TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THAM KHẢO SỐ 12 TIN LIÊN QUAN >>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 11
MỤC LỤC Trang Mở đầu I. Nội dung tình huống 1.1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống 1.2. Mô tả tình huống II. Phân tích tình huống 2.1. Mục tiêu phân tích tình huống 2.2. Cơ sở lý luận 2.3. Phân tích diễn biến tình huống 2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống 2.5. Hậu quả của tình huống III. Xử lý tình huống 3.1. Mục tiêu xử lý tình huống 3.2. Đề xuất phương án xử lý tình huống
3.3. Lựa chọn phương án xử lý tình huống IV. Kiến nghị 4.1. Kiến nghị với Đảng 4.2. Kiến nghị với Nhà nước 4.3. Kiến nghị với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ V. Kết luận Tài liệu tham khảo
MỞ ĐẦU Sự tiến bộ của xã hội đòi hỏi người hành nghề trong bất cứ lĩnh vực nào cũng phải tuân thủ đạo đức về nghề nghiệp. Trong đó, kế toán vừa được coi là một nghề, một công việc, vừa được coi là một công cụ quản lý, giám sát chặt chẽ, có hiệu quả mọi hoạt động kinh tế, tài chính, cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, kịp thời, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu tổ chức, quản lý điều hành của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Chính vì vậy, ở bất kỳ nơi nào, lúc nào xã hội đều đòi hòi người làm công tác kế toán phải có đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp chính là tài sản “vô hình” quý giá của người hành nghề, nhất là đối với người làm công tác kế toán trong các cơ quan nhà nước, bởi nghề nghiệp của họ có liên quan mật thiết đến việc sử dụng tiền từ ngân sách nhà nước, các loại tài sản do Nhà nước đầu tư. Do đó, sự vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp của cán bộ kế toán trong các cơ quan nhà nước dù ở mức độ nào cũng sẽ khiến cho lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân bị xâm phạm. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trên địa bàn tỉnh, thành phố do mình quản lý theo quy định của pháp luật. Theo đó, kế toán có nhiệm vụ quản lý tài chính
trong việc thu, chi; sử dụng và quản lý ngân sách nhà nước ở cơ quan nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động được thực hiện. Mặc dù kế toán được đánh giá là một trong số những nghề nghiệp có khả năng mang lại thu nhập nhưng chỉ đúng với môi trường làm việc tại các doanh nghiệp tài chính (khu vực tư), người làm công tác kế toán thường được trả lương cao hơn, được đối xử trọng vọng hơn. Nhưng tại các cơ quan nhà nước, mức lương của họ được trả theo hệ thống thang bảng lương của cán bộ, công chức, viên chức – vốn được đánh giá là còn thấp so với nhiều nước trên thế giới, chưa đủ để đảm bảo cuộc sống khi xã hội ngày càng phát triển với những đòi hỏi về nhu cầu vật chất, văn hoá, tinh thần ngày càng cao. Chính điều này đã khiến cho chất lượng công việc của những người làm công tác kế toán trong các cơ quan nhà nước nói chung, tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nói riêng chưa cao, thậm chí trong không ít trường hợp còn xảy ra tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật hay tình trạng làm việc “chân trong, chân ngoài” như ở một số cơ quan nhà nước, tổ chức đơn vị hành chính sự nghiệp khác. Chính vì vậy, quản lý hoạt động kế toán tại Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là vấn đề có tính cấp thiết nhằm tìm ra những giải pháp cho việc quản lý tốt tài sản, sử dụng hiệu quả các nguồn kinh phí do Nhà nước cung cấp. Với những gì đặt ra, tiểu luận tiếp cận vấn đề “Một số vấn đề về nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước ở Viện kiểm sát cấp tỉnh ở nước ta hiện nay” làm nội dung chính để viết bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước cuối khoá. I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG 1.1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống Ở nước ta, kế toán trong các cơ quan nhà nước nói chung, Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nói riêng là một công việc đòi hỏi người kế toán phải có đạo đức công vụ rất cao để tránh được các cám dỗ vật chất có thể thu được
