PHẦN MỞ ĐẦU Trong giai đoạn bước đầu tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nền kinh tế của nước ta không thể tách rời xu hướng toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài mang một ý nghĩa quyết định. Cho nên vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng. Nhà nước ta có chức năng điều hành nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp phát huy hết khả năng của mình để góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, mọi hoạt động kinh tế yêu cầu phải tuân thủ các quy luật khách quan, phải phù hợp với thực tại của nước ta. Bởi vì trong giai đoạn giao thời này, một số cơ quan quản lý Nhà nước cũng như một số doanh nghiệp đã phải trả giá đắt cho sự non nớt kinh nghiệm, hoặc sự thiếu tôn trọng, hay đã vận dụng không hợp lý các quy luật khách quan. Tiểu luận này được thực hiện với mục tiêu tìm hiểu thực trạng quá trình vận dụng phép biện chứng duy vật của triết học Marx của Đảng và Nhà nước ta trong việc phát triển nền kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong vấn đề này. Nội dung của tiểu luận bao gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về phép biện chứng duy vật của triết học Marx. Chương 2: Nội dung phép biện chứng duy vật của triết học Marx. Chương 3: Vận dụng phép biện chứng duy vật trong việc phát triển nền kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CỦA TRIẾT HỌC MARX I. Những tiền đề xuất hiện triết học Marx: Sự ra đời của triết học Marx là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học, nhờ đó giai cấp vô sản và chính đảng của họ có một thế giới quan thực sự khoa học. Các nhà lý luận tư sản đã quan niệm sai lầm rằng triết học Marx và chủ nghĩa Marx ra đời như là một biệt phái, như là một sự độc thoại, tự dành cho mình quyền phát ngôn chân lý
cuối cùng. Trái lại, sự xuất hiện triết học Marx là một tất yếu lịch sử, một hiện tượng hợp quy luật. Nó là kết tinh của những giá trị cao quý của tư duy triết học, văn học, khoa học của lịch sử nhân loại. 1. Tiền đề kinh tế - xã hội: - Những năm 30 của thế kỷ 19, chủ nghĩa tư bản phát triển bắt đầu đi vào giai đoạn mới. Đặc biệt, vào giữa những năm 40, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh và trở thành lực lượng kinh tế thống trị ở Anh, Pháp, Đức,… Sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa về mặt công nghiệp đã thể hiện tính hơn hẳn của nó so với nền sản xuất phong kiến. - Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong vốn có của nó mà biểu hiện về mặt xã hội là các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản. Nhiều phong trào của giai cấp công nhân đã mang tính chất của khởi nghĩa vũ trang. - Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản phát triển đã đặt ra nhu cầu phải có một vũ khí lý luận sắc bén phản ánh một cách khoa học quá trình vận động cách mạng của giai cấp công nhân. Sự chuẩn bị về mặt tư tưởng lý luận cho cuộc cách mạng về mặt chính trị là một hiện tượng lịch sử khách quan của mọi xã hội có giai cấp. 2. Tiền đề lý luận: Tiền đề kinh tế - xã hội là hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Marx. Song đó chỉ là những tiền đề khách quan, chúng chỉ đặt ra các nhu cầu lịch sử và tạo khả năng cho việc giải quyết các nhu cầu đó. Nhưng nhu cầu lịch sử không tự nó được thực hiện và khả năng cũng không tự hiện thực hóa, chúng cần có sự hoạt động của con người, của nhân tố chủ thể. - Triết học Marx nói riêng và chủ nghĩa Marx nói chung không phải là một trào lưu biệt phái, nó không tách rời với văn minh chung của nhân loại. Nền văn minh đó trực tiếp là những tư tưởng lý luận ở Chân âu trong thế kỷ thứ 19, đặc biệt là triết học cổ điển Đức (Cantơ, Heghen, Phoiobac,...), kinh tế chính trị học Anh (Adam Xmith,D. Ricacdo,...). Triết học cổ điển Đức, với hai nhà triết học Heghen và Phoiobac đã có ảnh hưởng quan trọng về mặt lý luận hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của C.Marx và Anghen. - Marx đã tiếp thu có phê phán, chọn lọc triết học Heghen. Triết học Heghen đã phê phán phương pháp siêu hình, đối lập nó với phương pháp biện chứng và đã dùng tư tưởng cách mạng trong phép biện chứng của Heghen để luận giải cho những khát vọng dân chủ. Đồng thời với việc đánh giá cao vai trò của Heghen, Marx đã phê phán chủ nghĩa duy
