Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
MỤC LỤC Ý nghĩa quốc kỳ của các nước ...........................................................................02 Phong tục tập quán của các nước......................................................................32 Các loại tiền của các nước..................................................................................96 Tên viết tắt của các tổ chức quốc tế.................................................................135 Giao tiếp thương lượng trong nền kinh tế thị trường........................................139 Cách sắp xếp bàn ghế, chỗ ngồi trong giao tiếp...............................................162 Tài liệu tham khảo.............................................................................................171
Lớp 06CQD1
1
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
1. Ý NGHĨA QUỐC KỲ CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.1. Một số điều cần biết về quốc kỳ Quốc kỳ là một lá cờ biểu trưng cho một quốc gia. Những công trình công cộng và tư nhân như trường học và cơ quan chính phủ thường treo quốc kỳ. Ở một vài nước, quốc kỳ chỉ được treo ở những công trình phi quân sự vào những ngày treo cờ cụ thể. Có ba loại quốc kỳ phân biệt để sử dụng trên đất liền, và ba loại để sử dụng trên biển, mặc dù nhiều nước sử dụng cùng một kiểu thiết kế cho vài (đôi khi tất cả) các loại cờ. 1.1.1.Nguồn gốc quốc kỳ Từ xa xưa, người ta đã biết dùng lá cờ để biểu trưng cho một nhân vật lãnh đạo hay một gia tộc lãnh chúa. Trong quân sự, các vị thống lãnh đều dùng lá cờ của bên mình làm điểm hội tập binh sĩ, nơi xuất phát các hiệu lệnh hành quân. Trong các cuộc giao chiến, việc cắm được cờ của mình trên đất địch hay cướp đoạt được cờ của địch đều được xem là một chiến công rạng rỡ. Thời quân chủ chuyên chế, lá cờ của nhà vua cũng là biểu tượng của quốc gia, nhưng chỉ được dựng lên tại những nơi có vua ở. Ở những nơi khác thì dựng cờ của các vị lãnh chúa địa phương. Ý niệm quốc kỳ là biểu tượng chủ quyền quốc gia trên toàn thể lãnh thổ chỉ mới xuất hiện về sau này. 1.1.2.Quốc kỳ sử dụng trên đất liền Trên đất liền, có sự phân biệt giữa cờ dân sự (ký hiệu FIAV quyền (
) và cờ chiến tranh hay quân sự (
), cờ chính
).
Cờ chính quyền là những loại cờ được sử dụng chính thức bởi những cơ quan chính phủ. Trong khi cờ dân sự có thể được treo bởi bất cứ ai bất kể họ có liên quan đến chính phủ hay không. Cờ chiến tranh (hay cờ quân sự) được sử dụng bởi những tổ chức quân sự như quân đội. Trong thực tế, nhiều quốc gia (trong đó có Hoa Kỳ và Anh) dùng chung một loại cờ cho ba mục đích trên; "quốc kỳ" đôi khi được dùng như một thuật ngữ trong môn kỳ học để chỉ loại cờ dùng chung cho ba mục đích (
) như vậy. Tuy
nhiên, ở một số quốc gia—đặc biệt là ở Châu Mỹ Latinh—có một sự khác nhau rõ Lớp 06CQD1
2
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
ràng giữa cờ dân sự và cờ chính quyền. Đa phần cờ dân sự là phiên bản đơn giản hóa của cờ chính quyền, sự khác nhau thường ở chỗ cờ chính quyền có hình huy hiệu của chính quyền, còn cờ dân sự thì không có. Một số rất ít quốc gia sử dụng lá cờ quân sự khác với cờ chính quyền; Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một ngoại lệ đáng chú ý. 1.1.3.Cờ hiệu quốc gia trên biển Nhiều quốc gia có những quốc kỳ đặc biệt để sự dụng trên biển gọi là cờ hiệu quốc gia. Cũng như vậy, có ba loại khác nhau: + Cờ hiệu dân sự (
), được treo trên các tàu tư nhân.
+ Cờ hiệu chính quyền (còn được gọi là cờ hiệu chính phủ
), được treo
trên tàu thủy của chính quyền. + Cờ hiệu chiến tranh (còn được gọi là cờ hiệu hải quân
), được treo
trên tàu hải quân. Cờ hiệu được treo trên một cột cờ hiệu nằm ở đuôi tàu, hoặc từ một cây lao khi di chuyển. Cả hai vị trí này phải là điểm cao nhất trên con tàu, ngay cả đỉnh cột buồm cao hơn. Khi không có cột cờ, cờ hiệu có thể được treo trên mũi tàu. Quốc kỳ cũng có thể được treo trên hàng không mẫu hạm và những phương tiện đi lại của những quan chức quan trọng. Ở một vài quốc gia, như Hoa Kỳ và Pháp, cờ hiệu quốc gia đồng nhất với quốc kỳ, trong khi ở những nước khác, như Anh và Nhật Bản, có những cờ hiệu riêng để sử dụng trong hàng hải. Đa số các quốc gia không có cờ hiệu chính quyền riêng biệt, mặc dù Anh là một ngoại lệ hiếm hoi, cờ hiệu đỏ dùng cho dân sự, cờ hiệu trắng dùng cho hải quân và cờ hiệu xanh dương dùng cho những con tàu phi quân sự của chính quyền. 1.1.4.Những lá cờ tương tự nhau
Quốc kỳ của Tchad
Quốc kỳ của Romania
Mặc dù quốc kỳ đồng nghĩa với một biểu tượng độc nhất của một quốc gia, nhiều quốc gia có những lá cờ khá giống và do đó rất dễ nhầm với nhau. Ví dụ Lớp 06CQD1
3
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
như cờ của Monaco và Indonesia, chỉ khác nhau rất ít về tỷ lệ cờ; của Hà Lan và Luxembourg, khác nhau về tỷ lệ và độ đậm nhạt của màu xanh trên cờ; và của Romania và Tchad, gần như giống hệt nhau. Trong khi một vài sự tương đồng là tình cờ, những sự tương đồng khác lại xuất phát từ những lịch sử chung. Ví dụ như lá cờ của Venezuela, Colombia và Ecuador tất cả đều là những biến thể của lá cờ Đại Colombia, một đất nước bao gồm các quốc gia trên cho đến khi họ độc lập khỏi Tây Ban Nha, được lập nên bởi anh hùng giải phóng người Venezuela Francisco de Miranda; còn lá cờ của Ai Cập, Iraq, Syria và Yemen đều là những biến thể tương tự nhau từ lá cờ của cuộc khởi nghĩa Ả rập vào 1916–1918. Nhiều sự tương đồng khác có thể được tìm thấy giữa những quốc kỳ hiện thời, nếu xem xét đến sự đảo thứ tự các màu (như cờ của Bờ Biển Ngà với cờ Ireland). Còn nhiều sự đồng nhất hoặc gần giống nhau hơn nữa nếu so sánh những lá cờ hiện nay và trong lịch sử; ví dụ như, quốc kỳ hiện nay của Albania chính là cờ chiến tranh của Đế chế Byzantine (Đông Roma). 1.1.5.Quy ước chung của quốc kỳ Có rất nhiều quy ước liên quan đến cách trình bày quốc kỳ sao cho đúng. Ví dụ như, quốc kỳ không bao giờ được treo ngược trừ khi như một biểu hiện của treo cờ rũ. Có nhiều quy định liên quan đến sự trình bày quốc kỳ, nhưng quy tắc chung đó là quốc kỳ phải được treo ở vị trí danh dự, và không bao giờ ở vị trí thấp hơn các lá cờ khác (mặc dù vài quốc gia có ngoại lệ dành cho những tiêu chuẩn hoàng gia). Những quy định sau là tiêu biểu: Khi lá quốc kỳ được treo cùng với những lá cờ khác, nó phải được kéo lên đầu tiên và hạ xuống cuối cùng. Khi lá quốc kỳ được treo cùng với các quốc kỳ của quốc gia khác, tất cả các lá cờ phải có kích thước xấp xỉ bằng nhau và phải được treo ở cùng độ cao, mặc dù quốc kỳ của quốc gia chủ nhà có thể được đặt ở vị trí danh dự (ở trung tâm của số lẻ các cột cờ hoặc ở ngoài cùng bên phải – tức là bên trái từ vị trí một người quan sát – của số chẵn các cột cờ). Khi lá quốc kỳ được treo cùng với những lá cờ khác không phải là quốc kỳ, nó phải được treo trên cột cờ riêng, hoặc cao hơn hoặc phải đứng ở vị trí danh dự. Lớp 06CQD1
4
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Khi lá quốc kỳ được treo cùng với bất cứ lá cờ nào khác trên cùng một cột cờ, nó phải nằm trên cùng, mặc dù sử dụng cột cờ phân biệt thường được dùng nhiều hơn. Khi lá quốc kỳ được treo cùng với một lá cờ khác trên cột chéo, quốc kỳ phải nằm ở phía trái người quan sát và cột treo quốc kỳ phải ở phía trước cột cờ còn lại. Khi lá quốc kỳ được treo cùng với một hoặc nhiều lá cờ khác trong cuộc diễu hành, quốc kỳ phải ở bên phải nhóm diễu hành. Nếu có một hàng cờ, quốc kỳ nên nằm ở vị trí danh dự. Khi lá quốc kỳ, trong vài trường hợp ngoại lệ, được treo ngược, đó là biểu hiện của lá cờ rũ. 1.1.6.Thông tin khác Quốc kỳ Nepal Quốc kỳ Nepal là quốc kỳ duy nhất không phải hình chữ nhật. Dannebrog, quốc kỳ của Đan Mạch, là lá cờ chính quyền cổ nhất còn tồn tại. Cờ Scotland là một trong những lá cờ cổ xưa nhất trên thế giới, xuất hiện từ thế kỷ thứ 9, và là quốc kỳ cổ xưa nhất còn được dùng ngày nay. Lá cờ của Thụy Sỹ và Thành quốc Vatican là những lá cờ vuông duy nhất. Cờ của Philippines là lá cờ độc nhất được treo ngược (màu đỏ ở trên cùng) khi đất nước có chiến tranh. Sự phối hợp các màu phổ biến nhất là: Đỏ, trắng, xanh dương (chủ yếu các nước Châu Âu và phương Tây) Đỏ, vàng, xanh lá cây (chủ yếu các nước Châu Phi) Đỏ, trắng, đen (chủ yếu các nước Trung Đông/Hồi giáo) Vòng tròn Olympic – xanh dương (Châu Âu), vàng (Châu Á), đen (Châu Đại Dương), xanh lá cây (Châu Phi) và đỏ (Bắc và Nam Mỹ) đại diện cho những màu được sử dụng ít nhất một lần ở tất cả các quốc kỳ trên thế giới. Cờ của Libya là lá cờ duy nhất chỉ gồm một màu, xanh lá cây. Cờ Đảo Síp là lá cờ duy nhất vẽ hình quốc gia mà nó đại diện.
Lớp 06CQD1
5
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
1.2. Việt Nam QUỐC KỲ VIỆT NAM
Lá cờ đỏ sao vàng ngày nay đã trở nên quen thuộc, nhưng nhiều người còn chưa biết lần đầu tiên lá cờ ấy xuất hiện cách nay 60 nǎm và người vẽ lá cờ ấy là một chiến sĩ cách mạng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ 23/11/1940. Đó là Nguyễn Hữu Tiến, nguyên là thầy giáo, sinh ngày 5/3/1901 tại xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ngày nay. Nǎm 1927, Nguyễn Hữu Tiến tham gia tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Nǎm 1931 ông bị bắt và bị địch đưa ra nhà tù Côn Đảo. Nǎm 1935, ông cùng một số tù chính trị vượt ngục Côn Đảo, trở về đất liền, ông hoạt động cách mạng tại Cần Thơ, sau đó được phân công phụ trách công tác tuyên truyền, in ấn tài liệu cách mạng. Chính trong thời gian này, ông được Xứ uỷ Nam Kỳ trao nhiệm vụ vẽ cờ Tổ quốc để sử dụng trong các cuộc đấu tranh. Ông đã vẽ lá cờ có nền đỏ và ngôi sao vàng nǎm cánh, thể hiện ý tưởng máu đỏ da vàng, tượng trưng cho dân tộc và sự đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Mẫu cờ do Nguyễn Hữu Tiến vẽ đã được Xứ uỷ Nam Kỳ nhất trí và đã xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 2311-1940, sau đó xuất hiện ở nhiều nơi trong phong trào Việt Minh (1941 - 1945). Nǎm 1945, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh quy định mẫu Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là nền đỏ với ngôi sao vàng nǎm cánh như mẫu vẽ của Nguyễn Hữu Tiến. Ngày 2-9-1945, cờ đỏ sao vàng chính thức xuất hiện trong buổi lễ Tuyên bố độc lập. Quốc hội khoá 1 ngày 2-3-1946 quy định cụ thể: ngôi sao vàng nǎm cánh đặt giữa nền đỏ hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài. Trong cuộc họp này, Bác Hồ đã nói: "Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu á, cờ đã có mặt trên Lớp 06CQD1
6
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kỳ và quốc ca". Thế nhưng hiện nay thì có nguồn tin cho rằng Quốc kỳ là do Lê Quang Sô vẽ chứ không phải là Nguyễn Hữu Tiến. Và sự thật thì đến nay vẫn chưa khẳng định được ai chính là tác giả của nó. Có thể tham khảo thêm bài viết của phóng viên báo tuổi trẻ về 2 nhân vật này qua dòng link dưới: Ý nghĩa quốc huy: Quốc huy Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh tượng trưng cho lịch sử cách mạng của dân tộc ta và tiền đồ xán lạn của nước ta, bông lúa vàng bao quanh tượng trưng cho nông nghiệp, bánh xe tượng trưng cho công nghiệp và chính giữa, phía dưới là dòng chữ tên nước. Tại kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa đầu của nước ta (họp từ 15 đến 20/9/1955), Quốc hội đã quyết định chọn mẫu Quốc huy do Chính Phủ đề nghị 1.3. Mỹ Quốc kỳ Hoa Kỳ có hai phần. Một phần nhỏ ở góc trái trên cùng có hình ảnh của 50 ngôi sao trên nền màu xanh dương, tượng trưng cho 50 tiểu bang hiện tại. Phần chính gồm 7 xọc đỏ và 6 xọc trắng, tượng trưng cho 13 tiểu bang sơ khai Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là một cộng hòa lập hiến liên bang gồm có 50 tiểu bang và một quận liên bang. Quốc gia này nằm gần như hoàn toàn trong tây bán cầu: 48 tiểu bang lục địa và Thủ đô Washington, D.C. nằm giữa Bắc Mỹ, giáp Thái Bình Dương ở phía tây, Đại Tây Dương ở phía đông, Canada ở phía bắc và Mexico ở phía nam. Tiểu bang Alaska nằm trong vùng tây bắc của lục địa Bắc Mỹ, giáp với Canada ở phía đông. Tiểu bang Hawaii nằm giữa Thái Bình Dương. Hoa Kỳ cũng có 14 lãnh thổ hay còn được gọi là vùng quốc hải rải rác trong Biển Caribbe và Thái Bình Dương.
Lớp 06CQD1
7
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
1.4. Nhật Bản Quốc kỳ: Màu trắng, ở giữa là một vầng Mặt trời đỏ, còn gọi là cờ Mặt trời. Màu trắng tượng trưng cho thuần khiết và chính trực, màu đỏ tượng trưng cho sự chân thành và nhiệt tình. Từ "Nước Nhật Bản" có nghĩa là nước Mặt trời mọc. Theo sử liệu ghi lại thì vào thế kỷ VIII sau CN, Hoàng cung tổ chức nghi thức đón năm mới, khi đó đã có lá cờ Mặt trời, sau đó lá cờ Mặt trời được gọi là cờ Thiên hoàng. Tết nguyên đán dương lịch năm thứ 5 đời Minh Trị, người dân thành Tokyo yêu cầu treo cờ chúc mừng và việc này đã được quan Thái chính cho phép, từ đó về sau lá cờ Mặt trời chính thức được quy định là quốc kỳ Nhật Bản. Quốc huy: Là một huy trưng của nhà Vua. Đồ án là một bông hoa cúc vàng 16 cánh bằng nhau. Hình vẽ này cũng là hình vẽ trên huy trưng của Hoàng thất. Thiên hoàng là tượng trưng của Nhật Bản, huy trưng của Thiên hoàng là biểu tượng của Hoàng thất. Năm 1867, xác định Hoàng huy là quốc huy của nước Nhật Bản. 1.5. Thái Lan Quốc kỳ: Do 5 hình chữ nhật nằm ngang song song màu đỏ, trắng và lam hợp thành. Hai hình chữ nhật trên cùng và dưới cùng có màu đỏ. Hình chữ nhật màu lam ở giữa, trên và dưới hình chữ nhật màu lam là hai hình chữ nhật màu trắng. Chiều rộng của hình chữ nhật màu lam bằng chiều rộng của hai hình chữ nhật màu đỏ hoặc chiều rộng của hai hình chữ nhật màu trắng. Thái Lan có hơn 30 dân tộc, trong đó có dân tộc Thái, dân tộc Lào. Màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh và tinh thần xả thân của các dân tộc. Thái Lan lấy đạo Phật làm quốc giáo, màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết của tôn giáo. Màu lam đại diện cho nhà Vua, nằm giữa lá cờ, tượng trưng vương thất ở trong nhân dân các dân tộc và tôn giáo thuần khiết. Năm 1917, vua Rama VI xác định đồ án quốc kỳ hiện nay. * Quốc huy: Tức Hoàng Huy (Huy trưng nhà Vua). Đồ án là một con chim bằng lớn, người ta gọi loài chim bằng này là vua của các loài chim, là một thần linh có hai cánh trong truyền thuyết dân Lớp 06CQD1
8
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
gian. Trên lưng chim bằng là Narai, ông là thần bảo hộ trong truyền thuyết. Thần bảo hộ cưỡi chim bằng dang rộng đôi cánh, hành trình vạn dặm bảo vệ nhân dân, tiêu diệt yêu quái. Một thuyết khác nói rằng: chim bằng là chim thần được nói đến trong Ấn Độ giáo, do một trong ba thượng thần trong Ấn Độ giáo là Vishnu cưỡi. Ông cưỡi chim thần, bảo hộ cho nhân gian được bình an. Đồ án quốc huy nước này do vua Rama VI chọn lựa và xác định vào năm 1910. Năm 1932, Thái Lan xây dựng chính thể quân chủ lập hiến và vẫn sử dụng quốc huy này. 1.6. Lào
Quốc kỳ
Quốc huy
Lào bắt đầu sử dụng lá cờ hiện nay từ 2 tháng 12 năm 1975. Đây cũng là lá cờ mà chính phủ quốc gia Lào sử dụng năm 1945. Lá cờ này hình chữ nhật, tỷ lệ hai cạnh là 2:3. Lá cờ được chia thành 3 dải ngang gồm một dải màu xanh ở giữa có chiều rộng bằng hai lần chiều rộng của hai dải màu đỏ ở phía trên và phía dưới. Ở giữa dải xanh có một hình tròn màu trắng (đường kính bằng 0,8 lần chiều rộng dải xanh). Màu đỏ trên lá cờ tượng trưng cho máu của người Lào đã hy sinh cho độc lập, còn màu xanh tượng trưng cho sự thịnh vượng của đất nước. Vòng tròn trắng tượng trưng cho Mặt Trăng trên dòng sông Mekong cũng như sự thống nhất đất nước. 1.7. Campuchia
Quốc kỳ
Quốc huy
Lá cờ Campuchia thể hiện hình của khu đền nổi tiếng Angkor Vat – công trình nổi tiếng khi nhắc đến đất nước này.
Lớp 06CQD1
9
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
1.8. Malaysia * Quốc kỳ: Hình chữ nhật. Nền cờ do 14 sải dọc ngang màu đỏ và trắng xen kẽ nhau, góc trên bên trái phía cán cờ là hình chữ nhật màu lam, trên đó có một vành trăng non lưỡi liềm màu vàng và một ngôi sao vàng 14 cánh nhọn. 14 sọc ngang màu đỏ và trắng xen kẽ nhau tượng trưng cho 13 bang và chính phủ của Malaysia; màu lam tượng trưng cho sự đoàn kết của nhân dân, đồng thời biểu thị mối quan hệ giữa Malaysia và liên bang Anh (quốc kỳ nước Anh có nền màu lam); trăng non lưỡi liềm tượng trưng Malaysia tính ngưỡng đạo Hồi; ngôi sao 14 cánh nhọn tượng trưng cho sự đoàn kết giữa chính phủ và 13 bang của Malaysia; màu vàng biểu thị của nguyên thủ quốc gia Malaysia. Năm 1948, thành lập liên hiệp bang Malaysia, năm 1957 tuyên bố độc lập trong khối Liên Hiệp Anh, năm 1963 cùng với Singapore, Sarawak, Shaba hợp thành Malaysia, chế định quốc kỳ này. Năm 1965, Singapore tách ra khỏi Malaysia, quốc kỳ Malaysia vẫn không thay đổi. * Quốc huy: Hình tấm khiên. Hình vẽ và những mảng màu trên tấm khiên tượng trưng cho sự hợp thành của Malaysia và sự phân khu hành chính của nước này. Trong hình chữ nhật màu đỏ phía trên tấm khiên là 5 thanh đoản kiếm xếp thành hàng ngang, chuôi kiếm hướng lên trên, lưỡi kiếm hướng xuống dưới, tượng trưng cho 5 châu lục của nước Malaysia cũ: Rohore, Kedah, Perlis, Kelantan và Trengganu. Hình vẽ thực vật bên trái tấm lá chắn tượng trưng cho đảo dừa, cây phía bên phải tượng trưng cho bang Malacca, hai bang này là vùng dân cư mới khai phá ở eo biển Malacca. Giữa tấm khiên có bốn hình chữ nhật bằng nhau đặt đứng màu đỏ, đen, trắng và vàng. Màu đen trắng là màu của bang Pahang; màu vàng - đỏ là màu của bang Selanggor; màu đen - trắng - vàng là màu của bang Perak; màu đỏ - vàng - đen là màu của bang Semeran, chúng lần lượt tượng trưng cho bốn bang. Phía dưới tấm khiên có vẽ ba hình vẽ, hình vẽ bên trái tượng trưng cho Shaba, hình vẽ bên phải tượng trưng cho Sarawak, ở giữa có vẽ một đóa quốc hoa của Malaysia, hoa dâm bụt, người dân ở đây gọi là "bangalaya", là một loài hoa đỏ thẫm thuộc họ dâm bụt. Phía trên tấm khiên còn có một vành trăng non lưỡi liềm màu vàng và ngôi sao 14 cánh nhọn, hàm nghĩa của nó giống với quốc kỳ. Hai bên tấm khiên là hai con hổ Malaysia đang nâng cầm trên dải trang trí màu vàng phía dưới tấm khiên lần lượt là dòng chữ "Đoàn kết là sức mạnh" bằng tiếng La Tinh và tiếng Malay. Quốc huy này được chế định năm 1967. 1.9. Singapore Lớp 06CQD1
10
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
* Quốc kỳ: Do màu vành màu bình
hai hình chữ nhật bằng nhau nằm ngang song song đỏ và trắng hợp thành. Góc trên bên trái lá cờ có một trăng non lưỡi liềm màu trắng và 5 ngôi sao năm cánh trắng. Màu đỏ biểu thị bốn biển đều là anh em và sự đẳng của mọi người, màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và phẩm chất đẹp đẽ, trăng non lưỡi liềm tượng trưng quốc gia non trẻ này không ngừng phát triển đi lên, ngày càng đổi mới, 5 ngôi sao năm cánh tượng trưng cho tư tưởng xây dựng dân chủ, hòa bình, tiến bộ, chính nghĩa và bình đẳng của đất nước này. Singapore vốn là một bộ phận của vương quốc Malaya Johore, sau trở thành thuộc địa của thực dân Anh. Tháng 6 năm 1959, được tự trị nội bộ. Cùng năm đó, hội nghị lập pháp Singapore thông qua đồ án quốc kỳ này. Và tháng 12 năm 1989, quốc kỳ này được bắt đầu chính thức sử dụng khi vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Singapore lên nhậm chức. Quốc huy: Đồ án được chọn năm 1959. Ở trung tâm là một tấm khiên màu đỏ, trên mặt tấm khiên có một vầng trăng non lưỡi liềm trắng cong lên trên và 5 ngôi sao năm cánh màu trắng. Hàm nghĩa của chúng giống như của quốc kỳ. Bên trái là một con sư tử đỡ lấy tấm khiên, nó tượng trưng cho Singapore có nghĩa là "tòa thành sư tử". Bên phải là một con hổ, tượng trưng cho mối quan hệ giữa Singapore và Malaysia trong lịch sử. Phía dưới tấm khiên là một dải trang trí màu lam, trên đó có câu cách ngôn bằng tiếng Malaysia, nghĩa là "Tiến lên, Singapore". 1.10. Philipine Quốc kỳ: Nền cờ phía bên cán cờ là hình tam giác đều màu trắng, giữa hình tam giác có một Mặt trời màu vàng, mặt trời phát ra tám chùm ánh sáng. Ở mỗi góc hình tam giác là một ngôi sao vàng năm cánh. Từ đỉnh của tam giác chỗ giữa nền cờ đến cạnh bên phải nền cờ phía trên là màu lam, phía dưới màu đỏ. Nhưng vị trí của hai màu lam và đỏ có thể thay đổi. Thời bình màu lam ở trên, còn thời chiến thì màu đỏ ở trên. Hình mặt trời và tám chùm ánh sáng tượng trưng cho ánh sáng tự do chiếu khắp đất nước Philippines, trong đó tám tia tương đối dài trong tám chùm sáng đó đại diện cho tám tỉnh đầu tiên khởi nghĩa giành độc lập và giải phóng dân tộc, những tia sáng còn lại biểu thị các tỉnh khác. Ba ngôi sao vàng Lớp 06CQD1
11
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
năm cánh tượng trưng cho ba khu vực lớn của Philippines: Luzon, Samar và Mindanao. Màu lam biểu thị lòng trung thành, chân thật và chính trực; màu đỏ biểu thị lòng dũng cảm và can đảm; màu trắng tượng trưng cho hòa bình và thuần khiết. Lá quốc kỳ này ra đời trong cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của thực dân Tây Ban Nha, giành lấy độc lập tự do của nhân dân Philippines. Ngày 12 tháng 6 năm 1898, Philippines tuyên bố độc lập và đã chính thức tuyên bố lấy lá cờ này làm quốc kỳ. Quốc huy: Hình tấm khiên bầu dục, trung tâm quốc huy là một Mặt trời vàng với tám chùm ánh sáng, hàm nghĩa của nó giống như của quốc kỳ. Trên mặt tấm khiên phần màu trắng có ba ngôi sao vàng năm cánh, đại diện cho Luzon, Samar và Mindanao. Phía dưới trái là nền màu lam, trên đó vẽ một con chim ưng đầu trắng, phía dưới bên phải là nền màu đỏ, trên đó vẽ một con sư tử đực màu vàng đang đứng. Chim ưng đầu trắng bắt nguồn từ hình vẽ phù hiệu trong thời kỳ Mỹ thống trị, sư tử vàng bắt nguồn từ hình vẽ phù hiệu trong thời kỳ Tây Ban Nha thống trị. Chúng lần lượt biểu thị nhân dân Philippines giành được độc lập là từ cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của thực dân Tây Ban Nha và sự chiếm đóng của Mỹ. Phần dưới quốc huy là một dải trang trí màu trắng, trên đó viết dòng chữ màu vàng bằng tiếng Anh "Nước Cộng hòa Philippines". Quốc huy này được chế định năm 1946, sau khi Philippines được độc lập. 1.11. Myammar Quốc kỳ: Hình chữ nhật, nền cờ màu đỏ, góc trên bên trái lá cờ có một hình chữ nhật nhỏ màu lam sậm, trên đó là hình vẽ màu trắng. Hình vẽ trung tâm là hai bông lúa nước, xung quanh bông lúa nước là bánh răng có 14 cái răng, xung quanh bánh răng còn có 14 ngôi sao năm cánh. Bông lúa và bánh răng tượng trưng cho nông nghiệp và công nghiệp, 14 ngôi sao năm cánh tượng trưng cho 14 tỉnh và bang của Liên bang Myanmar. Màu đỏ trên quốc kỳ tượng trưng cho lòng dũng cảm và quyết đoán, màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và đức tính tốt đẹp, màu lam sậm tượng trưng cho hòa bình và thống nhất. Quốc kỳ này được công bố trong Hội nghị nhân dân Myanmar lần thứ nhất năm 1974.
Quốc huy: Hình vẽ trung tâm là một hoa văn hình tròn gồm có bánh răng 14 răng và bản đồ nước Myanmar, bao quanh bởi vòng tròn bằng bông lúa vàng. Bánh răng tượng trưng cho công nghiệp, 14 răng tượng trưng cho 14 tỉnh và bang, bản Lớp 06CQD1
12
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
đồ biểu thị hình dạng biên giới Myanmar, bông lúa tượng trưng Myanmar là đất nước có nền nông nghiệp trồng lúa nucớ là chính. Hai bên hình tròn có hai con thánh sư màu vàng cảnh giác canh gác. Myanmar là một quốc gia tín ngưỡng Phật giáo, trong Phật giáo, thánh sư là biểu tượng của sự tốt lành, còn là hoá thân của thần bảo hộ, tượng trưng cho việc bảo vệ quốc gia, bảo vệ tổ quốc. Trên đỉnh chính giữa quốc huy có một ngôi sao màu vàng năm cánh, tượng trưng cho độc lập của đất nước. Phía dưới quốc huy là một dải trang trí màu vàng, trên đó có dòng chữ "Liên băng Myanmar" bằng tiếng Myanmar. Quốc huy này được chế định đồng thời với quốc kỳ năm 1974. Khi đó dòng chữ trên dải trang trí phía dưới quốc huy là "nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Myanmar". Ngày 23/9/1988, đổi tên thành "Liên bang Myanmar", tên nước trên quốc huy cũng thay đổi theo. 1.12. Indonesia Quốc kỳ: Do hai hình chữ nhật bằng nhau màu đỏ và trắng tạo thành. Màu đỏ tượng trưng cho dũng cảm và chính nghĩa, màu trắng tượng trưng cho tự do, công bằng và thuần khiết. Lá cờ hai màu đỏ trắng của Indonesia có lịch sử lâu đời, được gọi là thánh kỳ (cờ thánh). Khi vương triều phong kiến Madjapahit hùng mạnh nhất trong lịch sử được dựng lập tại Đông Java (1293-1478), đã bắt đầu sử dụng lá cờ hai màu đỏ trắng. Sau này, nhân dân Indonesia khi tiến hành chiến tranh chống thực dân Hà Lan đã lấy lá cờ đỏ trắng làm lá cờ chiến đấu. Ngày 17/8/1945, nước Cộng hoà Indonesia thành lập, lá cờ đỏ trắng chính thức thành quốc kỳ của Indonesia. Quốc huy: Chế định năm 1950, đồ án trung tâm của quốc huy là một con thần ưng vàng dang rộng hai cánh, hai chân doạng ra. Phần ức chim ưng có một tấm lá chắn. Thần ưng tượng trưng cho vinh quang và thắng lợi, tấm lá chắn tượng trưng cho sức mạnh tự vệ. Tấm lá chắn có hai màu đỏ trắng, giống với màu quốc kỳ. Trên mặt tấm lá chắn có 5 hình vẽ, tượng trưng 5 nền tảng xây dựng đất nước. Sao vàng tượng trưng cho thần đạo, trâu tượng trưng cho dân quyền, cây đa xanh lục tượng trưng cho chủ nghĩa dân tộc, vòng dây vàng tượng trưng cho chủ nghĩa nhân đạo, bông và lúa tượng trưng cho phúc lợi và cái ăn, cái mặc của nhân dân và chính nghĩa xã hội. Đường ngang màu đen giữa tấm lá chắn tượng trưng cho xích đạo, đi qua đất nước nghìn đảo này. Tám chiếc lông đuôi thần ưng biểu thị tháng 8, 17 chiếc lông ở mỗi bên cánh chim biểu thị ngày 17, nghĩa là ngày 17 tháng 8, ngày độc lập của Indonesia. Hai chân thần ưng
Lớp 06CQD1
13
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
quắp một dải trang trí, trên đó viết một câu cách ngôn bằng cổ văn Indonesia, nghĩa là khác đường cùng đích. 1.13. Trung Quốc * Quốc kỳ: Nền cờ là hình chữ nhật màu đỏ, tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng là 3:2. Góc trên bên trái nền cờ có 5 ngôi sao vàng 5 cánh, trong đó có một ngôi sao tương đối lớn với đường kính đường tròn ngoại tiếp bằng 3/10 chiều rộng lá cờ, nằm ở bên trái. Đường kính đường tròn ngọai tiếp của 4 ngôi sao nhỏ bằng 1/10 chiều rộng lá cờ, chúng được xếp vòng bên phải ngôi sao lớn. Góc nhọn của ngôi sao nhỏ quay đúng vào tâm của ngôi sao lớn. Màu đỏ nền cờ tượng trưng cho cách mạng. Sao vàng tỏa sáng trên nền đỏ, ngôi sao lớn biểu thị sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc; 4 ngôi sao nhỏ đại biểu cho 4 giai cấp xây dựng lên nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị và giai cấp tư sản dân tộc. Ngày 27 tháng 9 năm 1949, Hội nghị toàn quốc lần I Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc đã quyết định lấy lá cờ này làm quốc kỳ. * Quốc huy: Hình tròn. Phần trung tâm thành lầu Thiên An Môn màu vàng trên nền đỏ. Phía trên chính giữa thành lầu là một ngôi sao vàng năm cánh lớn, phía dưới ngôi sao lớn là 4 ngôi sao nhỏ xếp thành hình cánh cung. Xung quanh quốc huy là vòng tròn được kết bằng các bông lúa vàng. Ở giao điểm giữa hai bó lúa là một bánh răng tròn, giữa bánh răng là dải lụa đỏ được buộc thắt lại. Hình vẽ quốc huy tượng trưng cho cuộc đấu tranh cách mạng chủ nghĩa tân dân chủ của nhân dân Trung Quốc từ phong trào Ngũ Tứ tới nay và sự ra đời của nước Trung Quốc mới chuyên chính dân chủ nhân dân, mà nền tảng là liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hình vẽ quốc huy do Hội nghị lần II, Ủy ban toàn quốc nhiệm kỳ I, Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc đưa ra tháng 6 năm 1950. Tháng 9 cùng năm, được Hội nghị lần VIII chính phủ nhân dân Trung ương chính thức thông qua.
1.14. Mông Cổ * Quốc kỳ:
Lớp 06CQD1
14
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Từ trái qua phải do ba hình chữ nhật đặt đứng màu đỏ, lam và đỏ tạo thành. Trong hình chữ nhật đứng màu đỏ phía bên trái có các hình vẽ và phù hiệu lửa, Mặt trời, Mặt trăng, hình tam giác v.v.. đều là màu vàng. Màu đỏ và màu lam là những màu người dân Mông Cổ yêu thích. Màu đỏ tượng trưng cho niềm vui và thắng lợi, màu lam tượng trưng cho lòng trung thành với tổ quốc. Hình vẽ và phù hiệu màu vàng là biểu tượng của tự do và độc lập dân tộc, trong đó các hòn lửa, mặt trời, mặt trăng v.v... biểu thị nhân dân đời đời hưng thịnh sống mãi. Hình tam giác và hình chữ nhật biểu thị trí tuệ, sự thông minh, chính trực và lòng trung thành của nhân dân. Hình thái cực âm dương tượng trưng cho sự hài hòa. Hình chữ nhật đứng tượng trưng cho sự che chở bảo vệ nhân dân. Quốc kỳ này được chế định năm 1940, năm 1990, khi sửa đổi đã bỏ đi hình ngôi sao vàng năm cánh phía trên cùng góc bên trái lá cờ. * Quốc huy: Hình tròn. Nền quốc huy có màu lam, chính giữa quốc huy có hình vẽ một con tuấn mã đang phi, hình vẽ ở giữa con ngựa giống với hình vẽ trên quốc kỳ và cùng ngụ ý. Phía dưới tuấn mã là một bánh xe công lý. 1.15. Ấn Độ Quốc kỳ: Do ba hình chữ nhật bằng nhau màu cam, trắng và lục nằm ngang song song hợp thành. Chính giữa nền cờ màu trắng có một bánh xe Phật pháp màu lam với 24 chiếc nan hoa. Hình bánh xe này là một trong những đồ án đầu sư tử ở đầu trụ đá Thánh địa Phật giáo đời vua Asoka thuộc vương triều Khổng tước (vương triều Maurya Dynasty) Ấn Độ. Màu cam tượng trưng cho lòng dũng cảm, hiến thân và tinh thần hy sinh thân mình, đồng thời cũng là màu pháp y của giáo đồ Phật giáo; màu trắng tượng trưng cho thuần khiết và chân lý; màu lục biểu thị lòng tin, đại diện cho sức sinh sản mà sự sống nhân loại dựa vào để sinh tồn. Bánh xe Phật pháp là bánh xe linh thiêng của nhân dân Ấn Độ, bánh xe chân lý, bánh xe chuyển động tiến về phía trước, bánh xe quay mãi trời xanh. Đồ án quốc kỳ ra đời năm 1921, khi đó chính giữa nền cờ là một bánh xe quay sợi tượng trưng cho văn minh cần lao của nhân dân Ấn Độ. Ngày 22 tháng 7 năm 1947, quyết định đổi bánh xe quay sợi thánh bánh xe Phật pháp, chính thức được xem là quốc kỳ Ấn Độ. Ngày 26 tháng 1 năm 1950, Ấn Độ tuyên bố là nước cộng hòa và vẫn sử dụng quốc kỳ này. * Quốc huy:
Lớp 06CQD1
15
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Đồ án trung tâm do bốn con sư tử đực đứng châu lưng lại với nhau hợp thành, chúng đứng vững chắc trên một bệ đài hình tròn, mặt hướng ra bốn phía. Sư tử tượng trưng cho lòng tin, uy nghiêm, dũng khí và sức mạnh. Chung quanh bệ đài có bốn con thù canh giữ: hướng tây là con bò, hướng bắc là sư tử, hướng đông là voi, hướng nam là ngựa. Giữa bốn con thú có bánh xe Phật pháp. Quốc huy của Ấn Độ được chế định theo hình tượng điêu khắc đầu sư tử trên đầu trụ đá ở vườn thánh địa Phật giáo đời vua Asoka (khoảng 324 - 187 trước CN), vương triều Maurya Dynasty nổi tiếng trong lịch sử Ấn Độ. Những cột đá khắc những tín điều thống trị này dùng để kỉ niệm Phật tổ Thích ca Mâu Ni lần đầu tiên truyền giáo lý đạo Phật khắp thiên hạ. Đồ án quốc huy Ấn Độ đã phản ánh Ấn Độ là một nước có nền văn minh cổ xưa và lịch sử lâu đời. 1.16. Triều Tiên *
Quốc kỳ:
Hình chữ nhật, tỉ lệ giữa chiều dài và chiều rộng là 2 : 1. Giữa nền cờ là một mặt rộng màu đỏ, trên dưới là hai dải hẹp màu lam, giữa hai màu lam và màu đỏ được cách bởi một viền trắng nhỏ, lệch về phía bên cán cờ, trên nền đỏ, có một nền tròn màu trắng, giữa nền tròn là một ngôi sao đỏ năm cánh. Sao đỏ năm cánh tượng trưng cho chính quyền nước Cộng hòa kế thừa toàn diện truyền thống cách mạng rực rỡ của cuộc đấu tranh cách mạng kháng Nhật, tượng trưng cho nhân dân Triều Tiên đi theo tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Kim Nhật Thành (Kim II Sung), phấn đấu tiến lên vì sự thống nhất độc lập của Tổ quốc và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Mặt rộng màu đỏ tượng trưng cho cuộc đấu tranh đẫm máu và tinh thần yêu nước cao cả của các chiến sĩ trong công cuộc giải phóng Tổ quốc và vì tự do của nhân dân, nó còn tượng trưng cho cuộc đấu tranh ngoan cường của nhân dân Triều Tiên vì thống nhất độc lập của Tổ quốc và thắng lợi của Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản. Nền tròn màu trắng và hai đường trắng nhỏ tượng trưng Triều Tiên là một dân tộc đơn nhất. Màu lam tượng trưng cho chí hướng nhiệt thành của nhân dân Triều Tiên đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân toàn thế giới phấn đấu đến cùng cho nền hòa bình lâu dài của nhân loại. Quốc kỳ được chế định năm 1948. * Quốc huy: Hình bầu dục, ở trung tâm có một con đập lớn và một trạm phát điện, thác nước và cột điện cao áp. Phía trên hình trung tâm có một ngôi sao đỏ năm cánh chiếu sáng. Xung quanh hình trung tâm được bao bọc bởi các bông lúa buộc bằng một dải lụa đỏ, trên dải lụa đỏ có dòng chữ vàng bằng tiếng Triều Tiên "Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên". Ngôi sao Lớp 06CQD1
16
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
5 cánh trên quốc huy tượng trưng cho chính quyền nước Cộng hòa kế thừa toàn diện truyền thống cách mạng rực rỡ, đồng thời tượng trưng cho tinh thần một lòng trung thành đi theo tư tưởng cách mạng vĩ đại của chủ tịch Kim Nhật Thành, dũng mãnh tiến lên độc lập thống nhất của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Trạm thủy điện tượng trưng cho nền công nghiệp hiện đại lấy công nghiệp nặng và giai cấp lãnh đạo cách mạng - giai cấp công nhân làm nền tảng. Bông lúa tượng trưng cho nông nghiệp và nông dân, đồng minh của giai cấp công nhân. Dải lụa màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh vĩnh hằng bất khuất của nhân dân đoàn kết xung quanh lãnh tụ, đi theo tư tưởng và ý chí cách mạng vĩ đại của chủ tịch Kim Nhật Thành. Quốc huy được chế định năm 1948. 1.17. Thổ Nhĩ Kỳ Hình chữ nhật màu đỏ. Trên nền cờ phía bên cán cờ có một vành trăng non lưỡi liềm màu trắng và một ngôi sao năm cánh màu trắng nằm hơi nghiêng. Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia Hồi giáo, trăng non lưỡi liềm màu trắng và sao năm cánh màu trắng vừa là biểu tượng tín ngưỡng tôn giáo của nước này, vừa tượng trưng cho sự tốt lành và hạnh phúc. Năm 336 trước CN, quân đội của Maccedonia nhiều lần bao vây đánh Byzantine (sau gọi là Constantinople, nay có tên là Istanbul) nhưng đều bị đẩy lùi. Một đêm nọ, quân đội Maccedonia lại tập trung binh lực đột kích, lúc này trên bầu trời có một vầng trăng non lưỡi liềm, ánh trăng sáng đã làm lộ ra sự bố trí của quân Maccedonia nên nhân dân trong thành lại một lần nữa đẩy lùi cuộc đột kích, bảo vệ được thành. Sau đó nhân dân Byzantine lấy trăng non lưỡi liềm làm phù hiệu của thành này. Năm 1453, sau khi Mehemmed II công hãm thành Constantinople do đế quốc La Mã chiếm lĩnh, biểu tượng trăng lưỡi liềm càng huy hoàng rực rỡ. Theo truyền thuyết, ông đã mơ thấy một vầng trăng lưỡi liềm đi xuyên qua bầu trời từ Đông sang Tây, ông cho rằng đây là điềm báo đế quốc vĩ đại sẽ xuất hiện, liền dùng trăng lưỡi liềm và ngôi sao làm biểu tượng cho đế quốc Ottoman, đồng thời vẽ trăng lưỡi liềm và sao năm cánh lên lá cờ đỏ, chế định làm quốc kỳ. Quốc kỳ hiện hành của Thổ Nhĩ Kỳ được thông qua năm 1936. 1.18.Tây Ban Nha Quốc kỳ: Hình chữ nhật .Do 3 hình chữ nhật ănmf ngang sông sông màu đỏ , vàng và đỏ hợp thành .Hai dải sọc màu đỏ trên và dưới mỗi dải chiếm 1/4 nền cờ , dải sọc vàng ở giữa chiếm 1/2 nền cờ , bên phía cán cờ có hình quốc huy .Hai màu vàng và đỏ là màu truyền thống được người TBN yêu thích và đại diện cho 4 vương quốc cổ xưa của TBN. Lớp 06CQD1
17
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Quốc huy:
Trung tâm là hình tấm lá chắn.Trên mặt tấm lá chắn có 6 nhóm hình vẽ .Góc trên bên trái là nền đỏ , trên đó có toà lâu đài thành luỹ màu vàng , góc trên bên phải là con sư tử đầu đội vương miện , hai chân trước giơ lên , hình vẽ này là biểu tượng của đất nước TBN cổ xưa , lần lượt tượng trưng cho Castila và Leon .Góc dưới bên trái nền vàng sọc đỏ , goc dưới bên phải là lưới xích màu vàng lần lượt tương trưng cho Aragon (nằm ở phía Đông Bắn TBN) và Navarra (nằm ở phía Bắc TBN)Phía dưới tấm lá chắn là thạch lựu mà đỏ , tượng trưng cho Granada(nằm ở phía Nam TBN).Trong hình bầu dục nền lam viền đỏ ở giữa tấm lá chắn có 3 đoá hoa Bách hợp .Phía trên tấm lá chắn là 1 chiếc vương miện lớn .Hai bên tấm lá chắn là 2 chiếc trụ Hercules , trụ được quấn bằng dải trang trí màu đỏ , phái trên trụ bên trái là 1 chiếc vương miện , phái phải là 1 chiếc mũ đế quốc , dong chữ trên dải trang trí có nghĩa là "Ngaòi biển còn có đất liền". Quốc huy này được sử dụng kể từ năm 1981. 1.19.Áo Quốc kỳ.