từ sự vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong quản lý các đối tượng kế toán. Người kế toán là người thực thi công vụ Nhà nước trong lĩnh vực kế toán, hoạt động của họ chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật về lĩnh vực này còn chưa hoàn thiện, công tác quản lý còn nhiều hạn chế, tình trạng tham ô, tham nhũng, lãng phí, hối lộ, nhũng nhiễu, cửa quyền…diễn ra ở nhiều nơi, ý thức chạy theo lợi ích vật chất của nhiều bộ phận cán bộ, công chức đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc giữ gìn đạo đức nghề nghiệp của những người làm công tác kế toán. Đây chính là những điều kiện chính trị, pháp lý, kinh tế-xã hội làm nảy sinh tình huống vi phạm pháp luật của cán bộ làm công tác kế toán tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H. 1.2. Mô tả tình huống Tốt nghiệp trường Đại học kinh tế quốc dân, Nguyễn Văn T (quê T ở thị huyện LC, tỉnh HG) được nhận về công tác tại Phòng Kế toán của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ. Là thanh niên chưa có gia đình, sống xa nhà nên T thường tụ tập chơi bời cùng một số thanh niên tại nơi tạm trú nên nợ nần chồng chất, tiền lương không đủ trả nợ. Ở phòng Kế toán, T được giao nhiệm vụ sử dụng kinh phí của cơ quan để chi mua văn phòng phẩm và quyết toán kinh phí công tác. Ngày 20/5/2010, để cung cấp văn phòng phẩm cho cán bộ công tác trong quý II, T đã đến Đại lý X chuyên bán buôn các loại văn phòng phẩm để đặt mua cho Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ một số lượng hàng hoá gồm: giấy in, mực dấu, bút bi, bút đánh dấu, bút xoá, bút chì, thước kẻ, tẩy, sổ công tác…Các hàng hoá T đều lấy loại rẻ nhưng khi lập bảng kê mua hàng hoá thì khai là loại tốt, giá thành cao hơn thực tế là 1.500.000 đồng. Lợi dụng thời gian Kế toán trưởng vắng mặt do phải đi điều trị bệnh hiểm nghèo dài ngày, T đã yêu cầu quyết toán số hàng hoá đó cho cơ quan và đã biển thủ được số tiền trên để trả nợ.
Tiếp đó, ngày 30/5/2010, T tiếp tục dùng thủ đoạn để lập bảng kê thanh toán công tác phí, tiến hành kê khai và lập các loại giấy tờ khống, tẩy xoá, giả mạo chữ ký của cán bộ trong cơ quan để thanh toán kinh phí công tác và đã rút được hơn 5.000.000 đồng chi tiêu. Qua theo dõi các biểu hiện của T, lãnh đạo Viện Kiểm sát đã tiến hành kiểm tra và ngoài việc phát hiện các sai phạm trên còn xác định T đã lập bảng kê chi tiền cho những người tham dự hội thảo, hội nghị trong tháng 4/2010 khống để chiếm dụng một khoản tiền là 3.500.000 đồng. Lãnh đạo Viện Kiểm sát tỉnh TQ đã yêu cầu T báo cáo lại toàn bộ sự việc, tiến hành kiểm điểm, buộc T phải khắc phục về mặt nghiệp vụ và trả lại các khoản tiền đã chiếm dụng nói trên. Nhưng T đã không trả lại mà tự ý bỏ việc về quê tại tỉnh HG. Lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ tiến hành họp xét kỷ luật T nhưng T vẫn tiếp tục trốn ở quê, không đến cơ quan... II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG 2.1. Mục tiêu phân tích tình huống Mục tiêu của việc phân tích tình huống trên là nhằm làm sáng tỏ những vi phạm và các quy định về trách nhiệm kỷ luật của cán bộ, công chức vi phạm theo quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, thông qua đó cần có biện pháp để khắc phục, quản lý cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác tài chính-kế toán ở các cơ quan tố tụng như viện kiểm sát tỉnh TQ. 2.2. Cơ sở lý luận Thực hiện chính sách của Đảng về phát triển cán bộ, công chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên” theo kế hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh1[1] trong tình hình mới. Đồng thời, trên cơ sở các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành như:
Các văn bản của Quốc hội bao gồm: Luật kế toán được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2003; Luật cán bộ, công chức năm được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008; Các văn bản của cơ quan hành pháp như: Nghị định số 128/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/5/2004 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kế toán áp dụng trong lĩnh vực kế toán nhà nước (Điều 2 của Nghị định này, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước gồm nhiều cơ quan, tổ chức, trong đó có Viện Kiểm sát nhân dân các cấp); Nghị định số 35/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/3/2005 về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức; Nghị định số 118/2006/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 10/10/2006 về xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức;... nhằm xác định và xử lý trách nhiệm kỷ luật đối với cán bộ, công chức trong thực thi công vụ ở cơ quan nhà nước; đơn vị hành chính sự nghiệp;... Đối tượng kế toán thuộc hoạt động hành chính, sự nghiệp, hoạt động của đơn vị, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước gồm có tiền và các khoản tương đương tiền; Vật tư và tài sản cố định; Nguồn kinh phí, quỹ; . Các khoản thanh toán trong và ngoài đơn vị kế toán; Thu, chi và xử lý chênh lệch thu, chi hoạt động; Đầu tư tài chính, tín dụng nhà nước; Các tài sản khác liên quan đến đơn vị kế toán. Như vậy, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ là một cơ quan nhà nước có sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước. Các nội dung công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán, người làm kế toán của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán, trong đó chủ yếu là Luật kế toán năm 2003 và Nghị định số 128/2004/NĐ-CP. Ngoài ra, mọi hoạt kế toán của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ phải tuân thủ quy định tại Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30 tháng 3 năm 2006 về việc ban hành chế độ kế toán hành chính sự nghiệp. Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp áp dụng cho Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ bao gồm: Hệ thống Chứng từ kế toán; Hệ thống Tài khoản kế toán; Hệ thống Sổ kế
toán và hình thức kế toán; Hệ thống Báo cáo tài chính. Mọi hoạt động của cán bộ kế toán trong Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ đều phải tuân thủ các quy định này. 2.3. Phân tích diễn biến tình huống Hành vi của Nguyễn Văn T đã tác động đến các đối tượng kế toán theo chiều hướng tiêu cực, vi phạm các quy định của pháp luật về kế toán, xâm phạm đến lợi ích của tập thể mà cụ thể là các khoản tiền mà Nhà nước giao cho Viện Kiểm sát sử dụng phục vụ cho các hoạt động công vụ. Các vi phạm của T là xâm phạm đến chế độ kế toán hành chính sự nghiệp ở mục thứ nhất là hệ thống chứng từ kế toán về chỉ tiêu vật tư, chỉ tiêu tiền tệ. Theo quy định thì mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính liên quan đến hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân đều phải lập chứng từ kế toán. Chứng từ kế toán chỉ lập một lần cho một nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Nội dung chứng từ phải rõ ràng, trung thực với nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. T đã có nhiều hành vi không trung thực với nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Thái độ của T đối với công tác kiểm tra của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ là bất cần và cố tình chiếm dụng các khoản tiền công. Theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2003 thì những hành vi của T là tham nhũng. Mặt khác, việc T không chấp hành các quy định của pháp luật và của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân, tự ý bỏ việc chứng tỏ T đã cố tình vi phạm kỷ luật, không chấp hành pháp luật của Nhà nước, quyết định của cấp trên. Đồng thời, vi phạm đạo đức của cán bộ, công chức; vi phạm đạo đức nghề nghiệp kế toán. Các hành vi này phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. T là một công chức của ngành kiểm sát, theo quy định tại Điều 15 Luật cán bộ, công chức năm 2008, thì T phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ. Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức
theo quy định của pháp luật và phải bảo đảm nguyên tắc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. T không những vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp mà còn vi phạm kỷ luật, cần phải có biện pháp xử lý một cách nghiêm minh. Đối với hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính ngoài việc phải bị xử lý trách nhiệm pháp lý hình sự (nếu đủ mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự) thì T phải chịu trách nhiệm kỷ luật theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 35/2005/NĐCP của Chính phủ, ngày 17/3/2005: “Cán bộ, công chức vi phạm các quy định của pháp luật thì phải chịu một trong các hình thức kỷ luật sau: (1).Khiển trách; (2). cảnh cáo; (3). hạ bậc lương; (4).Hạ ngạch; (5). Cách chức; (6). Buộc thôi việc”. Xét những biểu hiện mà tình huống nêu, sau khi T bị phát hiện về những hành vi vi phạm pháp luật thì đã có thái độ như bỏ công tác về quê;... do đó cần áp dụng mức xử lý nghiêm khắc nhất theo quy định trên. Mặt khác, cần xử lý trách nhiệm vật chất đối với kế toán T nhằm khắc phục lại số tiền do T đã biển thủ theo quy định tại khoản 2 Điều 3, Nghị định số 118/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/10/2006 về xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức: “...(2) cán bộ, công chức vi phạm kỷ luật để xảy ra thiệt hại về tài sản của cơ quan, tổ chức, đơn vị, ngoài việc xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật, còn phải bị xử lý trách nhiệm vật chất theo quy định tại Nghị định này”. Về phía Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ đã không quản lý cán bộ của mình một cách chặt chẽ, đặc biệt là không quan tâm đến lối sống và đạo đức của cán bộ. Khi phát hiện vi phạm của T đã không xử lý nghiêm minh ngay từ đầu khiến cho T coi thường kỷ cương, pháp luật và trong một thời gian ngắn đã tiếp tục “trượt dốc”. Nguyên tắc tập trung, dân chủ trong quản lý cán bộ, công chức dưới quyền tại Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ đã không được thực hiện tốt. Việc sử dụng cán bộ của lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ đã không dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ. Vì vậy, đã không bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết
kiệm tài sản nhà nước được giao mà còn tạo cơ hội cho T thực hiện nhiều vi phạm. Khi các vi phạm của T đã trở thành hệ thống, lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ vẫn tiếp tục có hướng xử lý nương nhẹ bằng biện pháp hành chính nội bộ. Nhưng T đã không còn có ý thức tôn trọng tập thể nữa, coi thường công việc của mình và đã có hành vi tiêu cực tiếp theo là bỏ việc. Như vậy, các hướng xử lý của lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ là chưa hợp lý, cần phải có biện pháp khắc phục. 2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống Nguyên nhân xảy ra tình huống trên gồm có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. 2.4.1. Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân khách quan làm nảy sinh tình huống trên bao gồm: Thứ nhất, những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường đến nhu cầu và lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, trong đó có T. Là một thanh niên được đào tạo tại một trường đại học có danh tiếng ở Việt Nam, được tuyển dụng vào công tác tại một cơ quan bảo vệ pháp luật, nhưng T đã không nhận thức được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công việc mà mình làm, không có chí hướng phấn đấu, không có lý tưởng để vươn lên mà ăn chơi, đua đòi để đến mức phải nợ nần và tìm cách vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, hy sinh tương lai và sự trong sạch của mình để lấy tiền của công, coi thường lợi ích của Nhà nước. Thứ hai, thiếu người có trách nhiệm và năng lực quản lý hoạt động kế toán – tài chính. Việc người kế toán trưởng vắng mặt do phải đi điều trị bệnh dài ngày cũng là một yếu tố khách quan dẫn đến mảng công việc này không được kiểm soát chặt chẽ. Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ đã không bố trí người có trách nhiệm, có năng lực, có đạo đức phụ trách và chịu trách nhiệm kiểm soát các hoạt động kế toán tại cơ quan trong thời gian này, khiến cho T có cơ hội để tiến hành các hoạt động vi phạm. Điều đó cho thấy công
tác quản lý tiền, các khoản chi tài chính từ nguồn ngân sách nhà nước tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ như vậy là chưa có hiệu quả, dẫn đến chế độ kiểm soát chi đã không được thực hiện tốt, trình tự luân chuyển và kiểm tra chứng từ kế toán chưa được thực hiện đúng. Thứ ba, các quy định pháp luật về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán chưa được T nhận thức một cách đầy đủ. Chuẩn mực đạo đức quy định các nguyên tắc, nội dung, tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của người làm kế toán bao gồm kế toán viên, phụ trách kế toán, kế toán trưởng trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và những người hành nghề kế toán theo luật định. Các nguyên tắc, nội dung, tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp được quy lại thành những tiêu chí về đạo đức, mà người làm nghề kế toán phải có và là thước đo đánh giá, nhận xét về đạo đức nghề nghiệp của họ. Tuy nhiên, trên thực tế, người làm kế toán chỉ chú trọng đến nghiệp vụ chứ không mấy chú ý đến việc giữ gìn những tiêu chí cơ bản của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán. Ngay trong chính Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ, từ lãnh đạo cho đến cán bộ, công chức của Viện cũng đã không coi đó là cơ sở để lựa chọn, sử dụng cán bộ kế toán của cơ quan mình. 2.4.2. Nguyên nhân chủ quan Nguyên nhân chủ quan làm nảy sinh tình huống trên là do T bị phối hoặc bị tác động bởi lợi ích vật chất do các đối tượng kế toán mang lại khi vi phạm các quy định của nghề nghiệp. Các lợi ích vật chất đó đã làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của T, khiến T rơi vào cám dỗ vật chất, vốn dĩ thuộc về lối sống tầm thường của T. Bên cạnh đó, các vi phạm của T còn bắt nguồn từ sự thúc ép phải trả các khoản nợ do mình đã chơi bởi tạo nên. Sự thờ ơ của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ và các đồng nghiệp cùng cơ quan cũng là một trong những nguyên nhân chủ quan khiến cho T rơi vào tình huống vi phạm. Nếu được sự quan tâm thường xuyên và sự chỉ bảo thực sự của tập thể, có lẽ T đã không dấn sâu vào vi phạm như thế.