tâm,biểu hiện ở học thuyết “ý niệm tuyệt đối” trong quan niệm về Nhà nước và pháp quyền. Trên cơ sở đấu tranh, phê phán chủ nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện chứng của Hêghen khỏi tính thần bí và xây dựng phép biện chứng duy vật - hình thức cao nhất của phép biện chứng, đối lập với phép biện chứng của Heghen. - Những tư tưởng của Phoiobac tạo tiền đề lý luận quan trọng cho bước chuyển từ chủ nghĩa duy vật sang chủ nghĩa duy tâm, từ trường lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản. Phoiobac từ bỏ chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ quan điểm sai lầm của phái Heghen trẻ đã lẫn lộn tự nhiên với ý thức. ông khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, không phụ thuộc vào con người, tồn tại vĩnh viễn. Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, thần thánh không sáng tạo ra con người, mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình tùy thuộc vào những điều kiện sống nhất định. Trong triết học của Phoiobac vấn đề thực tiễn xã hội được hiểu chưa đúng, những quan niệm về đấu tranh chính trị còn nhiều sai lầm. Chủ nghĩa duy vật của Phoiobac là chủ nghĩa duy vật nửa vời, duy vật trong tự nhiên, duy tâm trong lĩnh vực xã hội. 3. Tiền đề khoa học tự nhiên: Sự phát triển của khoa học tự nhiên vào thế kỷ 17, 18 căn bản là của các ngành khoa học cụ thể, khoa học nghiên cứu các bộ phận riêng lẻ của tự nhiên nên hình thành phương pháp siêu hình. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khoa học chuyển sang một bước mới - giai đoạn phát triển khoa học tự nhiên lý luận đòi hỏi phải sử dụng phương pháp nghiên cứu biện chứng, tức là phải trình bày sự phát triển tự nhiên như là một quá trình vận động, liên hệ, thống nhất. Ba phát minh khoa học trong thời kỳ này có ý nghĩa và ảnh hưởng lớn đối với sự hình thành triết học Marx: - Quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: cho phép vạch ra được những mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận động của thế giới vật chất. - Học thuyết tế bào: chứng minh cho sự thống nhất, sự phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của thế giới sinh vật. - Thuyết tiến hóa của Dac-uyn: giải thích tính chất biện chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài trong giới tự nhiên hữu sinh. Sự hình thành khoa học tự nhiên mang tính chất lý luận như vậy đã làm cho thứ triết học trước đây có tham vọng đóng vai trò “khoa học của các khoa học” không còn tồn tại nữa. Việc ra đời của khoa học tự nhiên mang tính lý luận, song việc tạo ra khả năng chuyển hóa từ phương pháp siêu hình sang phương pháp biện chứng của nó đã làm nảy sinh một số quan
