Thong Tin Dai Chung

  • Uploaded by: Duong Hoai An
  • 0
  • 0
  • June 2020
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Thong Tin Dai Chung as PDF for free.

More details

  • Words: 40,686
  • Pages: 132
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM

XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

TS TRẦN HỮU QUANG Biên soạn     

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Môn học:

XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TS. Trần Hữu Quang biên soạn

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2

BÀI GIỚI THIỆU Chào mừng các bạn đến với chương trình đào tạo từ xa của Đại học Mở Bán Công Tp.HCM

Đây là môn học nghiên cứu về hoạt động truyền thông đại chúng dưới quan điểm xã hội học.

Nhiều trường phái cũng như nhiều luận điểm lý thuyết khác nhau, nhiều lúc đối lập nhau, cũng như nhiều kết quả điều tra thực nghiệm sẽ được trình bày và lược thuật một cách cô đọng nhằm giúp sinh viên có được những kiến thức tổng quan về tình hình nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng trên thế giới. Nhưng ngoài phần kiến thức, điều còn quan trọng hơn nữa đối với sinh viên trong môn học này, đó là: thông qua việc tìm hiểu những lối đặt vấn đề và những lối phân tích khác nhau và đa dạng của các nhà nghiên cứu, sinh viên làm sao rèn luyện được khả năng tư duy và biện luận của mình, làm quen được với phương pháp tư duy xã hội học. Và điều trọng yếu nhất là cuối cùng làm sao sinh viên xác lập được khả năng suy nghĩ độc lập và nuôi dưỡng được óc phê phán khoa học khi thử bắt tay vào việc khảo sát, phân tích và giải thích những vấn đề nào đó liên quan tới lĩnh vực truyền thông đại chúng ở Việt Nam.

Tập sách này bao gồm những nội dung chính như sau: - Tìm hiểu các khái niệm “truyền thông” và “truyền thông đại chúng” (bài 1). - Lịch sử ra đời của các phương tiện truyền thông đại chúng và

3

của định chế truyền thông đại chúng (bài 2). - Các lý thuyết chính về truyền thông đại chúng (bài 3). - Nghiên cứu về công chúng (bài 4). - Nghiên cứu về các nhà truyền thông và tổ chức truyền thông (bài 5). - Nghiên cứu nội dung truyền thông (bài 6). - Những tác động xã hội của truyền thông đại chúng (bài 7).

Về thời gian học tập: đây là tập giáo trình dành cho chương trình cử nhân, tương đương với 30 tiết học trên lớp. Tuy nhiên, ngoài thời gian đọc giáo trình, sinh viên còn phải dành ra một thời lượng tương đương với khoảng 30- 45 tiết để đọc thêm tài liệu sách báo và tạp chí có liên quan tới nội dung môn học. Đó là chưa tính thời gian dành để trả lời các câu hỏi ôn tập (nên tập trả lời bằng cách viết ra trên giấy mà không xem lại giáo trình [vì đáp án loại câu hỏi này đều nằm trong giáo trình], mỗi câu chừng nửa trang hoặc tối đa là một trang) và những câu hỏi gợi ý để thảo luận (những câu hỏi này đều nằm ở cuối mỗi chương).

Đối với những câu hỏi thảo luận (đây thường là những câu mở rộng để vận dụng suy nghĩ cá nhân vào những vấn đề của truyền thông đại chúng trong bối cảnh xã hội Việt Nam), sinh viên có thể đưa ra để thảo luận nhóm. Nếu học môn này theo nhóm là hay nhất; còn nếu không, sinh viên nên tìm những người mà mình có thể trao đổi để bàn luận về những vấn đề nêu ra. Nên tranh cãi một cách thoải mái trên tinh thần tự do tư tưởng – vì có cọ xát và tranh luận thì mới có điều kiện để vượt qua được những định kiến chủ quan của từng cá nhân, và đồng thời mới có nhiều cơ may tìm ra được những ý tưởng mới.

4

Ở cuối tập sách này, chúng tôi cũng có nêu ra một số đề tài gợi ý để sinh viên có thể chọn để làm một bài tiểu luận kết thúc môn học (giới hạn chừng 5-10 trang). Đây là dịp để sinh viên có cơ hội vận dụng những vốn liếng kiến thức đã tiếp thu qua tập giáo trình vào những suy nghĩ và phân tích của chính mình về một vấn đề thực tiễn nào đó trong lĩnh vực truyền thông đại chúng. Bài tiểu luận cuối môn học không phải là chuyện bắt buộc, nhưng chúng tôi khuyến khích sinh viên nên chọn bắt tay vào làm một đề tài, vì điều này sẽ rất có lợi cho việc rèn luyện khả năng viết lách, khả năng tư duy, và khả năng độc lập suy nghĩ.

Về phương pháp học tập, sinh viên nên đọc kỹ từng chương (đọc kỹ để nắm được nội dung, chứ hoàn toàn không phải để “học thuộc lòng”!). Nhưng ngoài tập giáo trình này, sinh viên nhất thiết phải cố gắng đọc thêm sách báo có liên quan tới môn học này (ngoài những cuốn sách và bài tạp chí mà chúng tôi đã nêu trong phần tài liệu tham khảo). Đọc càng nhiều càng tốt. Kể từ khi bắt đầu học môn này, hàng ngày sinh viên nên tập đọc báo hoặc coi ti-vi với một cặp mắt mới, không phải như một độc giả hay một khán giả bình thường, mà là đọc với cặp mắt của một người phân tích và có óc phê phán.

Vì đối tượng của môn học này chính là sinh hoạt báo chí, phát thanh và truyền hình mà hầu như ai cũng theo dõi hàng ngày, nên đây cũng là một điều hết sức thuận lợi cho sinh viên có ngay nhiều cơ hội để quan sát và hỏi han những người xung quanh để tìm hiểu tập quán và nhu cầu của các loại độc giả và khán giả khác nhau, xem xét coi họ phản ứng thế nào đối với trang mục này hay chương trình nọ, và thử

5

tìm xem vai trò và ý nghĩa của các phương tiện truyền thông trong đời sống xã hội của họ... Nội dung tập giáo trình này nêu ra khá nhiều lý thuyết khác nhau về truyền thông đại chúng. Thoạt nhìn thì có thể có cảm giác hơi khô khan, nặng nề, nhưng nếu đọc kỹ và suy nghĩ kỹ thì sẽ thấy đấy không phải là những “lý thuyết suông”, mà phần lớn chúng đều có liên quan ít nhiều mật thiết tới những khía cạnh khác nhau trong đời sống truyền thông diễn ra hàng ngày xung quanh chúng ta.

Mong rằng môn học này sẽ giúp sinh viên hiểu sâu hơn về thế giới truyền thông, và nhất là có được những cái nhìn mới mang tính chất phân tích và sáng tạo.

6

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử báo chí Việt Nam, TPHCM, Khoa báo chí Đại học Mở-bán công TPHCM, 1994. 2. Ngô Hà, “Lược sử báo chí thành phố (1865-1945)”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb TPHCM, 1988, tr. 319385. 3. Tầm Nguyên, “Báo chí Sài Gòn trong 30 năm kháng chiến (1944-1975)”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb TPHCM, 1988, tr. 387-410. 4. Hồng Chương, Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Hà Nội, Nxb Sách giáo khoa Mác Lê-Nin, 1987. 5. Lê Minh Quốc, Hỏi đáp báo chí Việt Nam, TPHCM, Nxb Trẻ, 2001. 6. Đỗ Quang Hưng, “Buổi đầu tiên của báo chí Việt Nam”, tạp chí Xưa và Nay, số 64B, 6-1999, tr. 5. 7. Nguyễn Hữu Viêm, “Hoàng Tích Chu, người đầu tiên cách tân báo chí Việt Nam”, tạp chí Xưa và Nay, số 61, 3-1999. 8. Văn Giá, “Nhà báo-nhà văn, viết văn-viết báo”, tạp chí Nghề báo, số 14, 6-2003, tr. 16. 9. Daniel Hémery, “Sài Gòn thập niên 30 : 'La Lutte' (19331937) tờ báo chiến đấu” (Nguyễn Ngọc Giao dịch), trong Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính (chủ biên), Từ Đông sang Tây, Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, 2005, tr. 86-113. 10. Loic Hervouet, Viết cho độc giả (Lê Hồng Quang dịch), Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản, 1999.

7

11. Hữu Thọ, Nghĩ về nghề báo, Hà Nội, Nxb Giáo dục, 1997. 12. Hội Ngôn ngữ học TPHCM, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Tiếng Việt trên các phương tiện truyền thông đại chúng, TPHCM, 1999. 13. Trung tâm Ngôn ngữ học (Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ), Quảng cáo và ngôn ngữ quảng cáo, TPHCM, 2004. 14. Trần Hữu Quang, Chân dung công chúng truyền thông (qua khảo sát xã hội học tại TPHCM), TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, 2001. 15. Trần Hữu Quang, “Những chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gòn thời Pháp thuộc”, tạp chí Xã hội học, số 3&4, 1999, tr. 32-38. 16. Trần Hữu Quang, Xã hội học nhập môn (giáo trình), Đại học Tổng hợp TPHCM, 1993. 17. Trần Hữu Quang, Xã hội học báo chí (sắp xuất bản). 18. Philippe Breton, Serge Proulx, Bùng nổ truyền thông (Vũ Đình Phòng dịch), Hà Nội, Nxb Văn hóa-thông tin, 1996. 19. Michael Schudson, Sức mạnh của tin tức truyền thông (bản dịch cuốn The Power of News, Harvard, Harvard University Press, 1995, người dịch: Thế Hùng, Trà My), Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. 20. Pierre Albert, Lịch sử báo chí (Dương Linh dịch), Hà Nội, Nxb Thế giới, 2003. 21. Nghề báo, tạp chí của Hội Nhà báo TPHCM. 22. Người làm báo, tạp chí của Hội Nhà báo Việt Nam. 23. Nhà báo và Công luận, tạp chí của Hội Nhà báo Việt Nam.

8

Bài 1

TÌM HIỂU KHÁI NIỆM TRUYỀN THÔNG

Giới thiệu khái quát: Nội dung chương 1 trình bày những khái niệm căn bản cần nắm rõ như “truyền thông”, “truyền thông đại chúng”, “các phương tiện truyền thông đại chúng”, những đặc điểm của quá trình truyền thông, và mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng với truyền thông liên cá nhân.

Mục tiêu của chương này: Phân biệt được những khái niệm then chốt nêu trên, và hiểu được những đặc trưng của một quá trình truyền thông.

9

TRUYỀN THÔNG

Truyền thông là gì? Có thể nói một cách ngắn gọn rằng truyền thông là một quá trình truyền đạt thông tin. Truyền thông (communication) là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ một tổ chức nào mang tính chất xã hội. Ngay trong một bầy ong hay một bầy kiến cũng có truyền thông: đám ong thợ thường truyền đạt cho nhau những thông tin về loại hoa mà chúng tìm được cũng như về khoảng cách và phương hướng mà chúng phải rủ nhau bay tới để hút nhụy và đưa mật hoa về tổ. Trong xã hội loài người, truyền thông lại càng là một điều kiện tiên quyết để có thể hình thành nên một “xã hội” hoặc “cộng đồng”. Sở dĩ người ta có thể sống được với nhau, giao tiếp và tương tác được với nhau trước hết là nhờ vào hành vi truyền thông. Người ta gọi đây là truyền thông liên cá nhân (interpersonal communication), nghĩa là truyền đạt thông tin giữa người này với người khác. Sự truyền thông này trước hết được thể hiện thông qua lời nói hoặc chữ viết, tức là thông qua ngôn ngữ, nhưng cũng có thể thông qua cử chỉ, điệu bộ, hay hành vi để biểu tỏ thái độ hoặc cảm xúc. Vì thế, có thể có hai cách thức truyền thông : truyền thông bằng lời nói (verbal), và truyền thông không bằng lời nói (non-verbal). Người ta thường phân biệt ba loại truyền thông như sau : - Truyền thông liên cá nhân (giữa người này với người khác), - Truyền thông tập thể (tức là truyền thông trong nội bộ một cơ quan, một công ty, một tổ chức đoàn thể, hay một nhóm xã hội nào đó). - Và truyền thông đại chúng.

10

TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Vậy thế nào là truyền thông đại chúng? Truyền thông đại chúng (mass communication) là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình. (Trong định nghĩa này, cần chú ý đến cái vế thứ hai: một quá trình truyền thông chỉ được gọi là quá trình truyền thông đại chúng nếu nó được phát ra “thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng”). Các phương tiện truyền thông đại chúng (hay cũng còn gọi là “các phương tiện thông tin đại chúng”) (mass media) là những công cụ kỹ thuật hay những kênh mà phải nhờ vào đó người ta mới có thể thực hiện quá trình truyền thông đại chúng, nghĩa là tiến hành việc phổ biến, loan truyền thông tin ra mọi người dân trong xã hội. Ở đây, chúng ta cần phân biệt rõ ràng giữa hai thuật ngữ “truyền thông đại chúng” và “phương tiện truyền thông đại chúng” mà người ta thường sử dụng lẫn lộn một cách không chính xác. Nói tới các “phương tiện truyền thông đại chúng” (mass media) như báo chí, phát thanh, truyền hình... là nói tới những công cụ kỹ thuật (hay những cái kênh) để nhờ đó người ta có thể thực hiện quá trình truyền thông đại chúng. Còn khi nói tới “truyền thông đại chúng” (mass communication) là chúng ta muốn nói tới một quá trình xã hội: quá trình truyền tải thông tin ra công chúng thông qua các phương tiện ấy. Chúng ta mở ti-vi xem cô phát thanh viên đọc một bản tin hoặc coi một trận đá banh: đó là một hành vi được gọi là nằm trong quá trình truyền thông đại chúng. Thế nhưng nếu chúng ta cũng mở màn hình ti-vi, nhưng lại để coi một cuốn băng viđêô quay cảnh đám cưới của cô em gái trong gia đình, thì hành động này lại không thể được coi

11

là nằm trong quá trình truyền thông đại chúng, bởi một lẽ đơn giản là cuốn băng này chỉ được quay và phát trong khuôn khổ sinh hoạt gia đình mà thôi. Nhưng nếu chúng ta xem một cuốn băng viđêô đám cưới của gia đình một diễn viên điện ảnh chẳng hạn được phát trên truyền hình, thì đấy lại là một hành vi nằm trong quá trình truyền thông đại chúng. Nói cách khác, điều mấu chốt trong việc xác định xem một hành vi có nằm trong quá trình truyền thông đại chúng hay không không phải là cái màn hình ti-vi hay cái đầu máy viđêô, mà là cần xem xét coi hành vi ấy có nằm trong quá trình truyền tải thông tin ra rộng rãi công chúng thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng hay không. Người ta thường liệt kê các hoạt động sau đây nằm trong lĩnh vực truyền thông đại chúng: báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, sản xuất băng đĩa (âm nhạc chẳng hạn)... Gần đây, chúng ta có thể kể thêm cả Internet. [Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phương tiện Internet có đặc điểm là có thể được sử dụng cho cả ba loại truyền thông: truyền thông liên cá nhân (chẳng hạn gởi thư điện tử hay email); truyền thông tập thể (chẳng hạn những trang website mà chỉ có những người trong nội bộ một cơ quan hay một công ty mới có thể truy cập được); và truyền thông đại chúng (chẳng hạn những trang website của tờ Tuổi trẻ hay tờ Sài Gòn Giải phóng)]. Truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm ba thành tố sau đây: - Hoạt động truyền thông (chẳng hạn như đi săn tin, quay phim, chụp hình... rồi viết bài, biên tập, cuối cùng là xuất bản, hoặc phát sóng), - Các nhà truyền thông (bao gồm các tổ chức truyền thông như

12

báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình... và những người làm công tác truyền thông như nhà báo, phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên...), - Và đại chúng (các tầng lớp công chúng rộng rãi).

ĐẠI CHÚNG

Chữ “đại chúng” trong thuật ngữ “truyền thông đại chúng” được dùng để chỉ đối tượng công chúng độc giả hay khán thính giả của các phương tiện truyền thông đại chúng. Thực ra, “đại chúng” (mass) là một khái niệm khá mơ hồ và khó mà có một định nghĩa thật chính xác. Kể cả về mặt số lượng lẫn về mặt tính chất. Chẳng hạn, người ta không thể xác định được là phải đông đến số lượng bao nhiêu thì mới gọi là đại chúng. Một tờ báo chuyên ngành khoa học chẳng hạn có thể chỉ có vài trăm độc giả, nhưng đây vẫn là một “phương tiện truyền thông đại chúng” vì nó được bán công khai ra công chúng. Còn tờ nội san của một đại công ty chẳng hạn có thể có số ấn bản lên tới vài chục ngàn tờ, nhưng nó vẫn không phải là một “phương tiện truyền thông đại chúng” vì nó chỉ lưu hành trong nội bộ công ty và không được bán rộng rãi ra thị trường. Herbert Blumer đã phân biệt bốn đặc điểm sau đây để nhận dạng khái niệm đại chúng:

- Đại chúng bao gồm những người thuộc mọi thành phần xã hội, bất kể nghề nghiệp, trình độ học vấn hay tầng lớp xã hội nào (nghĩa là có những đặc trưng rất dị biệt nhau). - Nói đến đại chúng là nói đến những cá nhân nặc danh, nghĩa là: vì nhắm đến một công chúng đông đảo, nên nhà truyền thông không thể biết ai là ai, và khi truyền thông thì họ cũng ý thức rằng thông tin của họ có thể đến với bất cứ ai, chứ không chỉ riêng một ai hay một nhóm người nào mà thôi.

13

- Các thành viên của đại chúng thường là độc lập nhau, không ai biết ai, không có những sự tương tác hay những mối quan hệ gì gắn bó với nhau (khác với những khái niệm như “cộng đồng” hay “hiệp hội” chẳng hạn). - Đặc điểm thứ tư của đại chúng là hầu như không có hình thức tổ chức gì, hoặc nếu có thì cũng rất lỏng lẻo. [Dẫn lại theo Alphons Silbermann, Communication de masse, Paris, Nxb Hachette, 1981, tr. 15] QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG

Mỗi khi đề cập tới truyền thông, người ta thường nhắc tới công thức “5W” nổi tiếng của Harold Lasswell: “Ai nói cái gì, bằng kênh nào, nói cho ai, và có hiệu quả gì?” (“Who says what in which channel to whom with what effect?”) [Harold Lasswell, “The structure and function of communication in society”, trong Lyman Bryson (Ed.), The Communication of Ideas, New York, 1948, tr. 37]. Đây là một công thức rút gọn gợi ý giúp chúng ta liệt kê ra những yếu tố chính phải có trong nội dung một bản tin. Tuy nhiên, giới hạn của công thức này là chỉ hình dung quá trình truyền thông như một đường thẳng (tuyến tính) giữa một đầu là người phát tin (transmitter), và đầu kia là người nhận tin (receiver). Do đó, với công thức này, người ta dễ rơi vào khuynh hướng chỉ quan niệm về người nhận tin như một người nhận tin một cách thụ động (xem sơ đồ 1). Người phát tin

Người nhận tin Kênh truyền tin

Sơ đồ 1. Mô hình truyền thông tuyến tính

14

Về sau, các nhà nghiên cứu thường không còn quan niệm quá trình truyền thông một cách tuyến tính như trên nữa, mà quan niệm quá trình truyền thông như một chu kỳ, với dạng đường vòng khép kín, trong đó bao gồm bốn giai đoạn chính như sau: phát tin, truyền tin, nhận tin, và phản hồi. Đây là quan niệm đã được nhà ngôn ngữ học Roman Jakobson phác thảo một cách khá hoàn chỉnh (xem sơ đồ 2).

Sơ đồ 2. Mô hình truyền thông chu kỳ theo Jakobson

Ngöôøi phaùt tin

Ngöôøi phaùt tin Ngöôøi nhaän tin

Phaûn hoài

Phaùc thaûo thoâng ñieäp trong ñaàu

PHAÙT TIN

Giaûi thích thoâng ñieäp

NHAÄN TIN

TRUYEÀN TIN

Boä loïc

Giaûi maõ Boä loïc

Maõ hoùa

Tieáng ñoäng

Keânh truyeàn tin

Boä loïc

Thu nhaän tin Boä loïc

Nguồn: Michel de Coster, Introduction à la sociologie, 3è édition, Bruxelles, Nxb De Boeck, 1992, trang 98.

Xuất phát từ ý tưởng của ngành điều khiển học, mô hình truyền thông theo chu kỳ này quan niệm rằng: một thông điệp, sau khi được phát ra, luôn luôn gây ra một phản ứng nào đó về phía người nhận tin,

15

và do đó, người nhận tin sẽ có một thông điệp phản hồi (feedback) gởi về lại cho người phát tin ban đầu. Lúc này, người nhận tin cũng trở thành một người phát tin. Như vậy, quá trình truyền thông thực chất phải được hiểu như là một quá trình trao đổi thông tin giữa người này với người khác trong cuộc sống xã hội. Chúng ta hãy khảo sát kỹ hơn từng giai đoạn trong mô hình này của Jakobson. Giai đoạn phát tin (emission) Truyền thông là bộc lộ một ý tưởng của mình bằng một hệ thống tín hiệu (signs), dưới dạng ngôn ngữ hoặc cử chỉ, nghĩa là bằng một thứ mã (code) mà người phát tin có thể hiểu được – thao tác này gọi là mã hóa (coding). Có thể nói mỗi ngôn ngữ là một hệ thống mã: tiếng nói không là gì khác hơn là một chuỗi những âm thanh, còn chữ viết là một chuỗi những ký tự, và những âm thanh hay ký tự này được sắp xếp và phối hợp với nhau theo một số qui tắc ngữ pháp nhất định để có thể mang những ý nghĩa nào đó. Giữa giai đoạn “phác thảo thông điệp trong đầu” và giai đoạn “mã hóa”, thường xảy ra một thứ hiện tượng giống như “bị nhiễu”: nội dung một thông điệp (message) sau khi được mã hóa (nghĩa là sau khi được nói ra thành lời, hay được viết ra trên giấy) đôi khi không hoàn toàn phản ánh chính xác ý tưởng định nói trong đầu. Hiện tượng này được Jakobson gọi là “filtering”, chúng tôi tạm dịch là hiện tượng thông qua “bộ lọc” (có thể hình dung tương tự như việc lọc cà-phê qua cái phin). Sở dĩ có hiện tượng này, một mặt có thể do người phát tin chưa làm chủ được ngôn ngữ mà mình sử dụng, nhưng cũng có thể do ngay bản thân ngôn ngữ thường không cho phép diễn đạt được hết những ý tứ hoặc những sắc thái tế nhị hoặc phức tạp mà người phát tin muốn bày tỏ.

16

Giai đoạn truyền tin (transmission) Giai đoạn truyền đạt thông tin có thể diễn ra bằng hình thức tiếp xúc trực tiếp (đối diện) giữa người phát và người nhận tin, nhưng cũng có thể thông qua một phương tiện kỹ thuật trung gian hay một kênh truyền thông nào đó (medium) như điện thoại, máy fax, telex, máy nhắn tin, thư từ (viết trên giấy), thư điện tử (e-mail)... Cũng có khi “kênh truyền thông” ở đây lại là một người thứ ba, đóng vai trò trung gian, mà người phát tin nhờ nhắn lại cho người nhận tin. Khi thông điệp được chuyển qua một kênh trung gian nào đó thì rất có khả năng là sẽ bị nhiễu bởi những loại tiếng ồn (noise) khác nhau (máy bị rè, tiếng động ồn ào xung quanh...), và do đó nội dung thông điệp có thể bị sai lạc hoặc bị mất đi một phần nào đó. Còn trong trường hợp truyền tin thông qua một người thứ ba (nhờ nhắn lại), thì rất có thể “bộ lọc” chủ quan của người này cũng làm biến dạng đi ít nhiều nội dung của thông điệp. Giai đoạn nhận tin (reception) Chúng ta cần phân biệt mấy thao tác khác nhau để có thể hiểu được đặc trưng của giai đoạn này (mặc dù thực ra những thao tác này trong thực tế xảy ra gần như cùng một lúc). Trước hết là thao tác “thu nhận tin” (tức là ghi lại thông điệp “message recording"). Ở đây, việc ghi nhận tin có thể không được đầy đủ, một phần do tác động của các loại “tiếng ồn”, nhưng cũng có thể một phần do người nhận tin không nắm bắt được trọn vẹn thông điệp. Người nghe thường không nghe được đầy đủ trọn vẹn thông điệp được phát ra: anh ta nghe không rõ hoặc nghe không kịp, nhất là khi mà thông điệp được phát ra quá dài dòng. Lúc đó, người nhận tin chỉ ghi nhớ được một phần của thông điệp mà thôi: vì không thể ghi nhớ toàn văn nội dung thông điệp giống như một cái máy ghi âm, nên anh ta buộc phải chọn lọc một số thông tin mà anh ta có thể nhớ được, một 17

cách có ý thức hay không có ý thức. Người nghe thường “chọn lọc” theo những tiêu chuẩn như: những vấn đề mà anh ta đang quan tâm, những nội dung phù hợp với suy nghĩ của anh ta, những điều mà anh ta cho là quan trọng, hoặc hấp dẫn, v.v... (Có thể tham khảo một thí dụ: trong trò chơi kể một câu chuyện cho một dãy thành viên, trong đó người đứng trước kể lại câu chuyện cho người đứng sau, nhưng chỉ nói nhỏ vào tai mà thôi, người ta thường thấy kết quả đến người cuối cùng là câu chuyện thường đã không còn như nguyên bản kể cho người đầu tiên. Có thể coi đây là một thí dụ sinh động minh chứng cho hiện tượng tri giác có chọn lọc của con người chúng ta [selective perception].) Thao tác giải mã (decoding) : chúng ta biết là mỗi ngôn ngữ bao gồm những từ, những thuật ngữ hoặc thành ngữ mang những biểu tượng đặc thù. Vì thế, nếu người nhận tin không nắm được đầy đủ chìa khóa của “hệ thống mã” này (nghĩa là không hiểu hết ý nghĩa của các từ ngữ được sử dụng trong thông điệp) thì rất có thể sẽ tiếp thu không đúng, “giải mã” không đúng nội dung thông điệp. Sau khi giải mã thông điệp, người nhận tin còn phải giải thích nội dung thông điệp để hiểu được ý nghĩa của nó. Việc giải thích này được tiến hành phụ thuộc vào cái khung qui chiếu (frame of reference) của người nhận tin. Cái khung này chủ yếu được qui định bởi nguồn gốc xã hội, tuổi tác, quá trình giáo dục và trình độ học thức của người nhận tin; nói cách khác, có thể gọi đây là hành trang văn hóa của người nhận tin. Cái khung này có hai trục: trục nhận thức (cognitive dimension), và trục cảm xúc (affective dimension). Vốn kiến thức cũng như vốn sống sẽ cung cấp những yếu tố cần thiết để giải thích thông điệp: đây chính là trục nhận thức. Mặt khác, hành trang tâm lý (vốn cũng là hệ quả của môi trường xã hội và của quá trình giáo dục) cũng như tâm trạng hay tính khí lúc nhận thông điệp cũng đều là 18

những yếu tố có thể ảnh hưởng tới cách giải thích nội dung thông điệp: đây là trục cảm xúc. Tóm lại, việc tiếp nhận các thông điệp thường mang tính chất cục bộ (nghĩa là không ghi nhận đầy đủ trọn vẹn thông điệp), chọn lọc (người nhận tin thường chọn lọc để tiếp nhận một số thông tin), và lý giải (tức là thông điệp luôn luôn được người nhận tin giải thích theo cái khung qui chiếu của mình, hiểu nó theo vốn liếng văn hóa riêng). Cuối cùng, thông điệp do người phát tin chuyển đi thường gây ra một kết quả là làm cho người nhận tin có một phản ứng nào đó trở lại cho người phát tin. Như vậy, lúc này, người nhận tin cũng trở thành một người phát tin, một nguồn thông tin. Phản hồi (feedback) Chính là bắt nguồn từ ngành điều khiển học (cybernetics) mà ngành khoa học nghiên cứu về truyền thông đã nhấn mạnh tới khái niệm “phản hồi” và tới những tác động của nó trong đời sống xã hội. Ngành điều khiển học cho rằng bất cứ một tổ chức hay một cơ thể nào đều chỉ có thể tồn tại được với hai điều kiện: đối với bên ngoài, bằng cách tự điều chỉnh theo những biến thái của môi trường; và ở bên trong, bằng cách tự mình thích ứng nhằm đáp ứng được với những biến thái sâu xa hơn sẽ diễn ra ở môi trường bên ngoài. Ý tưởng về sự phản hồi trong ngành điều khiển học trên đây được đưa vào lĩnh vực truyền thông để thấy rằng không thể giải thích quá trình truyền thông theo mô hình truyền thống của Lasswell, mà cần phải hiểu rằng quá trình truyền thông là một quá trình trao đổi thông tin giữa hai nguồn thông tin. Truyền thông không thể được quan niệm như một quá trình tuyến tính, một chiều, xảy ra một lần là xong (giữa người phát tin và người nhận tin), mà phải được xem xét như một chu kỳ (cycle) trong đó có nhiều thông điệp được trao đổi qua lại

19

với nhau giữa các nguồn thông tin. Hay nói cách khác, chúng ta cần hình dung quá trình truyền thông luôn luôn diễn ra trong bối cảnh của các mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân. Mô hình truyền thông theo chu kỳ mà Jakobson phác thảo tuy chỉ đi sâu phân tích một chu kỳ truyền thông, nhưng nó đã nêu lên được những tính chất cơ bản của bất cứ qui trình truyền thông nào, dù đó là truyền thông liên cá nhân, tập thể hay đại chúng. Có hiểu được các giai đoạn trong mô hình truyền thông này, chúng ta mới có thể hình dung được một cách sâu xa tại sao phản xạ của người làm báo là luôn luôn tự đặt mình vào vị trí người đọc (luôn luôn phải trả lời câu hỏi “viết cho ai?"), và mới thấy hết được ý nghĩa biện chứng của mối quan hệ giữa người làm báo và đối tượng công chúng của mình.