2.5. Hậu quả của tình huống Hành vi của T và của lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ đã để lại những hậu quả cho xã hội, cho nhà nước và cho chính cơ quan của mình. Thứ nhất, đối với Nhà nước. Các hành vi vi phạm của T đã làm rối loạn cơ chế kiểm soát chi, đi ngược lại các quy định của luật kế toán và chế độ kế toán hành chính sự nghiệp dẫn làm thất thoát tiền, kinh phí của Nhà nước được cung cấp để đảm bảo cho hoạt động công vụ của cán bộ, kiểm sát viên; việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh TQ. Điều đó trực tiếp làm ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, nhiệm vụ của cơ quan công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại địa phương nói riêng và đến hiệu quả bảo vệ pháp luật của Nhà nước trước các hành vi vi phạm pháp luật tại địa bàn tỉnh TQ nói chung. Thứ hai, đối với xã hội. Tình huống trên đã để lại những hậu quả đối với xã hội như làm mất niềm tin của nhân dân vào cán bộ và cơ quan nhà nước, nhất là khi đó lại là cơ quan bảo vệ pháp luật. Không ít người dân sẽ có tâm lý nghi ngờ tính nghiêm minh của pháp luật, có thái độ không đúng đắn đối với pháp luật, đối với quyền lực nhà nước và cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước. Thứ ba, đối với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ. Các vi phạm của T và các thiếu sót của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định chế độ công tác nội bộ của cơ quan, làm giảm sút hiệu quả công tác nội bộ của đơn vị. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý, nhận thức của cán bộ, công chức trong cơ quan. Bất kỳ một cơ quan nhà nước nào khi hoạt động công tác nội bộ không được tốt thì tất yếu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện chức năng bên ngoài, tức chức năng công tố và kiểm sát tư pháp. III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu của việc xử lý tình huống nêu trên là căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để xác định các phương án giải quyết tình huống và lựa chọn phương án tối ưu nhất cho việc giải quyết tình huống nêu trên. 3.2. Đề xuất phương án xử lý tình huống Để giải quyết tình huống trên, tiểu luận đề xuất một số phương án sau: Phương án 1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành xử lý vi phạm hành chính đối với T Mục tiêu của phương án là xử lý bằng cách áp dụng chế tài hành chính đối với T. Nội dung chính của phương án: -
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh TQ về vi phạm pháp luật của T và đề xuất biện pháp xử lý hành chính theo quy định tại Nghị định của Chính phủ số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán.
-
Uỷ ban nhân dân tỉnh TQ yêu cầu T có mặt tại trụ sở cơ quan để giải quyết việc vi phạm;
-
Uỷ ban nhân dân tỉnh TQ tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính của T;
-
Uỷ ban nhân dân tỉnh TQ tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với T theo thẩm quyền được quy định tại Điều 30 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008);
-
Giao quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T.
-
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được giao quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu T không tự nguyện, tự giác thực hiện thì sẽ bị cưỡng chế thi hành. Nguồn lực để thực hiện phương án: kinh phí từ ngân sách nhà nước. Cơ quan chủ trì: UBND tỉnh TQ. Cơ quan phối hợp: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ. Công cụ: các văn bản về xử phạt vi phạm hành chính.
