Bai 15: Do dong co Dong Son
Ðồ Ðồng Cổ Ðông Sơn TG : Nguyễn Văn Huyên Năm 1924, một người nông dân làng Ðông Sơn đi câu cá ở hữu ngạn sông Mã trên cánh đồng đất bãi chạy dài giữa sông Mã và giải núi đá vôi và phiến thạch, phát hiện một số công cụ và vũ khí cổ bằng đồng. Ðịa điểm này thuộc làng Ðông Sơn huyện Ðông Sơn tỉnh Thanh Hóa, cách thị xã Thanh Hóa 4,650m về phía Bắc Ðông bắc. Sau đó các nhà nghiên cứu đã khai quật và sưu tầm hàng trăm cổ vật thuộc nhiều loại hình hiện vật khác nhau: công cụ sản xuất, dụng cụ sinh hoạt, vũ khí, nhạc khí, đồ trang trí và tượng mỹ thuật. Thuật ngữ Văn hóa Ðông Sơn xuất hiện và nổi tiếng từ giai đoạn này.
Tuy nhiên, hai mươi năm phát hiện văn hóa Ðông Sơn, các nhà nghiên cứu người Pháp và nước ngoài chỉ mới khai quật được vài địa điểm quanh khu vực Thanh Hóa và Quảng Bình. Do tư liệu lúc đó còn hạn chế, cộng với quan điểm thiên di và vay mượn chi phối nên các nhà nghiên cứu giai đoạn đầu thường cho rằng chủ nhân của văn hóa Ðông Sơn không phải là cư dân bản địa mà là từ phương Bắc xuống hoặc từ phương Tây sang. Những thập kỷ tiếp theo, hàng trăm địa điểm thuộc văn hóa này đã được khai quật nghiên cứu; qua đó giúp ta hiểu được một quá trình phát triển liên tục, nội sinh qua bốn giai đoạn phát triển: Sơ kỳ đồ đồng - giai đoạn Phùng Nguyên, cách ngày nay khoảng 4000 năm.
Trung kỳ đồ đồng: giai đoạn Ðồng Ðậu, cách ngày nay khoảng 3300 năm đến 3500 năm.
Hậu kỳ đồ đồng: giai đoạn Gò Mun, cách ngày nay khoảng trên dưới 3000 năm.
Cuối cùng là giai đoạn Ðông Sơn thuộc sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng từ trên dưới 2000 năm đến 2800 năm.
. Ðông Sơn là một nền nghệ thuật tạo hình đạt đến đỉnh cao về tạo dáng. Người cổ Ðông Sơn đã tạo ra nhiều loại hình hiện vật phong phú, đa dạng từ công cụ, vũ khí, đồ gia dụng, đến nhạc khí, đồ trang sức và tượng nghệ thuật. .
Ấm nước bằng đồng
Tẩu hút thuốc bằng đồng .
Muổng và muôi bằng đồng
Đèn đồng Đông Sơn
Tính đa dạng này không phải chỉ mang ý nghĩa thực dụng gắn với từng loại công việc khác nhau như lưỡi cày để xới đất, lưỡi hái và nhíp để gặt lúa, rìu để cuốc đất, chặt cây, đóng thuyền, giũa để tu sửa khi rèn sắt, đúc đồng... mà còn biểu hiện ý đồ tạo dáng khác nhau phù hợp với khiếu thẩm mỹ của từng địa phương. Chẳng hạn người Việt cổ vùng thấp thích chế tạo trống đồng dáng cao, lưng thẳng; còn người vùng cao thích trống dáng lùn, chân thấp, lưng choãi.
Trống đồng Ngọc Lũ
Người vùng đồng bằng Bắc Bộ ưa loại lưỡi cày dáng hình tim, tam giác, còn người lưu vực sông Mã (Thanh Hóa) thích lưỡi cày hình cánh bướm. Người Ðông Sơn có khiếu thẩm mỹ rất cao. Không chỉ những loại hiện vật có kích thước lớn, có công năng quan trọng như trống, thạp, thố, bình... mà hầu hết cổ vật Ðông Sơn từ công cụ đến vũ khí, từ dụng cụ sinh hoạt đến nhạc khí, tượng nghệ thuật... đều được trang trí nhiều loại hoa văn phong phú và tinh tế.
Thạp đồng
Hoa văn trang trí trên đồ đồng Ðông Sơn có thể phân ra thành hai loại cơ bản: 1/ Hoa văn người, vật dùng và động vật. 2/ Hoa văn hình học: phổ biến là hoa văn chấm nhỏ thẳng hàng, vạch chéo và vạch thẳng song song, hình răng cưa, vòng tròn, hình chữ S.