niệm sai lầm trong một số các nhà khoa học tự nhiên là xem thường triết học và phép biện chứng. C.Maxr và Ph.Anghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như một triết học phù hợp với sự phát triển của các khoa học cụ thể, đồng thời trở thành thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học đó. Như vậy, sự ra đời của triết học Marx không phải là kết quả của sự tư duy cá nhân mà là sự suy tư mang tầm vóc đúc kết và khái quát lịch sử thời đại. II. Sự ra đời của triết học Marx là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển triết học Sự xuất hiện của triết học Marx là bước ngoặc quan trọng trong lịch sử tư tưởng xã hội, thể hiện: 1. Triết học Marx đã thống nhất được chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng, là hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Triết học Marx là học thuyết duy vật triệt để về tự nhiên, xã hội và con người. Đặc biệt việc sáng tạo lại chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện quan trọng nhất của bước ngoặc cách mạng trong triết học do C. Marx và Anghen thực hiện. Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của C. Marx và Anghen vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế thừa có phê phán di sản lý luận của loài người, vừa là kết quả nghiên cứu tiếp thu những thành quả khoa học. Trong triết học trước Marx, học thuyết về bản chất của thế giới với học thuyết về những quy luật vận động và phát triển của thế giới tách rời nhau, Hegel đã xây dựng phép biện chứng mà nhân của nó là tư tưởng về sự phát triển. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm, tức là phép biện chứng về sự phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất bản chất sự vật. Hegel cho rằng biện chứng của ý niệm quyết định biện chứng của sự vật. 2. Sáng tạo ra quan niệm duy vật về đời sống xã hội và lịch sử Đây là thành tựu xuất sắc của triết học Marx. Trong triết học Fenerbach, vấn đề thực tiễn xã hội chưa được hiểu đúng, những quan niệm về đấu tranh chính trị còn nhiều sai lầm. ông cho rằng những thời kỳ của lịch sử loài người sở dĩ khác nhau chỉ là do những hình thức thay đổi khác nhau về mặt tôn giáo, muốn làm cho xã hội tiến lên phải thay thế tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới. Cơ sở để tạo ra các quan điểm duy vật về lịch sử trong triết học Marx và khắc phục tính chất duy tâm trong các quan niệm về xã hội, về chủ nghĩa duy vật trước Marx là việc nghiên cứu và cải tạo kinh tế chính trị học Anh của các đại biểu Smith và Ricardo. Marx và Anghen nghiên cứu có phê phán những tư tưởng XHCN, CSCN không tưởng từ 1843. Sự nghiên cứu đó đã giúp cho hai ông hiểu một cách duy vật biện chứng về đời sống xã hội, dự báo được sự phát triển tương lai của hình thái kinh tế xã hội CSCN. Hoạt động lý luận của Marx và Anghen có mối liên hệ hữu cơ với hoạt động thực tiễn cách mạng. Quá trình hình thành thế giới quan duy vật khoa học của hai ông là một quá trình hợp
quy luật, là nhịp cầu khách quan của lịch sử. Quá trình đó gắn bó chặt chẽ, không bao giờ tách rời giữa lập trường chính trị và quan điểm triết học. 3. Với sự ra đời của triết học Marx lần đầu tiên giai cấp công nhân, những người lao động bị áp bức có được thế giới quan của hệ thống lý luận của mình. Quá trình hình thành của triết học Marx cũng không tách rời tình cảm sâu sắc của Marx và Anghen đối với những người lao động bị áp bức và phong trào cách mạng của họ. Tình cảm đó là một nhân tố quan trọng không những cho sự hình thành thế giới quan duy vật khoa học mà cho cả sự hình thành chủ nghĩa nhân đạo XHCN của hai ông. Giữa triết học Marx và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ: “Triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Triết học Marx ra đời như một học thuyết khoa học đã dẫn dắt phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đi từ tự phát đến tự giác. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản phát triển đã đặt ra nhu cầu khách quan là phải có một vũ khí lý luận sắc bén phản ánh được một cách khoa học quá trình vận động cách mạng của giai cấp công nhân. Triết học Marx ra đời đáp ứng được nhu cầu đó. 4. Triết học Marx ra đời làm thay đổi vai trò chức năng xã hội của triết học. Trong triết học Marx, lý luận liên hệ chặt chẽ với thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản và làm nên sức mạnh cải tạo xã hội. Triết học Marx là hệ thống tư tưởng của giai cấp công nhân, một hệ tư tưởng đã được luận chứng bằng lý luận khoa học, phản ánh những quy luật phát triển khách quan của lịch sử. Vì vậy, nó là hệ tư tưởng khoa học chứa đựng sự thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học, giữa tính thực tiễn và tính lý luận. Nhờ đó, triết học Marx được xem là triết học của hành động, của thực tiễn cách mạng, mang sức mạnh cải tạo thế giới bằng cách mạng và không đội trời chung với chủ nghĩa chủ quan duy ý chí cũng như chủ nghĩa giáo điều bảo thủ. C. Marx viết: “Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới”. Luận điểm đó nói lên thực chất cũng như vai trò xã hội của triết học Marx, chỉ rõ lý do tồn tại và phương hướng phát triển của nó. 5. Triết học Marx đã làm thay đổi về quan niệm về kết cấu tri thức triết học: Các hệ thống triết học trước Marx là hệ thống kín, căn bệnh cao ngạo của các nhà triết học cho rằng: “Triết học là khoa học của mọi khoa học” với ý nghĩa nó thay thế cho mọi khoa học. Họ cho rằng đây là hệ thống đã hoàn chỉnh, mọi người chỉ việc tiếp thu và hoàn thiện. - Cùng với sự phát triển của xã hội, các ngành khoa học nảy sinh và phát triển. Mỗi ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng, đảm nhận việc nghiên cứu từng lĩnh vực của thế
giới. Trong giai đoạn này, có người cho rằng triết học không còn chỗ đứng nữa, không có đối tượng nghiên cứu riêng. - Triết học Marx ra đời làm biến đổi căn bản tính chất, đối tượng của triết học và mối quan hệ của nó với các khoa học cụ thể. Triết học Marx không hòa tan vào các khoa học cụ thể, cũng như không có tham vọng “khoa học của mọi khoa học”, mà nó là cơ sở phương pháp luận của mọi khoa học cụ thể. - Triết học Marx có chức năng cơ bản là xóa bỏ nhưng có kế thừa cái cũ và tạo lập cái mới gắn liền một cách hữu cơ với thực tiễn cuộc sống cũng như với sự phát triển của khoa học. Theo Marx, triết học là kết quả của quá trình nhận thức, là một quá trình vô tận. Vì vậy, hệ thống triết học không phải là một học thuyết ngưng đọng mà là một học thuyết sáng tạo, là hệ thống mở, được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và cùng phát triển với thực tiễn. Lenin đã nói: “Chúng ta không hề coi lý luận của Marx là một cái gì đã xong thôi hẳn và bất khả xâm phạm. Trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người XHCN phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn lạc hậu trong cuộc sống”. Triết học Marx còn xác định một cách đúng đắn vị trí, vai trò của triết học trong hệ thống các khoa học, bằng vai với các ngành khoa học khác chứ không phải là khoa học của các khoa học.
Chương II: NỘI DUNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CỦA TRIẾT HỌC MARX Phép biện chứng duy vật của triết học Marx ra đời vào những năm 40 của thế kỷ 19 là sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và phương pháp của phép biện chứng duy vật. Điều này thể hiện rõ qua hai nguyên lý, ba quy luật và sáu cặp phạm trù. I. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: 1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: - Tính phổ biến của mối liên hệ: Sự vật và hiện tượng trong giới tự nhiên cũng như trong xã hội đều có mối liên hệ biện chứng với nhau, phụ thuộc vào nhau, cái này lấy cái kia làm điều kiện tồn tại và phát triển của mình, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập, riêng rẽ tách rời. Trong bản thân mỗi sự vật hiện tượng thì các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành của nó cũng nằm trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Các quá trình, các giai đoạn phát triển của mỗi sự vật cũng không tách rời, cô lập với nhau.
Như vậy, mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng hoặc giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một sự vật hiện tượng luôn luôn diễn ra trong không gian và thời gian. Phép biện chứng duy vật gọi tất cả những mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng cũng như mối liên hệ bên trong từng sự vật hiện tượng nêu trên là mối liên hệ phổ biến. - Tính nhiều vẻ của mối liên hệ: + Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp: • Mối liên hệ trực tiếp là mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, các yếu tố, các quá trình trực tiếp tác động lẫn nhau không thông qua khâu trung gian nào. • Mối liên hệ gián tiếp là mối liên hệ thông qua một hay nhiều khâu trung gian. • Phân tích các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp giúp chúng ta hiểu được nguyên nhân xa gần của sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. + Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất: • Mối liên hệ bản chất là mối liên hệ tất nhiên ổn định bên trong sự vật hiện tượng, quy định tính chất và sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ấy. • Mối liên hệ không bản chất là mối liên hệ không có ý nghĩa quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. • Tìm ra mối liên hệ bản chất thì con người phát hiện được quy luật sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. 2. Nguyên lý về sự phát triển: Phát triển là sự vận động và biến đổi mà kết quả đưa ra là sự vật tiến lên từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đem lại cho chúng ta một quan điểm khoa học để nhận thức thế giới khách quan, tức là phải xem xét sự vật hiện tượng của thế giới trong sự vận động biến đổi từ dạng này sang dạng khác, từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao. Phát triển là quá trình cái mới ra đời, cái cũ mất đi, cái mới chiến thắng cái cũ. Vì vậy, phải nhận thức được cái mới và ủng hộ cái mới. Phép biện chứng duy vật về sự phát triển đòi hỏi chúng ta khi nghiên cứu sự vật hiện tượng phải chỉ ra được xu hướng phát triển của chúng, phải thấy được tương lai qua cái hiện tại, cái tích cực tiến bộ từ trong cái cũ suy tàn. Muốn vậy, chúng ta còn phải kiên quyết chống cách xem xét sự vật và hiện tượng theo lối cố định, bất biến cứng nhắc. Ngoài ra, khi xem xét sự
vật hiện tượng phải đặt nó trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, nghĩa là phải có quan điểm lịch sử cụ thể bên cạnh những quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển. II. Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên phổ biến và lặp đi lặp lại giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt trong cùng sự vật hiện tượng. 1. Quy luật mâu thuẫn: Quy luật mâu thuẫn là quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, nó giữ vai trò quan trọng nhất trong ba quy luật. a. Nội dung: - Sự vật hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất của các mặt đối lập. Mỗi sự vật hiện tượng là thể thống nhất bao gồm nhiều mặt khác nhau, trong đó có hai mặt cơ bản đối lập nhau, nhưng lại có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau gọi là mâu thuẫn. + Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa – ràng buộc qui định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình, không có mặt này thì không có mặt kia và ngược lại. Ví dụ: Đời sống kinh tế XH là sự thống nhất của hai mặt đối lập là sản xuất và tiêu dùng. + Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ, gạt bỏ nhau, phủ định nhau của chúng. - Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc động lực của mọi sự vận động và phát triển. Đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho thể thống nhất cũ bị phá vỡ, thể thống nhất mới được thiết lập. Ví dụ: - Trong XH có giai cấp, cuộc đấu tranh của hai giai cấp, cuối cùng làm sụp đổ giai cấp thống trị lỗi thời, hình thành giai cấp thống trị mới. - Quá trình tư duy của con người cũng vậy, đó là quá trình không ngừng nảy sinh mâu thuẫn và đấu tranh giải quyết mâu thuẫn: giữa nhu cầu hiểu biết với thực tế chưa biết, giữa chân lý và sai lầm. Cuộc đấu tranh của các mặt đối lập ngày càng trở nên quyết liệt, cuối cùng dẫn đến sự chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định. Khi đó mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. Sự vật mới là thể thống nhất mới của những mặt đối lập
mới, do đó có mâu thuẫn mới, và cuộc đấu tranh lặp lại, thể thống nhất mới cao hơn ra đời thay thế. Nắm vững nôi dung quy luật mâu thuẫn có ý nghĩa to lớn đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn: • Một là: Mâu thuẫn là khách quan vốn có của mọi sự vật hiện tượng, do đó bất cứ ở đâu và mâu thuẫn. • Hai là: Mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng đấu tranh, thông qua đấu tranh mà thúc đẩy sự vật phát triển, chống hữu khuynh hoặc thỏa hiệp vô nguyên tắc trong giải quyết mâu thuẫn • Ba là: Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra theo qui luật phá vỡ cái cũ, thiết lập cái mới tiến bất cứ khi nào cũng cần nhận thức và phát hiện mâu thuẫn để tìm cách giải quyết mâu thuẫn thúc đẩy sự vật tiến lên, không che dấu, không lẫn tránh bộ hơn. Do đó, không thể tách rời “chống” và “xây”, và mục đích là xây dựng cái mới. b. Một số loại mâu thuẫn: - Quá trình tư duy của con người cũng vậy, đó là quá trình không ngừng nảy sinh mâu thuẫn và đấu tranh giải quyết mâu thuẫn: giữa nhu cầu hiểu biết với thực tế chưa biết, giữa chân lý và sai lầm.