TRUYỀN THÔNG LIÊN CÁ NHÂN VÀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Mỗi người chúng ta luôn luôn sống trong môi trường có nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau (với gia đình, với bạn bè, với đồng nghiệp...). Hành vi tiếp nhận truyền thông đại chúng chỉ là một trong những hành vi diễn ra trong môi trường xã hội ấy. Vì thế, thông thường nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng tác động đến chúng ta thông qua cái màng lưới quan hệ xã hội vốn có đó. Đây là một khám phá xuất phát từ một công trình điều tra nổi tiếng của Lazarsfeld, Berelson và Gaudet tiến hành vào năm 1940 ở bang Ohio (Mỹ) [People's Choice, dẫn lại theo Judith Lazar, Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, tr. 90-95]. Đây là công trình nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của những chiến dịch vận động tranh cử tổng thống đối với dân chúng Mỹ,

20

để tìm hiểu coi người dân quyết định thế nào khi đi bầu, và tại sao họ lại quyết định bầu cho một ứng cử viên nào đó. Điều bất ngờ mà cuộc điều tra này đã khám phá ra, đó là : trái ngược với điều mà người ta vẫn lầm tưởng, chiến dịch vận động tranh cử (chủ yếu thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng) hầu như không hề làm thay đổi ý định bầu cử vốn có của cử tri. Nói như vậy không có nghĩa là cuộc vận động không có tác động nào hết. Thực ra, tác động của chiến dịch vận động chỉ là : củng cố cho ý định bầu cử đã có từ trước của cử tri, hoặc là chỉ làm xuất hiện những ý định vốn đã tiềm tàng trong đầu của cử tri. Các tác giả trên lý giải như sau : người ta luôn luôn có tri giác mang tính “chọn lọc", và khi tiếp nhận các thông điệp từ truyền thông đại chúng, người ta thường có xu hướng dễ tiếp nhận những nội dung gì phù hợp với quan niệm của mình, và gạt bỏ ra ngoài tai những gì trái với hoặc xa lạ với suy nghĩ của mình. Vì thế, những ai vốn đã ủng hộ Đảng Dân chủ chẳng hạn thì thường chọn nghe những thông điệp của đảng này, hơn là đi nghe những diễn văn của Đảng Cộng hòa. Nhìn chung, số người thay đổi ý định bầu cử chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Nói cách khác, các chiến dịch vận động tranh cử thực ra chỉ đem lại một hiệu quả rất yếu ớt trong việc thuyết phục người dân thay đổi ý định bầu cử của mình. Cuộc điều tra trên đây cũng khẳng định rằng quyết định chọn lựa của người dân phụ thuộc vào việc họ là thành viên của những nhóm xã hội nào (tôn giáo, gia đình, câu lạc bộ...). Những người sống trong cùng những hoàn cảnh kinh tế và văn hóa-xã hội tương tự nhau, thì thường có cùng những suy nghĩ và chọn lựa giống nhau. Qua điều tra, người ta mới khám phá ra rằng chính những buổi trao đổi, trò chuyện, tranh luận... với những người xung quanh trong những nhóm xã hội ấy đã tác động lên suy nghĩ của người dân nhiều hơn so với những thông điệp được phát ra từ các phương tiện truyền thông đại chúng. Các tác 21

giả nghiên cứu đã nhận diện ra vai trò quan trọng của những người “hướng dẫn dư luận” (opinion leaders) trong các nhóm xã hội, và từ đó phác họa ra giả thuyết về mô hình truyền thông hai giai đoạn (twostep flow of communication), trong đó những người “hướng dẫn dư luận” là những người đóng vai trò trung gian trong quá trình truyền thông này.

Sơ đồ 3. Giả thuyết về quá trình truyền thông qua hai giai đoạn TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG ý tưởng

ý tưởng

Người hướng dẫn dư luận

Người dân

ý tưởng

ý tưởng

ý tưởng

Nguồn: Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 95. Những người mà các nhà nghiên cứu gọi là “hướng dẫn dư luận” ở đây thực ra chỉ là những người là có uy tín trong các nhóm xã hội (nhóm gia đình, nhóm bạn bè, nhóm đồng nghiệp...), có nhiều kiến thức và hiểu biết do thường xuyên đọc báo hay nghe rađiô, và thường được những người khác trong nhóm hỏi han ý kiến. Bản thân họ, chưa chắc họ đã ý thức mình là người “hướng dẫn dư luận”. Trong một

22

nhóm, có khi người này là người “hướng dẫn dư luận” trong lĩnh vực văn hóa, người khác thì trong lĩnh vực mua sắm, và một người khác nữa trong lĩnh vực chính trị, v.v... Trong quá trình điều tra, xác định được một người là người “hướng dẫn dư luận” không phải là chuyện dễ dàng, nhất là khi chúng ta tiến hành điều tra nơi một số lượng dân cư đông đảo. Người ta thường đặt ra hai loại câu hỏi sau để tìm kiếm nhân vật này: (1) Trong thời gian gần đây, ông/bà có bao giờ tìm cách thuyết phục người khác về một chuyện gì đó hay không? (2) Trong thời gian gần đây, có ai đến hỏi ý kiến ông/bà về một chuyện gì đó hay không ? Công trình nghiên cứu trên đây đã mở đầu cho nhiều cuộc điều tra về sau nghiên cứu về vai trò của truyền thông liên cá nhân đối với truyền thông đại chúng. Qua đó, người ta nhấn mạnh rằng quá trình truyền thông không phải lúc nào cũng đi theo con đường “từ trên xuống dưới", mà thông thường là đi theo qui luật “ngang hàng”: người dân thường trò chuyện, tranh luận, hay tìm hiểu về một chuyện gì đó với những người thuộc cùng giới, cùng tầng lớp, cùng môi trường xã hội, chứ ít khi hỏi han hoặc trò chuyện với những người có vị thế xã hội xã hội cao hơn. (Một thí dụ rất dễ thấy: một bà nội trợ hiếm có khi nào đi mua sắm ngay lập tức một món đồ ngay sau lúc xem quảng cáo trên báo chí hay trên ti-vi, nhất là nếu đây là một món tương đối đắt tiền; bà ta thường đi hỏi thêm ý kiến một vài người bạn ở cùng xóm hoặc làm cùng cơ quan trước khi đi đến quyết định cuối cùng.) Các cuộc điều tra đã chứng minh rằng người dân thường không chịu ảnh hưởng từ truyền thông đại chúng một cách trực tiếp, như một “mũi kim chích", mà thường là gián tiếp thông qua việc trao đổi, hỏi han với những người có uy tín trong các nhóm xã hội của họ, và lối suy nghĩ cũng như chính kiến của họ thường được xác lập thông qua những cuộc trò chuyện, giao tiếp mang tính chất liên cá nhân đó. Nói 23

cách khác, hiệu quả tác động của truyền thông đại chúng thường chỉ diễn ra một cách trọn vẹn khi được tiếp nối bởi các quá trình truyền thông liên cá nhân, nghĩa là thông qua các mối quan hệ trong các nhóm xã hội và trong từng môi trường xã hội cụ thể.

Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 1:

- “Truyền thông” là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ tổ chức xã hội nào. - Cần phân biệt ba loại hình truyền thông liên cá nhân, truyền thông tập thể, và truyền thông đại chúng. Nhận thức rõ sự khác biệt giữa “truyền thông đại chúng” (với tư cách là một quá trình xã hội) và “các phương tiện truyền thông đại chúng” (vốn là những kênh hay những công cụ kỹ thuật được dùng để thực hiện quá trình truyền thông đại chúng). - Tìm hiểu kỹ lưỡng sơ đồ truyền thông theo chu kỳ (của Jakobson), và những đặc điểm của từng giai đoạn trong chu kỳ truyền thông này. - Mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và truyền thông liên cá nhân trong xã hội.

Câu hỏi ôn tập:

1. Hãy định nghĩa thế nào là “truyền thông liên cá nhân", thế nào là “truyền thông tập thể", và thế nào là “truyền thông đại chúng". 2. Liệt kê các loại phương tiện truyền thông đại chúng. 3. Hãy cho biết những đặc điểm chính của công chúng của các phương tiện truyền thông đại chúng.

24

4. So sánh hai mô hình truyền thông theo Lasswell và theo Jakobson. Hãy trình bày đặc điểm của từng giai đoạn trong mô hình truyền thông của Jakobson. 5. Thế nào là mô hình truyền thông tuyến tính, và mô hình truyền thông hai giai đoạn (two-step flow of communication)?

Câu hỏi thảo luận nhóm: (hoặc tự mình trả lời bằng suy nghĩ cá nhân)

1. Thử diễn giải ý nghĩa của mô hình truyền thông của Jakobson đối với những người làm công tác truyền thông. Cho một vài thí dụ cụ thể. 2. Trong thực tế xã hội, truyền thông đại chúng có liên quan thế nào với truyền thông liên cá nhân ? Hãy tìm thí dụ và giải thích mối quan hệ giữa hai quá trình truyền thông này.

25

Bài 2

LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG. MỘT ĐỊNH CHẾ XÃ HỘI MỚI Giới thiệu khái quát: Chương này giới thiệu lịch sử ra đời của các phương tiện truyền thông đại chúng trên thế giới, từ báo chí cho tới phát thanh và truyền hình, cũng như đặc điểm của quá trình hình thành định chế truyền thông đại chúng. Phần cuối chương này nói về những đối tượng nghiên cứu của bộ môn xã hội học về truyền thông đại chúng.

Mục tiêu của chương này: Hình dung một cách khái quát lịch sử hình thành các phương tiện truyền thông đại chúng trên thế giới. Hiểu rõ các khái niệm “định chế xã hội”, và “định chế truyền thông đại chúng” – xét với tư cách là một định chế xã hội. Vị trí của định chế truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại. Nắm được những lĩnh vực nghiên cứu của bộ môn xã hội học truyền thông đại chúng. Các phương tiện truyền thông đại chúng theo nghĩa mà chúng ta hiểu ngày nay, trong đó trước tiên là báo chí, chỉ thực sự bắt đầu xuất hiện tại châu Âu từ thế kỷ XIX cho đến nay. Có thể nói các phương tiện truyền thông đại chúng chỉ ra đời cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. 26

NHỮNG PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG CỔ TRUYỀN Trong lịch sử thế giới, trước khi có các phương tiện truyền thông đại chúng, mỗi dân tộc đều đã sáng tạo ra những phương tiện truyền thông riêng của mình để đáp ứng nhu cầu thông tin trong sinh hoạt xã hội. Trong xã hội Việt Nam thời xa xưa, cũng đã từng có loại phương tiện thông tin bằng sự truyền khẩu, và phương tiện thông tin bằng chữ viết. Các phương tiện truyền thông bằng truyền khẩu bao gồm: - Những câu ca dao và những bài hát hoặc bài thơ dân gian, - Nhân vật “thằng mõ” trong làng xã thời xưa, - Và các thể loại ca kịch cổ truyền. Và bên cạnh đó là các phương tiện thông tin bằng chữ viết như: các sớ tấu mà hệ thống quan lại ở các địa phương phải gởi về triều đình; và các biên niên sử [Xem Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1930, Sài Gòn, Nxb Trí Đăng, 1973, tr. 21-27]. Thế nhưng, tất cả các phương thức truyền thông xa xưa đó đều chưa phải là những “phương tiện truyền thông đại chúng” đúng nghĩa mà chúng ta hiểu bây giờ.

KỸ THUẬT ẤN LOÁT Tìm hiểu về lịch sử của truyền thông đại chúng, chúng ta không thể không chú ý tới các bước phát triển của các kỹ thuật truyền thông, xét với tư cách là những công cụ chứa đựng và truyền tải thông tin. Bởi một lẽ đơn giản là chỉ với một trình độ phát triển kỹ thuật công

27

nghiệp thì các phương tiện truyền thông mới có thể trở thành những phương tiện truyền thông mang tính chất đại chúng. Trước kia, khi chưa nghĩ ra các kỹ thuật in ấn, người ta chỉ có thể nhân bản các cuốn sách bằng cách chép tay. Trên các sách báo ở phương Tây, người ta thường nhắc tới Johannes Gutenberg (người Đức) như là người đầu tiên phát minh ra kỹ thuật ấn loát vào năm 1440. Nhưng thực ra, kỹ thuật này đã bắt đầu xuất hiện ở Trung Hoa từ thế kỷ thứ X. Vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, vua Tần Thủy Hoàng đã từng cho khắc trên những tấm vỏ tre những tác phẩm thời cổ xưa; phương pháp khắc trên gỗ này sau đó được dần dần phổ biến dưới thời nhà Đường, nhà Tần… Nhưng kỹ thuật ấn loát chỉ thực sự được khám phá vào triều nhà Tống ở thế kỷ thứ X, khi người ta áp dụng kỹ thuật khắc các nét chữ lên trên một phiến gỗ, sau đó mặt gỗ được trét một thứ bột nhão để in lên giấy. Phương pháp này được hoàn thiện khi Pi Ching lần đầu tiên chế tạo ra kỹ thuật đúc chữ rời bằng thạch cao vào khoảng năm 1041-1048. Người ta xếp những chữ rời này lên trên một tấm kim loại, rồi sau đó trét bột nhão (làm bằng thân cây nghiền nát) để in lên giấy. Mặt khác, chính Trung Hoa cũng là cái nôi sáng chế ra cách làm giấy rất sớm, từ năm 105 sau Công nguyên, sau đó người Ả Rập mới học lại kỹ thuật này vào thế kỷ thứ VIII rồi truyền dần lại cho các nước châu Âu từ thế kỷ thứ X trở đi. Ở Việt Nam, nghề in xuất hiện vào thế kỷ XV, do công lao của tiến sĩ Lương Như Hộc (1420-1501) vốn học được kỹ thuật in sách sau hai lần đi sứ ở Trung Hoa và về truyền dạy lại cho người dân ở làng Liễu Tràng, huyện Gia Lộc (Hải Hưng). Kỹ thuật in thời đó là khắc chữ lên trên một tấm gỗ, sau đó quét mực để in lên giấy. Liễu Tràng về sau trở thành nơi có những thợ in rất khéo tay và gần như là 28

nơi duy nhất in sách vở trong nước [xem Huỳnh Văn Tòng, sách đã dẫn, tr. 27-29]. Cho đến nay, Lương Như Hộc vẫn thường được coi là ông tổ của nghề in ở Việt Nam, mặc dù cũng có tài liệu cho rằng nước ta đã biết làm giấy và biết nghề in bằng bản khắc gỗ, kể cả kỹ thuật in bằng chữ rời khắc gỗ, từ thời nhà Lý và nhà Trần, tức khoảng thế kỷ XII-XIII [xem Trần Đức Cường, “Sự cần thiết viết lịch sử báo chí Việt Nam”, Người làm báo, 8-1997, tr. 30] Ở châu Âu, mặc dù kỹ thuật ấn loát ra đời sau Trung Hoa, nhưng những cải tiến tiếp sau phát minh đầu tiên của Gutenberg đã khiến cho ngành này phát triển và công suất in nhanh chóng gia tăng, từ chỗ sử dụng gỗ chuyển sang việc sử dụng sắt và đồng, rồi từ chỗ in bằng máy thủ công chuyển sang in bằng máy sử dụng động lực máy hơi nước... vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Chúng ta có thể điểm lại một số sáng chế quan trọng trong ngành in trên thế giới như sau: - Thế kỷ X: kỹ thuật in bằng cách khắc các nét chữ lên trên phiến gỗ ở Trung Hoa. - 1041-1048: Pi Ching (Trung Hoa) lần đầu tiên chế tạo ra kỹ thuật chế tạo chữ rời bằng thạch cao. - 1440: Johannes Gutenberg (Đức) phát minh ra kỹ thuật in ty-pô với chiếc máy ép bằng vít, chế tạo ra chữ rời, lúc đầu bằng gỗ, về sau bằng kim loại. - 1780: Francois Didot (Pháp) phát minh ra kỹ thuật in bằng chữ sắt (bằng cách sắp chữ đúc rời), nhờ đó công suất in tăng gấp đôi. - 1803: chiếc máy in cơ khí đầu tiên của Friedrich Koenig (Đức), năm 1811 in được 300 tờ (một mặt) một giờ. - 1814: Friedrich Koenig hoàn chỉnh chiếc máy in đầu tiên chạy hoàn toàn bằng động lực máy hơi nước cho tờ báo Times ở Luân Đôn,

29

in được 1.100 tờ (một mặt) một giờ. Năm 1818, Koenig và Bauer làm ra chiếc máy in được hai mặt. - 1876: Charles Gillot (Pháp) phát minh ra kỹ thuật làm cliché (bản kẽm), nhờ đó người ta bắt đầu có thể đưa hình ảnh lên mặt báo. - 1884: Mergenthaler (Mỹ) sáng chế kỹ thuật linotype (sắp chữ bằng máy, thay vì sắp từng chữ rời bằng tay, và đổ chữ chì đúc liền từng dòng). Sáng chế này là một bước ngoặt căn bản trong quá trình cơ khí hóa ngành ấn loát. - 1904: bắt đầu có kỹ thuật in ốp-xét (offset). [có thể xem thêm Pierre Albert, Lịch sử báo chí (Dương Linh dịch), Hà Nội, Nxb Thế giới, 2003, tr. 38-39] Nhờ các tiến bộ kỹ thuật mà công suất in không ngừng tăng lên, và điều này ngay từ đầu đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện của báo chí. Một cái máy cổ xưa lúc ban đầu chỉ in được vài trăm tờ giấy mỗi ngày, rồi dần dà lên tới khoảng 3.000 tờ một ngày vào đầu thế kỷ XIX, và đạt mức 50.000 tờ giấy báo (khổ A1) trong một giờ vào cuối thế kỷ XX. Ngoài ra, lẽ tất nhiên, sở dĩ báo chí phát triển được là còn nhờ vào các tiến bộ kỹ thuật khác nữa trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX như sản xuất giấy và mực in, giao thông vận tải (nhất là khi ra đời xe lửa), bưu điện, điện tín (hay còn gọi là điện báo, telegraph) (1837), telex (1930)...

NHỮNG TỜ BÁO ĐẦU TIÊN

Trong lịch sử, đôi khi người ta nhắc tới những tờ “báo” cổ nhất (ở dạng sơ khai) như tờ Acta diurna (có nghĩa là “sự kiện hàng ngày”) xuất hiện tại La Mã từ năm 59 trước Công nguyên dưới thời hoàng đế Julius Caesar. Đây là một dạng tờ báo viết tay lên trên các phiến gỗ,

30

hàng ngày được trưng nơi công cộng để dân chúng biết các quyết định quan trọng của nghị viện, biết lịch tranh tài ở đấu trường, ngày xét xử các vụ án, đám cưới, đám ma... Hay tờ Kinh báo (Tching Pao, có nghĩa là “tờ báo của kinh đô”), tờ báo của triều đình Bắc Kinh (Trung Hoa), xuất hiện khoảng năm 400 sau Công nguyên và tồn tại suốt cho đến đầu thế kỷ XX, chuyên thông tin về các biến cố lớn và các quyết định của triều đình [xem Pierre Albert, sách đã dẫn, tr. 6-14]. Tuy nhiên, nếu hiểu theo đúng nghĩa của một “tờ báo”, những tờ báo sau đây thường được coi là xuất hiện sớm nhất trong lịch sử báo chí thế giới: - Đức 1605: tờ Relation, tờ báo đầu tiên ra đời tại Strasbourg (nay thuộc nước Pháp, nhưng hồi ấy còn thuộc nước Đức). - Bỉ 1605: tờ báo định kỳ Die Niewe Tidjingler (Tin tức Anvers), nửa tháng ra một số. - Đức 1609: tờ báo định kỳ Relation aller fuernemmen in Gedenk wuedigen Historien. 1660: tờ nhật báo đầu tiên Leipziger Zeitung (Nhật báo Leipzig). - Thụy Sĩ 1610: Ordinari Wochenzeitung. - Anh 1621: tuần báo Weekly News. 1702: tờ nhật báo đầu tiên của Anh là tờ Daily Courant. 1785: nhật báo Daily Universal Register, đến năm 1788 đổi tên thành nhật báo Times, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, là một trong những tờ báo sống lâu nhất thế giới. - Thụy Điển 1624: Hermes Gothicus. - Pháp 1631: La Gazette, tờ báo định kỳ đầu tiên do Renaudot sáng lập (ra hàng tuần, số ấn bản trung bình là 1.200 ở thế kỷ XVII, và lên tới 12.000 trong thế kỷ XVIII). 1777: tờ nhật báo đầu tiên của Pháp là tờ Le Journal de Paris (Nhật báo Paris). - Ý 1640: Gazzetta Pubblica.

31

- Tây Ban Nha 1641: Gaceta Semanal. Ở Việt Nam, tờ báo in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định báo, ra số một vào ngày 15-4-1865. Tờ Gia Định báo được phát hành vào ngày 15 mỗi tháng, có bốn trang, khổ 32x25cm. Lúc đầu, nhà cầm quyền Pháp giao cho Ernest Potteaux quản lý, đến năm 1869 giao cho Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của. Nội dung tờ báo chủ yếu đăng công văn, chỉ thị của nhà cầm quyền, nhưng cũng thêm có một phần đăng tin tức trong nước [theo Huỳnh Văn Tòng, sách đã dẫn, tr. 52] CÁC KỸ THUẬT TRUYỀN THÔNG VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG Sau báo chí, lần lượt ra đời điện ảnh, đài phát thanh và đài truyền hình trong nửa đầu thế kỷ XX, dựa trên nhiều phát minh kỹ thuật khác nhau. Nhà xã hội học truyền thông Francis Balle nhận định rằng, trong lịch sử các phương tiện truyền thông đại chúng, nói chung tốc độ ứng dụng diễn ra ngày càng nhanh kể từ khi phát minh ra một kỹ thuật cho tới khi một phương tiện truyền thông mới ra đời và được thương mại hóa, tức là được đưa ra thị trường một cách rộng rãi (xem bảng 1). Nếu máy in được Gutenberg sáng chế vào năm 1440, thì phải đợi đến năm 1863, tức bốn thế kỷ sau, báo chí mới thực sự trở thành một phương tiện phổ biến trong xã hội. (Francis Balle coi năm 1863, năm ra đời tờ nhật báo Le Petit Journal ở Pháp, có số ấn bản lên tới 400.000 tờ/ngày và bán với giá rất rẻ, mới là cái mốc thực sự của báo chí với tư cách là một phương tiện truyền thông đại chúng.) Còn kỹ thuật điện ảnh chỉ cần khoảng 70 năm, kể từ khi Joseph Plateau (người Bỉ) khám phá ra ảo giác về cử động vào năm 1829 (nếu

32

chúng ta xem 10 bức ảnh trở lên liên tiếp trong một giây, thì con mắt của chúng ta có ảo giác là đang nhìn thấy sự cử động), và nhờ đó người ta sáng chế ra những chiếc máy quay ảnh thô sơ đầu tiên vào khoảng năm 1830, cho tới khi anh em Lumière (người Pháp) chế tạo ra được chiếc máy quay phim đầu tiên năm 1895 ở Paris, và bắt đầu được thương mại hóa kể từ khoảng năm 1900. Nhưng kỹ thuật truyền sóng phát thanh thì còn nhanh hơn, từ lần thử nghiệm đầu tiên truyền sóng rađiô phát qua biển Manche từ Pháp sang Anh vào năm 1899 cho tới khi bắt đầu được thương mại hóa kể từ năm 1921 ở Pháp, chỉ còn mất hơn 20 năm. Còn kỹ thuật truyền hình thì chỉ mất hơn 10 năm, từ những lần phát sóng truyền hình thử nghiệm đầu tiên ở Anh, Mỹ và Đức vào khoảng năm 1928-1929 cho tới lúc bắt đầu được thương mại hóa và được phát sóng đều đặn từ năm 1936 ở Anh và năm 1941 ở Mỹ.

Bảng 1. Các phương tiện truyền thông đại chúng : từ khi phát minh ra kỹ thuật cho tới khi bắt đầu được thương mại hóa Phát minh

Thương mại

Khoảng cách

kỹ thuật

hóa

thời gian

Báo chí

1440

1863

hơn 4 thế kỷ

Điện ảnh

1830

1900

70 năm

Phát thanh

1899

1921

hơn 20 năm

Truyền hình

1929

1941

hơn 10 năm

Nguồn: Francis Balle, Institution et public des moyens d'information, Paris, 1973, tr. 76. Ngày nay, báo chí, phát thanh và truyền hình đã trở thành một phần sinh hoạt thông dụng trong đời sống hàng ngày của phần đông

33

dân chúng trên khắp hành tinh. Bảng 2 cho thấy tình hình tổng quan về tình hình trang bị ba phương tiện truyền thông đại chúng chính ở một số nước châu Á và phương Tây.

Bảng 2. Số rađiô, ti-vi, và số ấn bản nhật báo tính bình quân trên 1.000 dân tại một số quốc gia, năm 1996-1997 Số máy rađiô/

Số máy ti-vi/

Số ấn bản nhật

1.000 dân

1.000 dân

báo/ 1.000 dân

Đông Nam Á:

Brunei

302

250

69

Indonesia

155

68

23

Kampuchia

128

9

2

Lào

145

10

4

Malaysia

434

172

158

Myanmar

96

6

9

Philippines

161

52

82

Singapore

744

388

298

Thái Lan

234

254

64

Việt Nam

107

47

4

956

686

578

1.039

348

393

Trung Quốc

335

321

42

Ấn Độ

120

65

48

1.391

554

293

Một số nước ở châu Á và châu Úc : Nhật Hàn Quốc

Úc

Một số nước công nghiệp ở Bắc Mỹ và châu Âu : Mỹ

34

2.116

806

212

Canada

1.067

710

159

Anh

1.443

521

329

Pháp

946

595

201

Đức

948

567

305

Hà Lan

980

519

306

Ý

880

528

104

417

410

105

Liên bang Nga

Nguồn: United Nations, 2001 Statistical Yearbook, 45th issue, New York; và số liệu về ấn bản nhật báo: World Bank, 2002 World Development Indicators, New York. Ghi chú: - Rađiô và ti-vi: số liệu năm 1997. - Ấn bản nhật báo: số liệu năm 1996; riêng Trung Quốc là số liệu năm 1990.