Hoa văn trên bề mặt trống đồng Hoàng Hạ Tùy theo cách chế tác và hình dáng cổ vật mà những hoa văn trên được sắp sếp hài hòa và tinh tế. Thí dụ như vẫn các loại hoa văn chấm dải, răng cưa, gạch ngắn song song, vòng tròn... nhưng người Ðông Sơn đã bố trí rất khéo trên mặt cong của tang, lưng trống, mặt trống, lưng thạp, nắp thạp; hay ngay trên mặt một số cổ vật nhỏ như giáo, dao găm, rìu... hoa văn cũng được bố trí rất hài hòa tùy theo hình dáng của thân, mũi khác nhau. Chẳng hạn như trên chiếc rìu xéo: ở thân rìu có hình ba người trang sức lông chim đang múa, trên họng rìu có đôi cá sấu đang giao cấu. Trang trí Ðông Sơn đã gắn bó giữa dáng, hoa văn và sự chuyên môn hóa theo công năng của vật dùng.
Ðặc biệt trống đồng Ðông Sơn - một nhạc khí cổ - là đỉnh cao nghệ thuật trang trí của đồ đồng thời đó. Trống Ðông Sơn là một kiệt tác nghệ thuật làm say mê nhiều nhà nghiên cứu, sưu tầm trong nước và trên thế giới, là bức tranh toàn cảnh về tín ngưỡng, kiến trúc, sản xuất, chiến đấu, lễ hội... của cư dân nông nghiệp lúa nước.
( Xem thêm bài : Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ , quyển lịch cổ và địa bàng chỉ phương hướng dùng trong nền văn minh Lạc Việt ) Nghiên cứu nghệ thuật Ðông Sơn đặc biệt là trống đồng, chúng ta thấy hai xu hướng phát triển nghệ thuật tạo hình thời này: cách điệu hóa và đơn giãn hóa hoa văn, vạch ra mô hình phát triển nghệ thuật Ðông Sơn từ xu hướng tả thực ở giai đoạn sớm, chuyển sang khuynh hướng cách điệu biến hình phức tạp, bí ẩn ở giai đoạn muộn.
Ðồ trang sức của người cổ Ðông Sơn được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như vỏ sò, gốm, xương thú, thủy tinh, mã não... nhưng một trong những loại thông dụng nhất là đồng. Không thể thống kê kết các loại đồ trang sức vì chúng rất đa đạng. Người xưa thường trang sức ở năm bộ phận cơ thể: tai, cổ, thắt lưng, tay và chân. Ở tai có vòng và khuyên; ở cổ có chuỗi hạt; ở tay có vòng, nhẫn và bao tay; ở chân có vòng và bao chân; ở lưng là khóa thắt lưng. Người Ðông Sơn không chỉ đeo vòng ở cổ tay mà còn đeo nhiều vòng từ cổ tay đến cánh tay. Bất kể già trẻ, nam nữ đều thích làm đẹp bằng đồ trang sức; ở làng Vạc (Nghệ An) các nhà nghiên cứu đã phát hiện những bao tay, bao chân, nhẫn đồng có gắn nhạc; chứng tỏ trang sức đã gắn liền với âm nhạc và ca múa.
.
Khuyên tai bằng đá
Bao chân, bao tay bằng đồng.
.
Khoá thắt lưng bằng đồng, trang trí tượng rùa. Tượng đồng nghệ thuật Ðông Sơn rất đa dạng gồm tượng người, tượng gia súc như trâu, bò, lợn, gà, vịt, chó; các loài vật nhỏ như chim, cóc, nhái, rùa, rắn; các loài thú lớn như voi, hươu, hổ, báo. Tượng Ðông Sơn đa số là tượng trang trí gắn trên hiện vật, còn tượng rời thì ít. Tượng thường được gắn trên cán dao găm, cán muôi, vòi ấm, mặt trống, nắp thạp hoặc dùng làm chân đèn... .
Nhìn chung tượng Ðông Sơn có kích thước nhỏ hoặc rất nhỏ dùng làm đồ chơi, vật thiêng hoặc con giống. Tượng Ðông Sơn mang phong cách tả thực, hồn nhiên, biểu cảm; chẳng hạn như tượng hai người cõng nhau nhảy múa, tượng người trên cán muôi Việt Khê đang thổi khèn, tượng người trên cán dao găm... Về cách thể hiện, nghệ thuật tạc tượng cũng mang tính chất nhịp điệu, đối xứng như trang trí hoa văn; thí dụ như cảnh hổ vồ mồi, cảnh nam nữ yêu nhau trên nắp thạp Ðào Thịnh... đều được bố trí đối xứng qua tâm của nắp thạp, mặt trống. Nhìn lại chặng đường dài phát triển của nghệ thuật tạo hình Ðông Sơn, chúng ta rút ra mấy nét tổng quát như sau: Một là, thành tựu lớn nhất của giới nghiên cứu khảo cổ học và mỹ thuật cổ là đã khẳng định được nghệ thuật Ðông Sơn là một nền nghệ thuật bản điạ thuần Việt ,phi Hoa, phi Ấn. Nền nghệ thuật này không phải thiên di từ Trung Quốc xuống hay từ Bắc Ấn sang; nó được phát triển liên tục suốt hơn ngàn năm. Tuy nhiên nền nghệ thuật Ðông Sơn này không hề đóng kín, mà là nền Nghệ thuật mở, giao lưu nhiều với các nền nghệ
thuật đồng đạo chẳng hạn trống đồng Ðông Sơn đã giao lưu đến khu vực trống đồng ở Hoa Nam, Ðông Nam Á lục điạ và Ðông Nam Á hải đảo.