(Loại cờ thường, dùng trong những dịp thường)
(Các cơ quan của Áo ở nước ngoài, Tổng thống, Bộ trưởng và các thành viên của Chính phủ đều dùng quốc kỳ này) Do ba hình chữ nhật bằng nhau màu đỏ, trắng, đỏ nằm song song hợp thành. Giữa quốc kỳ có hình quốc huy của nước Áo. Năm 1230, lá cờ Áo đã có ba màu đỏ,trắng,đỏ. Theo lịch sử, công tước Babenberg của đế quốc Áo Hung khi quyết chiến với vua Anh Richard I, bộ quân phục màu trắng của Công tước gần như nhuộm đầy máu, chỉ có chỗ đeo kiếm là giữ được một đường trắng. Từ đó quân đội của Công tước đã dùng lá cờ màu đỏ, trắng, đỏ làm cờ chiến. Năm 1786, quốc vương Joseph II đã hạ lệnh lấy lá cờ ba màu đỏ, trắng, đỏ làm cờ chiến cho toàn quân. Năm 1919, chọn lá cờ này làm quốc kỳ. Các cơ quan của Áo ở nước ngoài, Tổng thống, Bộ trưởng và các thành viên của Chính phủ đều dùng quốc kỳ Lớp 06CQD1
18
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
có thêm quốc huy, trong trường hợp bình thường thì dùng quốc kỳ không có thêm quốc huy. Quốc huy. Hình chim ưng. Trước ngực chim ưng treo một tấm lá chắn, mặt lá chắn là ba hình chữ nhật nằm ngang màu đỏ, trắng, đỏ hợp thành hình quốc kỳ Áo. Biểu tượng chim ưng có thể lần về khoảng năm 1100. Hình tượng, tư thế, trang sức của chim ưng có khác nhau theo sự thay đổi của thời đại. Sau thế chiến I, đế quốc Áo Hung tan rã, 11/1918, tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Áo, chiếc vương miện trên quốc huy cũ tượng trưng cho vương quyền được thay thế bằng chiếc mũ tròn dẹt (bêrê) vàng tượng trưng cho thị dân (cổ La Mã dùng mũ bêrê vàng để thưởng cho những dũng sĩ trèo lên được thành luỹ quân địch trước tiên), chiếc bảo kiếm vốn tượng trưng cho vương quyền nay được thay thế bằng cái liềm và cái búa tượng trưng cho công-nông. Năm 1945, đảng Nhân dân, đảng Xã hội và đảng Cộng sản Áo hợp lại thành chính phủ liên hiệp, cùng năm đó quốc huy sử dụng đồ án mới, trong đó xiềng xích của chim ưng bị đứt tung, tượng trưng cho tự do và giải phóng nhân dân và được sử dụng cho đến ngày nay. 1.20. TAJIKISTAN Quốc kỳ: Do ba hình chữ nhật màu đỏ, trắng, lục hợp thành. Chiều rộng hình chữ nhật màu trắng chiếm 50% nền cờ, đỏ và lục mỗi màu chiếm 25%. Chính giữa nền cờ màu trắng có một chiếc vương miện, phía trên vương miện có 7 ngôi sao vàng năm cánh tạo thành nửa hình tròn. Tỷ lệ chiều dài và chiều rộng lá cờ là 2:1. Năm 1868, miền bắc Tajikistan nhập vào nước Nga. Năm 1918, xây dựng chính quyền Xô Viết. Năm 1924, trở thành nước cộng hòa tự trị thuộc nước cộng hòa Uzebek. Năm 1929, gia nhập Liên Xô, đổi tên thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết Tajiks. Tháng 8 năm 1991, đổi tên thành nước cộng hòa Tajikistan. Ngày 9 tháng 9 cùng năm, tuyên bố độc lập, khi độc lập đã sử dụng quốc kỳ này. * Quốc huy: Hình tròn. Hình trung tâm là một chiếc vương miện và 7 ngôi sao năm cánh cùng với mặt trời và đỉnh núi. Hai bên quốc huy được trang trí bằng hoa bông và bông lúa mạch. Phần dưới quốc huy là một cuốn sách đang mở. 1.21. OMAN
Lớp 06CQD1
19
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
* Quốc kỳ: Do ba màu đỏ, trắng và lục hợp thành. Phần màu đỏ tạo thành hình chữ T nằm ngang trên mặt lá cờ. Bên phải phía trên là màu trắng, phía dưới màu lục, ở giữa bị ngăn cách bởi dải rộng màu đỏ. Phía trên bên gần cán cờ có hình quốc huy của Oman. Màu đỏ là màu truyền thống mà nhân dân Oman yêu thích, tượng trưng cho sự tốt lành; màu trắng tượng trưng cho hòa bình và thuần khiết; màu lục tượng trưng cho đất đai Tổ quốc . Năm 1967, thành lập nước Sultan Muscat và Oman. Ngày 9 tháng 8 năm 1970, đổi tên thành nước Sultan Oman, đồng thời chế định lá quốc kỳ này. * Quốc huy: Đồ án quốc huy gồm có một dao găm Ả Rập, hai dao cong và một đai đeo. Hai dao cong có bao dao, trên bao dao có hoa văn trang trí. Con dao găm giống như đoản kiếm hình cung, bao dao nạm hoa văn vàng bạc, chạm khắc các hình vẽ rất tinh xảo. Dao găm là vật mang đeo mà đàn ông Oman ưa thích, tượng trưng cho vẻ đẹp và sức mạnh. Toàn bộ quốc huy thể hiện quyết tâm không ngại dùng vũ lực để bảo vệ chủ quyền và độc lập quốc gia của nhân dân Oman 1.22.SYRIA * Quốc kỳ: Do ba hình chữ nhật nằm ngang song song màu đỏ, trắng và đen hợp thành, giữa dải màu trắng có hai ngôi sao năm cánh màu lục. Bốn màu đỏ, trắng, đen và lục là màu sắc của Pan-Arabia. Màu đỏ trên quốc kỳ tượng trưng cho lòng dũng cảm, màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và khoan hồng, độ lượng, màu đen tượng trưng cho thắng lợi mà Mohammed đã giành được, màu lục là màu tốt lành mà con cháu của Mohammed yêu thích, sao năm cánh tượng trưng cho cách mạng Ả Rập tất thắng. Năm 1958, khi Syria và Ai Cập hợp lại thành lập "Nước cộng hòa liên hợp Ả Rập", đã chế định lá cờ ba màu đỏ, trắng và đen; chính giữa nền cờ có 2 ngôi sao năm cánh màu lục. Sau đó, hình vẽ trên lá cờ ba màu nhiều lần thay đổi. Cho đến nay năm 1981, chính phủ Syria ra quyết định khôi phục lá cờ ba màu đỏ, trắng và đen, có hai ngôi sao năm cánh màu lục làm quốc kỳ. Quốc huy: Lớp 06CQD1
20
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Ở trung tâm là một con chim ưng trống, trên ức chim ưng có hình tấm khiên, hình trên mặt khiên giống như hình trên quốc kỳ. Hình tấm khiên chim ưng vốn là phù hiệu của bộ lạc Mohammed. Hàm nghĩa của hình trên tấm khiên giống với của quốc kỳ. Dưới đáy quốc huy có hai bông tiểu mạch chéo nhau, tượng trưng cho nông sản chủ yếu của nước này. Trên dải trang trí màu trắng có dòng chữ "Nước cộng hòa Ả Rập Syria" bằng tiếng Ả Rập. Quốc huy này được chế định năm 1964 1.23.Lebanon (Libăng) Quốc kỳ. Phía trên và dưới của lá cờ là hình chữ nhật nằm ngang song song màu đỏ, mỗi hình chiếm 1/4 nền cờ, giữa là hình chữ nhật màu trắng, chiếm một nửa nền cờ. Giữa phần màu trắng có một cây thông tuyết Lebanon màu lục từng được nhắc đến trong "Kinh Thánh", thân cây màu cà phê, cành cây màu lục sẫm. Màu đỏ trên lá cờ tượng trưng cho tinh thần hy sinh xả thân, màu trắng tượng trưng cho hoà bình, cây thông tuyết tượng trưng cho sức mạnh quật cường, biểu thị sự thuần khiết, trường tồn. Sau thế chiến I, Lebanon là đất uỷ nhiệm cai trị của nước Pháp, lấy ba màu đỏ trắng và lam của Pháp làm màu quốc kỳ và thêm vào giữa lá cờ hình vẽ cây thông tuyết. Năm 1943, sau khi độc lập, bản Hiến pháp sửa đổi quy định đổi màu lam trên quốc kỳ cũ thành màu đỏ, đồng thời cây thông tuyết ở chính giữa, chiếm 1/3 chiều dài hình chữ nhật màu trắng, chiều cao của cây thông tuyết phải chạm tới cạnh của hình chữ nhật màu đỏ. Quốc huy. Hình tấm khiên, chia chéo thành 3 phần: đỏ, trắng, đỏ. Chính giữa dải màu trắng có một cây thông tuyết, hàm nghĩa về màu sắc giống như quốc kỳ. Phần dưới quốc huy còn có một dải trang trí, trên đó viết dòng chữ "nước Cộng hoà Lebanon" bằng tiếng Ả Rập và tiếng Pháp. Quốc huy được chế định và năm 1943 khi đất nước này giành độc lập. 1.24.Đảo SIP – CYPRUS * Quốc kỳ: Hình chữ nhật. Chính giữa nền cờ trắng có bản đồ Cyprus màu vàng, phía dưới bản đồ là hai cành ôliu màu lục bắt chéo nhau. Cyprus trong tiếng La Tinh có nghĩa là "đồng", màu vàng trên lá cờ tượng trưng Cyprus là một Lớp 06CQD1
21
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
nước sản xuất đồng. Cành ôlui màu lục tượng trưng cho hòa bình và phồn vinh, đồng thời cũng biểu thị hướng về hòa bình của dân tộc Hy Lạp và dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ của quốc gia này và sự đoàn kết hợp tác của hai dân tộc. Ngày 16 tháng 8 năm 1960, Cyprus giành được độc lập từ sự thống trị của thực dân Anh và đã chế định lá quốc kỳ này. * Quốc huy: Đồ án trung tâm là một tấm lá chắn màu vàng. Trên mặt tấm lá chắn có một con chim bồ câu trắng mỏ ngậm cành ôliu và có con số 1960. Xung quanh tấm lá chắn được trang trí bởi vòng hoa kết bằng cành ôliu. Cyprus chủ yếu gồm người Hy Lạp theo chính thống giáo và người Thổ Nhĩ Kỳ theo đạo Hồi. Hình vẽ quốc huy đã biểu đạt tâm nguyện chung của hai dân tộc là chung sống hòa bình, cũng biểu trưng cho cây ôliu xanh tươi có thể thấy ở mọi nơi trên đảo quốc này. Số 1960 trên quốc huy là năm đất nước này độc lập. 1.25.SOLVENIA Quốc kỳ Hình chữ nhật, do ba hình chữ nhật nằm ngang bằng nhau màu trắng, lam và đỏ hợp thành. Phía trên bên trái có hình quốc huy. Năm 1992, chính thức sử dụng lá cờ ba màu này làm quốc kỳ. Quốc huy: Hình tấm lá chắn. Nền quốc huy có màu lam, phía dưới tấm lá chăn có gơn sóng trắng-lam xen kẽ nhau, nền là ba ngọn núi. Phần trên của quốc huy có ba ngôi sao vàng sáu cánh. 1.26.SRI LANCA Quốc kỳ: Là một lá cờ sư tử cổ xưa, được thiết kế trên cơ sở vốn của Hoàng gia. Phía trên cán cờ lần lượt là hai hình chữ nhật màu lục và màu cam đặt đứng. Bên phải nền cờ là màu cà phê, ở giữa là một con sư tử màu vàng cầm chặt chiến đao. Mỗi góc của hình chữ nhật màu cà phê là một lá cây bồ đề. Xung quanh quốc kỳ và giữa hai hình chữ nhật màu lục, màu cam và hình chữ nhật màu cà phê đều có dải viền và dải phân cách. Màu cà phê tượng trưng cho dân tộc Sinhalese chiếm 72% dân số Sri Lanka; hai màu cam và lục tượng trưng cho các dân tộc thiểu số là Tamil, Morbaige và Malai. Bốn lá bồ đề tượng trưng cho niềm tin đối Lớp 06CQD1
22
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
với Phật giáo. Sri Lanka vốn tên là Tích Lan (Ceylon), sách cổ gọi là nước sư tử, hình vẽ bắt nguồn từ tên gọi lịch sử của đảo quốc này, sư tử tượng trưng cho tính kiên cường, dũng cảm. * Quốc huy: Hình tròn. Ở trung tâm là một con sư tử màu vàng có chân trước cầm chặt chiến đao. Ngụ ý giống như của quốc kỳ. Xung quanh hình trung tâm là 16 cánh hoa sen, cánh hoa sen tượng trưng cho sự linh thiêng, thuần khiết và tốt lành. Vành ngoài vòng hoa sen có hai vòng tròn do hai bông lúa nước tạo thành, lúa nước tượng trưng cho sự được mùa. Phía dưới vòng lúa nước là một chậu hoa. Ở Sri Lanka, nam nữ hành hương thường mang hoa vào chùa thắp hương lên Phật để tỏ lòng thành kính. Hai bên chậu hoa là hình mặt trời và mặt trăng. Hình trên quốc huy là một bánh xe Phật pháp tượng trưng cho tín ngưỡng tôn giáo, bánh xe Phật pháp chuyển động vĩnh hằng, thể hiện đất nước này chuyển động không ngừng và trường tồn cùng thế giới. 1.27.QATAR * Quốc kỳ: Hình chữ nhật. Do màu cà phê và màu trắng hợp thành, phía bên cán cờ là màu trắng, chỗ tiếp giáp giữa hai màu có dạng răng cưa. Quốc kỳ của Qatar vốn là màu đỏ, năm 1860, thêm dải màu trắng có răng cưa. Năm 1949, đổi lại phần màu đỏ trên nền cờ thành màu cà phê để phân biệt với quốc kỳ của Bahrain. Vào thế kỷ VII, Qatar là một bộ phận của đế quốc Ả Rập, sau trở thành đất bảo hộ của Anh. Ngày 1 tháng 9 năm 1971, tuyên bố độc lập và chế định lá quốc kỳ này. * Quốc huy: Do hai hình tròn đồng tâm tạo thành. Trên hình tròn màu vàng có hai thanh kiếm cong Ả Rập, tượng trưng cho sức mạnh bảo vệ độc lập của đất nước. Bên trong hai thanh kiếm cong có sóng nước màu lam và màu trắng xen nhau, trên mặt biển có một chiếc thuyền buồm Ả Rập màu trắng thừa gió lướt sóng tiến lên, tượng trưng cho việc mậu dịch trên biển và sản xuất ngư nghiệp của Qatar. Bờ biển bên kia có vẽ hai cây dừa Ả Rập cao to tượng trưng cho nguồn tài nguyên phong phú của Qatar. Hình tròn đồng tâm khoác bên ngoài có màu sắc giống với màu quốc kỳ, trên là màu trắng, dưới màu cà phê, trên đó viết dòng chữ "nước Qatar" bằng tiếng Ả Rập. Lớp 06CQD1
23
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
1.28.TURKMENISTAN Quốc kỳ: Hình chữ nhật màu lục sẫm. Phía bên cán cờ có một dải sọc đỏ, trên dải sọc từ trên xuống dưới là đồ án thiết kế của 5 loại thảm trên nền. Ở góc bên phải dải sọc đỏ có vẻ một vành trăng non lưỡi liềm và 5 ngôi sao năm cánh màu trắng. Trăng non lưỡi liềm vừa tượng trưng cho tiền đồ xán lạn của nhân dân Turkmenistan, vừa biểu thị niềm tin đối với đạo Hồi. Năm ngôi sao năm cánh biểu thị chức năng của năm khí quan của con người: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác. Đồ án thảm trải trên nền tượng trưng cho chính trị, xã hội và quan niệm văn hóa cũng như tín ngưỡng tôn giáo truyền thống của nhân dân Turkmenistan, đồng thời biểu thị nghề dệt thảm là nghề thủ công truyền thống của quốc gia. Màu lục là màu truyền thống mà nhân dân Turkmenistan yêu thích, tượng trưng cho hạnh phúc. Quốc kỳ này được sử dụng sau khi Turkmenistan thông qua luật độc lập nước cộng hòa tháng 10 năm 1991. * Quốc huy: Hình tròn, do ba vòng tròn đồng tâm hợp thành.Nền tròn ngoài cùng màu đỏ tím, phía dưới có 7 quả bông cả lá xanh, hai bên có bông lúa mạch màu vàng, chính giữa phía trên có một vành trăng non lưỡi liềm và 5 ngôi sao năm cánh màu trắng. Nền tròn giữa màu vàng, trên đó có 5 loại đồ án thảm trải nền. Nền tròn trong cùng màu lam, trong đó có một con ngựa màu trắng chạy nhanh, uy vũ dũng mãnh, chịu được khô hạn, khi được thuần phục thì rất nghe lời chủ. Nó là biểu tượng của người Turkmenistan. Toàn bộ đồ án quốc huy tượng trưng Turkmenistan là một nước lấy nông nghiệp làm gốc, có tiền đồ rất xán lạn và tốt đẹp. Quốc huy được chế định năm 1991. 1.29.SAUDI ARABIA Quốc kỳ: Cờ màu lục, hình chữ nhật. Màu lục là màu tốt lành mà các quốc gia Hồi giáo yêu thích, tượng trưng cho hòa bình. Trên mặt lá cờ có một câu danh ngôn Hồi giáo bằng tiếng Ả Rập màu trắng. "Vạn vật không Chúa, chỉ một chân chúa, Mohammed chính là sứ giả của chân Chúa". Phía dưới câu danh ngôn này còn một cây bảo đao Ả Rập, tượng trưng cho thánh thiện và tự vệ. Saudi Arabia là đất gốc của đạo Hồi, màu sắc và hình Lớp 06CQD1
24
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
trên quốc kỳ thể hiện rõ tín ngưỡng tôn giáo của đất nước này. Quốc kỳ được chế định năm 1946, khi đó trên mặt ngưỡng tôn giáo của đất nước này. Quốc kỳ được chế định năm 1946, khi đó trên mặt lá cờ hình hai cây bảo đao bắt chéo nhau, năm 1981 đổi thành một cây bảo đao. * Quốc huy: Do hai cây bảo đao màu lục bắt chéo nhau và một cây dừa màu lục hợp thành. Bảo đao tượng trưng cho thánh chiến và vũ lực, tượng trưng cho ý chí bảo vệ niềm tin của mình đối với đạo Hồi. Cây dừa tượng trưng cho nông nghiệp của Saudi Arabia, và cũng tượng trưng cho ốc đảo trong sa mạc. Dừa là một loại thức ăn của người dân nước này, nó có một vai trò rất quan trọng. Quốc huy này được chế định trong thập kỷ 50 của thế kỷ XX. 1.30.PALESTINE Quốc kỳ: Hình chữ nhật. Phía bên cán cờ là hình tam giác màu đỏ, bên phải là ba sọc ngang màu đen, trắng, lục. Màu đỏ trên lá cờ tượng trưng cho cách mạng, màu đen tượng trưng cho sự dũng cảm và ngoan cường đấu tranh của nhân dân, màu trắng tượng trưng cho tính thuần khiết của cách mạng, màu lục tượng trưng cho niềm tin của nhân dân đối với đạo hồi. Lá quốc kỳ này vốn là lá cờ của Tổ chức giải phóng Palestine. Tháng 11 năm 1988, Hội ngị đặc biệt lần thứ 19 Ủy ban toàn quốc Palestine đã ra quyết định chọn lá cờ này làm quốc kỳ của Palestine. * Quốc huy: Vẫn chưa chính thức chế định, nhưng hiện nay các sứ quán của Palestine tại nước ngoài đều sử dụng biểu tượng của Tổ chức giải phóng Palestine. Biểu tượng này là một tấm khiên, trên mặt khiên có bản đồ nước Palestine, phía trên bản đồ là một lá quốc kỳ của Palestine, phía trên lá quốc kỳ là một ngọn đuốc. Đầu trên mặt khiên có dòng chữ bằng tiếng Ả Rập "Tổ chức giải phóng Palestine", giữa mặt khiên có dòng chữ "Thống nhất, ái quốc, tổng động viên dân tộc, giải phóng". 1.31.MALDIVES * Quốc kỳ: Do ba màu đỏ, lục và trắng hợp thành. Nền cờ là hình chữ nhật màu lục, bốn phía có viền đỏ, chiều rộng của viền đỏ bằng 1/4 chiều rộng của toàn lá cờ, chiều rộng Lớp 06CQD1
25
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
của hình chữ nhật màu lục bằng nửa chiều rộng toàn lá cờ. Chính giữa hình chữ nhật màu lục có một vành trăng non lưỡi liềm. Màu đỏ tượng trưng cho máu của các anh hùng dân tộc đã hiến thân cho chủ quyền và độc lập của đất nước, màu lục tượng trưng cho sự sống, tiến bộ và phồn vinh, màu trắng tượng trưng cho hòa bình, an ninh và niềm tin của nhân dân đạo Hồi. Maldives có nghĩa là "Đảo cung điện". Năm 1116, thành lập nước Sultan lấy đạo Hồi làm quốc giáo, quốc kỳ là một lá cờ đỏ. Năm 1990, quyết định thêm hình chữ nhật màu lục lên lá cờ, đồng thời thêm hình vành trăng non lưỡi liềm màu trắng lên nền màu lục. Ngày 11 tháng 11 năm 1968, nước cộng hòa Maldives thành lập, quyết định tiếp tục sử dụng quốc kỳ này. * Quốc huy: Do một vành trăng non lưỡi liềm, một ngôi sao năm cánh, hai lá quốc kỳ và một cây dừa biển hợp thành. Trăng non lưỡi liềm màu trắng biểu thị cho hòa bình, an ninh và niềm tin vào đạo Hồi. Đồng thời, trăng non lưỡi liềm và ngôi sao năm cánh còn biểu thị Maldives là quốc gia lấy đạo Hồi làm quốc giáo. Quốc kỳ tượng trưng cho sự tôn nghiêm của đất nước, cây dừa biển tượng trưng cho vai trò quan trọng của nó trong đời sống của nhân dân Maldives, người dân nước này coi nó là cây của sự sống. Đáy quốc huy là một dải trang trí màu trắng, trên đó viết dòng chữ bằng tiếng Ả Rập "Nước Cộng hòa Maldives". 1.32.Canada Quốc kỳ Canada, hay còn gọi là Cờ Lá Phong, Maple Leaf (tiếng Anh), l'Unifolié (tiếng Pháp), là lá cờ màu đỏ tươi có hình vuông màu trắng ở giữa. Chính giữa là hình lá phong cách điệu 11 điểm màu đỏ. Nó được thông qua và dùng từ năm 1965 cho tới nay để chính thức thay cờ Liên hiệp của Anh Quốc được dùng trước đó. Vào năm 1964, Thủ tướng Lester B. Pearson chỉ định một ủy ban để bàn việc thiết kế một lá cờ đặc trưng riêng cho Canada. Việc này châm ngòi cho một loạt tranh cãi về việc thay đổi quốc kỳ, nhưng cuối cùng thiết kế của George F. G. Stanley cũng được chọn và nó xuất hiện lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 2 năm 1965; đây cũng còn gọi là Ngày Quốc kỳ Canada được tổ chức hàng năm. Có nhiều lá cờ khác được tạo ra để cho các cơ quan chính phủ và lực lượng quân sự dùng. Hầu hết các lá cờ đó có hình lá phong. Cờ Liên hiệp Hoàng gia cũng còn được dùng chính thức ở Canada nhưng với tư cách như là biểu tượng Lớp 06CQD1
26
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
thành viên của Khối Thịnh vượng chung Anh. Ngoài ra, cờ các tỉnh bang Ontario và Manitoba cũng chứa biểu tượng cờ Liên hiệp trong đó. 1.33.Pháp Cờ tam sắc của Pháp gồm ba màu xanh, trắng, đỏ, xếp ngang nhau theo thứ tự kể trên đây. Sự hình thành của lá cờ này là kết quả của một sự thương lượng giữa hoàng gia Pháp và nhân dân thị xã Paris. Lá cờ tiêu biểu cho hoàng gia Pháp từ nhiều đời vốn nền trắng trên có thêu một hoa huệ màu vàng. Thời quân chủ Pháp, Paris là một thị xã được hưởng quyền tự trị và có lá cờ riêng gồm hai màu xanh và đỏ xếp ngang nhau. Khi người dân Paris nổi lên làm cách mạng đòi chính quyền cải tổ chế độ, họ vẫn còn chấp nhận nền quân chủ. Nhà vua Pháp lúc đó là Louis XVI một mặt vì nhu nhược, một mặt vì thiếu phương tiện nên không dùng vũ lực đối phó một cách quyết liệt với phong trào cách mạng và chịu chấp nhận các yêu sách của nhân dân Paris. Do đó, hai bên đã đồng ý lấy cờ của hoàng gia và cờ của thị xã Paris trộn lại làm huy hiệu cho nước Pháp. Nhà vua là quốc trưởng nắm quyền Hành Pháp nên màu trắng của cờ hoàng gia được đặt ở giữa, hai màu xanh đỏ của cờ thị xã. Paris được ghép hai bên thành một huy hiệu tam sắc. Huy hiệu này lần lần được phổ biến khắp nơi trong nước, và đến năm 1793, Quốc Ước Hội Nghị đã chánh thức biểu quyết lấy cờ tam sắc làm quốc kỳ cho nước Pháp. Phải nói rằng về mặt thẩm mỹ, cờ tam sắc này rất đẹp. Mặt khác, Cách Mạng Pháp thời đó lấy làm tiêu ngữ ba khẩu hiệu Liberté - Égalité - Fraternité là Tự Do Bình Ðẳng - Bác Ái. Ba màu của quốc kỳ Pháp được xem là tiêu biểu cho ba tiêu ngữ trên đây: màu xanh tiêu biểu cho Tự Do, màu trắng tiêu biểu cho Bình Ðẳng và màu đỏ tiêu biểu cho Bác Ái. Cờ tam sắc của Pháp đã đẹp mà còn được giải thích một cách đầy đủ ý nghĩa tượng trưng rất phù hợp với lý tưởng chung của nhân loại nên quốc dân Pháp đã nhiệt liệt hoan nghênh nó và chấp nhận nó làm biểu tượng cho mình. Về sau, nhiều nước Tây Phương khác chịu ảnh hưởng của Cách Mạng Pháp đã chọn ba màu xanh, trắng, đỏ, làm quốc kỳ với những giải thích hơi khác nhau, nhưng vẫn dùng ba màu này làm tiêu biểu cho các lý tưởng tự do, bình đẳng và bác ái là nền tảng chung của các xã hội dân chủ tự do. Lớp 06CQD1
27
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
1.34.Ý Quốc kỳ Italy gồm có ba dải màu nằm dọc gồm xanh lá cây, trắng và đỏ. Trong đó màu xanh lá cây được quy định là màu nằm cạnh cột cờ khi treo. Phiên bản được sử dụng đầu tiên của quốc kỳ Italy là cờ của nước Cộng hòa Cispadane vào năm 1797, khi những đoàn quân của Napileon I tiến qua Italy. Nhiều nước cộng hòa nhỏ đã được thành lập tại Ý dựa trên mô hình Jacobin và sử dụng lá cờ ba màu tương tự như cờ Cách mạng Pháp nhưng mang màu sắc khác biệt đôi chút. Nước Cộng hòa Cispadane đã chọn lá cờ 3 màu với những dải màu nằm ngang lần lượt từ trên xuống là đỏ, trắng và xanh lá cây. Màu đỏ và màu trắng được lấy từ lá cờ Milan, còn màu xanh lá cây là màu quân phục của quân đoàn Lombardy. Từ đó cho đến khi thống nhất đất nước năm 1848, nhiều tiểu vương quốc ở Italy đã sử dụng lá cờ 3 màu xanh lá cây - trắng - đỏ này. Về sau khi lá cờ ba màu được sử dụng làm quốc kỳ Italy, các màu sắc của nó đã được mang nhiều ý nghía mới. Có người cho rằng, màu xanh lá cây tượng trưng cho đồng bằng xanh tươi, màu trắng cho những ngọn núi tuyết phủ và màu đỏ cho máu của những chiến sĩ ngã xuống vì nền độc lập của tổ quốc. Nhưng một số khác lại dựa trên những phẩm hạnh tôn giáo: màu xanh lá cây tượng trưng cho hy vọng, màu trắng cho niềm tin còn màu đỏ thể hiện lòng nhân ái. 1.35.Cộng hòa SÉC Quốc kỳ Cộng hòa Séc cũng là quốc kỳ của Tiệp Khắc cũ trước kia. Sau sự giải thể của Tiệp Khắc, lá cờ Tiệp Khắc vẫn được giữa làm lá cờ của Cộng hòa Séc trong khi Slovakia chuyển sang sử dụng một lá cờ mới. Lá cờ của Cộng hòa Séc có tỉ lệ 2:3. Màu trắng và màu đỏ trên lá cờ là hai màu sắc của lá cờ Bohemia, vùng ở miền tây Cộng hòa Séc ngày nay. Lúc đầu lá cờ gồm hai dải màu nằm ngang bằng nhau trắng và đỏ được sử dụng nhưng do trùng với hình ảnh quốc kỳ Ba Lan nên có thêm một hình tam giác màu xanh lam được thêm vào năm 1920, tượng trưng cho xứ Moravia. Lá cờ chính thức được công nhận là quốc kỳ của Tiệp Khắc bởi Hội đồng Quốc gia Tiệp Khắc vào ngày 30 tháng 3 năm 1920. 1.36.Phần Lan Lớp 06CQD1
28
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Quốc kỳ Phần Lan, còn được gọi là Siniristilippu ("cờ chữ thập xanh") xuất hiện lần đầu vào đầu thế kỉ 20. Lá cờ này chính thức được công nhận là quốc kỳ của nước Cộng hòa Phần Lan vào năm 1918. Chữ thập Bắc Âu trên lá cờ gợi sự liên hệ gần gũi với 4 quốc gia Bắc Âu láng giềng khác là Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy và Iceland. Những màu sắc trên lá cờ biểu hiện các đặc điểm thiên nhiên của đất nước này. Màu xanh lam tượng trưng cho bầu trời và sông hồ, còn màu trắng tượng trưng cho tuyết và những đêm trắng, một hiện tượng thiên nhiên thường thấy vào mùa hè tại Phần Lan. 1.37. Anh Tuy là một quốc gia nhưng Vương Quốc Anh (United King Kingdom of Great Britain) lại có đến năm lá cờ khác nhau: Cờ Tô Cách Lan: Thánh Giá chéo màu trắng, biểu hiệu của thánh Andrew - quan thầy của Tô Cách Lan, trên nền xanh dương. Cờ Anh Quốc: Thánh Giá màu đỏ, biểu hiệu của thánh George - quan thầy của Anh Quốc, trên nền trắng. Cờ Bắc Ái Nhĩ Lan: Thánh Giá chéo màu đỏ, biểu hiệu của thánh Patrick - quan thầy của Ái Nhĩ lan, trên nền trắng. Cờ xứ Wales: Con rồng đỏ trên nền trắng & xanh lá cây
Cờ Liên Hiệp: là quốc kỳ chính thức của Vương Quốc Anh Cát Lợi. Lá quốc kỳ này đã trải qua nhiều biến đổi tùy theo từng giai đoạn lịch sử. Năm 1603 vua James VI của Tô Cách Lan đã thống nhất được Anh Quốc và Tô Cách Lan lại với nhau và xưng là Vua James I của Anh Quốc. Do đó, Liên Hiệp Anh Quốc & Tô Cách Lan (Union of England and Scotland) được thành hình. Năm 1606, Cờ Liên Hiệp (Union Flag) ra đời do sự kết hiệp của của cờ Anh Quốc và cờ Tô Cách Lan lại với nhau. Có lẽ từ đó nó thường được gọi là Union Jack (Cờ cắm ở mũi tàu để chỉ quốc tịch) vì đó là lá cờ thường thấy nhất trên các con tàu thời Anh Quốc gần như làm bá chủ các đại Lớp 06CQD1
29
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
dương. Ðến năm 1801, theo hiệp ước Anh-Ái mới được ký kết, Liên Hiệp Anh Quốc & Ái Nhĩ Lan (Union of England and Ireland) ra đời, và Cờ Liên Hiệp được mang thêm Thánh Giá chéo đỏ hơi được thu nhỏ của Bắc Ái Nhĩ Lan để thành lá cờ như hiện nay. Sự vắng mặt của cờ xứ Wales trên Cờ Liên Hiệp là do xứ Wales đã bị sát nhập vào Anh Quốc trong những năm Cải Cách (1536-43). Tuy Cờ Liên Hiệp nhìn có vẻ cân đối, nhưng khi thượng kỳ cần chú ý là phần có Thánh Giá chéo trắng lớn hơn ở phía trên sẽ là phần gần cột cờ / dây cờ hơn. 1.38. Úc Góc trái của lá cờ là hình lá cờ Anh (Union Jack) thu nhỏ, hàm ý là nước Úc dù thế nào đi nữa cùng là một phần của mẫu quốc Anh, nằm trong khối liên hiệp Anh. Bên dưới lá cờ Úc có một ngôi sao màu trắng có 7 cánh biểu tượng cho 6 tiểu bang và các lãnh thổ. Thoạt đầu ngôi sao nầy chỉ có 6 cánh, nhưng sau đó nước Úc có thêm các lãnh thổ, nên nhà phác họa phải vẽ lại ngôi sao có 7 cánh vào năm 1908. Bên phải của lá cờ Úc là ngôi sao Thập Tự phương nam (Southern Cross) mà đêm về thường xuất hiện trên nền trời nước Úc, ngôi sao mà người Việt gọi là Nam Tào, đối diện với sao Bắc Đẩu ở phía bắc mà lúc còn ở quê nhà chúng ta thường thấy. Nền cờ màu xanh nước biển, vì Nước Úc là một hải đảo lớn nhất thế giới, bao quanh quanh quốc gia nầy là biển cả mênh mông. Có một ý nghĩa tiềm ẩn trong lá cờ nầy mà ít ai để ý là trên lá cờ Úc là sao thập tự phương nam (Southern Cross) có ngôi sao lớn hình thập tự và ngôi sao nhỏ ở giữa, biểu tượng cho Chúa Cứu Thế Jêsus hai ngàn năm trước đã bị treo mình trên cây thập tự để cứu nhân loại ra khỏi tội lỗi và khỏi án phạt đời đời trong hỏa ngục. Khi chúng ta ăn mừng lễ Quốc Khánh của nước Úc, chúng ta cũng có dịp nhìn lại lá cờ của quốc gia nầy, một quốc gia tôn thờ Chúa, một đất nước đặt luật pháp của mình trên quyển Thánh Kinh. Quốc huy: Là hình ảnh của hai loài vật chỉ có ở Châu Úc – Chuột túi và chim KiWi. Nhắc đến chúng ai cũng nghĩ ngay đến nước Úc.
1.39.Nga Là một lá cờ gồm ba dải màu nằm ngang bằng nhau, màu trắng ở trên cùng, màu xanh lam ở giữa và màu đỏ ở dưới. Lá cờ này xuất hiện từ thời Đế quốc Nga. Trong khoảng thời gian 1917-1991, nước Nga sử dụng các lá cờ màu đỏ mang các biểu tượng cộng sản. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ, Lá cờ Lớp 06CQD1
30
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
ba trắng-lam-đỏ lại trở thành quốc kỳ của Liên bang Nga (có một lần sửa đổi vào năm 1993). Quốc huy mới của nước Nga chính thức được thông qua tháng 12/2000. Hiện, quốc huy giống như của một nhà nước quân chủ với tất cả những chi tiết đại diện cho quyền lực của Sa hoàng được phục hồi. Song nó lại là biểu tượng cho một chế độ cộng hoà liên bang. Chú đại bàng hai đầu được mô phỏng trên một chiếc khiên màu đỏ mũi hướng xuống dưới. Chú đại bàng mang trên đầu hai vương miện nhỏ và một vương miện lớn. Cả ba vương miện được bao quanh bởi một dải ruy băng. Ở móng phải của đại bàng có một cây gậy và bên trái là quả cầu. Trên ngực đại bàng lại có một chiếc khiên mang hình quốc huy Nga - một kỵ sĩ bằng bạc trong chiếc áo choàng xanh ngồi trên lưng con ngựa bạc đang giết một con rồng đen bằng chiếc giáo bạc. Hình ảnh này có thể được hiểu như sau: Nga vẫn được bảo vệ bởi Chúa ba ngôi, đặt niềm tin vào Chúa trời, Sa hoàng và tổ quốc. Nga đặt trọng tâm vào việc thống nhất lãnh thổ, ngoài ra không có gì khác. Nga tuân thủ theo luật pháp và công lý trong trật tự thế giới, thể hiện bởi trật tự của ruy băng. Nga không đe doạ các nước khác. Những ý định của Nga trong sáng như bạc, quân đội Nga tuân thủ các nguyên tắc chân chính như màu xanh và mũi giáo hướng xuống dưới nhằm chống lại mọi tội ác xấu xa của loài người. Với tất cả những ý nghĩa ấy, quốc huy của nước Nga tượng trưng cho lời thề của quân đội và lời cầu nguyện của người Nga.
Lá cờ của đế quốc Nga 1699 - 1858
Lá cờ của Đế quốc
Lá cờ của Đế quốc
Lá cờ của Đế quốc
Nga 1858-1883
Nga 1883-1917
Nga 1914-1917
Lá cờ của Cộng hòa Liên bang Xã hội Chủ nghĩa Nga 1918-1937
Lớp 06CQD1
Lá cờ của
Lá cờ Liên bang Nga
CHLBXHCN Nga
(từ 1993 đến nay)
31
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
2. PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Việt Nam Phong tục Việt Nam Lễ cưới hỏi Lễ vấn danh "Lễ vấn danh" là lễ nhà trai đến nhà gái để hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "Chạm ngõ" hay là lễ "Dạm" (có nơi kiêm cả lễ dạm và hỏi cùng một lúc gọi là lễ dạm hỏi). Truyện Kiều có câu "Tiện đưa canh thiếp trước cầm làm ghi". "Canh thiếp" là giấy ghi họ tên, tuổi, quê quán, con ai. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ở nhiều vùng nông thôn, con gái từ khi sinh đến khi lấy chồng vẫn chưa đặt tên, nếu như gia đình không cho con gái đi học. Con gái không cần vào sổ họ, sổ làng, không đi học nên cũng không cần dặt tên vội. ở trong nhà con gái mới sinh ra được gọi là con Hĩm, con Mực, con Chắt em...Trong nhà gọi tên gì thì xóm giềng gọi theo tên đó. Đến làm lễ vấn danh, ông bác hoặc bố mới đặt cho cái tên để ghi trong giấy hôn thú, có khi chính người mang tên cũng không biết mình mang tên gì trong giấy hôn thú, vì khi về nhà chồng lại gọi theo tên chồng, khi có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn gọi theo tên cháu. Lễ vấn danh không phải để hỏi tên mà chủ yếu là hỏi tuổi, để hai họ quyết định đôi nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, tuổi xung khắc thì thôi. Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi hay không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu kỹ "Công, dung, ngôn, hạnh" (thường là các gia đình gia giáo). Chẳng những các chàng trai, trước khi cưới chưa biết mặt vợ, mà có những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu, do đó trong gia đình sau này mới xảy ra nhiều chuyện oái oăm: -"Cảm ơn ông bà thương đến, tôi xin đồng ý gả, nhưng xin thưa chuyện trước: con tôi mồm mép chẳng bằng ai!" Tưởng như vậy là mình tìm được con dâu hiền hậu, không đanh đá chua ngoa, ai ngờ cưới về mới biết con dâu sứt môi!. Nhưng đã nhỡ việc, biết tính sao? Lại có trường hợp đánh tráo: Khi đi hỏi thì cho thằng em nhanh nhẹn và "sạch mặt" hơn đóng vai chàng rể, đến khi cưới thì lại cưới cho thằng anh đần độn, xấu Lớp 06CQD1
32
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
xí. "Miếng trầu để dâu nhà người", biết tính sao đây? Dầu sao cũng mang tiếng một đời chồng. Lễ lại mặt Lễ thành hôn, tơ hồng, hợp cẩn xong xuôi, hai vợ chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên ông bà cha mẹ, đi chào họ hàng thân nhân bên nhà gái sau đó đón bố mẹ và vài thân nhân sang nhà chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà chú rể và nhà thông gia, vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả bố) không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau ngày cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ) tuỳ theo khoảng cách xa gần và hoàn cảnh cụ thể mà định ngày. Thành phần chủ khách rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình. Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn cắt lỗ tai tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại, vì con gái ông bà đã mất trinh (Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên giấy bản sẽ có mấy giọt máu. Mã Giám Sinh sau khi cưỡng ép phá trinh nàng Kiều xong dùng "Nước vỏ Lựu", "Máu mào gà" hòng lường gạt làng chơi tưởng nhầm là Kiều vẫn còn trinh). Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, ông già bà lão thì nên miễn cho nhau, cô dâu chú rể nếu bận ông tác cũng nên được miễn thứ. Nếu điều kiện cho phép thì nên duy trì, vì lễ này mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp: -Nhắc nhủ con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thành, coi bố mẹ vợ cũng như bố mẹ mình. -Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hàng ngay từ buổi đầu, tình cảm được nhân đôi. - Hai gia đình cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và bàn bạc về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thành cuộc sống cho đôi trẻ trong tương lai. Lễ xin dâu Lễ này rất đơn giản: Trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp. Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay:
Lớp 06CQD1
33
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đưa đón rồi, nhưng để đề phòng mọi sự bất trắc, mọi tin thất thiệt, nên mới định ra lễ này, biểu hiện sự cẩn trọng trong hôn lễ. Thời gian này chú rể và cha mẹ chú rể rất bận rộn không thể sang nhà gái, nên nhờ người đại diện sang báo trước như bộ phận "Tiền trạm". Để trong trường hợp vạn nhất hoặc do thời tiết, hoặc do trở ngại giao thông, gần qua giờ quy ước mà đoàn đón dâu chưa đến, nhà gái biết để chủ động làm lễ gia tiên hoặc phái người sang nhà trai thăm dò. Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận với nhau miễn là bớt lễ này, hoặc nhập lễ xin dâu và đón dâu làm một. Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau: Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn còn chỉnh đốn tư trang, sắp xếp lại ai đi trước, ai đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu họ cùng với một người đội lễ (một mâm quả trong đựng trầu cau, rượu... )vào trước,đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn toàn đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cùng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào. Sự tích tơ hồng "Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên" dựa theo tích Vi Cố gặp ông lão trong một đêm trăng, ngồi kiểm sách hướng về phía mặt trăng, sau lưng có cái túi đựng đầy dây đỏ. Ông lão bảo cho biết đây là những văn thư kết hôn của toàn thiên hạ. Còn những dây đỏ để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng. Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một bà già chột mắt ẵm đứa bé đi qua. Bỗng ông già lại hiện lên cho biết đứa bé kia sẽ là vợ anh. Vi Cố giận, bảo đày tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ lẻn đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn. Mười bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cố. Người con gái dung nhan tươi đẹp, giữa lông mày có đính một bông hoa vàng. Vi Cố gạn hỏi, vợ mới bảo: Thuở còn bé, một bà vú họ Trần bế vào chợ bị một tên cuồng tặc đâm phải. Vi Cố hỏi: Có phải bà vú đó chột mắt không? người vợ bảo: Đúng thế! Vi Cố kể lại chuyện trước, hai vợ chồng càng quý trọng nhau cho là duyên trời định sẵn. Mẩu chuyện vui: Tình yêu làm cho con người lú lẫn. ..."Tâu Thượng đế, theo hạ thần thì thượng đế không cần đòi lại trí khôn của con người. làm như thế không khỏi mang tiếng là trời nhỏ nhen. Điều mà thượng đế nên làm là hạn chế trí khôn của con người." Lớp 06CQD1
34
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
-"Bằng cách nào"? -"Chỉ có tình yêu-Không có gì làm con người lú lẫn đi như trong tình yêu. Trời chỉ cần phái một vị thần mang vòng dây xuống trần, cứ đôi trai gái nào ở gần nhau thì quăng cho một vòng. Người nào càng thông minh thì cần quăng thêm cho nhiều vòng. Con người chỉ luẩn quẩn trong những vòng ấy mà chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện lên quấy nhiễu nhà trời nữa". Trời khen "Thật là diệu kế"!, bèn truyền cho ông tiên già mang những chiếc vòng của trời xuống trần gian. Từ ngày bị ông tiên già khoác vào người mình những vòng dây tình ái, con người chỉ luẩn quẩn với nhau, không còn nghĩ tới chuyện đánh nhau với trời nữa. Ông tiên già ấy được gọi là ông "Tơ" . Bánh su sê hay bánh phu thê? Trong lễ cưới có nhiều lễ vật, nhưng không thể thiếu bánh "Su sê", nguyên xưa là bánh "Phu thê", một số địa phương nói chệch thành bánh "Su sê". Bánh su sê làm bằng bột đường trắng, dừa, đậu xanh và các thứ hương ngũ vị, nặn hình tròn, bọc bằng hai khuôn hình vuông úp lại với nhau vừa khít, khuôn làm bằng lá dừa, lá cau hoặc lá dứa, vỏ để nguyên không luộc để giữ màu xanh thắm. Sở dĩ gọi là bánh phu thê (chồng vợ) vì đó là biểu tượng của đôi vợ chồng phận đẹp duyên ưa: vuông tròn, trong trắng mềm dẻo, ngọt ngào, thơm tho, xanh thắm, đồng thời cũng là biểu tượng của đất trời (trời tròn, đất vuông) có âm dương ngũ hành: Ruột trắng, nhân vàng, hai vỏ xanh úp lại buộc bằng sợi dây hồng. Tiền nạp theo (hay treo) Tiền "cheo" là khản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái cùng làng xã lấy nhau cũng phải nạp cheo song có giảm bớt. Xuất xứ của lệ "Nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng làng. Đầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng, có nơi còn đốt pháo mừng. Để đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu tặng. Dần đần có những người làm ăn bất chính, lợi dụng cơ hội cũng chăng dây, vòi tiền, sách nhiễu, trở thành tục lệ xấu. Vì thói xấu lan dần, gây nhiều cản trở, triều đình phải ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho phép làng xã được thu tiền cheo. Khi đã nạp cheo cho làng, tức là đám cưới được làng công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Nạp cheo so với chăng dây là tiến bộ. Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng vào việc công ích như đào giếng, đắp đường, Lớp 06CQD1
35
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
lát gạch, xây cổng làng...Nhưng nhiều nơi chỉ cung đốn cho lý hương chè chén. Đã hơn nửa thế kỷ, lệ này bị bãi bỏ rồi.
Giao tiếp Xưng hô Vấn đề này thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học, giáo dục học, nhưng dính dáng nhiều đến phong tục cổ truyền. Mới nghe tưởng đơn giản quá, đứa bé lên ba cũng biết. Quả vậy, trẻ con vừa học nói đã được cha mẹ, anh chị bày cho cách xưng hô, thế nhưng đến lớn đến già vẫn còn sai sót. Nhiều khi chỉ vì một sai sót nhỏ trong các xưng hô mà gây nên thành kiến nặng nề. Đối với các nước khác châu á, đại từ nhân xưng có 3 ngôi: Người nói, người nghe và người, vật, sự việc được đề cập đến trong câu nói. Chỉ có sáu từ cơ bản nếu dịch mộc mạc ra tiếng Việt là: tao, mày, nó, chúng nó, chúng tao, chúng mày. Ví dụ: "Bố mẹ cháu bảo cháu đưa ba cháu sang thăm hai cụ". Câu này nếu dịch từ đối ra tiếng nước ngoài thì như sau: "Chúng nó bảo tao đưa nó sang gặp chúng mày". ở Việt Nam ta đã quen từ nhỏ, đáng tuổi ông thì gọi là ông, đáng tuổi bác thì gọi là bác không đươc "mày tao chí tớ", "cá mè một lứa". Chúng ta nên thông cảm với người nước ngoài học tiếng Việt. Đại từ nhân xưng tiếng Việt rất đa dạng phong phú nhưng cũng rất phúc tạp, điều khó khăn phức tạp nhất là, ngay trong đại từ nhân xưng của ta đã mang sắc thái tình cảm, thể hiện sự yêu thương tức giận, kính trọng, khinh ghét, khách sáo, thân mật... Trong cách xưng hô của ta có phân biệt tôn ti trật tự rõ ràng. Cháu bé hỏi rằng: Tại sao ông bảo cháu thưa bẩm, thế mà cháu gọi ông ông lại không thưa bẩm cháu. Cháu cũng không hiểu sao cha mẹ gọi con thì gọi thằng Giáp con ất được còn con gọi tên cha mẹ thì không được. Tại sao ông chú già rồi lại còn gọi là "ông trẻ". Cách dùng từ để xưng hô của ta còn tuỳ thuộc vào mức độ thân sơ giữa người nói và người nghe. Ví dụ, thật thân tình bạn bè gọi nhau bằng mày tao, hắn thì quí; gọi nhau bằng thưa quí anh hoặc bằng ông thì coi như giễu cợt kích bác nhau. Ngược lại, mới quen biết sơ sơ mà mày tao thì coi như bất lịch sự, đôi khi nghe bực mình bỏ đi không thèm trả lời. Cụ già và Lão già đồng nghĩa nhưng khi nói "Tôi hỏi cụ già" thì rất khác "Tôi hỏi lão già". Cũng có trường hợp "lão" chưa hẳn đã già, mà là cách gọi thân mật. Nếu có quan hệ họ nội, họ ngoại thì gọi theo quan hệ thân thuộc gắn bó tình thân thiết hơn; mặc dầu ít tuổi hơn mình nhưng ngang hàng cha mẹ mình thì gọi Lớp 06CQD1
36
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
bằng chú, bác, cô, dì theo đúng vai vế trong họ. Ngược lại, đối với người đã lớn tuổi mặc dầu là bậc cháu nhưng để cho khỏi "chướng" nên gọi bằng anh, ông, bác ông... Coi như gọi thay con, cháu mình, như vậy thanh nhã và lịch sự hơn. Thuần tuý quan hệ xã hội, không có quan hệ họ hàng nhưng theo phép xã giao "trưởng nhất tuế vi huynh, trưởng thập tuế vi phụ" (hơn một tuổi làm anh, hơn mười tuổi làm cha), tức là tôn lên ngang bằng với cha mà gọi chú, bác. Đây là phép tôn xưng. Cách ứng xử Người Việt Nam chúng ta cũng là một dân tộc rất xem trọng phong cách trong giao tiếp. Từ việc tiếp khách tại tư gia cho đến các cuộc hội họp đều đòi hỏi sự tinh tế lịch thiệp ở cả chủ lẫn khách. Chúng ta có thể liệt kê ra một số điều cần nắm rõ trước những buổi gặp gỡ với đối tác Việt Nam •
Tránh biểu lộ tình cảm thân thiện với người khác giới.
•
Không được xoa tay lên đầu người khác.
•
Khi đưa hay chuyển bất kỳ vật gì đều phải dùng 2 tay.
•
Không được chỉ trỏ bằng ngón tay, khi muốn hướng người nghe quan sát theo hướng mình muốn đề cập phải dùng cả bàn tay.
•
Không được chống nạnh khi đứng nói chuyện.
•
Không nên khoanh tay trước ngực.
•
Không được chuyền vật gì qua đỉnh đầu của người khác.
•
Không được chạm vai khi gặp mặt.
•
Không được vô tư động chạm đến người khác phái.
•
Nếu ở bãi biển thì nam giới nên mặc quần short.
•
Khi tham dự các buổi tiệc:
•
Nếu bạn được mời đến nhà của người Việt bạn nên:
Lớp 06CQD1
37
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
•
Mang theo trái cây bánh kẹo để làm quà.
•
Các món quà nên được gói ghém cẩn thận bằng giấy màu.
•
Không được trao khăn tay, những vật có màu vàng, đen và hoa cúc.
Cư xử trên bàn ăn: •
Không được tự do ngồi vào bàn cho đến khi bạn được hướng dẫn chỗ ngồi.
•
Bạn nên ngồi vào bàn sau khi những người lớn hơn đã ngồi vào bàn.
•
Khi chuyền những đĩa thức ăn phải dùng cả 2 tay.
•
Đũa phải được đặt trên bàn ăn cạnh chén khi bạn nghỉ tay chờ phục vụ món kế tiếp hay dừng đũa khi tay bạn phải nâng ly.
•
Dùng muỗng bằng tay trái với món soup.
•
Cố gắng dùng hết những gì có trong đĩa của mình, không để sót.
•
Khi đã ăn xong, đũa phải đặt trên miệng chén.
•
Che miệng khi xỉa răng.
Nghi thức trong kinh doanh: •
Những cuộc hẹn nên được thỏa thuận trước vài tuần.
•
Cách tốt nhất để sắp xếp cuộc hẹn là thông qua đại diện hay chính các thông dịch viên của bạn.
•
Phải đến cuộc hẹn đúng giờ.
•
Ăn mặc lịch sự.
•
Hãy bắt đầu và kết thúc cuộc hẹn bằng 1 cái bắt tay thân thiện, nhưng chỉ đối với người cùng giới.
Lớp 06CQD1
38
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành •
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Một vài người Việt Nam có thói quen dùng cả 2 tay khi bắt tay, tay trái sẽ đặt trên cổ tay phải.
•
Nếu bạn là nam giới, phải đợi người phụ nữ chủ động trong việc bắt tay, nếu không thì chỉ gật đầu chào.
•
Name card nên được trao đổi vào đầu cuộc gặp và được trao bằng cả 2 tay. Khi cầm name card của đối tác thì cần tỏ ra trân trọng, quan tâm và tỏ ra bạn đang đọc thật cẩn thận từng chi tiết, không được liếc nhìn rồi cất vào túi.
•
Người có chức vụ cao hơn sẽ được ưu tiên vào phòng họp trước.
•
Mối quan hệ có tính quan trọng rất cao trong đối tác kinh doanh. Cần phải bỏ nhiều thời gian để xây dựng các mối quan hệ vững mạnh với cả các cá nhân lẫn công ty. Tất cả cá buổi gặp mặt lần đầu tiên chỉ nên dừng lại ở mức là 2 bên muốn tìm hiểu lẫn nhau.
•
Việc quà biếu sau các cuộc gặp là rất quan trọng nhưng không được quá lớn hay đắt tiền. Những món quà như logo công ty của bạn hay những món quà đặc trưng cho quốc gia của bạn là rất ý nghĩa.
Tang lễ Thời gian để tang Việc để tang ở nước ta chia ra đại tang và tiểu tang. Về tiểu tang có 4 bậc, đại tang chỉ có 1 bậc. Đại tang và tiểu tang gồm tất cả 5 bậc, gọi là ngũ phục. 1. Đại tang: để tang 3 năm. Thời gian để đại tang là 3 năm, nhưng trên thực tế, người ta chỉ để đại tang có 27 tháng. Trong thơ bà Hồ Xuân Hương cũng đã nói tới điều này. Khi ông Phủ Vĩnh Tường mất, bà làm bài thơ để khóc ông ta trong đó có hai câu nói về việc để tang: "Hai bảy tháng trời là mấy chốc,/ Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!"
Lớp 06CQD1
39
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Đại tang dành cho con để tang cha mẹ ruột và cha mẹ nuôi, nàng dâu để tang cha mẹ chồng, vợ để tang chồng, cháu đích tôn thừa trọng (thay cha khi cha mất) để tang ông bà, và chắt thừa trọng (thay cha và ông khi cha và ông đều mất) để tang cụ ông cụ bà. 2. Tiểu tang Theo tục lệ, tiểu tang có nhiều loại với tên khác nhau và thời gian để tiểu tang cũng khác nhau tùy theo thân sơ. a. Cơ niên: để tang một năm Để tang một năm còn gọi là cơ niên. Để tang một năm dành cho cha mẹ để tang cho con trai, con dâu trưởng, và con gái (chưa đi lấy chồng); chồng để tang cho vợ; con rể để tang cho cha mẹ vợ; anh em và chị em (chưa đi lấy chồng) kể cả anh chị em cùng cha khác mẹ để tang cho nhau; em để tang cho chị dâu trưởng; cháu trai và cháu gái (chưa đi lấy chồng) để tang cho ông bà nội; cháu để tang cho chú bác ruột và cô ruột (chưa đi lấy chồng); cháu dâu để tang cho ông bà nhà chồng. b. Đại công: để tang 9 tháng Để tang 9 tháng còn gọi là đại công. Để tang 9 tháng dành cho cha mẹ để tang con gái (đã đi lấy chồng) và con dâu thứ; chị em ruột (đã đi lấy chồng) để tang cho nhau; anh em con chú con bác ruột để tang cho nhau; chị em con chú con bác ruột (chưa đi lấy chồng) để tang cho nhau. c. Tiểu công: để tang 5 tháng Để tang 5 tháng còn gọi là tiểu công. Để tang 5 tháng dành cho anh chị em cùng mẹ khác cha để tang cho nhau; chị em con chú con bác ruột (đã đi lấy chồng) để tang cho nhau; con để tang cho dì ghẻ; cháu để tang cho ông chú, bà bác, và bà thím; cháu để tang cho bà cô (chưa đi lấy chồng), chú họ, bác họ, thím họ, cô họ (chưa đi lấy chồng), ông bà ngoại, cậu, và dì ruột; và chắt để tang cho cụ ông cụ bà bên nội. d. Ti ma: để tang 3 tháng Để tang 3 tháng còn gọi là ti ma. Để tang 3 tháng dành cho cha mẹ để tang cho con rể; con cô con cậu và đôi con dì để tang cho nhau; cháu để tang cho ông chú họ, ông bác họ, bà cô họ (chưa đi lấy chồng), bà cô (đã đi lấy chồng), và cụ cô (chưa đi lấy chồng); chắt để tang cho cụ chú cụ bác; và chút để tang cho kỵ ông kỵ bà bên nội. Lớp 06CQD1
40
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Chúng ta nhận thấy một điều nổi bật nhất trong việc để tang của người Việt là quan niệm "trọng nam khinh nữ," chẳng hạn như thời gian vợ để tang chồng là 27 tháng, tức là đại tang. Còn chồng để tang vợ chỉ có một năm và được coi là tiểu tang mà thôi. Một điều đặc biệt nữa là khi người con gái đã đi lấy chồng thì bị coi là ngoại tộc, đúng với quan niệm “nữ nhân ngoại tộc" và "dâu là con rể là khách.” Người đàn bà, nếu đã đi lấy chồng, khi mất đi, được thân nhân để tang một thời hạn ngắn hơn là lúc chết mà chưa có chồng. Việc để tang của ta đã thể hiện một nền văn minh lâu đời, có tôn ti trật tự, có phép tắc hẳn hoi, và thân sơ phân biệt rõ ràng. Việc để tang cần phải học hỏi và được giáo dục mới biết và thực hiện đúng theo phong tục được. Nhìn vào việc con cái để tang ông bà hay cha mẹ mà người ta biết được gia đình đó có giáo dục theo nếp Việt hay không. Để tiện công ăn việc làm và lo cho đời sống hằng ngày, ngày nay đồ tang phục chỉ được mặc cho đến khi chôn cất thân nhân xong. Sau đó, người ta đeo một cái băng màu đen ở tay áo trái rộng độ 10 phân đối với đàn ông trong trường hợp đại tang, và đeo một miếng vải đen nhỏ bằng đầu ngón tay cái ở nẹp áo trước ngực hay ở trên mũ trong trường hợp tiểu tang. Còn đàn bà, người ta thường vấn khăn trắng hay cài miếng vải đen ở trước ngực phía trái khi mặc áo dài.