Phương án 2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ xử lý kỷ luật đối với T và buộc T phải hoàn trả các khoản tiền đã chiếm dụng. - Mục tiêu của phương án: Ổn định về tổ chức, tạo cho T có cơ hội sửa chữa lỗi lầm và khắc phục hậu quả do mình gây ra. - Nội dung chính của phương án: + Chuẩn bị: Viện kiểm sát nhân dân tiến hành thành lập Hội đồng xử lý kỷ luật và bồi thường thiệt hại xử lý hành vi vi phạm của T có sự tham gia của lãnh đạo Viện, công đoàn, đoàn thanh niên của Viện. + Tổ chức thực hiện: Cử đại diện công đoàn đến nhà T để động viên, thuyết phục, đồng thời giải thích cho T thấy rõ hậu quả hành vi của mình, nhận lấy khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa. Đồng thời, hoàn trả lại số tiền đã vi phạm. Tiến hành các trình tự nhằm xác định mức xử lý kỷ luật và mức bồi thường vật chất do T gây ra. Yêu cầu T trở về cơ quan công tác (Nếu không bị bắt giữ theo quy định của tố tụng hình sự). - Nguồn lực để thực hiện phương án: + Ngân sách: Kinh phí hành chính đảm bảo cho hoạt động tổ chức họp cơ quan, kinh phí công tác phí cho người đại diện công đoàn đến nhà T để vận động. + Cơ quan chủ trì: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ. + Cơ quan phối hợp: Công đoàn ngành. + Phương tiện, công cụ: xe công. Phương án 3. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ tiến hành khởi tố T với tội danh tham ô theo quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự. - Mục tiêu của phương án là xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật của T, thể hiện sự nghiêm minh và công bằng của pháp luật, không phân biệt người vi phạm là người trong cơ quan bảo vệ pháp luật hay ngoài cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Nội dung chính của phương án: + Chuẩn bị thực hiện phương án: Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ tiến hành họp cấp uỷ để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật của T để quyết định biện pháp xử lý thích hợp. + Tổ chức thực hiện: Ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra , truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tổ chức rút kinh nghiệm trong cơ quan, báo cáo cấp trên. - Nguồn lực để thực hiện phương án: + Ngân sách: kinh phí từ ngân sách nhà nước. + Cơ quan chủ trì: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ. + Cơ quan phối hợp: Công an tỉnh TQ. + Công cụ, phương tiện: các văn bản tố tụng hình sự. 3.3. Lựa chọn phương án xử lý tình huống Để lựa chọn phương án trước hết cần tiến hành so sánh các phương án trên để xác định các ưu, nhược điểm của mỗi phương án. Tên
Ưu điểm
Nhược điểm
phương án 1
Xử lý trách nhiệm hành chính của Không khắc phục được hậu quả T khi vi phạm quy định của pháp do hành vi vi phạm pháp luật luật về kế toán, nhằm răn đe đối của T gây ra, đặc biệt là không tượng vi phạm và thể hiện thái độ buộc được T hoàn trả lại số tiền của Nhà nước đối với vi phạm đã chiếm dụng để trả lại cho cơ pháp luật của T.
quan, phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ.
Nếu chỉ xử lý hành chính thì T sẽ vẫn được tiếp tục công tác tại vị trí là kế toán viên. Điều này không đúng với quy định của pháp luật về việc khi cán bộ, công chức vi phạm pháp luật thì cơ quan quản lý phải tiến hành xem xét trách nhiệm kỷ luật (đảng, chính quyền) của công chức. 2
Chấp hành đúng theo quy định Các thủ tục để thực hiện kỷ luật của pháp luật hiện hành về xử lý đối với T cần đến sự tham gia cán bộ, công chức vi phạm; Ổn của nhiều bộ phận trong cơ định về mặt tổ chức cơ quan, chấn quan và mất nhiều thời gian. chỉnh chế độ công tác nội bộ để Việc buộc hoàn trả các khoản tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ tiền đã chiếm dụng của T có theo chức năng trong thời gian thể phải kéo dài về thời gian vì tiếp theo.
điều kiện của T không thể trả
Có tác dụng giáo dục rất lớn đối ngay được. với cán bộ, công chức trong đơn vị và với chính bản thân T. Tạo cho T có cơ hội để sửa chữa lỗi lầm. Khắc phục hậu qủa do vi phạm của T gây ra về mặt kinh tế. 3
Xử lý bằng hình thức nghiêm Cơ sở pháp lý không phù hợp khắc nhất (chế tài hình sự) đối với để xử lý hình sự vì T không vi phạm của T sẽ có tác dụng răn phải là người có chức vụ,
đe rất lớn, tác dụng phòng ngừa quyền hạn - chủ thể của tội chung sẽ được nâng cao.