Ngược lại nghệ thuật tượng tròn của người Ðiền ở Vân Nam (Trung Quốc) đã ảnh hưởng đến tượng tròn Ðông Sơn. Một số yếu tố của các nền nghệ thuật đương thời Ðông Nam Á cũng ảnh hưởng đến nghệ thuật Ðông Sơn tùy mức độ đậm nhạt khác nhau (Trích từ Vài nét về giao lưu văn hóa thời đaị kim khí trong bối cảnh lịch sử Ðông Nam Á của Trịnh Sinh - Tạp chí khảo cổ học số 3-1979). Hai là, đặc điểm nổi bật nhất của nghệ thuật tạo hình Ðông Sơn là hình tượng của con người chiếm vị trí chủ đạo trong thế giới muôn loài. Con người luôn hài hòa với thiên nhiên, với mọi vật nhưng luôn là trung tâm của thế giới. Con người đang lao động như đánh cá, săn bắn; đang vui chơi giải trí như ca hát, nhảy múa, đánh trống, thổi khèn; đang chơi thể thao như bơi lội hay đang cầm chắt vũ khí bảo vệ làng bản quê hương. Ðó là những con người bình dị, thuần hậu, chất phát, hiền hòa chứa đựng tính nhân bản sâu sắc. Cảnh vật quanh người cũng rất dể thương, dể mến như những nhà sàn mái cong đơn sơ, những con thuyền đang lướt sóng, những con cò bay lả bay la, những đàn cá lội tung tăng, những cặp bò đực bò cái, hươu đực hươu cái xen kẽ, những đôi chim trống chim mái, những đôi cá sấu đang giao cấu, bên những cặp trai gái đang yêu nhau... phản ánh tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp lúa nước, ước mong cuộc sống hòa bình hạnh phúc. .
Các hình khắc trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ
Vũ khí Đông Sơn
Giáo đồng
Những mảnh giáp bằng đồng
Khoá nỏ (máy bắn tên bằng đồng)
Lay nỏ Cổ Loa
Khuôn đúc tên. .
Tên đồng Cổ Loa Ba là, về thủ pháp nghệ thuật, người cổ Ðông Sơn miêu tả theo lối bổ nghiêng từ hình người múa, hình chim, hươu, bò... đều vẻ từ cách nhìn một phía chứ không nhìn thẳng mặt. Thí dụ như hình người múa trên mặt trống đồng được vẻ theo lối ngực nhìn thẳng, còn chân và đầu thì theo lối nhìn nghiêng. Hình chim bay từ chân, cánh và đuôi nhìn từ trên xuống, còn đầu thì theo lối nhìn nghiêng. Phong cách miêu tả này dường như là cách nhìn mọi vật từ nhiều phía trong không gian mà ta thường gặp trong các nền nghệ thuật cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà... ở đây thế giới được thể hiện như một không gian khép kín. .
. Người cổ Ðông Sơn còn dùng thủ pháp ước lệ: hình ngôi nhà sàn mái rủ sát đất trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, nhưng họ cũng không quên khắc cả những con người đang sinh hoạt trong nhà theo trí tưởng tượng của họ.
Mái cong Làng Đình Bảng Tóm lại, Ðông Sơn không những là một nền nghệ thuật tạo hình lâu đời, một nền nghệ thuật bản địa có bản sắc riêng, khác với các nền nghệ thuật láng giềng đồng đạo mà còn là đỉnh cao nghệ thuật làm say mê nhiều nhà nghiên cứu, sưu tầm trong nước và trên thế giới. Ðó là niềm tự hào của chúng ta những con Lạc cháu Hồng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên
Phụ lục : Một số hình ảnh các loại trống đồng Đông Sơn
Trống đồng Sông Đà
Bề mặt trống đồng Sông Đà .
Trống đồng Cổ Loa
. . .
.
. . .
Trống đồng Phú Phương . . .
Trống đồng Đông Sơn tại Selayar, Indonesia.
Dong Son style