Giỗ tết, tế lễ Tết Đoan Ngọ (Mồng 5 tháng 5) Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được coi trọng, xếp vào hàng thứ hai sau Tết Nguyên Đán. Vì vậy các cụ thường nói "Mồng 5 ngày Tết". Học trò tết thầy, còn rể tết bố mẹ vợ... quanh năm cũng chỉ tập trung vào hai lễ Tết đó. Tết Đoan Dương còn nhiều tục lưu truyền đến nay; sáng sớm cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng cách uống rượu (hoà ít tam thần đơn) hoặc ăn rượu nếp. Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu. Vì là đoan ngọ nên lễ cúng gia tiên phải cúng vào giờ ngọ (buổi trưa). Tục hái thuốc mồng năm cũng bắt đầu từ giờ ngọ, đó là giờ có dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể. Tuy vậy, nhân dân ta quen dùng thảo mộc chữa các chứng bệnh, biết phân biệt loại có độc, chẳng hạn lá ngón, cà độc dược, lá sắn... dẫu người nặng đầu óc mê tín cũng chẳng dám hái. Ngược lại, các cây cỏ chữa Lớp 06CQD1
41
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
bệnh thông thường có tác dụng trừ phong ích khí thì hái nhiều hơn như ích mẫu, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi... Tết nguyên đán Nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần. Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm. Qua nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày tết khác nhau. Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa. Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng bảy. Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ lễ tiết. Có Tiết Thương Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, TrungThu... Ngày tết nêu ở đây tức là nói tắt Lễ tiết Nguyên Đán (ngày đầu năm).
Lớp 06CQD1
42
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ... Từ trẻ đến già ai ai cũng biết, không nhắc thì thanh thiếu niên cũng mua cho được cành hoa bánh pháo, nghèo cũng có chiếc bánh chưng, chai rượu. Vì vậy xin miễn liệt kê dài dòng, để trao đổi một vài phong tục đáng được duy trì phát triển. •
•
•
•
•
Tống cựu nghênh tân: cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng. Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không vứt rác viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dầu lạ dầu quen. Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xoá hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành. Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi: ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khỏe tiến bộ, thành đạt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến, đi hai lộc (chỉ là một cành non ở đình chùa, ở chốn tôn nghiêm mang về nhà), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người "Nhẹ vía" mà mình thích đến xông nhà. Bạn nào vinh dự được người khác mời đến xông thì nên chú ý, chớ có sai hẹn sẽ xúi quẩy cả năm đối với gia đình người ta và cả đối với bạn. ở thành thị thời trước, sáng mồng một, có một số người nghèo gánh một gánh nước đến các gia đình giầu có lân cận và chúc họ "Lộc phước dồi dào". Những người này được thưởng tiền rất hậu. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay đổ tại mình "Nặng vía". Chính vì vậy, đáng lẽ sáng mồng một đông vui lại hoá ít khách, trừ những nhà đã tự xông nhà, vì tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà, từ người thứ hai trở đi không tính. Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc. Chúc Tết nhưng người trong năm
Lớp 06CQD1
43
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
•
•
•
•
•
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
cũ gặp rủi ro tai hoạ thì động viên nhau "Của đi thay người", "Tai qua nạn khỏi", nghĩa là ngay trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả đối với người phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung trong những ngày đầu năm, người ta kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa. Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đặm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức ruờm rà, không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mời vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm. Quà Tết, lễ Tết: Bình thường qua lại hỏi thăm nhau có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết càng quý. Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để cầu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tổ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, "Lời chào cao hơn mâm cỗ". Lễ mừng thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần... tính theo tuổi mụ. Ngày tết ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui. Cũng vào dịp đầu xuân, người có chức tước khai ẩn, học trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở hàng lấy ngày: Sĩ, Nông, Công, thương "Tứ dân bách nghệ" của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thôn làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp, bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám, vui chơi quá đà. Sau ngày mồng một, dù có mãi vui tết, hoặc còn kế hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngày "Khai nghề", "Làm lấy ngày". Nếu như mồng một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu. Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ hoàng đạo bắt đầu không kể mồng một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình mình một sản phẩm, dụng vụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn). Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân. Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp tết, nhất là tối 28,
Lớp 06CQD1
44
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì ông bố cho phép vui chơi, có cả trẻ con người lớn những nhà hàng xóm, những gia đình thân cận cùng vui. Tam cúc, cơ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy. Đế lế khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng. Tóm lại, ngày Tết là ngày tiêu biểu cho truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Giá như phát huy thuần phong mỹ tục đó, từ gia đình ra xã hội, ai ai cũng đối xử với nhau trên thuận dưới hoà, kính giá yêu trẻ... thì đất nước quê hương sẽ tươi đẹp, giàu mạnh, bộ máy pháp luật bớt đi bao nhiêu khó khăn. Giỗ tổ Hùng Vương "Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba" Hằng năm vào dịp mồng mười tháng ba âm lịch, hàng triệu lượt đồng bào từ khắp mọi miền trong cả nước về Đền Hùng trẩy hội, thắp hương thơm thành kính lễ Tổ tiên, tưởng nhớ công đức to lớn của các Vua Hùng dựng nước. Theo sử cũ và truyền thuyết để lại, nước Văn Lang ta lúc bấy giờ có 15 bộ lạc Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng châu thổ sông Hồng. Hàng chục bộ lạc Âu Việt sinh sống ở vùng Việt Bắc. Do nhu cầu trị thủy, chống giặc ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hóa ngày càng được đẩy mạnh, giữa các bộ lạc gần gũi nhau về huyết thống có xu hướng tập hợp và thống nhất với nhau. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, có bộ lạc Văn Lang là hùng mạnh hơn cả, lãnh thổ của bộ lạc này trải dài từ chân núi Ba Vì tới sườn Tam Đảo. Thủ lĩnh của bộ lạc Văn Lang đã giữ vai trò lịch sử là người đứng ra thống nhất các bộ lạc Lạc Việt dựng nên nước Văn Lang.
Hùng Vương với Quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (nay là xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), chia nước ra là 15 bộ (vốn là 15 bộ lạc trước đó) là: 1. Văn Lang (Bạch Hạc, Phú Thọ) 2. Chu Diên (Sơn Tây) 3. Phúc Lộc (Sơn Tây) 4. Tân Hưng (Hưng Hoá - Tuyên Quang) 5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng) 6. Vũ Ninh (Bắc Ninh) 7. Lục Hải (Lạng Sơn) Lớp 06CQD1
45
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
8. Ninh Hải (Quảng Yên) 9. Dương Tuyền (Hải Dương) 10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình) 11. Cửu Chân (Thanh Hoá) 12. Hoài Hoan (Nghệ An) 13. Cửu Đức (Hà Tĩnh) 14. Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị) 15. Bình Văn. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng (trước đó là tù trưởng) còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Kế tục nhà nước Văn Lang là Quốc gia Âu Lạc, ra đời đầu thế kỷ thứ III trước công nguyên do Thục Phán thay thế Hùng Vương đứng đầu Nhà nước gọi là Thục An Dương Vương. Năm 179 trước công nguyên, Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu, thời đại Hùng Vương kết thúc. Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng là nhà nước phôi thai đầu tiên của Việt Nam, còn rất đơn giản, mặc dù mới hình thành nhưng đã cố kết được lòng người. Hùng Vương là thủ lĩnh của Việt Nam thời kỳ bắt đầu dựng nước. Lãnh thổ sinh trưởng đầu tiên của tổ tiên là miền Bắc Việt Nam. Thời kỳ Hùng Vương là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử dân tộc ta. Chính thời kỳ này đã xây dựng nên một nền tảng của dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hoá Việt Nam và truyền thống yêu nước Việt Nam. Từ khối đoàn kết của toàn thể thành viên của một làng, nhân dân nước Văn Lang, nước Âu Lạc đã tiến đến khối đoàn kết toàn bộ nhân dân cả nước để một lòng đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ, bảo vệ giống nòi, non sông, đất nước với tinh thần thượng võ và chiến thuật chiến tranh nhân dân chống ngoại xâm còn lưu truyền mãi đến muôn đời sau. Trong thời kỳ bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân 18 tỉnh, thành miền Bắc đã góp 6.000 đồng Đông Dương để đại tu Đền Hùng (từ 1918 đến 1922 thì hoàn thành) để có các công trình kiến trúc như hiện nay. Những năm sau Cách mạng Tháng Tám, Chính phủ Lâm thời đã cử Cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước lên dự Giỗ Tổ năm đầu tiên (1946). Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, mặc dù bận trăm công ngàn việc, Bác Hồ vẫn rất quan tâm đến việc giáo dục các thế hệ con cháu hướng về cội nguồn dân tộc. Trước khi về Hà Nội, Bác từ Thái Nguyên sang Đền Hùng nghỉ lại một đêm ở Đền Giếng, sáng ngày 19-9-1954, Bác gặp gỡ các chiến sĩ Đại đoàn 308 (Đại đoàn Quân Tiên phong) trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đã căn dặn bộ đội phải ghi nhớ công lao của các Vua Hùng và trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong công cuộc bảo vệ đất nước : "Vua Hùng là người có công dựng nước ta. Như vậy Vua Hùng chính là Ông Tổ của nước Việt Nam. Uống nước phải nhớ nguồn. Con cháu thì phải nhớ đến Tổ tiên. Ngày xưa, các Vua Hùng đã có công dựng nước. Ngày nay, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước! Đó mới chính là uống nước nhớ nguồn, mới là nhớ Tổ tiên vậy". Lớp 06CQD1
46
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Do tính chất quan trọng của Khu di tích, năm 1963 Bộ Văn hóa đã xếp hạng Di tích Quốc gia, năm 1967 Chính phủ quyết định xếp hạng khu rừng Đền Hùng là Rừng cấm Quốc gia. Từ năm 1969, Ngày Hội Đền Hùng đã thu hút hàng triệu lượt người đến dự, rồi từ đó nhân dân quyên góp xây dựng công quán, Nhà nước đầu tư xây dựng Bảo tàng Hùng Vương, xây dựng cơ sở hạ tầng, tôn tạo khu di tích ngày càng khang trang khiến cho Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương trở thành tâm thức, lẽ sống của người Việt Nam chúng ta. Hội Đền Hùng là một lễ hội đặc biệt của dân tộc Việt Nam, người Việt về dự Giỗ Tổ tỏ lòng kính hiếu tôn trọng Tổ tiên, nhưng cũng để nhân thêm tình yêu thương con người, xứ sở, niềm tin vào cộng đồng của dân tộc Việt Nam. Với lòng tôn kính các Vua Hùng, nhiều nơi trong cả nước đã lập đền thờ các Vua Hùng và vợ con các tướng lĩnh thời Hùng Vương. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ có tên gọi là kẻ, chạ, chiềng) với người đứng đầu là các bộ chính (nghĩa là già làng). Theo ngọc phả Hùng Vương, có 18 chi Hùng Vương: 1. Chi Càn - Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tôn dâng miếu hiệu là Hùng Dương - vị vua viễn tổ, 86 năm (từ 2879 - 2794 trước công nguyên). 2. Chi Khản - Lạc Long Quân, huý Sùng Lãm, thụy hiệu Hùng Hiền - vị vua cao tổ, 269 năm (từ 2793 - 2525 tr.CN). 3. Chi Cấn - Hùng Quốc Vương, huý Hùng Lân - vị vua mở nước, 282 năm (từ 2524 - 2253 tr.CN). 4. Chi Chấn - Hùng Hoa Vương, huý Bửu Long, 342 năm (từ 2252 - 1918 tr.CN). 5. Chi Tôn - Hùng Hy Vương, huý Bảo Lang, 200 năm (từ 1912 - 1713 tr.CN). 6. Chi Ly - Hùng Hồn Vương, huý Long Tiên Lang, 2 đời, 80 năm (từ 1712 1632 tr.CN). 7. Chi Khôn - Hùng Chiêu Vương, huý Quốc Lang, 5 đời, 200 năm (từ 1631 1432 tr.CN). 8. Chi Đoài - Hùng Vi Vương, huý Văn Lang, 5 đời, 80 năm (từ 1431 - 1332 tr.CN). 9. Chi Giáp - Hùng Định Vương, huý Châu Nhân Lang, 3 đời, 80 năm (từ 1331 - 1252 tr.CN). 10. Chi Ất - Hùng Uy Vương, huý Hoàng Long Lang, 3 đời, 90 năm (từ 1251 1162 tr.CN). 11. Chi Bính - Hùng Trinh Vương, huý Hưng Đức Lang, 4 đời, 107 năm (từ 1161 - 1055 tr.CN). 12. Chi Đinh - Hùng Vũ Vương, huý Đức Hiền Lang, 3 đời, 86 năm (từ 1054 969 tr.CN). 13. Chi Mậu - Hùng Việt Vương, huý Tuấn Lang, 5 đời, 195 năm (từ 968 854 tr.CN). Lớp 06CQD1
47
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
14. Chi Kỷ - Hùng Anh Vương, huý Viên Lang, 4 đời, 99 năm (từ 853 - 755 tr.CN). 15. Chi Canh - Hùng Triệu Vương, huý Cảnh Chiêu Lang, 3 đời, 94 năm (từ 754 - 661 tr.CN). 16. Chi Tân - Hùng Tạo Vương, huý Đức Quân Lang, 3 đời, 92 năm (từ 660 569 tr.CN). 17. Chi Nhâm - Hùng Nghi Vương, huý Bảo Quang Lang, 4 đời, 160 năm (từ 568 - 409 tr.CN). 18. Chi Quý - Hùng Duệ Vương, huý Huệ Lang, 150 năm (từ 408 - 258 tr.CN). Ngay ở Thành phố Sài Gòn xưa cũng có đền thờ Hùng Vương ở Thảo Cầm Viên được xây dựng vào những năm sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất và sau năm 1954 được đổi tên là Đền Quốc Tổ Hùng Vương, rồi sau 30-4-1975 được gọi là Đền Hùng Vương thờ các Vua Hùng cùng với các bài vị thờ Tổ tiên bách tính và lương thần danh tướng. Nơi đây được toàn thể nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem là ngôi đền chính thức ở Thành phố thờ các Vua Hùng, nơi để đồng bào Thành phố tụ họp về dự lễ Giỗ Tổ vào ngày mùng Mười tháng Ba hàng năm. Năm 1992, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khánh thành Khu tưởng niệm các Vua Hùng trong khuôn viên Công viên Văn hoá ở Vườn Tao Đàn với các kiến trúc, hiện vật mô tả sự tích dựng nước và giữ nước của Tổ tiên ta từ hơn 4 ngàn năm về trước. Thành phố còn xây dựng một Khu Công viên Văn hóa quy mô hoành tráng trên địa bàn Quận 9 mà trong đó có Đài tưởng niệm các Vua Hùng rất tráng lệ mang tầm vóc quốc gia. Ngoài ra trên địa bàn Thành phố còn rất nhiều đền, miếu thờ các Vua Hùng như Đền Hùng Vương ở khu Tân Định Quận 1; Đền Quốc Tổ Hùng Vương ở Quận 4; Đền Quốc Tổ Hùng Vương ở Quận 5; Đền Hùng Vương ở Quận Phú Nhuận; Tổ đình Quốc Tổ Lạc Hồng ở Quận Gò Vấp; Miếu Hùng Vương ở Huyện Củ Chi; và ở nhiều quận, huyện khác đều có các địa điểm để nhân dân hương khói tưởng niệm Tổ tiên mỗi kỳ Giỗ Tổ hàng năm. Với truyền thống ấy, nhân dân ta lấy ngày mùng Mười tháng Ba âm lịch hằng năm làm Ngày Giỗ Tổ để cùng nhau trảy hội Đền Hùng, tưởng nhớ đến cội nguồn, Tổ tiên của dân tộc Việt Nam theo đúng đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ta, đúng như câu đối ở cổng Đền Hùng: "Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà, non nước vẫn quay về đất Tổ. Văn minh đang buổi mới, con Hồng cháu Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ Ông". Nhằm góp phần giáo dục truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân, tôn vinh công đức các Vua Hùng, bảo tồn và phát huy di sản văn hoá của dân tộc, Quốc hội khoá XI tại kỳ họp thứ 11 xem xét việc tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động và nhân dân tham gia Giỗ Tỗ Hùng Lớp 06CQD1
48
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Vương - thực hiện cho người lao động nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương trong Ngày Giỗ Tổ hàng năm, bắt đầu từ năm 2007. Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ, nhất là trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", chúng ta luôn nhớ về cội nguồn với sự trân trọng và lòng biết ơn sâu sắc, lòng tự hào và niềm kiêu hãnh về Tổ tiên, nòi giống của mình, từ đó ra sức đóng góp công sức, trí tuệ cùng nhau đoàn kết dựng xây đất nước Việt Nam ngày càng phồn vinh, giàu mạnh, xứng đáng với truyền thống Lạc Hồng của Tổ tiên để lại. Uống trà- một tập tục tao nhã Chẳng biết từ bao giờ người Việt Nam ta đã coi việc uống trà là một tập tục tao nhã. Từ nhiều thế kỷ trước đây, ông cha ta đã xem uống trà là thú vui thanh đạm, tinh tế. Nó có tác dụng di dưỡng tinh thần, kích thích sự gợi mở những suy tư lắng đọng. Đặc biệt nó còn được sự sủng ái, đón nhận của tầng lớp nho giáo, sĩ phu, các gia đình quyền quý và tầng lớp trung lưu... lâu dần cách thưởng thức trà đó đã làm nên một nét vǎn hoá độc đáo Nó độc đáo ở chỗ không giống với cách uống trà của một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản... Về kỹ thuật, thao tác, chế biến, và cách thưởng lãm... người Việt Nam có một phong cách khác biệt bởi phụ thuộc vào những yếu tố như kinh tế, văn hoá xã hội... mang đặc thù riêng Người xưa cho rằng, vào lúc trời đất còn tranh tối tranh sáng (thời điểm âm dương giao hoà), uống trà sẽ là cách vận động thần khí một cách khôn ngoan nhất và có lợi cho sức khoẻ nhất. Không khí trong lành của đất trời lúc ban mai sẽ làm cho cơ thể con người giảm bớt được những căng thẳng, mệt mỏi của một ngày làm việc. Uống trà vào lúc này là để giữ cho thần khí được sáng suốt minh mẫn, đây là thời điểm tĩnh lặng để rồi phát tiết ra cá thần thái linh thiêng, do vậy sẽ có nhiều ý nghĩ khôn ngoan, đúng đắn nảy sinh... Để có một chén trà ngon, thì bộ đồ pha trà đóng một vai trò rất quan trọng. Mỗi bộ đồ trà thường có: 1 ấm, 1 lồng, 1 chuyên, 4 chiếc quân, 1 đĩa thành giầm, 1 khay, 1 hoả lò, 2 ấm đun nước bằng đồng tú. Có lẽ người xưa chỉ khuôn lại cho 4 người dùng trà là tối đa, để hạn chế tạp khách làm mất đi cái ý nghĩa linh thiêng, tĩnh lặng và tao nhã của bữa trà vì đối tượng thưởng lãm phải là người có tâm hồn đồng điệu, bậc tri kỷ, cố nhân... Thông thường trong một bữa trà thường sử dụng " nhất tống tam quân" (1 ấm, 3 chén). Bộ đồ trà đẹp phải đồng bộ, không lai tạp, nếu là bộ đồ về lịch sử thì phải cùng theo một điển cố. Lớp 06CQD1
49
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
- Khay: Chân quỳ, gỗ trắc hoặc khay quả đào gỗ mít. Khay không khảm quý hơn khay có khảm, loại khảm dùng cho việc cúng lễ. Bát tháo bã, thường là loại Bạch định, hoặc loại bát cổ có vẽ: Xích Bích hay Quần long. Ấm trà tháo bã rồi, chỉ được súc nước lã cho sạch, không được kỳ cọ mất cao bám trong thành ấm. - Bình đựng trà: Bằng sứ hoặc đất nung, nút bằng lá chuối khô. Song chỉ với bộ đồ trà nói trên thì chưa đủ, muốn "thưởng lãm" trà một cách nghệ thuật, mỗi mùa trong năm người uống trà đều "thửa riêng" một bộ đồ trà cho mình. Ví như sang đông (Đông ẩm): Chén và tống dáng khẩu mía, cao thành và khá dầy có thể nằm gọn trong lòng bàn tay. Hạ ẩm: Chén thấp, choáng, sứ mỏng. Xuân, thu ẩm: Chén hình quả nhót, quý nhất là Bạch định, nhưng trong chén phải có chữ, thường thì người ta ghi: "Thành Hoá niên chế", "Khang Hy niên chế". Có loại ấm không có chữ, thường thì ấm chén thường được vẽ các điển cố có trong lịch sử. Có lẽ mỗi một phong cách, mỗi một nét đẹp đều có một bí quyết để có thể được công nhận. Bí quyết pha trà của ông cha ta quy tụ lại gồm 4 điểm: "Nhất thuỷ, nhì trà, tam pha, tứ ấm". Thủy: Là một vấn đề quan trọng nhất, tốt nhất là nước mưa, có thể là nước giếng mà là giếng có đá ong càng tốt, tránh được mùi tanh của bùn. Nhiều người cầu kỳ, còn đi thu gom những hạt sương đọng trên tàu lá sen, nó được coi là thứ nước đặc biệt, tinh khiết mà lại có sẵn mùi thơm của sen. Nếu là nước máy thì phải để một số ngày cho bay hết mùi hoá chất. Nước để pha trà phải đun sôi kỹ. Có nhà xếp một hàng chum sành, dăm bảy chiếc quanh gốc cau hứng nước mưa dùng dần. Trà: Phải là trà chính hiệu, búp nhỏ, săn, sao tẩm đúng quy cách. Người ta cũng hay dùng trà mạn, là loại trà để lâu đã toả hương, đem ướp sen, sói, thuỷ tiên hoặc nhài. Nhưng những người được coi là "sành điệu" trong việc uống trà thì chỉ ưa dùng trà mộc. Phương pháp ướp tẩm rất cầu kỳ, do nhu cầu này mà trong dân gian đã nảy sinh nhiều người có tay nghề cao được giới yêu trà rất mến mộ. Pha: Rót nước sôi tráng ấm cho kỹ, tưới đều nước sôi lên những chiếc chuyên quân. Tráng ấm xong cho trà vào, rót nước sôi để chừng vài phút, đoạn chắt hết nước trong ấm ra chuyên. Phải rót hết, muốn uống nữa, rót tiếp nước sôi vào ấm. Sở dĩ làm vậy là để trà khỏi chín nhừ không mất đi hương vị, lại tránh bị nồng. Tất cả mọi động tác của người pha trà thuần thục, nhẹ nhàng, chính xác, theo một chu trình định sẵn như một nghi lễ vậy. Ấm: Là yếu tố cuối cùng trong công đoạn pha trà. Có rất nhiều loại ấm, thế nhưng đối với những người "sành" trong việc uống trà thì thứ nhất là ấm Thế Đức Lớp 06CQD1
50
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
gan gà, thứ nhì Lưu Bội, và thứ ba là Mạnh Thân. Đặc biệt hơn nữa người ta còn có những quy định về màu sắc cho ấm pha trà, muốn thưởng thức trà thật ngon thì màu ấm phải là màu gan trâu, gan gà, chu sa trong số đó mầu chu sa là màu quý nhất. Về hình dáng ấm pha trà có những kiểu chính là: Trái lê, Trái cau, Trái hồng, Bánh xe (quý), Tang trống (quý). Tuỳ từng trường hợp và số lượng người cùng "thưởng trà" người ta còn chia ra 4 loại ấm được đặt tên khác nhau: Ngưu ẩm, Quần ẩm, Song ẩm và Độc ẩm. Quan niệm uống trà của người xưa, ngoài ý nghĩa thưởng lãm nó còn mang một ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa tâm linh, đó là tinh thần trọng Chân, trọng Thực, trọng cái hay cái Đẹp. Nó thể hiện tâm hồn, tình cảm và nhân cách của con người Việt Nam chúng ta. Chính vì thế uống trà và thưởng thức trà đối với người Việt Nam đã trở thành một nghệ thuật, không chỉ là một thú ẩm thực nữa việc uống trà còn là một nét vǎn hoá rất riêng, rất đẹp trong nền văn hoá Việt Nam. Từ những cuộc tiếp xúc quan trọng nơi quốc gia đến hội hè đình đám ở làng quê, ở thành thị và trong từng gia đình khi có khách đều phải mời trà. Nó đã được diễn ra như một lễ nghi trong đó trà đã giữ vai trò giao lưu giữa các giai tầng trong xã hội, không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng, đẳng cấp. Chủ đưa mời chén trà, không bao giờ có người từ chối. Chén trà đã làm con người xích lại gần nhau. Ngoài ra con người cũng đã sử dụng trà như một phương tiện giao tiếp, người ta biếu xén, làm quà tặng, lễ lạt trong cầu phúc, chúc phúc, trong cưới xin, dạm hỏi... Trà cũng đóng vai trò kết thúc trong bữa ăn của mỗi người, mỗi gia đình. Nói cách khác: Trà là cái mở đầu và cũng là cái kết thúc của một ngày, để rồi hôm sau lại mở ra một ngày mới: Bình minh số chán trà.
Trò chơi dân gian - nét văn hóa dân tộc giàu bản sắc Mỗi người chúng ta ai cũng đã từng là một đứa trẻ và đã từng chơi những trò chơi của trẻ. Những vòng quay của con quay (chơi cù) hay những bước nhảy lò cò của trò chơi ăn quan... tất cả như một bức tranh sinh động của cuộc sống. Những điệu nhảy mềm mại, những cánh diều bay nhè nhẹ trên cao như đưa văn hóa Việt Nam đến khắp năm châu. Trò chơi trẻ em Việt Nam thường bắt nguồn từ những bài đồng dao, một thể loại văn vần độc đáo của dân tộc. Đấy là những bài ca có nhịp điệu đơn giản gieo vần một cách thoải mái, có thể ngắn dài bất kỳ hoặc lặp đi lặp lại không dứt.
Lớp 06CQD1
51
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Chơi chọi gà là một trong những thú chơi được trẻ em thích thú vì không chỉ nó là con vật gần gũi với đời sống của trẻ mà nó còn mang ý nghĩa như một chiến binh khát vọng chiến thắng: “Con gà cục tác cục ta/ Hay đỗ đầu hè hay chạy rông rông/ Má gà thì đỏ hồng hồng/ Cái mỏ thì nhịn, cái mồng thì tươi/ Cái chân hay đạp hay bơi/ Cái cánh hay vỗ lên trời gió bay”. Hay bài đồng dao của trò chơi ô ăn quan: “Hàng trầu hàng cau/ Là hàng con gái/ Hàng bánh hàng trái/ Là hàng bà già/ Hàng hương hàng hoa/ Là hàng cúng Phật...”. Vì đặc tính của trò chơi rất đơn giản, chỉ là những hòn sỏi được rải trên nền đất và khi chơi phải đếm từng hòn sỏi một nên nó là trò chơi hiền lành, không đòi hỏi nhiều lắm vào trí tuệ, sức lực nhưng lại yêu cầu tính kiên nhẫn nên người chơi chủ yếu là các em gái. Rồng rắn lên mây là trò chơi gắn với đồng dao nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp, có liên quan đến nghi thức cầu mưa của cư dân nông nghiệp: “Rồng rắn lên mây/ Có cây núc nắc/ Có nhà khiển binh/ Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không...” . Đồng dao được cấu trúc theo một lôgic riêng, đôi khi không có nghĩa gì cả, nhưng bằng tư duy liên tưởng, trẻ em vẫn có thể nhập vào câu hát để dẫn đến những kết cục bất ngờ: cái ngược đời, cái phi lý, lại có thể chấp nhận vì đấy là bài hát của trẻ em. “Cây mốt, cây mai, lá trai, lá hến, con nhện chăng tơ, quả mơ có hạt...” là bài đồng dao mà các cô bé thường hát để chơi chuyền. Đây là trò chơi chủ yếu dành cho bé gái, dụng cụ là một quả bóng (có thể được thay bằng một hòn đá hoặc quả ổi xanh) và 10 que tre được vót tròn (có thể thay bằng đũa). “Cút ca cút kít/ Làm ít ăn nhiều/ Nằm đâu ngủ đấy/ Nó lấy mất cưa/ Lấy gì mà kéo...” là bài đồng dao của trò chơi quay (cù) cũng được trẻ em yêu thích. Ta có thể bắt gặp những đứa trẻ túm năm tụm ba, bỏ quên hết nhọc nhằn của cuộc sống, những bài học khó để cuốn theo vòng xoáy của những con quay. Từng vòng, từng vòng xoay tít, vui thú với những cú đánh lắc bổ nhào trúng quay của đối phương, cuộc sống của chúng dường như chỉ có vậy. Con quay được tiện hay đẽo bằng gỗ, hình giống quả ổi; tuỳ theo từng địa phương, dân tộc mà con quay có thể có hoặc không có núm (còn gọi là tu) ở phía trên. Bên dưới thân quay có “chân” làm bằng gỗ hoặc bằng đinh hình chóp nón hoặc không có “chân”. Khi chơi, các em quấn dây một vòng quanh tu, sau đó quấn dần xuống thân. Kẹp đầu dây còn lại có nút thắt vào giữa hai ngón tay để giữ dây, sau đó vung tay liệng hoặc bổ quay rơi xuống đất. Lúc này, theo quán tính con quay sẽ Lớp 06CQD1
52
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
quay tít, gần như đứng yên (ngủ), sau đó các em khác ra bổ quay hoặc cứu quay và xác định người thắng cuộc. Trò chơi dân gian có nhiều thể loại phù hợp với các sở thích, cá tính khác nhau của nhiều đối tượng người chơi như sôi nổi, điềm đạm hay trầm tĩnh. Mỗi trò lại có một quy luật riêng, mang những sắc thái khác nhau khiến trẻ em chơi suốt ngày mà không thấy chán. Rồng rắn lên mây, cướp cờ... là trò chơi nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp. Đẩy gậy lại có nhiều nét tương đồng và gần gũi với môn thi đấu vật hay chọi trâu của người lớn. Trò kéo co cũng thể hiện tinh thần thượng võ, rèn luyện thể lực và sự nhanh nhẹn, khéo léo. Đánh đáo, chơi chuyền, chơi ô ăn quan lại rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cá nhân, khả năng tính toán, phán đoán chính xác. Từ chỗ ganh đua mang tính chất tượng trưng, dần dần các trò chơi trở thành những cuộc thi tài, thi khéo, các cuộc thi đấu thể thao như bi sắt, nhẩy ngựa, đá cầu... Trò chơi dân gian chủ yếu dành cho trẻ em ở các vùng nông thôn nên cái tên cũng giản đơn, nôm na như tên thằng Tí, con Na, thằng Ốc, cái Hến vậy: nào là đánh đáo, đánh quay, nào là đi cà kheo, nổ pháo đất... Hơn nữa, các trò chơi dân gian Việt Nam thường giản tiện, không cầu kỳ, tốn kém nên có thể dễ dàng chơi mọi lúc, mọi nơi, dụng cụ dễ kiếm, dễ làm, chủ yếu lấy từ trong tự nhiên, thậm chí chỉ là cái gậy, hòn đá, hòn bi chúng có thể nhặt trong vườn, dưới ruộng là có thể lập được một hội chơi. Người chơi thường là những trẻ chăn trâu lê la túm tụm ngoài bãi cỏ, ngoài việc vui đùa, rèn luyện thân thể, còn thể hiện nỗi khát khao chiến thắng tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ. Những ngày lễ chính: Ngày tháng
Số ngày Tên 1 Tết Dương Lịch
1/ 1 Từ 30 /12 (AL, hay 29 / 12 nếu 4 tháng thiếu) đến 3 / 1 10 / 3 (AL) 1 30 / 4
1
1/5
1
Lớp 06CQD1
Tết Nguyên Đán
Ghi chú AL
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương AL Ngày Chiến thắng, thống nhất đất nước Ngày Quốc tế Lao động 53
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành 2/9
1
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Quốc khánh
2.2. Mỹ Người Mỹ không chỉ bắt tay mà còn ôm choàng lấy nhau và vỗ lên vai nhau 2, 3 lần khi gặp nhau; thường hay "high-five" với nhau (bàn tay phải giương cao đánh vào bàn tay phải của bạn bày tỏ vui mừng chiến thắng); giơ ngón cái nắm chặt để khen ai đó, hoặc đưa hai ngón trỏ và ngón giữa thành hình chữ "V" để chúc thành công, chiến thắng (Victory). Người Mỹ, tuy ở lần đầu giao tiếp nhưng nhanh chóng xưng mình bằng tên. Thế nhưng là khách ngoại, mới quen, bạn đừng vội vã có những cử chỉ ấy khi giao tiếp với đối tác Mỹ. Và tuy đã thân quen nhau từ lâu nhưng nếu ta gõ cửa nhà hàng xóm thăm hỏi mà không gọi điện báo trước sẽ bị xem là khiếm nhã. Ngoài ra, hai người bạn trai không bao giờ nắm tay nhau (vì sợ bị xem là "gay", tức đồng tính luyến ái) và khi đám bạn rủ nhau đi ăn, sau đó họ "going Dutch" hoặc "splitting the bill" tức phần ai nấy trả, hoặc chia đều hoá đơn. Và tuy vừa nhận danh thiếp từ tay khách ngoại quốc và có sẵn danh thiếp trong túi áo, họ sẽ không chìa nó ra trừ khi được yêu cầu! Trong làm ăn, người Mỹ trọng nhất sự đúng giờ. Nhưng bạn có thể trễ đến nửa tiếng nếu dự… cocktail. Trong xã giao hàng ngày, người Mỹ thường thích khen và nhận lời khen. Sau cái bắt tay chặt, mạnh, mắt nhìn thẳng vào mắt là vài câu hỏi thăm sức khoẻ, tình hình công việc tiến triển ra sao. Nếu bạn được giới thiệu với phu nhân một doanh nhân Mỹ thì nhớ tránh hỏi tuổi. Và cũng đừng quên rằng tặng mỹ phẩm, dầu thơm, áo quần cho bà ta là không phù hợp với văn minh kiểu Mỹ. Những nét đặc trưng 1-Yêu thích sự tự do, độc lập và phóng khoáng 2- Thích chan hòa, cởi mở, chia sẻ và vui vẻ 3- Thích bình đẳng, không lệ thuộc và chỉ dạy người khác Lớp 06CQD1
54
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
4- Luôn năng động, tự lập và cầu tiến cho bản thân 5- Không ưa dè dặt, nề nếp kín đáo bề ngoài 6- Thích làm việc thật sự sáng tạo, có năng suất và hiệu quả cao 7- Tiết kiệm thời gian, thích giải quyết công việc dứt khoát và nhanh chóng 8- Làm việc khoa học và trật tự với những khuôn khổ được tiêu chuẩn hóa 9- Phụ nữ được quý trọng và bình đẳng trong công việc và trong cuộc sống 10- Thích được phục vụ chu đáo và cởi mở 2.3. Trung Quốc Thói quen và cách ứng xử, xưng hô Người Trung Quốc có một “chức danh” cho mỗi một thành viên trong gia đình. Điều đó là do về mặt lịch sử gia đình Trung Quốc là một gia đình mở rộng với vài thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà. Xưng hô cũng là vấn đề khá rắc rối và phức tạp. − Nếu gặp người đứng tuổi bạn nên xưng “lao” có nghĩa “già” đặt trước họ của người đó. − Nếu gặp người trẻ tuổi hơn bạn nên xưng “xiao” có nghĩa là “tiểu” được gắn với tên của người đó. − Người Trung Quốc thường xưng hay gọi nhau bằng “xian sheng”có nghĩa là “tiên sinh” được đặt sau họ của người mà bạn muốn xưng hô. Ví dụ như ông Trương thì được xưng hô “zhang xian sheng”. Còn đối với phụ nữ nếu đã có chồng thì nên xưng “tai tai” theo họ của chồng, còn đối với phụ nữ chưa chồng thì nên xưng “xiao jie” có nghĩa “tiểu thư”. − Ngày nay, giới chủ (doanh nghiệp) thường gọi nhau bằng họ rồi mới tới chức vụ, thông thường nhất gọi là “lao ban” có nghĩa là “Ông Chủ”. − Người Hoa thích sử dụng bí danh. Họ thích làm nổi bật những gì đặc biệt ở người khác. Ví dụ: nếu có một người gọi là Hùng mập, điều đó chỉ vì người đó mập và có tên là Hùng. Nhưng điều này đôi lúc lại làm cho người nước ngoài khó chịu. Đồng thời người Hoa cũng rất thích đùa cợt nên bạn đừng bao giờ tỏ ra giận dữ khi được hỏi “sao bạn mập thế?” Lớp 06CQD1
55
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
− Có rất nhiều người Trung Quốc có một tên Tiếng Anh để dễ xưng hô hơn với người Phương Tây và Bắc Mỹ. Họ luôn cố tạo ra sự khác biệt với người khác, nên bạn sẽ nghe được những tên tiếng Anh rất lạ và ít gặp. Người Trung Quốc không thích nói thẳng, trực tiếp. Họ chẳng bao giờ nói không với bất kỳ một lời yêu cầu nào hay lộ vẻ không đồng ý ra ngoài mặt với bất kỳ điều gì. Họ luôn che giấu tình cảm của mình, thường là bằng một nụ cười mỉm hay cười to. Nếu có ai đáp lại một lời yêu cầu bằng cách nói “để sau” rồi sau đó “quên mất” thì điều đó thường có nghĩa là họ không thể đáp ứng lời yêu cầu đó được. Đừng nên trả lời thẳng thừng vì điều đó bị xem là bất lịch sự. Thay vì nói không bạn nên nói là “có lẽ”; “tôi sẽ nghĩ về điều này”; “chúng ta sẽ xem sau”. Và để nó vào dịp sau. Người Trung Quốc sẽ cũng làm như vậy. Bạn nên chú ý vì rằng cho dù đối tác Trung Quốc của bạn cười hay ẩn ý, hay nói “không vấn đề gì đâu” ; “vấn đề không quá nghiêm trọng” thì thật sự ý họ là “vẫn có vấn đề”. Chính vì họ không thích bị nói thẳng nên nếu có phê bình họ thì nên khéo léo hoặc là trình bày trong một dịp nào đó thích hợp. Vì thế những người thành công ở Trung Quốc là những bậc thầy về tâm lý ngoại giao hơn là kinh tế. Cách cư xử của họ ít nhiều cũng phụ thuộc vào cảm tính. Người Hoa thường tránh biểu lộ cảm xúc của mình. Nếu muốn biểu lộ sự ham muốn về điều gì đó thì họ chỉ diễn đạt bằng cách nói bóng gió hay những điệu bộ giả vờ. Còn trong tình cảm, họ thường cảm thấy bối rối khi phải thổ lộ tâm sự của mình. Họ thường có cử chỉ thẹn thùng, hai tay nắm chặt lại, khẽ quay mặt đi. Người Hoa thường từ chối trả lời những câu hỏi về cảm xúc bởi lẽ họ có quá nhiều xúc cảm. Khi bộc lộ cảm xúc, họ thường không giữ được bình tĩnh. Nếu có dịp bạn sẽ thấy có khoảng 20 người Hoa khi tiễn đưa người thân ra nước ngoài thì không hề to tiếng, nhưng bầu không khí thì buồn và có người chỉ rưng rưng nước mắt và ngậm ngùi, họ chỉ giấu cảm xúc ở trong lòng. Khi vấn đề gặp rắc rối thì người Hoa thường tỏ ra ngại ngùng khi trình bày. Ngược lại nếu công việc đơn giản và đúng sở trường thì họ sẽ luôn làm việc và luôn miệng nói cười. Sự khiêm tốn của người Trung Quốc không cho phép họ nhận những lời tán dương; thay vì thế họ thường khen người khác. Lời khen thường bị gạt sang một bên bằng một nụ cười bối rối và đáp lại bằng một lời khen trả. Chú ý: Lớp 06CQD1
56
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Khi xưng hô, thì bạn nên có từ “ông” hay “bà” trước họ của đối tác. Chỉ khi nào bạn đã thiết lập được một mối quan hệ thật sự thân thiết thì mới xưng hô bằng tên. Đây là điểm khác biệt đối với Việt Nam. Thái độ của người Trung Quốc đối với cuộc sống được ảnh hưởng bởi đạo đức Khổng giáo, nó dạy cho người Trung Quốc biết kính trọng và yêu thương đồng bào họ. Không được biểu lộ cảm xúc quá đáng về bất kỳ cái gì trong bối cảnh Trung Quốc, tránh bộc lộ những cảm xúc “khó ưa” như giận dữ và thất vọng, thậm chí còn bị coi là không đứng đắn. Cử chỉ khi xã giao Khi tiến hành xã giao thì bạn nên làm tốt công tác chuẩn bị và lưu ý một số vấn đề sau: Người Trung Quốc rất thích được người khác nói tiếng Hoa với họ vì vậy tót nhất bạn nên có một người biết tiếng Hoa để đón tiếp họ. Người Trung Quốc thường gật đầu như là chào xã giao. Chào cúi đầu chỉ được sử dụng trong các buổi lễ. Bắt tay rất thường được sử dụng, nhưng hãy chờ đối tác bắt đầu trước. Tránh biểu hiện những cử chỉ không cần thiết và khuôn mặt không được bình thường. Người Trung Quốc không dùng tay trong khi nói chuyện, điều này sẽ làm khó chịu người đối thoại với bạn. Tuy nhiên một số cử chỉ bằng tay cũng rất cần thiết trong hai trường hợp sau: •
Nếu bạn muốn tạo sự chú ý hãy úp bàn tay xuống và vẫy những ngón tay về phía mình.
•
Sử dụng cả bàn tay để chỉ thay vì chỉ sử dụng ngón trỏ.
Người Trung Quốc không thích bị chỉ bởi người lạ mặt, trừ khi đó là người có tuổi và ở vị trí vị trí cao hơn họ. Cười không được coi là tạo sự chú ý ở Trung Quốc, do đó là sự biểu lộ cảm xúc quá mức. Những người cùng giới có thể nắm tay nhau để thể hiện tình bạn .Và sự khác biệt giới tính được đặt lên trên hết ở nơi công cộng. Không cho tay vào miệng vì cử chỉ đó rất thô tục. Do đó nên tránh cắn móng tay hay xỉa răng và những hành động tương tự ở nơi công cộng. Khạc nhổ nơi công cộng là không thể chấp nhận. Lớp 06CQD1
57
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Người Trung Quốc rất quan tâm đến việc trao danh thiếp, vì thế hãy chắc chắn rằng bạn có mang đủ danh thiếp, một mặt in tiếng Anh, mặt khác in tiếng Trung Quốc, đặc biệt in bằng tiếng địa phương rất được hoan nghênh. Trong danh thiếp bạn nên in chức danh. Đặc biệt bạn có thâm niên để ra quyết định. Trong văn hóa kinh doanh Trung Quốc, cốt lõi chính của việc trao đổi danh thiếp là quyết định ai là người có khả năng quyết định bên phía của bạn. Nếu công ty của bạn lâu năm và lớn nhất ở quốc gia của bạn hoặc có tiếng tăm thì hãy thể hiện nó trên danh thiếp. Bạn nên in danh thiếp bằng mực màu vàng vì màu vàng ở Trung Quốc thể hiện sự tiếng tăm và giàu có. Đọc danh thiếp khi được trao và không cất ngay vào túi, điều đó thể hiện sự tôn trọng. Trong khi giao tiếp thương lượng Nói những câu ngắn gọn và đơn giản. Khi dùng những từ ngữ chuyên môn và tiếng lóng. Đừng một cách thường để mọi người có thể hiểu kịp gì bạn nói. Giữ thể diện là một khái niệm quan trọng phải hiểu. Trong văn hóa kinh doanh của Trung Quốc, tiếng tăm và vị trí xã hội của một người vẫn còn lại trong khái niệm này. Lúng túng hay mất bình tĩnh ngay cả trong trường hợp không chú tâm là những điều có thể gây thất bại trong những cuộc đàm phán. Theo thông lệ trong văn hóa kinh doanh Trung Quốc. Khi bước vào phòng họp người trưởng đoàn sẽ vào trước. Bạn cần chú ý điều này và làm giống như họ để tránh xác định sai người trưởng đoàn, người có tư cách quyết định. Trong cuộc đàm phán người có quyền chức cao nhất là người được mong đợi để dẫn đầu cuộc thảo luận, sự ngắt ngang của bất kỳ cấp dưới nào được xem như là cú sốc đối với người Trung Quốc. Khi đàm phán, thương lượng bạn nên khiêm tốn, vì trong văn hóa kinh doanh của người Trung Quốc, khiêm tốn là có đạo đức. Những yêu cầu cường điệu, thái quá sẽ được xem xét với sự ngờ vực, và những yêu cầu cá biệt sẽ bị điều tra. Trong thương lượng nổi nóng sẽ chẳng đem lại một sự tôn trọng nào, mà chính sự kiên nhẫn, mềm mỏng, sáng tạo lại là chiếc chìa khóa thương lượng thành công của Trung Quốc. Hầu hết người Trung Quốc coi thương lượng là một tình huống ăn thua, thái độ này hòan toàn tương phản với các nước Châu Á khác, nơi mà người ta luôn cố gắng để cho cả đôi bên sau khi thương lượng đều đạt đến trạng thái ăn. Lớp 06CQD1
58
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Người Trung Quốc thích thương lượng theo kiểu "trả giá", họ bắt đầu với giá cao và mong bạn sẽ đồng ý. Bạn nên chờ đến giai đoạn cuối của cuộc thương lượng, khi đối tác Trung Quốc bắt đầu đánh đòn quyết định về mặt giá cả, hãy làm bộ đưa ra một sự giảm giá, điều này sẽ đem lại cho các thương nhân Trung Quốc một sự vui sướng ra mặt, vì họ sẽ nghĩ rằng bạn đã nhượng bộ họ. Trong quá trình ký hợp đồng thì vai trò và quyền hạn của bản hợp đồng pháp lý đối với các bên là khác nhau. Đối với phương tây thì hợp đồng được coi là văn bản ràng buộc hàm nghĩa pháp lý, còn đối với người Hoa thì họ xem hợp đồng như là những nguyên tắc tổng quát và “tinh thần” trong một giao dịch. Vì các mối quan hệ tiến triển và các tình huống thay đổi, người Hoa quan niệm rằng các hợp đồng quá cứng nhắc để có thể đưa được các tình huống mớí vào thực hiện. Do đó chẳng có gì phải áy khi thay đổi một điều khoản của một thỏa thuận đã ký. Vì người Hoa rất coi trọng chức tước thứ bậc của người đàm phán nên trong quá trình ký hợp đồng nếu các quan chức cao cấp của bạn không thể đến, bạn có thể tìm những cách sáng tạo để phía đối tác coi trọng hơn địa vị của những ngừơi được cử đến đàm phán. Sắp đặt một cú điện thoại gọi đến từ một quan chức cao cấp của công ty hoặc bổ nhiệm những người đàm phán vào các chức vụ có thanh thế trong công tác đặc biệt này. Người Trung Quốc có khuynh hướng kéo dài của cuộc đàm phán về phía thời hạn hiệu lực chính thức để đạt được thuận lợi. Vào ngày cuối cùng của cuộc viếng thăm của bạn, họ có thể cố gắng đàm phán mọi điều khoản lần nữa. Một điều nữa nên nhớ, thể hiện ít cảm xúc, bình tĩnh chấp nhận nếu có bất kỳ sự trì hoãn nào, hơn nữa không nên đặt ra thời hạn hiệu lực. Sau khi giao tiếp thương lượng Kết thúc cuộc giao tiếp bạn nên rời khỏi trước đối tác Trung Quốc. Rời khỏi này được hiểu linh hoạt theo từng trường hợp, một ví dụ điển hình là sau khi đàm phán xong bạn nên đứng dậy trước sau đó đợi đối tác Trung Quốc đứng dậy, bắt tay rồi bước ra khỏi phòng trước. Sau quá trình đàm phán. Nếu kết quả tốt đẹp bạn nên giữ mối quan hệ tốt với họ để có các thuận lợi sau này. Còn nếu như bạn đàm phán thất bại, cũng đừng quá tuyệt vọng, bạn nên nhìn đối phương dưới lăng kính tích cực. Một đàm phán
Lớp 06CQD1
59
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
thất bại có thể là một đầu tư cho tương lai đừng để lại sau lưng những cảm giác không tốt. Để duy trì mối quan hệ bạn nên viếng thăm lui tới vài lần để đạt được mục tiêu của bạn. Người Trung Quốc thích thiết lập một mối quan hệ thân thiết trước khi kết thúc vụ làm ăn. Ngay cả khi hợp đồng đã được ký, người Trung Quốc vẫn tiếp tục thúc ép để có vụ làm ăn tốt hơn. Bạn có thể bị hỏi một số câu hỏi liên quan đến tuổi tác, thu nhập, tình trạng hôn nhân. Nếu bạn không muốn cung cấp những thông tin này, hãy vẫn trả lời tránh đi. Không nên thể hiện sự cáu giận đối với người hỏi. Bởi vì “mất mặt” thể hiện sự ngụ ý xấu trong văn hóa nước này. Mặc khác, nếu không quan hệ thân hữu với người chủ nhà Trung Quốc, bạn không nên hỏi họ về gia đình của họ, mặc dù, một cách điển hình bàn có thể hỏi “con bạn bao nhiêu tuổi?”; “bạn còn làm việc bao lâu nữa?” hoặc “con anh học ở đâu?”, vì chúng cùng nghĩa với tình trạng hôn nhân và tuổi tác. Ứng xử trên bàn ăn Người Trung Quốc rất xem trọng cách cư xử trên bàn ăn vì nó nói lên ý nghĩa của buổi tiệc mời. Thêm vào đó cách bày biện cũng thể hiện lòng mến khách hay khinh thường đối với người ngồi cùng bàn. Chiếc bàn là nơi thể hiện cách cư xử và phép xã giao. Để thể hiện lòng kính trọng, lòng mến khách bạn phải thường xuyên châm trà vào ly của người đối diện. Người Hoa sẽ ưu tiên gắp cho khách những miếng ăn thật ngon. Nếu bạn không ăn được thì cũng không nên từ chối và ngược lại nếu ngon thì cũng đừng nên ăn hết, phải chừa lại một ít để tỏ ý nhường nhịn người đối diện. Khi được gắp thức ăn, bạn đừng nên tỏ ra khó chịu vì đó là cử chỉ thể hiện lòng mến khách. Ngoài ra, người Hoa cũng rất sành về khoa ăn uống. Họ biết rõ phần nào là ngon, bổ trong các món ăn cá, thịt... Không nên dùng nĩa, dao để tách xẻ thịt, cá. Người Hoa thích dùng tay cầm đùi gà lên ăn. Dùng đũa hay muỗng để lùa mì vào miệng theo từng miếng lớn. Đừng ngạc nhiên nếu thấy một người Trung Quốc ăn uống phát ra tiếng ầm ĩ. Húp nước canh soàn soạt không bị coi là vô ý vô tứ, mặc dù nhai nhóp nhép quá to có thể bị coi là không được văn hóa cho lắm.
