen cũ để lại và những vấn đề mới nảy sinh do chuyển sang cơ chế thị trường; đồng thời, biết khai thác, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. b) Một số giải pháp phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay Thứ nhất :Trong lĩnh vực kinh tế Phải nâng cao vị thế người lao động trong quá trình sản xuất Huy động nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế –xã hôi Phát huy sáng kiến của người lao động ,chăm lo đời sống vật chất tinh thần của họ ,thực hiện phân phối công bằng ,công khai ,dân chủ. Động viên mọi người dân bỏ vốn sản xuất kinh doanh ,khai thác các thế mạnh địa phương,phát triển các ngành nghề truyền thống ,phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tăng cường giáo dục đạo đức ,lương tâm nghề nghiệp ,trách nhiệm của người hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ hai :Trong lĩnh vực chính trị. Nâng cao trình độ của cán bộ ,đảng viên và nâhn dân về nhận thức chính trị,về luật pháp ,về Nhà nước của dân,do dân,vì dân. Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của quần chúng nhân dân,huy động quần chúng nhân dân tham gia cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Xây dựng cơ chế quản lý xã hội ,quản lý nhà nước để người dân có điều kiện tham gia công việc Nhà nước ,xã hội. Phân rõ trách nhiệm của từng bộ phận,khắc phục tình trang chồng chéo ,buông lỏng quản lý nhà nước trong một số ngành ,một số địa phương. Giáo dục tinh thần yêu nước ,kiến quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực và nhựng âm mưu chống phá của kẻ thù. Thứ ba :Trên lĩnh vực xã hội. Từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu .Xây dựng quan hệ bình đẳng hữu nghị giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ,giữa các quốc gia. Cần thực hiện nhữgn biện pháo làm giảm dần khoảng cách giữa các tầng lớp dân cư,giữa các vùng lãnh thổ

Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo. Thứ tư :trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định “ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí,đào tạo nhân lực,bồi dưỡng nhân tài .Cần phải tuyên truyền làm cho mọi người thấy được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp chung của đất nước mà quan tâm tới lĩnh vực này. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa gia đình ,nhà trườgn ,xã hội trong đào tạo thế hệ trẻ. Nội dung giáo dục phải phản ánh được những tri thức quan trọng của thời đại. Phải tích cực đổi mới phương pháp dạy và học Việt Nam là một nước cón kém phát triển,tuy rằng đã đạt được một số thành tựu trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo,nhưng so với các nước trong khu vực và quốc tế vẫn còn hạn chế.Do vậy ,đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa. Thứ năm:Trên lĩnh vưc tư tưởng,văn hóa ,nghệ thuật. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII,Đảng ta đã khẳng định ,văn hóa và là mục tiêu,vừa là động lực xây dựng CNXH ở Việt Nam Đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng,phê phán những tư tưởng phản động đang tìm cách phủ nhận con đường XHCN ở Việt Nam Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,tư tưởng cơ hội ,thực dụng,chặn đà suy thoái về đạo đức,lối sống Cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý của Nhà nước trong hoạt động sáng tác,biểu diễn ,sao cho văn học nghệ thuật phải cổ vũ cho cái hay cái đẹp ,góp phần xây dựng lối sống lành mạnh,nâng cao những giá trị nhận văn,phát huy những giá trị tột đẹp trong con người Việt Nam. Đảng và nhà nước ta phải chăm lo tới việc bồi dưỡng ,nâng cao chất lượng và phát huy có hiệu quả nguồn lực con người Việt Nam,tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững đất nước ,nhanh chóng thực hiện mục tiêu “ dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng, dân chủ,văn minh” . I. Nguồn lực con người và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội 1. Con người và nguồn lực con người a) Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và con người xã hội chủ nghĩa - Quan niệm về con người: Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh.

Con người là một thực thể "song trùng" tự nhiên và xã hội, là sự kết hợp cái tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên. Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi thế giới tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật. "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"1. Con người không thể tồn tại được một khi tách khỏi xã hội. Chỉ trong xã hội con người mới có thể trao đổi lao động, thông qua đó mà thoả mãn những nhu cầu trong cuộc sống, như ăn, ở, đi lại v.v.. Trong xã hội thông qua quan hệ với người khác mà mỗi người nhận thức về mình một cách đầy đủ hơn, trên cơ sở đó mà rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt, từng 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3, tr. 11. 160

bước hoàn thiện nhân cách. - Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa: Con người xã hội chủ nghĩa bao gồm cả những con người từ xã hội cũ để lại và cả những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mang những nét đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, song vẫn còn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng, tác phong, thói quen của xã hội cũ. Cho nên, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là quá trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Con người xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm của quá trình đó. Một mặt, trong lao động sản xuất, đấu tranh xã hội, con người tạo ra những điều kiện cơ sở vật chất ngày một tốt hơn, phục vụ con người ngày một chu đáo hơn, cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ hơn, môi trường xã hội ngày càng trong sạch, ngày càng nhân văn hơn, do vậy, càng có những điều kiện để xây dựng nên những phẩm chất của con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cũng chính trong quá trình lao động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội mà con người cải tạo chính bản thân mình, tự rèn luyện khắc phục những hạn chế, thiếu sót của bản thân. Mỗi thời kỳ lịch sử, trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất, của trình độ phát triển xã hội, cần phải xác định mô hình con người cần xây dựng. Toàn bộ mọi hoạt động của xã hội, hệ thống luật pháp, những chính sách kinh tế - xã hội, mục tiêu của giáo dục - đào tạo phải hướng vào mục tiêu ...

Related Documents

10 De
June 2020 10
De 10
May 2020 12
De 10
November 2019 11
De 10
November 2019 24
De 10
November 2019 16