ĐỊNH CHẾ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu xem thế nào là “định chế xã hội”. Định chế xã hội (hay cũng còn gọi là “thiết chế xã hội” [social institution]), hiểu theo nghĩa xã hội học, không phải là một nhóm người cụ thể, cũng không phải là một tổ chức hay một hiệp hội, mà là một thành tố (hay một tiểu hệ thống) của hệ thống xã hội. Mỗi định chế bao gồm những vai trò, những giá trị và chuẩn mực mà mọi thành viên đều thừa nhận. Nhà trường, chẳng hạn, là một định chế xã hội, trong đó có vai trò nhà giáo, vai trò học sinh, vai trò hiệu trưởng... và mỗi vai trò đều có một khuôn mẫu ứng xử nhất định. Khi nói tới một trường trung học X nào đó, chúng ta coi “nhà trường” đó như một tổ

35

chức xã hội cụ thể ; nhưng khi nói tới “định chế nhà trường”, thì chúng ta đề cập tới một tổng thể mẫu hình nhà trường (xét một cách trừu tượng) trong một xã hội nhất định nào đó. Định chế là một sản phẩm của đời sống xã hội. Mỗi định chế đáp ứng những nhu cầu nhất định của xã hội. Nó được định hình theo thời gian, khi mà một số ứng xử nào đó của con người được lập đi lập lại, rồi dần dần biến thành nề nếp, tập quán, và cuối cùng trở thành những chuẩn mực mà mọi người đều thừa nhận và tuân thủ. Như vậy, định chế xã hội là một hệ thống các quan hệ xã hội đã được xác lập ổn định trong đời sống xã hội. Người ta thường phân biệt mấy loại định chế xã hội chính như sau: các định chế kinh tế (liên quan tới các quá trình sản xuất và phân phối các của cải và dịch vụ), các định chế chính trị (liên quan tới việc phân bố và sử dụng quyền lực trong xã hội), các định chế thân tộc (như hôn nhân, gia đình), và các định chế văn hóa (như giáo dục, tôn giáo, phong tục, văn chương, nghệ thuật...). Với sự ra đời và phát triển của báo chí, phát thanh và truyền hình kể từ một hai thế kỷ trở lại đây, người ta thấy xuất hiện một định chế xã hội mới, chưa hề có trong các xã hội cổ truyền, đó là định chế truyền thông đại chúng. Xét về tính chất, định chế này nằm trong hệ thống các định chế văn hóa. Judith Lazar liệt kê ra một số đặc trưng tổng quát của định chế truyền thông đại chúng như sau [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 45] Các phương tiện truyền thông đại chúng, xét về bản chất, chỉ hoạt động trong lĩnh vực công cộng: xét về nguyên tắc, đây là định chế mở rộng cửa cho tất cả mọi người, và nó chỉ quan tâm đề cập tới những vấn đề hoặc những sự kiện có liên quan ít nhiều tới mọi thành viên

36

trong xã hội. Hiểu theo nghĩa này, một tờ báo khoa học chuyên sâu về vật lý chẳng hạn có thể chỉ có tổng cộng chừng vài trăm độc giả trên toàn thế giới, nhưng nó vẫn được coi là một tổ chức nằm trong định chế truyền thông đại chúng, vì bất cứ ai cũng có thể đăng ký mua nó được. Còn tờ nội san của một công ty đa quốc gia chẳng hạn có thể có số lượng ấn bản lên tới vài chục ngàn, nhưng vì nó không được phát hành ra công chúng một cách rộng rãi nên không thể coi nó như một tổ chức nằm trong định chế truyền thông đại chúng, mà chỉ là một phương tiện mang tính chất truyền thông tập thể. Định chế truyền thông đại chúng hoàn toàn không mang tính chất cưỡng bách đối với cá nhân, cá nhân có quyền tham gia hay không tham gia vào đây. Người dân có quyền mua hay không mua một tờ báo, xem hay không xem một bài báo hay một chương trình truyền hình. Đồng thời, một đặc điểm nữa của truyền thông đại chúng mà người ta có thể nói tới ở đây, đó là nó thường gắn liền với thời gian rảnh rỗi và nhu cầu giải trí của người dân. Truyền thông đại chúng là một ngành công nghiệp thực sự trong xã hội: nó đã trở thành một nghề sử dụng nhiều lao động chuyên nghiệp có những trình độ chuyên môn nhất định, có bộ máy tổ chức chặt chẽ và hoạt động theo hướng chuyên môn hóa, cần nhiều vốn liếng đầu tư về tiền của cũng như về kỹ thuật, và sản xuất ra cho xã hội nhiều loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Cuối cùng, vì đã được định chế hóa về mặt xã hội, nên hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn chịu sự chi phối và ràng buộc bởi một số chuẩn mực và qui tắc nhất định ít nhiều chặt chẽ hay lỏng lẻo tùy theo từng quốc gia, bao gồm những qui tắc thuộc về hệ thống pháp luật nhà nước lẫn những qui tắc thuộc về nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp. Những đặc trưng tổng quát nói trên của truyền thông đại chúng tất 37

nhiên sẽ có những điểm dị biệt tùy theo từng quốc gia, phụ thuộc vào những môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội ở từng nước. Nếu trong các xã hội cổ truyền, các định chế như gia đình hay nhà trường là những định chế có chức năng xã hội hóa (nghĩa là giúp cho các cá nhân hội nhập được vào xã hội) trong một giai đoạn nhất định trong cuộc đời của mỗi cá nhân, thì trong xã hội hiện đại, định chế truyền thông đại chúng làm chức năng xã hội hóa trong suốt cả cuộc đời của các cá nhân. Thông thường, người ta coi định chế truyền thông đại chúng có chức năng đáp ứng hai nhu cầu chính của người dân là nhu cầu thông tin và nhu cầu giải trí. Nhưng xét về mặt xã hội học, điều còn có ý nghĩa sâu xa và quan trọng hơn là định chế này tạo ra một không gian công cộng trong xã hội dân sự, trong đó mỗi công dân, về nguyên tắc, được xác lập quyền thông tin và quyền được thông tin về bất cứ chuyện gì xảy ra trong xã hội có liên quan đến quyền lợi và vận mệnh của mình. Như vậy, theo ý nghĩa này, định chế truyền thông đại chúng là một định chế độc đáo của một xã hội dân chủ đặt cơ sở trên một nhà nước pháp quyền, vốn là những đặc trưng chỉ có trong các xã hội hiện đại. Chúng ta không thể hình dung ra được một chế độ dân chủ nếu thiếu các phương tiện truyền thông đại chúng. Nói cách khác, có thể xem đây là một định chế tuy tự bản thân nó chỉ mang tính chất truyền thông và văn hóa, nhưng lại có những hệ lụy và những mối quan hệ tương tác hết sức quan trọng đối với các định chế chính trị lẫn các định chế kinh tế và xã hội khác.

XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu phong phú về

38

truyền thông đại chúng, từ những công trình nghiên cứu về báo chí từ góc độ sử học, những công trình điều tra nghiên cứu về các giới công chúng độc giả và khán thính giả dưới góc độ tâm lý học xã hội, cho tới những công trình phân tích nội dung về các thông điệp của truyền thông đại chúng theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học, của ngôn ngữ học xã hội…

Sơ đồ 4. Những lĩnh vực nghiên cứu của bộ môn xã hội học truyền thông đại chúng Nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng

Công chúng

Các nhà truyền thông

Nội dung truyền thông

Ảnh hưởng xã hội

Nghiên cứu về công chúng của các phương tiện truyền thông đại chúng

Nghiên cứu về đặc điểm và hoạt động của các nhà truyền thông

Phân tích nội dung truyền thông (thực nghiệm, và tín hiệu học)

Nghiên cứu về ảnh hưởng xã hội của truyền thông đại chúng

Nguồn: Chúng tôi lấy lại sơ đồ của Judith Lazar (Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, tr. 76), nhưng có bổ sung thêm phần nghiên cứu về “các nhà truyền thông”. Riêng trong lĩnh vực xã hội học, truyền thông đại chúng được nghiên cứu như một quá trình xã hội, và các phương tiện truyền thông đại chúng được khảo sát và phân tích dưới góc độ định chế xã hội.

39

Hay nói ngắn gọn như Alphons Silbermann, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành xã hội học trong lĩnh vực này là tìm cách làm sáng tỏ mối liên hệ giữa truyền thông đại chúng và xã hội. Silbermann cho rằng xã hội học về truyền thông đại chúng là bộ môn chuyên phân tích về hiện tượng truyền thông đại chúng và ý nghĩa của truyền thông đại chúng đối với cuộc sống của xã hội [Alphons Silbermann, sách đã dẫn, tr. 9]. Trong bộ môn xã hội học về truyền thông đại chúng, người ta thường phân biệt mấy lĩnh vực nghiên cứu chính như sau: nghiên cứu về công chúng của các phương tiện truyền thông đại chúng (khảo sát về các đặc điểm và ứng xử của các giới độc giả và khán thính giả của báo chí, phát thanh, truyền hình); nghiên cứu về các tổ chức truyền thông và hoạt động của các nhà truyền thông; phân tích nội dung các thông điệp truyền thông (bao gồm hai phương pháp chính là phương pháp phân tích thực nghiệm, và phương pháp phân tích tín hiệu học); nghiên cứu về ảnh hưởng hay tác động xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng (xem sơ đồ 4). Trong số các lĩnh vực nghiên cứu đó, thì những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng xã hội của truyền thông đại chúng thường được chú ý và gây ra nhiều tranh luận hơn hết. Trong lĩnh vực này, người ta thường đặt những câu hỏi như: các phương tiện truyền thông ảnh hưởng thế nào đối với hành vi và ứng xử của các thành viên xã hội ? Vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc rèn luyện và giáo dục các lứa tuổi thanh thiếu niên; quan hệ giữa truyền thông đại chúng và quá trình xã hội hóa, vai trò của truyền thông đại chúng trong quá trình hình thành ý thức xã hội ? Các phương tiện truyền thông đại chúng có phải là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng trong xã hội hay không?...

40

Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 2: - Lịch sử ra đời các phát minh kỹ thuật và quá trình hình thành các phương tiện truyền thông đại chúng. - Các khái niệm “định chế xã hội”, và “định chế truyền thông đại chúng”. - Những đặc trưng của định chế truyền thông đại chúng. - Đối tượng của bộ môn xã hội học về truyền thông đại chúng. Câu hỏi ôn tập: 1. Hãy cho biết một cách khái quát lịch sử ra đời của báo in trên thế giới. 2. Những phát minh kỹ thuật có ảnh hưởng thế nào đối với sự hình thành của các phương tiện truyền thông đại chúng? 3. Thế nào là “định chế truyền thông đại chúng”? 4. Hãy trình bày vắn tắt những đặc trưng tổng quát của định chế truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại. 5. Đâu là những lĩnh vực nghiên cứu chính của bộ môn xã hội học về truyền thông đại chúng?

Câu hỏi thảo luận nhóm: (hoặc tự mình trả lời bằng cách tìm đọc thêm tài liệu)

1. Các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò thế nào đối với một quốc gia đang phát triển? 2. Hãy thử nêu một số chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Việt Nam (tham khảo thêm bài của Trần Hữu Quang, “Những chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gòn thời Pháp thuộc”, tạp

41

chí Xã hội học, số 3&4, 1999, tr. 32-38.)

42

Bài 3

CÁC LÝ THUYẾT VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Giới thiệu khái quát: Nội dung chương này trình bày một số trường phái lý thuyết lớn trong lĩnh vực nghiên cứu về truyền thông đại chúng, đặc biệt là trường phái chức năng luận, trường phái phê phán, trường phái quyết định luận kỹ thuật...

Mục tiêu của chương này: Hiểu những cách đặt vấn đề khác nhau của các trường phái lý thuyết khi họ nghiên cứu vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng, và ảnh hưởng của chúng đối với người dân trong xã hội hiện đại.

Những công trình nghiên cứu về truyền thông đại chúng được bắt đầu tiến hành từ đầu thế kỷ XX, nhất là kể từ năm 1933 trở đi, khi mà Hitler lên nắm chính quyền ở Đức – sự kiện mà nhiều người cho là nhờ vào những chiến dịch tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông.

43

Trong lịch sử nghiên cứu về truyền thông đại chúng trên thế giới, người ta thường phân biệt ba giai đoạn khác nhau sau đây [xem David Barrat, Media Sociology, London, Tavistock Publications, 1986, tr. 16-18.]. Giai đoạn thứ nhất, bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ XX cho tới cuối thập niên 1930, là giai đoạn mà giới học thuật quan niệm rằng các phương tiện truyền thông có một sức tác động to lớn lên trên lối ứng xử và suy nghĩ của người dân. Nhóm tác giả tiêu biểu trong thời kỳ này là nhóm “trường phái Frankfurt” ở Đức vốn bao gồm những nhà trí thức chống đối lại Hitler và do đó về sau bị chính quyền quốc xã tống khứ ra nước ngoài. Các học giả này cho rằng các phương tiện truyền thông đại chúng ở Đức đã đóng một vai trò then chốt để những người theo chủ nghĩa quốc xã lên nắm được chính quyền. Lúc đã định cư ở Mỹ, trường phái này tiếp tục cảnh cáo rằng các phương tiện truyền thông đại chúng cũng đang ở trong quá trình gây ra những tác động tương tự trong xã hội Mỹ, tuy không phải là theo chủ nghĩa quốc xã như ở Đức, mà là làm tha hóa người dân. Họ cho rằng các phương tiện truyền thông ở Mỹ đang biến các cá nhân thành “những khối đại chúng” (masses), tàn phá văn hóa, và trở thành một thứ ma túy làm cho mọi người chỉ biết làm theo người khác và không còn tư duy độc lập và óc phê phán. Người ta thường gọi quan điểm của các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này là quan điểm theo mô hình “mũi kim tiêm” (hypodermic-needle model). Các nhà xã hội học theo khuynh hướng này cho rằng quá trình công nghiệp hóa đã tiêu diệt những mối liên hệ giữa người và người vốn tồn tại trong những cộng đồng truyền thống, tiền công nghiệp. Điều này dẫn tới hậu quả là hình thành nên một thứ “xã hội đại chúng” trong đó các cá nhân sống rời rạc nhau, không còn một chỗ dựa đáng tin cậy của cộng đồng cũ nữa, và trong bối cảnh 44

mất phương hướng đó, chỗ dựa mới duy nhất của họ là các phương tiện truyền thông đại chúng. Họ cho rằng xã hội đại chúng đã sản sinh ra những cá nhân không còn khả năng đề kháng trước sức thuyết phục của truyền thông đại chúng. Những thông điệp của các phương tiện truyền thông được “chích” vào cơ thể con người cũng dễ dàng như chích thuốc bằng một mũi kim tiêm vậy. Giai đoạn phát triển thứ hai trong quá trình nghiên cứu về truyền thông đại chúng là từ khoảng năm 1940 tới đầu những năm 1960. Đặc điểm của giai đoạn này là bắt đầu xuất hiện quan điểm đánh giá bớt bi quan hơn về vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng. Một số công trình điều tra ở Mỹ về ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đối với việc bầu cử và đối với sự chọn lựa của người tiêu dùng đã chứng minh cho thấy truyền thông đại chúng ít có hoặc thậm chí không có tác động trực tiếp đối với thái độ và ứng xử của người dân. Trái ngược với lập luận của các nhà nghiên cứu trong giai đoạn đầu nói trên (vốn cho rằng truyền thông đại chúng có tác động trực tiếp giống như một mũi kim chích), lúc này, người ta chỉ nói tới những tác động gián tiếp, thông qua nhiều bước trung gian. Khi phân tích ảnh hưởng của truyền thông đại chúng, các nhà xã hội học thời kỳ này chú ý nhấn mạnh đến vai trò của các nhóm xã hội (như bạn bè, gia đình, hàng xóm, những người “hướng dẫn dư luận” – opinion leaders) : các thông điệp của các phương tiện truyền thông đại chúng thường được “lọc” qua những kênh đó rồi mới đi tới cá nhân. Người ta nhìn nhận rằng công chúng của các phương tiện truyền thông không phải là một khối “đại chúng” đồng dạng, không có hình thù ; trái lại, đấy là một tập hợp bao gồm nhiều giới và tầng lớp xã hội khác nhau. Giai đoạn thứ ba trong lịch sử nghiên cứu về truyền thông đại chúng bắt đầu từ khoảng thập niên 1960 trở đi, với đặc điểm là xuất hiện nhiều xu hướng quan điểm nghiên cứu khác nhau, và rất nhiều đề 45

tài đa dạng. Chẳng hạn như ngoài việc nghiên cứu về công chúng và về tác động của truyền thông đại chúng, người ta còn nghiên cứu về nội dung các thông điệp của truyền thông đại chúng, về quá trình truyền thông đại chúng, quá trình sản xuất của các phương tiện truyền thông, nghiên cứu về đặc điểm của các nhà truyền thông và hoạt động của họ... Chúng ta sẽ khảo sát trước hết hai hướng tiếp cận lớn, là hướng tiếp cận theo quan điểm chức năng luận, và hướng tiếp cận phê phán, sau đó tìm hiểu qua một vài hướng tiếp cận khác.

HƯỚNG TIẾP CẬN THEO QUAN ĐIỂM CHỨC NĂNG LUẬN

Theo lý thuyết chức năng luận (functionalism), xã hội được quan niệm như một tổng thể trong đó bao gồm nhiều thành tố có liên hệ với nhau, mỗi thành tố đều có chức năng riêng của mình. Trong số các thành tố đó, có các phương tiện truyền thông đại chúng. Quan điểm chức năng luận thường nhấn mạnh đặc biệt tới các “nhu cầu” của một xã hội. Truyền thông đại chúng được coi như một định chế xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu duy trì tính ổn định, tính liên tục của một xã hội, cũng như nhu cầu hội nhập và thích nghi của các cá nhân trong xã hội ấy. Theo Robert Merton, để hiểu được ảnh hưởng xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng, chúng ta không thể chỉ căn cứ trên những lời tuyên bố hay những ý định công khai của các tổ chức này. Merton luôn luôn nhấn mạnh rằng, đối với mỗi hoạt động xã hội, chúng ta cần phân biệt rõ giữa mục tiêu công khai nhắm đến, với hiệu quả thực sự xảy ra (tức là chức năng) – bởi lẽ hai cái này có thể không trùng nhau. Nói cách khác, các chức năng xã hội của các

46

phương tiện truyền thông đại chúng không nhất thiết tương ứng với những mục tiêu công khai mà nhà truyền thông muốn nhắm tới. Một thí dụ: ngành y tế nhờ các phương tiện truyền thông mở một đợt vận động dân chúng đến khám sức khỏe tại các trạm y tế địa phương. Đó là mục đích công khai của chiến dịch tuyên truyền. Thế nhưng, trong quá trình tiến hành, chiến dịch này có thể dẫn đến những hậu quả bất ngờ, nằm ngoài ý định của các nhà y tế lẫn các nhà truyền thông. Quả vậy, cuộc điều tra về kết quả của chiến dịch vận động đã khám phá ra rằng hình ảnh nhân viên y tế địa phương trong con mắt của người dân đã được cải thiện rất nhiều so với trước: công việc vốn thầm lặng của nhân viên y tế nay bỗng nhiên được mọi người quan tâm chú ý và kính trọng hơn (nhờ tác động của các phương tiện truyền thông). Chính nhờ đó mà người dân tin cậy hơn vào các tổ chức y tế, và đồng thời, bản thân lĩnh vực quản lý ngành y tế cũng được củng cố và hoàn thiện thêm. Đây là một hiệu quả xã hội quan trọng, nhưng bất ngờ, của chiến dịch vận động tuyên truyền y tế này. Merton gọi những hiệu quả mà người ta muốn đạt được là những chức năng “công khai” (manifest), còn những hiệu quả xảy ra mà người ta không ngờ đến, là những chức năng “tiềm ẩn” (latent). Trong lý thuyết của mình, Merton còn phân biệt giữa “chức năng” (function) và “phản chức năng” (dysfunction). Chức năng là cái làm cho một hệ thống duy trì được sự tồn tại của mình và tiếp tục vận động trôi chảy. Còn phản chức năng là cái gì gây cản trở cho quá trình đó. Một hoạt động có thể vừa có những chức năng lẫn những phản chức năng. Chẳng hạn, chiến dịch vận động đi khám sức khỏe nói trên đây cũng có thể có tác dụng làm cho một số người đâm ra khiếp sợ hơn đối với ngành y tế (chẳng hạn khi thấy cảnh phòng mổ, xe cấp cứu...), và họ sẽ không dám đến phòng khám. Lasswell, một trong những tác giả tiên phong nghiên cứu về 47

truyền thông đại chúng, đã nêu lên ba chức năng chính của truyền thông đại chúng, đó là: kiểm soát môi trường xã hội; liên kết các bộ phận của xã hội với nhau; truyền tải di sản xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác. Charles Wright còn bổ sung thêm một chức năng thứ tư : giải trí. Xét về tầm quan trọng của truyền thông đại chúng đối với cá nhân, người ta có thể liệt kê ra những chức năng như sau. Chức năng đầu tiên dễ thấy nhất là có thể nhanh chóng báo động cho mọi người dân về một mối hiểm nguy sắp xảy ra, thí dụ một trận bão lớn sắp đổ bộ vào đất liền, hay một cuộc chiến tranh chẳng hạn. Vì mọi người đều có thể tiếp nhận được thông tin qua các phương tiện truyền thông, nên người ta có thể tìm cách tránh được các tai họa đã loan báo. Chức năng thứ hai là đáp ứng những nhu cầu thực tế hàng ngày của người dân trong xã hội. Năm 1954, nhân dịp xảy ra một cuộc đình công của giới báo chí ở New York, Berelson đã tranh thủ cơ hội này để điều tra xem người dân thiếu những gì khi họ không nhận được tờ nhật báo như mọi bữa: đó trước hết là những thông tin liên quan đến cuộc sống thực tế của họ như các chương trình truyền hình, rađiô, lịch chiếu phim, những cửa tiệm bán hàng giảm giá, tin thời tiết, v.v... Rõ ràng tờ báo là một công cụ có rất nhiều chức năng đa dạng trong cuộc sống hàng ngày. Chức năng quan trọng thứ ba của truyền thông đại chúng là nâng cao một hình ảnh xã hội nào đó, hay hợp thức hóa một vị trí xã hội nào đó. Chúng ta thường thấy là khi một ai đó được nêu tên trên báo (dĩ nhiên là theo hướng được biểu dương về một hành động tích cực nào đó, chứ không phải vì một chuyện tiêu cực), thì người này cảm thấy uy tín hay uy thế của mình được nâng cao, vì đơn giản là được nhiều người chú ý và biết đến mình. Đối với các tổ chức hay công ty cũng thế, do đó khi muốn quảng cáo cho đơn vị của mình, người ta 48

thường sử dụng đến các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí hoặc ti-vi. Những người đang ra tranh cử vào một chức vụ nào đó cùng thường thích được xuất hiện trên báo chí bằng cách này hay cách khác (được chụp hình, được phỏng vấn...) để gián tiếp vận động cử tri dồn phiếu cho mình. Chức năng quan trọng thứ tư là củng cố sự kiểm soát của xã hội. Một vụ “bể hụi” chẳng hạn, chỉ là chuyện có liên quan tới mười mấy hai chục người, và chỉ có ít người biết; nhưng nếu sự kiện lừa đảo này được đăng lên báo, thì nó trở thành một sự kiện công khai, được nhiều người biết đến, bàn tán, và lên án. Từ đó hình thành một áp lực của dư luận xã hội lên trên những hành vi tương tự, và đồng thời áp lực này trở thành một thứ rào cản hữu hiệu đối với các cá nhân. Chính là nhờ quá trình này mà truyền thông đại chúng củng cố vai trò kiểm soát của xã hội lên trên cá nhân, góp phần hạn chế những hành vi tiêu cực (hay “lệch chiều” - deviant) trong xã hội. Xét về mặt xã hội học, thì truyền thông đại chúng là một trong những định chế góp phần vào quá trình xã hội hóa các cá nhân. Chính là thông qua các kênh thông tin này mà các giá trị xã hội, các qui tắc, luật lệ thành văn cũng như bất thành văn của xã hội được phổ biến và nhắc đi nhắc lại cho mọi người cùng biết, thuyết phục mọi người cùng đồng tình, và vận động mọi người cùng nhau tuân thủ. Truyền thông đại chúng là một phương tiện có khả năng làm cho xã hội trở nên đoàn kết, gắn bó với nhau, hội nhập cá nhân vào xã hội. Tuy nhiên, truyền thông đại chúng cũng có thể có những phản chức năng đối với xã hội. Cách thông tin của đài truyền hình CNN của Mỹ trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 hay của nhiều phương tiện truyền thông của Mỹ trong cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Irak gần đây là những trường hợp điển hình về việc các giới chính trị và quân sự sử dụng và lèo lái các phương tiện truyền thông 49

phục vụ cho mục đích của mình, và điều này đã bị nhiều tác giả nghiên cứu về truyền thông đại chúng phê phán gay gắt. Những thông tin loan truyền trên phương tiện truyền thông có thể làm gia tăng nỗi âu lo của các cá nhân, nhất là khi đăng tải những tin chém giết, nổi loạn, ly tán. cướp của... Nếu phát đi một cách dồn dập những loại tin u ám này mà không có bình luận, không có giải thích, thì rất dễ gây ra tâm lý hoang mang nơi người dân. Qua các cuộc điều tra, người ta nhận thấy: tình trạng đưa quá nhiều thông tin cũng có thể gây nên hậu quả là làm cho cá nhân rút lui về thế giới riêng tư của mình. Bị tràn ngập bởi các thông tin mà họ không tự mình lý giải được, cá nhân cảm thấy bị mất phương hướng, nên nơi rút lui an toàn nhất đối với những người này là gia đình, hay các thú vui giải trí... Điều này có thể dẫn đến chỗ làm cho họ trở nên “vô cảm” (apathy) trước những vấn đề chính trị và xã hội. Qua nhiều cuộc điều tra ở các nước phương Tây, người ta khám phá ra điều thoạt đầu tưởng chừng như nghịch lý, đó là những người coi tin tức nhiều giờ đồng hồ mỗi ngày không phải là những người tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội và chính trị. Có lẽ do bỏ ra quá nhiều thời gian để coi ti-vi, nên những người này không còn thời gian và sức lực để dấn thân vào các hoạt động xã hội. Người ta có thể nghiên cứu những chức năng và những phản chức năng của những thông tin do các phương tiện truyền thông phát đi đối với những tầng lớp xã hội cụ thể, thí dụ thiếu nhi, phụ nữ, công nhân, người già, một nhóm người dân tộc thiểu số... để khảo sát vai trò của truyền thông đại chúng trong xã hội. Truyền thông đại chúng trong một quốc gia có thể có những tác động lên trên thái độ và ứng xử của người dân, có thể góp phần bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân tộc, hoặc ngược lại. Truyền thông đại chúng từ nước ngoài truyền vào trong nước có thể làm phong phú 50

thêm cho bản sắc văn hóa địa phương, nhưng đồng thời cũng có thể là hiểm họa của một cuộc “xâm lược” về văn hóa, dần dà làm mất đi những truyền thống và bản sắc văn hóa của địa phương. Chính là nhằm hạn chế những tính chất “phản chức năng” của thông tin đại chúng, người ta luôn luôn nhấn mạnh đến trách nhiệm (xét về mặt xã hội học thì đây là chức năng) hướng dẫn dư luận của các phương tiện truyền thông. Chức năng này được thực hiện thông qua việc chọn lọc những tin tức để đăng tải, cùng với việc cung cấp những lời giải thích và bình luận cần thiết kèm theo các sự kiện. Lẽ tất nhiên, chức năng này được thực hiện thế nào là còn tùy thuộc vào quan điểm chính trị-xã hội và quan điểm thông tin của ban biên tập mỗi tờ báo. Nhưng nói chung, đó chính là công việc hàng ngày mà các ban biên tập và tòa soạn của các tờ báo đều phải làm. Chúng ta thấy trên các tờ báo, người ta thường xếp loại tin tức, bài vở theo từng trang mục riêng biệt, chẳng hạn trang Tin tức trong nước, trang Kinh tế, trang Thể thao, trang Văn hóa, trang Thời sự quốc tế v.v... để độc giả dễ theo dõi tùy theo nhu cầu quan tâm của mỗi người. Riêng ở trang nhất của một tờ nhật báo, người ta thường còn chọn lọc một tin tức quan trọng đáng chú ý nhất trong ngày làm “tin vơ-đét", cho in ở đầu trang, có nhiều cột, tít lớn, nhằm thu hút trọng tâm chú ý của người đọc. Ngoài ra, trong việc xử lý các tin tức, bài vở (tức là viết và biên tập), người ta còn thường bổ sung thêm vài dòng để nhắc lại bối cảnh của câu chuyện để bạn đọc tiện theo dõi và dễ nắm bắt được vấn đề hơn. Người ta thường ví công việc sắp xếp và biên tập âm thầm ấy của tòa soạn (âm thầm vì người làm công việc tòa soạn không xuất hiện tên tuổi trên mặt báo) như là công việc “bếp núc”. Tất cả những kỹ thuật “xào nấu” ấy của tòa soạn đều chỉ nhằm một mục tiêu là giúp bạn đọc có được một định hướng theo dòng thời sự hàng ngày, hiểu được tình hình thời sự của thế giới xung quanh, tránh cho người đọc

51

một cảm giác tràn ngập và mất phương hướng trước một mớ tin tức hỗn độn nếu không được xử lý. Qua một cuộc điều tra nhân cuộc đình công của giới báo chí ở New York năm 1948, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận được rằng cái mà người dân cảm thấy thiếu thốn không phải chỉ là thiếu thông tin (vì những ngày hôm đó không có báo đọc), mà còn là và nhất là thiếu những lời bình luận đi kèm theo các thông tin đó [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 36]. Báo chí là công cụ không những chỉ giúp cho người đọc theo dõi được tin tức, thời sự, mà còn giúp họ hiểu được thời sự. Nói rộng ra hơn, đó là giúp cho họ định hướng được cuộc sống của chính họ trong dòng thời sự xã hội đó. Tuy nhiên, ngay điểm này cũng có mặt trái của nó: nếu tờ báo đưa ra quá nhiều bình luận và không dành một khoảng trống nào đó cho việc tự mình suy nghĩ và chọn lựa thái độ của chính người đọc, và nếu người đọc cũng hoàn toàn chỉ biết trông chờ vào ý kiến bình luận có sẵn trên tờ báo, nấu sẵn theo kiểu “mì ăn liền", thì người đọc sẽ không còn khả năng phân tích, bình luận, hay phê phán của chính mình nữa. Hướng tiếp cận về các phương tiện truyền thông đại chúng theo lý thuyết chức năng thường bị chỉ trích là nặng về quan điểm bảo thủ. Nó thường chỉ xem xét truyền thông đại chúng như là một phương tiện nhằm duy trì sự ổn định của xã hội, chứ không như là một nhân tố có thể làm thay đổi xã hội. Tuy nhiên, như Max Weber nói, nếu chúng ta sử dụng hướng tiếp cận nghiên cứu này như một công cụ trung gian để khảo sát thực tế thì cũng vẫn có thể bổ ích cho công cuộc nghiên cứu.

52

CÁC LÝ THUYẾT PHÊ PHÁN

Trong lĩnh vực nghiên cứu về truyền thông đại chúng, đối lập với quan điểm chức năng, là quan điểm của các nhà nghiên cứu theo các lý thuyết phê phán (critical theorists) (người ta còn gọi đây là các lý thuyết về xung đột xã hội - theories of social conflict). Các lý thuyết phê phán đều cách này hay cách khác bắt nguồn từ những tư tưởng và lập luận của lý thuyết mác-xít để phân tích vấn đề. Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng phê phán này cho rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, truyền thông đại chúng là công cụ nhằm phục vụ cho việc củng cố và tái sản xuất hệ tư tưởng thống trị. Họ thường chỉ trích các tác giả theo quan điểm chức năng là quá nhấn mạnh tới bản thân quá trình truyền thông, mà xem nhẹ bối cảnh xã hội trong đó diễn ra quá trình truyền thông. Theo họ, chính nhân tố kinh tế hoặc nhân tố hệ tư tưởng (tùy theo trường phái) mới là nhân tố quyết định tính chất của hệ thống các phương tiện truyền thông. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là trường phái Frankfurt, vốn được thành lập năm 1923 bởi Max Horkheimer, trong đó gồm có những nhà nghiên cứu tên tuổi như T. Adorno, L. Lowenthal, E. Fromm, H. Marcuse. Họ cho rằng sở dĩ quá trình chuyển biến cách mạng của xã hội tư bản chủ nghĩa không thành công được, đó là do kiến trúc thượng tầng của hệ thống tư bản chủ nghĩa, trong đó đặc biệt là các phương tiện truyền thông đại chúng đã đóng vai trò khuynh đảo và cản trở quá trình diễn biến cách mạng của xã hội. Theo họ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nền sản xuất hàng loạt (mass production), và đi kèm theo đó là nền “văn hóa đại chúng” (mass culture), là những cơ sở tạo nên huyền thoại về một xã hội không có giai cấp. Các tác giả theo trường phái phê phán này quan niệm rằng cần phải vạch trần cái sự thật bị che giấu bên dưới cái hệ thống thống trị 53

đó. Chính vì thế mà họ đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc phân tích cái bối cảnh xã hội vốn bao trùm lên cả quá trình truyền thông, chứ không phải chỉ phân tích riêng lẻ quá trình truyền thông mà thôi. Họ gọi toàn bộ các hoạt động truyền thông đại chúng trong xã hội tư bản chủ nghĩa là một thứ “công nghiệp văn hóa” (cultural industry). Và theo họ, sở dĩ ngành công nghiệp này có thể phổ biến các sản phẩm của mình đến với mọi người, thì đó không phải là do bản thân tính chất “dân chủ” của chế độ, mà đơn giản chỉ là do sự mở rộng và phát triển của thị trường. Nếu mọi người đều có thể hưởng thụ các sản phẩm của ngành công nghiệp văn hóa này, thì chúng ta không thể coi đây là một điều kiện có khả năng tạo nên sự bình đẳng về văn hóa. Trái lại, theo các tác giả này, “văn hóa đại chúng” chỉ là một thứ sản phẩm dị dạng xuyên tạc nền dân chủ đúng nghĩa. Herbert Marcuse đã gọi xã hội tư bản chủ nghĩa này là xã hội mang tính chất “một chiều” (one-dimensional) vì nó vốn được tạo nên bởi thứ công nghiệp văn hóa đó, và ông ta coi các kỹ thuật truyền thông đại chúng chỉ là công cụ mê hoặc và điều khiển dân chúng, nhào nặn nên thái độ và suy nghĩ của người dân. Chính trong bối cảnh đó mà Marcuse nói đến tình trạng tha hóa của người dân. Nếu người dân thích xem các sản phẩm truyền thông đại chúng, thì chính là vì họ đã bị tha hóa, bị nô lệ vào dòng thác của thông tin đại chúng. Marcuse cho rằng chủ nghĩa tư bản đã xoa dịu những nỗi bất bình của tầng lớp bị trị bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thông để kích thích những thị hiếu vật chất và tầm thường vốn dễ dàng được thoả mãn. Vì thế, theo Marcuse, các phương tiện truyền thông đại chúng chính là một trong những nhân tố quyết định trong việc thống trị dân chúng trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khuynh hướng phê phán trong lĩnh vực nghiên cứu về truyền thông đại chúng hiện nay vẫn còn được tiếp nối với nhiều trường phái 54

khác nhau. Chẳng hạn, lý thuyết kinh tế chính trị có quan điểm là luôn nhấn mạnh tới nhân tố kinh tế khi phân tích về truyền thông đại chúng. Lý thuyết này khẳng định rằng cơ sở kinh tế quyết định hệ tư tưởng, chứ không phải ngược lại. Các tác giả theo quan điểm này chú ý đặc biệt tới cơ cấu sở hữu của các phương tiện truyền thông. Họ quan niệm rằng cần coi các phương tiện truyền thông như là một bộ phận thuộc về hệ thống kinh tế, và qua đó cũng gắn liền với hệ thống chính trị. Do đó, họ coi truyền thông đại chúng như là một phương tiện được sử dụng để hợp thức hóa (legitimation) và duy trì sự phân tầng kinh tế-xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa. Các tác giả theo trường phái này cũng thường lưu ý tới hiện tượng tập trung nhiều phương tiện truyền thông đại chúng vào trong tay của một vài tập đoàn lớn. Quả thật là ngày nay, chúng ta thấy ngày càng có nhiều vụ liên kết hoặc sát nhập giữa các đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí, và nhà xuất bản với nhau. Xu hướng này bộc lộ sự tập trung quyền lực ngay trong nội bộ giới truyền thông. Các tác giả cho rằng một trong hậu quả của hiện tượng tập trung này là hạn chế tính đa dạng trong cách thức thông tin cũng như trong các ý kiến bình luận về thời sự. Kế tục xu hướng của lý thuyết phê phán, cũng có một lối tiếp cận nữa từ góc độ văn hóa, thường được gọi là trào lưu “Cultural Studies” (“nghiên cứu văn hóa”). Đây là một trào lưu rất thịnh hành ở Anh và Mỹ trong những năm 1970-1990, ra đời từ đại học Birmingham (Anh) vào đầu thập niên 1960. Những người thường được coi là sáng lập ra trào lưu này là Richard Hoggart, Edward Thompson, Raymond Williams, và Stuart Hall. Xu hướng nghiên cứu này lúc đầu chịu ảnh hưởng phần nào của tư tưởng trường phái Frankfurt trong lối phân tích phê phán sự thống trị văn hóa trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhưng họ không chấp nhận quan điểm chỉ nhấn mạnh tới nền văn hóa “tinh

55

hoa” (elitist) của trường phái Frankfurt, vì họ cho rằng suy nghĩ như vậy vô hình trung coi thường “văn hóa đại chúng” hay “văn hóa bình dân” và coi các tầng lớp lao động như không có khả năng sáng tạo ra một nền văn hóa thực thụ vì đã bị làm cho tha hóa bởi các phương tiện truyền thông đại chúng. Trào lưu này, ngược lại, nhấn mạnh tới khả năng đề kháng cũng như khả năng sáng tạo phong phú của công chúng, nhất là nơi các tầng lớp bình dân, trong việc sử dụng và tiếp nhận các thông điệp truyền thông đại chúng. Theo trào lưu “Cultural Studies”, văn hóa “bình dân” hay văn hóa “đại chúng” không phải chỉ là một sự phản ánh đơn thuần của sự thống trị, mà là sự biểu hiện một mối quan hệ đối thoại hay thương lượng (giữa văn hóa của các tầng lớp lao động với văn hóa của các tầng lớp thống trị), mặc dù kết quả của quá trình “thương lượng” (hay điều đình) này tất nhiên cuối cùng thường ngả về phía có lợi cho các tầng lớp thống trị.

MỘT VÀI HƯỚNG TIẾP CẬN KHÁC

Một hướng tiếp cận khác không liên quan tới hai luồng tư tưởng chức năng và phê phán trên đây, đó là lý thuyết quyết định luận kỹ thuật (technological determinism) xuất phát từ trường phái Toronto. Cha đẻ của lý thuyết này là Harold Innis cho rằng chính kỹ thuật của các phương tiện truyền thông là yếu tố quyết định cách thức suy nghĩ và ứng xử của người dân. Ông phân tích về những ảnh hưởng của kỹ thuật truyền thông đối với lĩnh vực chính trị. Sở dĩ đế quốc La Mã có thể đứng vững một thời gian tương đối dài chính là vì lúc ấy đã tồn tại văn hóa chữ viết, nhờ đó mà người ta thiết lập được một bộ máy hành chánh, có khả năng quản lý được cả những vùng xa xôi. Nhưng kể từ khi kỹ thuật máy in ra đời, người ta bắt đầu có cơ sở để đương đầu lại 56

với guồng máy hành chánh thống trị nói trên và hình thành nên ý thức quốc gia, và sau đó là phát triển ý thức cá nhân. Marshall McLuhan đã phát triển thêm những tư tưởng của Innis. McLuhan cho rằng kỹ thuật là sự nối dài của hệ thống thần kinh của con người, vì thế những thay đổi về kỹ thuật có thể dẫn tới những cách thức tri giác và nhận thức mới. Ông ta cho rằng các phương tiện truyền thông điện tử đã tạo nên một dạng ý thức trực tiếp mới, trong đó những phạm trù cũ về không gian và thời gian không còn phù hợp nữa. Mặc dù sau này, người ta đã bác bỏ những nhận định của McLuhan, nhất là những ý tưởng của ông liên quan đến những hậu quả của các phương tiện truyền thông thính thị, nhưng công trình nghiên cứu độc đáo của McLuhan vẫn được coi là nêu ra được những gợi ý bổ ích. Ngày nay, nhất là khi mà Internet đang ngày càng phát triển và xâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác nhau, một số nhà nghiên cứu đang có xu hướng trở lại với luận điểm của Innis: họ cho rằng những đặc trưng kỹ thuật của một phương tiện truyền thông có thể là một trong những nhân tố quan trọng cần lưu tâm khi nghiên cứu về những chuyển biến xã hội. Lý thuyết văn hóa của G. Gerbner thì cho rằng truyền hình, vốn mạnh nhất trong các phương tiện truyền thông đại chúng, góp phần tạo nên quan niệm của công chúng về thực tại. Chính truyền hình đã củng cố và duy trì những lối ứng xử và suy nghĩ truyền thống của người dân, chứ không hề làm suy yếu chúng như một số tác giả quan niệm. Vì thế, truyền hình là công cụ bảo tồn hiện trạng xã hội. Chức năng văn hóa của truyền hình là phổ biến và duy trì những khuôn thước xã hội, chứ không phải là khuyến khích sự thay đổi. Truyền hình là một phương tiện xã hội hóa các vai trò trong xã hội, và do đó củng cố trật tự xã hội. Gerbner đã tiến hành phân tích nội dung đối với các chương trình 57

được phát trên đài truyền hình, và đồng thời, ông ta khảo sát xem công chúng tiếp nhận và lý giải các thông điệp ấy như thế nào. Trái ngược với nhiều tác giả khác, Gerbner cho rằng truyền hình có một ảnh hưởng lâu dài đối với việc hình thành dư luận công chúng. Truyền hình không phải chỉ là phương tiện thông tin và giải trí, nó còn trình bày cho công chúng một “hình ảnh lý tưởng” của xã hội, nó góp phần lèo lái và nhào nặn nên những thái độ, thị hiếu, và sở thích của công chúng. Cái thế giới mà truyền hình chiếu cho chúng ta coi, theo Gerbner, chỉ là một thứ thế giới “ảo”, rất ít giống với thực tại xã hội mà chúng ta đang sống. Vì thế, người nghiên cứu không thể chỉ nghiên cứu một buổi phát hình là đủ, mà phải khảo sát tổng thể hàng loạt chương trình thì mới có thể tìm ra được những trục tư tưởng nằm tiềm ẩn bên dưới các thông điệp được truyền tải trên màn hình hàng ngày [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 31-43].

Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 3:

- Một số khái niệm và luận điểm chính thường được sử dụng trong trường phái chức năng luận như “chức năng”, “phản chức năng”, “chức năng công khai” và “chức năng tiềm ẩn”... - Những đặc điểm chính của trường phái lý thuyết phê phán. - Lý thuyết quyết định luận kỹ thuật (technological determinism).

Câu hỏi ôn tập:

1. Trong lịch sử nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng, người ta thường phân biệt ra mấy giai đoạn chính? Hãy nêu đặc điểm của mỗi giai đoạn.

58

2. Theo trường phái chức năng luận, các phương tiện truyền thông đại chúng có những chức năng xã hội nào? 3. Hãy nêu vắn tắt vài luận điểm của các trường phái theo khuynh hướng phê phán đối với truyền thông đại chúng.

Câu hỏi thảo luận nhóm: (hoặc tự mình trả lời bằng suy nghĩ cá nhân)

1. Hãy thử tìm những chức năng xã hội của tờ báo Tuổi trẻ.

59

Bài 4

NGHIÊN CỨU CÔNG CHÚNG

Giới thiệu khái quát: Chương này trình bày những đặc điểm của công chúng, ứng xử truyền thông của công chúng, và cách sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng nơi các tầng lớp công chúng khác nhau. Một số lý thuyết xã hội học có liên quan tới lĩnh vực nghiên cứu về công chúng cũng được điểm qua trong chương này.

Mục tiêu của chương này: Làm sao hiểu được những đặc trưng của khái niệm “công chúng” của các phương tiện truyền thông đại chúng, và nắm được một số nội dung thường được khảo sát trong lĩnh vực nghiên cứu về công chúng.

Các phương tiện thông tin đại chúng luôn nhắm tới đông đảo mọi người trong công chúng mà không hề phân biệt hay hạn chế bất cứ ai. Ai muốn mua báo đọc cũng được; ai muốn mở rađiô nghe hay coi ti-vi lúc nào cũng được, không ai cấm mà cũng không ai bắt phải mở; và đọc, nghe hoặc xem càng đông càng tốt, dưới con mắt của nhà truyền thông. Công chúng của các phương tiện truyền thông đại chúng có những đặc trưng chính như sau: tính chất rộng lớn; tính chất dị biệt (bao gồm rất nhiều giới và tầng lớp khác nhau); và tính chất nặc danh (nhà truyền thông không thể biết đích xác công chúng của mình gồm

60

những ai; và trong khối “công chúng” đó, cũng không ai biết ai). Do tính chất rộng lớn và mơ hồ đó, nên chúng ta không nên coi “công chúng” như một đối tượng nghiên cứu thuần nhất và đồng dạng. Ngược lại, cần hiểu rằng công chúng của một phương tiện truyền thông là một tập hợp xã hội rộng lớn, được cấu thành một cách phức tạp bởi nhiều giới, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, và đang sống trong những mối quan hệ xã hội nhất định. Khi nghiên cứu về công chúng của một phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta không thể tách những độc giả hay khán giả này ra khỏi môi trường sống của họ, mà ngược lại, phải tìm hiểu họ trong bối cảnh các điều kiện sống cũng như các mối quan hệ xã hội của họ. Như chúng ta đã biết, trong thời kỳ đầu nghiên cứu về ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đối với dư luận và ứng xử của công chúng, các nhà nghiên cứu đã quá nhấn mạnh tới tác dụng tiêu cực của các phương tiện thông tin đại chúng. Mô hình ảnh hưởng “vạn năng” của truyền thông đại chúng trong thời kỳ này thường được gọi là mô hình “mũi kim tiêm” hoặc “viên đạn thần kỳ”. Những công trình nghiên cứu về sau đã bác bỏ mô hình trên, vì nó quá giản lược. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh nhiều hơn tới bối cảnh xã hội của cá nhân trong quá trình truyền thông. Họ cho rằng : mặc dù quả thực là công chúng phần lớn đều nặc danh trước mắt các nhà truyền thông, nhưng hiếm có trường hợp nào mà độc giả hay khán thính giả hoàn toàn cô lập và đơn độc một mình trước phương tiện thông tin. Khi coi ti-vi hay nghe rađiô (dù là để theo dõi một trận bóng đá, hay để theo dõi tin tức), thường thường người ta coi hoặc nghe cùng với một vài người khác trong gia đình hoặc bạn bè. Dù có đọc báo hay coi ti-vi một mình đi nữa, thì bên cạnh tư cách là độc giả của một tờ báo, hay khán giả của đài truyền hình, mỗi cá nhân chúng ta đều vẫn là thành viên của một gia đình, của một nhóm bạn bè, của một 61

tổ chức nghề nghiệp hay một đoàn thể xã hội nào đó. Những nhóm xã hội này luôn luôn ảnh hưởng tới ý kiến, thái độ và cách ứng xử của mỗi cá nhân, và ảnh hưởng cả tới cách thức mà mỗi người tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông. Các phương tiện truyền thông tác động đối với cá nhân phần lớn đều thông qua các nhóm xã hội ấy. Hai nhà nghiên cứu Matilda Riley và John Riley đã chứng minh được tầm quan trọng của những mối liên hệ liên cá nhân trong quá trình truyền thông đại chúng. Họ đã khám phá ra rằng: những đứa trẻ nào được nuôi dạy trong những gia đình đầm ấm (tức không bị ly tán), và hòa hợp được với bạn bè đồng trang lứa thì thường dành ít thời gian coi ti-vi hơn và ít muốn bắt chước những nhân vật trong phim hơn so với những đứa trẻ sống trong những gia đình “lục đục” (cha mẹ ly hôn chẳng hạn) và không hội nhập được với bạn bè cùng trang lứa. Ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với các cá nhân hiếm có khi nào diễn ra một cách trực tiếp giống như một “mũi kim tiêm", mà luôn luôn là gián tiếp, thông qua nhiều tầng nấc trung gian, nhất là thông qua ảnh hưởng của những người “hướng dẫn dư luận” trong các nhóm xã hội (xem lại chương 1).

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG CHÚNG

Mục tiêu của xã hội học về công chúng là điều tra và khảo sát để hiểu công chúng là ai, thuộc những tầng lớp nào, họ theo dõi các phương tiện thông tin đại chúng nào nhiều nhất, đọc báo hoặc xem tivi có thường xuyên hay không, họ có phản ứng hoặc thái độ thế nào đối với báo chí, rađiô và ti-vi... Nói chung, mục tiêu là tìm hiểu xem các giới công chúng khác nhau tiếp nhận và sử dụng các phương tiện

62

truyền thông đại chúng như thế nào. Những dữ kiện đầu tiên mà người ta thường khảo sát khi tiến hành một cuộc điều tra về công chúng của một tờ báo chẳng hạn, là những con số thống kê về các đặc điểm nhân khẩu học như giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn, và các đặc điểm xã hội như nghề nghiệp, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội... của số công chúng này. Sau đó, người ta khảo sát những cách thức đọc báo của độc giả tờ báo, và những phản ứng, ý kiến và thái độ của họ đối với tờ báo nói chung, cũng như đối với từng trang mục cụ thể nói riêng. Đi sâu hơn nữa, người ta còn tìm cách phân tích và lý giải sự khác biệt giữa các giới và các tầng lớp xã hội khác nhau trong việc đọc báo và tiếp nhận nội dung của tờ báo. Trước đây, các nhà xã hội học thường chỉ chú ý khảo sát ứng xử của công chúng đối với một phương tiện truyền thông. Nhưng về sau, xu hướng phổ biến trong giới nghiên cứu xã hội học là tìm cách đi xa hơn: đó là cố gắng nối kết ứng xử đó với cơ cấu xã hội, hay nói cách khác, đặt ứng xử của công chúng đối với truyền thông đại chúng trong bối cảnh xã hội của họ (chẳng hạn, nghiên cứu về tập quán coi ti-vi nơi các tầng lớp xã hội khác nhau). Lối đặt vấn đề như vậy giúp chúng ta đo lường kỹ lưỡng hơn và lý giải sâu sắc hơn những xu hướng và chuyển biến trong ứng xử của công chúng. Lấy một thí dụ: những gia đình nào mà mọi thành viên đều đã học hết trung học thường có những tập quán và cách thức đọc báo khác với những gia đình mà cha mẹ chưa học hết bậc trung học. Hay một thí dụ khác: những cặp vợ chồng nào đều đã học xong đại học thường có thái độ đối với truyền hình khác với những cặp vợ chồng có trình độ học vấn thấp hơn, hoặc chỉ có một trong hai người là tốt nghiệp đại học. Các cuộc điều tra xã hội học thực nghiệm đã cho thấy là không phải chỉ có trình độ học vấn mới ảnh hưởng tới thái độ đối với truyền thông đại chúng, mà nhiều nhân tố xã hội khác cũng có thể tác động 63

vào đây. Thí dụ ảnh hưởng của người bạn đời : nhiều cuộc điều tra ở Bắc Mỹ cho biết là những người có vợ học hết bậc trung học thường có tỷ lệ đọc báo và tạp chí đông hơn so với những người có vợ chưa học tới trung học. Nói chung, qua các cuộc điều tra, người ta cố gắng khám phá mối quan hệ giữa cách thức sử dụng truyền thông đại chúng với các đặc điểm nhân khẩu cũng như các đặc điểm xã hội của công chúng. Nhà xã hội học Wright, qua những kết quả điều tra ở Mỹ, nhận xét rằng những người nào có đọc báo đều đặn mỗi ngày (dù những người này có coi ti-vi nhiều hay ít) đều là những người theo dõi kịp thời về thời sự chính trị và thường sẵn sàng nói chuyện chính trị nhiều hơn so với những người chỉ theo dõi tin tức thời sự qua truyền hình và không đọc báo mà cũng không nghe rađiô.

ỨNG XỬ TRUYỀN THÔNG CỦA CÔNG CHÚNG

Ở nhiều nước công nghiệp phát triển, người ta đã tiến hành rất nhiều công trình nghiên cứu về ứng xử truyền thông của công chúng (chúng tôi dùng chữ “ứng xử truyền thông” để chỉ một cách ngắn gọn các cách thức và tập quán sử dụng truyền thông đại chúng nơi người dân, cũng như thái độ của họ đối với truyền thông đại chúng). Các đề tài nghiên cứu thực nghiệm thường khảo sát xem người dân thường chọn đọc báo nào, thích đọc những mục gì nhất, thường nghe hoặc xem chương trình gì trên rađiô và ti-vi, đọc báo hoặc coi ti-vi vào lúc nào, trong bao lâu, chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong ngân sách thời gian, chiếm vị trí nào trong thời gian rảnh rỗi của người dân, thái độ của họ đối với các chương trình, các đề mục... Khi nghiên cứu về quá trình phát triển của các phương tiện thông

64

tin đại chúng, Francis Balle đã nhận diện ra ba giai đoạn chính nơi tập quán và thái độ của công chúng mỗi khi có một phương tiện truyền thông mới ra đời. Đó là: giai đoạn mê mẩn, giai đoạn bão hòa, và giai đoạn trưởng thành. Ở giai đoạn đầu, khi một phương tiện truyền thông vừa chào đời, công chúng thường tỏ ra rất hào hứng, phấn khích, và dành ra rất nhiều thời gian và tâm trí để theo dõi. Nhưng sang giai đoạn kế tiếp, người ta bắt đầu cảm thấy chán vì đã theo dõi quá nhiều; lúc này, người ta cũng tỏ ra hoài nghi và bắt đầu đòi hỏi nhiều hơn đối với nội dung các trang mục hoặc chương trình. Và rồi cuối cùng chuyển sang giai đoạn thứ ba, khi mà việc theo dõi phương tiện truyền thông này đã đi vào tập quán trong nếp sống hàng ngày của họ: lúc này, người ta không còn bị mê hoặc dễ dàng như thời gian ban đầu nữa, họ bình tĩnh trở lại và sử dụng phương tiện này một cách hợp lý hơn; người ta biết phê bình nội dung chương trình này hay đề mục khác, biết chọn lọc những cái cần xem, và khôi phục lại những tập quán cũ đã có từ trước trong việc sử dụng ngân sách thời gian [xem Francis Balle, Médias et société, Paris, Montchrestien, 1980, tr. 548550.] Cuối thập niên 1920, khi phương tiện phát thanh bắt đầu được khai sinh tại Pháp, người ta cảm thấy rất hồ hởi và ai ai cũng nô nức mải mê nghe đài. Cứ buổi chiều, sau giờ tan sở, ai cũng vội vàng về nhà để kịp nghe các chương trình phát thanh, chứ không ghé qua những quán rượu làm vài ly như trước nữa. Đến mức mà năm 1927, ở miền Bắc nước Pháp, có lần nghiệp đoàn các nhà sản xuất rượu phải kiện lên chính quyền tỉnh và đề nghị dẹp bỏ các chương trình phát thanh, nhưng tất nhiên là không dẹp được. Tuy nhiên, đến sau năm 1945, khi nước Pháp vừa được giải phóng khỏi ách phát-xít Đức, rađiô bắt đầu bị lu mờ vì sự hồi sinh của báo chí trong thời kỳ sau chiến tranh. Nhưng sau đó vài năm, thì 65

người ta lại dần dần nhận thức trở lại nhu cầu nghe rađiô trong sinh hoạt hàng ngày [xem Francis Balle, sách đã dẫn, trang 548.]. Ở Anh, W. A. Belson cũng phát hiện một quá trình tương tự khi theo dõi và khảo sát các ứng xử và thái độ của công chúng lúc mới có truyền hình. Trong vòng hai năm liên tiếp sau khi mua chiếc máy thu hình, người ta đã giảm đi rất nhiều thời gian đọc báo, đọc sách cũng ít hơn, đi xem kịch hoặc xem phim ngoài rạp cũng thưa thớt hẳn đi, thậm chí giảm hẳn cả mật độ giao du với bạn bè. Tuy nhiên, sau thời gian bị mê hoặc ban đầu này, công chúng truyền hình mới dần dần bắt đầu cảm thấy lo lắng trước một số hậu quả mà họ nghĩ là do truyền hình gây ra. Họ trách cứ ti-vi là hay đưa ra nhiều cảnh bạo lực cho trẻ con xem, họ chê bai những chương trình vô bổ, mất thì giờ, trong khi có thể dành thời gian làm những chuyện có ích hơn... Và Belson nhận thấy phải mất 6 năm sau khi mua chiếc ti-vi thì công chúng mới khôi phục lại một cách bình thường những tập quán vốn có trước đây của họ, là lại tiếp tục đi xem kịch, đi xem phim, đến thăm bạn bè... Nghĩa là đến giai đoạn này, công chúng truyền hình mới thực sự bước vào “tuổi trưởng thành”, coi ti-vi như một phương tiện truyền thông bình thường như các phương tiện truyền thông khác, và biết chọn lọc những gì mà mình cần coi [xem Francis Balle, sách đã dẫn, trang 549550.] Có một số công trình nghiên cứu chú trọng tới các lối ứng xử của cá nhân đối với truyền thông đại chúng, và đề xướng việc phân loại các kiểu ứng xử khác nhau. Một cuộc điều tra nơi tầng lớp trung lưu ở vùng ngoại ô nằm giữa Philadelphia và New York (Mỹ) đã cho thấy có bốn loại ứng xử chính như sau: - Những người tiêu thụ bất kể thứ phương tiện truyền thông đại chúng nào, xem “hổ lốn” đủ mọi thứ nội dung chương trình mà không hề chọn lựa; 66

- Những người “chọn lọc nguồn”: số này chỉ chọn theo dõi một loại phương tiện truyền thông mà thôi; - Những người “chọn lọc đề tài”: số này chọn đề tài mà mình muốn xem và tìm trên các phương tiện truyền thông khác nhau (thí dụ: những người thích coi thể thao vừa trên truyền hình, vừa trên báo in); - Cuối cùng là những người tránh né mọi phương tiện truyền thông đại chúng; theo tác giả nghiên cứu này, thì số người thuộc loại này rất ít [xem Judith Lazar, Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, trang 81.]