Lớp 06CQD1
60
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Người ta trước hết sẽ gắp cho mình những món ăn ở gần nhất. Khi gắp thức ăn từ bất kỳ đĩa nào cũng phải gắp ở phía gần với mình. Thức ăn cũng phải được gắp từ trên xuống. Sẽ là rất thô lỗ nếu dùng đũa đảo đĩa thức ăn để gắp những miếng ở dưới. Người ta cũng không bao giờ chọn cho mình miếng ngon nhất trong đĩa mà thường gắp chúng cho người già nhất trong gia đình hay là gắp cho khách. Người Trung Quốc cho rằng sẽ chẳng làm sao cả khi bỏ xương thậm chí còn được bỏ ngay xuống sàn nhà. Chỉ nên dùng đũa gắp những gì mà bạn có thể gắp một cách dễ dàng. Nghĩa là khi bạn đã đụng đũa đến miếng thịt nào thì phải gắp miếng thịt đó. Không gắp chuyền từ đũa này sang đũa khác vì như vậy là mất vệ sinh. Không nên chọc đũa xuyên qua thịt hoặc cá. Không chống đũa thẳng trong bát cơm vì đó thể hiện sự tang tóc hoặc ám chỉ thức ăn quá dở. Không bao giờ được dùng đũa đễ chỉ vào người khác hoặc để làm các cử chỉ khi nói chuyện. Cách tặng quà Trong bất cứ nền văn hóa nào thì tặng quà đều cần thiết để thể hiện thiện chí, trân trọng mối quan hệ hợp tác. Tuy nhiên, mỗi nền văn hóa lại có những khác biệt nhau. Vì thế bạn cũng cần tìm hiểu vài điều khi tặng quà cho đối tác của mình. Tặng một món quà giá trị cao là một phần quan trọng trong nét văn hoá kinh doanh trong quá khứ của Trung Quốc. Ngày nay, việc tặng quà trong kinh doanh đã bị cấm vì hành vi này được xem là hối lộ, là một hành động bất hợp pháp. Vì vậy, quà tặng của bạn có thể bị từ chối. Tuy nhiên, trong nhiều tổ chức, quan điểm về vấn đề tặng quà đã được cởi mở nhưng bạn phải thận trọng khi tặng quà và lưu ý những nguyên tắc chung dưới đây: Tặng quà cho một cá nhân, bạn phải tiến hành một cách kín đáo, trong một hoàn cảnh mang tính chất bạn bè, không phải là kinh doanh. Người Trung Quốc sẽ khước từ món quà 3 lần trước khi chấp nhận món quà này, để không tỏ ra là kẻ tham lam. Bạn phải tiếp tục nài nỉ họ. Một khi món quà được chấp nhận bạn hãy bày tỏ lòng biết ơn. Hy vọng là bạn cũng sẽ tuân theo thủ tục này nếu bạn được trao tặng một món quà. Nếu có mặt người khác, không bao giờ tặng một món quà có giá trị cho một người nào đó. Hành vi này sẽ khiến cho người ta bối rối, và thậm chí là những vấn đề khó xử cho người nhận. Lớp 06CQD1
61
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Dựa vào các nguyên tắc nghiêm ngặt chống lại hành vi đút lót trong văn hoá kinh doanh của người Trung Quốc. Không bao giờ chụp ảnh bất cứ cảnh trao tặng quà nào trừ khi đó là một món quà tặng tượng trưng trao tặng chung cho tổ chức, cơ quan. Trao tặng một món quà cho toàn bộ cơ quan, hơn là một cá nhân cụ thể, điều này có thể chấp nhận trong văn hoá kinh doanh của người Trung Quốc miễn là bạn phải tuân theo những nguyên tắc sau: Tất cả các cuộc thương lượng, giao tiếp cần phải kết luận trước khi trao đổi quà tặng. Đặc biệt là quà tặng phải là sản phẩm của công ty mà bạn đại diện. Nếu có thể, giải thích ý nghĩa của món quà cho người nhận. Hãy gói quà trong giấy màu đỏ, vì màu đỏ được coi là một màu may mắn. Giấy màu đỏ hoàn toàn là một trong những lựa chọn an toàn vì nó có nhiều ý nghĩa, trong đó có ý nghĩa phủ định, được tượng trưng cho bản sắc văn hoá của người Trung Quốc. Giấy màu hồng và màu vàng hoặc bạc cũng có thể chấp nhận được để gói quà. Bọc giấy màu vàng với chữ màu đen là quà tặng được quy định dành cho người chết. Ngoài ra, hãy kiểm tra sự khác biệt giữa các vùng về màu sắc. Vì các màu sắc có nhiều ý nghĩa khác nhau trong nét văn hoá của người Trung Quốc, lựa chọn an toàn nhất của bạn là phó thác nhiệm vụ gói quà cho một của hàng hoặc khách sạn có cung cấp dịch vụ này. Thông thường, các món quà không được mở ra khi có mặt của người trao quà. Những món quà được đánh giá cao Một chai rượu Cô-nhắc, hoặc loại rượu ngon khác Một cái bút đẹp [không phải là bút mực đỏ (Viết mực đỏ tượng trưng cho sự chia cắt mối quan hệ) Một máy tính dùng năng lượng mặt trời Các đồ dùng trong bếp Những con tem, nếu người nhận thích sưu tầm tem (sưu tầm tem rất phổ biến ở Trung Quốc) Một cái bật lửa hút thuốc, nếu người nhận hút thuốc. Lớp 06CQD1
62
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Một bữa tiệc nhỏ cũng sẽ được coi là một món quà đáng hoan nghênh; bởi lẽ nếu bạn được mời đi ăn tiệc, bạn sẽ phải tuân theo nghi thức kinh doanh của Trung Quốc và tiến hành trao đổi quà. Ở một số nơi trên đất nước Trung Quốc, mặc dù các quan chức địa phương là chủ của bữa tiệc, có thể người ta vẫn mong chờ bạn thanh toán chi phí của bữa tiệc. Hãy kiểm tra điều này và cần phải chuẩn bị. Quà tặng là thức ăn cũng được chấp nhận, nhưng không phải là trong các bữa tiệc. Những gói kẹo hoặc giỏ trái cây như là những món quà tặng mang ý nghĩa cảm ơn sau tất cả những sự kiện này. Số 8 là con số may mắn trong văn hoá Trung Quốc. Nếu bạn nhận được 8 gói quà, hãy coi đó là một hành động thiện chí. Số 6 được coi là phúc lành cho sự việc hanh thông và thuận lợi không vướng mắc điều gì. Số 4 là con số phải kiêng vì nó có ý nghĩa 'cái chết'. Những con số khác ví dụ như '73' có nghĩa là 'đám tang' và '84' có nghĩa là 'gặp tai ương' vì thế cần phải tránh những con số này. Những món quà cần tránh Kéo, dao, hoặc những vật sắc nhọn có thể được hiểu là cắt đứt quan hệ hoặc lời cam kết. Nếu bạn muốn dùng nó làm quà tặng hãy nói với người được tặng quà đưa cho bạn một ít tiền, có thể là 10 xu hoặc một đồng Nhân dân tệ để trả cho những mặt hàng này. Bằng cách làm như vậy có nghĩa là bạn đã “bán” những mặt hàng đó cho anh ta hơn là trao tặng. Những mặt hàng dưới đây cần phải tránh vì chúng gắn liền với lễ tang Một đôi sandal bằng rơm Cái khoá Khăn tay Bất cứ 4 mặt hàng gì (Tiếng Quảng Đông từ số “bốn” nghe tương tự như từ “chết”) Những quà tặng hoặc giấy gói quà màu trắng, đen, hoặc xanh. Ý nghĩa các con số Các con số đóng vai trò quan trọng trong văn hoá Trung Quốc đặc biệt là chọn ngày sinh, ấn định ngày cưới và đặt tên. 6,8,9 là các con số may mắn trong khi 1,4,7 mang lại sự xui xẻo. Lớp 06CQD1
63
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Số 9 khi phát âm có nghĩa là "bất diệt" trong khi số 6 có nghĩa là mọi việc sẽ xuôi chèo mát mái. Các số điện thoại, các biển số đăng ký xe và ngay cả số nhà bao gồm các số này ngày càng nhiều. Trái lại, người ta tránh mọi thứ liên quan đến 4, 7, 1 một cách triệt để. 4 nghe giống như là chết, 7 phát âm cũng giống "qua đời" còn 1 có nghĩa là sự cô đơn. Vì vậy, khi chọn phòng cho khách Trung Quốc, chúng ta nên chọn những phòng gắn liền với những con số may mắn này, điều này sẽ làm cho khách cảm thấy yên tâm và thoải mái hơn. Và nên tránh tất cả những gì liên quan đến con số mang lại sự xui xẻo, người Trung Quốc có thể cho đây là điềm gỡ, không may khi tiếp xúc với chúng ta. Nhất là khi bày biện thức ăn trên bàn ta cũng nên tránh các món ăn có số lượng liên quan đến số 4 và 7. Những đề tài được khuyến khích thảo luận khi bạn nói chuyện với người Trung Quốc
Danh lam thắng cảnh Trung Quốc.
Thời tiết, khí hậu và địa lý Trung Quốc.
Những chuyến du lịch của bạn ở quốc gia khác.
Ấn tượng đẹp đẽ của bạn khi du lịch ở Trung Quốc.
Nghệ thuật của Trung Quốc. Những đề tài nên tránh
Không nên dùng cụm từ “Trung Quốc Đại Lục (Mainland China)”, “Trung Quốc Cộng Sản (Communist China)”, “Trung Quốc Xô Viết (Red China)”. Bạn cần tránh đề cập đến vấn đề Đài Loan. Nếu nói đến đề tài này bạn đừng bao giờ xem đây như là một “Nước Cộng Hòa ( The Repulic of China)” hay “Dân tộc ( Nationalist China)” thuộc Quốc Trung Hoa. Cụm từ đúng được dùng là “Địa phận Đài Loan ( Taiwan Province)”, hay chỉ đơn giản là “Taiwan”.
2.4. Nhật Bản Lễ hội Aizu: Lớp 06CQD1
64
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Đây là lễ hội nổi bật nhất , đặc sắc nhất , lễ hội này diễn ra 4 lần trong 1 năm tại tỉnh Wakamatsu. Trong 4 lần lễ hội ấy thì lần tổ chức lớn nhất là lễ hội mùa thu 3 ngày (đuợc bắt đầu từ ngày 22/9 hàng năm) . Khi ấy , những người đàn ông sẽ cải trang thành các samurai và tổ chức diễu hành qua các con đuờng lớn của thành phố, sau đó đám rước sẽ trở về cúng lễ tại lâu đài Tsuragajo. Ngoài ra , trong suốt lễ hội mùa đông diễn ra vào tháng 2 , bầu trời của thành phố sẽ đầy ắp những bông pháo hoa được bắn lên vào buổi tối. Lễ hội Ashinokami Ayu: Lễ hội này được tổ chức vào ngày 1-5/8 hàng năm tại tỉnh Wakamatsu . Ayu là 1 địa danh nằm gần con sông Okawa thơ mộng . Nơi này là 1 trong những thắng cảnh du lịch nổi tiếng vào mùa xuân . Tại lễ hội này , mọi người sẽ có dịp thưởng thúc kawara-yaki (món thịt nướng chả) , và đuợc ngắm các vũ công xinh đẹp trong điệu vũ bon-odori , tất nhiên là không thể thiếu đuợc màn bắn pháo hoa hằng đêm. Lễ hội Ava odori: Đây là lễ hội múa dân gian ở Tokusima diễn ra vào giữa tháng 8 và lễ hội ở Nikko diễn ra vào giữa tháng 10. Lễ hội Aoi: Aoi Matsuri nổi danh là lễ hội cổ xưa nhất thế giới. Nó được tổ chức vào ngày 15 tháng Năm giữa lúc những bông anh đào cuối cùng sắp rụng và những bông diên vĩ đầu tiên sắp nở. Cao điểm của lễ hội là đám rước Hoàng gia, diễn ra với trang phục của thời kì Heian, với những chiếc xe bò của Nhật hoàng được sơn phết đẹp đẽ. Mọi người mặc những bộ Kimono gấm thêu có tay áo rộng thùng thình, những cái mũ đen ngộ nghĩnh ngự trên đầu những người tùy tùng, những bộ yên cương trang trí cầu kì, cùng cái lọng khổng lồ được trng trí bằng hoa đã làm cho Aoi Matsuri trở thành 1 cảnh tượng lóa mắt.
Lễ hội Bon:
Lớp 06CQD1
65
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Mục đích của lễ Bon ,hay O-Bon,là việc dâng những lời cầu nguyện và thực hiện các nghi lễ múa hát trong tháng Đức Phật ,là tháng mà người ta cho là các hồn ma của người chết quay trở lại trái đất .Từ thế kỉ 14 đến nay,phong tục này đã trở thành 1 lễ hội ca múa và đèn lồng của mùa hè. Những chiếc đèn lồng và các ngọn nến được thả rơi trên các dòng sông (ngày nay bổ sung thêm pháo hoa) để hướng dẫn các linh hồn trở lại nơi cư ngụ của chúng ở thiên đường hay địa ngục.Tại các đền miếu và nghĩa địa ,nhưng ngọn đèn lập lòe mang 1 không khí lễ hội mê tín kì lạ và đầy cảm xúc. Tại các bãi đất trống trong làng ,người ta dựng lên các ngọn tháp.Ở đó những người đánh trống ,hoặc thêm 1 ban nhạc ,họ dựng sân khấu và nhảy múa suốt thâu đêm .Nắm tay nhau thành 1 vòng tròn quanh các ngọn tháp ,họ lập đi lập lại những cử động đơn giản hết giờ này đến giờ khác ,mê mệt như bị thôi miên. Lễ hội Bandai: Đây là 1 lễ hội vô cùng sống động, lễ hội này được tổ chức tại Inawashiro vào 2 ngày 25-26/8 hằng năm . Lễ hội đuợc bắt đầu bằng 1 buổi cầu nguyện cho linh hồn những nạn nhân của thảm hoạ núi lửa từng xảy ra vào năm 1888 . Ngoài ra, sẽ có 1 cuộc diễu hành bao gồm nghi thức sau: những ngọn đuốc nhỏ sẽ đuợc chuyền tay từ người này sang người khác để cùng nhau thắp sáng ngọn đuốc trung tâm rong tiếng trống và tiếng sáo trúc dặt dìu. Lễ hội Chichibu: Diễn ra vào ban đêm tại tỉnh Saitama vào ngày 2-12. Trong buổi hoà nhạc dân gian , kịch rối Kabuki sẽ đuợc diễn trên những sân khấu đặc biệt, đó là các kiệu hoa lộng lẫy. Vào buổi chiều tối, 4 chiếc kiệu hoa sẽ đuợc thắp sáng. Nguời ta sẽ bắn lên trời đúng 18000 phát phaó hoa. Đuờng kính của 1 hình pháo hoa to nhất là 310m. Lễ hội Daimonji: Mỗi năm khi lễ hội O_Bon vào tháng của các hồn ma lên đến đỉnh điểm vào đêm đốt lửa mừng và thắp đèn lồng trên toàn Nhật Bản, người dân Kyoto và các quận xung quanh im lặng theo dõi ngọn núi Nyoigatake. Vào tối ngày 16 tháng Tám Lớp 06CQD1
66
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
,ngọn lửa mừng được thắp lên và từ từ lan ra thành 1 chữ dai trên sườn núi .Chữ dai giống như 1 người đang dang tay dang chân ra. Những ngọn lửa mừng bao trùm trên 1 vùng khoảng 30.000 km2 . Rồi lửa bắt đầu được đốt lên tại các sườn đồi khác, cái nào cũng là chữ dai .Nó là sự kết thúc đẹp mắt tháng của lễ hội chào đón các hồn ma đến từ thế giới khác. Lễ hội Gion: Diễn ra vào ngày 17-7. Đây là 1 trong 3 lễ hội lớn nhất Nhật Bản . Lễ hội này đã được tổ chúc từ hơn 1100 năm nay. nguồn gốc của lễ hội này là để xua tan những ý nghĩ độc ác và những tệ nạn ra khỏi xã hội. Ngày 17/7 là cao điểm của lễ hội. Một tá những xe kiệu hoa lộng lẫy sẽ diểu hành trên đuờng phố. Những ngôi nhà cổ ở Kyoto sẽ treo các tấm mành che dát vàng bên cửa sổ , đây là những di sản quí giá nhất của cố đô. Lễ hội Hina (Ngày hội các bé gái): Ngày 3/3 là ngày Tết dành cho các em bé gái, còn gọi là “Tết ngẫu nhân” ( ngẫu là những pho tượng hình người). Mục đích của ngày Tết này là cầu chúc cho hạnh phúc sẽ đến với các em trong tương lai. Vào ngày đó, gia đình có các em bé gái sẽ tiến hành một số nghi lễ phong tục. Họ sẽ mua về những bộ búp bê thật đẹp. Thường phải có đến trên 10 con búp bê, 2 con búp bê vua và hoàng hậu được bày ở hàng cao nhất. Búp bê thường được bày cùng với những đồ đạc và thức ăn đồ chơi cũng thanh tú và tinh xảo như những con búp bê vậy. Một loại kẹo đặc biệt cùng với sake nhẹ được mang ra để uống. Và các cô bé gái đóng vai chủ nhà tiếp đãi các chú bé trai và bạn bè đến chơi nhà cùng chiêm ngưỡng những con búp bê. Hina matsuri là ngày của chúng. Lễ hội Hanami (Ngày hội ngắm hoa anh đào): Khoảng từ tháng 3 đến tháng 4 là mùa hoa anh đào nở, và Nhật Bản đã chọn khoảng thời gian từ 15/3 đến 15/4 làm “ Tết anh đào”. Đến đầu tháng 4 hàng năm, tại Tokyo, chính phủ có cử hành lễ hội thưởng thức hoa anh đào, họ mời các quan chức, những người có tên tuổi trong xã hội Nhật và các vị khách quốc tế tới cùng tham dự, và đích thân Thủ tướng Nhật phải chủ trì lễ hội này. Do sự khác nhau về khí hậu giữa miền Nam và miền Bắc, nên ở Nhật hoa anh đào nở Lớp 06CQD1
67
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
dần từ phía Nam lên phía Bắc, kết thúc ở 4 hòn đảo ở biển Bắc. Vì thế thời gian hoa anh đào nở kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7. Trong khoảng thời gian ấy, nhân dân trong nước khắp nơi nơi đều cử hành các hoạt động thưởng thức hoa anh đào truyền thống, hầu hết tất cả mọi người, từ người già cho tới các em nhỏ đều đến công viên hoặc một nơi nào đó để thưởng hoa. Tại công viên Thượng Dã ở Tokyo hàng năm có tới hàng chục vạn người tới để xem hoa anh đào. Mọi người tụ họp dưới gốc cây ngửa mặt lên trời ngắm hoa. uống rượu và nhảy múa náo nhiệt thâu đêm suốt sáng. Lễ hội Hirosa (Lễ hội trồng lúa): Diễn ra vào ngày CN đầu tiên của tháng 6. Tại Nhật Bản, tháng 6 là tháng để bắt đầu 1 vụ mùa mới. Có rất nhiều lễ hội trồng lúa đã được tổ chúc tại Nhật Bản. Tại khu phố Mibu, các cô gái Satome sẽ hát những bài dân ca Nhật Bản về vụ mùa lúa và hi vọng rằng sẽ có 1 vụ mùa bội thu vào cuối tháng. Lễ hội Higashiyama Bon-odori: Lễ hội này được xem như là nơi tụ họp của các vũ công Bon-odori nổi tiếng nhất Nhật Bản . Llễ hội này đuợc tổ chức tại tỉnh Wakamatsu từ ngày 13-20/8 hằng năm . Nhửng pháo đài đầy màu sắc sẽ đuợc dưng lên cạnh bờ sông Yugawa , các vũ công sẽ nhảy múa suốt cả ngày đêm trong tiếng nhạc dặt dìu của 1 bài hát dân tộc, bài Aizu Bandai-san. Lễ hội Hanamatsu: Lễ hội đền Suwa ở Hanamatsu tại Shizuoka không giống như các lễ hội đền khác. Nó bao gồm cả Hanamatsu Odakoage-1 cuộc thi chọi diều trên bãi biển Nakatajima. Có tới khoảng 60 đội chơi tham dự, họ điều khiển hết sức khéo léo những con diều khổng lồ và cố gắng xoay sở để cắt đứt dây diều đối phương bằng cách cọ đứt nó bằng dây diều của mình trong 1 không khí rất náo nhiệt và vui vẻ. Lễ hội Hakone Torii: Đây là lễ hội được tổ chức bởi những du lịch ở hồ Hakone. Lễ hội được bắt đầu bằng việc thả 1 cái cổng chào (Torii) giả bằng giấy trên 1 cái bè xuống mặt hồ để Lớp 06CQD1
68
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
cầu được bình yên lúc đi du lịch. Nó cứ trôi bồng bềnh như thế cho đến ngày lễ hội và làm lóa mắt người xem bằng 1 cảnh tượng chói lọi khi người ta thắp sáng cái cổng chào có kích thước to như thật bằng hàng ngàn chiếc đèn lồng trang trí ở trên đó. Lễ hội Hanagasha Odori: Là 1 trong những lễ hội lớn nhất tại Tohoku, tổ chức ở Yamagata từ mùng 8 đến 16 tháng Tám. Vũ điêu Hanagasha (Cái nón vẽ hoa) tràn ngập những cô gái múa những chiếc nón trên đầu vòng xuống đầu gối thành 1 hình tròn trong giai điệu đều đều của tiếng nhạc cùng hàng ngàn giọng nói cùng hét lên thật đều: “ Yassho! Masako! Yassho! Masako! ” Lễ hội Karatsu Kunchi: Tháng 11 là tháng của lễ hội Karatsu Kunchi. Lễ hội này đuợc tổ chức hơn 300 năm nay. Những tác phẩm nghệ thuật thủ công khổng lồ đuợc làm tỉ mỉ , tinh xảo và đuợc mạ vàng hình sư tử , cá heo , cá vàng... sẽ đuợc diễu hành khắp thị trấn. Lễ hội Kaze no bon: Diễn ra từ 20-8 đến 3-9. Bài hát Owara là bài dân ca nổi tiếng nhất của vùng Toyama. Nhịp điệu bài hát rất hay, tinh xảo và mọi nguời nhảy múa với những động tác khéo léo như đồng loạt vẫy tay tạo thành con sóng nhỏ. Nguời dân địa phương mặc những bộ áo kimono bằng cotton và nhảy múa khắp thị trấn. Lễ hội Kurofune Được tổ chức vào ngày 17 tháng Năm, kỉ niệm ngày Đô đốc Perry đổ bộ lên Shimoda ở bán đảo Izu. Kuro nghĩa là “đen”, và fune nghĩa là “con tàu”. Lễ hội Nebuta: Diễn ra từ mùng 3 đến mùng 5 tháng Tám tại Aomori. Nebuta matsuri là lễ hội mùa hè tại Nhật Bản. Lễ hội đựơc tổ chức để xua đi sự oi bức và buồn chán của mùa hè. Những vũ công sẽ hét lên "Rassena, Rassena , Rasse, Rasse..." và những chiếc đèn lồng khổng lồ sẽ diểu hành dọc trên đuờng phố.
Lớp 06CQD1
69
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Lễ hội Nada Fighting: Diễn ra vào ngày 14 tháng Mười tại Hyogo. Lễ hội này diễn ra như sau: 1 chiếc kiệu hoa Danjiri xuất hiện cùng với 1 cái trống to. Nguời ta vừa đánh trống vừa tổ chức khênh 3 bàn thờ nhỏ đến thánh đưòng. Những nguời đàn ông khênh 3 bàn thờ nhỏ này sẽ phải chạy và tông thẳng vào nhau. Nguời ta nghĩ rằng càng tông vào nhau nhiều thì thần linh sẽ càng vui và sẽ mang đến sự thịnh vuợng cho thị trấn. Lễ hội Namahage: Được tổ chức tại ngôi đền Akagami ở thành phố Oga. Sau khi cầu nguyện trước ngọn lửa mừng, các thanh niên chưa vợ khoác lên người những bộ quần áo làm bằng rơm cùng với những cái mặt nạ gớm ghiếc. Họ đi từng nhà gõ cửa và hỏi: “Ngoào! Ngoào! Đứa trẻ hư trong nhà đâu nào?” rồi được mời vào nhà, ăn bánh gạo và uống sake rồi lại kéo nhau sang nhà khác. Lễ hội Okunchi: Diễn ra ở Nagasaki vào tháng Mười là một ngày hội nổi tiếng với điệu múa rồng có nguồn gốc từ Trung Quốc. Các xe diễu hành về những chiêc thuyền buồm thời Edo , các voi phun nước và những hình tượng khác đi diễu hành trong khắp thành phố. Lễ hội Onbashira: Lễ hội này đuợc tổ chức 6 năm 1 lần , vào năm Dần(cọp) và năm Thân (khỉ) theo lịch của Trung Hoa. Nguời ta đốn những cái cây to nhất từ đỉnh đồi để dựng thành 4 cái cột quanh 4 góc của thánh đường Sawa. Quang cảnh thú vị nhất của lễ hội là khi những người đàn ông ngồi trên những cái cây to để truợt xuống từ đỉnh đồi. Lễ hội O-Taeu: Lễ hội này được tổ chức tại thánh đuờng Isamushi thuộc tỉnh Takada vào ngày 12/7 hằng năm . Đây là 1 trong 3 lễ hội trồng lúa lớn nhất tại Nhật Bản đề cập đến 1 Tại lễ hội này , các cô thôn nữ sẽ múa điệu vũ "sa-otome" . Ngoài ra, sẽ có 1 đám rước diễu hành qua thành phố gồm những biểu tượng của cây lúa và những
Lớp 06CQD1
70
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
người đàn ông sẽ đội trên đầu những chiếc mũ được làm từ giấy trắng với những đường rua dài. Lễ hội Segazu (Lễ hội năm mới): Bắt đầu từ 27-12 người Nhật Bản đã lo chuẩn bị đón Tết và gọi 3 ngày chuẩn bị này là “3 ngày trước Tết”. Họ làm các loại bánh để ăn trong những ngày Tết nhưng ngày 29 thì tuyệt đối không ai làm bánh cả vì theo tiếng Nhật “chín” phát âm giống chữ “khổ”. Họ cho rằng hôm đó mà làm bánh thì sẽ là thứ “bánh khổ”. Ai ăn phải chiếc “bánh khổ” cả năm sẽ gặp toàn chuyện rủi ro. Vì vậy người Nhật Bản rất kiêng làm bánh vào ngày 29. Nhà nào nhà nấy đều lo dọn dẹp, dựng cổng chào kado-matsu (cổng gồm 3 cây tre trang hoàng thêm những cành thông nhỏ) trước nhà. Chắn ngang qua cổng là những sợi shimenawa (rơm bện với những giải băng giấy ngũ sắc dán xung quanh). Trong nhà, phòng nào cũng được trang trí thêm những vật trang sức bằng rơm rạ. Đồ trang trí phải bày biện trước 30 tết và tới mùng 7 tháng 1 mới dọn đi. Trong 7 ngày đó, người Nhật đi thăm viếng người thân, bạn bè. Ba ngày đầu, nhà nào cũng uống rượu sake ngọt, ăn bánh canh bột gạo và chúc nhau mạnh khỏe. Trước cửa nhà sẽ đặt một chiếc khay để đựng thiệp chúc mừng của hàng xóm, người quen, bạn bè. Ngoài ra người ta còn chúc miệng nhau những lời chúc tốt lành. Thường còn gửi cả thiệp mừng tân xuân cho người cao tuổi, thân thích, họ hàng kèm theo quà tặng (gọi là oto shidama) nếu họ ở xa. Mùng 2 tết là khai trương nếp sinh hoạt thường nhật của năm mới. Mọi thứ vào ngày hôm đó đều diễn ra lần đầu: quét dọn, làm lụng, vui chơi. Giấc ngủ đầu tiên trong năm mới gọi là hatsuyume. Ngày xưa, trước lúc ngủ, người ta thường đặt dưới gối bức vẽ những chiếc thuyền chở đầy vàng bạc, châu báu để đem lại may mắn cho năm mới. Mùng 7, cả nhà sẽ quây quần bên mâm cháo nấu bằng 7 thứ rau để trừ ma. Ngày nay, người Nhật thường dùng các thứ rau đậu dễ kiếm như: mùi tây(seri), rau hakobe, rau tề (nazuna), tía tô đốm trắng (hotokenoza), cải củ (suzuna), củ cải đen (suzuhiro), rau khúc (hahakogusa). Hồi trước gia đình nào cũng ăn mừng rất thịnh sọan, cắt đồ, gia vị vào nồi cháo chỉ chủ nhà mới được làm, còn kẻ dưới Lớp 06CQD1
71
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
thì chỉ đứng nhìn, tay khoanh trước ngực rất mực cung kính. Hiện giờ lệ đó hầu như không còn nữa. Ngày nay, việc đón mừng năm mới của người Nhật không còn cầu kỳ, trang trọng như trước, một số nghi lễ được bỏ qua, đặc biệt ở các đô thị. Tuy nhiên nhiều điều vẫn được duy trì như đi chùa cầu an, khai bút đầu xuân.... và hiển nhiên, trong các ngày tết, phụ nữ Nhật sẽ mặc kimono truyền thống. Lễ hội Sanja: Lễ hội Sanja là lễ hội tiêu biểu của phố chợ Tokyo. Lễ hội này đã đuợc tổ chứv từ hơn 200 năm nay. người ta sẽ khênh trên vai 3 bàn thờ tổ chính và bắt đầu diểu hành từ thánh đuờng Sensou , sau đó 80 bàn thờ tổ khác cũng sẽ đuợc khênh diễu hành qua 44 quận của vùng Asakusa. Lễ hội Shiraoi-no-Iomante: Đây là lễ hội săn bắn trọng thể của người Ainu, những cư dân bản địa của Nhật Bản mà giờ đây chỉ còn sinh sống ở Hokkaido. Lễ hội Tana bana: Lễ hội Tana bana được tổ chức hàng năm vào ngày 7 tháng Bảy, một vài địa phương khác lại tổ chức vào ngày 7 tháng Tám. Lễ hội Tana bana có nguồn gốc từ truyền thuyết dân gian Trung Quốc về cuộc gặp gỡ thơ mộng mỗi năm một lần của hai vì sao trong dải Ngân hà là Ngưu Lang (Altair) và Chức Nữ (Vega). Trong lễ hội này người ta viết những ước mong của mình lên những băng giấy màu và treo chúng lên cành tre. Lễ hội Tenjin: Trong lễ hội Tenjin, nguyên cũng là một nghi lễ tôn giáo , vô vàn những con thuyền nhỏ mang trống và búp bê hộ tống các thuyền diễu hành trang hoàng rực rỡ đi dọc theo các con sông của vùng Osaka . Lễ hội Toshogu: Đây là lễ hội tôn giáo phóng túng của Thần đạo. Ba bình đựng hài cốt được rước quanh rất nhiều lọ đựng hài cốt khác trong ngôi đền Toshogu quanh co bởi 1 đám Lớp 06CQD1
72
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
rước của hàng ngàn người mặc trang phục của thời Tokugawa,theo sau là đám đông ăn mặc lòe loẹt nhiều màu giả trang thành khỉ , sư tử , samurai , người nuôi chim ưng và tiên nữ... Có đủ mọi thứ cho mọi người :các điệu múa tôn giáo ,các điệu múa đặc biệt khác được các nhà sư biểu diễn và thậm chí còn biểu diễn tài bắn cung. Lễ hội Tooku Ebisu : Diễn ra vào ngày 10 tháng 1 ở Osaka. Naniwa là 1 khu phố buôn bán sầm uất tại Osaka. Lễ mừng năm mới ở Naniwa thường bắt đầu bằng lễ hội này. Những thiếu nữ may mắn đuợc chọn sẽ ngồi trên kiệu diễu hành qua những con đuờng lớn và tung những thanh tre với lời nguyện cầu 1 năm mới buôn bán thành công tốt, thuận lợi cho mọi nguời. Lễ hội Ura-Bandai Hi no Yama: Đây là lễ hội lớn nhất tại Ura-bandai , nơi đuợc mệnh danh là vùng đất của sông hồ và núi lửa. lễ hội này đuợc tổ chức tại khu phố Kitashiobara vào ngày 21/7 hằng năm. Những vũ công sẽ khoác trên người bộ áo Yukata (áo kimono bằng cotton) và trình diễn vũ điệu "bon-odori" nổi tiếng. Những chiếc đèn lồng nhỏ với những ngọn nến lung linh sẽ được thả trôi lênh đênh theo dòng nước, mang theo ước vọng của mọi nguời về 1 cuộc sống an bình, hạnh phúc. Lễ hội Yuky (Lễ hội tuyết): Diễn ra ở Sapporo vào đầu tháng 2. Tại lễ hội này, nguời ta sẽ đặt 170 nguời tuyết lớn dọc theo những con đuờng chính của thành phố. Đây là lễ hội tuyết lớn nhất tại Nhật Bản . Người tuyết to nhất sẽ có chiều cao khoảng 15m. Vào buổi tối, các nguời tuyết đuợc thắp sáng bằng các bóng đèn diện và tạo nên những cảnh tượng đẹp tuyệt vời. 2.5. Malaysia Tặng quà Đất nước Malaysia có luật nghiêm cấm nhận hối lộ. Việc nhận một món quà quá đắt tiền có thể bị xem là hành động hối lộ. Do vậy, bạn có thể sẽ gặp rắc rối với chính quyền. Lớp 06CQD1
73
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Cách tốt nhất là bạn nên tặng những món quà vừa phải. Ngoài ra, bạn nên lưu ý không nên đáp lại những món quà có giá trị lớn hơn giá trị món quà bạn đã nhận trước đó. Bạn không nên mở quà trước mặt người tặng Nên tặng quà bằng hai tay Những quà mang tính chất kinh doanh nên tặng như: những cây viết chất lượng tốt, những vật biểu tượng của đất nước hay thành phố của bạn. Những quà mang tính chất xã hội như những vật tượng trưng của đất nước bạn hay những thực phẩm cao lương mỹ vị Thông thường, trong văn hoá của người Malaysia, nam giới tặng quà cho nữ giới thường dễ xảy ra hiểu nhầm. Do vậy, nếu đồng nghiệp nam muốn tặng quà cho một đồng nghiệp nữ thì nên giải thích rằng vợ mình đã gửi tặng nước hoa, khăn quàng cổ hay những món quà tương tự cho họ. Không nên gói quà bằng giấy màu trắng vì màu này được xem như là màu của sự chết chóc. Ngoài ra, cũng nên tránh gói quà bằng giấy màu xanh, đen hay vàng Cách xưng hô Đọc chính xác tên riêng của người Malaysia là rất khó. Do vậy, bạn nên lặp lại tên và chức vụ của người đó và sau đó hỏi xem bạn đã phát âm chính xác chưa. Khi gặp các doanh nhân Malaysia, bạn nên xưng hô tên lẫn chức vụ. Nếu không có các chức danh như giáo sư, tiến sĩ, kĩ sư…thì có thể dùng “Mr.” hoặc “Mrs.” cộng với tên. Cách hành xử nơi công cộng Ngoài bắt tay, không nên có sự tiếp xúc nào nơi công cộng giữa những người khác giới. Ngược lại, điều này được chấp nhận ở những người cùng giới. Bạn có thể bắt gặp hai người đàn ông nắm tay nhau hay thậm chí tay Lớp 06CQD1
74
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
trong tay đi dạo trước mọi người. Hành động này được xem như là cử chỉ của tình bạn. Khi gặp một người Malaysia, bạn nên chủ động bắt tay.Đôi khi, họ có thể chào bạn bằng cái chào của người Malaysia, được gọi là “namaste”. Namaste là hình thức hai lòng bàn tay chạm vào nhau và được đặt ngang trước ngực, kèm theo là một cái gật đầu nhẹ. Đôi khi, namaste cũng diễn ra ngay sau cái bắt tay đầu tiên. Bạn có thể đáp lại bằng cách đặt bàn tay phải trước ngực sau khi bắt tay. Khi bạn được giới thiệu với một phụ nữ Malaysia, bạn chỉ nên bắt tay khi họ đã đưa tay ra bắt trước. Nếu họ không chủ động đưa tay ra bắt trước thì bạn chỉ nên cười và cúi chào Khi giới thiệu thì nữ giới được giới thiệu trước Các thành viên của hoàng gia là những người được tôn trọng nhất. Nếu bạn có cuộc gặp với một người quan trọng trong hoàng gia thì bạn nên chuẩn bị một món quà. Khi bạn được chào đón ở hoàng gia thì bạn phải đứng nghiêm. Để các thành viên của hoàng gia rời khỏi phòng thì bạn mới được phép. Khi gặp người lớn tuổi hơn thì bạn nên cúi chào khi gặp. Khi chào một người Malaysia vào buổi sáng thì bạn dùng “Salamat pagi”, vào buổi chiều là “Salamat petang” Không nên bỏ tay vào túi quần nơi công cộng Khi ra khỏi phòng thì nên nói “Xin lỗi” và kèm theo là cái gật đầu nhẹ Khi chỉ một vật hoặc một ai đó, tốt nhất là sử dụng tay phải (bàn tay được đặt ngửa). Ngoài ra, bạn cũng có thể chỉ bằng ngón tay cái hay ngoắc cả 4 ngón tay. Nhưng chắc rằng các ngón tay được vẫy xuống. Những người Malaysia lớn tuổi đôi khi hiểu ngón tay cái và ngón út là một sự xúc phạm.
Lớp 06CQD1
75
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Khi vẫy tay ra hiệu một ai đó thì lòng bàn tay úp xuống. Tuy nhiên, khi vẫy tay ra hiệu một ai đó mà lòng bàn tay ngửa ra và vẫy bằng một ngón thì được xem là một sự xúc phạm Chỉ một ai đó bằng ngón trỏ bị xem là một hành động thô lỗ. Ngoài ra, người Malaysia chỉ dùng ngón trỏ khi chỉ vào các động vật Khi trao một vật, lấy một cái gì hay chạm ai đó (như bắt tay) thì nên dùng tay phải. Tay trái được xem là không sạch sẽ, và không nên sử dụng để ăn hay trao một vật gì. Qui luật này cũng được áp dụng đối với những người thuận tay trái. Bàn chân được xem là không sạch sẽ. Do đó, không nên lấy các vật gì bằng
chân
- Không nên chỉ chân vào người khác. Bạn sẽ phải xin lỗi bất cứ khi nào giày hay mũi giày của bạn chạm vào người khác Bạn có thể bắt chéo chân ngang đầu gối, nhưng không được đặt một mắt cá chân lên đầu gối. Ngoài ra, bạn cũng đừng bao giờ ngồi bắt chéo chân khi có sự hiện diện của những người trong hoàng gia Malaysia Không nên để chân lên bất kỳ vật gì như bàn.. Bạn nên bỏ giày trước khi bước vào nhà hay những nơi linh thiêng Bạn cũng nên bỏ giày và mũ trước khi vào nhà thờ Hồi giáo hay các đền Khi vào các nhà thờ Hồi giáo hay các đền, bạn nên chú ý đến trang phục. Đối với nữ giới, nên mặc váy ngang đầu gối hoặc dài hơn và áo dài tay. Ngoài ra, tránh mặt áo không tay. Theo quan niệm của người Ấn Độ, đầu là nơi ngự trị của linh hồn. Do vậy, không nên chạm vào đầu của bất kỳ ai, thậm chí không nên chạm vào tóc của một đứa trẻ. Đứng tay chống nạnh được xem là một thái độ giận dữ
Lớp 06CQD1
76
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Một trận cười phá ra không bày tỏ niềm thích thú trong văn hoá của người Malaysia. Hơn nữa, cười cũng bày tỏ sự căng thẳng, xấu hổ hay không tán thành. Bạn không cần phải boa cho tài xế taxi. Bạn sẽ phải boa cho các ngưòi khuân vác. 1 ringgit cho mỗi hành lý là đủ. Ngoài ra, bạn cũng nên boa 50 sen cho những người phục vụ phòng khách sạn cho bạn. - Bạn nên lưu ý rằng, bạn sẽ bị xử phạt rất nặng nếu như xả rác ngoài đường phố, đặc biệt là ở thủ đô Kuala Lumpur. Buôn bán ma tuý sẽ bị tử hình Cách ăn mặc Bởi vì Malaysia nóng quanh năm, áo quần được làm từ chất liệu cotton và linen là sự lựa chọn tốt nhất. Bạn nên tránh mặc các trang phục màu vàng vì màu này được xem là màu của hoàng gia. Do thời tiết ở Malaysia khá nóng và ẩm nên thời trang công sở của nam là những chiếc quần âu sẫm màu, áo sơ mi dài tay sáng màu và caravat (không khoác áo vest ngoài). Đôi khi các doanh nhân thường chỉ mặc áo ngắn tay và không thắt caravat Tuy nhiên cách tốt nhất là bạn nên mặc áo vest và thắt caravat, và có thể bỏ chúng ra khi thấy thích hợp Đối với nữ thì nên mặc áo dài tay và váy. Khi gặp những phụ nữ theo đạo Hồi hoặc đạo Hindu thì bạn nên mặc áodài ít nhất đến nửa cánh tay. Váy có thể dài ngang đầu gối hoặc hơn. - Ở Malaysia, trang phục của các nữ doanh nhân thường có xu hướng rườm rà và có nhiều đồ trang sức đi kèm Nam giới ở Malaysia thường mặc áo được dệt theo lối in hoa batic hở cổ đến công sở. Đây cũng là những trang phục phổ biến Lớp 06CQD1
77
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Jean có thể được chấp nhận Bạn nên tránh mặc quần soọc Bạn cũng lưu ý ăn mặc chỉnh tề, sạch sẽ Các chủ đề trò chuyện Khi trò chuyện với người Malaysia, bạn có thể hỏi về cân nặng, thu nhập, tình trạng hôn nhân và các chủ đề liên quan. Tuy nhiên, bạn cũng có thể được hỏi lại những câu hỏi như thế này Nếu bạn không muốn trả lời những câu hỏi riêng tư này thì bạn cũng phải lịch sự, không nên tỏ vẻ bực mình hay có những thái độ tương tự. Những chủ đề nên thảo luận như kinh doanh, thể thao đặc biệt là bóng đá, nghệ thuật, du lịch, những kế hoạch của tương lai, khen ngợi các món ăn của địa phương Những chủ đề nên tránh
Chỉ trích bất kỳ khía cạnh nào của văn hoá Malaysia
Chính trị
Nạn quan liêu
2.6. Thái Lan Trong giao tiếp hàng ngày, người Thái có nhiều điểm mà bạn cần lưu ý, đó là: Chào người Thái theo cách chắp 2 tay trước ngực, đầu hơi cúi, Khi bước vào nhà phải bỏ dày dép ra, đặc biệt khi bước vào nhà người Thái cần tránh dẫm lên ngưỡng cửa nhà họ vì người Thái cho rằng Thần linh cư ngụ ngay ở ngưỡng cửa. Người Thái cũng kiêng đụng chạm vào đầu của người khác, không xoa đầu trẻ em, không vỗ vai người khác.
Lớp 06CQD1
78
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Người Thái cũng cho rằng, tỳ cánh tay lên lưng chiếc ghế đang ngồi hoặc vỗ vai hay vỗ lưng người khác hoặc dùng ngón tay để chỉ vào ai đó đều được coi là những cử chỉ xúc phạm. Người Thái cũng rất coi trọng sự kiềm chế trong tiếp xúc, vì vậy trong việc đàm phán với người Thái, điều kiêng kỵ nhất là hành động bức xúc hay tức giận. 2.7. Lào Nền văn hóa Lào chịu ảnh hưởng nặng của Phật giáo Thượng tọa bộ. Sự ảnh hưởng này được phản ánh trong ngôn ngữ và nghệ thuật, văn học và nghệ thuật biểu diễn của Lào. Về âm nhạc, người Lào sử dụng nhạc cụ khaen. Các ban nhạc thường sử dụng (mor lam) và khaen (mor khaen) cùng với đàn kéo cùnv các nhạc công khác. Lam saravane là loại nhạc Lào phổ biến nhất. Người Lào ở Thái Lan đã phát triển một dạng gọi là mor lam sing. Các địa điểm có tính văn hóa lịch sử cao của Lào có thể kể tới Cánh đồng chum ở tỉnh Xieng Khouang. Ngôn ngữ Lào và Thái có vẻ giống nhau nhưng thực tế khác biệt nhau. Dù phần lớn người Lào hiểu tiếng Thái khẩu ngữ và viết và thậm chí nói được tiếng Thái, phần lớn người Thái bên ngoài vùng Isan không hiểu tiếng Lào. Chữ viết Lào và Thái cũng khác nhau và nhìn chung ít người Thái đọc được chữ Lào. Điểm tương đồng giữa hai ngôn ngữ này nhìn chung chúng có có nhiều danh từ như nhau nhưng phần lớn động từ và tính từ thì khác biệt và tiếng Lào không sử dụng các hậu tố giống đực và giống cái như trong tiếng Thái. Lễ hội ở Lào hay được gọi là Bun. Nghĩa đúng của Bun là phước. Làm Bun nghĩa là làm phước để được phước. Cũng như các bước trong khu vực Đông Nam Á, lễ hội tại đất nước Lào cũng chia làm 2 phần, phần lễ và phần hội. Lào là xứ sở của lễ hội, tháng nào trong năm cũng có. Mỗi năm có 4 lần tết: Tết Dương Lịch, Tết Nguyên Đán (như ở một số nước Á Đông), Tết Lào (Bun PiMay vào tháng 4) và Tết H'mong (tháng 12). Ngoài ra còn các lễ hội: Bun PhaVet ( Phật hóa thân) vào tháng 1 ; Bun VisakhaPuya (Phật Đản) vào tháng 4; Bun BangPhay (pháo thăng thiên) vào tháng 5; Bun Khao PhanSa (mùa chay) vào tháng 7; Bun Khao Padapdin (tưởng nhớ người đã mất) vào tháng 9; Bun Suanghua (đua thuyền) vào tháng 10. Sau đây là một số lễ hội chính tại đất nước Lào.
Bun That Luang Lớp 06CQD1
79
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Lễ hội này diễn ra ở chùa That Luang và chùa Si Muong - cũng gồm 2 phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ Lễ là nghi thức tế tự do chính con người tưởng tượng ra để giao cảm với thần linh. Ngoài tính cách tín ngưỡng dân gian như nghi thức rước Phí Mương (thần bảo hộ tỉnh) từ Chùa Si Muong đến That Luang, lễ trong Boun That Luang còn mang ý nghĩa chính trị của Một Ngày Hội Thề. Từ thời vua Fa Ngum (thế kỷ 14) cho đến 1975, lễ nầy do quốc vương Lào làm chủ tế. Trong lễ Hội Thề người ta thấy có mặt đầy đủ chức sắc, đại biểu, tỉnh mường, làng bản trưởng được mời về bàn việc nước ... và mỗi vị có một cái kiệu bằng sáp ong (hó phợng), xếp thành hàng ngang trước nơi hành lễ. Nhà sư chủ trì cầm một cuộn dây bằng sợi vải trắng đi vòng nối các tỉnh mường, làng bản lại với nhau. Biểu tượng nầy phản ánh sự cam kết trung thành, thống nhất, đoàn kết quốc gia, cấm chia rẽ. Phần hội Câu cửa miệng của nguời Lào là "Khôn Lao mặc muồn" (người Lào thích vui) được thể hiện rõ nét trong phần hội. Hội chủ yếu là vui chơi, giải trí dưới nhiều hình thức từ ẩm thực đến văn nghệ, văn hoá, thể thao, mua bán, triển lãm. Đặc biệt Bun That Luang cũng là thời điểm của Hội Chợ triển lãm tầm vóc quốc tế, kéo dài ba ngày, ba đêm.
Bun Pi Mày Hóa trang các nhân vật trong truyền thuyết trong lễ hội vào năm mới Đây là Tết năm mới theo lịch cổ truyền ở Lào còn được gọi là Bunpimay,(Pi Mai, Pee Mai, Koud Song Kane hay Bunhot Nậm) có nghĩa là Hội té nước diễn ra từ 13 đến 15/4 hằng năm. Đây là Tết theo Phật lịch vì ở Lào, đạo Phật từ lâu đã trở thành quốc đạo. Người dân té nước để cầu may, bình yên cho cả năm. Cũng như người dân Thái Lan và Campuchia , lễ hội Bunpimay mang ý nghĩa đem lại sự mát mẻ, phồn vinh cho vạn vật, ấm no hạnh phúc thanh khiết hóa cuộc sống của con người. Bunpimay là dịp để nuôi dưỡng và hun đúc nghệ thuật dân tộc. 2.8. Campuchia Nền văn hóa Campuchia có lịch sử phong phú đa dạng trải qua nhiều thế kỷ và chịu ảnh hưởng nặng của Ấn Độ. Nền văn hóa Campuchia cũng gây ảnh hưởng mạnh lên Thái Lan, Lào và ngược lại. Trong lịch sử Campuchia, tôn giáo có vai trò lớn trong các hoạt động văn hóa. Trải qua gần 2000 năm, người dân Campuchia đã phát triển một tín ngưỡng Khmer độc đáo với các tín ngưỡng hỗn hợp gồm tín ngưỡng thuyết vật linh bản địa và các tôn giáo Ấn Độ như Phật giáo Lớp 06CQD1
80
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
và Hindu giáo. Nền văn hóa và văn minh Ấn Độ bao gồm cả nghệ thuật và ngôn ngữ đã vươn đến lục địa Đông Nam Á khoảng vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người ta cho rằng, những nhà buôn đi bằng đường biển đã mang phong tục và văn hóa Ấn Độ đến các cảng dọc theo Vịnh Thái Lan và vùng Thái Bình Dương khi họ buôn bán với Trung Quốc. Quốc gia đầu tiên hấp thụ nền văn hóa và văn minh này là Phù Nam. Vào những thời điểm nhất định, Cao Miên cũng hấp thụ các yếu tố của văn hóa Java, Trung Hoa, Lào và Thái Lan. Đa số dân Campuchia (gần 90%) là người Khmer và một tỷ lệ lớn hơn thế nói tiếng Khmer. Các ngôn ngữ khác được sử dụng ở Campuchia có: tiếng Pháp, tiếng Hoa, tiếng Việt và tiếng Anh (đang ngày càng trở nên phổ biến). Người Campuchia cũng giống như các quốc gia khác đều sử dụng lịch Tây. Tuy nhiên, trừ một số ngày lễ của người Khmer, họ sử dụng lịch Campuchia như ngày lễ Tết, lễ nhập điền hay lễ cầu hôn. Lịch Khmer có thể sớm hay muộn hơn lịch Tây tùy vào thời điểm của năm. Dự giao thoa về văn hóa và dân cư khiến cho một số ngày lễ của Campuchia có thêm một số ngày lễ như Tết Việt Nam và Trung Quốc, tết Đoan Ngọ ,v..v… •
Ngày 07 tháng 01 hàng năm: ngày giải phóng đất nước khỏi chế độ Khmer Đỏ.
•
Ngày 13, 14, 15 tháng 4 năm 2008: ngày tết của người Khmer
•
Ngày 13, 14, 15 tháng 5 hàng năm: sinh nhật nhà vua Sihamoni
•
Ngày 19 tháng 5 năm 2008: ngày lễ Phật giáo năm 2007 trùng với ngày Quốc tế lao động
•
Ngày 23 tháng 5 năm 2008: ngày lễ cầu mùa Hoàng Cung
•
Ngày 18 tháng 6 hàng năm: ngày sinh nhật Hoàng thái hậu Norodom Monineath Sihanouk
•
Ngày 24 tháng 9 hàng năm: ngày hiến pháp quốc gia
•
Ngày 28, 29, 30 tháng 09 năm 2008: ngày báo hiếu cha
•
Ngày 23 tháng 10 hàng năm: ngày ký hiệp định hoà bình Paris
•
Ngày 29 tháng 10 hàng năm: ngày nhà vua đăng quang
•
Ngày 31 tháng 10 hàng năm: ngày sinh nhật Thượng hoàng Sihanouk
Lớp 06CQD1
81
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
•
Ngày 09 tháng 11 hàng năm: ngày Quốc khánh
•
Ngày 11, 12, 13 tháng 11 năm 2008: ngày lễ hội rước nước, đua thuyền.