tham ô theo quy định tại Điều
Hình phạt bổ sung sẽ buộc T phải 278 Bộ luật hình sự. hoàn trả toàn bộ số tiền đã chiếm dụng. Trong các phương án trên phương án thứ 2 là phương án hợp lý hơn cả bởi theo quy định hiện hành T đồng thời phải chịu hai loại trách nhiệm pháp lýtức vừa phải chịu trách nhiệm kỷ luật vừa phải chịu trách nhiệm hình sự (nếu đã đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự). Do vậy, dưới góc độ quản lý nhà nước tiểu luận lựa chọn phương án 2 làm phương án tối ưu là nhằm chỉ ra những bước cơ bản để xử lý nghiêm minh T với tính cách là cán bộ, công chức vi phạm theo đúng quy định của pháp luật hiện nay. Để thực hiện phương án thứ hai cần thực hiện một số bước cụ thể sau: Bước 1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ triệu tập cuộc họp để T kiểm điểm trước tập thể cơ quan. Cuộc họp được tổ chức có ghi biên bản và kiến nghị hình thức xử lý kỷ luật đối với T. Bước 2: Hoàn chỉnh hồ sơ trình Hội đồng kỷ luật bao gồm: Bản tự kiểm điểm của T; biên bản họp kiểm điểm T của Viện kiểm sát tỉnh TQ; trích ngang, sơ yếu lý lịch của T và các chứng từ, sổ sách chứng minh hành vi vi phạm của T. Bước 3. Thành lập Hội đồng kỷ luật, bao gồm các thanh viên như: Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh TQ (chủ tịch Hội đồng); 01 uỷ viên đại diện Ban chấp hành công đoàn tỉnh; 01 uỷ viên ở bộ phận tài chính-kế toán của Viện kiểm sát tỉnh TQ (do tập thể bầu ra) và 01 uỷ viên Ban tổ chức cán bộ Viện kiểm sát tỉnh TQ. Ngoài ra, Viện trưởng (Chủ tịch Hội đồng) có thể mời thêm các thành phần của các tổ chức chính trị-xã hội tỉnh TQ tham dự họp Hội đồng kỷ luật và viết giấy báo triệu tập T (trước 07 khi Hội đồng tiến hành họp). Bước 4, Hội đồng kỷ luật tiến hành họp xem xét kỷ luật và mức độ bồi thường vật chất của T. Buổi họp diễn ra theo các trình tự sau:
-Chủ tịch Hội đồng tuyên bố lý do, giới thiệu các thành viên tham dự; -Thư ký Hội đồng trình bày trích nganh sơ yếu lý lịch, hồ sơ và các tài liệu có liên quan; -Người vi phạm (cán bộ T) tiến hành đọc bản kiểm điểm. Trong trường hợp vắng mặt thì Thư ký đọc giúp bản kiểm điểm; -Thư ký đọc biên bản cuộc họp kiểm điểm do Viện kiểm sát đã tiến hành; -Các thành viên Hội dồng và đại biểu dự họp phát biểu ý kiến; -Cán bộ T phát biểu ý kiến về hình thức kỷ luật; -Hội đồng kỷ luật bỏ phiếu kín kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật; -Thông báo kiến nghị hình thức kỷ luật của Hội đồng. Làm văn bản gửi Viện trưởng Viện kiểm sát TQ và Viện trưởng ra quyết định xử lý kỷ luật và mức bồi thường vật chất đối với T Bước 5 Giao quyết định xử lý kỷ luật cho T, đồng thời tiếp tục giáo dục, động viên để T tiếp tục sửa chữa và phấn đấu trong thời gian tới. Bước 6 Yêu cầu Phòng kế toán tiến hành biện pháp khấu trừ vào lương của T để thu lại số tiền T đã chiếm dụng. Mức thu không quá 30% tổng số tiền lương hàng tháng. Bước 7 Tiến hành công bố công khai các biện pháp xử lý đối với T để toàn thể cán bộ, công chức trong Viện cùng biết để rút kinh nghiệm chung. Việc tiến hành đúng trình tự và xác định khách quan, dân chủ và công khai là cơ sở để xử lý T một cách nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Thông qua đó, có tác dụng giáo dục đối với cán bộ, công chức đang công tác tại Viện kiểm sát TQ, nhất là đối với cán bộ, công chức làm công tác tài chính-kế toán. IV. KIẾN NGHỊ 4.1.Đối với Đảng Cần có nghị quyết chuyên đề về đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đồng thời, nâng mức xử lý kỷ luật về Đảng (hình thức khai trừ ra khỏi Đảng)
đối với những cán bộ, công chức có hành vi tham ô, tham nhũng tài sản của Nhà nước, của tập thể; không gương mẫu trong lối sống, trong công việc, nhất là đối với những cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. 4.2. Đối với Nhà nước Tích cực tiến hành tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các quy định pháp luật về kế toán, đặc biệt là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán được ban hành từ năm 2005. Các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán cần được chỉnh sửa theo hướng ngắn gọn hơn, đồng thời phải xác định rõ đây là các yêu cầu nghề nghiệp chứ không đơn thuần là vấn đề đạo đức (có thể thực hiện hoặc không), vì khi vi phạm sẽ phải xử lý bằng các biện pháp trách nhiệm pháp lý chứ không bằng con đường xã hội (dư luận xã hội lên án..). Chính phủ cần nghiên cứu để sửa đổi Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 4/11/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán để chính thức ghi nhận những hành vi vi phạm