CÁCH SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG NƠI CÁC TẦNG LỚP CÔNG CHÚNG

Khi nghiên cứu về cách thức sử dụng hay hưởng thụ sản phẩm của các phương tiện truyền thông đại chúng, người ta thường khảo sát trước hết về ngân sách thời gian rảnh rỗi của người dân, để coi trong đó người dân dành ra bao nhiêu thời gian cho truyền thông đại chúng. Khảo sát một cách chi tiết, người ta nhận thấy số lượng thời gian dành cho các phương tiện truyền thông đại chúng nhiều hay ít còn phụ thuộc vào những giai đoạn khác nhau trong cuộc sống mỗi người. Những công trình điều tra ở Mỹ cho thấy mức độ coi ti-vi nơi trẻ con gia tăng dần cho tới lúc chúng bắt đầu vào tiểu học; thời gian coi ti-vi có giảm đi trong thời gian học tiểu học và trung học, sau đó, khi bắt đầu đi làm, lại tăng lên và kéo dài ở mức độ này cho đến khi về hưu; lúc tới tuổi hưu, thời gian coi ti-vi lại tăng lên thêm một chút nữa. Những người trên 65 tuổi thường ngồi coi ti-vi nhiều hơn là những người còn đang ở tuổi lao động. Ở Mỹ, người ta cũng nhận thấy là có một số thành phần xã hội coi ti-vi nhiều hơn các thành phần khác: đó

67

là trẻ con, phụ nữ, những người da màu, nhất là da đen, và những người về hưu. Ngoài ra, thời gian xem ti-vi cũng còn phụ thuộc vào mùa nào trong năm, cũng như ngày nào trong tuần. Những cuộc điều tra ở Pháp đối với trẻ em 8-14 tuổi cho biết là chúng xem truyền hình vào mùa đông nhiều hơn là mùa hè, đơn giản là vì mùa hè có khí hậu ấm áp hơn nên chúng có thể ra sân hoặc ra vườn chơi. Trung bình chúng coi ti-vi 1 giờ 40 phút vào mùa hè, 2 giờ vào mùa Thu, và lên tới 3 giờ 20 phút vào kỳ nghỉ Giáng sinh (số liệu điều tra năm 1981). Trong năm học, chúng thường xem nhiều nhất vào các ngày thứ Tư (là ngày nghỉ học), và nhất là ngày thứ Bảy và Chủ nhật. Những cuộc điều tra ở Mỹ nơi người lớn cũng cho thấy xu hướng xem ti-vi nhiều hơn vào mùa đông. Và ngoài ra, còn có sự khác biệt về thời điểm coi ti-vi trong ngày: buổi sáng, chỉ có 9% người Mỹ coi truyền hình, nhưng đến đầu buổi tối, tỷ lệ này là 30 %, và lên tới 45 % trong khoảng thời gian từ 20g tới 23g, giờ “cao điểm” của truyền hình. Các nhà nghiên cứu còn quan tâm cả tới những loại hoạt động khác của người dân diễn ra song song với việc coi ti-vi: có khá nhiều người thường vừa coi ti-vi, vừa đồng thời làm những công việc khác trong nhà. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa truyền hình và công chúng ở Pháp năm 1974 và năm 1977, Michel Souchon đã đối chiếu giữa cơ cấu các chương trình do đài truyền hình phát sóng, với cơ cấu các chương trình mà công chúng xem trong thực tế. Qua đó, Souchon đã kết luận như sau: những thay đổi trong cách thiết kế các chương trình và trong cơ cấu các chương trình của đài truyền hình đã không có tác động đáng kể đối với cách thức mà công chúng sắp xếp các chương trình mà họ xem thường xuyên (xem bảng 3).

68

Gần đây, người ta lại khám phá ra một kiểu coi ti-vi mới, mà người ta gọi là “zapping”: việc xuất hiện của cái “ri-mốt” (remote control, tức là bộ điều khiển từ xa) vào đầu những năm 1980, cộng với sự ra đời của nhiều đài truyền hình mới nhờ có kỹ thuật cáp và vệ tinh, đã làm nảy sinh một kiểu sử dụng truyền hình mới nơi công chúng, hay nói đúng hơn, là một thái độ mới đối với truyền hình. Có thể nói “zapping” là một thứ bệnh: cứ bấm đổi đài liên tục, coi đài này một hồi thấy không thích lại đổi đài khác, không dừng lại lâu ở một đài nào để coi một chương trình cho trọn vẹn, và cuối cùng thường chỉ còn sót lại trong đầu một mớ hình ảnh hỗn độn! Hai nhà nghiên cứu Ch.de Gournay và P.A.Mercier giải thích như sau: những người chuyên môn zapping thường là những người coi truyền hình quá nhiều, để thoát khỏi mặc cảm là mình bị nô lệ vào nó, họ zapping để chứng tỏ rằng mình có thể điều khiển được, “làm chủ” được cái ti-vi (bằng cái ri-mốt), tự mình có quyền chọn xem chương trình nào hay đài nào mà mình muốn, vào bất cứ lúc nào. Hậu quả của thứ ảo giác này là một kiểu tri giác lộn xộn, vỡ vụn. Hai nhà nghiên cứu trên kết luận: lối coi ti-vi zapping, vốn thường là lối coi của người cô đơn, thay vì tạo điều kiện thúc đẩy sự giao lưu xã hội ngược lại đã giam hãm người xem vào trong cái thế giới riêng của chính mình.

Bảng 3. Cơ cấu các chương trình truyền hình được phát sóng, và các chương trình truyền hình được công chúng xem, điều tra năm 1974 và năm 1977 ở Pháp (đơn vị tính : %)

1. Tin tức, thời sự

Các chương trình

Các chương trình

được phát sóng

được công chúng xem

1974

1977

1974

1977

29,2

35,8

25,5

27,1

69

2. Văn hóa, nghệ thuật, và phổ biến

15,6

12,1

5,4

5,0

29,3

23,8

44,7

40,6

4. Giải trí, trò chơi

9,8

14,9

15,3

20,6

5. Thể thao

8,5

5,2

6,8

4,0

dành cho tuổi trẻ

5,6

6,7

1,7

2,2

7. Các chương trình

2,0

1,5

0,6

0,4

100,0

100,0

100,0

100,0

kiến thức 3. Phim, kịch, sân khấu

6. Các chương trình

tôn giáo Tổng cộng

Nguồn: Michel Souchon, Association française de Science politique, tháng 11-1978. Ghi chú: Michel Souchon đã tính toán như sau, lấy thí dụ mục “Tin tức, thời sự”: trong vòng 6 tháng đầu năm 1974, các chương trình tin tức và thời sự chiếm 1.000 giờ đồng hồ trong tổng số 3.424 giờ phát sóng, tức là chiếm tỷ lệ 29,2 %. Cũng trong khoảng thời gian này, khán giả truyền hình đã dành ra bình quân 110 giờ đồng hồ để theo dõi tin tức và thời sự trong tổng số 433 giờ mà họ dành ra để xem truyền hình, bằng 25,5 %, nghĩa là có tỷ lệ ít hơn so với tỷ lệ các chương trình tin tức và thời sự mà đài truyền hình đã phát ra. Trong số các trường phái nghiên cứu về truyền thông đại chúng, có một lý thuyết mà người ta thường gọi là lý thuyết “sử dụng và hài lòng” (usages and gratifications). Lý thuyết này quan niệm rằng các giới công chúng có thể có những mức độ hài lòng khác nhau đối với các phương tiện truyền thông đại chúng, tùy thuộc vào việc mỗi giới có những nhu cầu gì, và việc họ sử dụng các phương tiện truyền thông

70

như thế nào. Mặc dù giới hạn của lý thuyết này là chỉ lý giải trên cơ sở các chức năng của truyền thông đại chúng và các nhu cầu của công chúng (chứ không chú ý tới bối cảnh xã hội), nhưng nó có mặt tích cực là đã vượt qua được lối đặt vấn đề cũ về ảnh hưởng của truyền thông đại chúng (truyền thông đại chúng tác động thế nào đối với người dân?), và nhấn mạnh hơn đến vai trò chủ động và khả năng chọn lựa của công chúng (người dân sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng như thế nào?). Một công trình nghiên cứu công bố năm 1972 của J. Sousselier về thái độ của công chúng Pháp đối với truyền hình đã đi theo xu hướng lý thuyết vừa nêu. Bằng cách đề nghị những người được hỏi cho điểm (từ 1 tới 6 điểm) đối với các chương trình được phát trên truyền hình, Sousselier xử lý kết quả điều tra và cuối cùng đã phác họa được bốn loại ứng xử chính như sau. (a) Những người tránh né (8 %): nhóm này chỉ xem một vài chương trình mà thôi (tỷ lệ của nhóm này tương đối cao hơn nơi những người sinh sống ở Paris, nơi lớp trẻ 15-24 tuổi, nơi sinh viên, những người có trình độ học vấn trung học, cán bộ trung cấp). (b) Những người thụ động (29%): thích coi những chương trình “bình dân” và ngán coi những chương trình quá “trí thức” như văn học, khoa học kỹ thuật, tài liệu... (trong nhóm này, chiếm tỷ lệ đông là lớp thanh niên 15-24 tuổi, những người có trình độ học vấn tiểu học, công nhân và nông dân). (c) Những người chọn lọc (30 %): đặc biệt thích xem những chương trình giàu nội dung tri thức (nhóm này có tỷ lệ đông hơn nơi những người có trình độ trung học và đại học, nơi cư dân ở các thành phố vừa và lớn, và nơi cán bộ trung cấp và cao cấp). (d) Những người hài lòng (33%): thích coi hầu như tất cả mọi

71

chương trình, mặc dù tỷ lệ thích coi các chương trình tri thức có kém hơn một chút so với các chương trình bình dân (đặc biệt là nơi những người sinh sống ở các thành phố nhỏ hoặc các thị trấn, nơi các nhân viên, giới về hưu, và những người có trình độ học vấn tiểu học) [xem Francis Balle, sách đã dẫn, trang 550-552]. Mặc dù cái hạn chế của lối phân tích theo lý thuyết “sử dụng và hài lòng” trên đây là không quan tâm đủ tới các nhân tố xã hội, nhưng chúng ta có thể sử dụng nó như một phương pháp ban đầu hữu ích để mô tả các thái độ và ứng xử của công chúng trước các phương tiện truyền thông đại chúng. Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 4:

- Những đặc điểm của công chúng của các phương tiện truyền thông đại chúng. - Những nội dung cần khảo sát khi tiến hành nghiên cứu về công chúng. - Những tầng lớp xã hội khác nhau thường có những cách thức tiếp nhận và sử dụng khác nhau đối với các phương tiện truyền thông đại chúng. - Phân loại công chúng theo cách thức mà họ sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng (theo kết quả điều tra).

Câu hỏi ôn tập:

1. Mỗi khi xuất hiện một phương tiện truyền thông đại chúng mới, thái độ của công chúng thường trải qua mấy giai đoạn, và đặc điểm của mỗi giai đoạn? 2. Tại sao một tờ báo (hay một đài truyền hình, một đài phát

72

thanh) cần thường xuyên khảo sát và thăm dò công chúng của mình? 3. Cho biết đặc điểm của lối tiếp cận “sử dụng và hài lòng”.

Câu hỏi thảo luận nhóm: (hoặc tự mình trả lời bằng suy nghĩ cá nhân)

1. Tại sao những tầng lớp công chúng khác nhau lại có thể có những cách hiểu và cách suy nghĩ khác nhau trước cùng một bộ phim truyền hình? 2. Khi so sánh giữa hai địa bàn nông thôn và đô thị, người ta thường nhận thấy cư dân nông thôn có tỷ lệ đọc báo ít hơn, nhưng lại thường có tỷ lệ nghe rađiô nhiều hơn so với cư dân đô thị. Anh/chị hãy thử lý giải nguyên nhân của sự khác biệt này. 3. Phụ nữ thường đọc báo nhiều hơn hay ít hơn so với nam giới ? Cho biết nguyên nhân và ý nghĩa xã hội của hiện tượng này. 4. Tại sao người dân có nhu cầu theo dõi thông tin thời sự hàng ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng?

73

Bài 5

NGHIÊN CỨU CÁC NHÀ TRUYỀN THÔNG

Giới thiệu khái quát: Nội dung chương này trình bày những đặc điểm của nghề làm báo, của lao động nhà báo, cũng như của bộ máy tòa soạn và quan hệ giữa các vai trò trong tổ chức truyền thông.

Mục tiêu của chương này: Hiểu được một cách khái quát các đặc trưng của nghề làm báo và các hoạt động trong bộ máy tòa soạn.

CÁC NHÀ TRUYỀN THÔNG

Thuật ngữ “nhà truyền thông” (communicator) được dùng để chỉ những người làm việc chuyên nghiệp trong các tổ chức thông tin đại chúng. Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng lẫn lộn giữa “nhà báo” và “nhà truyền thông”: thực ra, các nhà báo chỉ là một bộ phận trong giới các nhà truyền thông. Người ta thường phân biệt bốn nhóm người chính trong giới truyền thông: - Những người lãnh đạo (các nhà quản lý, điều hành), - Những người sáng tạo (bao gồm nhà văn, soạn giả, đạo diễn, diễn viên...),

74

- Các nhà báo (bao gồm phóng viên, biên tập viên, thông tín viên...), - Các kỹ thuật viên (như họa sĩ, chuyên viên viđêô...). Trong số bốn nhóm người trên đây, thì nhóm thứ hai và nhóm thứ ba thường được coi là nòng cốt của hoạt động truyền thông đại chúng. Trong lịch sử nghiên cứu xã hội học về giới truyền thông, lúc đầu, người ta chỉ tập trung vào việc khảo sát về bản thân các nhà truyền thông, về những đặc điểm cá nhân cũng như đặc điểm xã hội của họ. Thế nhưng, về sau, khi mọi người đều nhận thức rõ rệt là công việc truyền thông đại chúng là một lao động chủ yếu mang tính chất tập thể, chứ không phải là lao động cá nhân, thì người ta bắt đầu chú ý nhiều hơn tới khía cạnh tổ chức của bộ máy truyền thông, và tới khía cạnh cơ cấu xã hội – vốn là những yếu tố bao trùm lên trên hoạt động của các nhà truyền thông. Có nhiều hướng tiếp cận khác nhau trong lĩnh vực nghiên cứu này, nhưng người ta thường phân biệt ba hướng chính như sau: a. Tập trung nghiên cứu về nguồn gốc xã hội cũng như những đặc điểm xã hội khác của các nhà truyền thông – vốn là được coi là những nhân tố có ảnh hưởng tới phương thức lao động và nội dung lao động của giới này. b. Vì sản phẩm của truyền thông đại chúng không phải là kết quả của lao động cá nhân, mà là của lao động tập thể, nên người ta cũng phải tiến hành phân tích các vai trò cụ thể trong tổ chức truyền thông. c. Nghiên cứu về tính chất lao động trong hoạt động truyền thông, và cơ cấu tổ chức của hoạt động này [Judith Lazar, Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, trang 102]. Thực ra thì phần lớn các công trình điều tra thực nghiệm trong lĩnh vực này đều được tiến hành nơi giới nhà báo (kể cả báo in lẫn

75

truyền hình và phát thanh), vì nhóm này chính là đội ngũ nòng cốt trong hoạt động thông tin đại chúng.

NGHỀ LÀM BÁO

Khi khảo sát quá trình ra đời và phát triển của báo chí, người ta có thể tự hỏi: vậy làm báo có phải là một “nghề” (profession) thực sự hay không ? ["Nghề” hiểu theo nghĩa là một hệ thống kỹ năng nghiệp vụ, và theo nghĩa là có một hệ thống qui tắc, tổ chức.] Xét về mặt định chế xã hội thì hiển nhiên ngày nay báo chí được coi là một nghề riêng biệt. Chúng ta thấy báo chí ở hầu hết các nước đều được thừa nhận và xác lập trong khuôn khổ luật pháp (có luật báo chí), có nghiệp đoàn hoặc hiệp hội nghề nghiệp, có các cơ quan báo chí, có lực lượng nhà báo chuyên nghiệp mà thu nhập chính là từ nghề báo. Tuy nhiên, so với nhiều nghề khác như bác sĩ hay kỹ sư chẳng hạn, thì nghề làm báo lại có một số điểm đặc thù, đặc biệt là không có một số tiêu chuẩn nghề nghiệp chặt chẽ như những nghề khác. Có thể nói không có nghề nào như nghề báo: cho đến nay, nghề này hầu như không đòi hỏi một loại bằng cấp gì cụ thể nhất định! Muốn ra làm bác sĩ, người ta phải học và tốt nghiệp đại học ngành y khoa; hay muốn làm kiến trúc sư chẳng hạn, thì phải lấy bằng ở trường đại học kiến trúc. Trong khi muốn vào nghề làm báo thì lại không nhất thiết phải tốt nghiệp từ một trường nào nhất định. Lẽ tất nhiên, với tình hình phát triển học vấn như hiện nay, phần lớn nhà báo đều có trình độ đại học, nhưng đa số lại xuất thân từ nhiều ngành học khác nhau, số tốt nghiệp từ trường báo chí chỉ chiếm một con số khá ít ỏi. Thậm chí có những tờ báo mà người ta cũng không nhất thiết yêu cầu phải có bằng đại học mới có thể trở thành nhà báo. Phần lớn kỹ

76

năng làm báo được huấn luyện và truyền thụ ngay tại tòa soạn, nghĩa là trong thực tế công việc nhiều hơn là trên ghế nhà trường. Dưới con mắt của những người làm công tác quản lý và phân loại nghề nghiệp thì những tính chất đặc thù trong cách xác định tiêu chuẩn và năng lực của người làm báo như vừa nêu trên đây có thể làm cho người ta cảm thấy lúng túng. Thế nhưng trong cái nhìn của giới làm báo thì lại không như vậy. D. Ruellan gọi nghề làm báo là một “nghề giáp ranh” ("métier de frontière")- chữ ranh giới ở đây không phải hiểu theo nghĩa biên giới, mà là hiểu theo nghĩa của chữ “frontier” trong tiếng Anh, tức là một nghề không có những giới hạn cứng nhắc, máy móc, không có những lằn ranh rõ rệt. Hay nói cách khác, theo Ruellan, nghề này mang tính chất mở, tựa như đường chân trời càng đi tới càng thấy nó mở rộng ra [Erik Neveu, Sociologie du journalisme, Paris, La Découverte, 2001, tr. 20] Người ta có thể coi đặc điểm về tiêu chuẩn của nhà báo như nêu trên đây là một điều bất lợi về mặt tổ chức nghề nghiệp, vì nó mù mờ, không rạch ròi. Nhưng chúng ta cũng có thể coi đấy lại chính là một điểm mạnh, điểm thuận lợi. Chính vì ranh giới hay đường chân trời của nghề này không bị đóng kín, nên trong thế kỷ XX vừa qua, nó còn tiếp nhận và sát nhập với nhiều phương tiện truyền thông mới như phát thanh, truyền hình, và Internet – xu thế này làm cho báo chí ngày càng mạnh hơn. Và cũng chính vì không qui định phải tốt nghiệp bằng cấp gì nhất định mà nghề báo có thể thâu nạp rất nhiều người có những khả năng đa dạng và phong phú từ nhiều ngành chuyên môn khác nhau. Và đây cũng chính là sức mạnh của giới nhà báo. Khác với một vị giáo sư đại học hay một người kỹ sư, nhà báo có thể thành đạt hay thành danh không phải nhờ vào thời gian dùi mài kinh sử và thi cử để lấy bằng cấp, mà chủ yếu lại dựa vào những 77

nguồn lực khác, từ khả năng diễn đạt, khả năng quan hệ xã hội, tiếp xúc với người khác, khả năng tiếp cận được những người có thế lực hay quyền hành (trong mọi lĩnh vực), cho đến một số phẩm chất cá nhân cần thiết cho nghề báo như tính trung thực, hay lòng gan dạ đối với phóng viên chiến trường chẳng hạn. Phần lớn những khả năng và phẩm chất này có được đều nhờ tự học là chính, tự rèn luyện và tích lũy qua thực tế và kinh nghiệm sống.

LAO ĐỘNG CỦA NHÀ BÁO

Trước đây, người ta thường ngộ nhận cho rằng nghề làm báo là một thứ “nghề tự do”. Ngày nay, khi nói về người làm báo, nói chung người ta không còn giữ một hình ảnh lãng mạn về nhà báo như một người hiểu biết nhiều và từng trải, dũng cảm và đơn độc trước trang giấy trắng hay cái máy đánh chữ như ngày xưa nữa. Bởi lẽ một trong những đặc trưng chủ yếu của hoạt động truyền thông đại chúng ngày nay là một thứ lao động tập thể và có tổ chức. Nhà truyền thông không lao động đơn độc một mình, nhưng luôn luôn làm việc cùng với nhiều người khác trong khuôn khổ của một bộ máy, một tổ chức, và của một xã hội nhất định. Thông tin được truyền đi không phải là một sản phẩm lao động cá nhân, mà thực ra là sản phẩm của một quá trình sản xuất của cả một bộ máy truyền thông, và nói rộng ra hơn, đó cũng là một sản phẩm tổng hợp của nhiều quá trình xã hội. Chính cái qui trình “sản xuất” như vậy, cộng với cưỡng chế về thời gian (mỗi bộ phận đều có deadline [giờ chót] riêng của mình, vì đến đúng giờ nào đó thì không thể không ra báo!), làm cho hoạt động của một tờ báo cũng mang tính chất tương tự như một xí nghiệp thực thụ.

78

Chúng ta chỉ có thể thực sự hiểu được các kỹ năng và nghiệp vụ của nhà báo nếu đặt anh ta trong bộ máy tòa soạn của anh ta, trong bối cảnh các mối quan hệ tương thuộc (vừa phụ thuộc vừa tương tác) của anh ta với cấp trên, với đồng nghiệp, cũng như với các nguồn tin của mình. BỘ MÁY TÒA SOẠN

Cũng giống như nhiều ngành nghề xã hội khác, nghề làm báo chính qui bây giờ đòi hỏi phải có một bộ máy với cơ cấu tổ chức rõ ràng, hoạt động theo một trình tự qui củ nhất định. Một tờ báo nói chung hay một tòa soạn nói riêng luôn luôn có một hệ thống quản lý, rạch ròi giữa cấp trên và cấp dưới, có kỷ luật lao động và kỷ luật thời gian chặt chẽ. Và một trong những yêu cầu là làm sao phối hợp được công việc một cách thật khít khao giữa nhiều chức danh và nhiều bộ phận chuyên môn khác nhau. Mỗi tờ báo có thể có một kiểu sơ đồ tổ chức riêng, tên gọi một số chức vụ trong tòa soạn cũng như sự phân công cho từng chức danh có thể không hoàn toàn giống nhau, nhưng tựu trung về nguyên tắc thì cách tổ chức một tờ báo vẫn có những nét chung căn bản. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, vị trí then chốt đầu tiên là tổng biên tập (đối với báo in), hoặc tổng giám đốc hay giám đốc (đối với đài phát thanh, đài truyền hình). Người đứng đầu tổ chức truyền thông là người có nhiệm vụ “lãnh đạo và quản lý cơ quan báo chí về mọi mặt, bảo đảm thực hiện tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí” [điều 13, chương IV, Luật báo chí năm 1989, sửa đổi, bổ sung năm 1999]. Thông thường bên cạnh tổng biên tập, còn có hai hoặc ba phó tổng biên tập, mỗi người

79

được tổng biên tập ủy nhiệm phụ trách một ấn bản hoặc một lĩnh vực, chẳng hạn người thì lo tờ báo ra ngày thường, người lo tờ cuối tuần, và một vị phó phụ trách kinh doanh và trị sự. Trách nhiệm của tổng biên tập là làm sao xác lập đường hướng chủ trương của tờ báo, thể hiện thông qua quan điểm chọn lựa nội dung thông tin, cũng như phương pháp xử lý thông tin như thế nào. Đối với những biến cố thời sự lớn và quan trọng như vụ tấn công khủng bố ở New York năm 2001, những cuộc chiến tranh ở Afghanistan, ở Irak, hay vụ xử án băng Năm Cam chẳng hạn, tổng biên tập thường phải trực tiếp quyết định quan điểm đưa tin như thế nào, ưu tiên những góc độ nào… căn cứ trên tôn chỉ mục đích của tờ báo và nhu cầu của độc giả, chẳng hạn chú trọng hướng điều tra tường thuật để đánh động vào cảm xúc của độc giả, hay đi theo hướng ưu tiên cho những phân tích và bình luận… Nhân vật then chốt thứ hai trong tờ báo là thư ký tòa soạn. Người mang chức danh này chính là người trực tiếp quản lý các quá trình thực hiện nội dung theo chỉ đạo của tổng biên tập và ban biên tập, cũng như phải kịp thời xử lý tin tức theo dòng thời sự diễn ra liên tục trong ngày. Đây là người phải chọn lọc tin tức và sự kiện để thể hiện ý đồ nội dung xuất phát từ cuộc họp ban biên tập hoặc hội đồng biên tập. Thư ký tòa soạn phải theo dõi và đôn đốc việc nộp tin bài của phóng viên, phân bổ tin bài thế nào để lấp đầy diện tích các trang mục, kiểm soát và chăm sóc nội dung lẫn hình ảnh và cách trình bày từng trang báo cho đến tận các chi tiết, xử trí kịp thời với những tin tức giờ chót có khi làm đảo lộn cả trang nhất, cân nhắc coi có thể “gác lại” những tin nào vào những hôm có quá nhiều sự kiện, hay ngược lại có khi toát mồ hôi tìm cách lấp đầy một lỗ trống hoặc thay một tin quá dở bằng một bài nào đó chưa đăng… Có thể nói vai thư ký tòa soạn thường là vai có cường độ lao động căng thẳng nhất trong một tòa

80

soạn. Và các số báo hay hay dở phần lớn thường là do tài nghệ và bản lãnh của người thư ký tòa soạn, và đây thực sự là một nghề chuyên biệt. Tùy theo tính chất và qui mô của từng tờ báo, có tờ chỉ có một thư ký tòa soạn trực tiếp chỉ đạo toàn bộ đội ngũ phóng viên và biên tập viên, nhưng cũng có tờ có 2-3 thư ký và phó thư ký tòa soạn để luân phiên hoặc phân chia công việc. Ngoài chức danh thư ký tòa soạn, nhiều tờ báo như tờ Sài Gòn Giải phóng chẳng hạn còn có một nhân vật thứ ba trong tòa soạn, đó là các trưởng ban phụ trách các phóng viên từng lĩnh vực (như ban chính trị-xã hội, ban kinh tế, ban công nghiệp, ban văn hóa-văn nghệ, ban thể thao…). Ở tờ Tuổi trẻ, một số trưởng ban còn kiêm cả chức danh thư ký tòa soạn và tham gia vào công việc hàng ngày của ban thư ký tòa soạn, nhưng các trưởng ban này đều chịu sự chỉ đạo trực tiếp của một tổng thư ký tòa soạn. Hàng ngày, tại cuộc họp tòa soạn, các trưởng ban phải báo cáo về dự kiến tin tức và bài vở, diện tích cần có, và những tin đề nghị đưa lên trang nhất hoặc làm tin “vơ-đét” (tức là tin lớn quan trọng nhất nằm trên trang nhất).Ngoài ra cũng phải kể tới một nhân vật thứ tư tuy ít khi xuất hiện trong tòa soạn nhưng có thể ảnh hưởng hoặc chi phối ít nhiều nội dung bài vở, đó là người “chủ báo” trong trường hợp báo chí tư nhân ở các nước phương Tây; còn ở Việt Nam thì đó là cơ quan chủ quản của tờ báo. Như vậy, chúng ta có thể hình dung một bản tin sau khi được phóng viên nộp cho người trưởng ban sẽ còn phải đi một chặng đường khá dài, qua nhiều khâu đọc, biên tập và duyệt cho đăng. Và việc một bản tin bị “gác” hoặc bị trả lại cho phóng viên với nhiều lý do khác nhau là điều hoàn toàn bình thường trong hoạt động tòa soạn. Có khi bị ngay người trưởng ban từ chối vì viết không đạt, có khi bị thư ký tòa soạn trả lại vì bắt gặp một số thông tin quan trọng cần phối 81

kiểm thêm, nhưng cũng đôi khi bị chính tổng biên tập quyết định “gác” vì bản tin dù viết tốt nhưng nội dung lại không phù hợp hoặc trái với chủ trương của tờ báo. Trách nhiệm của người phóng viên là hàng ngày phải “săn” cho ra tin mới, làm cho bằng được số tin đã được giao, tin nào làm không đạt hoặc nộp về trễ giờ thì bị phê bình hoặc quở trách. Trách nhiệm của người trưởng ban là vừa phải gợi ý đề tài cho phóng viên và đốc thúc họ đưa tin về sớm, vừa tìm cách thương lượng và thuyết phục người thư ký tòa soạn chấp thuận nội dung bài vở mà ban mình nộp lên. Còn người thư ký tòa soạn thì một mặt phải chịu gánh nặng quản lý hoạt động của các ban phóng viên, mặt khác là áp lực phải thực hiện các ý đồ chỉ đạo của tổng biên tập và ban biên tập, và ngoài ra còn là mảng trách nhiệm quản lý toàn bộ qui trình kỹ thuật tòa soạn (như biên tập chữ nghĩa, văn phong, sửa mo-rát, lập ma-két (tức là vẽ sơ đồ trình bầy từng trang báo), dựng trang trên máy vi tính…) trước khi chuyển sang khâu in ấn. Trên đây, chúng ta vừa mường tượng bộ máy tòa soạn bằng cách mô tả công việc của một số chức danh chính. Tuy nhiên cũng có một cách khác có thể giúp chúng ta dễ hình dung cụ thể hơn hoạt động của bộ máy này, đó là mô tả một ngày làm việc ở tòa soạn của một tờ nhật báo chẳng hạn. Đầu giờ sáng, người ta thường đọc lướt một vòng các tờ báo đối thủ cạnh tranh cũng như tham khảo qua các phương tiện truyền thông đại chúng khác để so sánh “mặt bằng” tin tức, chọn lựa sơ bộ các bản tin từ các hãng thông tấn và các thông cáo báo chí. Ở các ban phóng viên chuyên ngành, người ta bắt đầu thảo luận về kế hoạch đề tài cần làm, gợi ý cho phóng viên những góc độ tiếp cận tin tức và những khía cạnh cần khai thác, rồi cử phóng viên đi lấy tin. Giờ giấc nộp bài lẫn số chữ cho từng tin, từng bài thường được xác định một cách cụ 82

thể và chặt chẽ. Cuối buổi sáng, cuộc họp tòa soạn đầu tiên giữa các thư ký tòa soạn và các trưởng ban sẽ đưa ra một danh sách dự kiến tin tức và bài vở cho số báo ngày hôm sau. Sau đó, trong suốt buổi chiều, các trưởng ban lần lượt nhận, đọc và biên tập sơ bộ các bản tin gởi về, phối kiểm lại một số chi tiết, điện thoại hỏi những phóng viên trễ hẹn, rồi bắt đầu giao lại bài vở của những trang nào đã làm xong cho thư ký tòa soạn. Thường thì từ khoảng 4-5 giờ chiều trở đi, khi một số phóng viên bắt đầu trở về, không khí tòa soạn lúc này mới thực sự trở nên tất bật và náo nhiệt. Hệ thống máy tính bây giờ làm giản tiện rất nhiều cho công việc viết bài, biên tập, và nộp bài, tuy nhiên, có lẽ do đặc điểm của nghề báo, sự tiện lợi này dường như vẫn không hề làm giảm bớt tần số đi lại và trao đổi ồn ào trong nội bộ tòa soạn! Vào cuộc họp thứ hai của tòa soạn diễn ra vào cuối giờ chiều, người ta xác định lại lần cuối cùng những tin tức và bài vở nào sẽ đăng, hoàn chỉnh nội dung và ma-két của trang nhất lẫn của tin “vơđét”. Mặc dù đến đây có thể nói nội dung tin tức trên số báo ngày hôm sau coi như đã gút xong, nhưng trong thực tế tòa soạn vẫn còn phải tiếp tục theo dõi cho đến tận 11-12 giờ đêm để “vớt” lấy những tin giờ chót, đôi khi cũng có những tin quan trọng đến mức phải thay đổi cả ma-két trang nhất. Chừng 12 giờ đêm hoặc trễ lắm là 1 giờ sáng, tòa soạn chuyển toàn bộ các trang hoàn chỉnh sang nhà in, để đến khoảng 3-4 giờ sáng là có báo cung cấp cho hệ thống phát hành, giao cho các đại lý và đưa ra các bến xe và sân bay để chở đi các tỉnh.

NHỮNG ÁP LỰC TRONG NGHỀ NGHIỆP

Mặc dù chỉ là một “người trung gian” (mediator) giữa các nguồn tin và công chúng, nhưng nhà truyền thông vẫn phải chịu đựng nhiều thứ áp lực khác nhau trong hoạt động của mình, chẳng hạn những áp 83

lực cá nhân, áp lực nghề nghiệp và áp lực xã hội. Những loại áp lực khác nhau này tác động tới cách thức chọn lọc và xử lý tin tức, bài vở, cũng như cách thể hiện nội dung trên phương tiện truyền thông – nói chung là ảnh hưởng cách này hay cách khác tới quá trình sản xuất ra một sản phẩm truyền thông. Mỗi ngày, đứng trước khối lượng tin tức rất lớn thu nhận về từ các đặc phái viên và các hãng thông tấn, đơn giản là vì diện tích tờ báo có giới hạn, không thể đăng tải hết tất cả, nên người làm báo buộc phải làm công việc chọn lọc những tin nào đăng được và loại bỏ những tin nào. Chính điều này đã dẫn đến quan niệm cho rằng nhà báo thực chất là một “người gác cửa” (gate-keeper). Quả vậy, hàng ngày công chúng không thể “ngốn” hết tất cả mọi loại tin tức và sự kiện xảy ra trong xã hội. Do đó, nhiệm vụ của người làm báo là chọn lọc và sắp xếp lại tin tức sao cho có trật tự để người đọc dễ theo dõi. Tất nhiên người ta luôn cố gắng làm sao cho việc chọn lọc này được tiến hành một cách khách quan nhất. Tuy vậy, người ta vẫn khó mà tránh được một mức độ chủ quan nào đó trong việc chọn lọc tin tức để đăng tải trên mặt báo, nhất là khi mà trong thực tế công việc hàng ngày, người làm công tác truyền thông vẫn thường phải chịu những áp lực khác nhau. Bảng 4 cho thấy kết quả một cuộc điều tra tại một tờ báo địa phương ở một tiểu bang của Mỹ, tiến hành trong thời gian một tuần vào năm 1949, so sánh giữa số lượng các tin tức nhận được từ các hãng thông tấn, với số lượng các tin tức mà tờ báo này sử dụng trên mặt báo.

Bảng 4. Số lượng tin tức nhận được từ các hãng thông tấn, và số lượng tin tức mà tờ báo sử dụng trong vòng một tuần (theo khảo sát của David White năm 1949)

84

Trang mục

Số tin nhận được Cột-inch

Số tin sử dụng

%

Cột-inch

%

Phạm pháp

527

4,4

41

3,2

Thiên tai, thảm họa

405

3,4

44

3,4

Thời sự liên bang

565

4,7

88

6,8

Thời sự tiểu bang

1.722

14,5

205

15,8

4.171

35,0

301

23,2

1.804

15,1

176

13,6

Kinh tế

405

3,4

59

4,5

Chiến tranh

480

4,0

71

5,5

Lao động

650

5,5

71

5,5

Nông nghiệp

301

2,5

78

6,0

Kinh tế

294

2,5

43

3,3

Giáo dục

381

3,2

56

4,3

Khoa học

205

1,7

63

4,9

11.910

100,0

1.297

100,0

Tin và bài mang tính nhân cảm (human interest) Tin tức quốc tế Chính trị

Tin tức trong nước

Tổng cộng

Nguồn: David White, “The Gate-keeper– Le sélectionneur: étude sur la sélection des nouvelles” (1950), trong Francis Balle, Jean Padioleau (ed.), Sociologie de l'information,Paris, Nxb Larousse, 1973, tr.206-207. Ghi chú: “Cột-inch” (column-inch) là đơn vị đo lường phổ biến trong nghề làm báo ở các nước Anh và Mỹ, tương đương với khoảng 2,50 cm cột báo, tức là khoảng năm dòng chữ của một cột trên trang báo.

85

Áp lực trực tiếp chi phối công việc của bất cứ người làm công tác truyền thông nào, đó là chủ trương, đường lối của tờ báo hoặc của đài truyền hình, đài phát thanh- nơi mà người đó đang làm việc. Điều này dễ hiểu, bởi lẽ bất cứ ai mới được tuyển vào một cơ quan báo chí cũng đều cố gắng tìm hiểu và thích ứng với môi trường làm việc mới của mình- hay nói cách khác là tự mình cố gắng “xã hội hóa” để trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức này. Có nhiều cách để một phóng viên mới hiểu được đường lối của tờ báo, như: đọc bài vở của các đồng nghiệp để coi họ viết như thế nào, nếu đọc được bản thảo thì tốt hơn nữa vì lúc đó, sẽ thấy những chỗ nào được sửa chữa, điều chỉnh; trò chuyện, hỏi han các đồng nghiệp đã làm lâu năm; tham dự các cuộc họp trong tờ báo... Michel de Coster cho rằng có ba thứ lô-gic hành động chi phối mối quan hệ giữa hai nhân vật là tác giả của bản tin (phóng viên) và người lãnh đạo phương tiện truyền thông. Đó là lô-gic phản ánh, lôgic thương mại, và lô-gic chính trị. Lô-gic phản ánh (logique de la reproduction) đòi hỏi tác giả một bản tin hay một bài báo phải phản ánh chính xác sự kiện mà mình có nhiệm vụ tường thuật. Thông thường thì điều này không có vấn đề gì, nếu nội dung bài báo không có gì mâu thuẫn với chủ trương, đường lối của tờ báo (lô-gic chính trị) hoặc không gây tổn hại đến lợi ích của tờ báo (lô-gic thương mại). Thế nhưng, cũng có những trường hợp mà lô-gic phản ánh lại không ăn khớp với lô-gic thương mại hoặc lô-gic chính trị. Chẳng hạn, đôi khi người ta vẫn thấy có những tờ báo ngả theo xu hướng “câu khách” bằng cách ưu tiên đăng những mẩu tin hoặc những cốt truyện có nhiều tình tiết hấp dẫn, ly kỳ hay thậm chí rùng rợn. Giả sử phải cắt ngắn bớt một bài báo thông tin về một sự kiện khoa học nào đó, thì người ta cũng thường dễ cắt bỏ những đoạn tuy nghiêm túc nhưng dễ nhàm chán, và cố giữ lại những chi tiết tuy ngoài lề câu chuyện nhưng dễ

86

hấp dẫn bạn đọc. Như vậy, nhìn chung, theo Michel de Coster, nội dung thông điệp được phát trên phương tiện truyền thông đại chúng thường thường là kết quả của một sự “thỏa hiệp” và đồng tình giữa tác giả (người viết tin, bài) và “nhà sản xuất” (hoặc người “chủ báo”). Có lúc “nhà sản xuất” tôn trọng tác giả của bài viết và đăng nguyên văn, nhưng cũng có lúc “nhà sản xuất” nhúng tay can thiệp vào nội dung bài viết. Đặc biệt trong trường hợp tờ báo thuộc sở hữu của một tập đoàn kinh doanh ở các nước tư bản, người ta thường phải tự hỏi xem có đúng nội dung một bài viết là của chính tác giả ban đầu hay không, hay thực ra là phản ánh quan điểm của tập đoàn này [xem Michel de Coster, Introduction à la sociologie, 3è édition, Bruxelles, De Boeck, 1992, tr. 168-170]

Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 5:

- Những đặc điểm chính của nghề làm báo. - Qui trình hoạt động trong một tòa soạn. - Những lô-gic chi phối hoạt động của người làm công tác truyền thông.

Câu hỏi ôn tập:

1. Lao động làm báo chủ yếu mang tính chất cá nhân hay tính chất tập thể ? Tại sao ? 2. Liệt kê một số chức danh chính trong tòa soạn và nhiệm vụ của mỗi chức danh. 3. Nhà báo thường gặp những áp lực gì trong lao động nghề nghiệp của mình?

87

Bài 6

NGHIÊN CỨU NỘI DUNG TRUYỀN THÔNG

Giới thiệu khái quát: Nội dung chương này nhằm giới thiệu lĩnh vực nghiên cứu nội dung truyền thông trong bộ môn xã hội học truyền thông đại chúng. Sau khi tìm hiểu về văn phong báo chí, sẽ lần lượt tìm hiểu về phương pháp phân tích nội dung thực nghiệm và phương pháp phân tích nội dung tín hiệu học.

Mục tiêu của chương này: Hiểu được một cách khái quát mục tiêu và các phương pháp phân tích nội dung trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

88

VĂN PHONG BÁO CHÍ

Sự ra đời của báo chí và quá trình chuyên nghiệp hóa báo chí trên thế giới đã dần dà làm cho văn phong báo chí trở thành một loại văn phong riêng biệt chưa từng có trước kia, khác hẳn những loại văn phong khác như tiểu thuyết, văn chương, văn phong nghiên cứu, hay văn phong hành chính. Cho đến nay, ở Việt Nam nhiều người vẫn còn lẫn lộn giữa báo chí với văn học, cho rằng “hễ đã là nhà văn thì làm báo dễ như chơi, hễ cứ giỏi văn là làm báo sẽ giỏi”! [Văn Giá, “Nhà báo-nhà văn, viết văn-viết báo”, tạp chí Nghề báo, số 14, 6-2003, tr. 16]. Chúng tôi cho rằng sở dĩ có sự ngộ nhận này là do chưa nhận thức được những điểm khác biệt căn bản giữa lĩnh vực văn học và lĩnh vực báo chí. Trong khi lao động văn học thiên về tư duy hình tượng, thì lao động báo chí thiên về tư duy lô-gic. Nếu phương pháp tư duy của nhà văn chủ yếu dựa trên trực giác và cảm xúc nghệ thuật, dựa trên trí tưởng tượng và hư cấu, thì ngược lại, phương pháp tư duy của nhà báo lại phải đặt nền tảng chủ yếu trên lô-gic duy lý và phải làm việc với các sự kiện và các vấn đề thời sự đang xảy ra, chứ hoàn toàn không được phép hư cấu. Mục tiêu của văn học là hướng đến sự cảm thụ thẩm mỹ, còn báo chí thì trước hết hướng đến mục tiêu thông tin. Tư duy dựa trên sự kiện và tư duy thời sự là một trong những nét đặc trưng hàng đầu của tư duy làm báo. Chính những điều ấy làm cho báo chí mang một văn phong đặc thù, không thể lẫn lộn với văn phong văn học. Trên thế giới, văn phong báo chí được hình thành kể từ cuối thế kỷ XIX, chủ yếu thoát thai từ các nền báo chí của Anh và Mỹ. Truyền thống báo chí ở các nước này đã xác lập một số qui tắc và thể thức

89

viết lách nhất định mà ngày nay hầu hết các sách giáo khoa dạy làm báo trên thế giới đều coi là nguyên tắc chung trong nghề nghiệp. Chẳng hạn đó là qui tắc 5W+1H (Who? What? When? Where? Why? How? Ai ? Cái gì ? Lúc nào ? Ở đâu ? Tại sao ? Thế nào ?) vốn thâu tóm những nội dung chủ yếu bắt buộc phải có trong bất kỳ bản tin hay bài phóng sự nào. Hay qui tắc “hình tháp ngược” qui định rằng nội dung cốt lõi của một bản tin phải được đưa lên ngay phần mở đầu (“lead” trong tiếng Anh), sau đó mới lần lượt đến các chi tiết, bối cảnh hay diễn giải. Đặc điểm của văn phong báo chí không phải chỉ do giới làm báo hay các trường báo chí qui định, mà quan trọng còn là do yêu cầu của chính phía công chúng độc giả hay khán thính giả : một khi đã quen đọc báo, nghe rađiô hay coi ti-vi, người ta thường mặc nhiên mong muốn và chờ đợi tin tức được tường thuật theo một khuôn khổ và trình tự nhất định (chẳng hạn như qui tắc 5W+1H nói trên). Ngoài đặc trưng quan trọng nhất của văn phong báo chí là tính chất khách quan, theo Erik Neveu, khi nói tới văn phong báo chí, chúng ta có thể phân biệt được ba nét đặc trưng sau đây. Trước hết là đặc trưng bám sát sự kiện. Văn báo chí luôn luôn ưu tiên nói tới sự kiện. Dù một bài báo có thể giải thích một sự kiện hoặc đôi khi bày tỏ chính kiến trước sự kiện đó, nhưng yêu cầu quan trọng trước hết là nó phải phản ánh chính xác sự kiện. Kế đến, văn phong báo chí phải mang tính chất sư phạm, nghĩa là phải trong sáng, chuẩn xác và mẫu mực. Khi đặt bút viết, nhà báo phải luôn luôn có phản xạ tự đặt mình vào vị thế của độc giả, để lường trước trình độ giải mã của độc giả, dự đoán cách thức mà họ tiếp nhận bản tin như thế nào, và phản ứng mà họ có thể có đối với bản tin. Vì thế, yêu cầu đầu tiên của lối hành văn báo chí là phải hết sức sáng sủa, dễ hiểu, từ ngữ sử dụng phải phù hợp với khả năng tiếp nhận và khả 90

năng giải mã của đối tượng độc giả của mình. Đặc trưng thứ ba của văn phong báo chí là đặc trưng mà các nhà ngôn ngữ học thường gọi là chức năng “kiểm thông” (“phatic”, bắt nguồn từ chữ phatis trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là lời nói) – tức là chức năng kiểm tra mạch truyền thông, và tìm cách thu hút sự chú ý của người nghe. Đây là chức năng của những từ hay những thủ pháp dùng để giữ liên lạc với người đối thoại (thí dụ những từ như “a-lô” khi nói chuyện qua điện thoại, hay “ờ ờ...”, “ờ thì...” để duy trì mạch trò chuyện với người đang nghe), để “giữ chân” người đọc, làm cho họ lưu tâm theo dõi và đừng bỏ rơi bản tin mà họ đang đọc. Trên báo in, bên cạnh cách hành văn, người ta thường thực hiện chức năng kiểm thông này bằng nhiều phương thức đa dạng như cách đặt tít lớn hay nhỏ, cho thêm các đoạn trích (đóng khung), sắp xếp vị trí của hình ảnh, hay cách dàn trang sao cho bắt mắt nhằm gây sự chú ý đến một “bài đinh” nào đó... Còn trên truyền hình, đó có thể là cách bố cục các cảnh quay một thiên phóng sự theo thứ tự thế nào đó để dẫn dắt khán giả, phối hợp cường độ âm thanh và màu sắc... nhằm thu hút sự quan tâm của khán giả vào những đoạn cần thiết... [xem Erik Neveu, sách đã dẫn, tr. 63].

PHÂN TÍCH NỘI DUNG TRUYỀN THÔNG

“Nội dung truyền thông” ở đây được hiểu như là tất cả những gì xuất hiện trên phương tiện truyền thông đại chúng, kể từ tin tức, bài báo hay hình ảnh trên báo in, cho tới những âm thanh và hình ảnh được phát sóng trên đài phát thanh hay đài truyền hình. Các nhà nghiên cứu cho rằng nghiên cứu về nội dung truyền thông là một cách thức bổ ích để tìm hiểu về một xã hội hoặc về một thời kỳ lịch 91

sử nhất định của một xã hội – bởi lẽ những nội dung này thường phản ánh nhiều mặt rất đa dạng trong cuộc sống xã hội, và cho phép chúng ta tìm hiểu sâu vào những vấn đề xã hội mà chúng ta cần nghiên cứu. Việc nghiên cứu nội dung truyền thông được tiến hành bằng phương pháp phân tích nội dung (content analysis), theo hướng định lượng hay theo hướng định tính, hoặc kết hợp cả hai cách này. Người ta thường phân biệt hai phương pháp phân tích nội dung: (a) phương pháp phân tích nội dung thực nghiệm, và (b) phương pháp phân tích nội dung tín hiệu học.

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH NỘI DUNG THỰC NGHIỆM

Mục đích của công việc phân tích nội dung một văn bản nào đó là tìm hiểu sâu xa hơn vào những động cơ hoặc ý định của tác giả, những điều mà tác giả nhắm tới đằng sau bản văn một cách có ý thức hoặc không có ý thức (tương tự như là kỹ thuật “đọc giữa hai dòng chữ”, như chúng ta thường nói). Tuy nhiên, phương pháp này khác hẳn với phương pháp phân tích một bài thơ hay một cuốn tiểu thuyết như trong lĩnh vực văn học. Để cố gắng đạt tới mức độ khách quan cần thiết trong việc nghiên cứu, phương pháp phân tích nội dung tìm cách định lượng hóa các chỉ tiêu trong văn bản (hoặc là một văn bản in trên giấy, hoặc là những thước phim truyền hình, v.v...) để có thể xử lý chúng một cách có hệ thống. Để làm việc này đối với một văn bản chẳng hạn, người ta có thể áp dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, như kỹ thuật đo lường tần số xuất hiện của những từ hoặc cụm từ then chốt, hoặc của những chủ đề then chốt đối với đề tài nghiên cứu, kỹ thuật tìm kiếm cấu trúc của văn bản. 92

Việc phân tích phải được tiến hành một cách có hệ thống, nghĩa là phải khảo sát tất cả các dữ kiện trong đối tượng mà mình nghiên cứu. Chẳng hạn khi một nhà nghiên cứu muốn chứng minh rằng những người da màu thường bị phim ảnh truyền hình coi là những kẻ chuyên gây hấn người khác, thì chắc chắn anh ta sẽ tìm ra được những cuốn phim phản ánh điều này. Thế nhưng nếu một nhà nghiên cứu khác muốn chứng minh ngược lại, rằng những người da màu thường là nạn nhân của những sự gây hấn, thì chắc chắn cũng tìm được những cuốn phim để chứng minh. Cả hai trường hợp vừa nêu đều không phải là nghiên cứu theo phương pháp phân tích nội dung. Phương pháp này đòi hỏi nhà nghiên cứu trước hết phải vô tư, nghĩa là phải thoát ra khỏi các định kiến có sẵn. Và vì thế cần phải chọn tất cả những thước phim có liên quan tới mối quan hệ giữa người da màu và người da trắng bằng cách chọn mẫu đại diện trong số các bộ phim truyền hình được trình chiếu trong một khoảng thời gian nhất định [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 128-129]. Việc phân tích trên đây cần được tiến hành theo những nguyên tắc thật chính xác, cũng như cần xác định những khái niệm thật rõ ràng, để đảm bảo làm sao những nhà nghiên cứu khác nhau nếu cùng phân tích một đề tài thì đều có thể tìm ra những kết luận giống nhau. Tất nhiên ở đây, cũng tương tự như bất kỳ công trình nghiên cứu nào, việc khó khăn nhất mà cũng chứa nhiều nguy cơ chủ quan nhất là ở chỗ lý giải ý nghĩa của những con số kết quả tìm được. Thật vậy, đôi khi người nghiên cứu sử dụng phương pháp này để biện hộ cho một giả thuyết có sẵn trong đầu trước khi nghiên cứu, chứ không phải để thực sự tìm ra những giả thuyết mới phát sinh từ bản thân kết quả nghiên cứu. Paisley đã tiến hành một cuộc nghiên cứu nhằm khảo sát một số từ ngữ chính trị được hai ứng cử viên tổng thống Mỹ là Kennedy và 93

Nixon sử dụng trong bốn cuộc tranh luận trên truyền hình vào năm 1960. Sau khi phân tích tần số xuất hiện của những từ như “hiệp ước”, “tấn công”, “chiến tranh”, “đất nước”, “đô-la”, “Cuba”, v.v…, ông ta đi đến kết luận rằng lời lẽ của Nixon tỏ ra hiếu chiến hơn hẳn so với Kennedy [Judith Lazar, sách đã dẫn, trang 129-130]. Phương pháp phân tích nội dung các hình ảnh trên truyền hình được áp dụng khá nhiều ở Mỹ vào những năm 1960 và 1970 trong việc nghiên cứu về vị trí của người phụ nữ và của những người da màu. Kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy: truyền hình thường đưa ra những hình ảnh thiên lệch và méo mó về nữ giới cũng như về người da màu. Điều này vừa phản ánh, vừa góp phần củng cố thêm các thành kiến và ấn tượng xấu về hai giới này trong xã hội. Seggar và Wheeler nghiên cứu về các hình tượng công ăn việc làm trên truyền hình Mỹ năm 1971 và nhận thấy phần lớn các hình tượng này đều do người da trắng và nam giới đảm nhận, còn người da đen và phụ nữ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, và nếu có thì cũng thường chỉ làm những công việc dịch vụ và có vị trí xã hội thấp kém mà thôi. Vào đầu thập niên 1970, Dominick và Rauch nghiên cứu về hình ảnh của người phụ nữ trong các chương trình quảng cáo trên truyền hình, và ghi nhận rằng nữ giới có một hình ảnh kém cỏi hơn rõ rệt so với đàn ông: phần lớn phụ nữ (56 %) đều là nội trợ, chỉ có 19 % có việc làm ngoài xã hội, nhưng đa số cũng chỉ làm những công việc “của phụ nữ” như thư ký, tiếp viên hàng không, người mẫu, ca sĩ.

94

Bảng 5. So sánh cơ cấu nghề nghiệp được trình bày trên truyền hình với cơ cấu nghề nghiệp trong thực tế ở tiểu bang Indiana (Mỹ) (đơn vị tính : %) Loại nghề nghiệp

Nghề nghiệp trên

Nghề nghiệp trong

truyền hình

thực tế

Nam

Nữ

Nam

Nữ

1. Nghề tự do

29,8

37,2

8,9

11,8

2. Kinh doanh nông

0,5

0,0

6,5

0,1

33,1

7,1

9,1

3,4

4. Nhân viên

2,5

28,6

6,1

29,6

5. Buôn bán

1,1

0,0

6,0

8,6

6. Thợ thủ công, đốc

3,6

8,6

21,0

1,3

7. Công nhân

5,5

5,7

24,0

16,8

8. Làm mướn việc

4,9

11,4

0,1

6,0

9. Lao động dịch vụ

13,4

0,0

5,2

15,0

10. Làm nghề nông

0,0

0,0

1,8

0,1

11. Lao động chân

1,6

0,0

7,0

0,7

3,5

1,4

4,3

5,3

nghiệp 3. Giám đốc, viên chức cao cấp, điền chủ

công

nhà

tay 12. Lao động khác

Nguồn: Melvin de Fleur, trích lại theo Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 132.

Melvin de Fleur đã tiến hành nghiên cứu so sánh giữa cơ cấu nghề

95

nghiệp thực tế với cơ cấu nghề nghiệp được phản ánh trên truyền hình vào đầu những năm 1960 ở tiểu bang Indiana. Ông ta chọn mẫu trong số các chương trình truyền hình được phát trong vòng 6 tháng, và ghi chép lại mỗi khi một nghề nghiệp xuất hiện trên màn hình ít nhất 3 phút. Kết quả cho biết tỷ lệ các nghề tự do (như bác sĩ, kỹ sư, giáo sư...) được phản ánh trên truyền hình nhiều hơn so với thực tế (các tỷ lệ tương ứng là 1/3 so với 1/10), và ngược lại những nghề vốn thường được coi là thấp kém hơn thì chỉ chiếm có 10 % trên màn ảnh truyền hình. Ông ta nhận định rằng, nhìn chung, thế giới lao động trên màn ảnh truyền hình là một thế giới của đàn ông: 83,9 % công việc làm đều do nam giới đảm trách, nữ giới chỉ đảm nhiệm có 16,1 %; trong khi đó, thống kê ở địa phương này cho biết nam giới chiếm 68,9% lao động xã hội, còn nữ giới chiếm 31,1 % (xem bảng 5). Người ta cũng sử dụng kỹ thuật phân tích nội dung thực nghiệm nói trên đối với các tin tức trên một tờ báo chẳng hạn, để tìm xem tiềm ẩn đằng sau nội dung các bản tin là những giá trị xã hội nào được đề cao hơn hết.

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH NỘI DUNG TÍN HIỆU HỌC

Bên cạnh phương pháp phân tích nội dung thực nghiệm nói trên, người ta còn có thể áp dụng phương pháp phân tích nội dung tín hiệu học (semiological content analysis). Đây là phương pháp chủ yếu mang tính chất định tính, nhằm khảo sát những mối quan hệ bên trong giữa các yếu tố trong một văn bản hay trong một hệ thống tín hiệu nào đó. Đối tượng của môn tín hiệu học (semiology), theo Roland Barthes, là “bất cứ hệ thống dấu hiệu nào (sign) (...) ; các hình ảnh,

96

các cử chỉ, các âm thanh giai điệu, các đồ vật và các nghi lễ, các nghi thức hoặc là các buổi trình diễn, tất cả nếu không phải là những ‘ngôn ngữ’ (languages) thì cũng ít nhất đều là những hệ thống ý nghĩa”. Chính Ferdinand de Saussure, nhà ngôn ngữ học người Thụy Sĩ, là người đầu tiên nói tới một ngành khoa học về các tín hiệu, hay tín hiệu học (semiology), vào đầu thế kỷ, trong đó ngôn ngữ học là một phân ngành. Theo Saussure thì một tín hiệu (hay dấu hiệu, sign) được cấu tạo bởi hai phần gắn bó khăng khít với nhau : cái biểu hiện (the signifier), và cái được biểu hiện (the signified). Cái biểu hiện là phần tồn tại vật lý của tín hiệu, còn cái được biểu hiện là cái khái niệm nằm trong đầu chúng ta [xem Ferdinand de Saussure, Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1973, tr. 119-122]. Sơ đồ 5. Các yếu tố của tín hiệu, theo quan niệm của Saussure

Tín hieäu (sign)

Caùi bieåu hieän (thesignifier)

Caùi ñöôïc bieåu hieän (thesignified)

Chúng ta có thể kể ra vài thí dụ: thuật ngữ “cái cây”, một cái thiệp chúc Tết, hay cột đèn xanh đèn đỏ ở ngã tư – đấy đều là những tín hiệu. Chữ “cái cây”, cái thiệp, và cột đèn xanh đèn đỏ đều là những “cái biểu hiện”, tức là những bộ phận vật lý của tín hiệu, còn những “cái được biểu hiện” là những khái niệm (nằm trong đầu chúng ta) về

97

cái cây, về lời chúc Tết, hay về chuyện phải dừng lại hay được phép đi tiếp khi chúng ta chạy xe tới một ngã tư nào đó. Có một điều mà người ta thường lầm tưởng, đó là nghĩ rằng nếu chúng ta so sánh các hệ thống ngôn ngữ của các xã hội khác nhau, thì chúng ta thấy chỉ khác nhau về “cái biểu hiện”, chứ không khác nhau về “cái được biểu hiện”. Thực ra không phải như thế. Lấy thí dụ về ngôn ngữ: một người mới học được một thứ tiếng nước ngoài, nhưng chưa chắc người này đã thực sự hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của các từ ngữ và hình tượng trong ngôn ngữ của người dân nước này. Chẳng hạn chữ “con bò”, mặc dù chúng ta có thể biết người Ấn Độ dùng chữ gì để chỉ “con bò”, nhưng chắc chắn là hình tượng con bò trong tâm thức của người Ấn Độ hoàn toàn rất khác với hình tượng và quan niệm của người Việt Nam chúng ta về con bò. Như vậy, không phải chỉ tiếng nói (cái biểu hiện), mà cả ý nghĩa của tiếng nói (cái được biểu hiện) cũng là sản phẩm của văn hóa. Chúng ta cũng có thể liên tưởng tới nhiều thí dụ khác, như động tác gật đầu hay lắc đầu có thể mang ý nghĩa đồng ý hay không đồng ý đối với dân tộc này, nhưng lại ngược lại đối với một dân tộc khác; hay động tác vẫy tay để chia tay với ai, hoặc động tác ngoắc tay để gọi ai, cũng có thể có những ý nghĩa khác biệt tương tự. Nhà phê bình văn học Roland Barthes đã bổ sung cho quan niệm trên đây của Saussure. Barthes gọi mối quan hệ giữa hai yếu tố của tín hiệu là cái biểu hiện và cái được biểu hiện (mà Saussure đã phân biệt) là “ý nghĩa trực chỉ” (denotation) (tức là một sự mô tả trung tính, khách quan). Chúng ta có một tấm ảnh chụp một con đường: tấm ảnh này cho thấy một con đường cụ thể nào đó (ý nghĩa trực chỉ). Nhưng người ta có thể chụp tấm ảnh đó bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, người ta có thể chụp bằng phim màu hoặc bằng phim đen trắng, hoặc chụp bằng ống kính lọc phủ màu xanh hay màu xám... để tạo ra 98

cảm giác rằng đây là một con đường tươi vui, hoặc ngược lại, đây là một con đường u ám, buồn bã... Tuy hai bức ảnh này có cùng một ý nghĩa trực chỉ như nhau (đó là một con đường nào đó), nhưng Barthes cho rằng chúng có “ý nghĩa biểu cảm” khác nhau (connotation) (con đường tươi vui, hay con đường u ám, buồn bã) (hai tấm ảnh cho thấy có thêm yếu tố cảm nhận chủ quan của người chụp). Theo Barthes, trong quá trình tri giác một tín hiệu hay một thông điệp, con người thường nhận ra ý nghĩa biểu cảm bằng trực giác và cảm tính, hơn là bằng lý trí. Và điều này chủ yếu dựa trên kinh nghiệm chủ quan của chủ thể ; loại kinh nghiệm này thiên về cảm xúc trước những giá trị văn hóa hơn là do kỹ năng suy lý của trí tuệ. Như vậy, trong quá trình phân tích về tín hiệu, bên cạnh sự phân biệt giữa “cái biểu hiện” và “cái được biểu hiện” do Saussure đề xướng, Roland Barthes đã tiến xa hơn bằng cách phân biệt thêm một cấp độ nữa, đó là “ý nghĩa biểu cảm” (connotation) – ngoài “ý nghĩa trực chỉ” (denotation) theo cách phân biệt của Saussure. Phương pháp phân tích tín hiệu học giúp chúng ta đi tìm “ý nghĩa văn hóa” của nội dung truyền thông đại chúng, “giải mã” và khám phá ra những khía cạnh tiềm ẩn và những ý nghĩa sâu xa đằng sau bức thông điệp công khai mà nhà truyền thông cho đăng tải. Sở dĩ đây là một phương pháp hữu hiệu là vì chúng ta thường thấy “văn bản” của phần lớn các phương tiện truyền thông đều không chỉ có một hệ thống tín hiệu (ngôn ngữ), mà còn kết hợp đồng thời nhiều hệ thống tín hiệu khác nhau, như trong lĩnh vực các phương tiện thính-thị (truyền hình, phát thanh, điện ảnh...). Cuối thập niên 1960, một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Truyền thông Annenberg (Annenberg School of Communication) (Mỹ) đã sử dụng phương pháp phân tích nội dung khi tiến hành một công trình điều tra khá qui mô về “thế giới truyền hình”. Họ cho rằng tác động 99

của truyền hình đối với công chúng không phải chỉ thông qua một vài chương trình cụ thể, mà là thông qua toàn bộ các thể loại chương trình khác nhau, kể cả các chương trình thời sự lẫn các chương trình chiếu phim. Vì thế họ đã sử dụng kỹ thuật viđêô để thu lại trong vòng 13 năm (từ 1967 tới 1979) 1.491 chương trình để đưa vào phân tích. Kết luận của nhóm nghiên cứu này là các chương trình truyền hình đã đưa ra một cơ cấu nhân khẩu rất sai lạc so với cơ cấu thực tế của dân cư Mỹ. Trong thế giới của truyền hình, nam giới chiếm tỷ lệ đông hơn nữ giới (tỷ lệ 3 trên 1); những người lớn tuổi (trên 65 tuổi) và thanh thiếu niên dưới 20 tuổi chiếm tỷ lệ thấp hơn nhiều so với thực tế (xem biểu đồ 1); những người làm nghề tự do và các nhà kinh doanh xuất hiện nhiều hơn so với tầng lớp nhân viên và những người lao động chân tay.

Biểu đồ 1. Tuổi tác của dân cư nước Mỹ, so sánh với tuổi tác của những nhân vật xuất hiện trên truyền hình vào giờ cao điểm Tyû leä phaàn tr aêm 20

Nhöõng nhaân vaät xuaát hieän tr eân tr uyeàn hình vaøo giôø cao ñieåm

15

10

Daân cö Myõ 5

0

5

10

15

20

25

30

35

40

45

50

55

60

65

70

75

80

Tuoåi

Nguồn: Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 141. Nhóm nghiên cứu nói trên nhận định rằng thực ra màn ảnh vô

100

tuyến truyền hình đã đưa ra cho công chúng một thế giới thần tiên, trong đó phần lớn những người xuất hiện trên màn ảnh đều là những người khỏe mạnh, xinh đẹp, tốt bụng... Theo họ, thế giới truyền hình chỉ là một thế giới ảo, bị bóp méo, xa lạ với thực tại xã hội. Đặc điểm của công trình nghiên cứu này là làm cho người ta chú ý không phải chỉ về sự bất tương xứng giữa thế giới truyền hình với thế giới thực tại, mà còn về ý nghĩa sâu xa đằng sau sự bất tương xứng đó.

Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 6:

- Sự khác biệt giữa báo chí với văn học. - Mục đích của phương pháp phân tích nội dung. - Phương pháp phân tích nội dung thực nghiệm. - “Ý nghĩa trực chỉ” và “ý nghĩa biểu cảm” theo quan niệm của Roland Barthes. - Phương pháp phân tích nội dung tín hiệu học.

Câu hỏi ôn tập:

1. Đâu là những khác biệt giữa báo chí với văn học? 2. Cho biết vài đặc điểm của văn phong báo chí. 3. Hãy trình bày vắn tắt phương pháp phân tích nội dung thực nghiệm. 4. Thế nào là một “tín hiệu” (sign) theo quan niệm của Saussure? 5. Hãy phân biệt giữa “ý nghĩa trực chỉ” (denotation) và “ý nghĩa biểu cảm” (connotation) theo quan niệm của Roland Barthes.

101

Câu hỏi thảo luận nhóm: (hoặc tự mình trả lời bằng suy nghĩ cá nhân)

1. Hãy thử phân tích và so sánh hiệu quả của thông tin qua chữ viết (báo in) với thông tin qua hình ảnh và âm thanh (truyền hình). 2. (Chỉ xét riêng lĩnh vực tin tức và thời sự:) So sánh thông tin trên truyền hình với thông tin trên báo in, cái nào mang hàm lượng thông tin nhiều hơn ? Và cái nào khách quan hơn và gần với sự thật hơn?

102

Bài 7

NHỮNG TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Giới thiệu khái quát: Chương này trình bày kết quả nghiên cứu của một số tác giả về hiệu quả và tác động của truyền thông đại chúng đối với xã hội, từ giả thuyết về “hố chênh lệch kiến thức” ngày càng lớn do truyền thông đại chúng gây ra, hay giả thuyết về chức năng “thiết lập chương trình nghị sự”, cho tới những luận điểm liên quan tới mối quan hệ giữa truyền thông và tình trạng bạo lực trong xã hội. Cuối cùng là vai trò của báo in trong bối cảnh phát triển ngày càng mạnh của các phương tiện truyền thông điện tử, nhất là Internet.

103

Mục tiêu của chương này: Tìm hiểu những lối nhìn và lối giải thích khác nhau của nhiều trường phái lý thuyết đối với hiệu quả và tác động xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng.

Từ xưa tới nay, giới nghiên cứu về truyền thông vẫn không ngừng tập trung sự chú ý tới chủ đề ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với người dân và đối với xã hội. Mặc dù về sau, người ta có chú trọng nhiều hơn tới những đề tài nghiên cứu về giới làm công tác truyền thông, hoặc về các tổ chức truyền thông, nhưng cho tới nay, mức độ tác động xã hội của truyền thông đại chúng vẫn luôn luôn là đề tài gây tranh cãi nhiều nhất. Tính chất phức tạp ở đây là người ta khó lòng mà đo lường được một cách chính xác là truyền thông đại chúng ảnh hưởng tới mức nào đối với dư luận hay tâm tư suy nghĩ của người dân, đối với ứng xử và tập quán của họ. Đơn giản là bởi vì trong thực tế, bất cứ một sự kiện xã hội nào cũng đều chịu tác động của nhiều nhân tố xã hội khác nhau, chứ không phải chỉ riêng của lĩnh vực truyền thông đại chúng. Bernard R. Berelson đã viết như sau khi nói về tác động của truyền thông đại chúng: “Nhiều loại truyền thông khác nhau về nhiều đề tài khác nhau, vốn được theo dõi bởi nhiều loại người dân khác nhau, trong bối cảnh của nhiều loại điều kiện khác nhau, đã có nhiều loại tác động khác nhau” [xem Alphons Silbermann, Communication de masse, Paris, Hachette, 1981, tr. 48]. Câu phát biểu này chứng tỏ một thái độ thận trọng của nhà nghiên cứu khi đứng trước vấn đề phức tạp này mà ông ta không dám quả quyết. Quả vậy, có rất nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng tới việc tiếp nhận thông điệp truyền thông nơi người dân, như : khả năng tri giác chọn lọc, khả năng ghi nhớ chọn lọc, những nhân tố thuộc về các nhóm xã hội (các “nhóm qui chiếu” theo

104

quan niệm của Robert Merton chẳng hạn) và các tầng lớp xã hội, vai trò của những người có uy tín ("hướng dẫn dư luận")... Chính tính chất phức tạp này đã thu hút sự chú ý của các giới nghiên cứu nhằm đưa ra nhiều giả thuyết lý giải khác nhau.

QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU

Xét về chủ đề ảnh hưởng xã hội của truyền thông đại chúng, trong giới nghiên cứu ở phương Tây, người ta có thể phân biệt ba giai đoạn chính như sau trong lịch sử nghiên cứu. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ thập niên 1910 cho tới Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, mang đặc điểm là hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng các phương tiện truyền thông đại chúng có một sức mạnh “vạn năng". Người ta đặc biệt chú trọng tới những tác động của các đài phát thanh và điện ảnh (lúc ấy chưa có truyền hình). Người ta cho rằng người dân bị tác động trực tiếp của truyền thông đại chúng, giống trong qui luật phản xạ có điều kiện. (Về sau, giới nghiên cứu thường gọi khuynh hướng này là lý thuyết “mũi kim chích", hoặc lý thuyết “viên đạn thần kỳ") Giai đoạn thứ hai là thời kỳ mà người ta nhận diện ra tính tương đối của sự tác động của truyền thông đại chúng, và bác bỏ ý tưởng cho rằng truyền thông đại chúng có thể ảnh hưởng trực tiếp lên trên suy nghĩ và ứng xử của người dân. Giai đoạn này kéo dài từ khoảng những năm 1930 cho tới thập niên 1960. Nhờ những công trình điều tra thực nghiệm và có hệ thống, người ta khám phá ra là thông tin đại chúng chỉ là một trong số nhiều nhân tố xã hội, kinh tế và văn hóa ảnh hưởng tới thái độ và ứng xử của người dân. Và lúc này, người ta chú trọng nhiều hơn vào bối cảnh xã hội, cũng như vai trò của các

105

nhóm xã hội và các tầng lớp xã hội. Nhận định về đặc điểm của giai đoạn nghiên cứu này, Joseph Klapper viết như sau: “Nói chung, truyền thông đại chúng không phải là một nguyên nhân cần và đủ để gây ra những tác động vào công chúng; thực ra, nó ảnh hưởng thông qua sự kết hợp của nhiều nhân tố trung gian khác.” [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 144] Thế nhưng sang giai đoạn thứ ba, bắt đầu từ giữa thập niên 1960 cho tới ngày nay, thì người ta lại có xu hướng đặt lại vấn đề và nghi ngờ rằng có lẽ ảnh hưởng của truyền thông đại chúng không phải là yếu ớt và ít ỏi như người ta vẫn nghĩ. Đặc biệt là với sự ra đời và phát triển của vô tuyến truyền hình, người ta nhận thấy phương tiện truyền thông này vừa có một sức hấp dẫn mãnh liệt hơn so với các phương tiện truyền thông có trước, vừa có những tác động rất đáng lưu tâm về mặt xã hội. Đây là giai đoạn diễn ra rất nhiều công trình nghiên cứu cụ thể và nảy sinh nhiều giả thuyết cũng như tranh luận khá gay gắt.

PHỔ BIẾN THÔNG TIN VÀ KIẾN THỨC

Chức năng đầu tiên, và cũng là tác dụng đầu tiên thường được nhắc tới của các phương tiện truyền thông đại chúng, đó là cung cấp thông tin và kiến thức cho người dân. Quả vậy, qua các cuộc điều tra, phần lớn người dân thường trả lời là mình biết tin tức, thời sự nhờ theo dõi các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong các cuộc điều tra xã hội học, người ta thường dùng những chỉ tiêu sau đây để khảo sát về tính chất và mức độ theo dõi truyền thông đại chúng của công chúng: - Số người biết một tin tức cụ thể nào đó, - Tầm quan trọng của tin ấy đối với người dân (hay mức độ chú

106

ý), - Nguồn tin là từ đâu (người dân biết tin ấy từ phương tiện truyền thông đại chúng hay là do nghe người khác nói lại), - Người dân hiểu tin ấy như thế nào, - Và sau một thời gian nhất định, họ có còn nhớ tin ấy hay không, và nếu còn thì nhớ thế nào. Điều cần lưu ý ở đây là công chúng thường tiếp nhận thông tin và kiến thức không phải chỉ nhờ theo dõi các chương trình tin tức, thời sự, mà kể cả thông qua các chương trình giải trí trong truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát và phân tích nhà nghiên cứu thường khó mà xác định được một cách chính xác đâu là phần đóng góp của các phương tiện truyền thông vào sự hiểu biết tin tức, thời sự của người dân, bởi lẽ họ cũng còn có nhiều nguồn khác để thu nhận thông tin. Chẳng hạn, qua các cuộc điều tra khảo sát về mối quan hệ giữa mức độ theo dõi thông tin đại chúng với kiến thức chính trị, người ta chưa bao giờ đi đến được một kết luận rõ ràng về mối liên hệ tương quan có ý nghĩa giữa hai biến số này. Người ta nhận xét thấy là : mặc dù vô tuyến truyền hình là phương tiện được công chúng xem nhiều nhất, nhưng chính những người đọc báo in thường xuyên mới là những người nắm vững kiến thức thời sự hơn so với những người chỉ theo dõi tin tức thời sự qua ti-vi. Người ta nhận thấy những người có đọc báo in, thì khi coi ti-vi, họ thường ghi nhớ các sự kiện tốt hơn là những người chỉ coi ti-vi mà thôi. Năm 1978, Stauffer đã tiến hành một công trình nghiên cứu đối chiếu về khả năng ghi nhớ các tin tức sau 30 phút xem ti-vi, nơi hai nhóm thanh niên Mỹ – một nhóm gồm những thanh niên 19 tuổi đang còn đi học, và một nhóm là những thanh niên bị mù chữ “chức năng” (tức là đã từng đi học để biết đọc biết viết, nhưng sau một thời gian

107

không sử dụng nữa nên đã quên luôn). Nhóm thứ nhất ghi nhớ các yếu tố của các tin tức đã xem tốt hơn nhiều so với nhóm thanh niên thứ hai. Nhà nghiên cứu kết luận: “Quá trình giáo dục vốn đã phát triển khả năng đọc và viết, cũng đồng thời hoàn thiện kỹ năng giải mã hình ảnh (décodage visuel) và kỹ năng phát biểu bằng lời nói”. [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr.147-148]

GIẢ THUYẾT VỀ “HỐ CHÊNH LỆCH KIẾN THỨC"

Một trong hậu quả xã hội có thể có của truyền thông đại chúng là sự cách biệt ngày càng tăng về kiến thức- đó là giả thuyết về “hố chênh lệch kiến thức” (gap hypothesis) do Tichenor và các đồng nghiệp đề xướng. Họ cho rằng những tầng lớp xã hội có vị trí kinh tếxã hội cao thường thu nhận thông tin nhiều hơn và nhanh hơn so với các tầng lớp ở những vị trí kinh tế-xã hội thấp, do đó, khoảng cách chênh lệch giữa hai nhóm này ngày càng giãn rộng ra. Chúng ta cần lưu ý là họ không nói rằng các tầng lớp xã hội thấp hoàn toàn không có thông tin, mà nói rằng vốn kiến thức nơi các tầng lớp xã hội thấp gia tăng kém hơn nhiều so với những tầng lớp trên. Nhiều cuộc điều tra khác cũng khẳng định rằng có một mối liên hệ tương quan rất chặt giữa việc thuộc về một tầng lớp kinh tế-xã hội cao với mức độ chú ý tới các vấn đề chính trị, xã hội hoặc kinh tế. Năm 1965-1966, Michel Souchon đã tiến hành một công trình nghiên cứu khá qui mô về vai trò của vô tuyến truyền hình trong cuộc sống của giới trẻ. Ông đã tiến hành điều tra với tổng số mẫu là 1.445 học sinh từ 16 tới 18 tuổi trong các trường ở thị trấn Saint-Etienne (vùng Loire, Pháp), bằng phương pháp trắc nghiệm khả năng tiếp nhận và khả năng hiểu các chương trình truyền hình [Michel Souchon, La télévision des adolescents, Paris, Ed. Ouvrières, 1969. Dẫn lại theo 108

Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 148-149.]. Souchon rút ra những kết luận sau đây. Trước hết, ông khẳng định rằng truyền hình quả là một phương tiện “đồng nhất hóa văn hóa” (homogénéisation culturelle), bởi vì nó có khả năng cung cấp cho tất cả mọi người rất nhiều thông tin mới mẻ. Tuy nhiên trong thực tế, người ta lại nhận thấy có những khác biệt rất lớn trong cách “tiêu thụ” (consommation) các chương trình truyền hình (thí dụ, người xem nhiều, người xem ít; người thì thích coi mục này, người khác lại thích coi chương trình kia...). Vả lại, giả sử là mọi người đều tiêu thụ như nhau, thì cách tiếp nhận (réception) cũng lại rất khác nhau giữa các tầng lớp văn hóa-xã hội. “Dù họ có coi cùng một chương trình truyền hình, thì những khán giả có vốn liếng trí tuệ và văn hóa khác nhau sẽ không tiếp nhận những thông điệp giống nhau, và sẽ không ghi nhớ những yếu tố như nhau”. Souchon cho rằng truyền hình không phải là một phương tiện đương nhiên làm giàu về mặt văn hóa cho mọi người, mà ngược lại, nó rất có thể chỉ làm giàu cho người giàu hơn là người nghèo, và là nguồn gốc của một hiện tượng nếu không phải là “bần cùng hóa tuyệt đối”, thì cũng là “bần cùng hóa tương đối”. Ở Mỹ, vì không có trường mẫu giáo nên trẻ em khi vào lớp 1 thường bị chênh lệch nhau rất nhiều về trình độ, do thuộc những tầng lớp kinh tế-xã hội khác nhau. Vì thế, vào năm 1969, nhiều cơ quan nghiên cứu, đại học và đài truyền hình đã hợp tác với nhau để cho ra đời một chương trình mang tên “Sesame Street” dành cho trẻ em từ 3 tới 5 tuổi, đặc biệt chú ý tới trẻ em thuộc các tầng lớp yếu kém trong xã hội. Chương trình này được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, chăm chút, làm sao thu hút được số khán giả nhỏ tuổi này, kể cả trường hợp chúng có thể xem một mình mà không cần người lớn ngồi bên cạnh giải thích thêm. Nội dung nhằm mục tiêu làm cho trẻ em chưa đi học được làm quen dần với các mẫu tự và các con số, những cách tính toán

109

và những cách lập luận sơ đẳng, những nguyên tắc vệ sinh và giáo dục công dân cơ bản, làm sao cho các em bắt đầu có được ý thức về cơ thể của mình và về môi trường xung quanh. Chương trình được phát trên hơn 200 đài truyền hình, mỗi ngày một tiếng, và đã được hàng triệu trẻ em theo dõi. Sau vài tháng phát sóng chương trình trên đây, các nhà nghiên cứu đã tiến hành thẩm định hiệu quả, và nhận thấy như sau: - Những đứa trẻ nào theo dõi các chương trình đều đặn nhất thì học hỏi được nhiều nhất. - Nhưng cũng xuất hiện tình hình là những đứa trẻ thuộc những gia đình có đời sống văn hóa khá giả hơn thì tận dụng được chương trình này nhiều hơn. Rõ ràng là nếu đứa trẻ có môi trường tốt, nếu nó có điều kiện trao đổi, hỏi han cha mẹ hay người lớn trong nhà thì hiệu quả của chương trình sẽ đạt cao hơn- trong khi đó, mục đích chính của chương trình thực ra lại nhằm vào chính những đứa trẻ thuộc các gia đình thiệt thòi và yếu kém nhất, và vào những đứa trẻ phải ở nhà coi ti-vi một mình. LÝ THUYẾT VỀ CHỨC NĂNG “THIẾT LẬP CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ”

Một lý thuyết thường được gọi là lý thuyết về chức năng “thiết lập chương trình nghị sự" (“agenda-setting”) được McCombs và Shaw đề xướng vào năm 1972. Các tác giả này cho rằng các phương tiện truyền thông đại chúng có chức năng thu hút sự chú ý của công luận vào một số vấn đề thời sự nhất định. Giả thuyết của họ là có một mối liên hệ tương quan chặt chẽ giữa thứ tự ưu tiên của các biến cố được trình bầy bởi các phương tiện truyền thông, với thứ tự ưu tiên quan tâm tới những biến cố đó nơi công chúng và kể cả nơi các nhà

110

làm chính trị. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa nội dung truyền thông đại chúng và mối quan tâm của cử tri trong quá trình vận động bầu cử, hai tác giả này nhận thấy hầu hết những vấn đề mà cử tri đang tỏ ra quan tâm chú ý đều là những vấn đề đã được nhấn mạnh trên các phương tiện truyền thông. Từ đó, họ kết luận rằng các phương tiện truyền thông đại chúng chính là người “thiết lập chương trình nghị sự”, nghĩa là xác định trật tự những vấn đề để công chúng chú ý theo dõi và bình luận. Chức năng này hết sức quan trọng bởi lẽ nó đi đến chỗ có thể lèo lái người dân phải quan tâm tới một số vấn đề nào đó, và đồng thời tránh né (hay che giấu) một số vấn đề khác. Bảng 6. Thứ tự các vấn đề được đề cập trên các tuần báo từ 1960 đến 1970, và thứ tự “các vấn đề quan trọng nhất mà Hoa Kỳ phải đương đầu” (theo sự trả lời của người dân) trong cùng khoảng thời gian này Các vấn đề

Số

Thứ tự quan trọng

Thứ tự quan

lượng

của các vấn đề

trọng của các

bài

trên các tuần báo

vấn đề, theo người dân

báo Chiến tranh Việt Nam

861

1

1

Vấn đề chủng tộc

687

2

2

Sự phản kháng của

267

3

4

Lạm phát

234

4

5

Ti-vi và các phương

218

5

12

Tội ác

208

6

3

Ma túy

173

7

9

Môi trường

109

8

6

Hút thuốc lá

99

9

12

sinh viên

tiện truyền thông

111

Nghèo đói

74

10

7

Tình dục

62

11

8

Quyền của nữ giới

47

12

12

Khoa học và xã hội

37

13

12

Dân số

36

14

12

Nguồn: xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 152.

Giả thuyết về chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” về sau được nhiều công trình nghiên cứu sử dụng nhằm đo lường khả năng ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đối với tâm tư và suy nghĩ của người dân về các vấn đề khác nhau trong xã hội. Lazarsfeld đã từng nhấn mạnh rằng các phương tiện thông tin đại chúng có khả năng không những thu hút sự quan tâm của người dân, mà còn có thể huy động công luận tập trung vào những vấn đề thời sự nào đó. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là: ý kiến hay quan điểm của người dân đối với một vấn đề nào đó có thể không thay đổi (vì truyền thông đại chúng chưa chắc đã có thể thay đổi được ý kiến và suy nghĩ của người dân trong ngày một ngày hai), nhưng dù sao vấn đề đó có thể trở thành một đề tài thời sự quan trọng đối với họ – do tác động của truyền thông đại chúng. G. R. Funkhauser đã tiến hành một cuộc nghiên cứu đối chiếu giữa những vấn đề được công chúng Mỹ quan tâm nhất và những vấn đề được đăng tải nhiều nhất trên báo chí (trên ba tờ tuần báo Time, Newsweek và U.S. News) trong thời gian từ năm 1960 tới 1970 (xem bảng 6). Tác giả nhận xét là kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng dư luận công chúng thực ra chỉ phản ánh lại quan điểm của các phương tiện truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng mối liên hệ tương

112

quan giữa hai biến số trên đây không phải lúc nào cũng chặt chẽ. Người ta nhận thấy cũng có những vấn đề được nhấn mạnh rất nhiều trên các phương tiện thông tin, nhưng vẫn không nhất thiết trở thành “vấn đề quan trọng” dưới con mắt của công chúng.

TRUYỀN THÔNG VÀ BẠO LỰC

Vào những năm 1960, ở Mỹ và Tây Âu, người ta chứng kiến một sự gia tăng đáng lo ngại về những làn sóng bạo lực trong xã hội như nổi loạn của giới trẻ, biểu tình, ám sát, tội phạm... Thập niên này cũng là thời gian mà vô tuyến truyền hình đã trở thành một phương tiện thông tin phổ biến trong dân cư. Nhiều người đã vội vàng kết luận rằng nguồn gốc của các phong trào phản kháng và tâm lý hiếu chiếu nơi thanh niên chính là những chương trình mang nhiều hình ảnh bạo lực trên đài truyền hình. Nhưng thực tế có phải như vậy hay không ? Các giới nghiên cứu đã tiến hành rất nhiều cuộc điều tra để tìm hiểu sâu xa hơn vào vấn đề này, kể cả dưới những góc độ tâm lý học, tâm lý-xã hội, và xã hội học. Nói chung, người ta có thể xếp các công trình nghiên cứu về vấn đề này theo ba quan điểm chính sau đây. Quan điểm thứ nhất cho rằng tác dụng của những loại phim truyền hình có nhiều hình ảnh bạo lực là giải tỏa những ức chế của người dân (hay nói một cách nôm na là một thứ “xả xú-bắp"). Người ta gọi tác dụng này là “tác dụng giải tỏa” (cathartic effect, bắt nguồn từ chữ catharsis trong tiếng Hy Lạp, vốn đã được dùng từ thời Cổ đại để nói tới tác dụng giải tỏa tâm lý khi xem những vở kịch cổ). Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thỉnh thoảng vẫn gặp những hoàn cảnh bị ấm ức, bị ức chế, dễ dẫn tới những hành vi khiêu khích hoặc bạo

113

động. Tác dụng catharsis của truyền hình là giúp người ta giải tỏa những ức chế đó bằng cách tham gia bằng óc tưởng tượng vào những cảnh bạo lực diễn ra trong những cuốn phim được chiếu trên màn ảnh. Tác dụng giải tỏa của truyền hình này có ý nghĩa quan trọng hơn đối với các tầng lớp xã hội bên dưới, so với những tầng lớp trung lưu và thượng lưu, bởi vì những tầng lớp trên có nhiều điều kiện hơn để xử lý các ức chế và kiểm soát các cảm xúc hiếu chiến của mình. Đối lập với quan điểm trên là quan điểm của những người cho rằng chính các phương tiện thông tin đại chúng là nguồn gốc phát sinh các hành vi bạo động, có khả năng làm gia tăng thêm kiểu ứng xử bạo lực nơi người dân. Càng xem nhiều cảnh bạo lực trên truyền hình, người ta càng gia tăng mức độ cảm xúc, và điều này sẽ dẫn đến chỗ càng dễ dàng ứng xử với người khác trong cuộc sống theo chiều hướng bạo lực. Một khi những cảnh bạo lực đã được “bình thường hóa” trên truyền hình (vì xuất hiện thường xuyên trên màn ảnh), và hơn nữa có khi còn được “hợp pháp hóa” (chẳng hạn trong những tình huống tự vệ chính đáng), thì khán giả, nhất là khán giả nhỏ tuổi, dễ bắt chước theo những kiểu phản ứng bằng hành vi bạo lực tương tự. Vì thế, những người theo quan điểm này thường kêu gọi các nhà làm truyền hình hết sức thận trọng và cân nhắc khi trình chiếu những cảnh bạo lực trên màn ảnh, và họ cho rằng nếu đưa ra những nhân vật ít bạo động hơn thì sẽ góp phần làm giảm kiểu ứng xử bạo lực nơi người xem. Quan điểm thứ ba cho rằng: thực ra, cảnh bạo lực xuất hiện trên truyền hình không phải là thủ phạm của hành vi bạo lực của người xem, mà chỉ có tác dụng củng cố thêm cho những mô hình ứng xử bạo động vốn đã có sẵn nơi họ. Những người theo quan điểm này lập luận rằng việc tiếp nhận và tiêu hóa những thông điệp xuất hiện trên truyền hình còn phụ thuộc vào các tiêu chuẩn và giá trị đạo đức có sẵn nơi 114

khán giả, phụ thuộc vào vị trí và vai trò xã hội cũng vào những đặc điểm tâm lý và xã hội của khán giả. Nếu một người có một cuộc sống lành mạnh, có những quan hệ hòa hợp với những người xung quanh, thì những cảnh bạo động trên truyền hình khó lòng mà làm thay đổi được kiểu ứng xử bình thường của anh ta trong cuộc sống. Nhưng ngược lại, nếu gặp một người vốn ở vào hoàn cảnh đã có những bất ổn và trục trặc trong các mối quan hệ với người khác, thì bạo lực trên truyền hình rất có thể tác động thêm vào lối ứng xử khiêu khích hoặc hiếu chiến của anh ta. Vì thế, các nhà nghiên cứu theo quan điểm này cho rằng không phải cứ xóa bỏ những cảnh bạo lực trên truyền hình thì tự khắc sẽ xóa bỏ được các hiện tượng bạo lực trong xã hội.

VAI TRÒ CỦA BÁO IN

Trong bối cảnh phát triển ngày càng mạnh các phương tiện truyền thông điện tử như hiện nay, có một số câu hỏi mà chúng ta có thể đặt ra để suy nghĩ đối với lĩnh vực báo in: a. Khi các phương tiện truyền thông thính thị (audio-visual) và Internet ngày càng phổ biến, phải chăng báo in rồi sẽ tới hồi cáo chung sứ mạng lịch sử của mình? b. Và có phải người ta sẽ không còn cần tới giấy tờ hay sách vở bằng giấy nữa? c. Có thực sự là trong tương lai người ta sẽ không cần phải đọc nữa? Đối với câu hỏi b, cho đến nay (nghĩa là trong bối cảnh của các điều kiện hiện tại), chưa có ai dám hoàn toàn phủ nhận vai trò của

115

giấy bút hay của sách báo bằng giấy. Đối với câu hỏi c, cũng không ai dám nói rằng con người sẽ không cần phải đọc nữa! Còn đối với câu hỏi a, chúng ta có thể suy nghĩ như sau. Bên cạnh chức năng xã hội thiết yếu của mình là nối kết con người với nhau, ngôn ngữ còn là một công cụ thiết yếu của tư duy. Nếu không có ngôn ngữ thì không thể có tư duy. Con người tư duy bằng ngôn ngữ, chứ không phải bằng hình ảnh. Vì thế, rèn luyện khả năng ngôn ngữ là một trong những biện pháp chủ yếu để phát triển năng lực tư duy. Trường hợp đứa bé-sói là một trường hợp cực đoan nhưng cũng có thể minh họa thêm phần nào cho nhận định này: người ta kể rằng ở một vài ngôi làng tại Ấn Độ, đã từng xảy ra trường hợp một vài đứa bé sơ sinh bị thất lạc và được những bầy sói cứu sống và đưa về ổ của chúng để nuôi nấng giống như những con sói con, nhưng sau đó vài năm, khi người ta tìm thấy và đưa những đứa bé này trở lại xã hội con người, chúng nó không thể trở thành người được nữa. Và chỉ vài tháng sau thì chúng chết. Một mặt, vì đã qua khỏi giai đoạn 4-5 năm đầu sau khi lọt lòng vốn là giai đoạn hết sức căn bản về mặt tâm sinh lý để một đứa trẻ có thể bắt đầu học được, mặt khác, vì không biết nói, tức là không có ngôn ngữ (điều mà những đứa trẻ bình thường học được từ cha mẹ, ông bà, anh em... trong gia đình), nên chúng không còn khả năng sống được với xã hội loài người nữa. Như vậy, để có thể hiểu được, “giải mã” được một cách trọn vẹn một nội dung thông điệp nào đó, hay là một “hệ thống ý nghĩa” nào đó, hiển nhiên người ta buộc phải được trang bị một “bộ khóa mã” tương ứng, hay nói cách khác phải tích lũy được một cái “vốn” văn hóa nhất định. Vốn liếng văn hóa này được tích tụ chủ yếu trong thời kỳ còn ngồi trên ghế nhà trường, nhưng đồng thời cũng được bồi bổ qua kinh nghiệm sống trong cuộc đời ngoài xã hội. Lẽ tất nhiên, cả ba phương tiện truyền thông là báo in, truyền 116

hình và phát thanh đều là những phương tiện có thể giúp người dân rèn luyện và bồi bổ khả năng giải mã, hay là cái vốn liếng văn hóa ấy. Nhưng qua nhiều cuộc điều tra, người ta đã tổng kết rằng kênh thông tin bằng chữ viết thường có tác dụng hữu hiệu và sâu xa hơn so với các loại kênh thông tin bằng hình ảnh và âm thanh (mặc dù chúng ta biết trên truyền hình hay đài phát thanh, vẫn có ngôn ngữ, nhưng lại biểu hiện chủ yếu bằng lời nói). Về mặt định lượng, so sánh giữa truyền hình với báo in, người ta ước tính là lượng thông tin trong một giờ đồng hồ của truyền hình chỉ bằng lượng thông tin của một trang nhật báo (khổ giấy báo lớn) mà thôi. Theo Loic Hervouet, toàn bộ nội dung bản tin thời sự phát vào 8 giờ tối mỗi ngày trên vô tuyến truyền hình Pháp (thường khoảng 20 phút) chỉ lấp kín được nửa trang tờ nhật báo Le Monde. Thậm chí ông còn nhận xét rằng “tất nhiên là 20 phút của bản tin thời sự (1.700 từ) không có giá trị bằng 5 phút đọc báo." [Loic Hervouet, Viết cho độc giả, Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản, 1999, tr. 12]. Giữa báo in, truyền hình và phát thanh, thì báo in thường được đánh giá là đạt được hiệu quả hướng dẫn dư luận cao nhất. Người ta nhận xét thấy là: mặc dù vô tuyến truyền hình là phương tiện được công chúng xem nhiều nhất, nhưng chính những người đọc báo in thường xuyên mới là những người nắm vững kiến thức thời sự hơn so với những người chỉ theo dõi tin tức thời sự qua ti-vi. Báo in, tuy không có lợi thế thông tin nhanh chóng như truyền hình, và tuy không có âm thanh và hình ảnh sống động, nhưng thường được coi là nơi mà người viết (phóng viên) thường có một khoảng thời gian nào đó phải cầm bút ngồi trước mảnh giấy trắng khi viết tin hay bài, và thời gian này thường được coi như một khoảng cách lùi xa cần thiết đối với sự kiện để giữ được thái độ khách quan, và có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc chắt lọc lại thông tin, phối kiểm thêm tin tức 117

hoặc bổ sung tư liệu và bối cảnh, và nếu cần có thể diễn giải hoặc bình luận về sự kiện một cách dài dòng hơn và đầy đủ hơn, và nhất là có thời giờ để chọn lựa một cách nhìn hoặc cách tiếp cận thích đáng. Đối với người đọc : vì được in trên giấy, nên họ có thể cầm tờ báo đọc ở hầu như bất cứ đâu mà mình muốn (trên xe buýt, lúc ngồi chờ...), vả lại mẩu thông tin trên báo có thể được đọc đi, đọc lại, nghiền ngẫm, sau đó còn có thể đưa tờ báo cho người khác xem, và thậm chí cắt lại để lưu giữ, nếu muốn – nghĩa là tờ báo cũng có nhiều khía cạnh tiện dụng khác hơn so với cái ti-vi hay cái rađiô. Chính vì ý thức về vai trò quan trọng của văn hóa chữ viết nói chung, cũng như về nguy cơ mai một của ngành báo in nói riêng trước sức hấp dẫn khó lòng cưỡng lại của truyền hình, mà tại nhiều nước, người ta đã có nhiều sáng kiến và nỗ lực khác nhau để vận động đọc báo ngay từ tuổi học trò. Một cuộc thí nghiệm của giáo sư Ake Edfeldt, thuộc Đại học Stockholm ở Thụy Điển, đã chứng minh là: trong quá trình tập đọc, những học sinh nào có tập đọc thêm bằng cách đọc báo thì tiến bộ nhanh hơn gấp đôi so với những học sinh chỉ tập đọc bằng phương pháp truyền thống mà thôi, và về sau, những học sinh ấy cũng sẽ đọc báo nhiều hơn so với những bạn học sinh khác cùng trang lứa [xem Jean-Marie Charon (Ed.), L'état des médias, Paris, La Découverte, Médiaspouvoirs, CFPJ, 1991, tr. 211]. Lẽ tất nhiên, mỗi phương tiện truyền thông có những đặc điểm và ưu thế riêng, và vị trí của mỗi phương tiện đều không thể thay thế. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, trong bối cảnh mà xu thế phát triển của các phương tiện truyền thông thính thị diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, chúng ta lại càng cần khẳng định rằng báo in vẫn còn là một phương tiện có vai trò xã hội quan trọng đối với công chúng. Cuối cùng thiết tưởng chúng ta cũng nên xem thêm vài đặc điểm của độc giả báo in. Loic Hervouet cho biết ở Pháp, một độc giả trung 118

bình mỗi ngày dành cho việc đọc báo khoảng 25 phút : nếu tính trung bình một tờ báo ở Pháp có 100.000 từ, thì với tốc độ đọc 200-250 từ/phút (12.000-15.000 từ/giờ), độc giả chỉ đọc khoảng 6.000 từ, tức là chưa tới 10 % tổng số nội dung một tờ báo. Hervouet cho biết thêm là độc giả của tờ báo Bild ở Đức thường chỉ đọc 1/8 nội dung tờ báo, còn đối với tờ Le Monde ở Pháp thì tỷ lệ này là 20 %. Hervouet cho rằng khi đọc báo, độc giả cốt tìm những chi tiết thông tin mà họ cần, do vậy hiếm khi nào họ đọc hết một bài báo từ đầu đến cuối, nhưng họ vẫn thường có ấn tượng là đã xem hết cả tờ báo. “Trên thực tế, khi cầm tờ báo lần đầu tiên, độc giả giở tờ báo xem từng trang một. Họ xem lướt, chỉ dừng lại lâu hơn ở một vài bài, thường là đọc đầu đề bài báo và lời mào đầu (chapeau), xem ảnh và chú thích ảnh.” [xem Loic Hervouet, Viết cho độc giả, Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản, 1999, tr. 12-13] Một cuộc thăm dò thực hiện theo yêu cầu của tờ Ouest France, tờ báo có số lượng ấn bản cao nhất ở Pháp, cho biết trong số 410 chi tiết thông tin có trên mặt báo, độc giả chỉ để mắt tới 39 chi tiết: bao gồm 23 đầu đề và 16 tin hoặc bài báo. Họ chỉ đọc 13 tin hoặc bài báo từ đầu đến cuối, thông thường là các tin hoặc bài báo ngắn [xem Loic Hervouet, sách đã dẫn, tr. 13]. Kết quả cuộc điều tra mẫu điển hình do chúng tôi tiến hành vào tháng 9-1997 tại thành phố Hồ Chí Minh nơi cư dân từ 16 tuổi trở lên cho biết thời lượng đọc báo bình quân mỗi ngày của một người có đọc báo là 26 phút. Trong số những người đọc báo, chỉ có 39 % trả lời là họ “thường đọc hết tờ báo”, 43 % “thường chỉ coi lướt qua, và chỉ dừng lại đọc khi gặp tin nào hấp dẫn”, và 18 % nói rằng “luôn luôn chỉ đọc một số mục quan tâm mà thôi” [xem Trần Hữu Quang, Chân dung công chúng truyền thông (qua khảo sát xã hội học tại TPHCM), Nxb TPHCM, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm kinh tế châu Á-Thái 119

Bình Dương, 2001, tr. 102-105]. Đấy là một vài đặc điểm của người đọc báo. Vậy người viết báo và người làm báo phải làm thế nào? Sau đây là vài đoạn nhận định của Hervouet: “... Có những nguyên tắc và kỹ thuật để lôi cuốn người đọc, nhưng không có cách gì để buộc họ phải đọc bài báo. Độc giả đọc hay không đọc bài báo nào đó, đó là quyền của họ (...). “Không ai khó tính hơn người đọc báo. Đầu đề có thể làm cho họ chú ý, nhưng cần phải thuyết phục họ đọc phần tiếp theo, vì họ rất dễ bỏ qua cả bài báo sau khi đọc vài dòng đầu tiên. Nhưng chớ có ảo tưởng, người đọc có thể bỏ dở bài báo bất kỳ lúc nào. [Vì thế] biên tập viên phải cố gắng từ đầu đến cuối (...). “Nhiệm vụ đầu tiên của phóng viên là phải làm thế nào cho độc giả đọc bài báo (...). Một bài báo chỉ thực sự là bài báo khi được độc giả để mắt tới. Thông tin chỉ tồn tại khi nó được đọc. Đây chính là tiêu chí đầu tiên của truyền thông. Người nhận thông tin cũng quan trọng như người phát ra thông tin. Do vậy cần phải hiểu rõ người sẽ đọc báo của mình, để có thể chọn được nội dung, từ ngữ và cách viết phù hợp. “(...) Hãy đặt mình vào vị trí của người đọc, cảm nhận những gì người đọc sẽ cảm nhận để có thể có cách viết phù hợp hơn với sự trông đợi của người đọc. Độc giả rất nhạy cảm với thái độ của người viết. Nếu người viết không đến với người đọc, thì không bao giờ người đọc đến với người viết. “Do vậy, người viết phải thường xuyên quan tâm đến người đọc một cách thành thực” [Loic Hervouet, sách đã dẫn, tr. 14-16] (những chỗ in nghiêng là do chúng tôi, T.H.Q.)

Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 7:

120

- Ba giai đoạn nghiên cứu chính trong lĩnh vực nghiên cứu về tác động xã hội của truyền thông đại chúng. - Giả thuyết về “hố chênh lệch kiến thức” do các phương tiện truyền thông đại chúng gây ra trong xã hội. - Lý thuyết về chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” (agenda-setting) của các phương tiện truyền thông đại chúng. - Những giả thuyết khác nhau trong việc trả lời cho câu hỏi là truyền thông đại chúng có phải là nguyên nhân gây ra tình trạng bạo lực trong xã hội hay không. - Vai trò của báo in trong thời đại truyền thông điện tử.

121

Câu hỏi ôn tập:

1. Hãy trình bầy và diễn giải giả thuyết “hố chênh lệch kiến thức” trong việc phân tích hậu quả của truyền thông đại chúng. 2. Hãy giải thích chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” (agenda setting) của các phương tiện truyền thông đại chúng. 3. Truyền thông đại chúng có phải là một nguyên nhân làm gia tăng tình trạng bạo lực trong xã hội như quan niệm của một số tác giả hay không?

Câu hỏi thảo luận nhóm: (hoặc tự mình trả lời bằng suy nghĩ cá nhân)

1. Thử tìm vài thí dụ minh họa cho chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” (agenda-setting) nơi một vài tờ báo ở thành phố Hồ Chí Minh. 2. Hãy so sánh những đặc điểm và những tác động khác nhau của báo in và vô tuyến truyền hình đối với người dân Việt Nam hiện nay. 3. Theo ý kiến riêng của anh/chị thì vô tuyến truyền hình có những chức năng và tác dụng nào đối với người dân thành phố chúng ta. 4. Anh/chị suy nghĩ thế nào về ảnh hưởng và tác động của các bộ phim truyền hình đang được trình chiếu trên các đài truyền hình Việt Nam hiện nay? 5. Hãy cho biết suy nghĩ riêng của anh/chị về đặc điểm và vai trò 122

của đài phát thanh trong xã hội Việt Nam hiện nay.

123

TÓM TẮT NỘI DUNG MÔN HỌC Truyền thông là một trong những hoạt động căn bản của bất cứ một tổ chức xã hội nào. Không có truyền thông thì không thể thiết lập được các mối quan hệ giữa con người với con người, cũng như không thể hình thành được cộng đồng, không thể có xã hội. Tuy nhiên, truyền thông đại chúng chỉ xuất hiện trên thế giới từ khoảng cuối thế kỷ XIX trở đi, dựa trên cơ sở của nhiều loại tiến bộ kỹ thuật khác nhau trong bối cảnh phát triển xã hội tư bản chủ nghĩa. Truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội trong đó thông tin được truyền đạt một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình. Đặc điểm lớn nhất của đời sống truyền thông đại chúng là nó nhanh chóng dẫn đến hệ quả là hình thành một định chế xã hội mới trong xã hội (định chế truyền thông đại chúng). Định chế này đóng vai trò quan trọng không chỉ trong việc phổ biến thông tin và kiến thức cho dân chúng, mà còn tác động trở lại một cách sâu xa và mạnh mẽ vào tất cả các định chế xã hội khác, từ định chế chính trị cho tới định chế kinh tế, định chế văn hóa và định chế gia đình. Truyền thông đại chúng tạo ra một không gian công cộng mới với qui mô chưa từng có trong lịch sử loài người, vừa tạo điều kiện thuận lợi, vừa là một định chế không thể thiếu trong quá trình thực hiện các nguyên tắc dân chủ của một xã hội hiện đại dựa trên cơ sở nhà nước pháp quyền. Trong suốt thế kỷ XX, rất nhiều trường phái lý thuyết đã giành nhiều tâm sức và nỗ lực để nghiên cứu và giải thích mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng với xã hội, về vai trò, chức năng và tác động xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng, nghiên cứu về

124

công chúng, về các tổ chức truyền thông và các nhà truyền thông, cũng như về nội dung truyền thông trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận đôi khi hết sức gay gắt giữa các trường phái lý thuyết khác nhau. Có nhiều vấn đề đã được giải quyết sau những giai đoạn tranh luận ấy, nhưng phải nhìn nhận một thực tế là cho đến nay vẫn còn không ít vấn nạn chưa đạt được sự đồng thuận trong giới nghiên cứu, và cuộc tranh cãi vẫn còn tiếp diễn. Cùng với đà chuyển biến ngày càng biệt dị hóa và ngày càng mang tính chất bất định của các xã hội hiện đại, đồng thời cùng với tốc độ phát triển ngày càng nhanh của các tiến bộ kỹ thuật, nhất là trong lĩnh vực điện tử và viễn thông, thế giới truyền thông cũng không ngừng đối diện với những vấn nạn mới. Chính vì thế, có lẽ nhu cầu nghiên cứu về đời sống truyền thông đại chúng cũng như về mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng với xã hội sẽ chẳng bao giờ kết thúc...

125

MỘT SỐ CÂU HỎI CHUNG CHO MÔN HỌC 1. Ý nghĩa của sơ đồ truyền thông của Jakobson đối với người làm báo (phân tích và cho thí dụ để chứng minh). 2. Phân tích mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng với truyền thông liên cá nhân trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay. 3. Thế nào là mô hình truyền thông tuyến tính, và mô hình truyền thông hai giai đoạn (two-step flow of communication)? 4. Định nghĩa “định chế truyền thông đại chúng”. 5. Hãy trình bày vắn tắt những đặc trưng tổng quát của định chế truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại. 6. Cho biết những lĩnh vực nghiên cứu chính của bộ môn xã hội học về truyền thông đại chúng. 7. Theo trường phái chức năng luận, các phương tiện truyền thông đại chúng có những chức năng xã hội nào? 8. Hãy nêu vắn tắt vài luận điểm của các trường phái theo khuynh hướng phê phán đối với truyền thông đại chúng. 9. Mỗi khi xuất hiện một phương tiện truyền thông đại chúng mới, thái độ của công chúng thường trải qua mấy giai đoạn, và đặc điểm của mỗi giai đoạn? 10. Cho biết đặc điểm của lối tiếp cận “sử dụng và hài lòng”. 11. Những đặc điểm chính của nghề làm báo. 12. Nhà báo thường gặp những áp lực gì trong lao động nghề nghiệp của mình? 13. Đâu là những khác biệt giữa báo chí với văn học? 14. Cho biết vài đặc điểm của văn phong báo chí. 15. Hãy phân biệt giữa “ý nghĩa trực chỉ” (denotation) và “ý nghĩa biểu cảm” (connotation) theo quan niệm của Roland Barthes.

126

16. Trình bầy nội dung của giả thuyết “hố chênh lệch kiến thức” trong việc phân tích hiệu quả của truyền thông đại chúng. 17. Hãy giải thích chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” (agenda setting) của các phương tiện truyền thông đại chúng.

Đáp án cho các câu hỏi trên đây đều nằm trong nội dung các chương đã trình bày trong tập giáo trình.

127

Một số đề tài gợi ý làm bài tiểu luận cuối môn học Những điểm cần lưu ý : - Sinh viên có thể chọn một trong những đề tài gợi ý dưới đây (có thể điều chỉnh cho phù hợp với ý định và điều kiện của mình), hoặc tự mình xác định một đề tài tương tự trong các lĩnh vực nghiên cứu về truyền thông đại chúng. - Yêu cầu là hiểu giáo trình, đọc thêm sách báo và các tài liệu có liên quan, và xuất phát từ thực tế xã hội để phân tích vấn đề. - Thời gian: từ hai tuần tới bốn tuần. - Qui mô: từ 5 đến 10 trang. - Đánh máy và in trên giấy A4. 1. Tập quán đọc báo của sinh viên hiện nay (sinh viên thường đọc báo gì, có đọc thường xuyên hay không, thường đọc mục gì, đọc để làm gì, đọc như thế nào...; những yếu tố tác động tới hành vi đọc báo; hiệu quả của tập quán đọc báo; thử phân loại những tập quán hay những kiểu đọc báo khác nhau...) 2. Phân tích nội dung (một trang mục, hay chủ đề...) / hoặc phân tích cách đưa tin về một sự kiện trên báo chí (có thể chọn một hoặc một vài tờ báo trong một khoảng thời gian nhất định). 3. Nhận xét về ngôn ngữ báo chí hiện nay (có thể chọn một hay một vài tờ báo). 4. Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ trên báo chí hiện nay. 5. Vai trò xã hội của báo chí qua đợt thông tin về sự kiện học sinh chết đuối ở Nông Sơn (Quảng Nam) (hoặc qua những vụ khác như “cơm tù”, phá rừng, tai nạn giao thông, nạn cúm gà, những vấn đề giáo dục...) 6. Vai trò của đài phát thanh trước yêu cầu phát triển kinh tế-xã

128

hội của đất nước hiện nay. 7. Đặc điểm và lợi thế của đài phát thanh so với báo in và đài truyền hình. 8. Những chủ đề hay hình tượng thường được sử dụng trên quảng cáo hiện nay (trên truyền hình, phát thanh, hoặc trên một tờ báo in). 9. Phân tích hình tượng người phụ nữ trong quảng cáo hiện nay (trên truyền hình, phát thanh, hoặc trên một tờ báo in). 10. So sánh hiệu quả của truyền hình với hiệu quả của báo in đối với người dân Việt Nam hiện nay. 11. Đạo đức của người làm báo trong môi trường xã hội hiện nay. 12. Những điểm khác biệt giữa nghề làm báo và nghề làm văn. 13. Tìm hiểu văn phong báo chí (qua khảo sát một tờ hoặc vài tờ báo cụ thể). 14. Nhận xét về cách đưa tin trên báo in của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 15. Nhận định về các bộ phim truyền hình hiện nay (vai trò và tác dụng đối với công chúng...). 16. Tương lai của báo in trong xã hội. 17. Tương lai của nghề làm báo trong điều kiện phương tiện Internet ngày càng phổ biến và phát triển. 18. Hình ảnh doanh nhân trên báo chí (hoặc trên truyền hình, trong điện ảnh...). 19. Những ảnh hưởng của các loại trò chơi điện tử đối với thanh thiếu niên. 20. Phân tích những đặc điểm và nhu cầu của công chúng của các bộ phim truyền hình Hàn Quốc (hoặc Trung Quốc...) 21. Chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” (agenda setting) của báo chí TPHCM. 129

MỤC LỤC Trang Bài giới thiệu ........................................................................... 3 Tài liệu tham khảo .................................................................... 6 Bài

1. Tìm hiểu khái niệm truyền thông ............................... 8 Truyền thông.................................................................. 9 Truyền thông đại chúng ................................................. 10 Đại chúng ....................................................................... 12 Quá trình truyền thông ................................................... 14 Truyền thông liên cá nhân và truyền thông đại chúng . 19

Bài 2. Lịch sử ra đời của các phương tiện truyền thông đại chúng. Một định chế xã hội mới ................................................ 24 Những phương tiện truyền thông cổ truyền .................. 24 Kỹ thuật ấn loát.............................................................. 25 Những tờ báo đầu tiên ................................................... 28 Các kỹ thuật truyền thông và các phương tiện truyền thông đại chúng .......................................................................... 30 Định chế truyền thông đại chúng................................... 33 Xã hội học về truyền thông đại chúng ........................... 36 Bài

3. Các lý thuyết về truyền thông đại chúng ................... 40 Hướng tiếp cận theo quan điểm chức năng luận ........... 43 Các lý thuyết phê phán .................................................. 50 Một vài hướng tiếp cận khác ......................................... 53

Bài

130

4. Nghiên cứu công chúng ............................................. 57

Những đặc điểm của công chúng .................................. 59 Ứng xử truyền thông của công chúng ........................... 61 Cách sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng nơi các tầng lớp công chúng ................................................... 64 Bài

5. Nghiên cứu các nhà truyền thông ............................. 71 Các nhà truyền thông .................................................... 71 Nghề làm báo ................................................................ 73 Lao động của nhà báo ................................................... 75 Bộ máy tòa soạn ........................................................... 75 Những áp lực trong nghề nghiệp .................................. 76

Bài

6. Nghiên cứu nội dung truyền thông ........................... 85 Văn phong báo chí ........................................................ 85 Phân tích nội dung truyền thông ................................... 88 Phương pháp phân tích nội dung thực nghiệm ............. 89 Phương pháp phân tích nội dung tín hiệu học .............. 92

Bài

7. Những tác động xã hội của truyền thông đại chúng . 99 Quá trình nghiên cứu .................................................... 100 Phổ biến thông tin và kiến thức .................................... 102 Giả thuyết về “hố chênh lệch kiến thức” ...................... 103 Lý thuyết về chức năng “thiết lập chương trình nghị sự”

......................................................................................................... 106 Truyền thông và bạo lực ............................................... 108 Vai trò của báo in.......................................................... 111 Tóm tắt nội dung môn học ........................................................ 119 Một số câu hỏi chung cho môn học .......................................... 121 Một số đề tài gợi ý làm bài tiểu luận cuối môn học ................. 122 Mục lục

131

Biên soạn TS. TRẦN HỮU QUANG

132

Related Documents

Thong Tin Dai Chung
June 2020 12
Thong Tin
December 2019 21
Thong Tin So
June 2020 14
Thong Tin Khach Hang
November 2019 24
Tin Hoc Dai Cuong
November 2019 36

More Documents from ""