Ngày 10 tháng 12 hàng năm: ngày lễ nhân quyền 2.9. Anh •
Giao thừa Vào đêm giao thừa, người dân Anh thường tập trung tại quảng trường Trafalgar, rạp xiếc Piccadilly hay tụ tập ở những khu vực lân cận để lắng nghe tiếng chuông đồng hồ Big Ben báo hiệu năm mới đến. Đúng giờ phút chuyển giao năm cũ và năm mới, tất cả mọi người nắm tay nhau và cùng hát vang bài Auld Lang Syne. Tại xứ sở suơng mù, phong tục bước chân đầu tiên vẫn rất quan trọng. Tục lệ này cũng giống như xông nhà ở Việt Nam. Người ta cho rằng nó sẽ đem lại may mắn cho những người ở trong nhà. Người đặt bước chân đầu tiên vào nhà phải là đàn ông, trẻ, khoẻ mạnh và đẹp trai, tóc nâu. Khi vào nhà, nhân vật này sẽ mang theo một mẩu than, ít tiền, bánh mỳ và muối - những biểu tượng của thịnh vượng. Trong ngày đầu tiên của năm mới, trẻ em nước Anh thường dậy từ sớm và sang nhà hàng xóm hát. Chúng sẽ nhận được xu, bánh, táo và kẹo. Cũng vào ngày nay, các cô gái Anh thường thả một quả trứng trắng vào nước. Người dân Anh tin rằng hành động này sẽ làm hiện lên chữ cái đầu tiên của tên người chồng tương lai của cô gái đó. Ở một số vùng khác của nước Anh như Radnorshire và Herefordshire, nông dân sẽ dậy từ trước khi bình minh hé rạng và đem một bụi táo gai ra đồng. Bụi cây này được đốt ra tro vì đây được coi là biểu tượng may mắn cho nông dân. Đôi khi, bụi táo gai sẽ được treo ở bếp cho tới năm sau.
2.10. Úc Giao thừa Từ ngày 31/12 của năm cũ, người dân đã tổ chức nhiều bữa tiệc linh đình. Vào đêm giao thừa, mọi người sẽ huýt sáo, bấm còi inh ỏi và rung chuông để báo hiệu năm mới đã tới. Tại Australia, năm mới là thời gian dành cho các hoạt động ngoài trời. Người dân thường đi picnic, cắm trại trên bờ biển, chơi trò lướt sóng hay cưỡi ngựa 2.11. Đức Giao thừa Lớp 06CQD1
82
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Trong bữa tiệc giao thừa, mọi người đều để thừa một chút thức ăn trên đĩa cho tới nửa đêm với ý nghĩa chạn thức ăn luôn có đồ dự trữ. Vào năm mới, người Đức thường thả chì nấu chảy vào nước lạnh và cố gắng đoán tương lai từ miếng chì được định hình. Một hình tròn hay trái tim đồng nghĩa với đám cưới, con thuyền sẽ nói về chuyến đi và hình còn lợn là một năm thừa thãi thức ăn. Những nét đặc trưng 1-Chú trọng chức tước khi chào hỏi phụ nữ. Phụ nữ trên 20 tuổi được chào là bà. 2- Ăn mặc giản dị trong đời thường, nhưng chu đáo trong các buổi tiệc và lễ hội. 3- Thích đúng giờ, trật tự và kỷ luật. 4- Luôn mang quà tặng khi dự tiệc. 5- Các bữa tiệc thường bắt đầu trễ, khách uống nhiều hơn ăn. 6- Rất nghiêm túc trong câu chuyện, thích thảo luận những vấn đề thời sự trong các buổi gặp mặt. 7- Phụ nữ ít tham gia vào các công việc xã hội. 8- Tuân thủ chặt chẽ luật lệ nơi công cộng. 9- Quan tâm đến bề ngoài và môi trường Người Đức rất chuộng hư danh, họ rất thích được gọi là bác sỹ hay tiến sỹ (Doctor). Muốn nói với bất kỳ viên chức nào, người ta thường bắt đầu “Thưa bác sỹ,..”, dù là người đó không làm trong ngành y. Đây là một cách gọi nhầm để tỏ ý tâng bốc đối phương, nếu không bị coi là “vô lễ”. Khi xưng hô bằng tên thì luôn kèm theo “Ông”, “Bà”,” Ngài”,… trước tên người đó như “Ngài giáo sư Wolf”. Phụ nữ trên 20 tuổi chưa chồng vẫn được gọi bằng “Bà”. Tuy nhiên, giữa bạn bè, đồng nghiệp vẫn có thể xưng hô thân mật với nhau. Người Đức thông minh, tư duy chặt chẽ, nhanh nhạy tiếp thu mọi điều cũng nhanh và dứt khoát. Người Đức có phong cách giao tiếp rõ ràng, rành mạch, song phẳng, họ có kế hoạch chi tiết rất cụ thể và tiết kiệm. Người Đức có tài tổ chức, ý chí cao và làm việc luôn theo một kế hoạch cụ thể. Khi giao tiếp với người Đức thường đứng cách đối tượng trên 50cm. Họ rất hay bắt tay khi gặp nhau. Khi chào nhau, nếu là người thân thì hơi nghiêng người về phía trước và bắt tay nhau, họ không ôm hôn nhau.
Lớp 06CQD1
83
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Bình thường người Đức mặc đồ rất giản dị, nhưng khi đi dự tiệc, đi xem hát, đi dạo hay tới nhà thăm bạn bè, họ mặc đồ đẹp và trang trọng hơn. Khi được mời dự tiệc chiêu đãi, bao giờ người Đức cũng mang món quà đến tặng gia chủ như: lọ mứt, hộp bánh, chai rượu, bó hoa,… Người Đức rất nghiêm túc về giờ giấc, nghiêm túc trong quan hệ và chi tiêu rất chặt chẽ và ít khi phung phí tiền bạ. Vì thế khi vào quán ăn, các món ăn luôn được khách dùng hết, họ thích ăn vừa và đủ, không thừa thứ gì. Người Đức rất thích tiệc tùng, và buổi tiệc bắt đầu rất muộn, thường là sau khi mọi người dùng xong bữa tối, nên họ không ăn mà chỉ uống với nhau. Câu chuyện thường là những vần đề phức tạp cùng nhau thảo luận, không như người Pháp chỉ nói chuyện vui tại bàn tiệc. Họ thích ăn các món thịt hun khói. Trong nấu ăn họ sử dụng nhiều bơ, thích ăn các món co sốt, đặt biệt là sốt trắng có sữa, kem tươi. Họ hay ăn thịt bò, các món chế bíên từ cá và khoai tây. Thích các loại bánh ngọt , uống càfê. Khi ăn uống không nói chuyện ồn ào, không có tiếng va chạm mạnh. 2.12.Đan Mạch Trong năm, có nhiều ngày lễ tôn giáo và quốc gia khi trẻ em được nghỉ học, hầu hết người lớn đều được nghỉ làm, và các cửa hàng đóng cửa hoàn toàn hoặc một phần trong ngày. Các buổi lễ được tổ chức trong Giáo hội Quốc gia Đan Mạch vào tất cả những ngày lễ tôn giáo. Những ngày nghỉ lễ quan trọng nhất đều liên quan đến ba lễ hội nhà thờ lớn: Giáng Sinh - mừng ngày Chúa Jesus ra đời, lễ Phục sinh - lễ tưởng niệm ngày Chúa bị đóng đinh trên thánh giá, ngày mất và phục sinh của Chúa, và lễ Hạ trần và Tuần lễ hiện xuống để nhớ đến sự đón nhận của Chúa thánh thần. Nhiều truyền thống xoay quanh các lễ hội tôn giáo - đặc biệt là Giáng Sinh - và đối với hầu hết mọi người, các lễ hội luôn là những dịp vui vẻ để dành thời gian với gia đình, họ hàng và bạn bè của mình. Các ngày lễ tôn giáo khác gồm có: ·Năm Mới, ngày 1 tháng Một.
Lớp 06CQD1
84
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành ·
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Lễ Bededag Lớn (Ngày của Tất cả Lời cầu nguyện - một ngày lễ tôn giáo Đan Mạch, rơi vào thứ Sáu tuần thứ tư sau lễ Phục sinh). Nó được biết đến cách đây vài năm khi những ngày cầu nguyện theo lịch nhà thờ được gộp lại thành một. Lễ thăng thiên, khi những người theo đạo Cơ-đốc kỉ niệm sự kiện chúa Jesus lên thiên đàng. Những ngày lễ quốc gia quan trọng nhất là: Ngày 1 tháng Năm, ngày quốc tế lao động. Ngày 5 tháng Sáu, Ngày Hiến pháp, để nhớ đến việc ra đời bản Hiến pháp
Đan Mạch đầu tiên vào năm 1849. Các dịp lễ hội chính nêu trên là dịp để tụ họp, bày tiệc ăn uống cùng nhau trong một gia đình hoặc giữa các gia đình. Con trẻ được quan tâm đặc biệt với những món quà. Ngoài ra, người Đan Mạch có thể có các buổi tiệc và gặp gỡ với muôn vàn lý do - cưới xin, rửa tội, lễ kiên tín, sinh nhật và các lễ hội tôn giáo, khi có người chuyển đến nhà mới, đã tốt nghiệp, chuẩn bị ra nước ngoài - hoặc chỉ vì họ muốn thế. Bạn bè, họ hàng và đồng nghiệp được mời đến ăn uống, và thỉnh thoảng sẽ có khiêu vũ đến tối khuya. Nếu bạn được mời đi dự tiệc hoặc một bữa tối nghi lễ như vậy, thì việc mang theo một món quà nhỏ cho nữ hoặc nam chủ nhân, ví dụ một chai rượu, hoa, sôcôla, v.v. là một ý tưởng hay, đặc biệt trong các tiệc mừng sinh nhật, và sinh nhật của trẻ em. Một lưu ý khác, ở Đan Mạch, bố mẹ thường tổ chức sinh nhật cho con và mời các bạn cùng lứa tuồi, cùng lớp tới dự và chắc chắn, người được mời nên có quà. Tính châm biếm và hài hước Tại Đan Mạch, tính hài hước là một phương tiện giao tiếp quan trọng. Đây là lý do vì sao tại nhiều nơi làm việc thỉnh thoảng có những lời nói đùa khá mạnh, về mọi thứ, thậm chí nghe có vẻ thô thiển và có thể gây giật mình cho những người xung quanh vốn không quen lắm với hình thức giao tiếp này. Tuy nhiên, đó
Lớp 06CQD1
85
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
thường là cách thể hiện rằng bạn thích và tôn trọng lẫn nhau, và một chút trêu đùa nên được chấp nhận giữa những người bạn. Thói quen đúng giờ Người Đan Mạch sống rất “theo giờ giấc”. Họ trông chờ bạn đến đúng giờ hẹn - không trễ cũng không sớm hơn. Điều này cũng áp dụng cho công việc và những cuộc gặp giống như hẹn gặp cá nhân, và những lần gặp bác sĩ, nha sĩ và các nhà chức trách nhà nước. Đến trễ hoặc không hoàn toàn trễ mà không có lý do xác đáng chắc chắn bạn đã gây một ấn tượng không tốt về mình. 2.13.Hàn Quốc Giao thừa Vào đêm giao thừa, người dân thường đặt rơm, cào hoặc sàng ở cửa ra vào, tường để bảo vệ gia đình khỏi linh hồn ác độc. Ngày đầu tiên của năm mới được gọi là Sol-nal. Đây là thời điểm để gia đình thắt chặt lại quan hệ và chuẩn bị cho năm mới. Tới ngày thứ 2 của năm mới, tất cả thành viên trong gia đình sẽ mặc quần áo mới, biểu hiện cho một sự khởi đầu tươi mới, và tập trung tại nhà thành viên nam lớn tuổi nhất. Tại đây, lễ thờ cúng tổ tiên diễn ra, người ít tuổi nhất trong gia đình sẽ cúi đầu trước người lớn tuổi nhất, chúc sức khoẻ và thịnh vượng trong năm tới. Tiếp đó, người già sẽ trao những đồng tiền mới hay quà cho con trẻ. Các món ăn đặc trưng năm mới của Hàn Quốc thường là bánh gạo và súp ttokkuk. Người Hàn Quốc tin rằng ăn loại súp này sẽ giúp họ kéo dài tuổi thọ. Thói quen Karaoke của Hàn Quốc Trong tiếng Triều Tiên không có từ nghĩa tương đương với karaoke. Thay vào đó, họ gọi loại hình giải trí này là norae (노래, tiếng hát). Các quán karaoke (노래 방, noraebang) được tìm thấy ở khắp các ngóc ngách. Cả thanh niên lẫn người lớn tuổi đều mê loại hình giải trí này. Các ngày lễ Trước đây, lễ hội chỉ là thời gian cử hành những lễ nghi tôn giáo. Cho tới thời kỳ các vương quốc liên minh thì lễ tạ ơn Trời đã cho vụ mùa bội thu mới được Lớp 06CQD1
86
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
chính thức tổ chức. Các lễ hội đó là yeonggo (múa trống gọi hồn) của Buyeo, dongmaeng (nghi lễ cúng tổ tiên) của Goguryeo, và mucheon (thiên vũ) của Dongye. Các lễ hội thường được tổ chức vào tháng 10 âm lịch, sau mỗi vụ mùa. Riêng lễ yeonggo được tổ chức vào tháng 12 âm lịch. Một số ít ngày lễ vẫn được kỷ niệm tưng bừng ngày nay như lễ Seol - ngày đầu tiên của năm lịch âm (thường rơi vào cuối tháng 1 hoặc đầu tháng 2 lịch dương). Đây là dịp để mọi thành viên trong gia đình đoàn tụ. Mọi người đều mặc áo truyền thống hanbok hoặc chọn cho mình những bộ quần áo đẹp nhất. Cả nhà cùng làm lễ cúng tổ tiên. Sau nghi lễ này, những người ít tuổi trong gia đình sẽ cúi lạy những người lớn tuổi trong gia đình. Một ngày lễ lớn khác trong năm là Daeboreum, ngày trăng tròn đầu tiên trong năm sau năm mới. Vào ngày này, nông dân và ngư dân thường cầu nguyện cho một mùa trồng trọt và một vụ cá bội thu. Các gia đình cầu mong một năm làm ăn phát đạt, tránh được mọi điều rủi ro, xui xẻo bằng cách chuẩn bị các món ăn đặc biệt từ các loại rau xanh có trong mùa. Vào dịp lễ Dano (Tết Đoan Ngọ), ngày 5/5 âm lịch, nông dân nghỉ công việc đồng áng cả ngày để tham gia lễ hội đánh dấu việc gieo trồng đã hoàn thành. Phụ nữ gội đầu bằng loại nước thơm đặc biệt đun từ lá mống mắt với hy vọng sẽ tránh khỏi mọi điều không may mắn. Dano từng được coi là ngày lễ lớn, nhưng nay chỉ còn được duy trì theo nghi thức truyền thống ở một số ít nơi. Chuseok (Rằm trung thu) - ngày trăng tròn nhất trong năm rơi vào ngày 15/8 âm lịch - có lẽ là ngày lễ được người Hàn Quốc ngày nay tham gia đông đủ nhất. Những dòng xe chật kín đường cao tốc và tất cả các cơ quan, cửa hàng đều đóng cửa trong ba ngày. Các thành viên trong gia đình đoàn tụ, bày tỏ lòng thành đối với tổ tiên và đi tảo mộ. Người thành phố thường trở về quê hương để tham dự lễ Chuseok. Những người trở về quê trong dịp lễ này thường phải đặt trước vé tàu hoả hay máy bay vài tháng. Trong số những ngày lễ còn tồn tại đến ngày nay có lễ Phật Đản, rơi vào ngày 8/4 âm lịch. Vào ngày Phật Đản, một nhóm đông Phật tử diễu hành qua trung tâm Seoul. Các đường phố lớn hôm đó cũng được trang hoàng với những chiếc đèn Phật giáo hình hoa sen. Có một số ngày lễ dành cho gia đình cũng có ý nghĩa quan trọng đối với người Hàn Quốc và người ta thường cử hành bằng cách tổ chức tiệc tùng và các trò vui chơi. Đó là ngày baegil (kỷ niệm 100 ngày kể từ ngày em bé ra đời), dol (kỷ niệm Lớp 06CQD1
87
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
sinh nhật đầu tiên của bé), hoegap hay hwangap (sinh nhật lần thứ 60) - được coi là lễ kỷ niệm tròn một vòng quay 60 năm trong đời một con người theo quan niệm Hoàng đạo Phương đông. Những ngày đặc biệt này thường được tổ chức náo nhiệt, đặc biệt khi tỷ lệ tử vong sơ sinh cao và tuổi thọ con người còn thấp. Những dịp như vậy từng được tổ chức như một ngày hội, trong đó có sự góp mặt của cả những người họ hàng xa. Ngày nay chỉ có thành viên trong gia đình tham gia các dịp này. Đối với lễ hoegap, ngày càng có nhiều người đi du lịch nước ngoài thay cho làm lễ kỷ niệm tại nhà. Các ngày quốc lễ 1/1: Năm mới - Seol: Đây là ngày đầu tiên trong năm theo âm lịch và là ngày nghỉ đối với cả nước. Một ngày trước và một ngày sau ngày này cũng là ngày nghỉ. 1/3: Ngày độc lập: Ngày này đánh dấu các phong trào giành độc lập trên quy mô rộng lớn đòi tự do từ ách thực dân Nhật năm 1919. 5/4: Tết trồng cây: Ngày cả nước trồng cây xanh. 5/5: Tết thiếu nhi: Ngày có nhiều hình thức vui chơi cho trẻ em. Lễ Phật Đản: Ngày 8/4 âm lịch. Các nghi lễ trang nghiêm được tổ chức tại các đền chùa Phật giáo. Đỉnh cao của các hoạt động lễ hội trong ngày này là lễ rước đèn lồng ở trung tâm Seoul. 6/6: Lễ tưởng niệm. Cả nước viếng hồn các liệt sĩ đã hy sinh trong chiến tranh bảo vệ đất nước. Lễ tưởng niệm được tổ chức ở Nghĩa trang Quốc gia. 17/7: Ngày lập pháp. Ngày kỷ niệm sự công bố chính thức hiến pháp của Đại Hàn Dân Quốc năm 1948. 15/8: Ngày giải phóng. Vào ngày này năm 1945, Hàn Quốc được giải phóng khỏi ách thống trị kéo dài 35 năm của thực dân Nhật. Ngày này cũng đánh dấu sự thiết lập Chính phủ Hàn Quốc năm 1948. Chuseok: Ngày 15/8 âm lịch. Các gia đình tổ chức các nghi thức kỷ niệm tại nhà hoặc đi thăm mộ gia tiên. Họ cùng ngắm trăng tròn và cầu mong những điều tốt đẹp. 3/10: Ngày Quốc khánh. Ngày thành lập nhà nước do Dangun lập nên, năm 2333 TCN.
Lớp 06CQD1
88
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
25/12: Lễ Giáng Sinh. Cả các tín đồ theo đạo và người không theo đạo Cơ đốc đều kỷ niệm ngày này, giống như ở các nước phưong Tây. 2.14.Inodnesia Một số điều lưu ý khi giao tiếp o Không được vuốt đầu của người Indonesia cũng như những người Châu Á, vì như thế là mất lịch sự. Người Indonesia khi chào người lớn thường không ngẩng cao đầu mà hạ thấp cổ hay hạ thấp vai khi đi qua để thể hiện sự tôn trọng. o Khi đưa hay nhận một vật gì bạn nhớ dùng tay phải (không được dùng tay trái vì tay trái đối với phần lớn người Indonesia là không sạch sẽ). Để an toàn, bạn nên dùng cả hai tay khi trao hoặc nhận vật gì để sự kính trọng và lịch sự. Nên nhớ, người Indonesia rất kính trọng người cao tuổi, vì vậy khi giao tiếp với người cao tuổi cần thể hiện sự kính trọng, lịch sự. o Không được chống nạnh, cũng không nên mang kính mát khi nói chuyện với người Indonesia vì như thế là không lịch sự và bị xem như là có thái độ coi khinh. Không được bỏ tay vào túi quần, vì như thế bị xem là kiêu ngạo. o Bắt tay là thói quen của đàn ông lẫn phụ nữ khi được giới thiệu và chào hỏi. Khi bắt tay cần vừa phải, không nắm chặt qúa cũng không buông lơi, không giữ tay quá lâu. o Cách đúng đắn khi vẫy gọi một người nào đó là mở rộng bàn tay và cử động các ngón tay theo hướng đi xuống giống như vẫy tay chào tạm biệt. Những cách vẫy gọi khác có thể bị coi là mất lịch sự Phong tục tặng quà o Trong các cuộc gặp đầu tiên, tặng các món quà nhỏ là một cách tốt nhất biểu thị sự quan tâm và chân thành trong việc thiết lập các mối quan hệ lâu dài. Tuy nhiên, các món quà phải vừa phải, có thể là biểu tượng của đất nước hay chỉ là logo của đơn vị bạn, của tỉnh bạn. Quà không cần gói cũng được. Khi nhận quà, người nhận thường nói “Cám ơn” và đặt quà sang một
Lớp 06CQD1
89
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
bên và chỉ mở quà ra khi nào bạn đi khỏi. Vì vậy, khi được người Indonesia tặng quà, bạn không nên mở gói quà trước mặt họ. o Bạn có thể tặng những món quà nhân dịp trở về nhà, khi được mời đến nhà của người Indonesia, hay là cảm ơn một ai đó đã giúp đỡ bạn.. o Người Indonesia gốc Trung Quốc rất thích được tặng thực phẩm, nhưng không phải vào lúc bạn được mời đến dự tiệch (trừ khi đã được đồng ý trước đó). Việc mang thức ăn đến sẽ có hàm ý là chủ nhà không có đủ thức ăn để thết đãi bạn. Thay vào đó, việc gửi tặng thức ăn sau đó được xem như là món quà cảm ơn. Kẹo hay lẵng trái cây là sự lựa chọn tốt nhất. Họ có thể từ chối nhận quà đến đến 3 lần rồi mới nhận vì họ sợ cho là tham lam. o Hoa cũng là món quà phổ biến. Nhưng không được tặng số lượng hoa lẻ vì như thế là điềm không may mắn. o Khi đàn ông tặng hoa hay quà cho một phụ nữ có thể xảy ra hiểu nhầm. Do vậy, khi tặng quà họ thường nói, và bạn cũng nên nói, là món quà này là do vợ mình gửi tặng. o Trong dịp Tết nguyên đán, người ta thường tặng tiền cho trẻ em và những người có quan hệ làm ăn buôn bán thường xuyên với họ và đựng trong bao đỏ lì xì. Các ông chủ thường lì xì cho nhân viên một khoản bằng một tháng lương. Những món quà nên tránh tặng: Tránh tặng dao, kéo hay các đồ vật nhọn khác vì họ cho là dễ bị cắt đứt mối quan hệ Nên tránh tặng các vật thường được sử dụng trong tang lễ như những đôi dép bằng rơm, đồng hồ, khăn tay, quà tặng được gói bằng giấy màu trắng, đen hay màu xanh Không được tặng rượu, nước hoa, thịt heo, những sản phẩm làm từ da lợn hay những đồ như: dao, chó đồ chơi, tranh hình con chó cho người theo đạo Hồi. Lớp 06CQD1
90
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Đối với những người theo đạo Hindu thì không nên phục vụ những món làm từ thịt bò hay sản phẩm làm từ súc vật khác. Ngoài ra, cũng không nên tặng các đồ vật làm từ da. Những điều cấm kỵ Trang phục của người nghèo có thể được chấp nhận thiếu thốn, Nhưng những người du khách ăn mặc thiếu thốn: không dép, quần sóc, áo dây... bị coi là không lịch sự. Có thể chấp nhận quần lửng,nhưng phải rộng và ít nhất là đến gối. Mặc dầu những nơi thờ phụng được mở cửa cho tất cả mọi người, nhưng khi muốn vào cũng phải có sự cho phép, đặc biệt là khi những nghi lễ đang được tiến hành, và bạn phải bảo đảm rằng bạn đã ăn mặc chỉnh tề. Bạn phải luôn luôn cởi giầy trước khi vào nhà thờ Hồi giáo và thông thường phải cởi giầy trước khi vào nhà ai đó. Không nên có các cuộc hẹn vào lúc 11h sáng đến 1h chiều vào các ngày thứ 6 vì thời gian này hầu hết mọi người Hồi giáo đều đến nhà thờ
2.15.Ấn Độ
Những nét đặc trưng
Ấn Độ là đất nước rộng lớn, có dân số đông thứ hai trên thế giới (chỉ sau Trung Quốc) và một nền văn hóa lâu đời. Nền văn hóa này ảnh hưởng đến nước ta, nhất là các tỉnh phía nam. Phong tục tập quán ơ Ấn Độ gắn liền với sự phân chia giai cấp và lễ nghi tôn giáo. Mỗi cử chỉ hành vi của con người trong giao tiếp được quy định chặt chẽ và tỉ mỉ. Hai người không cùng đẳng cấp không bao giờ ngồi chung một bàn, làm chung một việc. những người thuộc đạo Bà-la-môn (tôn giáo thuộc đẳng cấp cao nhất) ít khi nào tiếp xúc với những người thuộc đạo khác thấp hơn. Và họ cũng không xài đồ bằng da vì cho rằng đó là da động vật bị giết. Người Ấn Độ thường chào nhau bằng cách chắp tay trước ngực hay ngang trán thể hiện sự kính trọng với bề trên. Còn những người quen biết ngang Lớp 06CQD1
91
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
hàng nhau thì họ mỉm cười và lắc đầu. Bắt tay thì dành cho giới thượng lưu, và ít khi chào phụ nữ bằng cái bắt tay. Người Ấn Độ rất mến khách, thường hay chiêu đãi một cách nồng nhiệt. khi ăn, họ có thói quen ăn bốc, bốc thức ăn gọn gành, không làm rơi vãi. Tay trái thì cốc nước, khi uống thì đổ thẳng cốc nước vào miệng, chứ không ngậm miệng cốc rồi nghiêng cốc uống nước như người Việt. Thức ăn Ấn Độ thường rất cay và có nhiều gia vị. Khi tiễn khách, chủ nhà thường đi sau, nhường khách đi trước và tránh quay lại với khách.
Các lễ hội
Hôm nay 21/10, những người theo đạo Hindu tại Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới cùng nhau chào đón lễ hội lớn nhất trong năm - Lễ hội Ánh sáng Diwali. Lễ hội Diwali của đạo Hindu giống như lễ Giáng sinh của Thiên Chúa Giáo và Tết Nguyên Đán của Phật Giáo. Trong những ngày này, người dân theo đạo Hindu đều tất bật mua sắm, trang hoàng nhà cửa bằng các loại đèn, hoa, sáp nến, tặng quà lưu niệm cho người thân và chúc nhau những điều tốt lành. Diwali năm nay diễn ra vào ngày 21/10. Khi màn đêm buông xuống, người dân Ấn Độ bắt đầu đốt đèn, bắn pháo hoa và vui mừng đón một năm mới. Lễ hội trên bắt nguồn từ sự trở về của thần Ram đem sức mạnh và ánh sáng đến cho nhân loại. Lễ hội Diwali - Lễ hội Ánh sáng là sự bắt đầu cho một năm mới tốt lành và hạnh phúc của người Hindu. Ấn Độ cũng được biết tới là một đất nước của các lễ hội. Vì là quốc gia đa tôn giáo, Ấn Độ có các lễ hội rất đa dạng, nhiều lễ hội dành cho mọi thành phần xã hội. Các lễ hội nổi tiếng và có nhiều người tham gia nhất gồm các lễ hội Hindu tại Diwali, Holi, Pongal và Dussehra và lễ hội của người Hồi giáo tại Eid. Một số lễ hội được tổ chức ở đa phần đất nước; tuy nhiên, chúng được gọi theo những cái tên khác nhau tùy theo vùng hay có thể được tổ chức dưới hình thức khác biệt. Mọi lễ hội đều được chào mừng theo một kiểu duy nhất. Lớp 06CQD1
92
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Ấn Độ có ba ngày lễ quốc gia. Những ngày lễ khác, từ chín đến mười hai, gắn liền với các lễ hội, ngày lễ tôn giáo và ngày sinh các lãnh đạo được quy định theo từng bang. Ngày
Ngày lễ
26 tháng 1
Ngày Cộng hoà
15 tháng 8
Ngày độc lập
2 tháng 10
Gandhi Jayanti
Ghi chú Hiến pháp Ấn Độ bắt đầu có hiệu lực từ ngày này năm 1950. Ấn Độ giành lại độc lập từ Đế quốc Anh ngày này năm 1947. Ngày sinh Mahatma Gandhi.
2.16.Singapore Những nét đặc trưng Họ thường bắt tay theo kiểu phương Tây. Card visit thường được trao hai tay một cách trịnh trọng. Đánh giá cao sự đúng giờ giấc. Tiếng Anh mang màu sắc và âm hưởng rất đậm đà của người Trung Quốc. Họ thường không hút thuốc. Họ luôn tìm đến sự chuẩn mực để làm động lực thúc đẩy. Phụ nữ cũng được đối xử ngang với nam giới trên thương trường. Đề tài ưa thích: sạch sẽ, trong lành và phồn thịnh của Singapore. Đề tài nên tránh: diện tích quá nhỏ bé của Singapore 2.17.Nga Những nét đặc trưng Khi gặp, người Nga bắt tay và xưng tên. Giữa bạn bè thường ôm và hôn má. Tặng quà thường là quần bò, bút, đĩa nhạc, sách, huy hiệu biểu tượng quê hương của du khách. Lớp 06CQD1
93
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Hay giơ ngón tay cái để biểu thị một điều rất hoàn hảo. Khi từ biệt họ vẫy tay nhưng lại ngửa lòng bàn tay về phía ngoài và khua lên, xuống (nếu lòng bàn tay hướng về phía mình và khua ra trước và sau là hãy đến đây). Người Nga rất thích uống rượu (loại rượu mạnh) nhất là vào mùa đông. Tính tình đặc trưng là cởi mở, dễ gần và có tính tập thể khá cao. Rất thích nói về chủ đề hòa bình, rất ghét bình luận về những nhân vật nổi tiếng. Người Nga thật thà , thẳng thắn, dứt khoát, dễ thỏa thuận, dễ gần, ít lễ nghi cởi mở, dễ hòa mình và thích nghi với môi trường chung quanh, rộng lượng và chân thành trong mọi quan hệ. Khi đón tiếp khách quí thường có lễ mời bánh mì và muối để tỏ tình cảm chân thành, chớ nên từ chối hãy bẻ một mẩu bánh mì, chấm vào muối và nhấm nháp. Họ thích ăn các món quay, các món nấu nhừ, các loại thịt băm viên bỏ lò hay om có sốt. Trước khi ăn các món chính thì họ ăn súp (súp có lẫn thịt và rau, đôi khi có cả gạo ở trên có rưới một ít váng sữa). Dưa chuột, cà chua muối, cá hun khói là các món ăn khá phổ biến của họ. Sau khi ăn xong họ hay uống trà đen có thêm lát chanh pha đường và uống bằng cốc to, hoặc uống nước hoa quả, càfê, cacao. Đồ uống của họ là Voska, Cognac, và Lúa mới cũng được ưa chuộng. Ngày lễ Nước Nga, những ngày lễ lớn trong năm bắt đầu bằng lễ đón Năm Mới, được tổ chức giống như Lễ Giáng sinh ở một số nước khác. Ông già Nôen và nàng Bạch Tuyết đi phát quà cho trẻ em. Trong đêm giao thừa, cả nhà quây quần bên cây thông được trang trí rực rỡ để ăn tiệc và mở quà. Lễ Giáng sinh ở Nga được tổ chức vào ngày 7/1 vì Giáo hội Chính giáo vẫn theo lịch cũ, chậm 13 ngày soi với lịch được sử dụng ở các nước khác trên thế giới. Lệ Phục sinh, ngày lễ tôn giáo chính trong năm được duy trì rộng khắp ngay cả dưới chính quyền Xôviết. Hội tiễn mùa đông Lớp 06CQD1
94
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Trước khi bắt đầu mùa ăn chay trước Lễ Phục sinh là những ngày Hội tiền mùa đông - Maslenisa. Trong những ngày này, mọi người được ăn bánh kếp thỏa thích. Tuyết vẫn còn chất đầy trên mặt đất, những những người bạo gan thì vẫn đục lỗ trên mặt sông hồ đóng băng và đắm mình vào nước lạnh buốt. Lễ phục sinh Lễ bắt đầu từ đên khuya trước ngày Chúa phục sinh và kép dài đến tận sáng hôm sau. Lúc nửa đêm, vị linh mục dẫn đầu đám rước tay nâng những ngọn nến sáng rực đi vòng quanh nhà thờ, để tưởng nhớ những người phụ nữ đã đến mộ Chúa Giêsu và phát hiện ra Ngài không còn năm trong đó nữa. Tại cửa nhà thờ, vị linh mục hô to:" Chúa Giêsu sống lại rồi!". Các tín đồ sẽ đồng thanh đáp lại " Ngài sống lại thật rồi!" và ôm hôn những người đứng cạnh. Lễ phục sinh kết thúc vào lúc bình minh, các tín đồ ai về nhà nấy để kết thúc mùa ăn chay bằng bữa điểm tâm với các món ăn đặc biệt trong ngày Lễ Phục sinh và trứng nhuộm màu. Bánh Kulich và paskha có các thành phần cấm dùng trong ký ăn chay. Khách được mời thỏa thê. Tuần lễ trước Lễ Phục sinh, mọi người ai cũng bận rộn với việc nhuộm trứng. Có người chỉ luộc trứng với vỏ hành để tạo màu lốm đốm vàng và nâu đẹp mắt. Những cũng có những người cầu ký, lấy hết lòng đỏ và lòng trắng trứng qua những lỗ châm kim ở đầu, rồi vẽ những bức tranh tôn giáo hoặc những cảnh vui nhọn lên vỏ trứng. Những quả trứng sẽ được mọi người ăn trong bữa điểm tâm đầu tiên sau mùa chay kéo dài trước Lễ Phục sinh. Hội băng Cái lạnh của mùa đông nước Nga được làm dịu bớt bằng những ngày hội, trong đó người ta tổ chức những cuộc thi điêu khắc trên băng. Đã từ lâu người Nga thích tạc các tòa nhà bằng băng. Năm 1740, Nữ hoàng Anna, người nổi tiếng với những trò đùa độc ác đã ra lệnh phải làm một tòa lâu đài bằng băng trên sông Neva để tổ chức đám cưới cho anh hề của bà. 2.18.Pháp
Những nét đặc trưng
1-Coi trọng văn hóa trong việc tiếp xúc và trang phục bề ngoài
Lớp 06CQD1
95
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
2- Coi trọng cách dùng ngôn ngữ 3- Cảm nhận cao về thẩm mỹ, văn hóa và nghệ thuật 4- Thích ăn ngon, phục vụ đúng qui cách 5- Rượu vang là thức uống không thể thiếu trong mọi bữa ăn và tiếp khách tại nhà 6- Thích trật tự và nề nếp 7- Khá kiểu cách trong giao tiếp ban đầu nhưng thích sự chân thành và bền vững 8- Dành ưu tiên cho người lớn tuổi và phụ nữ 9- Thích nuôi thú vật cưng và quan tâm đến môi trường
Lễ hội
14 tháng 2: lễ tình yêu 1 tháng 5: Ngày quốc tế lao động. Người ta thường mua hoa muget tặng cho người yêu, và mọi người được ra đường bán hoa muget không cần thuê chỗ. Ngày lễ của Mẹ: chủ nhật cuối cùng của tháng 5 hằng năm. Ngày lễ của Cha: chủ nhật thứ hai của tháng 6 hằng năm. 14 tháng 7: Quốc khánh. 15 tháng 8: ngày lễ được nghỉ Chủ nhật đầu tiên tháng 9: ngày lễ Ông Bà 11 tháng 11, ngày chiến thắng, kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất. 2.19.Hà Lan
Những nét đặc trưng
Nếu mới đến Hà Lan lần đầu tiên, chắc chắn bạn sẽ khá ngỡ ngàng khi thấy người dân ở đây khá xa cách. Người dân ở đây thường không bắt chuyện với người lạ, nếu lên xe lửa, người ta sẽ chọn những chỗ nào để có thể ngồi một mình và những du khách nước ngoài thường mau chóng nhận ra họ đang bị phớt lờ. Tuy nhiên, du khách đã nhầm, chỉ cần bạn bắt chuyện với một ai đó, bạn sẽ rất ngạc nhiên khi nhận được những phản ứng rất thân thiện của người dân Hà Lan. Lớp 06CQD1
96
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Ngôi nhà của người Hà Lan đậm chết riêng tư, họ rất ít khi mời khách đến nhà chơi vì người Hà Lan luôn luôn giữ sự kín đáo về nơi ở của họ. Họ phải quen biết ai đó hàng tháng trời rồi mới mời người ta đến nhà chơi. Và người Hà Lan cũng không có thói quen tiếp khách bằng thức ăn. Bạn chỉ có thể được họ mời đến sau khi đã là bạn bè rất lâu ngày với nhau.Tuy là một trong những quốc gia đông dân nhất thế giới, nhưng người Hà Lan thích giữ một khoảng cách nhất định với những người khác. Người ta cũng thường nhận xét là người Hà Lan rất khoan dung, nét tính cách được miêu tả rất chính xác qua cụm từ “live and let live”, đại để là “Nếu anh không đụng đến tôi thì tôi sẽ không đụng đến anh” như thế sẽ bớt đi được rất nhiều mâu thuẫn. Người Hà Lan không thích bộc lộ sự giàu có và địa vị của mình. Nếu bạn đi cùng một nhóm bạn đến quán rượu, bạn sẽ thấy mỗi người tự trả phần tiền của mình nhiều hơn là việc có một hai người trả tiền cho cả nhóm. Ngay cả khi chỉ có hai người cùng nhau đi ăn tối, thì cũng ai trả tiền người nấy. Vì thế nên thói quen này được cả thế giới gọi tên là “Dutch treat”- “ đãi kiểu Hà Lan”. Bên cạnh những giá trị truyền thống, đất nước Hà Lan tuy nhỏ bé, nhưng vốn chuyên về thương mại, luôn sẵn lòng đón chào những tinh hoa từ rất nhiều nước trên thế giới để làm giàu thêm nền văn hóa của mình. Người dân Hà Lan mong muốn mình có một ngoại hình cao ráo và cân đối, thực tế họ là những người có ngoại hình lớn nhất trên thế giới. Tuy nhiên xã hội Hà Lan ngày càng có nhiều người đến từ các nền văn hóa khác nhau, vì vậy bạn sẽ thấy nhiều loại ngoại hình khác nhau, nhất là ở các thành phố lớn, với nhiều tộc người đến từ Indo, Surinam (tổ tiên là người Phi, Ấn, Trung Quốc…), vùng biển Caribbe. Bạn cũng sẽ gặp nhiều người sống ở Hà Lan có nguồn gốc Địa trung hải. Đó là những người lao động được tuyển dụng từ Thổ Nhĩ Kỳ, Maroc, Ý, Tây Ban Nha… để bổ sung nguồn nhân lực thiếu hụt, thúc đẩy phát triển nền công nghiệp Hà Lan trong những năm 1950-1960. Nhiều người trong số họ đã đưa gia đình sang Hà Lan và định cư tại đây.
Lễ hội
Ngày tháng Tên tiếng Hà Lan 1/ 1 Nieuwjaar Tháng 3/tháng Pasen
Lớp 06CQD1
Tên tiếng Việt Ghi chú Năm mới Lễ Phục Sinh Thứ Sáu Tốt Lành (Goede vrijdag); ngày nghỉ
97
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành cho một số người), Chủ Nhật Phục Sinh và
4 30/ 4
Koninginnedag
4/ 5
Dodenherdenking
5/ 5 40 ngày sau Lễ Phục Sinh 7 tuần sau Lễ Phục Sinh 5 /12 25/12&26 /12 31/ 12
Lớp 06CQD1
Ngày Nữ hoàng
Ngày
Bevrijdingsdag
của Beatrix). Lễ Quốc khánh Ngày tưởng niệm những người đã chết trong
chiến tranh (không phải là ngày nghỉ) Giải Lễ kỷ niệm quân đội Đức đầu hàng trong Đệ
phóng
Hemelvaartsdag
Thứ Hai Phục Sinh Sinh nhật của nguyên nữ hoàng Juliana (mẹ
nhị thế chiến (ngày nghỉ cho một số người)
Lễ Thăng Thiên Lễ Chúa Thánh
Pinksteren
Thần
Hiện Chúa Nhật và thứ Hai
Xuống Sinterklaasavond Pakjesavond Kerstmis Oudejaar(sdag)
hay
Ngày trẻ em được tặng quà thay vì Lễ Giáng Sinh (không nghỉ) Lễ Giáng Sinh Giao Thừa (không nghỉ)
98
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
3. CÁC LOẠI TIỀN CỦA CÁC NƯỚC 3.1. Nguồn gốc và sự phát triển của tiền Trong mịt-mùng lịch-sử, các nhà khảo-cổ đều đồng-ý rằng: những người sơkhai đã biết thực-hiện việc đổi-chác. Họ trao đổi hàng-hoá với nhau, để điều-hoà nhu-cầu đơn-giản của đời sống họ. Vấn-đề đổi chác là phương-cách duy-nhất của thương-mại vào thời-kỳ ấy. Chẳng hạn, một ngư-phủ đem con cá mới bắt được ở ven sông đổi lấy con chim do bác thợ săn vừa bắn được trong rừng núi. Hoặc người chăn nuôi đem một con chiên đổi cho kẻ làm ruộng rẫy để lấy mấy thúng khoai hay vài giạ lúa. Nhưng với cách-thức trao đổi nầy thì quả thực là bất-tiện. Những con vật khi di-chuyển thì khó-khăn, chúng lại dễ mắc bệnh hoạn. Do đó, người ta đã bắt đầu dùng những vật-thể có tính-cách «đại-diện» như vỏ sò, lông chim, mẩu xương đặc-biệt, đá quí, muối…và về sau, lại còn dùng những thỏi sắt hay dụng-cụ bằng kim-loại để làm đơn-vị tính-toán hàng-hoá. Đó là tiền-thân của tiền-tệ sau nầy. Thời ấy, dù những vật-liệu đó tự nó có một giá-trị nhất định, nhưng hành-động thừa-nhận chúng là đại-biểu của giá-trị hàng-hoá đã là một bước tiến vượt bực trong quan-hệ giữa người với người, nói lên khả-năng trừu-tượng của con người. 3.1.1.Tiền vỏ ốc Qua những di-chỉ khảo-cổ, nhiều nhà nghiên-cứu trên thế-giới đã thống-nhất ý-kiến cho rằng loại tiền được sử-dụng sớm nhất của loài người, chính là Tiền Vỏ
Lớp 06CQD1
99
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Ốc và xã-hội dùng tiền sớm nhất chính là xã-hội nô-lệ. Nhưng tại sao lại dùng Vỏ ốc làm tiền? Ngày nay, chúng ta thấy khó có thể tin được, vì nghĩ rằng vỏ ốc rất nhiều. Nếu dùng vỏ ốc làm tiền thì bất cứ ai cũng có thể kiếm được, như vậy tiền ấy còn có giá-trị gì nữa! Nhưng trên thực-tế, ở vào thời-kỳ thái-cổ ấy, con người đang ở trong tình-trạng hoang-sơ, lẻ loi, cách biệt. Họ sống tập-hợp thành những bộ-tộc xa hẳn nhau. Không có phương-tiện gì để giao-thông liên-lạc. Hàng-hoá vậnchuyển rất khó-khăn. Đối với những bộ-tộc sống xa bờ biển, thì việc kiếm được vỏ ốc không phải dễ-dàng gì. Trong khi đó, họ lại rất trân quý vỏ ốc, vì là thứ trang-sức đầu tiên của con người. Có thể nói đây là một loại xa-xỉ-phẩm. Do đó, người ta đồng-thuận dùng các đồ trang-sức bằng vỏ ốc đổi lấy các loại hàng-hoá khác. Một đặc-điểm thuận-lợi của vỏ ốc là được xâu thành những vòng chuỗi trangsức để đeo vào cổ hay ở chân tay. Khi trao đổi, tùy theo giá-trị cao thấp của món hàng mà người ta có thể thêm hay bớt vỏ ốc để thành những vòng chuỗi lớn hơn hoặc nhỏ lại. Ốc dùng để làm tiền này có tới hơn 150 loại, sống ở miền nước nông Ấn-độdương và Thái-bình-dương. Dân mỗi vùng thường quen dùng một loại riêng: Thổdân ở Alaska và California bên châu Mỹ dùng loại Dentilium Pretiosum. Các bộlạc ở Úc châu dùng nhiều loại khác nhau. Còn ở Á châu thường dùng loại ốc Cypraea annulus, nhưng đặc-biệt thông-dụng nhất là loại ốc Cauri mà danh-từ khoa-học gọi là Cypraea moneta. Loại ốc nầy được tìm thấy ở các hải-đảo Maldives và Soulou (giữa Phi-luật-tân và Bornéo). Danh-từ Cauri do tiếng Phạn (Sanskrit) là Kauri. Tiếng Pháp gọi là Cauris, tiếng Anh là Cowrie hay Cowry, tiếng Nhật là Koyasugai (từ an bối), tiếng Hán là Mã-não-bối (bối = ốc). Vì nó được dùng làm tiền nên còn gọi là hoá-bối (ốc tiền). Ốc tiền được người Trung-hoa sử-dụng để làm tiền (dụng bối xác tác hoá tệ) kể từ đời nhà Hạ (2205-1766) trước Chúa giáng-sinh, mãi cho đến triều-đại nhà Tần (221-206) trước công-nguyên, tức là gần hai ngàn năm sau, ốc tiền nầy mới bị cấm-chỉ, không cho dân chúng dùng để làm tiền-tệ nữa.
Lớp 06CQD1
100
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Tại Việt-nam, từ năm 2879 trước Chúa giáng-sinh, thuở ấy đất nước ta còn gọi là Văn-lang với 18 đời Hùng-vương, rồi qua ba lần bị Bắc-thuộc cho tới đời nhà Đinh (968-980), chưa thấy sử sách nào chép về việc người dân Việt bắt đầu sử-dụng tiền từ bao giờ và loại tiền gì. Tuy nhiên, trong Đại-Việt Sử-Ký Toàn-Thư của Lê Văn Hưu, tập 1, trang 145, có nhắc đến vỏ ốc: vào năm 179 trước công-nguyên, khi Triệu Vũ-vương (tức Triệu-Đà, cựu tướng nhà Tần) về thần-phục nhà Hán, đã đem tiến cống cho vua Hán Văn Đế 1 đôi ngọc bích trắng, 1000 bộ lông chim trả, 10 sừng tê và 500 tửbối, tức vỏ ốc màu tía. Ông Đỗ Văn Ninh, tác-giả cuốn Tiền cổ Việt-nam, sau khi dẫn-chứng trong Đại-Nam Thực-Lục Chính-Biên do Quốc-sử-quán triều Nguyễn biên-soạn là: «Tháng 9 năm Minh-Mệnh thứ 9 (1828), nước Nam-Chưởng Trấn-Ninh, dân-số độ hai vạn người, chợ búa mua bán lấy vỏ ốc thay tiền», thì đã đưa ra ý-kiến như sau: «Nam-Chưởng ngày nay là nước Lào, khi đó có nhiều sự giao-dịch với ViệtNam. Điều ghi chép trên xẩy ra vào đầu thế-kỷ XIX, đã rất gần ngày nay. Như vậy, ở thời xa xưa hơn nữa, việc dùng tiền ốc chắc là phải có. Vì ngày nay, ở các dântộc miền núi tỉnh Nghệ-Tĩnh hãy còn bảo-lưu một tập-tục: Các đám cưới, nhà trai dù nộp bao nhiêu lợn, gạo, rượu mặc lòng, vẫn phải có ít vỏ ốc tiền, mới coi như là đủ. Rõ ràng đó là tàn-dư của một thời lấy vỏ ốc làm hoá-tệ». Hiện nay, người Khờ Mú vẫn còn dùng vỏ ốc tiền, với những chức-năng mang hình-ảnh rõ nét về đồng tiền. Các phụ-nữ hầu như mỗi người đều có một chuỗi vỏ ốc mà họ gọi là Kxôông. Kxôông là đồ trang-sức phổ-biến. Nhân-dân trong vùng xác-quyết: Kxôông trước đây là tiền. Nhưng khi có đồng bạc hoa xoè rồi, đồng-bào Điện-Biên tính 20-30 vỏ ốc là một đồng hoa xoè. Theo phong-tục Khờ Mú, người quá-cố nhất-thiết phải được chôn theo loại tiền cổ nhất để «con ma» có tiền mà tiêu xài ở âm-phủ. Nhưng họ không chôn theo tiền đang thông-dụng hoặc vàng bạc, mà chỉ chôn theo vỏ ốc tiền. Người con trai sắc-tộc Khờ Mú khi đi dạm vợ phải có mấy cái Kxôông. Và người con gái Khờ Mú khi về nhà chồng cũng được cha mẹ cho chuỗi Kxôông để đeo trong mình suốt buổi hôn-lễ. Kxôông được coi như là của hồi-môn. Lớp 06CQD1
101
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Báo Tuổi Trẻ Online ngày 25/06/2006, trong bài «Phát-hiện khảo-cổ lạ nhất từ đầu năm 2006» cũng cho biết: «Những vỏ ốc tiền tìm thấy lác-đác ở hang Tọ, hang Thạch-sơn (Thanh-hoá), hang Báy, làng Vố, Hạ-bì, hang Bưng (Hoà– bình)…». Thực vậy, qua các cuộc khảo-cổ, người ta đã chứng-minh sự tồn-tại của con người trên lãnh-thổ Việt-nam từ thời-kỳ đồ đá cũ. Đến thời-kỳ đồ đá mới, các nền Văn-hoá Hoà-binh - Bắc-sơn (gần 10.000 năm trước công-nguyên) đã qui-tụ những nhóm dân-cư tiền-sử, chứng tỏ sự xuất-hiện của nông-nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ-thuật trồng lúa nước nữa. Nhìn chung, việc sử-dụng vỏ ốc làm tiền, vì nó bao-hàm một số tính-chất làm thoả-mãn một số điều-kiện như: tính được chấp-nhận, tính dễ nhận biết, tính lâu bền, tính chia nhỏ được, dễ vận-chuyển, nhất là tính đồng-nhất và khan-hiếm. Tuy-nhiên, khi sử-dụng chúng cũng có nhiều sự hạn-chế của nó. Đặc-biệt là khi xã-hội loài người phát-triển, người ta lại tìm thấy những vật-liệu có tính-cách ưuviệt hơn vỏ ốc, hơn các vật-liệu cổ xưa. Nó lại mang một ý-nghĩa lớn, đối với sự phát-triển của con người, đó là kim-loại, thì ắt hẳn vỏ ốc sẽ bị thay thế là điều tấtyếu. Vì chúng chỉ là đồng tiền nguyên-thủy ở giai-đoạn manh-nha của nền kinh-tế hoá-tệ mà thôi. 3.1.2.Tiền kim loại Kim-loại, nhất là đồng, đã được sử-dụng làm tiền ở hầu hết các quốc-gia trên thế-giới trong một giai-đoạn lịch-sử rất dài. Thực thế, có lẽ đồng đã được sử-dụng sớm nhất bởi con người, do các đồ đồng có niên-đại khoảng năm 8.700 trước Chúa giáng-sinh đã được tìm thấy nhiều nơi. Đồng cũng đã được ghi chép trong các tư-liệu của một số nền văn-minh cổ-đại và nó có lịch-sử sử-dụng ít nhất là 10.000 năm trước công-nguyên. Hoa tai bằng đồng đã được các nhà khảo-cổ tìm thấy ở miền Bắc Irak, có niên-đại 8.700 năm trước công-nguyên. Trong khi vàng, các dấu hiệu sớm nhất của việc sử-dụng, chỉ vào khoảng 4.000 năm trước côngnguyên mà thôi. Người ta còn tìm thấy đồ vật bằng đồng và đồng thau ở các thành phố người Sumériens, ở thung-lũng sông Euphrate, có niên-đại 3.000 năm trước côngnguyên và các đồ vật cổ-đại của người Ai-cập bằng đồng và hợp-kim của đồng với thiếc, cũng có niên-đại tương-tự. Trong một kim-tự-tháp ở Ai-cập, một hệthống hàn đồng đã được tìm thấy, có niên-đại 5.000 năm trước công-nguyên. Lớp 06CQD1
102
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Người Ai-cập cũng đã phát-hiện ra rằng: nếu thêm một lượng nhỏ thiếc vào, sẽ làm cho kim-loại trở nên dễ đúc hơn. Vì thế, các hợp-kim đồng thau đã được tìm thấy ở Ai-cập, gần như là đồng-thời cùng với đồng. Đối với sắt, người Sumériens và người Ai-cập, vào khoảng năm 4.000 trước công-nguyên, cũng đã biết lấy từ các thiên-thạch, để chế-tạo những vũ-khí như mũi giáo, mũi tên hoặc các đồ-vật trang-sức. Khoảng năm 1.500 trước Chúa giáng-sinh, người Hittites, dân-tộc Ấn-Âu ở miền Trung Tiểu-Á, đã xâm-lược vùng Lưỡng-Hà (Mésopotamie = Irak ngày nay), khai-thác các mỏ bạc, rồi đúc thành những thỏi nhỏ, nặng khoảng 500 gam, làm tiền để trả lương cho lính. Ở Trung-hoa cổ-đại, việc sử-dụng đồng, theo lịch-sử ghi nhận, có nhiều đồ vật mang niên-đại 2.000 năm trước công-nguyên. Vào khoảng 1.200 năm trước công-nguyên, Trung-hoa đã sản-xuất được những đồ đồng thau hoàn-hảo. Vì nhu-cầu trao đổi ngày càng phát-triển, mà vỏ ốc tiền lại càng ngày càng khó kiếm, nên về sau, người Trung-hoa đã nung ốc bằng gốm (đào-bối), gọt ốc bằng xương (cốt-bối), mài ốc bằng đá (thạch-bối), thậm-chí mài ngọc quí (dao-bối) để làm tiền, hầu đáp-ứng nhu-cầu tiền-tệ. Cuối cùng, người ta đã đúc ốc bằng đồng (đồng-bối). Việc nầy, đánh dấu sự ra đời của tiền bằng kim-loại, trong lịch-sử tiềntệ Trung-hoa. 3.1.3.Tiền giấy Tiền bằng kim-loại, xét trên phương-diện vật-liệu chế-tạo, thì rất đáng quý. Vì chính nó đã có một giá-trị nội-tại, nhưng lại không mấy tiện-lợi khi cần mang theo một số-lượng lớn. Do đó, khi được lòng tín-nhiệm giữa người với người, ý-niệm tiền giấy đã được phát sinh. Không ai có thể chối cãi, tiền giấy có phần thực-tế hơn nhiều, trong vấn-đề lưu-thông chuyển-tải. 3.2. Việt Nam 3.2.1.Các loại tiền xưa Thời Bắc thuộc Căn cứ vào những đồng tiền thu được khi tiến hành khảo cổ, từ thời Bắc thuộc tiền đồng Trung quốc đã được sử dụng ở Việt Nam như tiền Hán nguyên thông Lớp 06CQD1
103
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
bảo của nhà Hán, đồng Khai nguyên thông bảo của nhà Đường. Bên cạnh đó, những đĩnh vàng, đĩnh bạc của Trung quốc cũng được lưu hành. Thời phong kiến độc lập Ngoài những đĩnh vàng, đĩnh bạc, tiền tệ Việt Nam chủ yếu là tiền đồng, tiền kẽm. • •
•
•
•
Thời Đinh, Lê: Đinh Tiên Hoàng cho đúc tiền đồng hiệu Thái bình thông bảo sau đó Lê Đại Hành cho đúc tiền đồng Thiên phúc trấn bảo. Thời Lý: dưới triều vua Lý Thái Tông, tiền đồng có hiệu Minh đạo thông bảo, sang đến triều Lý Thần Tông, tiền đồng hiệu là Thuận thiên thông bảo. Thời Trần, Hồ: các triều vua cũng cho đúc tiền đồng, đến đời Trần Minh Tông (1323) thì chuyển sang đúc tiền kẽm, tuy nhiên do tiền kẽm sử dụng không được thuận tiện nên nhanh chóng bị bãi bỏ. Dưới triều vua Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly chấp chính đã bắt đầu cho phát hành tiền giấy gọi là Thông bảo hội sao. Tiền giấy Thông bảo hội sao có các loại mệnh giá sau: 1 quan vẽ rồng, 30 đồng vẽ sóng nước, 10 đồng vẽ cây đào, 5 tiền vẽ chim phượng, 3 tiền vẽ kỳ lân, 2 tiền vẽ rùa, 1 tiền vẽ mây. Dân cư có tiền cũ phải nộp hết vào kho của Nhà nước và cứ 1 quan tiền đồng đổi thành 1 quan 2 tiền giấy, ai tàng trữ sẽ bị tử hình nhằm loại bỏ hẳn tiền đồng và bắt buộc sử dụng tiền giấy. Thời Lê, Mạc: trải qua giai đoạn bị nhà Minh đô hộ, khi Lê Thái Tổ lật đổ ách thống trị của nhà Minh và lên ngôi vua, tiền đồng trong nước không còn, ông cho đúc tiền đồng Thuận thiên thông bảo và quy định 1 tiền bằng 50 đồng. Triều vua Lê Thái Tông đúc tiền đồng hiệu Thiệu bình và quy định 1 tiền bằng 60 đồng. Năm 1528, Mạc Đăng Dung cho đúc tiền kẽm và cả tiền sắt, đến năm 1658, tiền kẽm và tiền sắt bị cấm sử dụng. Dưới triều vua Lê Hiển Tông (niên hiệu Cảnh Hưng), do những cuộc nội chiến liên miên tốn kém chi phí nên nhà vua cho mở rất nhiều sở đúc tiền để đúc tiền kẽm. Năm 1726 (Cảnh Hưng thứ 37), tiền đồng niên hiệu Cảnh Hưng thuận bảo lại được đúc từ binh khí và đại bác bằng đồng không sử dụng nữa. Thời Nguyễn: Sau khi lên ngôi, vua Gia Long cho mở các sở đúc tiền ở Bắc thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Các triều vua sau của nhà Nguyễn tiếp tục đúc tiền đồng và có lúc đúc cả tiền kẽm. Song song với tiền đồng, các loại thoi bạc, thoi vàng và tiền bạc, tiền vàng cũng xuất hiện từ khoảng năm 1820, cuối triều Gia Long, đầu triều Minh Mạng. Vàng được định giá gấp 17 lần bạc và mỗi lạng bạc giá 2 quan 3 tiền đồng. Thời kỳ Việt Nam là một phần của Đông Dương thuộc Pháp
Trong thời kỳ này, đơn vị tiền tệ của cả khu vực Đông Dương là piastre, được dịch ra tiếng Việt là "đồng" hay đôi khi là "bạc". Tiền tệ do chính quyền trong giai Lớp 06CQD1
104
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền của các triều vua nhà Nguyễn vẫn được lưu hành chủ yếu ở các vùng nông thôn mặc dù bất hợp pháp. Tiền đúc lúc đầu có đồng bạc Mexico nặng 27 gam 073 (độ tinh khiết 902 phần nghìn), sau đó là đồng bạc Đông Dương được đúc ở Pháp nặng 27 gam (độ tinh khiết 900 phần nghìn). Tiền giấy thời kỳ này được Ngân hàng Đông Dương phát hành và có thể đem đến ngân hàng đổi thành bạc. Một sắc lệnh ngày 16 tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đông Dương in tiền giấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra thì tỷ lệ này không còn giữ được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhiều lần số bạc đảm bảo. Sau một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp (Đông Dương) có giá trị là 655 miligam vàng (độ tinh khiết 900 phần nghìn), từ đó chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang bản vị vàng. Đơn vị đếm và tên gọi của chúng Tiền Đông Dương có các đơn vị đếm là piastre, cent và sapèque. Một piastre bằng 100 cent. Một cent lại bằng 5 sapèque. Mặt trước của các tờ tiền giấy hoặc tiền kim loại ghi bằng tiếng Pháp. Mặt sau ghi bằng chữ Hán, chữ quốc ngữ, chữ Lào và chữ Khmer, song cũng có lúc ghi chỉ chữ Pháp. Piastre phiên sang chữ Hán thành 元 (nguyên), phiên sang chữ quốc ngữ thành đồng, hoặc đồng bạc hay thậm chí ngắn gọn là bạc (khi tiền Đông Dương còn theo chế độ bản vị bạc cho đến trước tháng 5/1930), hoặc đồng vàng (khi tiền Đông Dương theo chế độ bản vị vàng từ tháng 5/1930). Cent khi phiên sang chữ quốc ngữ thành xu. Người Việt Nam còn có thói quen gọi các tiền mệnh giá hàng chục xu trở lên là cắc (gọi chệch từ âm giác của chữ Hán 角). Về sau, người Pháp viết chính thức bằng chữ quốc ngữ là hào và bằng chữ Hán là 毛. Lịch sử Đồng bạc Đông Dương được phát hành để tăng tính ổn định về tiền tệ tại các thuộc địa của Pháp. Ban đầu, nó được lấy giá trị tương đương với đồng bạc hoa xòe (peso Mexico) khi đó đang được lưu hành rộng rãi trong khu vực. Đồng tiền này thay thế cho đồng franc tại Campuchia, baht Thái tại Lào, và quan (???? ) tại Việt Nam. Ban đầu, nó lấy bạc làm bản vị, 1 đồng bạc Đông Dương = 24,4935 gram bạc nguyên chất. Năm 1895, con số này giảm xuống còn 24,3. Giấy bạc Đông Dương đã được lưu hành đầu tiên ở Việt Nam, từ Nam kỳ lục tỉnh. Sau khi chiếm xong Nam kỳ lục tỉnh, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh ra ngày 5 tháng 7 năm 1881 bắt buộc phải dùng đơn vị tiền tệ là đồng bạc Đông Dương trong việc lập ngân sách, kể từ niên khóa 1882, mọi việc thu chi đều phải dùng đơn vị tiền tệ do Ngân hàng Đông Dương phát hành. [2]
Lớp 06CQD1
105
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Ngày 25 tháng 8 năm 1883, Pháp buộc triều đình Huế của Việt Nam phải cho lưu dụng khắp Trung kỳ và Bắc kỳ loại tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành. Trong phạm vi cả nước, 3 loại tiền cùng tồn tại và lưu hành: Tiền Việt Nam (tiền, quan tiền - tiền đồng, tiền kẽm), đồng bạc Mexico (tức đồng bạc hoa xòe), và giấy bạc Đông Dương.[3] Đồng bạc Đông Dương giữ bản vị bạc cho đến năm 1920, khi nó bị ràng buộc với đồng Franc Pháp theo một tỷ giá thay đổi do giá bạc tăng cao. Bản vị bạc lại được phục hồi vào năm 1921 và giữ đến tháng 5 năm 1930, khi nó bị ràng buộc với đồng Franc Pháp theo tỷ giá 1 đồng = 10 franc. Từ tháng 5 năm 1930 đến năm 1939, nó theo bản vị vàng. Trong thời kì Nhật chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, tỷ giá với đồng yen Nhật là 0,976 đồng = 1 yen. Sau chiến tranh, tỷ giá với đồng franc Pháp lại được khôi phục. Tuy nhiên, tháng 12 năm 1945, để tránh sự mất giá của đồng franc, tỷ giá hối đoái đã bị thay đổi thành 1 đồng = 17 franc. Năm 1946, tiền cụ Hồ được phát hành và được sử dụng song song với đồng bạc Đông Dương. Trong các năm 1952,1953, các đồng kip của Lào (1952), riel của Campuchia (1953), và đồng Việt Nam Cộng hòa (1953) được phát hành và sử dụng song song với đồng bạc cũ. Tỷ giá 1 đồng = 10 franc được khôi phục vào năm 1953. Các tờ tiền ghi 2 mệnh giá được lưu hành cho đến năm 1955 tại Việt Nam Cộng hòa và Campuchia, và đến năm 1957 tại Lào. Tiền kim loại Năm 1885, tiền đồng trị giá 1 xu, tiền bằng bạc trị giá 10, 20, 50 xu, và 1 đồng được phát hành. Tiếp theo là các đồng trinh bằng đồng đục lỗ phát hành năm 1887. Năm 1895, các đồng xu bằng bạc bị giảm khối lượng, do giảm tỉ lệ tiền so với bạc. Từ năm 1896, đồng 1 xu cũng có lỗ. Năm 1923, phát hành đồng 5 xu bằng hợp kim cupro-nickel đục lỗ, tiếp theo là đồng nửa xu đục lỗ bằng đồng vào năm 1935. Năm 1939, đồng nửa xu bằng kẽm và các loại đồng 10 và 20 xu bằng nickel và cupro-nickel được phát hành. Các đồng xu Etat Française được phát hành trong thời gian 1942 và 1944 với các mệnh giá ¼, 1 và 5 xu. Cả 3 loại này đều có lỗ, đồng ¼ xu bằng kẽm, hai đồng kia bằng nhôm. Năm 1945, các đồng 10 và 20 xu bằng nhôm được phát hành, theo sau là các đồng 5 xu và 1 đồng bằng nhôm không đục lỗ. Những đồng tiền kim loại cuối cùng được phát hành dưới tên "Liên bang Đông Dương" (Indochinese Federation). Những đồng tiền kim loại kip đầu tiên của Lào ra đời năm 1952, trong khi các đồng Việt Nam Cộng hòa và đồng riel Campuchia ra đời năm 1953. Tiền giấy Lớp 06CQD1
106
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Năm 1892, Ngân hàng Đông Dương phát hành các tờ 1 đồng, năm sau là các tờ tiền 5, 20, và 100 đồng. Giữa các năm 1920 và 1922, các tờ bạc 10, 20, và 50 xu cũng được phát hành. Năm 1939, tờ 500 đồng mới được phát hành. Cùng năm, Chính phủ toàn quyền Đông Dương (Gouvernement General de l'Indochine) phát hành các tờ bạc 10, 20, và 50 xu, tiếp theo là tờ 5 xu vào năm 1942. Năm 1945, Ngân hàng Đông Dương phát hành tờ 50 đồng, năm 1947 phát hành tờ 1947. Năm 1953, Institut d'Emission des Etats du Cambodge, du Laos et du Vietnam (???) đảm nhận việc phát hành tiền giấy. Năm đó, tờ bạc 1 đồng đã được phát hành với danh nghĩa của cả 3 nước. Thêm nữa, trong các năm 1952-1954, các tờ bạc được phát hành với mệnh giá đồng thời bằng đồng Đông Dương và đơn vị tiền tệ mới của nước sở tại, riel Campuchia, kip Lào, và đồng Việt Nam Cộng hòa. Tại Campuchia, các tờ bạc có mệnh giá 1, 5, 10, 100, và 200 đồng/riel được phát hành. Tại Lào là các tờ bạc 1, 5, 10 và 100 đồng/kip. Còn ở Nam Việt Nam là các tờ bạc 1, 5, 10, 100 và 200 đồng/đồng Việt Nam. Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám Từ 1945-1954: Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 31 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nghị định phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và ngày 31 tháng 11 năm 1946, giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Hồ Chí Minh; một mặt in hình Nông - Công - Binh. Các loại giấy bạc đều có số Ả Rập, chữ quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia chỉ mệnh giá, có ký tên Bộ trưởng Bộ Tài chính (Phạm Văn Đồng hoặc Lê Văn Hiến) và Giám đốc Ngân khố trung ương. Do đó ngoài tên gọi là giấy bạc cụ Hồ, nhân dân còn gọi là giấy bạc tài chính. Ngày 5 tháng 6 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Nghị định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và phát hành giấy bạc ngân hàng. Giấy bạc ngân hàng đổi lấy giấy bạc tài chính theo tỷ lệ 1 đồng ngân hàng đổi 10 đồng tài chính. Giấy bạc ngân hàng có các loại mệnh giá: 1 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng và 5.000 đồng. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (chữ Hán và chữ quốc ngữ) và hình Hồ Chí Minh; một mặt in hình Công - Nông - Binh, hình bộ đội ở chiến trường. Trên tờ giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán. Sau đó, việc liên lạc giữa địa phương và trung ương có nhiều khó khăn, nên chính quyền trung ương cho phép Trung Bộ và Nam Bộ phát hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Hình ảnh trang trí cũng tương tự như giấy bạc ngân hàng chỉ khác là trên giấy bạc có chữ ký của Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ (Phạm Văn Bạch), đại diện Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam Bộ. Một số tỉnh được phát hành tín phiếu, phiếu đổi chác, phiếu tiếp tế.... hoặc giấy bạc chỉ lưu hành trong tỉnh. Thời kỳ đó, ở Nam Bộ nền kinh tế chia ra hai vùng, sử dụng hai loại tiền khác nhau, vùng thuộc sự kiểm soát của Pháp lưu hành tiền do Pháp phát hành. Mặt khác, mặc dù Lớp 06CQD1
107
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Chính phủ phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng do phương tiện giao thông còn khó khăn nên loại tiền này không lưu hành đến Nam Bộ. Chính vì thế, sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân Nam Bộ vẫn sử dụng các loại tiền giấy, tiền kim loại do chế độ cũ phát hành. Từ 1954-1975: Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có hai chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng. Ở miền Nam, từ năm 1953, lưu hành Đồng (tiền Việt Nam Cộng hòa). Mặt trước của các loại tiền chất liệu cotton Sau 30 tháng 4 năm 1975: tiền miền Nam phải đổi thành tiền giải phóng với giá 500 đồng miền Nam cho mỗi đồng giải phóng từ Quảng Nam-Đà Nẵng trở vào, ở Thừa Thiên-Huế trở ra, 1000 đồng tiền miền Nam đổi được 3 đồng giải phóng. Vào năm 1978, sau khi thống nhất hai miền về mặt hành chính, đã có một cuộc đổi tiền nữa. Tỷ giá đổi tiền miền Bắc là 1 đồng cũ thành 1 đồng thống nhất trong khi tại miền Nam 1 đồng giải phóng thành 8 hào tiền thống nhất. Lần đổi tiền thứ ba xảy ra vào năm 1985, khi 10 đồng tiền cũ đổi thành 1 đồng tiền mới. Trong tiếng Việt, "đồng" cũng có thể dùng để chỉ đến những đơn vị tiền tệ nước ngoài, đặc biệt là những đơn vị ít người biết đến. Trong một số cộng đồng dùng tiếng Việt ở hải ngoại, đồng cũng có thể dùng để chỉ đến đơn vị tiền tệ địa phương. Những năm gần đây, Việt Nam cho ra đời tiền kim loại có mệnh giá nhỏ kết hợp với việc in tiền mới (đổi chất liệu in từ giấy cotton sang polymer), nhưng một số tờ tiền mới in đã gặp vài lỗi kĩ thuật. Đồng tiền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Đơn vị nhỏ hơn 1/10 hào 1/100 xu , Ký hiệu ₫ Tiền kim loại 1, 2, 5 xu Tiền giấy 2, 5 xu, 1, 2, 5 hào, 1, 2, 5, 10, 20, 50, 100, 500 ,1000 ,5000 ,10000 đồng Đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa •
Tiền kim loại
Năm 1953, tiền kim loại các mệnh giá 10, 20, 50 xu đã được đưa vào lưu thông. Năm 1960, có thêm tiền kim loại mệnh giá 1 đồng; sau đó là 10 đồng năm 1964, 5 đồng năm 1966 và 20 đồng năm 1968. 50 đồng được đúc năm 1975 nhưng chưa kịp lưu hành thì Việt Nam Cộng hòa sụp đổ; toàn bộ tiền bị hủy bỏ dưới dạng kim loại phế thải, rất hiếm tiền xu này còn tồn tại. Các tiền kim loại đã phát hành có thể tạm chia ra 5 xê ri.
Lớp 06CQD1
108
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Xê ri đầu Mệnh Đường giá kính 10 xu 23 mm 20 xu 27 mm 50 xu 30 mm
Vật liệu
Mặt trước 3 phụ nữ, "Quốc gia Việt Nam"
Nhôm
Năm đúc
Mặt sau cây lúa, "Việt Nam" Hai con rồng, "Việt Nam"
1953
Xê ri thứ hai Mệnh giá Đường kính Vật liệu 50 xu 1 đồng
30 mm
Nhôm
23 mm
Đồngnickel
Mặt trước
Ngô Đình Diệm, "Việt Nam Cộng Hòa"
Mặt sau Năm đúc
tre
1960
Đơn vị nhỏ hơn 1/100 xu/su , Ký hiệu Đ. Tiền kim loại 10, 20, 50 xu, 1, 5, 10, 20 đồng Tiền giấy 1, 2, 5, 10, 20, 50, 100, 200, 500, 1000, 5000, 10.000 đồng ĐỒNG TIỀN ĐÔNG DƯƠNG
Mặt trước của đồng 5 piastre
Lớp 06CQD1
Mặt trước của đồng 100 piastre
109
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
French Indochina 200 Piastres 1954, Vietnam
French Indochina 10 Piastres 1953, Vietnam
French Indochina Piastre 1885 ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM DÂN CHỦ CÔNG HÒA
Tiền giấy mệnh giá 100 đồng, mặt trước và mặt sau
Tiền giấy mệnh giá 50 đồng, mặt sau ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM CỘNG HÒA
Lớp 06CQD1
110
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Tiền giấy mệnh giá 5 đồng, mặt trước và sau
Tiền giấy mệnh giá 10 đồng, mặt trước và sau
Tiền giấy mệnh giá 200 đồng, mặt trước và sau
Tiền giấy mệnh giá 500 đồng, mặt trước và sau
ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM CÔNG HÒA – sau Cách Mạng Thánh Tám
Lớp 06CQD1
111
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Tiền giấy mệnh giá 100 đồng và 200 đồng
Tiền giấy mệnh giá 1000 đồng và 2000 đồng
Tiền giấy mệnh giá 5,000 đồng và 10,000 đồng
Tiền giấy mệnh giá 20,000 đồng và 50,000 đồng
Lớp 06CQD1
112
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Vietnam first issue 1945-1946
Dồng 20 xu
Đồng 5 hào
French Union issue for Vietnam 1953
Đông 10 xu
Đồng 20 xu
South Vietnam 50 Xu 1960-1963
Đông 50 xu
Đồng 1 đồng
Socialist Republic of Vietnam coins: 1989 Issue
5 Đông
Lớp 06CQD1
20 Đồng
113
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
3.2.2.Các loại tiền bây giờ Tiền Việt Nam đang lưu hành 200
Quốc huy Hoa văn dân tộc
500
Quốc huy Hoa văn dân tộc
1000
Quốc huy Thuỷ đình, Đền Đô
2000
Quốc huy Nhà Rông
5000
Quốc huy Chùa Một Cột Tiền giấy
100
Quốc huy Tháp Phổ Minh
200
Hồ Chí Minh Sản xuất nông nghiệp
500
Hồ Chí Minh Cảng Hải Phòng
1000
Hồ Chí Minh Khai thác gỗ
2000
Hồ Chí Minh Xưởng dệt
5000
Hồ Chí Minh Nhà máy Thuỷ điện Trị An
10000
Hồ Chí Minh Vịnh Hạ Long
10000 (mới)
Hồ Chí Minh Cảnh khai thác dầu khí
20000 (cũ)
Hồ Chí Minh Xưởng sản xuất đồ hộp
20000 (mới)
Hồ Chí Minh Chùa Cầu, Hội An - Quảng Nam
50000 (cũ)
Hồ Chí Minh Bến Nhà Rồng
50000 (mới)
Hồ Chí Minh Huế
100000 (cũ)
Hồ Chí Minh Nhà sàn Bác Hồ
100000 (mới)
Hồ Chí Minh Quốc Tử Giám
200000
Hồ Chí Minh Vịnh Hạ Long
500000
Hồ Chí Minh Nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh ở làng Kim Liên
Lớp 06CQD1
114
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Mặt trước tờ tiền mệnh giá 10,000 VND và 20,000 VND
Mặt trước tờ tiền mệnh giá 50,000 VND và 100,000 VND
Mặt trước tờ tiền mệnh giá 200,000 VND và 500,000 VND
Tiền xu loại 200 đồng, 500 đồng, 1000 đồng
Tiền xu loại 2000 đồng, 5000 đồng
Lớp 06CQD1
115
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
3.3. Mỹ Đồng đô la Mỹ hay Mỹ kim (United States dollar), còn được gọi ngắn là đô la hay đô, là đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ. Nó cũng được dùng để dự trữ ngoài Hoa Kỳ. Hiện nay, việc phát hành tiền được quản lý bởi các hệ thống ngân hàng của Cục Dự trữ Liên bang (Federal Reserve). Ký hiệu phổ biến nhất cho đơn vị này là dấu $. Mã ISO 4217 cho đô la Mỹ là USD; Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dùng US$. Trong năm 1995, trên 380 tỷ đô la đã được lưu hành, trong đó hai phần ba ở ngoài nước. Đến tháng 4 năm 2004, gần 700 tỷ đô la đã được lưu hành, trong đó hai phần ba vẫn còn ở nước ngoài. Nước Mỹ là một trong một số quốc gia dùng đơn vị tiền tệ gọi là đô la. Một vài quốc gia dùng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ chính thức, và nhiều quốc gia khác cho phép dùng nó trong thực tế (nhưng không chính thức). 3.2.1 Sơ lược: Đồng đô la Mỹ thông thường được chia ra thành 100 xu (cent, ký hiệu ¢). Trong một cách chia khác, có 1.000 min (mill) trong mỗi đô la; thêm vào đó, 10 đô la còn được gọi là Eagle (đại bàng). Tuy nhiên, chỉ có đơn vị xu mới được dùng rộng rãi; dân chúng Mỹ ít nghe đến "eagle" hay "mill", tuy mill có khi được dùng trong việc thu thuế. Trong tiền được lưu hành, các đơn vị ít hơn hoặc bằng 1 đô la được phát hành với dạng tiền kim loại trong khi các đơn vị nhiều hơn hoặc bằng 1 đô la được phát hành với dạng tiền giấy (đơn vị 1 đô la có thể theo dạng tiền giấy hay tiền kim loại, nhưng tiền giấy được lưu hành hơn nhiều). Trước đây, tiền giấy đôi khi được phát hành cho các đơn vị ít hơn 1 đô la, và tiền đúc bằng vàng đã được phát hành cho các đơn vị tới 20 đô la. Tiền kim loại được đúc bởi Sở đúc tiền Hoa Kỳ (United States Mint). Tiền giấy được in bởi Cục Khắc và In (Bureau of Engraving and Printing) cho Cục Dự trữ Liên bang từ năm 1914. Chúng được bắt đầu in giấy bạc cỡ lớn, nhưng từ năm 1928 đã đổi thành cỡ nhỏ, không biết vì lý do gì. Tiền giấy trên 100 đô la không còn được in nữa sau 1946 và đã chính thức ngưng lưu hành trong năm 1969. Những tờ tiền giấy này thường được dùng bởi các ngân hàng để trao đổi với nhau hay bởi các thành phần tội phạm có tổ chức (vì lẽ này mà tổng thống Richard Nixon đã đưa ra lệnh ngừng lưu hành). Sau khi việc trao đổi tiền điện tử được ra đời, chúng trở thành dư thừa. Các đơn vị tiền lớn đã được phát hành gồm có $500, $1.000, $5.000, $10.000 và $100.000. Lớp 06CQD1
116
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Các loại tiền giấy đôla Mỹ có chung dạng trang trí, chung màu sắc (đen bóng mặt trước và xanh lá cây mặt sau) có cùng kích thước (156 x 66 mm) cho dù chúng có giá trị khác nhau, từ 1 USD trở lên. Mỗi loại tiền giấy, ứng với một mệnh giá, mang hình một tổng thống Mỹ theo đúng quy định. 3.3.1.Nguồn gốc của tên “dollar” Đồng đô la Mỹ lấy tên từ đồng 8 real của Tây Ban Nha, có khối lượng bạc ít hơn 1 ounce. Trong thời kỳ thuộc địa, tiền này khá phổ biến đối với người Mỹ - họ gọi nó là đồng đô la Tây Ban Nha, từ tên của đồng tiền của Đức có cỡ và cấu tạo tương đương được gọi là thaler). Các đồng đô la đầu tiên được chính phủ Hoa Kỳ đúc có cùng cỡ và cấu tạo với đồng đô la Tây Ban Nha và ngay sau chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ đồng đô la Tây Ban Nha và Hoa Kỳ vẫn được lưu hành tương đương nhau. 3.3.2.Dầu hiệu “$” Có nhiều huyền thoại về nguồn gốc của dấu "$" để chỉ đồng đô la. Vì đô la thoạt tiên là đồng 8 real của Tây Ban Nha, có người cho rằng hình chữ 'S' có nguồn từ số '8' được viết trên đồng tiền này. Giải thích được nhiều người chấp nhận nhất là dấu "$" được bắt nguồn từ chữ "PS" (cho 'peso' hay 'piastre') được viết trên nhau trong tiếng Tây Ban Nha. Về sau, chữ 'P' biến thành một dấu gạch thẳng đứng - | - vì vòng cong đã biến vào trong vòng cong của chữ 'S'. Giải thích này được ủng hộ khi khám xét vào tài liệu cũ. Dấu "$" đã được sử dụng trước khi tiền đô la Tây Ban Nha đã được dùng làm tiền tệ chính thức trong năm 1785. Ký hiệu đô la đôi khi còn được viết với hai dấu gạch thẳng đứng. Có lẽ đây chỉ là thói quen viết ba nét để viết dấu hiệu cũ: một nét cho chữ 'S', một nét cho đường gạch đứng, và nét cuối cho đường cong trong chữ 'P'. Những người viết nhanh không chú ý đến việc viết một chữ 'P' cho đúng cho nên tiện tay viết một dấu gạch nữa. Có một số giải thích khác cho dấu gạch thứ hai - có người cho rằng dấu "$" xuất thân từ hai chữ 'U' và 'S' viết chồng trên nhau (vòng cong của chữ 'U' cùng nét với vòng cong ở dưới chữ 'S'), cũng có người cho rằng hai đường gạch tượng trưng cho hai cây cột trụ trong Đền thờ Solomon tại Jerusalem. Hai giải thích này không có chứng cớ vì cách viết này đã có trước khi nước Hoa Kỳ (US) được thành lập, hay vì không có bằng chứng trong lịch sử đồng Tây Ban Nha. 3.3.3.Sử dụng quốc tế Một số quốc gia ngoài Hoa Kỳ sử dụng đồng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ chính thức. Ecuador, El Salvador và Đông Timor dùng đô la Mỹ. Các cựu thành viên trong nhóm Lãnh thổ Tín nhiệm Các đảo Thái Bình Dương (Trust Territory of the Pacifi Islands) dưới sự quản lý của Hoa Kỳ, kể cả Palau, Micronesia và Quần đảo Marshall, đã không phát hành tiền riêng sau khi họ độc lập. Lớp 06CQD1
117
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Thêm vào đó, đơn vị tiền địa phương của Bermuda, Bahamas, Panama và một số quốc gia khác có thể hoán đổi với đồng USD với tỷ giá 1:1. Đơn vị tiền tệ của Barbados được hoán đổi với tỷ giá 2:1. Argentina đã dùng tỷ giá hoán đổi 1:1 giữa đồng peso Argentina và đô la Mỹ từ 1991 đến 2002. Tại Lebanon, 1 đô la được đổi thành 1500 lira Lebanon, và cũng có thể được sử dụng để mua bán như đồng lira. Tại Hồng Kông, đồng đô la Mỹ và đô la Hồng Kông đã được ràng buộc với giá HK$7,8/USD từ năm 1983. Đồng Pataca của Macao, được ràng buộc với đô la Hồng Kông với giá MOP1,03/HKD, được gián tiếp hoán đổi với đô la Mỹ với tỷ giá khoảng MOP8/USD. Đồng Nhân dân tệ của CHND Trung Hoa đã được ổn định giá với đô la Mỹ từ giữa thập niên 1990 với giá Y8,28/USD cho đến ngày 21 tháng 7, 2005. Malaysia cũng đã ổn định giá của đồng ringgitt với giá MR3,8/USD từ 1997. Ngày 21 tháng 7, 2005, cả hai quốc gia đã thả giá tiền họ để theo giá thị trường. Đồng đô la còn được dùng làm đơn vị tiêu chuẩn trong các thị trường quốc tế cho các mặt hàng như vàng và dầu hỏa. Ngay cả các công ty ngoại quốc ít buôn bán tại Hoa Kỳ, như Airbus, liệt kê và bán sản phẩm của họ bằng đô la (tuy trong trường hợp này một số người cho rằng lý do là vì các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang thống trị ngành hàng không). Vào thời điểm này, đồng đô la Mỹ vẫn là đơn vị tiền dự trữ hàng đầu, hầu hết trong đơn vị $100. Phần đông tiền giấy Hoa Kỳ đang ở ngoài Hoa Kỳ. Theo kinh tế gia Paul Samuelson, nhu cầu cho tiền đô la cho phép Hoa Kỳ giữ sự thiếu hụt trong xuất-nhập khẩu mà không dẫn đến sự suy sụp của đồng tiền. Không lâu sau khi đồng euro (€; mã ISO 4217 EUR) được ra mắt như tiền mặt trong năm 2002, đồng đô la đã bị từ từ giảm giá trên thị trường quốc tế. Sau khi đồng euro lên giá trong tháng 3 năm 2002, việc thiếu hụt trong chi tiêu và thương mại của Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Đến Giáng Sinh năm 2004 đồng đô la đã tụt giá thấp nhất đối với các đơn vị tiền quan trọng khác, đặc biệt là đồng euro. Đồng euro lên giá cao hơn $1,36/€ (dưới 0,74€/$) lần đầu tiên cuối năm 2004, khác hẳn với đầu năm 2003 ($0,87/€). Bắt đầu từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 2005 đồng đô la lại lên giá nhanh chóng so với đồng euro sau khi nền kinh tế các nước châu Âu đang ứ đọng và Hiến pháp Liên minh châu Âu không được phê chuẩn trong cuộc trưng cầu dân ý ở hai nước Pháp và Hà Lan. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp tại các nước sử dụng euro và sự phát triển kinh tế bị chậm lại tại các
Lớp 06CQD1
118
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
nước thuộc Liên Minh, đồng euro có thể bị xuống giá so với đồng đô la, tuy đồng euro vẫn giữ sức mạnh. 3.3.4.Tiền kim loại Đang được lưu hành có tiền kim loại 1¢ (penny), 5¢ (nickel), 10¢ (dime), 25¢ (quarter), 50¢ (nửa đô la, không thịnh hành) và $1 (không thịnh hành). Tiền kim loại 1 đô la chưa bao giờ là phổ biến tại Hoa Kỳ. Đồng bạc được đúc giữa 1794 đến 1935 với một vài thời gian bị gián đoạn; tiền đúc bằng đồng và niken cùng cỡ được đúc từ 1971 đến 1978. Đồng Susan B. Anthony được ra mắt trong năm 1979; chúng không được ưa chuộng vì dễ bị nhầm lẫn với đồng quarter (25¢) có cỡ gần bằng, có viền răng cưa và màu sắc tương tự. Những đồng này bị ngừng đúc ngay sau đó, nhưng vẫn là có thể dùng làm tiền hợp pháp. Trong năm 2000, một đồng $1 mới có hình Sacagawea được ra mắt, chúng có viền phẳng và có màu vàng kim loại. Dù vậy, chúng không được ưa chuộng bằng đồng tiền giấy $1 và ít được dùng trong công việc hằng ngày. Sự thất bại của tiền kim loại đã bị đổ lỗi vào sự thất bại trong việc đồng thời thu hồi tiền giấy và cố gắng yếu kém trong việc phổ biến tiền kim loại. Hầu hết các máy bán hàng tự động không thối tiền bằng giấy được, cho nên chúng thường được thiết kế để thối bằng đồng đô la hay nửa đô la kim loại. Trong quá khứ, Hoa Kỳ đã đúc tiền kim loại với giá trị: nửa xu, hai xu, ba xu, hai mươi xu, $2,50, $3,00, $4,00, $5,00, $10,00 và $20,00. Chúng vẫn là tiền tệ chính thức theo giá trị trên mặt, nhưng cao giá hơn đối với những nhà sưu tầm tiền cổ. Sở Đúc tiền Hoa Kỳ cũng sản xuất tiền thoi vàng và bạch kim, được gọi là "American Eagles" (Đại bàng Mỹ), đều là tiền tệ chính thức tuy chúng rất hiếm khi được dùng. Lý do là chúng không được sản xuất để trao đổi, do đó giá trị mặt của chúng thấp hơn giá kim loại quý được dùng để tạo chúng. Đồng thoi American Silver Eagle (Đại bàng bạc Mỹ) được lưu hành với giá trị $1 (1 ounce troy). Đồng thoi American Gold Eagle (Đại bàng vàng Mỹ) có giá trị $5 (1/10 ounce troy), $10 (1/4 ounce troy), $25 (1/2 ounce troy) và $50 (1 ounce troy). Đồng thoi American Platinum Eagle (Đại bàng bạch kim Mỹ) có giá trị $10 (1/10 ounce troy), $25 (1/4 ounce troy), $50 (1/2 ounce troy) và $100 (1 ounce troy). Đồng bạc có 99,9% bạc, đồng vàng có 91,67% vàng (22 karat) và đồng bạch kim Lớp 06CQD1
119
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
có 99,95% bạch kim. Các đồng tiền này không có bán lẻ cho cá nhân, mà phải mua từ các cơ quan có phép. Sở Đúc tiền còn sản xuất tiền kim loại dành cho các nhà sưu tầm, có cùng giá mặt và thể tích vàng thoi, để bán lẻ. Hiện giờ đơn vị lớn nhất được lưu hành là tờ $100 và đồng $100 ounce troy Platinum Eagle. Hiếm có cho một đơn vị tiền tệ quan trọng, giá trị của tiền kim loại Mỹ không được viết bằng số. Thay vào đó, giá trị của chúng được viết bằng chữ tiếng Anh, có thể tạo ra sự khó khăn cho những du khách không biết tiếng này. Hơn nữa, các chữ được viết không theo khuôn mẫu: "One Cent" (1 cent), "Five Cents" (5 cent), "One Dime" (cho dime, giá trị 10 cent), "Quarter Dollar" (cho quarter, có giá trị 25 cent) và "Half Dollar" (nửa đô la, giá trị 50 cent). Để hiểu các thuật ngữ này, người đọc phải hiểu các từ "penny", "nickel", "dime", "quarter" và "half dollar". Vì lý do lịch sử, cỡ tiền không lớn lên theo giá trị mặt. Tiền 1 cent (penny) và 5 cent (nickel) đều lớn hơn đồng 10 cent (dime), và đồng 50 cent lại lớn hơn đồng $1 có hình Sacagawea hay Susan B. Anthony. Cỡ của đồng dime, quarter và nửa đô la đã có từ trước 1964, khi chúng được đúc từ 90% bạc; cỡ của chúng tuỳ thuộc vào giá trị của chúng bằng bạc, và điều đó giải thích tại sao đồng dime có cỡ nhỏ nhất. Đường kính hiện nay của đồng đô la được ra mắt năm 1979 với đồng Susan B. Anthony, vì thế cỡ của chúng không tuỳ thuộc vào số lượng bạc, và được chọn tuỳ ý, không có liên quan đến đồng đô la Eisenhower cùng cỡ với đồng Peace và Morgan bằng bạc được dùng trong đầu thế kỷ 20. Tiền kim loại và giấy Hoa Kỳ đang lưu hành Đơn vị ($)
Hình trong mặt trước
Hình trong mặt sau
Tiền kim loại 0,01
Abraham Lincoln
Tượng đài Lincoln
0,05
Thomas Jefferson
Hành trình về hướng tây
0,10
Franklin D. Roosevelt
đuốc, nhánh cây sồi, cành ôliu
0,25
George Washington
Biểu tượng các tiểu bang
0,50
John F. Kennedy
Dấu ấn của Tổng thống Hoa Kỳ
0,50
Benjamin Franklin
Chuông Độc lập
1
Sacagawea
Đại bàng trắng đang bay
1
Dwight Eisenhower
Đại bàng trắng đáp trên Mặt Trăng
1
Susan B. Anthony
Đại bàng trắng đáp trên Mặt Trăng Tiền giấy
Lớp 06CQD1
120
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
1
George Washington
Dấu ấn Hoa Kỳ
2
Thomas Jefferson
Tuyên ngôn độc lập
5
Abraham Lincoln
Tượng đài Lincoln
10
Alexander Hamilton
Toà ngân khố
20
Andrew Jackson
Nhà Trắng
50
Ulysses S. Grant
Toà Quốc hội
100
Benjamin Franklin
Toà Độc lập
Đơn vị lớn hơn (không dùng nữa)
Tiền kim loại
Mặt trước tờ tiền mệnh giá 1 và 2 USD
Mặt trước tờ tiền mệnh giá 5 và 10 USD
Lớp 06CQD1
121
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Mặt trước tờ tiền mệnh giá 50 và 100 USD
3.4. Euro 3.4.1.Tiền Euro Euro (€; mã ISO: EUR), còn gọi là Âu kim là đơn vị tiền tệ của Liên minh tiền tệ châu Âu, là tiền tệ chính thức trong 15 nước thành viên của Liên minh châu Âu (Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Ireland, Luxembourg, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Ý, Slovenia, Malta, Cyprus) và trong 6 nước và lãnh thổ không thuộc Liên minh châu Âu. Các đồng tiền kim loại euro cùng một mệnh giá giống nhau ở mặt trước, nhưng có trang trí khác nhau ở mặt sau, đặc trưng cho từng quốc gia phát hành. Euro có thể được phát âm như iu-rô hoặc ơ-rô, oi-rô, u-rô tùy từng nơi ở châu Âu và thế giới. Euro là tiền tệ thống nhất trong châu Âu có nguồn gốc từ thời kỳ đầu tiên của Liên minh châu Âu và trong lịch sử kinh tế toàn cầu. Một mặt việc hòa nhập kinh tế thông qua liên minh thuế quan 1968 đã có những bước tiến dài, mặt khác sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods dẫn đến việc tỷ giá hối đoái dao động mạnh mà theo như cách nhìn của giới chính trị thì đã cản trở thương mại. Năm 1970 lần đầu tiên ý tưởng về một liên minh tiền tệ châu Âu được cụ thể hóa. Trong cái gọi là kế hoạch Werner, Thủ tướng Luxembourg, Pierre Werner, đã Lớp 06CQD1
122
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
cùng nhiều chuyên gia soạn thảo một Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu với tiền tệ thống nhất. Dự tính với mục đích thành lập liên minh này cho đến năm 1980 đã thất bại mà một trong những nguyên nhân là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods. Thay vào đó Liên minh Tỷ giá hối đoái châu Âu được thành lập vào năm 1972 và sau đó là Hệ thống Tiền tệ châu Âu vào năm 1979. Hệ thống tiền tệ châu Âu có nhiệm vụ ngăn cản việc các tiền tệ quốc gia dao động quá mạnh. Đơn vị Tiền tệ châu Âu (tiếng Anh: European Currency Unit – ECU), một đơn vị thanh toán, ra đời vì mục đích này và có thể xem như là tiền thân của đồng Euro. Năm 1988 một ủy ban xem xét về liên minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Ủy ban châu Âu, Jacques Delors, đã soạn thảo cái gọi là báo cáo Delors, dự định thành lập Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu qua 3 bước. 3.4.2.Các nước tham gia Ngoài 13 nước trong Khu vực đồng Euro đã lưu hành và sử dụng chính thức đồng Euro, một số quốc gia khác đã tham gia vào Liên minh tiền tệ với thành viên trong khu vực và sử dụng đồng Euro như tiền tệ chính thức. Bên cạnh các thành viên chính thức, một số quốc gia hay địa phận khác cũng đã tự quyết định chọn Euro làm tiền tệ chuẩn (không có quyết định của EU). Thêm vào đó, nhiều quốc gia khác bắt đầu coi đồng Euro là một ngoại tệ quan trọng, thay chỗ cho đồng Đô la Mỹ. Các thành viên EU như Đan Mạch, Estonia, Latvia, Litva, Malta, và Síp cam kết giữ tỉ giá tiền tệ của mình đối với đồng Euro trong khoảng giao động cho phép của Cơ chế Tỷ giá hối đoái II (ERM II). Các quốc gia Anh, Đan Mạch, Thụy Điển đã quyết định không dùng đồng Euro và vẫn giữ tiền tệ chính thức của quốc gia. Các quốc gia Ba Lan, Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litvia, Malta, Slovakia, và Síp gia nhập EU năm 2004 chỉ có thể gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu sau khi thỏa mãn được các điều kiện hội tụ (qua 2 năm là thành viên của Cơ chế Tỷ giá hối đoái II và các điều kiện khác). Các nước mới gia nhập EU vào ngày 1 tháng 1 năm 2007, Bulgaria, Romania có kế hoạch gia nhập Khu vực đồng Euro lần lượt vào các năm 2010 và 2011. 3.4.3.Tác động kinh tế Khi đưa đồng Euro vào lưu hành người ta hy vọng là thương mại và cộng tác kinh tế giữa các thành viên trong vùng Euro sẽ vững mạnh thêm vì các rủi ro về tỷ Lớp 06CQD1
123
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
giá hối đoái và kèm theo đó là việc bảo hộ tiền tệ (tiếng Anh: currency hedging) của các doanh nghiệp châu Âu sẽ không còn tồn tại nữa. Người ta cũng đoán rằng việc này sẽ mang lại lợi thế cho người dân trong vùng Euro vì trong quá khứ thương mại là một trong những nguồn chính của tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó người ta cũng tin rằng giá cả của sản phẩm và dịch vụ sẽ không còn chênh lệch nhau nhiều nữa. Điều này dẫn đến cạnh tranh mạnh hơn giữa các doanh nghiệp và vì thế sẽ làm giảm lạm phát và tăng sức mua của người tiêu thụ. Một số nhà kinh tế học bày tỏ lo ngại về những nguy hiểm của một đồng tiền tệ chung cho một vùng kinh tế không đồng nhất và rộng lớn như vùng Euro. Đặc biệt là khi các nền kinh tế phát triển không đồng bộ sẽ tạo khó khăn cho một chính sách tiền tệ thích ứng. Về mặt chính trị vẫn còn câu hỏi là liệu Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ủy ban châu Âu có khả năng kiềm chế các nước thành viên giữ kỷ luật trong ngân sách quốc gia hay không. Trên thực tế, thời gian vừa qua dường như đã xác thực nổi lo ngại này, ít nhất là trong trường hợp của nước Đức: Từ khi đưa đồng Euro vào lưu hành nước Đức chưa có năm nào đạt được điều kiện về thâm hụt ngân sách quốc gia (không được vượt quá 3% tổng sản phẩm quốc nội). Cho tới nay, các biện pháp trừng phạt thật ra là đã được quy định trước trong Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng đã không được Hội đồng các bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu áp dụng. 3.4.4.Mã tiền tệ ISO Ký hiệu quốc tế bao gồm ba mẫu tự của đồng Euro (mã tiền tệ ISO) là EUR. Ký hiệu này là một trường hợp đặc biệt trong mã tiền tệ ISO vì nhiều lý do:Thông thường thì chữ cái đầu tiên của ký hiệu cho một loại tiền tệ được sử dụng trong khuôn khổ của một liên minh tiền tệ là chử X. Vì thế ký hiệu nếu như theo như tiêu chuẩn phải là XEU. Nếu như chữ đầu tiên không phải là X thì hai mẫu tự đầu tiên là mã quốc gia theo ISO 3166. Ký hiệu EU dành cho Liên minh châu Âu cũng được định nghĩa trong tiêu chuẩn này nhưng thật ra là trường hợp đặc biệt vì Liên minh châu Âu không phải là một quốc gia có chủ quyền. Chữ cái cuối cùng của mã tiền tệ thường là chữ cái đầu tiên của tiền tệ. Không có ký hiệu chính thức và cũng không có cách viết tắt chính thức cho Cent của Euro. 3.4.5.Ký hiệu tiền tệ Lớp 06CQD1
124
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Dấu hiệu Euro được Ủy ban châu Âu đưa vào sử dụng như là ký hiệu của đồng tiền tệ cộng đồng châu Âu vào năm 1997. Ký hiệu này dựa trên cơ sở của phát thảo nghiên cứu năm 1974 của người trưởng đồ họa của Cộng đồng châu Mệnh giá
5 Euro
Kích thước
5 € 120 x 62 mm
Màu chính
Kiến trúc
Thời kỳ
Vị trí mã nhà in
Xám
Kiểu Cổ điển
Trước thế kỷ thứ 5
Cạnh phía trái
10 10 € 127 x 67 Euro mm
Đỏ
Kiểu Lãng mạn
Thế kỷ 11– Thế kỷ 12
Ngôi sao phía 8 giờ
20 20 € 133 x 72 Euro mm
Xanh da trời
Kiểu Gô tích
Thế kỷ 13– Thế kỷ 14
Ngôi sao hướng 9 giờ
50 50 € 140 x 77 Euro mm
Da cam
Thời kỳ Phục Hưng
Thế kỷ 15– Thế kỷ 16
Cạnh phải
100 Euro
100 147 x 82 € mm
Xanh lá cây
Barock và Rococo
Thế kỷ 17– Thế kỷ 18
Bên phải của ngôi sao hướng 9 giờ
200 Euro
200 153 x 82 € mm
VàngNâu
Kiến trúc bằng thép và kính
Thế kỷ 19– Thế kỷ 20
Bên phải của ngôi sao hướng 8 giờ
500 Euro
500 160 x 82 € mm
Tía
Kiến trúc hiện Thế kỷ 20– đại Thế kỷ 21
Ngôi sao ở hướng 9 giờ
Âu, Arthur Eisenmenger. Ký hiệu này là một chữ E tròn và lớn có hai vạch nằm ngang. Ký hiệu này gợi nhớ đến chữ epsilon của Hy Lạp và vì vậy là gợi nhớ đến châu Âu thời cổ điển. Hai vạch ngang tượng trưng cho sự bền vững của Euro. 3.4.6.Tiền kim loại Euro Các đồng tiền kim loại Euro có mặt trước hoàn toàn giống nhau trong tất cả các nước nhưng mặt sau là hình ảnh của từng quốc gia. Thế nhưng vẫn có thể trả bằng tiền kim loại trong khắp liên minh tiền tệ. Một euro được chia thành 100 Lớp 06CQD1
125
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
cent, tại Hy Lạp thay vì cent người ta dùng lepto (số ít) hay lepta (số nhiều) trên các đồng tiền kim loại của Hy Lạp. 3.4.7.Tiền giấy Euro Tiền giấy Euro có 7 mệnh giá, mỗi mệnh giá có một màu khác nhau. Các tờ tiền giấy mang hình của kiến trúc châu Âu từ các thời kỳ khác nhau trong lịch sử nghệ thuật. Mặt trước có hình của một hay nhiều cửa sổ hay cổng vào và mặt sau là một chiếc cầu. Đó không phải là công trình kiến trúc có thật mà chỉ là tập hợp của những đặc điểm phong cách của từng thời kỳ kiến trúc một. Tất cả các tờ tiền giấy đều có cờ hiệu châu Âu, chữ đầu tự của Ngân hàng Trung ương châu Âu bao gồm 5 ngôn ngữ (BCE, ECB, EZB, EKT, EKP), một bản đồ châu Âu (bao gồm cả các khu hành chính hải ngoại của Pháp) ở mặt sau, tên "Euro" bằng chữ La tinh và chữ Hy Lạp, chữ ký của Giám đốc Ngân hàng Trung ương Châu Âu đương nhiệm. Vì Wim Duisenberg đã trao lại chức giám đốc cho Jean-Claude Trichet trong mùa thu 2003 nên trên các tờ tiền giấy in sau này chữ ký cũng đã thay đổi. 12 ngôi sao của EU cũng có trên tờ tiền giấy Euro.
3.4.8.Số seri Khác với tiền kim loại Euro các tờ tiền giấy Euro không có một mặt đặc trưng cho từng quốc gia và vì thế mà không thể nhận biết qua hình ảnh là tờ tiền giấy là của quốc gia nào. Thay vào đấy, thông tin này có trong số xê ri trên mặt sau. Mẫu tự đầu tiên của số xê ri có 12 chữ số là dấu hiệu của Ngân hàng Trung ương Quốc gia chịu trách nhiệm in tờ tiền giấy này. Ngân hàng Trung ương Quốc gia này hoặc là đã đưa tờ tiền giấy vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng hoặc là đã cung cấp cho một Ngân hàng Trung ương Quốc gia khác để ngân hàng này đưa vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng đó. Các mẫu tự W, K und J được dành riêng cho các quốc gia EU không tham gia vào Euro trong thời gian này. Sau mẫu tự của Ngân hàng Trung ương Quốc gia là một số bao gồm 10 con số và cuối cùng là một con số kiểm định. Tổng số ngang (cộng tất cả các con số của dãy số lại cho đến khi nào chỉ còn một con số) của 11 con số này là một tổng số kiểm định trong bảng phía dưới. Con số kiểm định cũng có thể được kiểm tra
Lớp 06CQD1
126
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
bằng cách thay thế mẫu tự bằng thứ tự của mẫu tự đó trong bảng chữ cái (A=1;Z=26). Tổng số ngang của các con số kể cả số thay cho chữ cái phải là 8. Một con số kiểm định đúng tất nhiên không phải là một sự bảo đảm là tờ tiền giấy này là tờ tiền thật. Chỉ có con số kiểm định đúng thôi thì tờ tiền giả không trở thành tờ tiền thật nhưng kinh nghiệm cho thấy nhiều người giả mạo đã in số kiểm định sai trên tờ tiền giả. Để kiểm tra tiền giả hay thật nên dùng những phương pháp khác. Các mẫu tự được phân phát bắt đầu từ Z (ngược với bảng chữ cái), thứ tự của các quốc gia là tên của các nước trong ngôn ngữ của từng nước. Hy Lạp đúng ra là nhận chữ W nhưng vì W không có trong bảng chữ cái của tiếng Hy Lạp nên Hy Lạp đã đổi lấy chữ Y của Đan Mạch. Dấu hiệu của ngân hang trung ươc quốc gia: Mã
Quốc gia
Số kiểm định 9 1 2 3
Ghi chú
Z Y X W
Bỉ Hy Lạp Đức Đan Mạch
V
4
España
U T S R
Tây Ban Nha Pháp Ireland Ý Luxembourg
5 6 7 8
France Ireland Italia Lëtzebuerg
Q P O N M L K
còn trống Hà Lan còn trống Áo Bồ Đào Nha Phần Lan Thụy Điển
9 1 2 3 4 5 6
J
Anh
7
Hiện không sử dụng
Hiện không sử dụng
Ngôn ngữ quốc gia Belgique/België Ελλάδα Deutschland Danmark
Nederland
Hiện không sử dụng Hiện không sử dụng
Österreich Portugal Suomi Sverige United Kingdom
3.4.9.Các đặc điểm của từng mệnh giá Các tờ tiền giấy Euro có nhiều đặc điểm an toàn nhằm để ngăn cản hay làm cho việc giả mạo khó khăn hơn. Lớp 06CQD1
127
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
+ Các đặc điểm chung: Giấy dùng để in tiền được làm từ sợi bông vải, có thể được xác minh bằng bút thử đặc biệt, nếu là tiền thật thì dùng loại bút thử này không để lại dấu vết. Hình chìm trên giấy. Dây an toàn, khi đưa giấy lên trước ánh sáng có thể nhìn thấy. Một vài phần của hình có thể cảm nhận được khi sờ lên. Một mệnh giá được in một phần ở mặt trước và một phần ở mặt sau, khi đưa lên trước ánh sáng sẽ nhìn thấy toàn phần (Hai mặt bổ sung chính xác cho nhau). Chữ siêu nhỏ. Dưới ánh sáng của tia cực tím có thể nhìn thấy các sợi có nhiều màu. + Các đặc điểm của từng mệnh giá: Vạch bằng lá kim loại đặc biệt có ảnh ba chiều (tiếng Anh: Hologram), khi nhìn nghiêng ảnh sẽ thay đổi giữa ký hiệu Euro và mệnh giá (ở các mệnh giá 5, 10 và 20 Euro). Vạch đặc biệt khi nhìn nghiên tờ tiền giấy sẽ có màu vàng với ký hiệu Euro và mệnh giá (ở các mệnh giá 5, 10 và 20 Euro). Ảnh ba chiều với hình của kiểu kiến trúc hay mệnh giá (ở các mệnh giá 50, 100, 200 và 500 Euro). Đổi màu: Khi nhìn nghiên tờ tiền giấy màu sẽ thay đổi ở các mệnh giá lớn (ở các mệnh giá 50, 100, 200 và 500 Euro). + Các đặc điểm bí mật: Trên các tờ tiền giấy Euro còn có những đặc điểm an toàn bí mật (được gọi là "M-Features"). Những đặc điểm này được kiểm tra một cách tự động trong các chi nhánh của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Cho đến nay các phương pháp kiểm tra này đã có thể nhận biết được tiền giả một cách chắc chắn. Mỗi một tờ tiền giấy trung bình được kiểm tra 3 tháng một lần trong một chi nhánh của Ngân hàng Trung ương châu Âu nhằm khám phá và ngăn chặn tiền giả trong lưu hành.
Ký hiệu tiền tệ Tiền kim loại Euro
Lớp 06CQD1
128
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Tiền giấy Euro
3.5. Bảng Anh Bảng Anh (ký hiệu £, mã ISO: GBP) tức Anh kim là đơn vị tiền tệ chính thức của Vương quốc Anh và các lãnh thổ hải ngoại, thuộc địa. Một bảng Anh gồm 100 xu (pence hoặc penny). Ký hiệu của đồng bảng ban đầu có hai gạch trên thân (₤), sau này mới chuyển thành một gạch (£), ký hiệu này xuất xứ từ ký tự L trong LSD – tên viết tắt của các đơn vị trong hệ đếm 12 – librae, solidi, denarii, chuyển sang tiếng Anh là Pound, shilling và pence (hoặc penny). Đồng bảng Anh là đồng tiền lâu đời nhất còn được sử dụng sau khi một số quốc gia thuộc khối EU chuyển sang dùng đồng Euro (€). Nó là đồng tiền được lưu trữ trong các quỹ dự trữ ngoại tệ toàn cầu, mức phổ biến chỉ sau đồng đô la Mỹ và đồng Euro. Đồng bảng đứng thứ tư về khối lượng giao dịch ngoại tệ toàn cầu sau đồng đô la Mỹ, đồng Euro và đồng Yên Nhật. Trước năm 1971, một bảng là 20 shilling, một shilling là 12 xu (pence). Như vậy một bảng là 240 xu. Ngày nay, đơn vị shilling không tồn tại nữa, một bảng Anh (£1) bằng một trăm xu (100p). Đồng xu kim loại kiểu cũ rút ra khỏi hệ thống thanh toán năm 1980 Lớp 06CQD1
129
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
3.5.1.Giá trị của đồng bảng Anh Năm 2006, thư viện của Hạ Nghị viện Vương quốc Anh phát hành một ấn bản [2] thống kê giá trị của bảng Anh từng năm từ 1750 đến 2005 với giá trị của năm 1974 (là năm bỏ bản vị vàng của nền kinh tế Mỹ) là 100. Tài liệu này là bản cập nhật của những ấn bản phát hành năm 1998 và 2003. Về giai đoạn 1750-1914, tài liệu nhận xét: "Mặc dù giá cả có những biến động đáng kể theo từng năm trước năm 1914 (phản ánh tình hình mùa màng, chiến tranh, v.v..) nhưng trong thời gian dài mức tăng giá không thể so sánh với giai đoạn sau 1945". Bản nhận xét tiếp tục, "từ năm 1945, giá cả tăng hàng năm tổng cộng đến 2005 là hơn 27 lần mức giá năm 1945". Chỉ số giá trị đồng bảng năm 1750 là 5,1, tăng đến đỉnh cao ở con số 16,3 năm 1813, và sau đó nhanh chóng giảm xuống quanh 10,0 ngay sau kết thúc chiến tranh Napoleon. Cho đến hết thế kỷ 19, chỉ số dao động trong khoảng 8,5 đến 10,0. Chỉ số đồng bản năm 1914 là 9,8; lên đỉnh cao 25,3 năm 1920 để rồi giảm xuống 15,8 năm 1933 và 1934. Như vậy giá cả thời điểm này đã gấp ba lần so với 180 năm trước đó. Lạm phát đã có ảnh hưởng to lớn trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai: chỉ số 20,2 năm 1940 và 757,3 năm 2005. 3.5.2.Giá trị so với đồng tiền khác Hiện nay, bảng Anh là đồng tiền được mua bán tự do trên toàn thế giới và do đó, giá trị của nó so với các đồng tiền khác biến động hàng ngày. Đây là một trong những đồng tiền có giá trị cao nhất trên thế giới. Tại thời điểm ngày 22 tháng 4 năm 2007, một bảng Anh bằng hai đô la Mỹ 3.5.3.Tiền kim loại Tiền kim loại do Xưởng đúc tiền Hoàng gia (Royal Mint) phát hành, bao gồm các mệnh giá: 1 xu, 2 xu, 5 xu, 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 bảng, và 2 bảng. Có cả đồng 5 bảng, nhưng ít được sử dụng. Trên đồng 1 xu có hình một cổng thành. Trên đồng 2 xu có hình biểu tượng của Huân tước xứ Wales. Trên đồng 5 xu có hình hoa Thistle, quốc hoa của xứ Scotland. Trên đồng 10 xu có hình một con sư tử, tượng trưng cho xứ England. Đồng 20 xu có hình Tudor Rose. Đồng 50 xu có hình Britannia, nữ thần tượng trưng cho đại đế quốc Anh và hình một con sư tử. Đồng 1 bảng (hình trên) có biểu tượng của cây thánh giá Celtic xứ Northern Ireland.
Lớp 06CQD1
130
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Đồng 2 bảng có in câu nói của Isaac Newton "Standing on the Shoulders of Giants" (đứng trên vai những người khổng lồ). 3.5.4.Tiền giấy Tiền giấy do Ngân hàng Anh và các ngân hàng ở Scotland, Bắc Ireland phát hành, bao gồm các loại mệnh giá: 5 bảng, 10 bảng, 20 bảng và 50 bảng. Việc phát hành tiền giấy của các ngân hàng ở Scotland và Bắc Ireland tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu là phải đặt thế chấp tại Ngân hàng Anh cho toàn bộ lượng tiền giấy đưa vào lưu thông. Loạt tiền giấy hiện đang sử dụng gọi là loạt E phát hành từ tháng 7 năm 2005. Mặt sau có in hình một số nhân vật lịch sử: Tờ 5 bảng có in hình Elizabeth Fry, một nhà hoạt động xã hội đã có công cải cách chế độ giam tù. Trên tờ 10 bảng có in hình Charles Darwin, nhà khoa học tự nhiên, người đề xuất Thuyết Tiến hóa. Ở 20 bảng có hình Edward Elgar, một nhà văn. Ở 50 bảng có hình John Houblon, người sáng lập Ngân hàng Anh và là thống đốc đầu tiên. Có cả tiền giấy mệnh giá 100 bảng, nhưng không lưu thông trên thị trường.Tiền giấy mệnh giá 1 bảng được dùng ở quần đảo Channels và Scotland.
Lớp 06CQD1
131
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành Tiền kim loại
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 10 bảng Anh
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 20 và 50 bảng Anh 3.6. Nhật
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 1000, 500và 100 yenr
Tiền kim loại
Yên là đơn vị tiền tệ của Nhật Bản (tiếng Nhật viết là 円 (En); tiếng Anh viết là Yen), có ký hiệu là ¥, và có mã là JPY trong bảng tiêu chuẩn ISO 4217. Yên trở thành đơn vị tiền tệ của Nhật Bản từ ngày 27/6/1871. Hiện tại yên gồm cả hình thức tiền kim loại (6 loại) lẫn tiền giấy (4 loại). Các loại tiền kim loại gồm đồng 1 yên, đồng 5 yên, đồng 10 yên, đồng 50 yên, đồng 100 yên và đồng 500 yên. Các Lớp 06CQD1
132
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
loại tiền giấy gồm tờ 1000 yên, tờ 2000 yên, tờ 5000 yên và tờ 10.000 yên. Yên do Ngân hàng Nhật Bản phát hành. 1 yên bằng khoảng 133 VND.
Yên Nhật 日本円 (tiếng Nhật) Mã ISO 4217
JPY
Sử dụng tại
Nhật Bản
Lạm phát Nguồn
0,3% The World Factbook, ước tính năm 2006.
Đơn vị nhỏ hơn 1/100
sen
1/1000
rin Ký hiệu
¥
Số nhiều
Ngôn ngữ của tiền tệ này không có sự phân biệt số nhiều số ít.
Tiền kim loại
¥1, ¥5, ¥10, ¥50, ¥100, ¥500
Tiền giấy Thường dùng
¥1000, ¥5000, ¥10.000
Ít dùng
¥2000
Ngân hàng trung ương Trang web Nơi in tiền Trang web Nơi đúc tiền
Ngân hàng Nhật Bản www.boj.or.jp Cục in ấn quốc gia Nhật Bản www.npb.go.jp Cục in tiền Nhật Bản
3.7. Nga Ở Nga, ngân hàng cổ phần được thiết lập vào năm 1768. Lúc này tiền giấy đã được dư luận rộng rãi chấp nhận. Tuy nhiên, khi chính phủ bắt đầu cho lưu hành với một số lượng lớn tiền giấy trong thời kỳ cuộc chiến tranh lần thứ hai chống Thổ Nhĩ kỳ (1787 - 1792) thì sự tín nhiệm của dân chúng giảm dần và tiền giấy đi Lớp 06CQD1
133
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
đến mất giá trị. Từ lúc ấy trở đi, Nga tiếp tục phát hành không ngừng tiền giấy chính phủ. Tiền NGA hiệncó các loại đồng Rubles: 10 rubles, 50 rubles, 100 rubles, 500 rubles, 1000 rubles, 5000 rubles, Coins:1 kopek, 2 kopek (USSR), 3 kopek (USSR), 5 kopeks, 10 kopeks, 15 kopek (USSR), 20 kopek (USSR), 50 kopecks, 1 ruble, 2 rubles, 5 rubles, 10 rubles (usually, minted with some special insignia for some events, like the city jubilees).
3.8. Jamaica
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 100 và 50Jamica dollar
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 1000 và 500Jamica dollar
3.9. Liberia
Lớp 06CQD1
134
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 100 và 50 Liberia dollar
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 10 và 20 Liberia dollar 3.10.Guyna
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 100 và 500GUYNA dollar
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 20 và 1000GUYNA dollar 3.11.Zambadwe Lớp 06CQD1
135
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 20, 10 và 5 Zimbadwe dollar 2006 3.12.Beliza
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 5 và 2 Beliza dollar
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá100 và 50 Beliza dollar 3.13.Hong Kong
Lớp 06CQD1
136
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 20 và 100 Hongkong dollar
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 50 và 10 Hongkong dollar 3.14.Úc
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 5 và 10 Australia dollar
Lớp 06CQD1
137
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 100 và 20 Australia dollar 3.15.Pháp
Mặt trước và sau tờ tiền mệnh giá 50 và 20 France
Lớp 06CQD1
138
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
4. TÊN VIẾT TẮC CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ WIPO ( World Intellectual Property Organization): Tổ chức quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ . WCC ( World Council of Churches): Hội đồng nhà thờ thế giới. WHO (World Health Organization): Tổ chức y tế thế giới. WWF (World Wildlife Fund) : Quỹ quốc tế bảo tồn động vật hoang dã. WTO ( World Trade Organization): Tổ chức mậu dịch quốc tế. ILO (International Labor Organization): Tổ chức lao động quốc tế. FAO (Food and Agriculture Organization): Tổ chức lương thực và nông nghiệp. CIA (Central Intelligence Agency) : Cục tình báo trung ương Mĩ. FBI (Federal Bureau of Investigation) : Cục điều tra liên bang Mĩ. FIFA (Fédération Internationale de Football Association) : Liên đoàn bóng đá quốc tế. UEFA (Union of European Football Association) : Liên đoàn bóng đá Châu Âu. AFC (Asian Football Confederation) :Liên đoàn bóng đá Châu Á. CAF (Confédération Africaine de Football) : Liên đoàn bóng đá Châu Phi. OFC (Oceania Football Confederation) : Liên đoàn bóng đá Châu Đại Dương. CONCACAF (The Confederation of North, Central America and Caribbean Association Football) : Liên đoàn bóng đá Bắc Trung Mĩ. CONMEBOL (Confederación Sudamericana de Fútbol) : Liên đoàn bóng đá Nam Mĩ. IMF (International Monetary Fund) : Quỹ tiền tệ quốc tế. UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization) : Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa.
Lớp 06CQD1
139
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
UNICEF (The United Nations Children's Fund) : Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc. UN (United Nations) : Liên hợp quốc. UNIDO (United Nations Industrial Development Organization) : Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc. WMO (World Meteorological Organization) : Tổ chức khí tượng thế giới. ICC (International Chamber of Commerce) : Phòng thương mại quốc tế. APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation) : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương. UNCITRAL (United Nations Commission on International Trade Law) : Ủy ban liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế. UNCTAD (United Nations Conference on Trade and Development) : Hội nghị của liên hợp quốc về thương mại và phát triển. ASEM (Asia-Europe Meeting) : Hội nghị các nguyên thủ quốc gia về hợp tác Á – Âu. ASEAN (Association of Southeast Asian Nations) : Hiệp hội các nước Đông Nam Á. WB (World Bank) : Ngân hàng thế giới. TI (Transparency International) : Tổ chức minh bạch thế giới. OECD (Organization for Economic Cooperation and Development) : Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. FATF (Financial Action Task Force) : Nhóm hành động tài chính chống nạn rửa tiền. NOWC (New Open World Corporation) : Tổ chức bầu chọn kỳ quan thế giới mới. IAEA (International Atomic Energy Agency) : Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế. IDLO (International Development Law Organization) : Tổ chức phát triển luật quốc tế. Lớp 06CQD1
140
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
IAL (International Association of Lawyers) : Hiệp hội luật sư quốc tế. USCIRF (United States Commission on International Religious Freedom) : Ủy ban Hoa Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế. HRW (Human Rights Watch) : Tổ chức nhân quyền thế giới. ILA: Hội luật pháp quốc tế. OIJ: Tổ chức nhà báo quốc tế. IUS: Hội liên hiệp sinh viên quốc tế. LRA: Quân đội kháng chiến hoàng gia. UNDP: Chương trình phát triển liên hợp quốc. NUH: Trung tam bảo vệ sức khỏe. ISP: Cung cấp dịch vụ internet. PPO: Cơ quan bảo vệ địa cầu. CAA: Hiệp hội hàng không dân dụng. IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế. MOSSAD: Tổ chức tình báo Israel. EEC: Khối thị trường chung châu Âu. SNG: Cộng đồng các quốc gia độc lập. SEV: Hội dồng tương trợ kinh tế thé giới. ANC: Đại hội dân tộc châu Phi. ICAO: Hội liên hiệp hàng không thế giới. UEA: Hội quốc tế ngữ quốc tế. UPU: Liên minh bưu chính thế giới. FAU: Tổ chức nông lươqng quốc tế. FIDE: Liên đoàn cờ vua thế giới. USDA: Bộ nông nghiệp Mĩ. OPCW: Tổ chức hành động vì mục tiêu cấm vc hoá học. DEA: Cục kiểm soát ma túy Mĩ. BATF:Cục quản lí rựu, thuốc lá vũ khí Mĩ. UNICORN: Hệ thống thông tin khu vực Caribê. Lớp 06CQD1
141
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
OAA: Cơ quan năng lượng nguyên tử Mĩ. NED: Quỹ hỗ trợ quân chủ quốc gia. IOC: Ủy ban olimpic quôc tế . UNDP: Quỹ xóa đói giảm nghèo. UNESCO: Tổ chức văn hóa khoa học giáo dục của LHQ. IATA: Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế. Tổ chức Hợp tác kinh tế Châu á-Thái Bình Dương ( Asia-Pacific Economic Co-operation) Hiệp hội các nước Đông Nam Á ( Association of South-East Asian Nations) Hiệp hội cảnh sát Đông Nam á ( Police Association of Southeast Asian Nations) Công ty phát thanh Anh quốc ( British Broadcasting Corporation) Hội đồng kiểm duyệt phim của Anh ( British Board of Film Censors) Cơ quan điều tra những vụ phạm pháp và bảo vệ an ninh quốc gia của Hoa Kỳ; Cục điều tra liên bang ( Federal Bureau of Investigation) Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa, trong tiếng Anh viết tắt là OPEC (viết tắt của Organization of Petroleum Exporting Countries). OPEC là một tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Saudi và Venezuela trong hội nghị tại Baghdad (từ 10 tháng 9 đến 14 tháng 9 năm 1960). Các thành viên Qatar (1961), Indonesia (1962), Libya (1962), Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (1967), Algérie (1969) và Nigeria (1971) lần lượt gia nhập tổ chức sau đó. Ecuador (1973–1992) và Gabon (1975–1994) cũng từng là thành viên của OPEC. Trong năm năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Wien, Áo từ tháng 9 1965. Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng ¾ trữ lượng dầu thế giới.
Lớp 06CQD1
142
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
5. GIAO TIẾP THƯƠNG LƯỢNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 5.1. Kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là nền kinh tế lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ đạo. Những quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi tập trung bởi các cá nhân người tiêu dùng và công ty. Việc định giá hàng hóa và phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế được cơ bản tiến hành theo quy luật cung - cầu. Trái với kinh tế thị trường là kinh tế kế hoạch hóa tập trung. 5.1.1.Ưu điểm Ưu điểm của kinh tế thị trường là bốn vấn đề sản xuất cái gì, ai sản xuất, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai được giải quyết rất hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. 5.1.2.Nhược điểm kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hoàn toàn hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát. Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường nhiều hay ít. Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai nước.
Lớp 06CQD1
143
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
5.2. Giao tiếp trong kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, nghệ thuật giao tiếp đóng góp một vai trò khá quan trọng trong việc gặp gỡ, đàm phán, hớp tác và ký kết giữa các đối tác trong và ngoài nước. Có một số điều cần biết dưới đây: 5.2.1.13 điều tối kỵ trong kinh doanh Đừng bao giờ mắc những lỗi ngớ ngẩn dưới đây, để có lúc bị các đối tác loại ra khỏi nhóm. - Ngồi chờ “sung rụng” Nhiều người chỉ thấy được tác dụng của “mạng lưới các mối quan hệ” khi đã thất nghiệp hoặc thất bại trong làm ăn. Đây là thói quen hoàn toàn sai lầm. Bạn nên giữ chặt lấy các mối quan hệ ở mọi thời điểm vì ai mà biết, sẽ có lúc nào bạn cần đến họ. - Không mục đích Sai lầm nhất của bạn là tạo những mối quan hệ mà không biết để làm gì. Nếu bạn không biết mình muốn gì ở người đối diện, ắt những thể hiện tình cảm của bạn sẽ hời hợt và vô duyên. - Không chuẩn bị Chỉ cần bạn có thái độ không quan tâm hay không tôn trọng một ai đó, rất có thể bạn sẽ không còn ở trong nhóm đó nữa. - Quên danh thiếp Còn gì tệ hơn việc bạn vừa làm quen được một đối tác “sộp”, họ đã trao danh thiếp cho bạn. Và bạn cũng thò tay vào ví, nhưng chẳng có chiếc card nào trong đó cả. - Sử dụng địa chỉ email thật ngộ nghĩnh Bạn vừa ghi lại cho một cộng sự làm ăn địa chỉ e-mail kèm theo lời nhắn: “Hãy gửi báo giá cho tôi theo địa chỉ thư này nhé”. Và bạn khiến người đó xuýt ngã ngửa với dòng địa chỉ: emmoiyeulandau@... hay anhchangdeptrai@... - “Thùng rỗng kêu to” Nếu muốn được nhận lời khuyên chân thành từ những người có nhiều kinh nghiệm, hãy biết khiêm tốn và tỏ ra là người muốn học hỏi thật sự. Nếu bạn đã là anh chàng biết tuốt thì bạn cần gì phải học hỏi ai nữa? - Chiếm dụng thời gian của người khác
Lớp 06CQD1
144
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Đừng coi mình là “cái rốn của vũ trụ” và đừng nghĩ rằng chỉ câu chuyện của bạn mới đáng quan tâm. Hãy biết lắng nghe người khác. - Không nghiêm túc Trang phục và thái độ của bạn cần phù hợp với môi trường xung quanh. - Là kẻ ngoài cuộc Chẳng ai có thể có ấn tượng tốt với người luôn đứng ngoài cuộc, cho dù người đó có một bề ngoài ưa nhìn. Hãy ra dáng là một người chuyên nghiệp và tự tin. - Thụ động Nếu có ai đó bỗng nhiên nói với bạn rằng: “Xin lỗi, hôm nay chúng ta không có việc gì cả”. Đừng vội bỏ đi mà không một lời nhận xét. Sao bạn không chủ động đưa ra việc cho cả nhóm? Hoặc ít ra cũng nêu một câu hỏi: “Vậy lần tới chúng ta sẽ bàn về vấn đề gì?”. - Dối trá Đừng có dại mà đưa bất kì thông tin sai lệch nào về bạn hay về đối phương bởi vì sớm muộn gì thì bạn cũng sẽ bị lộ tẩy và khi đó chẳng còn đường mà rút lui. - Cư xử như thể đây là một mối quan hệ ngắn hạn Thật tồi tệ nếu bạn nghĩ rằng đây chỉ là nhóm mà bạn cần trong thời gian hiện tại và nó chẳng có giá trị gì trong tương lai. Chính suy nghĩ đó sẽ giết chết các mối quan hệ của bạn. - Quên mất bạn là ai Dù cho bạn có gia nhập nhóm trước hay sau, sớm hay muộn thì tất cả mọi người đều được đối xử như nhau. Trong làm ăn, người thành công là người có thực tài. Vì thế, hãy bỏ ngay tư tưởng “ma cũ bắt nạt ma mới” và tuân thủ theo mọi điều lệ của nhóm. 5.2.2.Phong cách giao tiếp Trong một bữa tiệc hay một sự kiện có đông người, bạn sẽ thấy có những người nổi lên giữa đám đông với một phong cách hòa đồng bên cạnh những người có vẻ kín đáo hơn. Họ thường chủ động bắt chuyện với mọi người, niềm nở và có thể bắt chuyện với bất cứ ai. Đó là một kỹ năng rất cần thiết cho người kinh doanh, nhưng trong thực tế, không phải ai cũng có phẩm chất này. Dưới đây là một số cách để bạn trở thành người có khả năng thích ứng nhanh với những tình huống giao tiếp trong xã hội. Lớp 06CQD1
145
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Đến dự với tinh thần thoải mái Nếu bạn đi mà cho rằng đó là bất đắc dĩ và thấy không thoải mái, bạn sẽ làm cho buổi gặp gỡ trở nên miễn cưỡng. Hãy nghĩ rằng đó là một cơ hội tốt để tiếp xúc với nhiều người và bạn sẽ có buổi gặp gỡ vui vẻ và thú vị. Thay vì đứng lặng lẽ, dựa vào tường, vắt chéo tay và khuôn mặt không mấy vui vẻ, bạn sẽ luôn cười nói, đi tới đi lui để tiếp chuyện và tỏ ra rất thoải mái trong giao tiếp với mọi người. Ăn mặc nghiêm túc Trang phục thích hợp với hoàn cảnh sẽ làm cho bạn tự tin lên rất nhiều. Mỗi sự kiện khác nhau, bạn cần có trang phục thích hợp và đó là cách bạn tôn trọng người khác và chính mình. Điều đó giúp bạn cảm thấy thoải mái hơn khi giao tiếp với người khác. Hãy cười và chào mọi người một cách thân thiện Người Trung Quốc có câu: “Nếu bạn không biết cười thì đừng bao giờ kinh doanh”. Nếu bạn nhìn vào mắt ai đó từ cách 10 bước, hãy biểu hiện sự thân thiện bằng cách gật đầu hoặc mỉm cười. Còn nếu cách 5 bước thì bạn hãy nói: “Chào anh!” hoặc “Dạo này bên anh còn nhập hàng từ Nga nữa không?” tùy thuộc vào bối cảnh và đối tượng bạn gặp. Đừng bao giờ cố tình làm như bạn không thấy người khác. Chuẩn bị câu chuyện trước khi nói Người ta cảm thấy dễ gần người khác hơn khi có cái để nói. Hãy thường xuyên cập nhật thông tin trên báo chí để biết những gì đang xảy ra trên thế giới. Tìm đọc những tạp chí chuyên ngành hoặc sách để cập nhật kiến thức trong lĩnh vực của bạn. Luôn sẵn sàng chủ động giới thiệu mình với người khác Chủ động giới thiệu mình và bắt tay làm quen là cách tốt nhất để hòa nhập với những người lạ. Hãy luôn cầm ly rượu bằng tay trái để tay phải có thể sẵn sàng bắt tay. Nếu bạn ngồi, quay sang hai bên, chào mọi người và tự giới thiệu mình. Luyện tập kỹ năng nghe Người ta thường nói “Nói là gieo, nghe là gặt”, nhưng thực tế phần lớn mọi người có xu hướng thích “gieo” nhiều hơn “gặt”. Người có kỹ năng nghe tốt là người biết khuyến khích người khác nói. Hãy đặt câu hỏi hoặc đưa ra lời bình luận để tiếp tục câu chuyện. Bạn có thể dùng một số cách bình luận như: “Nghe có vẻ giống như ”, “Không biết có đúng là anh A làm ở công ty XYZ không?”, “Tôi Lớp 06CQD1
146
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
cũng gặp trường hợp tương tự năm ngoái ”, “Cuối cùng anh ta làm gì?” Có rất nhiều câu hỏi để đào sâu thêm câu chuyện, nhưng cũng cần chú ý bối cảnh để đưa ra cách tiếp chuyện thích hợp. Đừng uống quá nhiều Nhiều người nghĩ rằng uống sẽ làm tăng hưng phấn trong giao tiếp, nhưng mặt trái của nó là bạn có thể sẽ không kiểm soát được bạn đã nói gì. Sẽ rất tệ hại khi bạn tỉnh táo và nhận ra rằng lẽ ra không nên nói như vậy khi gặp gỡ người khác. Lúc đó thì đã quá muộn. Lịch sự lúc chia tay Bạn không chỉ cần lịch sự lúc ban đầu gặp nhau mà cách bạn rút lui, chia tay cũng là một phần của kỹ năng giao tiếp. Nhiều người tìm cách lặng lẽ rút khỏi cuộc gặp gỡ và cho rằng để không ảnh hưởng tới không khí của người khác. Đó là cách lý giải không hợp lý vì bạn sẽ không gây được ấn tượng. Trong kinh doanh, cách bạn chia tay sẽ góp phần tăng cường hình ảnh của bạn và có thể mở ra những cơ hội mới với đối tác. Những câu nói: “Rất hân hạnh được gặp ông!”, “Hy vọng được gặp lại ông tại ”, “Tôi rất vui mừng được nghe anh nói về ” không phải là vô ích. 5.2.3.Bí quyết chào hỏi Một ngày làm việc của một doanh nhân chắc chắn sẽ diễn ra nhiều cuộc gặp gỡ và chào hỏi. Một số nhà kinh doanh với thái độ chủ động, niềm nở, thân thiện đã tạo ra những ấn tượng rất tốt đẹp trong lòng khách hàng và đối tác ngay trong lần gặp gỡ đầu tiền. Và sự khởi đầu tốt đẹp này chính là tiền đề cho những lần gặp gỡ và đàm phán kinh doanh tiếp theo trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn. Người ta gọi đó là kỹ năng giao tiếp, một phẩm chất rất cần thiết cho các doanh nhân. Nhưng trên thực tế, không phải ai cũng có phẩm chất này. Dưới đây là một số cách để bạn thành công ngay từ những tình huống giao tiếp đầu tiên. Hãy đứng lên khi bạn gặp gỡ một ai đó Điều này sẽ khiến bạn giành được sự thiện cảm của người đối diện và tạo ra cảm giác hai người đang ở một vị trí ngang bằng nhau, mắt đối mắt. Nếu như bạn không đứng lên, mà vẫn tiếp tục ngồi để chào hỏi, có nghĩa bạn muốn gửi đến người đó một thông điệp rằng anh ta không đủ quan trọng khiến bạn phải rời bỏ công việc đang dở dang để tiếp chuyện với anh ta. Còn nếu trong trường hợp, vì một lý do khách quan nào đó mà bạn không thể đứng lên được (ví dụ như bị kẹt giữa một đống hồ sơ, tài liệu), hãy đưa ra một lời xin lỗi và giải thích. Bạn có thể Lớp 06CQD1
147
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
nói như thế này: “Tôi rất xin lỗi vì đã không đứng lên được. Tôi không thể tìm được cách thoát ra khỏi đống tài liệu này được”. Hãy mỉm cười Sự biểu lộ trên gương mặt còn có ý nghĩa hơn lời nói rất nhiều. Hãy nhìn khách hàng và đối tác như thể là bạn rất vui mừng được gặp gỡ họ mà không chú ý tới những gì đang diễn ra trong đầu óc và suy nghĩ của bạn. Người Trung Quốc có câu: “Nếu bạn không biết cười, thì đừng bao giờ kinh doanh”. Hãy luôn đặt nụ cười trên môi khi gặp gỡ và trò chuyện với khách hàng và đối tác. Hãy thể hiện sự giao tiếp bằng mắt Hãy nhìn trực diện vào mắt người đối diện, như muốn nói với họ rằng bạn tập trung sự chú ý và quan tâm đến những gì họ nói. Nếu bạn nhìn sang hướng khác hay nhìn chằm chằm vào một nơi nào khác, bạn sẽ khiến họ nghĩ bạn đang mong chờ sự có mặt của một ai đó và như muốn chấm dứt nhanh chóng cuộc gặp gỡ này. Chủ động giới thiệu bản thân Ngay khi bạn tiếp cận một đối tượng mà trước đây bạn chưa từng quen biết biết, hoặc có ai đó tiếp cận bạn, hãy nói với họ bạn là ai. Đừng đứng im và yên lặng như thể ai đó có nhiệm vụ phải giới thiệu họ với bạn trước. Kèm theo lời giới thiệu bản thân bạn tên là gì, bạn nên nói cho họ biết khi nào họ có thể cần đến bạn Nếu mà chỉ nói: “Xin chào, tôi là Mary Jones.”, thì chưa đủ. Hãy đưa thêm thông tin về bạn và nói đầy đủ: “Xin chào, tôi là Mary Jones. Tôi đang làm việc cho Tập đoàn XYZ”. Bắt tay dứt khoát và mạnh mẽ Trong cuộc sống hiện đại, việc bắt tay đã trở thành một thông lệ không thể thiếu. Tuy nhiên, không chỉ là một hành động đơn thuần, bắt tay đã gần như trở thành một tín hiệu cho đối tác biết về con người, cá tính và mức độ tự tin của bạn trước đối tác. Vậy bí quyết để có được một cái bắt tay hoàn hảo là gì? Đó là: Chủ động bắt tay trước. Nói như bác sĩ tâm lý, nhà tâm thần học nổi tiếng Nancy B.Iwin thì “thông thường những người đưa tay chủ động là những người mạnh mẽ. Ở Mỹ, bắt tay trước còn cho thấy bạn là người cởi mở, tự tin và thú vị”. Đặt lòng bàn tay của bạn vào lòng bàn tay của đối tác.
Lớp 06CQD1
148
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Nắm chặt tay đối phương. Những cái bắt tay uể oải chẳng khác gì chuyển tới đối tác một thái độ giao tiếp miễn cưỡng và tất nhiên đối tác của bạn cảm thấy chán ngay từ lần gặp đầu tiên. Không phân biệt phái mạnh hay phái yếu. Trong môi trường làm việc hiện đại, cả phụ nữ và nam giới đều phải bắt tay. Do đó, tư tưởng người đàn ông phải chờ phụ nữ đưa tay ra bắt trước đã trở nên lỗi thời. Không nhất thiết phân biệt trước sau, nam nữ. Hãy học cách giới thiệu như thế nào cho đúng trình tự Trong kinh doanh, bạn thường giới thiệu từ người có vị trí quan trọng cao hơn trước, người ít quan trọng hơn sau. Cách thực hiện điều này là bạn nói tên của người có vị trí quan trọng nhất đầu tiên, trong một câu nói như sau: “Tôi rất hân hạnh được giới thiệu với ông/bà, đây là…”, sau đó lần lượt giới thiệu tên của những người tiếp theo. Đi kèm với việc giới thiệu tên, là những thông tin về chức vụ và công việc của từng người. Điều này sẽ khiến đối tác biết được lý do tại sao lại giới thiệu người đó với họ, và đó cũng thường là cách mở đầu thông thường của một cuộc gặp gỡ. Hãy thể hiện ai là người quan trọng hơn trong cuộc gặp gỡ này Khách hàng và đối tác kinh doanh, chắc hẳn sẽ quan trọng hơn ông chủ của bạn trong những cuộc gặp gỡ và đám phán kinh doanh. Chắc chắn ông chủ của bạn cũng đồng ý với bạn về điều đó. Hãy ghi nhớ tên đối tác ngay trong lần đầu gặp gỡ và lắng nghe họ nói Nếu bạn không ghi nhớ tên đối tác, có nghĩa là bạn không tập trung sự chú ý đến họ, cũng như không muốn tiếp tục gặp gỡ và làm ăn với họ trong những lần tiếp sau. Nếu như bạn tập trung và nhắc lại tên của họ ngay lập tức sau khi bạn nghe được, bạn đã thể hiện cho họ thấy sự quan tâm và thiện chí của bạn trong việc thiết lập mối quan hệ, cũng như khiến cho bạn ghi nhớ lâu hơn tên của họ trong những lần gặp gỡ sau đó. Trong giao tiếp, người ta thường nói: “nói là gieo, nghe là gặt”, nhưng thực tế phần lớn mọi người có xu hướng thích “gieo” hơn “gặt”. Người có kỹ năng nghe tốt là người biết khuyến khích người khác nói và biết cách đặt ra nhiều câu hỏi để đào sâu thêm câu chuyện, nhưng cũng cần chú ý bối cảnh để có cách tiếp chuyện thích hợp. Chỉ gọi tên thân mật của người mà bạn mới gặp sau khi đã được họ cho phép Chẳng ai muốn được gọi tên một cách bất lịch sự và quá thân mật ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên. Để tránh được sai lầm này, bạn nên nắm một quy tắc quan
Lớp 06CQD1
149
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
trọng trong giao tiếp là tên của đối tác phải được nhắc đầy đủ họ tên, và bạn chỉ gọi một cách thân mật khi được họ cho phép Mục tiêu của bạn trong những phút gặp gỡ đầu tiên với khách hàng và đối tác là tạo cho họ cảm giác thoải mái, thân thiện và ngay lập tức muốn làm ăn kinh doanh với bạn. Một khi bạn đã nắm vững các quy tắc giao tiếp quan trọng trên đây và tự tin sử dụng chúng, bạn sẽ nhanh chóng xây dựng được một mối quan hệ lâu dài và bền vững với khách hàng. 5.2.4.Bí quyết gây thiện cảm Để gây được cảm tình với người khác, chúng ta phải biết chiến thắng tính ích kỷ của bản thân. Và dưới đây là một vài cách “giành” thiện cảm của đồng nghiệp, cộng sự hay bạn hàng. Hãy nhớ ngày sinh nhật của đối tác để chúc mừng. Mách cho bạn một bí quyết nhỏ để biết ngày sinh của một ai đó nhé! Trong câu chuyện vãn, bạn gợi hỏi xem người đó có tin vào tử vi không, liệu năm sinh tháng đẻ có ảnh hưởng đến tính cách con người không? Sau một đôi câu, dĩ nhiên là bạn có được thông tin. Đánh dấu vào cuốn lịch, và đến ngày sinh nhật của người đó, biết đâu bạn là đồng nghiệp duy nhất gọi điện chúc mừng? Cơ hội thành công chính là ở những chi tiết đó đấy! Trả lời điện thoại ai đó, bạn hãy tỏ ra vui vẻ ngay trong tiếng “alô”, dường như bạn mong đợi người đó gọi điện từ lâu và thực sự sung sướng khi người ấy đã liên lạc với bạn. Một bí quyết không kém phần quan trọng: Gọi tên của người đối thoại, thay vì những đại từ chung chung. Ai cũng vậy thôi, rất nhạy cảm và rất yêu tên mình, bởi tên chúng ta gắn liền với cá nhân, với cái vị kỷ của ta. Nhớ được tên người đối thoại để xưng hô trong lúc trò chuyện là một cách gây cảm tình “đảm bảo có hiệu quả”. Song điều cốt yếu là bạn phải nhớ chính xác tên người đó, bởi nhầm tên thì sẽ tệ hại hơn nhiều. Hãy biết lắng nghe tâm sự của người khác. Xét cho cùng, ai trong chúng ta mà chẳng coi những vấn đề của bản thân là quan trọng nhất? Bởi vậy, hãy cho người đối thoại cơ hội được bộc bạch lòng mình, hãy chăm chú nghe, cảm thông, góp vài lời khuyên nếu thấy cần thiết. Tỏ ra cho người khác thấy tầm quan trọng của họ, đó là một cách nữa để gây cảm tình. Nhưng phải bằng thái độ chân thành, bởi biểu hiện giả tạo sẽ làm người đối thoại bị xúc phạm, và cuối cùng bạn sẽ nhận được kết quả hoàn toàn ngược lại. Lớp 06CQD1
150
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
5.2.5.Nghệ thuật nói dối các doanh nhân Trên thương trường, vì lợi ích kinh doanh, các doanh nhân buộc phải biết nói dối và biết chấp nhận lời nói dối. Quan trọng là nói sao cho “ngọt” và không vi phạm đạo đức kinh doanh. Nói dối khéo léo là một kỹ năng Hãy tưởng tượng bạn đang ở Nhật Bản, đất nước luôn ưu tiên hàng đầu môi trường làm việc hòa hợp. Bạn, một nhân viên bậc trung, rơi vào một tình cảnh khó khăn: Sếp muốn biết tại sao lại có sự chậm trễ trong việc giao hàng. Bạn biết đó là do lỗi của đồng nghiệp. Nhưng biết chỉ là để biết thế thôi bởi ở Nhật, bạn phải tránh tuyệt đối làm bẽ mặt đồng nghiệp trước mặt người khác nếu không muốn bị coi là kẻ hay chỉ trích và thiếu trưởng thành Vậy bạn phải làm gì? Dù chẳng thú vị gì nhưng trong hoàn cảnh này, hãy xin lỗi sếp (dù bạn chẳng phải là người mắc lỗi). Tự nghĩ ra đôi lời nói dối có thể chấp nhận được. Vấn đề với sếp đã xong, bạn hãy nói chuyện riêng với người đồng nghiệp kia. Nếu anh ta biết chơi đẹp, anh ta sẽ tự đi tìm sếp để thanh minh cho bạn. Nói dối trước đám đông vì lợi ích và danh dự của ai đó là một việc nên làm. Khi “Có” không có nghĩa là “Có” Do nhiều nền văn hóa không chấp nhận sử dùng từ “Không” trong đối thoại hoặc đàm phán làm ăn nên người ta đã tìm các cách khác để diễn đạt sự không đồng ý hoặc không hài lòng của mình. Và bạn cần biết điều đó Dĩ nhiên, từ “Có” không nhất thiết đồng nghĩa với “Tôi đồng ý”. Từ này có thể được hiểu theo nghĩa gần hơn là “Tôi đã nghe những gì anh nói”. Nếu bạn muốn gây áp lực với một đối tác là người Trung Quốc truyền thống, và anh ta muốn lẩn tránh, anh ta có thể nói: “Vấn đề này khó khăn đấy” hoặc “Tôi không chắc rằng việc này sẽ khả thi”. Hãy khôn ngoan. Những câu nói này chính là cách nói “Không” lịch sự ở nhiều nước châu Á. Ở Ấn Độ, công việc kinh doanh mang tính cá nhân rất cao và được tiến hành tương đối uyển chuyển với lòng hiếu khách. Nếu bạn tạo được mối quan hệ cá Lớp 06CQD1
151
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
nhân với khách hàng, khi cần có một câu trả lời “Có” hoặc “Không” rõ ràng, nhiều khả năng đối tác Ấn Độ của bạn sẽ nói: “Có, dĩ nhiên rồi” mặc dù trong đầu anh ta đang nghĩ “Không”. Tại sao một “người bạn” lại nói dối bạn? Bởi vì từ “Không” ở Ấn Độ mang hàm ý rất gay gắt. Những lời từ chối mang tính thoái thác được dùng phổ biến hơn và được coi là lịch sự hơn. Cũng như vậy, khi bạn mời họ đến tham dự một sự kiện nào đó và họ nói rằng: “Tôi sẽ cố gắng đến”, đừng ngạc nhiên nếu họ không đến. Lẩn tránh từ “Không” cũng là một kiểu phổ biến ở đất nước Indonesia, nơi mà việc không đồng ý với ai đó sẽ bị coi là bất lịch sự. Hầu hết người dân nước này sẽ nói với bạn những gì họ nghĩ bạn muốn nghe, thay vì mang đến cho bạn bất kỳ một sự buồn khổ nào dù là nhỏ. Bạn cần phải biết phân biết giữa một câu từ chối lịch sự: “Có, nhưng tôi thực sự có ý là không” với câu chấp thuận “Có!”. Người bản địa ở đây có tới 12 cách nói “Không” với đối tác, và nhiều cách trong số đó có “vỏ bọc” là “Có”. Hãy làm quen với điều này. Ở Anh thì không thế. Phần lớn người phương Tây ghét sự dối trá, lươn lẹo, thiếu rõ ràng trong kinh doanh. Thật ra những người Indonesia, người Ấn Độ,... không phải đang nói dối bạn. Họ chỉ muốn thể hiện sự lịch sự theo tiêu chuẩn văn hóa của đất nước họ. Đó là một cách nói dối không hề ảnh hưởng đến đạo đức kinh doanh và chà đạp lên đối tác. 5.2.6.Ngôn ngữ cử chỉ Bạn có biết rằng 60- 75% giao tiếp được thực hiện mà không cần lời? Nhận thức được điều này và học cách thích nghi với ngôn ngữ cử chỉ (body language) để xây dựng sự tin tưởng, cải thiện và củng cố các mối quan hệ sẽ tạo ra tác dụng mạnh mẽ không ngờ tới cho công việc kinh doanh của bạn. Khi đã hiểu và “giải mã” được một số ngôn ngữ cử chỉ cơ bản, bạn cũng sẽ biết cách phản ứng đáp lại sao cho thích hợp bằng cách tập trung chú ý vào những gì họ muốn chuyển tải mà không dùng lời. Sau đây là một số lời khuyên hữu ích cần biết khi giao tiếp: Lớp 06CQD1
152
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Trong trường hợp cần tỏ rõ sức mạnh và quyền lực, lời khuyên đưa ra là bạn nên đứng thay vì ngồi như bình thường. Bằng cách “chiếm dụng” nhiều không gian hơn, bạn sẽ chuyển tải thông điệp ngầm về sức mạnh và quyền lực. Nếu không gian không phù hợp để đứng, có thể tạo ra hiệu ứng tương tự bằng cách duỗi thẳng chân hoặc đặt hai tay lên thành ghế. Nhiều người thường có thói quen quay và ngoái đầu để tìm kiếm sự đồng tình từ những người khác; tuy nhiên, nếu bạn muốn mình trông có vẻ quyền lực hơn thì nên hạn chế tối đa hành động này. Chú ý đặc biệt tới hai bàn tay. Bàn tay có hình chóp ( ngón trỏ và các ngón khác khít lại với nhau, lòng bàn tay rộng) thường thể hiện sức mạnh. Hình dáng bàn tay này được ám chỉ, so sánh với hình ảnh “tháp chuông nhà thờ” và tượng trưng cho trí tuệ. Khi nói chuyện, hãy khép các ngón tay thật thẳng để tạo ra bàn tay hình chóp; các nghiên cứu đã cho thấy cử chỉ này tạo cho người nghe cảm giác tin cậy. Trong một số trường hợp gặp gỡ với những người không quen, bạn có thể làm tóc thật kĩ, mặc quần áo thật đẹp; đây có thể được coi là sự “chải chuốt” và thường thể hiện mong muốn được xuất hiện một cách chỉnh tề và sau đó là củng cố sự tự tin. Trong những trường hợp gặp gỡ người lạ như trên, phải nhận thức rõ ràng về khuynh hướng ăn mặc, cư xử và xem xét kĩ lưỡng trước khi quyết định áp dụng chúng. Dùng bụng để thể hiện sự tự tin và lòng tin cậy. Nghe có vẻ hơi hài hước nhưng đây lại là một cử chỉ rất hiệu quả trong giao tiếp. Rất nhiều người (cả nam và nữ) dùng tay đặt chéo trước bụng để che đi vòng eo hơi quá khổ hoặc bởi họ không tự tin về vòng ngực. Tuy nhiên, cử chỉ này sẽ khiến người khác cho rằng bạn là người khó gần, khinh khỉnh thậm chí là dối trá. “Bắt chước” hành động của những người khác khi phù hợp. Chúng ta thường bị thu hút bởi những người có ngoại hình hay cử chỉ giống mình; vì vậy, nếu bạn muốn thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với ai đó, hãy “bắt chước” hành động của họ. Tuy nhiên, nên nhớ điều Lớp 06CQD1
153
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
quan trọng là phải “bắt chước” một cách tinh tế và khéo léo. Nếu thực hiện nó một cách lộ liễu hoặc lặp lại quá nhiều sẽ khiến người khác khó chịu và có cảm giác bị xúc phạm. Tránh dùng tay chạm hay nghịch tóc bởi hành động này là biểu hiện của sự thiếu tự tin. Nếu bạn là một người đàn ông và muốn tạo cảm giác thoải mái cho người phụ nữ đối diện, hãy làm bất kì điều gì có thể để giữ cho tầm mắt của bạn ở bên dưới tầm mắt của họ. Phụ nữ thường có chiều cao trung bình thấp hơn đàn ông là 5,5 inch (~ 14cm) và thường có cảm giác tiêu cực khi nói chuyện đàn ông: ban đầu đó là sự không tương xứng sau đó là sự tức giận và sau đó là thất vọng. Tuy nhiên, những cảm xúc này có thể được trấn an khi bạn ngồi ở vị trí sao cho tầm mắt thấp hơn của cô ấy. Giữ tiếp xúc bằng mắt. Đôi mắt là bộ phận có khả năng biểu hiện cảm xúc nhiều nhất trong cơ thể con người và giao tiếp bằng mắt là nhân tố quan trọng quyết định thành công của giao tiếp xã hội. Nó là biểu hiện của sự tôn trọng và chú ý đồng thời cho người đối diện biết rằng “Tôi quan tâm đến anh/ chị hơn bất kì thứ gì lúc này”. Nếu tránh nhìn vào mắt người đối diện, bạn có thể sẽ bị đánh giá là không trung thực, đang lo lắng hoặc không quan tâm. Họ cũng có thể cho rằng bạn nghĩ mình ở địa vị cao hơn nên không thèm giao tiếp bằng mắt. Để giữ được giao tiếp bằng mắt một cách đúng đắn mà không phải nhìm chăm chăm vào người đối diện hoặc gây ra sự khó chịu cho họ, lời khuyên đưa ra là tiếp xúc bằng mắt trong khoảng thời gian từ 1 đến 10 giây một lần sau đó lắng nghe. Có thể tập trung mắt lâu hơn trong khi lắng nghe người đối diện nói. 10. Cần chú ý đến tư thế ngồi khi nói chuyện với khách hàng hoặc người có thể là khách hàng trong tương lai. Tư thế cần tránh là ngồi vắt chéo chân và một chân đá nhè nhẹ bởi nó cho thấy sự buồn chán và khó chịu. Tốt nhất là ngồi ở tư thế hai chân hơi mở để thể hiện rằng bạn rất thoải mái và cởi mở. 11. Dựa nhẹ vào người đang nói chuyện một cách từ từ. Trong lịch sử nhiều năm nay, các chuyên gia giao tiếp đều khuyên nên nhanh chóng dựa vào người khác khi nói chuyện bởi đó là phương thức Lớp 06CQD1
154
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
xây dựng mối quan hệ tốt. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã cho thấy nếu dựa vào người khác quá sớm có thể gây ra phản ứng tiêu cực vì nó khiến người đó cảm thấy không thoải mái thậm chí khó chịu. Nếu bạn đang kinh doanh trong môi trường quốc tế hoặc đa ngôn ngữ, điều cấp thiết là phải học cách hiểu và phản ứng với ngôn ngữ cử chỉ hay ra dấu tay. Ví dụ: Một cử chỉ ra dấu tay thể hiện sự vui vẻ ở Bắc Mĩ lại có thể được coi là hành độc xúc phạm ở nơi khác trên thế giới. Giao tiếp với những người cao tuổi, phụ nữ và nam giới ở những hoàn cảnh cụ thể có thể khác nhau tùy vào từng nền văn hóa. Có rất nhiều phương tiện và bí quyết khác nhau để giúp giao tiếp một cách hiệu quả và thu hút. Nếu cảm thấy những kĩ năng giao tiếp của mình chưa có hiệu quả như mong muốn, bạn có thể sử dụng hàng trăm cách khác nhau để đạt được mục đích, trong đó, ngôn ngữ cử chỉ là một gợi ý đáng để thử. Để cải tiến hiệu quả giao tiếp, hãy bắt đầu bằng NỤ CƯỜI- cử chỉ giao tiếp cơ bản. Một nụ cười chân thật là bước khởi đầu để mở những cánh cửa tiếp theo, sưởi ấm trái tim đồng thời xây dựng sự tin tưởng và các mối quan hệ tôn trọng. 5.2.7.Nhậu trong kinh doanh Doanh nhân Việt gặp nhau bên bàn nhậu, làm việc trong bàn nhậu, bắt tay qua bàn nhậu và ký hợp đồng trên bàn nhậu. Doanh nhân gặp nhau không thể không uống cùng nhau ba ly rượu mà đã uống với nhau ba ly rượu rồi không thể không làm ăn với nhau, nhiều khi cái lý của doanh nhân - như cái lý của người Mèo là như thế. Văn hóa kinh doanh của người Việt rất coi trọng quan hệ cá nhân trong kinh doanh, coi đó như liệu pháp vàng để trị bách bệnh. Khi có vấn đề vướng mắc, những người được mời đi uống thì phần lớn là các đối tác mà doanh nhân hy vọng sẽ nhận được sự giúp đỡ khi gặp khó khăn. Uống rượu là phương thức hữu hiệu để xây dựng các mối quan hệ kinh doanh mà đã uống thì phải say, “người say hay nói thật” nên doanh nhân thường tăng cường uống để việc kinh doanh trở nên dễ dàng hơn. Là doanh nhân không thể không biết uống rượu - cũng như làm doanh nhân không thể không tiếp khách. Có công ty tuyển Phó Tổng giám đốc để chuyên đi tiếp khách, để chuyên đi uống rượu. Biết uống rượu được coi là một phẩm chất cần thiết của doanh nhân. Lửa thử vàng, gian nan thử sức và rượu thử doanh nhân. Có doanh nhân được đánh giá cao không phải vì làm ăn giỏi mà vì uống được nhiều rượu. Rượu với doanh nhân đôi khi thành thước đo phẩm chất. Rượu với doanh nhân đôi khi thành thuốc thử sự nhiệt tình, sự tin cậy lẫn nhau. Hàng ngàn hợp đồng có giá trị đã được ký kết trong không gian đầy men rượu với nét bút của những khối óc doanh nhân còn đang chuyếnh choáng. Cũng có Lớp 06CQD1
155
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
lúc, doanh nhân phải tự hỏi: cái gọi là kinh doanh trên bàn nhậu có phải là phát minh của đời sống kinh doanh không, nó đang hiện hữu hàng ngày và phải chăng vì nó hợp lý, nên nó mới tồn tại. Doanh nhân uống rượu khi nào? Doanh nhân thường uống rượu vào buổi tối những cũng có khi uống vào buổi sáng và buổi trưa. Doanh nhân uống rượu khi đi làm ăn, doanh nhân uống rượu khi vui, doanh nhân uống rượu khi buồn, doanh nhân uống rượu khi tâm trạng. Thật ra chọn nghề làm doanh nhân là chọn nghề lúc nào cũng có tâm trạng. Tâm trạng của doanh nhân là tâm trạng khi yêu - yêu tiền. Doanh nhân nhiều khi kiếm tiền là vì yêu, đơn giản chỉ vì yêu mà không vì bất cứ cái gì khác. Khi uống người ta say và khi yêu người ta cũng say. Rượu cũng như tình yêu tiền đều làm doanh nhân say. Uống rượu và yêu ở mức hợp lý có thể đem lại cho doanh nhân cảm giác hưng phấn, khoan khoái, lưu thông huyết mạch…
5.2.8.Sử dụng danh thiếp trong kinh doanh Danh thiếp luôn là một trong những “chiếc cầu nối” đưa bạn đến với các mối quan hệ kinh doanh. Đây là một công cụ có ảnh hưởng rộng, hiệu quả lớn, tiết kiệm chi phí, đơn giản và giúp mọi người nhớ đến bạn trong nhiều giờ, nhiều tuần và thậm chí là nhiều năm sau khi bạn đưa danh thiếp cho họ. Bạn có thể hình dung một thực tế rằng có tới 20 - 30 người thường mang theo danh thiếp của bạn và sẵn sàng phân phát chúng cho bất kể khách hàng tiềm năng nào. Điều này là hoàn toàn có thể, và sẽ thật thú vị khi mỗi lần được nghe: “Để tôi đưa cho quý vị tấm danh thiếp kinh doanh của bạn tôi; và nếu quý vị cho phép, tôi có thể nói với anh ta gọi điện cho quý vị”. Một số công dụng của tấm danh thiếp là: Nói với mọi người về tên của bạn và của công ty bạn Cho khách hàng tiềm năng một cách để liên lạc với bạn Tạo ra một phong cách làm việc, đặc tính cá nhân và vị thế kinh doanh của riêng bạn Danh thiếp có thể hấp dẫn, đặc biệt, kỳ lạ, lôi cuốn hay vui vẻ đến nỗi mọi người không thể quên nó, cũng giống như quảng cáo trên truyền hình và truyền thanh.
Lớp 06CQD1
156
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Danh thiếp có thể được tái sử dụng, truyền tay từ người tới người khác, đưa ra cùng một thông điệp tới bất kể ai tiếp xúc với nó. Hai chức năng chính của tấm danh thiếp là giúp bạn có thêm các cơ hội kinh doanh từ những người nhận tấm danh thiếp đó, và phổ biến tên tuổi của bạn tới nhiều đối tượng khác nhau. Muốn tấm danh thiếp của bạn thực hiện tốt hai chức năng này, bạn cần quan tâm tới một số cách thức sử dụng danh thiếp dưới đây: Đảm bảo tấm danh thiếp của bạn luôn gần gũi với mọi người trong mọi trường hợp. Bạn đừng ra khỏi nhà mà không mang theo danh thiếp bên mình. Hãy chuẩn bị sẵn một chiếc hộp nhỏ đựng danh thiếp để sẵn trong xe hay nơi làm việc, đề phòng trường hợp bạn thấy rằng mình phải sử dụng nhiều danh thiếp hơn số mà bạn đang có trong ví. Bạn còn có thể đặt hộp danh thiếp này vào trong túi áo vest, túi đựng máy tính,... và đảm bảo bạn luôn mang nó theo dù bạn đi đâu. Bạn phải luôn chú ý tới lượng danh thiếp dự trữ. Khi danh thiếp gần hết, bạn cần sớm đặt in bổ sung ngay. Ngoài ra, hãy chắc chắn rằng bạn có danh thiếp trên tay khi giao dịch với đối tác và hãy trao cho tất cả những người có mặt trong buổi tiếp xúc. Bạn nên thường xuyên kiểm tra xem liệu họ có cần thêm danh thiếp hay không, và sẵn sàng cung cấp bất cứ số lượng nào theo yêu cầu của họ. Việc này có thể giúp bạn mở rộng mạng lưới quan hệ và xúc tiến kinh doanh. Tìm kiếm các tình huống trao đổi danh thiếp. Có rất nhiều cơ hội khác nhau để bạn trao đổi danh thiếp với khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng, cũng như các nguồn giới thiệu khác mà bạn mong muốn khai thác. Một số tình huống có vẻ rất hiển nhiên, trong khi có những trường hợp lại rất hiếm khi xảy ra. Bất cứ khi nào bạn có một cuộc gặp gỡ trực tiếp với một ai đó mà bạn chưa quen biết hay không gặp trong một thời gian dài, hãy đưa cho họ tấm danh thiếp của bạn. Tại các sự kiện xã hội, hãy chắc chắn rằng bạn có sẵn Lớp 06CQD1
157
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
rất nhiều danh thiếp khi tham gia. Đây là những địa điểm tốt để mở rộng mạng lưới các mối quan hệ kinh doanh của bạn. Các hội nghị và triển lãm thương mại là những địa điểm tuyệt vời để trao đổi danh thiếp. Các nhà cung cấp tại triển lãm thương mại luôn rất muốn trao danh thiếp cho bạn và đừng để điều này là con đường một chiều. Hãy chắc chắn rằng bạn sẽ đưa cho họ tấm danh thiếp của bạn. Khi bạn ghé thăm một công ty không cạnh tranh với bạn mà các khách hàng của họ cũng chính là những khách hàng tiềm năng của bạn, hãy hỏi xem liệu bạn có thể gửi lại một vài tấm danh thiếp và họ sẽ giúp bạn chuyển danh thiếp cho mọi người khi có thể hay không. Trong phần lớn các trường hợp, những công ty có liên quan tới hoạt động kinh doanh của bạn đều tìm kiếm các đối tác mới. Chẳng hạn như các nhà dinh dưỡng thể thao để lại các hộp danh thiếp tại các phòng tập thể dục. Bạn hãy sáng tạo và quan tâm tới các sự kiện có thể giúp bạn phân phối thật nhiều danh thiếp. Các sự kiện và hội họp quốc tế là những cơ hội tuyệt vời để bạn phân phát danh thiếp. Bạn hãy in danh thiếp bằng hai ngôn ngữ, một mặt là tiếng Anh và mặt khác là ngôn ngữ của quốc gia tổ chức sự kiện mà bạn tham dự. Gửi danh thiếp từ xa. Bất cứ khi nào bạn liên lạc với một ai đó bằng văn bản, hãy gửi kèm theo tấm danh thiếp của bạn. Ngoài ra, danh thiếp nên có sẵn trong bất cứ bộ tài liệu tiếp thị nào mà bạn gửi đi. Cùng với tấm thiệp cảm ơn một doanh nhân nào đó đã giới thiệu cho bạn một bản hợp đồng quan trọng, bạn hãy đưa vào đó một tấm danh thiếp để thay thế tấm danh thiếp mà họ đã gửi đi, thậm chí có thể là một vài tấm danh thiếp. Sau các cuộc nói chuyện điện thoại thảo luận về hoạt động kinh doanh, bạn thường soạn thảo thành văn bản các điều khoản cụ thể đã được nhất trí giữa hai bên, và nên đính kèm một hoặc một vài tấm danh thiếp của bạn. Thư điện tử là một cách liên lạc nhanh chóng và tiện lợi hiện nay, nhưng thư thông thường mới là phương tiện hợp lý để bạn gửi kèm các tấm danh thiếp. Một vài lưu ý đặc biệt. Lớp 06CQD1
158
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Khi gửi đi tấm danh thiếp của bạn, hãy tự tay viết vào đó một vài thông tin, chẳng hạn như số điện thoại di động, địa chỉ e-mail thứ hai,.... như vậy sẽ thu hút được sự chú ý của đối tác nhiều hơn và tấm danh thiếp của bạn sẽ được lưu giữ lâu hơn. Hãy gửi thêm vào đó một đôi tấm danh thiếp và đề nghị người bạn mới này chuyển tấm danh thiếp tới các khách hàng tiềm năng. Sau khi bạn nhận được danh thiếp của một ai đó, hãy viết một vài ghi chú lên mặt sau của danh thiếp để khơi gợi trí nhớ của bạn về một điều gì đó đặc biệt có thể giúp bạn nhớ đối tác. Nhưng bạn chỉ làm điều này khi họ đã ra về rồi. Và cũng đừng viết lên mặt trước của tấm danh thiếp, bởi nếu như vậy bạn đã tự thừa nhận mình là một người hay quên. Nếu bạn cần ghi lại ngay các thông tin trong suốt quá trình thảo luận, chẳng hạn như số điện thoại hay các dữ liệu không có trên danh thiếp, bạn hãy sử dụng tấm danh thiếp của bạn. Chắc hẳn bạn không muốn đối tác nghĩ rằng bạn xem tấm danh thiếp của họ như một tờ giấy nháp để ghi chép lên đó. Và điều quan trọng nhất khi trao gửi danh thiếp đó là bạn cần luôn nhớ rõ công cụ hiệu quả này đóng vai trò quan trọng như thế nào. Hãy tận dụng mọi lợi thế tiềm năng của tấm danh thiếp và đừng bao giờ gặp gỡ một đối tác kinh doanh nào đó mà lại quên mang theo danh thiếp. 5.2.9.Sử dụng điện thoại trong kinh doanh Trong kinh doanh bạn thường tiếp xúc với khách hàng mới bằng điện thoại và người ta sẽ đánh giá bạn ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên này. Bạn sẽ dễ gây ấn tượng xấu nếu bạn tiếp chuyện điện thoại một cách không ý nhị và chuyên nghiệp. Bài viết này sẽ giúp bạn cải thiện được điểm yếu này. Vậy làm thế nào để thông tin hiệu quả trên điện thoại? Khi gọi điện thoại, hãy luôn biết rõ mình muốn nói gì và chắc rằng bạn có đủ tài liệu để diễn đạt điều bạn muốn nói. Làm như thế bạn sẽ tiết kiệm được thời gian cho bạn và cho cả người nghe. Điều chỉnh cách nói chuyện cho thích hợp với từng đối tượng Những người bận rộn thường thích cách tiếp cận trực tiếp, nói ngắn gọn và hạn chế nói chuyện phiếm. Những người khác thì thích nói chuyện thân
Lớp 06CQD1
159
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
mật hơn. Cứ thế, bạn điều chỉnh cho thích hợp (trừ phi họ quá đáng hay bất lịch sự). Hạn chế nói chuyện riêng Nói chuyện phiếm thì vui đấy nhưng nó làm mất thời gian. Và sẽ khó chịu khi bạn đang có nhiều việc phải làm. Hãy trả lời thẳng vào vấn đề Những câu trả lời dài dòng thường gây hiểu lầm và thể hiện tính không chuyên nghiệp. Nếu bạn không biết câu trả lời, hãy nói bạn sẽ gọi cho họ sau khi đã có đáp án chính xác. Nếu bạn đưa ra một phán đoán sai lầm cho người tin tưởng bạn, họ sẽ không bao giờ tin bạn nữa. Cuối buổi nói chuyện, hãy xác nhận lại những điều đã trao đổi Như thế cả hai có thể xem mình đã thống nhất với nhau được điều gì để có thể đưa ra cách giải quyết thích hợp. Đừng nói chuyện riêng khi đang dùng điện thoại Như thế sẽ khiến bạn không trao đổi được gì. Nếu có chuyện gấp, hãy nói người ta giữ máy để nói tiếp sau đó. Khi gọi điện thoại, hãy luôn nhớ những điều sau: Ưu tiên gọi đi Khi bạn cần gọi điện thoại thì hãy gọi, càng để lâu sẽ chỉ gây rắc rối thôi. Đừng gọi qua sớm hay quá trễ Hãy đợi người bạn muốn gọi có thời gian để uống xong cà phê và vô chỗ ngồi. Khi người ta muốn về nhà, thì cũng đừng làm mất thời gian của họ. Những cuộc gọi như sắp xếp thời gian họp, tìm địa chỉ thì bạn có thể giao cho trợ lý. Tuy nhiên bạn nên cẩn thận kẻo người khác nói bạn cậy quyền nhé. Nếu bạn nhận được câu trả lời sẵn, hãy dập máy và gọi lại sau. Và nếu bạn chưa chuẩn bị câu trả lời sẵn, tốt hơn hết bạn hãy chuẩn bị tin nhắn và gởi đi sau. Đừng thúc giục người khác
Lớp 06CQD1
160
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Nếu người ta làm cái gì đó cho bạn, đừng nên cứ vài tiếng là gọi hỏi thăm công việc tiến hành ra sao rồi. Làm như thế sẽ gây phiền hà, làm họ căng thẳng và chậm tiến trình công việc. Khi nhận điện thoại, bạn cần lưu ý những điểm sau: Đừng đợi chuông reo quá 3 lần rồi mới nhấc máy Bạn sẽ trông khá chậm chạp và không chuyên nghiệp nếu để chuông điện thoại reo qua nhiều lần. Nếu bạn nhấc máy cho một cuộc điện thoại đã đổ chuông nhiều lần, hãy xin lỗi người ta. Mọi người đều nên có trách nhiệm trả lời điện thoại Bạn sẽ khiến người khác bực mình nếu để họ đợi qua lâu. Bạn không chỉ làm mất thời gian của họ mà còn đặt họ vào tình thế phải nói chuyện vào một thời điểm nhất định. Mọi người trong một công ty đều nên có trách nhiệm trả lời điện thoại, nếu không, giám đốc sẽ phải làm thay bạn phần việc ấy. Đừng trả lời điện thoại khi đang ăn Âm thanh phát ra sẽ không rõ và có thể bạn tưởng như tai mình đang bị gặm nhấm. Luôn luôn gọi lại Không có điều gì bất mãn hơn bằng việc đợi hàng tiếng đồng hồ cho một cuộc gọi quan trọng. Chính việc không gọi lại của bạn làm chậm công việc của người khác đấy. Những điều trên đây chỉ là một số phép lịch sự thông thường. Luôn luôn nhớ rằng thời gian nói chuyện có giới hạn và người ta đang đánh giá bạn cũng như công ty của bạn có hiệu quả hay không bằng cú điện thoại ấy 5.2.10.Nghệ thuật dùng bữa trưa Trong kinh doanh, đôi khi các vấn đề quan trọng không được bàn thảo tại văn phòng làm việc mà các bên sẽ có được sự nhất trí cao trong những bữa ăn thân mật. Công thức thành công cho một bữa ăn kinh doanh như vậy nhìn bề ngoài có vẻ rất đơn giản. "Chúng ta cùng ra ngoài ăn trưa nhé”, đôi khi bạn vẫn mời khách
Lớp 06CQD1
161
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
hàng hay đối tác bằng lời đề nghị đó. Nghe thì có vẻ đơn giản, song thực tế nhiều khi không phải như vậy. Bữa trưa kinh doanh một mặt là bữa ăn đơn thuần, mặt khác là cơ hội để các bên gặp gỡ bàn thảo công việc. Tuy đây không phải cuộc gặp mặt chính thức, nhưng vẫn có một danh sách dài các quy tắc bất thành văn cần phải tuân theo. Lúc này là thời điểm để "khoe" sự hiểu biết ẩm thực của bạn. Có thể, trong những bữa trưa như thế này, kiến thức về ẩm thực được đối tác đánh giá cao không kém sự thông thạo về chuyên môn của bạn, tuy nhiên, tại những bữa ăn này có thể bạn sẽ bộc lộ các yếu kém về giao tiếp. Để một bữa ăn trưa kinh doanh thành công không quá khó. Theo cuộc thăm dò gần đây của Công ty quảng cáo và tiếp thị The Creative Group thì hành động thô lỗ với nhân viên nhà hàng là nguyên do số một khiến bữa ăn trở nên tồi tệ. Những lý do khác là gì? Đó là việc đến muộn; phong cách ăn uống kém lịch sự; cung cách ăn mặc không thích hợp. Thương trường cũng không khác với đời thường bao nhiêu, sự thô lỗ bao giờ cũng là điều làm người khác khó chịu, cho dù không phải là bạn thô lỗ với đối tác mà là với nhân viên phục vụ. Câu châm ngôn “mật ngọt chết ruồi” bao giờ cũng đúng. Sự đúng hẹn hay cách sử dụng khăn ăn nói lên văn hóa con người bạn. Và hiển nhiên, việc ăn mặc lịch thiệp là cách bạn thể hiện sự tôn trọng đối tác. Vậy đâu là những nguyên do chính làm hỏng một bữa trưa kinh doanh hoàn hảo và làm thế nào để bạn tránh được điều này? Lựa chọn sai nhà hàng. Việc lựa chọn một địa điểm thích hợp cho bữa ăn trưa nhiều khi khiến bạn khá đau đầu, đặc biệt nếu bạn không thông thông thuộc thành phố. Và thậm chí ngay cả khi sống ở trong thành phố của mình, vẫn có trường hợp bạn lựa chọn sai địa điểm. Ví dụ như việc mời một khách hàng tiềm năng - người bị dị ứng với tôm, cua, cá - đến một nhà hàng hải sản. Có một số nhà hàng không thích hợp cho các bữa ăn kinh doanh. Brooks Hurd, một nhà tư vấn kinh doanh tại Mỹ, nhớ lại một địa điểm như vậy - nơi mà các đồng nghiệp của ông gặp gỡ để chúc mừng một khách hàng vừa mới ra viện. Lớp 06CQD1
162
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
“Các món ăn được chuẩn bị khá tốt, nhưng không có gì nổi bật cả”, Hurd kể lại, “Chất lượng không phù hợp với mức giá. Dịch vụ khá nghèo nàn. Bữa ăn kéo dài nặng nề. Thậm chí lúc tráng miệng, một bồi bàn vô tính đánh rơi chiếc bánh ga tô dâu tây ngay trước mặt khách. Kết quả thật tệ hại!”. Lời khuyên: Hãy tin tưởng những nhà hàng có nhiều khách doanh nhân đến dùng bữa. Nếu bạn tự điều tra các nhà hàng ẩm thực tại địa phương, sau đó vẫn nên hỏi một ai đó đang sống trong cùng khu vực để xác minh cho lựa chọn của bạn. Và đừng quên hỏi ý kiến của đối tác kinh doanh dùng bữa với bạn. Sẽ thật sai lầm khi mời một người ăn chay tới nhà hàng kinh doanh thịt bò bít tết. Mời sai đối tượng. Hãy thử hình dung vị khách hàng sẽ như thế nào nếu họ thấy bạn đi cùng đứa con trai nhỏ tuổi tới bữa ăn trưa. Nếu ở địa vị của bạn, chắc hẳn bạn cũng sẽ khó chịu khi phải ngồi ăn trưa với một một đối tác khi họ đến cùng với con cái của mình. Có những nơi hoàn toàn không thích hợp với trẻ con và bữa trưa kinh doanh là một trong số đó. Và con cái không phải là khách mời duy nhất có thể làm hỏng bữa trưa kinh doanh của bạn. Đó còn có thể là vợ (hay chồng), các nhân viên thực tập hay thậm chí là luật sư của công ty (khi mà các vấn đề pháp lý không cần phải giải quyết trên bàn ăn). Lời khuyên: Sau lời mời trực tiếp, bạn nên gửi một e-mail thông báo danh sách khách mời. Tuy nhiên, lời lẽ trong e-mail không nên quá nghiêm túc. Rất đơn giản, bạn có thể viết như sau: “Thông báo để anh biết, tôi đã đặt chỗ cho hai người tại nhà hàng Chez Pierre vào trưa thứ Ba tuần tới. Anh thấy như thế có được không?”. Như vậy là đủ để đối tác của bạn hiểu được thông điệp “Không người ngoài nhé!”. Ngồi sai bàn ăn. Dịch vụ có thể rất tuyệt vời, nhưng bạn vẫn không thể thảo luận về công việc kinh doanh được thì sao? Có một nhà hàng nổi tiếng cho những bữa ăn trưa. Thức ăn ngon, dịch vụ tiện lợi và ở vị trí đẹp nhất thành phố. Có gì sai lầm ở đây? Lớp 06CQD1
163
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Hãy thử liên tưởng tới một cửa hàng bán bánh sandwich. Trong suốt giờ ăn trưa, hàng trăm người ra vào liên tục gọi bánh, đặt bánh tại quầy hàng tạo thành một đám đông nhốn nháo trước bàn ăn của bạn. Đây rõ ràng không phải nơi lý tưởng để nói chuyện về công việc kinh doanh. Hoặc sẽ rất bất tiện khi bạn và người khách phải thì thầm để tránh những người ngồi ở các bàn bên nghe thấy. Và quan trọng hơn cả bạn phải đảm bảo để câu chuyện giữa bạn và đối tác không muốn bị nghe trộm trong bữa ăn trưa. Vị trí ngồi ăn lý tưởng nhất nên là ở một góc hay chỗ vắng vẻ, hoặc ít nhất những khoảng trống giữa các bàn ăn phải đủ rộng rãi để câu truyện kinh doanh sẽ không bị ai nghe thấy. Lời khuyên: Khi chọn bàn ăn, hãy đề nghị người phục vụ chọn cho bạn một chỗ kín đáo. Một vài nhà hàng có thể sẵn sàng dành cho bạn một phòng ăn riêng nếu nó còn trống. Vi phạm quy tắc giao tiếp. Nên nhớ rằng trong bữa ăn kinh doanh có rất nhiều quy tắc bất thành văn. Và trong giao tiếp kinh doanh, bạn luôn phải cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói của mình. Đối với người Mỹ, sẽ không thích hợp chút nào nếu bắt đầu ngay vào công việc kinh doanh trước khi người phục vụ mang thực đơn tới. Tại các quốc gia khác, bạn sẽ không nói chuyện về công việc kinh doanh cho đến khi chén rượu đầu tiên được rót đầy và chủ nhà nâng cốc chúc mừng. Ở một nơi nào khác, việc gọi rượu có thể bị xem không thích hợp. Một doanh nhân có lẽ không bao giờ quên được vẻ mặt đầy ngạc nhiên của đối tác khi hai người vừa ngồi xuống bàn ăn. Chủ nhân đưa ra tấm danh thiếp và bắt đầu ngay câu chuyện về công việc, còn khách mời là người đã có một thời gian dài sống ở châu Âu và quen với việc bắt đầu câu chuyện kinh doanh một cách chậm rãi. Trong khi đó, vị doanh nhân “ngốc ngếch” lại không cảm nhận được sự bất tiện này, thế là bữa ăn trưa thất bại. Lời khuyên: Có lẽ, bài viết này sẽ không đi vào chi tiết cụ thể về các nghi thức giao tiếp kinh doanh. Tuỳ thuộc vào từng địa điểm, từng quốc gia, từng dân tộc mà cung cách giao tiếp, ứng xử sẽ khác nhau. Lớp 06CQD1
164
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Địa chỉ tốt nhất để nghiên cứu về các nghi thức này có lẽ là trang web Getcustoms.com - một trang web được xây dựng bởi các tác giả của cuốn sách nổi tiếng viết về nghệ thuật giao tiếp trong kinh doanh “Kiss, Bow or Shake Hands: How to Do Business in Sixty Countries” (Hôn, cúi mình hay bắt tay: Giao dịch kinh doanh thế nào tại trên 60 quốc gia). Trang web cung cấp những lời khuyên bổ ích về cách suy nghĩ và giao tiếp khi bạn tiếp xúc với các đối tác kinh doanh khác nhau. Kết thúc câu chuyện không đúng cách Việc kết thúc câu chuyện thường không kém phần quan trọng so với việc bắt đầu bữa ăn. Sẽ bất lịch sự nếu thiếu một lời “cảm ơn” lịch thiệp lúc kết thúc. Cuối bữa ăn nên tổng kết lại cuộc thảo luận trước đó và có lời mời xã giao nào đó trong tương lai. Nếu có thể, bạn hãy gửi e-mail cảm ơn và hỏi đối tác xem bữa ăn như thế nào, mọi việc có tốt đẹp không? Điều quan trọng là nếu bữa ăn không được kết thúc với những thỏa thuận mà bạn hy vọng, sẽ rất quan trọng với việc khép nó lại bằng những lưu ý thích hợp. Bạn cần cảm ơn đối tác, thậm chí cả khi bạn không mong muốn tiếp tục giao dịch với họ trong tương lai. Lời khuyên: Một trong những cách thức hiệu quả nhất để tránh những kết thúc không mấy vui vẻ đó là tránh uống rượu, bia quá nhiều. Nhiều bữa ăn đã kết thúc trong thất vọng với chai rượu rỗng không. Nhiều khi, bạn cho rằng nên đãi đối tác một chai rượu Martini tuyệt vời, tuy nhiên, không phải là một sáng kiến tốt khi các bên cần phải có sự tỉnh táo cần thiết để bàn thảo các vấn đề kinh doanh quan trọng. Cuối cùng, không phải lúc nào bữa ăn trưa kinh doanh cũng là một ý tưởng thích hợp. Nếu bạn không cảm thấy khỏe hay công ty của bạn đang gặp vấn đề khúc mắc cần giải quyết, bạn nên xem xét đến việc huỷ bữa ăn trưa - nếu không vì công việc kinh doanh của bạn thì ít nhất cũng vì sức khoẻ của bạn. Còn nếu bạn vẫn quyết định có một ăn trưa kinh doanh với đối tác, đầu tiên hãy dành chút thời gian để lựa chọn đúng nhà hàng, mời đúng khách và ngồi
Lớp 06CQD1
165
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
đúng bàn ăn. Sau đó ứng xử theo một cung cách thích hợp nhất để có thể thu được những kết quả đúng như mong đợi.
6. CÁCH SẮP XẾP BÀN GHẾ, CHỖ NGỒI TRONG GIAO TIẾP THƯƠNG LƯỢNG 6.1. Nguyên tắc sắp xếp ngôi thứ 6.1.1.Cách xác định ngôi thứ Bố trí chỗ ngồi theo cấp bậc và ngôi thứ trong một hoạt động nghi lễ, bữa tiệc, trong một cuộc hội đàm là một trong những việc tế nhị nhất trong công tác lễ tân, nó được xem là môn khoa học có tính nghệ thuật ứng xử, đảm bảo tính tôn trọng và bình đẳng trong thứ bậc, góp phần quan trọng cho hoạt động ngoại giao thành Lớp 06CQD1
166
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
công. Những căn cứ để xác lập ngôi thứ và cấp bạc xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau: danh sach sngôi thứ cho nhà nươc, các tổ chức, định chế công bố, từ tập quán ngoại giao, từ sự tôn kính đối với một số thành viên trong xã hội hay phép lịch sự xã giao trong trộng đồng. Sau đây, xin giới thiệu một số nguyên tắc cơ bản trong xác định ngôi thứ lễ tân. Mỗi nguyên tắc có thể đúng nếu đứng riêng một mình, nhưng chỉ là tương đối nếu kết hợp đồng thời nhiều nguyên tắc, buộc người thực hiện linh hoạt lựa chọn nguyên tắc ắp dụng Nguyên tắc tôn ti trật tự:, người trên trước người dưới: người được công nhận là quan trọng nhất được xếp vào vị trí được coi là hàng đầun, người kém quan trọng nhất được xếp ở vị trí cuối cùng. Thực hiện quy tắc này trong sắp xếp ngôi thứ, người ta thương căn cứ vào cấp bậc, tuổi tác, thâm niên và thực tế công tác: người có cấp bậc cao hơn sẽ ngồi ở vị trí cao hơn. Nếu hai người có cùng cấp bậc, người có thâm niên lâu hơn sẽ được xếp vị trí cao hơn. Nếu cùng thâm niên, thì người nhiều tuổi hơn sẽ được xếp vị trí cao hơn. Người tiền nhiệm sẽ xếp sau người đương nhiệm, người giữ cương vị danh dự đương nhiên ở sau người giữ chức vụ thực tế Thứ tự chính thức của ngôi thứ: Thường phải có văn bản quy định vị trí và ngôi thứ của một quốc gia, một đơn vị, tổ chức, căn cứ theo tầm quan trọng hay tiêu chí đề ra của quốc gia, đơn vị hay tổ chức đó. Ngôi thứ trong cùng một đoàn của một nước do nước đó quyết định trên cơ sở văn bản quy định ngôi thứ của họ. Vì vậy, nên có sự phối hợp với người chịu trách nhiệm lễ tân của các đoàn nước khách để lấy thông tin về thứ bậc của họ. Trong một cuộc hội nghị, thứ tự sắp xếp trong phái đoàn của một nước nên để cho họ tự sắp xếp nếu trước đó chưa có liên hệ về lễ tân Nguyên tắc bình đẳng giữa các nhà nước Các nhà nước có chủ quyền đều bình đẳng như nhau. Các nguyên thủ quốc gia Trong một cuộc hội nghị hay đàm phán, nguyên tắc này được đặc biệt chú trọng. Để giải quyết nguyên tắc ngôi thứ này, việc sắp xếp ngôi thứ của các quốc gia (cờ, vị trí phái đoàn đại diện quốc gia) trong một cuộc hội nghị, một cuộc đàm phán... đảm bảo được tính tổ chức và bình đẳng của các phái đoàn thì được giải quyết theo thứ tự ABC từ A -Z hoặc theo nguyên tắc thứ thự ABC bốc thăm chữ cái đứng đầu hoặc căn cứ vào một tiêu chí khác dựa trên tính chất của từng hội nghị. Việc sắp xếp ngôi thứ của một vị khách trong một bữa tiệc, một buổi lễ phụ thuộc vào định chế mà họ đại diện, vào cấp bậc và quy chế đại diện, vào cương vị được bầu hay bổ nhiệm, vào tuổi tác, thâm nhiên và danh tiếng của người đó. Việc sắp xếp thứ tự các cá nhân đại diện quốc gia (nguyên thủ quốc gia, đại sứ) trong một buổi lễ, một bữa tiệc.... sẽ căn cứ vào tuổi và thâm niên công tác trên cương vị nguyên thủ hay đại sứ hoặc dựa trên một số tiêu chí khác như mức độ quan hệ... Cần nhớ, các tiêu chí đưa ra để sắp xếp ngôi thứ phải được đảm bảo thống nhất từ đầu đến cuối.
Lớp 06CQD1
167
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Nguyên tắc ngôi thứ không uỷ quyền Một người khi đại diện cho một người khác thì không thể được đối xử như người mình đại diện, nếu người đại diện không đồng cấp, trừ trường hợp đại diện cho nguyên thủ quốc gia, và rộng hơn cho một vị trí không thể có người đồng cấp (bí thư tỉnh uỷ, chủ tịch UBND tỉnh..ở trong một tỉnh). Trong trường hợp sau, người đại điện được đối xử trọng thị như người được đại diện Nguyên tắc nhường chỗ và nguyên tắc lịch sự với phụ nữ Thường thì chủ một buổi lễ hay một bữa tiệc ngồi ở vị trí số 1t, ngồi bên phải hay trước mặt chủ là vị khách cho cấp bậc cao nhất. Tuy nhiên, nếu tiếp khách chính là phụ nữ đồng cấp (nếu chủ là nam giới) hoặc là nam giới có cấp bậc cao hơn, chủ sẽ lịch sự nhường vị trí số 1 cho khách Nguyên tắc linh hoạt và có tiêu chí Trong lễ tân, không phải lúc nào cũng có thể nêu hết các thứ bậc xã hội trong văn bản quy định. Trong nhiều trường hợp, tính linh hoạt là cần thiết. Một vj khách không dự kiến trước, không có trong văn bản quy định thứ bậc nhưng sự có mặt của người này là cần thiết cho tính chất của sự kiện sẽ được ưu tiên dành những vị trí trang trọng, thậm chí trang trọng nhất (người thân của người được trao tặng huân chương tại buổi lễ trao tặng huân chương, những nguời có nhiều huân huy chương hay được trao giải đặc biệt, hoặc người có uy tín trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật...). Trong các buổi lễ thường, các chức sắc tôn giáo được xếp sau các quan chức dân sự. nhưng trong một số trường hợp khi tính chất sự kiện mang tính tôn giáo.. thì vị trí của các chức sắc tôn giáo được đề cao. Chính vị vậy, ngôi thứ có thể có những thay đổi, bổ sung so với văn bản quy định ngôi thứ, nhưng nhất thiết phải có tiêu chí rõ ràng và thống nhất từ đầu đến cuối cho những thay đổi đó Nguyên tắc tôn trọng khách nước ngoài Khách nước ngoài đến thăm được xếp trước khách chủ nhà, nếu hai người cùng cấp. Chỗ của khách nước ngoài trong một đoàn khách do chính quyền nước đó xác định chứ không phải nước chủ nhà Nguyên tắc quan tâm đến các cặp vợ chồng Vợ được ưu tiên vị trí hơn chồng trong sắp xếp ngôi thứ trong các sự kiện yêu cầu sự có mặt của cả hai. Trong các buổi lễ, các cặp vợ chồng được xếp cùng nhau căn cứ vào thứ bậc người giữ cương vị được mời. Trong các bữa tiệc, các cặp vợ chồng thường được tách ra. ngồi ở cùng một dãy hoặc ngồi ở các bàn khác nhau, trừ trường hợp họ là chủ nhà 6.1.2.Cách sắp xêp
Lớp 06CQD1
168
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Để đảm bảo sắp xếp ngôi thứ trong lễ tân ngoại giao trong các bàn tiệc, buổi lễ, hội nghị, người ta dựa vào một số quy tắc. Việc sắp xếp nên được nghiên cứu kỹ và sắp xếp trước trước khi diễn ra sự kiện. Xin giới thiệu một số quy tắc cơ bản sau: Bên phải trước, bên trái sau, gần trước, xa sau Chủ nhân được xác định là vị trí quan trọng nhất. Vị khách quan trọng số 1 được xếp ở bên phải chủ nhân, vị khách quan trọng số 2 được xếp ở bên trái chủ nhân, và cứ thế xen kẽ tiếp theo. Quy tắc này có thể linh hoạt trên thực tế vì lý do thể chất (thuận tay trái, nặng tai phải...) của khách hay vì một lý do tế nhị nào đó, nhưng phải báo cho khách biết. Từ trong ra ngoài Nguyên tắc ngày được đặc biệt lưu ý trong xếp các đoàn tham dự hội nghị, trong việc xếp cờ. Việc áp dụng các nguyên tắc khác trong trường hợp này phải được xét từ phía trên khán đài xuống Quy tắc xếp theo chữ cái ABC Nguyên tắc này được áp dụng trong các hội nghị, các cuộc đàm phán, đảm bảo được tính tổ chức và bình đẳng của các phái đoàn. Thứ tự sắp xếp các nước theo thứ tự chữ cái ABC tên của nước đó dịch ra ngôn ngữ của nước chủ nhà hoặc một ngôn ngữ quốc tế hoặc một ngôn ngữ khác theo thoả thuận giữa các bên, từ A -Z. Tuy nghiên, để bớt cứng nhắc, người ta áp dụng quy tắc này nhưng bốc thăm chữ cái đầu tiên đại diện tên quốc gia được xếp ở vị trí số 1, các vị trí tiếp theo sẽ theo thứ tự ABC kể từ vị trí số 1 trở đi và lộn lên phía trước (Ví dụ, trong tiếng Anh, vị trí đầu tiên là H, thì vị trí thứ 2 sẽ là I, vị trí cuối cùng là G). Tiêu chí sắp xếp cũng có thể thay đổi, có thể là Căn cứ cấp bậc, tuổi tác, thâm niên, thực tế công tác, danh dự của khách. Việc sắp xếp ngôi thứ của một vị khách trong một bữa tiệc, một buổi lễ phụ thuộc vào định chế mà họ đại diện, vào cấp bậc và quy chế đại diện, vào cương vị được bầu hay bổ nhiệm, vào tuổi tác, thâm nhiên và danh tiếng của người đó. Người có cấp bậc cao hơn được xếp ở vị trí cao hơn; hai người có cùng cấp bậc thì người có thâm niên công tác cao hơn được xếp cao hơn; hai người có cùng cấp bậc, cùng thâm niên thì ai nhiều tuổi hơn được xếp trước hơn; nếu cả ba tiêu chí giống nhau có thể căn cứ vào một số tiêu chí khác như danh tiếng, mức độ quan hệ... Cần nhớ, các tiêu chí đưa ra để sắp xếp ngôi thứ phải được đảm bảo thống nhất từ đầu đến cuối Quy tắc lịch sự với phụ nữ
Lớp 06CQD1
169
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Phụ nữ cùng hàm cấp được ưu tiên xếp trước, phụ nữ không ngồi bịt đầu bàn, không ngỗi giữa hai chân bàn. Phu nhân của khách được xếp trước khách, (nhưng phu quân của khách laị xếp sau người có thứ bậc kế tiếp khách). Quy tắc tôn trọng khách nước ngoài Khách nước ngoài được ưu tiên hơn so với khách địa phương (trong nước) nếu cùng cấp Quy tắc xen kẽ Xen kẽ khách trong nước và nước ngoài, nam với nữ; các cặp vợ chồng không nên ngồi gần nhau trong một bữa tiệc trừ trường hợp cần phải đồng chủ trì một bàn tiệc. không phải là quy tắc, nhưng khi sắp xếp ngôi thứ, cần chú ý một số vấn đề sau, trong chừng mực nhất định, việc thay đổi không làm ảnh hưởng nhiều đến việc sắp xếp. Tính tương đồng của các khách cùng dự (nghề nghiệp, ngôn ngữ...) Nên chọn bàn tròn hoặc bàn vuông để bố trí bữa tiệc. Cần lập sơ đồ sẵp xếp trước khi diễn ra hội nghị Xếp chủ chính và khách chính đối diện khi số người chẵn. Xếp chủ chính và khách chính liền kề khi số người cùng dự một bàn ăn là lẻ, hoặc chẵn. Khi xếp khách ở các lễ đài buổi lễ vị trí của người quan trọng nhất xác định việc sắp xếp ngôi thứ tiếp theo. Thường thì người này ở giữa, nhưng cũng có thể xếp đầu tiên bên phải. Lúc này, cũng tuân theo các nguyên tắc trên nhưng linh hoạt hơn, bên phải xem như ẩn.
6.2. Sắp xếp chỗ ngồi Có nhiều loại bàn tiệc như bàn dài, bàn vuông, bàn tròn, bàn chữ T, bàn chữ U …. Việc chọn kiểu bàn này tùy thuộc vào tính chất cuộc chiêu đãi, số lượng và thành phần thực khách. Về cách sắp chổ ngồi quanh bàn tiệc, cần tôn trọng một số qui tắc.
6.2.1.Bàn dài
Lớp 06CQD1
170
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Chủ chính ngồi giữa, khách chính ngồi đối diện ( theo lối Pháp ): bên phải chủ chính là khách số 1, bên trái là khách số 2, tiếp theo, xếp phía chủ và phía khách theo thứ tự Lễ tân , xen kẽ, bên phải rối bên trái cho đến hết.
Chủ chính và khách chính ngồi hai đầu bàn ( theo lối Anh) : Bên phải chủ chính là khách số 1 ( ở đầu bàn ), bên trái là khách số 2 ( ở đầu bàn ); bên phải khách chính là khách số 1 ( ở đầu bàn ), bên trái là chủ số 2( ở đầu bàn) tiếp theo, xếp phía chủ và phía khách xen kẽ nhau vào phía bên trong cho đến hết.
Nói chung kiểu này chỉ nên xếp đối với một bữa tiệc không nhiều người dự vì phải đảm bảo khoảng cách không quá xa để chủ và khách chính có thể nói chuyện dễ dàng.
Lớp 06CQD1
171
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
Hai ông bà chủ chính ngồi giữa và đối diện : kiểu xếp này được áp dụng trong trường hợp phía chủ và phía khách là những cặp vợ chồng, hoặc chủ chính và khách chính có phu nhân hoặc phu quân. Cách xếp như sau : bên phải ông chủ chính là bà khách chính, bên trái là bà khách số 1; bên phải bà chủ chính là ông khách chính, bên trái là ông khách số 1; tiếp theo xếp các vợ chồng ngồi chéo nhau bên phải rồi bên trái cho đến hết
Hai ông bà chủ tiệc ngồi hai đầu bàn : Kiểu này thường được áp dụng cho những bữa tiệc gồm các cặp vợ chồng. Cách xếp như sau : bên phải ông chủ chính là bà khách chính, bên trái là bà khách số 1; bên phải là bà chủ chính là ông khách chính, bên trái là ông khách số 1; tiếp theo xếp các cặp vợ chồng ngồi chéo đối diện bên phải rồi bên trái cho đến hết.
Lớp 06CQD1
172
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
6.3.2 Bàn tròn Chủ chính và khách chính ngồi đối diện ; bên phải ông chủ chính là phu nhân hoặc phu quân khách chính ; bên phải khách chính là phu nhân hoặc phu quân chủ chính. Trong trường hợp không có phu quân hoặc phu nhân dự thì hai vị trí này thuộc về người số 1 phía chủ và phía khách. Các vị trí tiếp theo, xếp chủ và khách theo thứ tự lễ tân bên phải rồi bên trái, xen kẽ.
Chủ chính và khách chính ngồi bên nhau ( chủ chính ngồi bên trái ,khách chính ngồi bên phải ) bên trái là chủ chính và phu nhân hoặc phu quân khách chính ; bên phải khách chính là phu nhân hoặc phu quân chủ chính;
Lớp 06CQD1
173
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
tiếp theo xếp phía chủ và phía khách theo thứ tự lễ tân, bên phải và bên trái, xen kẽ nhau cho đến hết.
Chú ý : Đối với bàn tròn cũng như bàn chữ nhất, nên xếp chủ chính quay mặt ra phí cửa ra vào ( để có thể chỉ đạo phục vụ trong khi đang nhập tiệc ).
6.2.2.Bàn hình chữ T Xếp chủ tiệc và khách chính ngồi giữa bàn để ngang, nhìn xuống phía dươi bàn để đứng. Khách chính ngồi bên phải chủ tiệc; bên trái chủ tiệc là khách số 1; bên phải khách chính là chủ số 1; xếp tiếp theo bên phải,bên trái theo thứ tự lễ tân; bàn ngang coi như bàn danh dự; phía bên trong bàn ngang để trống hoặc xếp cho phiên dịch; xếp xem kẽ chủ và khách hai bên bàn đứng theo thứ tự lễ tân tính từ bàn ngang trở xuống.
Lớp 06CQD1
174
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
6.2.3.Bàn hình chữ U Xếp chủ tiệc là khách chính ngồi giữa bàn ngang nhìn xuống phía hai bàn dọc. Cách xếp tiếp theo như đối với bàn chữ T; Phía trong bàn ngang để trống hoặc xếp chỗ cho phiên dịch. 6.2.4.Bàn danh dự hình chữ nhật Trong trường hợp bữa tiệc lớn, phía dưới có nhiều bàn tròn hoặc bàn chữ nhật, thì nên xếp chổ ngồi tại bàn danh dự như sau : bàn danh dự đặt phía trên cùng, tất cả khách ngồi quay mặt xuống phía dưới; chủ chính và khách chính ngồi giữa; tiếp theo xếp theo kiểu bàn chữ nhật nói trên. Đối với phiên dịch (nếu có) nên xếp phía sau hoặc ngồi phía đối diện quay mặt lại, nhưng không nên xếp ngồi chính giữa bàn ( cản trở tầm nhìn chủ và khách chính ).
6.2.5.Bàn danh dự hình tròn Nên xếp theo cách chủ tiệc và khách chính ngồi bên nhau phía trước các bàn tròn khác, ngồi về phía các bàn tròn bên dưới. Xếp xen kẽ chủ và khách. 6.2.6.Bàn hình bầu dục Tùy theo hình dáng chiếc bàn mà sắp xếp theo kiểu bàn tròn hoặc bàn chữ nhật. Lớp 06CQD1
175
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
6.3. Sắp xếp chỗ ngồi trên xe hơi Trên tinh thần trọng thị và mến khách, chủ nhà dành chổ tốt nhất trên xe cho khách, tức là thuận tiện cho việc lên xuống xe và tương đối an toàn nhất. Theo luật giao thông Việt Nam ( Lái bên phải ), đó là chổ ngồi phía sau, bên phải.Đối với xe ngoại giao có cắm cờ ( chở đại sứ, tổng lãnh sự ) thì lá cờ được cắm ở đầu xe, phía bên phải. Đối với những nước áp dụng luật giao thông kiểu Anh ( lái bên trái ) thì cách xếp chỗ ngồi của khách sẽ ngược lại. Chủ nhà cùng đi với khách thì ngồi phía sau, bên trái khách. Nếu khách có phu nhân cùng đi, thì nên xếp phu nhân ngồi bên phải phía sau khách chính ( Đại sứ…)phải ngồi bên phía có cờ ( chủ nhà cùng đi với khách nên ngồi xe khác ). Thông thường phía sau để 2 người ngồi. Trường hợp cần xếp 3 người thì người có cương vị thấp nhất sẽ ngồi ở giữa. Cán bộ lễ tân, hướng dẫn, phiên dịch, bảo vệ… ngồi ở phía trước, bên phải lái xe. Về cách đậu xe : Cửa xe phía sau bên phải ( phía khách chính ngồi ) phải đối diện với cửa chính vào nhà, để khi khách bước xuống xe là có thể vào nhà ngay ( không phải đi vòng hoặc chui ngang xe để vào nhà). Mở cửa để khách lên xuống là phép lịch sự thông thường. Đó là nhiệm vụ của lái xe, kế đến là của các lễ tân, hướng dẫn….Việc chủ nhà chủ động mở cửa xe sẽ được khách đánh giá là một cử chỉ thân tình, vừa trọng thị khách, có tác dụng góp phần tăng thêm tình hữu nghị và sự hợp tác trong công việc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO http://www.ambhanoi.um.dk/vi/menu/Vanhoa/ http://www.nxbkimdong.com.vn/forum/forum_posts.asp?TID=4410&PN=3 http://www.vietnamwebsite.net/vanhoa/
Lớp 06CQD1
176
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
http://www.vatgia.com/home/listudv.php?&module=product&iCat=701&p7=98353&p1=96073&sort =6 http://www.vicas.org.vn/en/News.asp?cat=31&id=577 http://www.ambafrance-vn.org/article.php3?id_article=445 http://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_qu%E1%BB%91c_k%E1%BB%B3 http://www.mottramdo.com/blog/viewblog/63515 http://blog.timnhanh.com/minhtria2/comment/35A6FBA5 http://www.vietastro.org/forum/showthread.php?t=1075 http://danhim.net/forum3/forum_posts.asp?TID=3797 http://www.ddhsonline.com/diendan/showthread.php?t=4265 http://www.vuiveclub.net/diendan/showthread.php?t=21935 http://www.anhso.net/album.asp?id=57@8&k=0&alb=542595@25905 http://giavang.com.vn/forum/showthread.php?t=563 http://forum.viet-numis.com/viewforum.php?f=11 http://5nam.ttvnol.com/Sothich/251896.ttvn http://www.sinhvienluathn.com/diendan/giao-dich-mua-ban/5830-tai-lieu-kinh-te-thuong-mai-cacnuoc-tren-gioi.html http://forum.e-vnu.com/showthread.php?t=5478 http://cafef.vn/20081125052152757CA32/citigroup-no-luc-phat-trien-thi-truong-cac-nuoc-dangphat-trien.chn http://www.vntrades.com/tintuc/name-News-file-article-sid-36194.htm http://forum.vietstock.com.vn/forums/t/54414.aspx http://vn.euvietnam.com/bizcenter/0/T%C3%8CM-HI%E1%BB%82U-TH%E1%BB%8ATR%C6%AF%E1%BB%9CNG-EU:-M%E1%BB%98T-S%E1%BB%90-R%C3%80OC%E1%BA%A2N-TH%C6%AF%C6%A0NG-M%E1%BA%A0I/18/232 http://nguoilanhdao.vn/Details/van-hoa-dn/nghi-thuc-giao-tiep-o-cac-nen-van-hoa-khacnhau/32/22468.star http://www.ngoaivuhatinh.gov.vn/default.asp?m=14&s=124&p=1
Lớp 06CQD1
177
Môn: Giao tiếp thương lượng – BT thực hành
Lớp 06CQD1
GVHD: TSKH. Ngô Công Thành
178