quy định pháp luật về lĩnh vực này được coi là vi phạm hành chính và bị xử lý bằng biện pháp trách nhiệm hành chính. Đồng thời, với những hành vi mà dấu hiệu khách quan giống với hành vi tội phạm thì phải có hướng dẫn phân biệt trên cơ sở tiêu chuẩn khách quan là tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bằng các đại lượng về định tính hoặc định lượng. Bộ Tài chính và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cần nghiên cứu để có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ những người làm công tác kế toán nhằm giữ chân những người tài và phòng ngừa các tiêu cực phát sinh. 4.3. Đối với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ Tổ chức, chấn chỉnh lại bộ máy kế toán của cơ quan mình theo quy định tại Điều 48 Luật kế toán năm 2003. Cần quản lý cán bộ, công chức của mình, nhất là cán bộ trẻ để theo dõi, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, lối sống, điều kiện, hoàn cảnh để kịp thời giáo dục, giúp đỡ, không để cán bộ của mình sa ngã rồi mới thực hiện các biện pháp xử lý. Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh cần phát huy vai trò của các tổ
chức đoàn thể trong cơ quan như đoàn thanh niên, phụ nữ, công đoàn để thu hút cán bộ tham gia vào các mặt công tác của đơn vị, xây dựng ý thức, lý tưởng sống tốt đẹp và ý thức và đạo đức đối với công vụ được giao. Tích cực triển khai các hình thức sinh hoạt để tuyên truyền về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác kế toán nói riêng “vừa hồng, vừa chuyên”, góp phần thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. V. KẾT LUẬN Công việc của người kế toán luôn tiếp xúc với các giá trị vật chất thuộc về các chế độ quản lý khác nhau và đòi hỏi người kế toán phải có những phẩm chất, kỹ năng, nghiệp vụ khác nhau nhưng không thể thiếu được yêu cầu về đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp. Trước những tác động tiêu cực của xã hội và điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu cuộc sống mà có không ít kế toán vi phạm quy tắc nghề nghiệp dẫn đến bị xử lý trước pháp luật. Trong điều kiện nền kinh tế tiền mặt như hiện nay, việc kiểm soát vấn đề này càng khó khăn. Vì vậy, bên cạnh các quy định của Nhà nước về chế độ kế toán hành chính sự nghiệp, chế độ kiểm soát chi, thanh tra, kiểm tra tài chính…còn có các quy định về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán. Trong hoàn cảnh kinh tế-xã hội, chính trị, pháp lý như vậy, người làm công tác kế toán cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, thẳng thắn, trung thực trong hoạt động nghề nghiệp, không vụ lợi, tham lam, vị kỷ, phải có chính kiến rõ ràng và đặc biệt là phải có thái độ tôn trọng pháp luật, chuẩn mực, quy chế, kiên quyết bảo vệ pháp luật và lẽ phải. Có như vậy, công tác kế toán trong các cơ quan nhà nước nói chung, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ nói riêng mới được nâng cao, đáp ứng yêu cầu thực thi có chất lượng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà Đảng và Nhà nước giao phó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài chính, Quyết định số 87/2005/QĐ-BTC ngày 01/12/2005 về việc ban hành và công bố chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam; 2. Bộ Tài chính, Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30/3/2006 về việc ban hành chế độ kế toán hành chính sự nghiệp; 3. Bộ Tài chính, Quyết định số 33/2007/QĐ-BTC ngày 15/5/2007 ban hành quy trình xử lý sau thanh tra, kiểm tra tài chính; 4. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 128/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Kế toán trong lĩnh vực kế toán nhà nước; 5. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 08/11/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán; 6. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 35/2005/NĐ-CP, ngày 19/4/2005 về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức; 7. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 118/2006/NĐ-CP, ngày 10/10/2006 về xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức; 8. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật số 03/2003/QH11 ngày 16/6/2003 về kế toán;
9. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật số 15/1999/QH10 ngày 21/12/1999 về hình sự; 10.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật số 55/2005/QH11 ngày 29/11/2005 về phòng, chống tham nhũng;
11.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật số 34/2002/QH10 ngày 19/04/2002 của Quốc hội về Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân;